Thứ Tư, 22 tháng 1, 2020

Thi sĩ Bùi Giáng trong mắt một người yêu thơ

Thi sĩ Bùi Giáng trong mắt 
một người yêu thơ
Giã từ cõi mộng điêu linh
Anh về buôn bán với mình phôi pha
(Bùi Giáng)
N
ay thì chàng “trung niên thi sĩ” đã thông thênh trong cõi hư huyền miên viễn, nhưng vẫn hiện hữu đó đây những ký ức, những hoài niệm về hình ảnh một thi sĩ kỳ dị nói cười bằng một thứ ngôn ngữ chẳng giống ai: khi chót vót đỉnh trời, lúc tận cùng quá vãng, đem hiện thực xối trộn vào ảo thể, lấy ngụy làm chân, lấy chân làm hư, cứ tưng tửng như đùa như… điên, làm cho thiên hạ không biết đâu mà lần. Chính vì không biết đâu mà lần nên đã gây ra ngộ nhận. Có người thẳng thừng tuyên bố: Bùi Giáng điên! Người thận trọng hơn thì bảo: Bùi Giáng nào điên, ông chỉ giả vờ. Kẻ cho rằng Bùi Giáng loạn chữ. Kẻ lại bảo ông múa chữ. Cũng có người tỏ ra minh triết theo kiểu phản tư mang tính nghệ thuật: Bùi Giáng điên vì ông quá tỉnh! Bản thân Bùi Giáng thì khẳng định: “Nó điên! Nhưng điên một cách dzui dzẻ…”.
Mặc thiên hạ đánh giá. Điên hay tỉnh Bùi Giáng vẫn cứ là loại “thiên tài không định nghĩa được” theo lời nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn. Do đó, gặp được Bùi Giáng là niềm hạnh phúc lớn đối với nhiều người, trong đó có ông Lâm Ngọc Duy ở Đức Trọng, Lâm Đồng.
Từ Đà Lạt tôi đáp xe buýt xuống Đức Trọng tìm đến nhà ông Lâm Ngọc Duy. Căn nhà gỗ khiêm nhường nép mình giữa vườn đầy cây và hoa là nơi an trú của chủ nhân những bức ảnh, những cảm hoài về vị cố “trung niên thi sĩ”. Ông Duy quê ở Quảng Ngãi, sớm bị mê hoặc bởi những giọt “Mưa nguồn” của Bùi Giáng; có thể coi đó như một duyên lành để về sau làm nên cuộc hạnh ngộ giữa hai người. Ông Lâm Ngọc Duy kể:
“Năm 1980, vì hoàn cảnh gia đình quá ngặt nghèo, tôi phải mang theo đứa con nhỏ rời Đà Lạt xuống Sài Gòn tìm kế sinh nhai. Hai cha con tứ cố vô thân, không nhà không cửa, sống vất vưởng dọc vỉa hè. Hằng ngày tôi đi chụp ảnh dạo trên các đường phố Sài Gòn kiếm miếng cơm, bát cháo lất lây qua ngày. Một thời gian sau, tôi may mắn gặp nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh và được ông nhận vào làm trong Ảnh viện Đống Đa trên đường Trương Minh Giảng, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó hai cha con mới có tiền thuê phòng trọ.
