Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2019

Nhạc cách mạng 1954 - 1975

Nhạc cách mạng 1954 - 1975
“Nhạc đỏ” cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những thể loại âm nhạc được phát trên đài phát thanh, các phương tiện thông tin đại chúng, được trình diễn trong các buổi sinh hoạt, hội diễn văn nghệ từ năm 1954 đến năm 1975 ở Miền Bắc và vùng giải phóng Miền Nam.         
Trong giai đoạn 1954-1975, với quan điểm văn nghệ phục vụ chính trị, âm nhạc ở Miền Bắc và vùng Giải phóng Miền Nam sáng tác theo phương châm: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến  thắng, với các đề tài phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược lúc đó: chống Mỹ cứu nước ở hai miền và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, trong đó đề tài thứ nhất, âm nhạc có nhiều ca khúc thành công hơn.   
Vào thời đoạn đầu, trong 1955-1956, tiếp tục niềm tự hào, lạc quan trong ca khúc 1954, là  tiếng ca vui tự do khi miền Bắc được giải phóng được ngân lên với cung bậc mới: Lời ca thống nhất (1955) của Trần Quý; Liên khu Năm yêu dấu (1955), Tình trong lá thiếp (1955) của Phan Huỳnh Điểu; Bài ca cách mạng tiến công (1956) của Đỗ Nhuận; Tiếng hát biên thùy (1956) của Tô Hải; Ca mừng đời ta tươi đẹp (1955) của La Thăng; Ca mừng chế độ ta tươi đẹp (1955) của của Xuân Oánh; Hát mừng quê ta (1956) của Lê Lôi; Mẹ yêu con (1956) của Nguyễn Văn Tý và Ánh sáng trên cầu Việt Trì (1956) của Hoàng Hà, v.v...       
Sau đó, khi Tổng tuyển cử thống nhất Tổ quốc theo Hiệp định Genève không được thực hiện, đất nước bị chia cắt dài lâu, trong thời đoạn từ cuối năm 1956 đến đầu năm 1958 nội dung ca khúc là tình cảm nhớ thương quê hương Miền Nam, niềm tin, khát vọng  cháy bỏng thống nhất đất nước, như các ca khúc: của người con miền Nam ra Bắc tập kết như các ca khúc: Tình ca (1957), Tình ca 2 (1958), Quê mẹ (1958) của Hoàng Việt; Quê tôi (1957 - Lưu Cầu); Quê tôi miền Nam (1957 - Phan Huỳnh Điểu); Câu hò bên bờ Hiền Lương (1957 - Hoàng Hiệp - Đằng Giao); Bài ca hy vọng (1958 - Văn Ký), v.v... 
Chuyển qua thời đoạn 1958-1960, Miền Bắc vừa đã hoàn thành kế hoạch ba năm (1954-1957) khôi phục kinh tế thắng lợi và bước vào thời kỳ mới: cải tạo XHCN, bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Những thành tựu đạt được trong kế hoạch 3 năm sau này (1958-1960) cùng với những thay đổi lớn về văn hóa, kinh tế, xã hội của miền Bắc trong sáu năm (1954-1960) đã tác động sâu sắc đến văn nghệ sĩ nói chung, nhạc sĩ nói riêng. Hòa nhập với cuộc sống của nhân dân, họ đã viết nên nhiều ca khúc giá trị phản ánh được cuộc sống mới và biểu hiện được tâm tư, tình cảm, khát vọng của nhân dân. Không khí hồ hởi, niềm tin yêu, tinh thần lạc quan trong cuộc sống dựng xây được các nhạc sĩ đưa vào các ca khúc sáng tác trong ba năm này. Năm 1958 là Mời anh đến thăm quê tôi, Biết ơn Võ Thị Sáu của Nguyễn Đức Toàn; Tiến bước dưới quốc kỳ của Doãn Nho; Tiếng hát trên tiền tiêu Tổ quốc của Thái  Quý; Nhớ đàn xe nước của Vân Đông;  Lời ca gởi Nọong  của Nguyễn Tài Tuệ và Lướt sóng ra khơi của Thế Dương trở thành bài hát chính thức của  quân chủng Hải quân Việt Nam, v.v…              
Sang năm 1959, không gian nghệ thuật trong ca khúc mở rộng hơn: Từ trên đỉnh núi của Nguyên Nhung; Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó của Nguyễn Tài Tuệ; Kể chuyện người cộng sản của Trần Hoàn; Trước ngày hội bắn của Trịnh Quý; Lướt sóng ra khơi của Thế Dương; Dấu chân trong rừng của Vĩnh An; Đêm thao thức của Kpa Pùi; Sao em chưa về của Lê Lan… Đến năm 1960 là: Xa khơi của Nguyễn Tài Tuệ; Việt Nam ta đang mùa hoa của Vũ Trọng Hối; Việt Nam quê hương tôi của Đỗ Nhuận; Cánh diều miền Bắc của Văn An, v.v…   
Trong thời đoạn này (1958-1960), các nhạc sĩ đã đi thực tế sáng tác, sống, làm việc cùng nhân dân và viết lên những ca khúc về ngành nghề của họ: Con trâu sắt (1958) của Trần Chương; Hò kiến thiết (1958) của Thái Cơ; Tiếng còi thi đua (1959); Quà tháng năm (1960- lời Thế Bảo) của Hồng Đăng, v.v…     
Sau phong trào Đồng khởi (1959), nhất là từ năm 1960, khi Mặt trận Giải phóng Miền Nam chính thức thành lập, Miền Nam bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với sự chi viện của Miền Bắc, nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, giải phóng Miền Nam  là đề  tài chính của âm nhạc thời đoạn này. Nhiều ca khúc “đi cùng năm tháng" ra đời, biểu hiện tâm tình, khát vọng của nhân dân và phản ánh những sự kiện anh hùng của thời đại. Với phương châm văn nghệ phục vụ chính trị, mà quan trọng hơn tấm lòng vì nhân dân, dân tộc, tự nguyện nhận trọng trách về mình, với một đội ngũ hùng hậu, nhiều thế hệ, nhiều vùng miền, các nhạc sĩ Việt Nam đã bám sát nhiệm vụ chính trị của từng thời điểm để sáng tác những ca khúc giá trị và kịp thời cho cách mạng giải phóng dân tộc. Có thể thấy những cao trào của kháng chiến chống Mỹ cũng là những thời điểm ca khúc cách mạng Việt Nam nở rộ, vút cao: 1960, 1965, 1972, 1973 và 1975.
Năm 1960, khi Miền Nam bắt đầu vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, bài hát Giải phóng miền Nam (1960 - Huỳnh Minh Siêng) ra đời và trở thành ca khúc chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam  và Quốc ca Cộng hòa miền Nam Việt Nam, mở đầu cho hàng loạt sáng tác về đề tài chống Mỹ cứu nước trong những năm đầu chống Mỹ.        
