Hà Nội mùa Thu, cây cơm nguội vàng...
Nguyễn Anh Tuấn
Hà Nội ngàn năm tuổi lại bước vào Mùa Thu –
mùa của những cảm hứng vô tận cho các tuyệt phẩm thơ ca, nhạc họa của những văn
nghệ sĩ xưa nay sống trên đất Thăng Long- Hà Nội – đó là sự thanh bình
yên ả của cảnh vật, là nỗi chạnh lòng trước sự điêu tàn hoang phế của Kinh
thành cũ, hay là sự biệt ly xa cách vời vợi… Nhưng mùa thu nơi đây cũng gợi
nguồn cảm hứng lãng mạn cao cả về một cuộc đổi đời lớn lao trong thời hiện tại…
Mùa thu Hà Nội mang trong mình những
dáng vẻ rất riêng biệt mà không đâu có. Thu về, Hà Nội khiến cho người ta say
mê vì vẻ đẹp đến lạ lùng của nó trong từng góc phố… Theo quan niệm của người Hà
Nội, mùa Thu là mùa đẹp nhất trong năm. Hà
Nội vốn đẹp bởi sự trầm mặc và cảm giác bình yên. Và mùa thu lại càng tô
đậm thêm cảm giác đó…
Ai đi xa Hà Nội, đến mùa này lại nôn
nao nỗi nhớ về cái sắc nắng như tơ từng sợi một thả xuống óng ánh, về khói
sương lãng đãng mặt hồ, về những con phố trải vàng lao xao lá rụng, về một buổi
sớm heo may với bầu không khí dìu dịu mát lành, về một khoảng trời xanh biếc
cao vời vợi và mây trắng bồng bềnh như mơ… Tháp Rùa cổ kính rêu phong trong
sương chiều phảng phất… Những cành liễu tha thướt buông rủ mang hình dáng người
thiếu nữ soi bóng nước hồ thu trong như gương… Sóng nước hồ Tây mênh mang có vẻ
đẹp thần thoại khi hoàng hôn đang dần buông… Bên bờ sông Hồng, từng chiếc lá
tre tung mình trước khi phiêu du cùng sóng nước… Và khi những con phố nhỏ đã
thưa thớt người lại qua, từng chùm đèn như lung linh hơn qua những vòm cây thơm
ngát hương.
Theo cố nhà văn Băng Sơn, Mùa thu
chính là mùa mà Hà Nội mang trên mình những nét yêu kiều diễm ảo và dịu dàng
nhất…Lẫn trong lá vàng bay vàng rộm mặt đường và lẫn trong sương lam mơ hồ trên
mặt sóng của thời tiết dìu dịu như tơ chăng, là những làn hương từ đâu đó lan
tỏa vào không gian như từng sợi âm thanh của một cây vĩ cầm vô hình. Đó là làn
hương của hoa dạ hợp nồng nàn trắng muốt; đó là hương sấu chín cuối mùa thoang
thoảng đường Phan Đình Phùng; đó là hương ngọc lan vương vấn thoảng nhẹ từ các
ngón tay tháp bút trắng ngà quyện với chút hanh hao của cái lạnh đầu thu trên
những con đường rợp bóng cây. Có người đã quan sát một cách tinh tế cái háo hức
của những bông hoa hải đường rung lên trước những ngọn gió heo may đầu tiên. Đó
là loài hoa đặc biệt của thu Hà Nội. Đặc biệt không phải ở màu đỏ tươi đến nao
lòng, sặc sỡ mà không chói lóa, cũng không phải ở màu xanh ngăn ngắt của lá,
cũng không phải màu vàng óng ánh của nhụy hoa. Cái đặc biệt chính là thời gian
mà bông hoa ngậm trong mình từ cuối xuân đầu hạ, phải trải qua nhiều nắng gió,
chưng cất từ những tia nắng gay gắt của một mùa hè tới đầu thu mới có được vẻ
đẹp ấy. Và hoa sữa. Những cây hoa sữa trổ hương sớm thường là những cây hoa sữa
mới trồng, và được chính cái gió heo may đầu mùa giúp tỏa hương bay xa. Đã có
biết bao bài thơ, bản nhạc, dòng văn đầy rung động của những người tài hoa ca
ngợi hoa sữa Hà Nội. Nhiều người Hà Nội đi xa đã nhớ về hoa sữa, hoa hoàng lan,
hoa ngọc lan để tưởng niệm thời hoa niên trong trẻo, thời học trò mơ mộng, tuổi
yêu đương tinh khiết của mình. Nhất là, nếu đi trong đêm trăng đường Nguyễn Du,
đường Trần Hưng Đạo, đường Bà Triệu hít thở mùi hoa sữa ngọt ngào đang trộn lẫn
sương thu làm ướt tóc, không ít người đã phải nghẹn ngào ứa nước mắt vì cái vẻ
đẹp nồng nàn và thanh khiết của Hà Nội. Và có người đã phải thốt lên: mùa thu
bình yên và dịu dàng quá! Khi đó, người ta cũng dễ dàng mở lòng với chính mình,
với những người xung quanh – dịu dàng như chính không gian thu Hà Nội. Và trong
đêm sâu lắng của thu Hà Nội, bên hương hoa hải đường, hoa hoàng lan, hoa dạ lan
hương, hoa sữa, người ta trở nên dễ cảm thông để hiểu nhau hơn…Người ta sẽ có
cảm giác không gian và thời gian như ngưng đọng, tiết thu dịu nhẹ khiến có thể
trút hết mọi ưu phiền, lo lắng của cuộc sống bộn bề…Có lẽ cũng trong không gian
và thời gian này, ở một căn phòng nhỏ Hà thành, khi ngắm hình vẽ con nai trên
ống bút, thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết nên bài Tiếng thu tuyệt tác, một trong những bài thơ hay nhất của thi ca
tiền chiến:
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Người ta vẫn nói, mùa thu là mùa của
những hoài niệm, và như lời một bài hát: “Hà Nội mùa thu tràn nỗi nhớ….”