Một hôm trên đường đi làm về, ngang qua chỗ bùng binh Trương Minh Giảng, tôi thấy một ông già đang nhảy múa, xung quanh đám trẻ nít bu lấy. Vì hiếu kỳ, tôi chạy lại xem. Ngó chừng dung mạo thấy giống Bùi tiên sinh mà tôi đã từng nghe qua lời kể của bạn bè. Tôi liền hỏi: “Xin lỗi! Có phải ngài là Bùi Giáng không?”. Ông già nhướng mắt nhìn tôi, hỏi lại: “Sao anh biết ta?”. “Dạ, con là độc giả của ngài đây. Hâm mộ ngài từ lâu, hôm nay mới được gặp. Thật là một cơ duyên!”. Rẽ đám trẻ nít, Bùi Giáng cầm lấy tay tôi kéo vào một con hẻm nhỏ trên đường Trương Minh Giảng. Tại đây Bùi tiên sinh đã chép thơ lên vỏ bao thuốc lá tặng tôi. Bài thơ vỏn vẹn chỉ có một câu: “Chép lời bờ cỏ ra hoa”. Thấy câu thơ lạ, tôi hỏi: “Thơ ngài quá siêu phàm. Con không hiểu được ý thơ?”. Nghe Bùi Giáng giải nghĩa câu thơ xong, tôi lại càng kính phục trình độ uyên áo của ngài. Sau đó tôi chở Bùi tiên sinh trên xe đạp dạo quanh Sài Gòn. Cứ chừng 200m, Bùi tiên sinh lại bảo tôi dừng xe, tạt vào lề đường làm mấy hớp rượu rồi mới chịu đi tiếp. Lúc nào bên mình ngài cũng có sẵn bầu rượu và túi thơ. Đến ngã ba, ngã tư ngài lại xuống làm cảnh sát giao thông, chỉ đường cho xe cộ đi lại. Qua một ngày du ngoạn, Bùi Giáng cho tôi địa chỉ và dặn: “Anh muốn tìm ta thì đến đường Lê Quang Định, cứ hỏi nhà “ông già điên” thì ai cũng biết. Đến mà thấy ta bệnh thì ghé chơi, còn ta khoẻ thì im lặng mà về…”.
Nhiều lần sau tôi tìm đến nhà Bùi Giáng nhưng không lần nào gặp được ngài. Hỏi hàng xóm, người ta bảo: “Hôm nào ông cũng đi từ lúc 3 giờ sáng, có khi cả nửa tháng mới về nhà”. Bận khác, tôi đi sớm tìm ngài. Lần này tôi mang theo bộ ấm trà, hai cái bánh pía và may mắn gặp được ngài trong một quán cà-phê ở cuối con hẻm. Thấy tôi, Bùi tiên sinh lên tiếng: “Sao anh biết ta ở đây?”. “Dạ, con đi tìm ngài mấy bữa ni mà không gặp. Hôm nay đi không ngờ lại gặp được ngài”. Ở quán cà phê đó, tôi pha trà mời Bùi tiên sinh. Bùi tiên sinh cúi xuống nâng hai tay lên cao quá đầu đón chén trà từ tay tôi như một nghi lễ. Cử chỉ đó của ngài làm tôi nhớ mãi.
Rời quán cà-phê, chúng tôi cùng lang thang trên đường phố Sài Gòn. Đi được một quãng, Bùi tiên sinh tạt vào một tiệm sửa xe đạp. Tôi quay lại hỏi: “Ngài vào mua gì thế?”. Bùi tiên sinh đáp: “Anh cứ đứng đó chờ ta”. Ghé vào tiệm, Bùi Giáng bèn với tay lấy cái ghi đông xe đạp treo lủng lẳng trên đầu rồi bước ra. Chủ tiệm liền chạy theo giật lại và đạp cho Bùi Giáng một cái ngã nhào xuống đất, còn bồi thêm mấy cái tát. Bùi Giáng lổm ngổm bò dậy: “Tao mới lấy củami cái ghi-đông mà mi đập tao đến sưng cả mắt. Nếu tao làm chi hơn chắc mi đánh tao chết…”. Nói rồi Bùi Giáng quay lưng đi.
Chưa hết đau, hai chúng tôi dắt nhau qua chùa Liên Ứng. Tại chùa Liên Ứng, tôi đã chụp những bức ảnh đầu tiên về Bùi Giáng. Và Bùi tiên sinh lại làm thơ tặng tôi. Bài thơ không đề, có đoạn viết:“Trăng thanh đầu ngọn yêu đào/ Hắc phong hải ngoại tự trào hoàng hôn/ Chẻ hai mảnh giấy vô hồn/ Lầm sương lạc tuyết là cồn điếu tang/ Còn nguyên phố thị hội đàm/ Với trăng châu thổ muôn vài dưới kia”. Phía dưới ghi: “Thân tặng Lâm Ngọc Duy, người bạn Quảng Nghĩa, tôi bạn Quảng Nam, ký tên Bùi Giáng”.