Sau đó, cũng trong năm 1960 nhiều ca khúc được viết kịp thời: Bạn ơi! Hãy nghe Bến Hải tâm tình của Vĩnh Cát; Cánh diều miền Bắc của Vân An; Việt Nam đang mùa hoa của Vũ Trọng Hối; Việt Nam quê hương tôi của Đỗ Nhuận… Sang năm 1961 là: Bài ca may áo của Xuân Hồng; Hà Hội -  Huế - Sài Gòn của Hoàng Vân; Trăng sáng đôi miền của An Chung; Nhớ (thơ Thanh Hải) của Lê Yên; Tổ quốc tôi trên 10 năm đã lớn của Hồng Đăng, v.v… 
Năm 1962, ca khúc nở rộ hơn với Những ánh sao đêm của Phan Huỳnh Điểu; Giờ hành động của Lưu Hữu Phước; Nắng ấm về trên Tổ quốc của Trần Khánh; Tiếng hát Mơ Nông Tipri của Nhật Lai; Tình em của Huy Du - Ngọc Sơn; Quê Hương ơi! Ta sẽ về của Trần Kiết Tường; Nhớ về quê mẹ của Vân Đông; Trên đường ta đi tới của Bửu Huyền; Khúc ca Hơ Rê của Văn Ngọc…            
Sang năm 1963-1964, khi phong trào cách mạng lên cao thì ca khúc cách mạng ở cả hai miền cũng bay bổng theo. Năm 1963 là: Hành khúc giải phóng của Lưu Hữu Phước; Xuân chiến khu của Xuân Hồng; Lời ca không tắt của Tô Hải; Qua  sông của Phạm Minh Tuấn; Gởi anh đi đầu quân của Nguyễn Đình Phúc; Nhớ (thơ Nguyễn Đình Thi) của Hoàng Vân; Quê hương anh là biển cả của Tường Vi; Chiếc đàn môi của Nguyên Nhung; Bài ca chiến thắng của Trần Kiết Tường; Ta là chiến sĩ giải phóng quân của Văn Lưu - Triều Dâng; Chim hót  trên đồng đay; Dòng nước quê hương của Nguyễn Văn Tý, Bế Văn Đàn sống mãi (thơ Trinh Đường) của Huy Du, v.v…           
Cao điểm của ca khúc thời đoạn năm năm này là năm 1964 với nhiều ca khúc tỏa ra cả ba chủ đề: xây dựng đất nước, chống Mỹ cứu nước ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Về chủ đề xây dựng đất nước, có các ca khúc: Từng bước đi vững chắc của Văn Chung; Tôi là người thợ lò của Hoàng Vân; Những người con gái đồng chiêm, Bám biển quê hương của Phạm Tuyên; Tiếng hò trên đất Nghệ An của Tân Huyền, v.v…      
Về chủ đề chống Mỹ cứu nước ở cả hai miền trong năm 1964 có: Tiễn anh lên đường của Nguyễn Văn Tý; Chiếc khăn tay, Hành quân đêm (lời Trí Thanh) của Xuân Hồng; Sẵn sàng chiến đấu, Thanh niên ba sẵn sàng của Lưu Hữu Phước; Anh vẫn hành quân (thơ Trần Hữu Thung), Tôi ca mãi đời anh của Huy Du; Miền Nam ơi! Chúng tôi đã sẵn sàng của Lưu Cầu; Nhớ anh giải phóng quân của Nguyễn Đình Phúc; Vui mùa chiến thắng của Văn Chừng - Lam Lương; Tiếp lương ra tiền tuyến của Phương Giao, v.v…       
Cũng trong năm 1964, vào ngày 5 tháng 8, sau sự kiện vịnh Bắc bộ, Mỹ mở Chiến dịch Mũi Tên Xuyên  (Opeation Pierce Arrow) không kích phá hoại miền Bắc do Hải quân Mỹ thực hiện. Hòa cùng tiếng nổ của hỏa tiễn, pháo phòng không, súng máy, trường bắn máy bay của bộ đội, dân Mỹ quân là tiếng hát kịp thời động viên, ca ngợi chiến công của  họ: Đánh đích đáng của Ngô Sĩ Hiền; Phi đội ta xuất kích của Tường Vi; Giữa biển trời Xô viết - Nghệ An của Hồ Bắc; Hành khúc không quân Việt Nam của Văn Cao; Không cho chúng nó thoát của Hoàng Vân; Bay trên bầu trời Tổ quốc của Xuân Giao… 
Từ năm 1965, Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ và đồng minh vào tham chiến ở miền Nam, đồng thời leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng các chương trình quy mô và dài ngày hơn  có các mật danh là  Chiến dịch Flaming Dart (Hỏa Tiêu - 07 đến 11.02.1965) và Rolling Thunder (Sấm Rền - 02.3.1965 đến 31.10.1968) huy động một lực lượng hải và không quân hùng hậu ném bom với ý đồ hủy hoại hoàn toàn miền Bắc. Cùng với tiếng bom rền và đạn pháo phòng không nổ tung trên bầu trời miền Bắc, âm nhạc cũng ngân lên điệu kèn xung trận vừa hùng tráng, vừa thiết tha.         
Năm thứ hai miền Bắc trực tiếp đánh Mỹ (1965), nhiều ca khúc ra đời trong ý chí “tiếng hát át tiếng bom” kiên cường: Quảng Bình chiến thắng của Phạm Tuyên; Em bé Bảo Ninh (thơ Nguyễn Văn Dinh) của Trần Hữu Pháp; Bài ca sông Nhật Lệ của Nhật Lai; Trên biển quê hương của Đức Minh; Tiếng hát sông Lam của Đinh Quang Hợp; Thanh Hóa anh hùng của Hoàng Đạm; Hà Tây quê lụa của Nhật Lai; Mỗi bước đi thêm yêu Tổ quốc của Tân Huyền; Hai chị em, Bài ca giao thông vận tải, Nổi trống lên đi núi rừng ơi của Hoàng Vân; Tên lửa về bên sông Đà của Hoàng Tạo; Bài ca đảo Bạch Long Vĩ của Vũ Ngọc Quang; Chào sông Mã anh hùng của Xuân Giao, Nhịp cầu sông Mã của Lê Xuân Thọ, Chưa hết giặc ta chưa về, Thề quyết bảo vệ Tổ quốc, Bạch Long Vĩ đảo quê hương của Huy Du, v.v…        
Còn ở Miền Nam trong năm này (1965) cũng được mùa ca khúc với nhiều bản nhạc “nổi tiếng một thời”: Cô gái vót chông của Hoàng Hiệp; Ra tiền tuyến của Phan Huỳnh Điểu; Tôi người lái xe của An Chung; Giết giặc Mỹ cứu nước của Hoàng Việt; Bài hát giải phóng quân của Lưu Hữu Phước; Mỗi bước ta đi, Hát mừng quê ta giải phóng của Thuận Yến…
Chiến tranh càng lan rộng, bài hát hay càng nhiều. Năm 1966, nhiều “bài ca không bao giờ quên” đã ra đời: Múa hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hành khúc binh đoàn gang thép, Rạch Gầm dậy sóng của Lưu Hữu Phước; Ngọn đèn đứng gác (thơ Chính Hữu) của Hoàng Hiệp; Đường ra mặt trận (thơ Chính Hữu) của Huy Du, Bài ca thanh niên miền Nam thành đồng của Hoàng Việt; Yêu biết mấy những con đường của Phạm Tuyên; Cô gái mở đường của Xuân Giao; Về đây với đường tàu của Lưu Cầu; Người Châu Yên em bắn máy bay của Trọng Loan; Những cô gái quan họ của Phó Đức Phương; Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh; Biển gọi của Nguyễn Kim; Tiếng hát pháo binh của Huy Du; Vàm Cỏ Đông (thơ Hoài Vũ) của Trương Quang Lục, v.v…        
Sang năm 1967, có thêm nhiều ca khúc nổi tiếng của các nhạc sĩ nổi tiếng: Chiếc gậy Trường Sơn của Phạm Tuyên; Tiếng đàn Ta Lư, Ơi dòng suối La La! của Huy Thục; Tiếng chày trên sóc Bom Bo của Xuân Hồng; Bài ca năm tấn của Nguyễn Văn Tý; Tải đạn ra chiến trường của Thanh Anh; Quân reo quê mẹ Quảng Trị anh hùng của Trọng Loan; Rừng xanh vang tiếng Ta Lư của Phương Nam; Tiếng nói Hà Nội (thơ Cảnh Trà) của Văn An; Cả nước hướng về Hà Nội của Trọng Bằng, v.v...            
Bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Chiến dịch đã mang lại cho quân và dân Việt Nam một xung lực mới, một khả năng mới và củng cố niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng ngay trong những ngày tháng cam go, ác liệt nhất. Sự kiện này  được các nhạc sĩ ghi lại bằng những ca khúc rất thời sự kịp thời mà rất có gía trị về nghệ thuật - tư tưởng, trở thành những bài ca  truyền thống cách mạng sau này: Bão nổi lên rồi của Trọng Bằng; Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân giải phóng, Tiếng còng giải phóng, tiếng còng chiến thắng của Hoàng Vân; Sài Gòn quật khởi của Hồ Bắc; Cô gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư Nhất Vũ; Nổi lửa lên em (thơ Giang Lam) của Huy Du; Đất quê ta mênh mông (thơ Bùi Minh Quốc) của Hoàng Hiệp; Tây Nguyên mừng đón thơ Bác của Doãn Nho; Bài ca đường 9 của Huy Du; Bài ca thành Huế của Đào Việt Hưng; Bài ca người nữ tự vệ Sài Gòn của Phạm Minh Tuấn; Người Đà Nẵng của Phan Ngọc; Đưa anh đi hái măng rừng của Hoàng Tạo; Anh ở đầu sông em cuối sông của Phan Huỳnh Điểu và Chia tay hoàng hôn (thơ Hoài Vũ), một tình ca bất hủ của Thuận Yến,…       
Những năm kế tiếp, chiến trường trở nên ác liệt hơn, ca khúc càng hùng tráng hơn và đi sâu  vào lòng người hơn. Chỉ kể ra vài bản hùng ca trong từng năm này đã trở thành bất tử trong lòng người dân Việt Nam. Năm 1969 là: Tiến lên chiến sĩ đồng bào (thơ Hồ Chí Minh) của Huy Thục; Vui mở đường của Đỗ Nhuận; Theo lời Bác gọi (lời Lê Kỳ Vân) của Nguyễn Xuân Khoát…        
Năm 1970 là Dáng đứng Việt Nam (thơ Lê Anh Xuân); Trên đỉnh Trường Sơn ta hát của Huy Du; Tiếng hát những đêm không ngủ của Phạm Tuyên; Bài ca phụ nữ Việt Nam, Huyền diệu của Nguyễn Văn Tý; Như hoa hướng dương (thơ Hải Như) của Tô Vũ; Thành phố hoa phượng đỏ (lời Hải Như) của Lương Vĩnh; Bến cảng quê hương tôi của Hồ Bắc; Bác cùng chúng cháu hành quân của Huy Thục; Cái dốc nó cao của Nguyễn Trọng Tạo,…       
Rồi đến năm 1971 là: Tiến lên thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh của Văn Ký; Cùng hành quân giữa mùa xuân của Cẩm La (Hoàng Hà); Đi tới những chân trời của Xuân Giao; Bài ca đường 9 (thơ Xuân Sách) của Huy Du; Người con gái sông La (thơ Phương Thúy), Năm anh em trên một chiếc xe tăng (thơ Hữu Thỉnh) của Doãn Nho; Màu áo chú bộ đội, Em đi làm tín dụng của Nguyễn Văn Tý, v.v…     
Đỉnh cao của cuộc chiến là Chiến dịch Xuân - Hè 1972 (Việt Nam Cộng hòa gọi là Mùa hè đỏ lửa, Mỹ gọi là Easter Offensive) và sau đó là Chiến dịch Linebacker I (từ tháng 5 - 10.1972) và Chiến dịch Linebacker II (từ 18 - 30.12.1972) của Mỹ cho không quân và hải quân, phong tỏa, bắn phá, oanh tạc không giới hạn toàn miền Bắc với ý đồ hủy diệt hòng làm tê liệt ý chí chiến đấu và khả năng chi viện cho Miền Nam, mà thắng lợi hoàn toàn thuộc về Việt Nam: Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Trong năm này, 1972, nhiều khúc ca vui vang lên ở cả hai miền Nam, Bắc hát mừng chiến thắng: Ca hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hà Nội niềm tin yêu và hy vọng của Phan Nhân; Hà Nội Điện Biên Phủ, Hà Nội những đêm không ngủ của Phạm Tuyên; Cả nước hướng về Hà Nội của Trọng Bằng; Từ mặt đất thân yêu của Tô Hải; Hành khúc ngày và đêm của Phan Huỳnh Điểu; Ta tự hào lên đi, ôi Việt Nam (thơ Hoàng Trung Thông) của Chu Minh; Biết mấy tự hào Tô quốc ta của Phạm Đình Sáu; Tây Nguyên chiến thắng của Doãn Nho; Xóm làng theo bước chân anh của Trần Kiết Tường; Những bước chân chiến thắng của Tân Huyền; Rừng núi Tây Nguyên chiến công hoa nở của Chu Minh; Xe qua cầu Tùng Cốc của Nguyễn Trọng Tạo, v.v…     
Thắng lợi của Chiến dịch Xuân - Hè 1972 và Trận Điện Biên Phủ trên không 1972 đã đưa đến Hiệp định Paris 27.01.1973 với Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được quốc tế chính thức công nhận và kiểm soát hầu hết vùng nông thôn Miền Nam. Niềm vui quá lớn nên tràn đầy và kéo dài suốt hai năm trong âm nhạc. Năm 1973 là: Cả Hà Nội hành quân của Lê Lôi; Gẩy đàn lên hởi người bạn Mỹ, Thấy chăng anh cảng của chúng tôi của Phạm Tuyên; Ta ra trận hôm nay của Văn An; Lời ru trên nương (thơ Nguyễn Khoa Điềm) của Trần Hoàn; Em ở nơi đâu của Phan Nhân; Tiếng đàn bầu (lời Lữ Giang) của Nguyễn Đình Phúc; Tôi lắng nghe sông Đà gọi Thác Bà của Nguyễn Đình Tấn; Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa của Nguyễn Văn Tý; Giải phóng quân, Nhớ của Phan Huỳnh Điểu, Tiếng hát trên quê hương giải phóng của Phạm Đình Sáu...      
Năm sau, 1974, niềm vui lớn lắng đọng lại trong hành khúc và lắng sâu trong cả tình ca: Chiến sĩ vô danh (lời Dân Thanh) của Trần Kiết Tường; Tiếng người vang mãi trên đường hành quân của Phan Khắc Vinh; Quảng Ngãi đất mẹ anh hùng của Trương Quang Lục; Chú lính đường dây của Phạm Huy Thưởng; Tình em biển cả của Nguyễn Đức Toàn; Đêm nay anh ở đâu của Phan Huỳnh Điểu; Đất nước Bác Hồ và cuộc hành quân không nghỉ, tổ khúc ba bài của Nguyễn Trọng Tạo, v.v…      
Điểm đỉnh của ca khúc giai đoạn này là năm 1975. Trước, trong và sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, với một dàn hợp ca hát mừng đất nước thống nhất: Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng của Phạm Tuyên; Đất nước trọn niềm vui của Hoàng Hà; Trên đường hạnh phúc (thơ Tạ Hữu Yên) của Vân An; Tiếng hát từ thành phố mang tên Người (thơ Đăng Trung) của Cao Bách Việt; Bài ca thống nhất của Võ Văn Dị; Ngày thống nhất Bác đi thăm của Phạm Tuyên; Mùa Xuân trên thành phố Hồ Chí Minh của Xuân Hồng; Tổ quốc chưa đẹp thế bao giờ (thơ Tố Hữu) của Nguyễn Văn Thương; Chiều nay biển hát của Hồng Đăng, liên khúc hoành tráng Đường tàu thống nhất của Nguyễn Trọng Tạo và hai ca khúc hợp của Nguyễn Văn Thương: Dân ta đánh giặc anh hùng, Tiến lên toàn thắng ắt về ta, v.v…      
Nhiều nhạc sĩ miền Nam tập kết ra Bắc rồi ở lại công tác hoặc trở lại miền Nam, hoặc được phân công ở lại  miền Nam rồi vào chiến khu đã có đóng góp lớn cho ca khúc cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ bởi những ca khúc được công chúng say mê và nhớ đời. Và thời điểm gay gắt nhất nào của đất nước cũng xuất hiện những sáng tác giá trị của họ: Phan Huỳnh Điểu, Ca Lê Thuần, Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Trần Kiết Tường, Nguyễn Văn Tý, Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Thương, Trần Hoàn, Lưu Hữu Phước, Thuận Yến, Phạm Minh Tuấn, Tôn Thất Lập, Trương Quang Lục, Lưu Cầu… Từ  những năm đầu thập niên 60, nhiều người trong họ vào chiến trường miền Nam  sáng tác những bài ca để đời với bút hiệu mới: Phan Huỳnh Điểu với bút danh Huy Quang, Trần Hoàn với Hồ Thuận An, Hoàng Việt với Lê Quỳnh, Lưu Hữu Phước ký tên Lưu Nguyễn - Long Hưng hoặc Huỳnh Minh Siêng đã viết nhiều ca khúc nổi tiếng, đặc biệt bài Giải phóng Miền Nam (1960) mang đậm dấu ấn lịch sử.     
Liên quan đến đề tài Chống Mỹ cứu nước và Xây dựng đất nước, các nhạc sĩ viết nhiều ca khúc về đất nước và tâm hồn Việt Nam, trong đó có một số ca khúc bất hủ như Quảng Bình quê ta ơi (1964) của Hoàng Vân; Tiếng hát sông Lam (1965) của Đinh Quang Hợp; Vàm Cỏ Ðông của Trương Quang Lục; Tây Nguyên bất khuất  của Văn Ký; Bài ca Hà Nội  của Vũ Thanh; Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh (1974) của Nguyễn Văn Tý; Những cô gái đồng bằng sông Cửu Long của Huỳnh Thơ; Cô gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư Nhất Vũ; Hà Nội - Niềm tin và hy vọng (1972) của Phan Nhân, v.v…        
Cũng do hoàn cảnh chiến tranh, một số nhạc sĩ có dịp tiếp xúc với đồng bào các dân tộc thiểu số và đã viết các ca khúc nổi tiếng về đề tài này, như Tiếng hát ban mai (1964-Thanh Anh); Tiếng cồng Plây Gi-răng (1965-Hồ Bắc); Tiếng đàn ta lư (Huy Thục); Cô gái cầm đàn lên đỉnh núi (Văn Ký); Bản Mèo đổi mới (Trịnh Lai); Em là hoa Pơ Lang (1966-Ðức Minh); Tiếng cồng giải phóng, tiếng cồng chiến thắng (1968-Hoàng Vân); Cánh chim báo tin vui (1969 - Đàm Thanh); Bóng cây Kơ-nia (1971 - nhạc Phan Huỳnh Điểu - thơ Ngọc Anh phỏng dịch dân ca Hơ-rê); Tháng ba Tây Nguyên (1974 - Văn Thắng - Thân Như Thơ); Sông Dakkrong mùa xuân về (1975 - Tô Hải), v.v…
Chiến trường ác liệt, cam go nhất lúc bấy giờ là Trường Sơn, nơi quân dân “xẻ dọc đi cứu nước” là đề tài cho nhiều ca khúc lãng mạn cách mạng, tráng lệ “vượt thời gian”. Có thể kể ra không dưới 10 ca khúc tiêu biểu nhất về đề tài Trường Sơn: Đường tôi đi dài theo đất nước (1966); Bước chân dài trên đỉnh Trường Sơn (1966 - lời Tào Mạt) của Vũ Trọng Hối; Bài ca Trường Sơn (1967 - lời Gia Dũng); Trên đỉnh Trường Sơn ta hát (1970) của Huy Du; Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn (1970) của Hoàng Hà; Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây (1971 - thơ Phạm Tiến Duật) của Hoàng Hiệp; Đường Trường Sơn xe anh qua (1972) của Văn Dung; Xe ta đi trong đêm Trường Sơn (1972); Đêm Trường Sơn  nhớ Bác (1975 - lời Nguyễn Trung Thu) của Trần Chung; Lá đỏ (1975 - thơ Nguyễn Đình Thi) của Hoàng Hiệp, v.v…                                       
Tinh thần lạc quan cách mạng thấm tràn vào ca khúc cách mạng. Nhiều bài hát hài hước, sôi nổi, yêu đời xuất hiện được bộ đội và nhân dân yêu thích. Anh quân bưu của Đàm Thanh; Con cua đá của Phan Ngạn; Năm anh em trên một chiếc xe tăng (thơ Hữu Thỉnh) của Doãn Nho; Nổi lửa lên em của Huy Du… nằm trong loại nhạc này, trở thành những bài hát phổ biến trong sinh hoạt, liên hoan, tiệc tùng của quân dân.      
Một đề tài nữa của ca khúc Việt Nam trong giai đoạn này là ca ngợi hình ảnh lãnh tụ. Hình tượng Hồ Chí Minh trong ca khúc giai đoạn này được nâng lên tầm cao hơn thông qua cảm nhận hoàn mỹ hơn của các nhạc sĩ về Người. Có rất nhiều ca khúc chính thống: Việt Bắc nhớ Bác Hồ của Phạm Tuyên; Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người (1962) của Trần Kiết Tường; Ðôi dép Bác Hồ của Văn An; Nhớ ơn Hồ Chí Minh của Tô Vũ; Lời ca dâng Bác của Trọng Loan; Trông cây lại nhớ đến Người của Ðỗ Nhuận; Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Văn Cao (khác hai bài Ca ngợi Hồ Chủ tịch  của Lưu Hữu Phước và của Đỗ Nhuận viết trong giai đoạn trước); Tình Bác sáng đời ta của Lưu Hữu Phước; Người chiến sĩ ấy (1970) của Hoàng Vân; Miền Nam nhớ mãi ơn Người (1969 - thơ Trần Nhật Lam) của Lưu Cầu, Mỗi dòng thư Bác sáng ngời niềm tin  (1968) của Thuận Yến, v.v…
Tình khúc 1954 - 1975 ở miền Nam
Ở Miền Nam từ 1954-1975, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn xuất hiện với các bản tình ca mới. Khác với dòng nhạc tiền chiến thường mượn cảnh mùa thu, mưa, sương, đêm khuya... để nói lên tình cảm của mình.
Những nhạc sĩ này có cách thể hiện trực tiếp hơn, ca từ lãng mạn vẫn là ngôn ngữ văn hóa nhưng mới mẻ hơn, trẻ trung hơn và sống động hơn, với nhiều cung bậc tình cảm hơn, khoắc khoải, nồng nàn, sâu lắng, say mê, man mác, hoài nhớ, tiếc thương... thường theo các thể điệu Slow Rock, Slow, Valse, Ballad, Boston… Gần với nhạc tiền chiến hơn, cung điệu cũng trau chuốt, nhưng khác nhạc tiền chiến là thường ít chậm hơn, biểu hiện tâm trạng cá nhân không có không gian cụ thể và có tính hiện đại hơn, và cũng xa rời nhạc cổ điển hơn so với nhạc tiền chiến, tình ca 1954-1975 là dòng nhạc được giới trí thức, trung lưu và sinh viên, học sinh (SVHS) ở miền Nam thưở ấy yêu thích.       