Vào cuối câu chuyện, Bùi tiên sinh đề nghị: “Anh đưa ta về thăm nhà anh. Ta ở lại một đêm rồi mai đi chơi tiếp”. Tôi đưa ngài về phòng trọ. Đó là một căn nhà lá nhỏ, chỉ độc một chiếc giường. Tôi bèn mời ngài lên giường nghỉ, ngài không chịu: “Ta nằm dưới đất quen rồi. Anh để ta ở đây thoải mái hơn”. Ngài tiếp: “Anh có làm thơ không? Cho ta coi”. Tôi đưa thơ cho ngài, đọc xong ngài bảo: “Hay anh in chung với ta một tập đi?”. Tôi toát cả mồ hôi, trả lời: “Con chỉ đáng xách dép cho ngài, sao lại ngồi chung chiếu với ngài được”. Đêm ấy hai chúng tôi đều ngủ muộn nhưng mới 3 giờ sáng tôi đã thấy Bùi Giáng thức dậy ngồi thiền. Và đó cũng là lần tương ngộ cuối cùng giữa tôi và Bùi tiên sinh”
Cuối cuộc trò chuyện tôi mạn phép hỏi ông Lâm Ngọc Duy. Ông đánh giá thế nào về con người, sự nghiệp cũng như thi tài Bùi Giáng? Ông Duy vui mừng trả lời: “Ngài là một Bồ-tát Nghệ sĩ. Gặp được ngài là niềm hạnh phúc lớn nhất đời tôi!”.
Martin Heidegger - triết gia trứ danh người Đức - từng nói: “Ngôn ngữ là ngôi nhà an cư của Tính thể. Thi sĩ và Tư tưởng gia là kẻ canh giữ Ngôi nhà ấy”. Bằng ngôn ngữ, Bùi Giáng đã tạo nên ngôi nhà tính thể của riêng mình. Ở đó ông hả hê nói cười, ông phiêu linh đời mình trong biển cả văn chương vô tận với hàng loạt sự kết hợp độc đáo giữa cổ và kim, giữa ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ đời thường, giữa cách nói thông dụng và cách nói lái, giữa nghiêm trang và bỡn cợt… Bởi ông dám hồn nhiên tin rằng: đời là một cuộc chơi mà chơi thì phải chơi cho đã, cho chán, cho lạc mất đường về, và lạc mất ngay chính bản thân mình: “Hỏi tên rằng biển xanh dâu/ Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa”.
Thế rồi sau những dặm dài “giang hồ muôn nẻo điêu linh” ấy, Bùi tiên sinh đã lui về an trú trong ngôi nhà tính thể của ngôn từ, trả lại cho nhân gian những lời đánh giá, khen chê, cùng sự thốt nhiên thiên tài nơi những vần thơ xảo diệu, những tập tiểu luận triết học, dịch thuật văn chương… mà sự ngân rung của nó sẽ còn dài lâu trong đời sống văn học nước nhà.
Chia tay ông Lâm Ngọc Duy tôi cứ bâng khuâng mãi về một tấm lòng. Bởi trong khi người ta đang mải lo làm lo ăn thì Lâm Ngọc Duy vẫn cứ âm thầm lặng lẽ tìm về với cái đẹp, cái thanh tao. Hàng tháng ở nhà ông vẫn có những đêm thơ Bùi Giáng, đêm nhạc Trịnh Công Sơn. Hàng năm vẫn có ngày giỗ Trịnh cũng như ngày tưởng niệm Bùi tiên sinh ly trần. Những tách trà xưa uống cùng nhau, những bài thơ ghi trên giấy vụn, những bức ảnh Bùi Giáng, những tập thơ, những truyện dịch của Bùi tiên sinh đến bây giờ ông Lâm Ngọc Duy vẫn còn lưu giữ cẩn trọng. Đời rất cần những con người làm nên cái đẹp, nhưng đời cũng cần hơn những con người biết quí trọng, nâng niu, gìn giữ cái đẹp. Ông Lâm Ngọc Duy là con người ấy.
12.2.2014
Trịnh Chu
Theo http://tapchicuaviet.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Dấu chấm thang – Chùm thơ của Trần Hương Giang 4 Tháng Sáu, 2023 Biết thương cuộc sống ta bà/ Đổi thay, tôi lại thiết tha yêu đời/ Dù ...