Giai đoạn này, bên cạnh nhạc sĩ tiền bối Phạm Duy vẫn sáng tác đều đặn những ca khúc có giá trị nghệ thuật: Cỏ hồng, Trả lại em yêu, Mùa thu chết, Nghìn trùng xa cách, Nha Trang ngày về…, còn xuất hiện thêm những nhạc sĩ với phong cách riêng: Lê Uyên - Phương, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn, Hoàng Nguyên, Nguyễn Ánh 9, Khánh Băng, Thanh Bình, Thanh Trang, Nguyễn Phú Yên, Trần Trịnh, Nguyễn Văn Đông, Phạm Trọng Cầu, Từ Công Phụng, Văn Phụng, Trần Quang Lộc, Vũ Thành An, Lê Hựu Hà, Cung Tiến, Lê Trọng Nguyễn, Phạm Mạnh Cương, Đức Huy, Phạm Đình Chương, Quốc Dũng, Hoàng Trọng, Nguyễn Hữu Thiết, Vũ Đức Sao Biển, v.v…         
Không thể kể hết những tình khúc nổi tiếng đương thời:  Các  Bài không tên của Vũ Thành An; Tình lỡ, Đừng đến rồi đi, Tiếc một người của Thanh Bình; Thuyền em đi trong đêm, Ngàn năm vẫn lạ, Tiếng chim rừng hát mừng sông núi, Cô giáo trẻ trên bản làng xa của Nguyễn Phú Yên; Chiều nay không có em, Niệm khúc cuối, Mắt biếc, Dấu tình sầu, Bản tình cuối của Ngô Thụy Miên;  Bài ca hạnh ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta, Uống nước bên bờ suối, Cho lần cuối của Lê Uyên - Phương; Phiên khúc mùa đông, Huyền thoại người con gái của Lê Hựu Hà; Suối lệ xanh của Phạm Mạnh Cương; Bây giờ tháng mấy, Lời cuối, Giọt lệ cho ngàn sau, Mắt lệ cho người, Tuổi xa người, Bài cho em của Từ Công Phụng; Nụ cười thơ ngây, Nếu một ngày, Vọng ngày xanh của Khánh Băng…. Đặc biệt là Vọng ngày xanh viết năm 1956 được nhiều ca sĩ nổi tiếng đương thời  như Minh Trang, Lệ Thu, Thái Thanh... trình bày, trong đó thành công hơn cả phải kể đến danh ca Thái Thanh. Bài hát này được nhà văn nữ nổi tiếng Françoise Sagan viết lời Pháp và nhờ vậy, ông được Hội Tác quyền Thế giới mời gia nhập…           
Nhiều tình khúc nổi tiếng khác rất được ưa chuộng vào thời gian này như Thanh Trang với Huyền, Tình khúc mùa đông, Duyên thề; Hoàng Nguyên với Cho người tình lỡ; Tà áo tím; Quốc  Dũng với Đường xưa, Cơn gió thoảng; Nguyễn Ánh 9 với Không, Buồn ơi, xin chào mi; Văn Phụng với Yêu, Tình, Suối tóc, Tôi đi giữa hoàng hôn; Vũ Đức Sao Biển với Thu hát cho người; Y Vân với Buồn, Ngăn cách, Ảo ảnh, Những bước chân âm thầm; Đức Huy với Bay đi cánh chim biển, Cơn mưa phùn; Anh Bằng với Nỗi lòng người đi; Nguyễn Hiền với Mái tóc dạ hương; Đan Thọ với Chiều tím; Trần Trịnh với Lệ đá; Tuấn Khanh với Hoa xoan bên thềm cũ, Chiếc lá cuối cùng; Nguyễn Văn Đông với Hải ngoại thương ca. Phạm Trọng Cầu khi du  học ở nhạc viện Paris (Conser - vatoire Supérieur de Musique de Paris) cũng đã viết Mùa thu không trở lại để đời…
Hoàng Trọng thành công với các bài hát theo điệu tango: Ngỡ ngàng, Lạnh lùng, Tiễn bước sang ngang…, đặc biệt bài Ngàn thu áo tím (lời Vĩnh Phúc) điệu valse luôn được công chúng trước nay ưa thích.
Cung Tiến nối tiếp dòng nhạc lãng mạn tiền chiến với những tình khúc bất tử: Hương xưa, Hương xuân, Mùa hoa nở, Đêm hoa đăng, Mắt biếc (khác bài Mắt biếc của Ngô Thụy Miên)…
Đặc biệt, Nguyễn Hữu Thiết với  những tình khúc đậm đà màu sắc âm nhạc dân gian, dân tộc, như: Giọt mưa chiều hay nước mắt em, Lời nguyền cho một tình yêu, Chỉ có tình yêu, Cánh hoa xuân, Mưa chiều nhớ nhau, Hoa nhớ thương ai,…   
Phạm Duy, Trần Quang Lộc, Phạm Đình Chương, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Trần Trịnh, Cung Tiến, Ngô Thụy Miên… có nhiều tình khúc phổ thơ nổi tiếng. Với Phạm Duy là: Còn chút gì để nhớ (thơ Vũ Hữu Định), Ngậm ngùi (thơ Huy Cận), Áo anh sứt chỉ đường tà (thơ Hữu Loan), Tiếng sáo Thiên thai (1959 - thơ Thế Lữ), Tiễn em, Mùa thu Paris (thơ Cung Trầm Tưởng), Tỳ bà (thơ Bích Khê), Vần thơ sầu rụng (thơ Lưu Trọng Lư), Tình cầm (thơ Hoàng Cầm); Em hiền như masoeur, Thà như giọt mưa, Hai năm tình lận đận (thơ Nguyễn Tất Nhiên), Ngày xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng (thơ Phạm Thiên Thư), Chuyện tình buồn và 12 tháng anh đi (thơ Phạm Văn Bình), Màu thời gian (1971- thơ Đoàn Phú Tứ)… Với Trần Quang Lộc là: Về đây nghe em (thơ A Khuê), Em theo đoàn lưu dân (thơ Phạm Hòa Việt), Có phải em mùa thu Hà Nội (thơ Tô Như Châu)… Phạm Đình Chương là: Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ), Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng)… Vũ Thành An là Em đến thăm anh đêm 30 và Tình khúc thứ nhất (thơ Nguyễn Đình Toàn)… Từ Công Phụng là Trên ngọn tình sầu (thơ Du Tử Lê)… Trần Trịnh là Lệ đá (thơ Hà Huyền Chi), Chiếc lá cuối cùng (thơ Théophile Gauthier)…
Cung Tiến là: Đôi bờ (thơ Quang Dũng), Hoàng Hạc lâu (thơ Thôi  Hiệu - Vũ Hoàng  Chương dịch), Kẻ ở (Mai chị về - thơ Nguyễn Đình Tiên), Khói hồ bay (thơ Nguyễn Tường Giang), Nguyệt cầm (ý thơ Xuân Diệu), Thuở làm thơ yêu em (thơ Trần Dạ Từ), Vết chim bay (thơ Phạm Thiên Thư) và ba bài: Vang vang trời vào xuân, Đêm, Lệ đá xanh đều phổ thơ Thanh Tâm Tuyền…Và Ngô Thụy Miên là Tình khúc buồn (thơ Phạm Duy Quang) và nhiều ca khúc phổ từ  các bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa: Áo Lụa Hà Đông, Paris có gì lạ không em, Tình khúc tháng sáu, Tuổi 13…        
Nổi bật nhất là Trịnh Công Sơn với hàng loạt tình ca muôn thuở như: Tình nhớ, Tình xa, Phôi pha, Diễm xưa, Nhìn những mùa thu đi, Hạ trắng, Biển nhớ, Cát bụi, Như cánh vạc bay, Còn tuổi nào cho em, Tuổi đá buồn, Chiều một mình qua phố...          
Các danh ca hát tình khúc giai đoạn này có: Khánh Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan, Hoàng Oanh, cặp đôi Ngọc  Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết…       
Tuy chỉ có 20 năm, nhưng giai đoạn này tại miền Nam đã  hình thành một số lượng tình khúc khổng lồ, trong đó có nhiều bản nhạc nổi tiếng, được yêu thích và lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Nhạc vàng 1954 - 1975 ở miền Nam 
Là dòng nhạc trữ tình bình dân, hình thành ở Miền Nam từ sau 1954 với các bài hát được viết trên những giai điệu đơn giản, chậm buồn đều đều, mang âm hưởng dân ca, nhẹ nhàng của boléro, rumba, ballade, slow rock…, phổ biến nhất là bolero  được hát bằng giọng thứ quãng âm trung hoặc trầm chậm, ca từ bình dị, dễ nghe, dễ hiểu, chất chứa nỗi niềm của một con người bình thường, nên dòng nhạc này đã thu hút một số lượng lớn khán giả bình dân…
Ba đề tài chủ yếu  phổ biến của “nhạc vàng” là: Tình - Lính và Quê hương, sắc thái tình cảm thường là buồn thương... và thường có giọng điệu tự sự, kể chuyện như các ca khúc:  Hàn Mặc Tử (Trần Thiện Thanh), Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh), Chuyện tình Lan và Điệp (Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng)…           
Ở miền Nam, nơi khai sinh và nuôi dưỡng dòng nhạc này, có khi người ta dùng từ “nhạc sến”, hoặc tế nhị hơn thì gọi là “nhạc trữ tình bình dân” để chỉ dòng nhạc này. Nhưng thực ra ở VN, vùng kháng chiến  từ đầu thập niên 1950 đã du nhập khái niệm "nhạc vàng" từ Trung Hoa dịch  từ "huangse yinyue" (hoàng sắc âm nhạc) là nhạc tình thời thượng lúc đó đang phổ biến ở Thượng Hải.        
Có lẽ người viết ca khúc đầu tiên theo điệu bolero là Lê Trọng Nguyễn, Lam Phương rồi Trúc Phương. Lam Phương sáng tác Chiều thu ấy  từ 1952, lúc mới 15 tuổi, nhưng đến năm 1954 ông mới nổi danh với hai bài Kiếp nghèo và Chuyến đò vĩ tuyến. Sau đó, trong hơn 2 thập niên, ông viết gần 200 bài hát trữ tình được công chúng Miền Nam yêu thích như: Thành phố buồn, Nhạc rừng khuya,  Nắng đẹp miền Nam, Bài Tango cho em, Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Tình chết theo mùa đông, Tình cố đô, Tình đau, Tình đầu muôn thuở, Tình đẹp như mơ, Tình mẹ, Tình người viễn xứ, Tình nghĩa đôi mình chỉ thế thôi, Tình như mây khói, Tình vẫn chưa yên, Tình thiên thu…          
Còn Lê Trọng Nguyễn thành công ngay từ ca khúc bolero đầu tiên là Nắng chiều cũng viết năm 1952, là một bản nhạc boléro “kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy, rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này. Nắng chiều còn được biết đến ở Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản. Ông sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh: Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà Giang, Sao đêm… thường được xếp vào dòng nhạc tình khúc.       
Trúc Phương cũng được biết đến trễ hơn, với hai sáng tác đầu tay là Tình thương mái lá và Tình thắm duyên quê viết năm 1957, kế đến là Chiều làng em (1958) và Đò chiều (1959)... đều được nhiều người thích. Bản nhạc nổi tiếng nhất của ông là Tàu đêm năm cũ  viết vào đầu thập niên 1960, Sau đó, là khoảng 70 ca khúc được phổ biến rộng rãi: Nửa đêm ngoài phố, Buồn trong kỷ niệm, Thói đời, Hai lối mộng, Kẻ ở miền xa, Đêm gác trọ, Đêm tâm sự, Đêm trên vùng đất lạ, Đêm Việt Nam, Đôi mắt người xưa, Đường chiều cao nguyên, Hai chuyến tàu đêm, Hình bóng cũ…      
Còn Hoàng Thi Thơ, người được xem là “khơi dòng Việt hóa bolero”, sau Gạo trắng trăng thanh (1954), tiếp tục viết nhiều tình ca quê hương nổi tiếng như Đường xưa lối cũ (1955), Duyên quê, Ai nhớ chăng ai, Trăng rụng xuống cầu (1956)… Sau đó, dưới nhiều bút danh như: Hoàng Thi Thơ, Tôn Nữ Trà Mi, Tôn Nữ Diễm Hồng, Bích Khê, Triệu Phong, Tố Tâm…, ông viết rất nhiều bản nhạc vàng và tình khúc đậm chất dân ca rất được phổ biến và ưa chuộng.
Nhưng người quảng bá tích cực nhất cho dòng nhạc này là nhạc sĩ Phó Quốc Lân, tác giả các ca khúc: Xuân ly hương, Hương lúa miền Nam, Mong ngày anh về, Vui khúc tương phùng... Năm 1955, ông tái lập ban nhạc Lửa Hồng và sau đó cho ra mắt ban Nhạc Vàng thuộc đài phát thanh rồi đài truyền hình Sài Gòn  để trình tấu định kỳ. Ngoài ra, các nhạc sĩ như Anh Bằng lập ra các hãng Hương Giang, Dạ Lan; Ngọc Chánh lập ra hãng Shotguns để phát hành băng và đĩa nhạc với nhãn hiệu "nhạc vàng”.
Trong hồi ký của mình, Phạm Duy viết: "Những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc vàng  - với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và  lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài tầng lớp xã hội trong thời chiến".
Ngoài các tên tuổi trên, nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc này là: Trần Thiện Thanh, Châu Kỳ, Duy Khánh, Anh Chương, Đỗ Lễ, Hoài Linh, Hoài An, Phạm Thế Mỹ, Mạnh Phát, Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng, Hàn Châu, Y Vân, Vinh Sử, Thanh Sơn, Anh Việt Thu, Anh Việt Thanh, Trịnh Lâm Ngân (bút hiệu ghép của Trần Trịnh, Lâm Đệ, Nhật Ngân), v.v...      
Giọng ca tiêu biểu của nhạc vàng: Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hoàng Oanh, Anh Chương, Anh Bằng, Nhật Trường, Trung Chỉnh, Giang Tử, Minh Hiếu, Trúc Mai, Hà Thanh, Ngọc Minh, Phương Dung, Anh Khoa, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Băng Châu, Thái Châu, Nhật Trường (tức NS Trần Thiện Thanh)... Cùng với các nhạc sĩ, các ca sĩ này cũng góp phần định hình dòng nhạc vàng với cách hát khác hẳn các ca sĩ của nhạc tiền chiến hay tình khúc 1954-1975.      
Hai dòng nhạc trữ tình - tình khúc và nhạc vàng 1954-1975 “đối cực” về thính giả, nhưng có khi “đồng nhất” về tác giả. Một số NS chuyên sáng tác nhạc vàng nhưng cũng có những ca khúc của họ được xếp vào tình khúc, như một số bài hát của các NS Hoàng Thi Thơ, Y Vân, Nguyễn Văn Đông, Phạm Thế Mỹ, Song  Ngọc, Lam Phương, Anh Bằng,... Ngược lại, một số NS trước đã nổi tiếng với tình khúc lại thành công trong nhiều bản nhạc vàng. Như Phạm Mạnh Cương của tình ca Thu ca (1953) bất hủ, sau nầy viết nhiều bản nhạc vàng được yêu thích: Tình mùa phượng thắm (1961), Tháng bảy mưa ngâu (1964)… Hoặc Trần Trịnh của tình khúc Lệ đá nổi tiếng đã viết nhạc vàng cùng Nhật Ngân trong bút hiệu chung Trịnh Lâm Ngân được phổ biến rộng rãi: Mùa xuân của mẹ, Xuân này con không về…        
Đề tài nhạc vàng sẽ trở lại nhiều lần trong chuyên đề này ở các giai đoạn âm nhạc khác, do sự tồn tại lâu dài của nó trong tầng lớp công chúng bình dân nhiều thế hệ.
Nhạc trẻ 1960 - 1975 ở Miền Nam
Vào cuối thập niên 1950, nhạc kích động châu Âu và Mỹ bắt đầu thâm nhập thị trường miền Nam. Đầu những năm 1960 thì nhạc trẻ (còn gọi là nhạc xanh) trở thành một hiện tượng của âm nhạc Việt Nam, đó là dòng “âm nhạc trẻ trung, tươi mới, tự do”, "trẻ" cả về âm nhạc, nhạc sĩ (trừ Phạm Duy), nghệ sĩ biểu diễn lẫn công chúng.
Thực tế, nhạc trẻ bao gồm âm nhạc từ loại pop/rock nhẹ nhàng của Bread và The Carpenters, cho đến những bài hát yéyé của Pháp, và rock nặng (heavy rock) của Mỹ. Gọi là nhạc trẻ cũng để phân biệt với  nhạc tiền chiến, nhạc vàng, tình khúc..., dù rằng nhiều bản nhạc trẻ của Phạm Duy, Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Khánh Băng... cũng được xếp vào dòng tình khúc, được cả giới trẻ lẫn giới trung lưu, trí thức ở Miền Nam thuở ấy say mê.
Bắt đầu là nhiều bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng được các nhạc sĩ  đặt lời Việt rất thành công và có những ca khúc để đời. Mở đầu cho trào lưu “Việt hóa” các ca khúc Âu - Mỹ thời ấy có thể nói đến nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng, ông đã chuyển soạn lời Việt cho các ca khúc được nhiều người yêu mến như: Búp bê không tình yêu (Poupée de cire, poupée de son), Gõ cửa ba tiếng (Knock three times), Chuyện phim buồn (Sad movies), Lãng du (L’Avventura), Anh thì không (Toi jamais), v.v... Sau đó nhiều nhạc sĩ khác, nhiều ban nhạc, cũng đã soạn lời Việt cho nhiều ca khúc ngoại quốc khác: Phạm Duy, Quốc Dũng, Trường Hải, Jo Marcel, Kỳ Phát, Lữ Liên, Khúc Lan, Nam Lộc, Nguyễn Duy Biên, Tùng Giang, trong đó có cả nhà báo Trường Kỳ (cột chèo với Vũ Xuân Hùng), v.v...   
Nhạc sĩ Nam Lộc "Việt hóa" nhiều bản nhạc ngoại quốc thịnh hành đương thời bằng cách đặt lời tiếng Việt: Trưng Vương khung cửa mùa thu (Tell laura i love her), Mây lang thang (The cowboy's work is never done), Dĩ vãng buồn (I’ll never fall in love again), Tình ca cho em (Good bye to love), Như mùa thu lá bay (Ben), Chỉ là giấc mơ qua (Yellow Bird), Một thời để yêu (Les amoureux qui passent), Phút bên em (L’Amour avec toi), v.v...  
Thành công hơn cả là Phạm Duy, với đa phần là  nhạc Pháp, với giọng hát bằng song ngữ điêu luyện của ca sĩ Thanh Lan, đã gây được ảnh hưởng khá mạnh mẽ trong giới trẻ: Khi xưa ta bé (Bang bang), Tình cho không biếu không (L'amour c'es pour rien), Hỡi người tình lara (Dr. Zhivago), Chuyện tình (Love story), Người yêu nếu ra đi (If you go away), Cuộc tình tàn (Je sais), Himalaya, Ngày tân hôn (The wedding), Em đẹp nhất đêm nay (La plus belle pour aller danser), Những nụ tình xanh (Tous les garcons et toutes les filles), Viễn du trong tưởng tượng (En partant), Trong nắng trong gió (Dans le soleil et dans le vent), Nắng đã tắt (Il est mort le soleil), Ôi giàn thiên lý đã xa (Chèvrefeuille que tu es loin), Tình yêu mùa đông (J'aime bien l'hiver), Chàng (Lui), Nàng (Elle etait belle), Chỉ cần một giọt lệ (Rien qu'une larme), Tiễn em nơi phi trường (Adieu jolie candy), Gọi tên người yêu (Aline), v.v…
Sau đó, không chỉ dừng lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự sáng tác các bản nhạc trẻ với tiết điệu nhanh và lạ, lời ca dễ hiểu, gần gũi. Những người đầu tiên có thể kể tới là Phạm Duy, Khánh Băng, sau đó là các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Lê Hựu Hà, Tùng Giang, Nguyễn Trung Cang, Ngọc Chánh, Jo Marcel, Trường Kỳ, v.v …          
Từ giữa thập niên 60, nhiều ban nhạc trẻ được thành lập, như Les Fanatics của Công Thành, Spotlights của Tuấn Ngọc, Les Vampires của Đức Huy, và nhạc sĩ  Lê Hựu Hà với nhiều ban nhạc trẻ nổi tiếng: Hải Âu (1965), Phượng Hoàng (cộng tác với nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và ca sĩ Evis Phương - 1970) và sau đó là Mây Trắng. Ông còn viết nhiều ca khúc nhạc trẻ rất được ưa chuộng như: Tôi muốn, Lời người điên, Hãy nhìn xuống chân, Bài ca tuổi trẻ, Yêu người yêu đời, Hãy ngước mặt nhìn đời, Đôi khi ta muốn khóc...      
Nhưng trước đó, khoảng năm 1962, Khánh Băng đã viết rất nhiều ca khúc có tiết tấu nhanh, sôi động, gần như thể loại nhạc kích động sau nầy, được coi là những bài nhạc trẻ đầu tiên ở Việt Nam: Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi..., đặc biệt bài Sầu đông  có thêm lời tiếng Pháp và tiếng Anh, trong đó lời tiếng Pháp do chính ông viết.       
Tới năm 1971, Đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ, Tùng Giang và Nam Lộc đứng ra chủ trì và sự hợp tác của nhạc sĩ Phạm Duy, với gần 20 ban nhạc quốc tế của Mỹ, Phillippines và Việt Nam tham gia. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở Sài Gòn đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ.           
Tiếp theo đó nhiều đại nhạc hội khác được tiếp tục được tổ chức: năm 1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, năm 1974 tại Thảo Cầm Viên với trên 20.000 khán giả.          
Năm 1973, Phạm Duy, Ngọc Chánh và Thanh Lan đi dự Đại hội âm nhạc quốc tế tại Tokyo, tại đây bản nhạc trẻ Tuổi biết buồn của Phạm Duy được lọt vào chung kết.         
Thuộc thế hệ nhạc sĩ đi trước từ rất lâu, nhưng Phạm Duy vẫn được coi là người đứng đầu và có những đóng góp lớn cho phong trào nhạc trẻ với những sáng tác nhạc trẻ Việt và đặc biệt ca khúc nhạc ngoại lời Việt của ông được cho là nhiều nhất và thành công nhất thời bấy giờ.        
Có người cũng xếp "Kích động nhạc” vào dòng nhạc trẻ, nhưng thực chất 2 dòng nhạc nầy hoàn toàn khác nhau: "Kích động nhạc"  là loại nhạc "giật gân", sôi động  như twist hay rock and roll thường viết về đề tài người lính Việt Nam Cộng hòa, gần với nhạc tâm lý chiến hơn, chứ không “vô tư” như nhạc trẻ  mà hai ca sĩ nổi tiềng trở thành cặp bài trùng của loại nhạc nầy là Hùng Cường - Mai Lệ Huyền.
Nhạc du ca 1966 - 1975 ở miền Nam
Nhạc du ca trong trào Du ca ra đời đúng lúc mọi người đang đòi hỏi một nền văn nghệ sống động, thức tỉnh và mới lạ. Phong trào Du ca ra đời năm 1966 do hai nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang và Đinh Gia Lập thành lập, có khởi nguồn là một ban nhạc sinh viên lúc bắt đầu hình thành chỉ có năm người: Nguyễn Đức Quang, Trần Trọng Thào, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Quốc Văn và Mai Thái Lĩnh (tức Hoàng Thái Lĩnh), sau đó có thêm ca sĩ Phương Oanh và lấy tên chính thức là Ban Trầm Ca, rồi cùng nhạc sĩ Phạm Duy lưu diễn nhiều nơ tại miền Nam Việt Nam. Phong trào Du ca, là một đoàn thể hoạt động về văn hóa và văn nghệ phục vụ cộng đồng, xuất hiện cùng lúc với phong trào làm công tác xã hội của sinh viên, học sinh. Tôn chỉ của Phong trào là: "Dùng tiếng hát chung của cộng đồng để tô điểm cho nền văn nghệ dân tộc một màu xanh đầy hy vọng, đưa mỗi người đến gần nhau hơn để cùng lo xây đắp một quê hương tươi sáng".
Du ca quy tụ khá nhiều các nhạc sĩ tên tuổi, cũng như nhiều nhạc sĩ trẻ xuất phát từ phong trào: Nguyễn Đức Quang, Trầm Tử Thiêng, Anh Việt Thu, Trần Tú, Nguyễn Quyết Thắng, Phạm Duy, Ngô Mạnh Thu, Giang Châu, Trần Đình Quân, Lý Văn Chương, Lê Quang Dũng, Nguyễn Văn Phiên, Võ Thị Xuân Đào, Fa Thăng, Trần Trọng Thào, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Quốc Văn, Bùi Công Thuấn, Trần Quang Lộc, Mai Thái Lĩnh… Trong đó, ba nhạc sĩ tiêu biểu nhất cho phong trào Du ca Việt Nam với nhiều ca khúc được phổ biến rộng khắp là: Nguyễn Đức Quang, người sáng lập phong trào, Nguyễn Quyết Thắng và Bùi Công Thuấn.
Những ca khúc trong phong trào du ca có mục đích kêu gọi thanh niên hãy tự hào dân tộc, tin tưởng và hy vọng vào tương lai. Những loại nhạc mà phong trào du ca thường sử dụng là Thanh niên ca, Thiếu nhi ca, Sinh hoạt ca, Nhận  thức ca, Sử ca, Dân ca, những bài hát phản ánh thân phận quê hương và ca ngợi tình yêu con người, quê hương.                     
Nhiều bài hát của Du ca đã trở nên quen thuộc, được hát phổ biến, thậm chí  trở thành bài ca sinh hoạt trong học đường và các đoàn thể thanh thiếu niên bấy giờ, như: Hướng đạo Việt Nam, CPS, Thanh sinh công, Thanh niên Phụng sự Xã hội Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Thanh niên Caritas, Thanh niên Hồng thập tự, Thiếu nhi thánh thể, Gia đình Phật tử… Có thể kể ra những bài ca tiêu biểu có tác động lớn đối với lớp trẻ bấy giờ, ngoài những ca khúc của Nguyễn Đức Quang, người sáng lập phong trào: Việt Nam, Việt Nam của Phạm Duy; Đêm hồi động, Ta biết gì trên quê hương, Câu hát tình quê, Hát gọi mặt trời lên, Lãng du ca của Trần Quang Lộc; Anh sẽ về (thơ Khê Kinh Kha) của Nguyễn Hữu Nghĩa; Đến với quê hương tôi, Những bước chân đi tới, Tình ca quê hương, Mãi mãi bên nhau của Bùi Công Thuấn; Nước Việt Nam, Ta hát vang của Ngô Mạnh Thu; Chiều trên quê hương, Tuổi trẻ chúng tôi của Giang Châu; Hòa bình ơi! Hòa bình ơi! của Trầm Tử Thiêng; Đứa học trò trở về, Lặng im, Nằm vắt tay lên trán, Gọi tên đất Mẹ, Quê hương tôi của Nguyễn Quyết Thắng, v.v...          
Trước năm 1975, phong trào Du ca có tác dụng sâu mạnh  đối với giới trẻ qua các đoàn, toán ca như: Du ca Con Sáo Huế, Áo Nâu, Lòng Mẹ, Trùng Dương, Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông, Hồ Gươm, Sông Hậu, Vượt Sóng, Giao Chỉ, Đà Nẵng, Kiên Giang, Sông Phố,  Mùa Xuân, Đồng Vọng, Phù Sa, Ca đoàn Trùng Dương, Trung Ương, Đuốc Việt, Tình Người, v.v... Họ trình diễn ở khắp nơi ở miền Nam khi đó, trong trường học, ngoài sân cỏ, trên sân khấu, trong các đoàn thể bạn… Khởi động phong trào hát cộng đồng, hát chung khắp mọi nơi, sau này được lan truyền sang nhiều địa hạt và nhiều giới khác, kể cả tôn giáo.       
Du ca cũng đã phát hành một số tuyển tập nhạc như: “Tuyển tập Du ca 1, 2 và 3”, “Những bài ca khai phá”, “Ta đi trên dòng lịch sử”, “Những điều trông thấy”, “Hát từ tim - hát bằng hơi thở”, “Những khuôn mặt Du ca”, “Hát cho những người sống sót”, “Anh hùng ca”, “Sinh hoạt ca”… Đặc biệt, hai tập ca khúc của người đứng đầu phong trào, NS Nguyễn Đức Quang để lại dấu ấn không phai mờ trong nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam từ đó đến nay. Tập “Trầm Ca” gồm 10 ca khúc cho thanh niên và thời cuộc, những thao thức lớn nhất về con người, đất nước có các bài hát tiêu biểu: Nỗi buồn nhược tiểu, Người anh Vĩnh Bình, Tiếng hát tự do, Chiều qua Tuy Hòa, Việt Nam quê hương ngạo nghễ… Tập “Những bài ca khai phá” gồm trên 40 ca khúc sinh hoạt đặc biệt cho đoàn thể, sinh viên, học sinh dùng trong các buổi họp mặt công tác xã hội, các hoạt động đám đông, là tiếng kêu gọi tuổi trẻ đến với nhau cùng vun đắp niềm tin và xây dựng quê hương, đất nước: Không phải là lúc, Về với mẹ cha, Dưới ánh mặt trời, Chuyện quê ta, Hy vọng đã vươn lên, Xin chọn nơi này làm quê hương (thơ Nguyễn Ngọc Thạch),…
Lê Thiên Minh Khoa
Nguồn: Trích "9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM"
nghiên cứu và nhận định của Lê Thiên Minh Khoa
Theo http://www.bongtram.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thơ có cần thiết cho đời sống? 10 Tháng Ba, 2023 Trong kỷ nguyên nghe nhìn, thơ đang có khoảng cách với đời sống. Độc giả thèm khát nh...