Một người con Hà Nội khi xa đã tâm
sự: “Mình chỉ
muốn khóc mỗi độ thu về . Làm sao cầm lòng được khi nhìn vạt nắng vàng nghiêng
qua thảm cỏ làm dát vàng cả những gì nhỏ bé nhất, làm lung linh cả những hạt
phù du trôi nổi trong không khí… Cái tĩnh lặng và không trung đưa bạn về miền
hoang sơ nhất của loài người …”
Một người sống ở nơi chỉ có hai mùa
mưa nắng trong năm đã viết những dòng thật xúc động: “Người phương Nam như tôi đã được
tặng một món quà tuyệt đẹp của phương Bắc, của Hà Nội. Khẽ khàng, mỏng manh
trong hơi sương sớm, se se trong cơn gió nhẹ đem hương mùa bảng lảng qua các
con phố… Mùa thu Hà Nội như một thứ men ngọt ngào, nhấp từng giọt, từng giọt để
say hồi nào không biết, và cứ muốn say mãi…”
Có người còn khẳng định rằng: “Hà Nội mùa thu như một bức tranh
nghệ thuật mà trên đấy người ta có thể nhìn thấy tất cả mọi góc cạnh của cuộc
sống. Và dường như mùa thu đã đẩy lùi tất cả những lo toan bộn bề của cuộc
sống, để lại một cái gì đó trong sáng như kim cương…”
Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn- một
người Hà Nội đã có một bài thơ giản dị và miêu tả được Hà Nội mùa thu một cách chuẩn xác, như một cuốn phim tài liệu, và nói
hộ được tâm tư của nhiều người:
Một vài quán nước ánh đèn xanh
Kê ghế ra hiên đón gió lành
Vài bác về hưu ngồi đàm đạo
Thoáng nhìn như cảnh ở trong tranh…
Buổi tối mùa thu êm dịu quá
Hoa sữa thơm ngào ngạt khắp đường
Đã bao mùa đến rồi đi mất
Vẫn ngỡ ngàng mùa thu quê hương.
Tháng
Tám mùa thu cũng là mùa của những ngày hội Non sông náo nức lòng người, thời
gian của những sự kiện trọng đại bậc nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại diễn ra
tại Thủ đô: đó là Cách mạng Tháng Tám thành công, rồi Lễ tuyên ngôn Độc lập
cùng sự ra đời của Nhà Nước Dân chủ nhân dân đầu tiên- trước sự chứng kiến của
quốc dân đồng bào và của nắng gió Ba Đình lồng lộng…
Người Thăng Long- Kẻ Chợ từ ngàn năm qua thưởng thức hương vị mùa Thu
với nhiều cách khác nhau, song có nét chung nhất là ấm cúng, nhẹ nhàng và đằm
thắm; hồn dân tộc trong những nghi thức tế lễ thì vẫn được giữ gìn và phát huy.
Sử
sách còn ghi lại những nghi lễ cổ diễn ra vào mùa Thu trên đất Thăng Long xưa
mang đậm dấu ấn Á đông và nét cổ truyền của dân tộc Việt.
Vào
ngày ngâu tháng Bảy, trẻ em đất Hà thành được mặc quần áo mới và được vui chơi
thoả thích. Đây còn gọi là Tết Trung nguyên, hay Rằm tháng Bảy. Thực chất của
tết này là một lễ tiết gốc từ Phật giáo. Vào Rằm tháng Bảy, người ta mở hội Vu
Lan bồn, lấy việc cúng tế này nhằm vào mục đích là siêu độ cho các vong nhân.
Đức Phật dạy rằng: các quan ở âm phủ xét xử những vong nhân lúc sống ở dương
thế, nếu ở lành thì phong thưởng, ở ác thì bắt tội. Nhưng cả ác lẫn lành,
hôm Rằm tháng Bảy đều tha cho đi chơi cả. Cho nên tục truyền theo chữ gọi là xá
tội vong nhân. Vì thế vào ngày Rằm tháng Bảy ở kinh thành Thăng Long thời xưa,
các tù nhân được ra khỏi trại giam, đi chơi phố xá. Còn trong dân gian, nhà nào
cũng làm cỗ cúng tổ tiên bằng những đồ lễ như các thứ rau quả, bánh trái đựng
vào lá sen và cũng lấy lá sen đậy lên, dùng giấy xanh đỏ làm hình nhân, đồ mã
để dâng cúng tổ tiên. Còn trong hiện tại, ngày Rằm tháng bảy chủ yếu được hiểu
như là ngày của mùa báo hiếu đối với cha mẹ. Trong các chùa lớn nhỏ ở Hà Nội-
nhất là ở chùa Quán Sứ, lễ Rằm tháng bảy được tổ chức trang nghiêm và sinh
động, thu hút không chỉ phật tử tăng ni mà cả đông đảo người dân các tầng lớp.
Tết Trung thu còn gọi là Rằm Tháng
Tám, tức là tết Trông trăng. Dân gian có câu “Muốn ăn lúa tháng năm trông trăng
rằm tháng tám”- nghĩa là nhìn trăng mờ tỏ, trong đục mà nhà nông tiên đoán sự
được mùa hay mất mùa. Về sau, tết này trở thành tết của trẻ con. Sách xưa có
ghi rằng: có con cá chép vàng thành tinh, cứ đến Tết Trung thu thì nó hiện
thành người đi dỗ đàn bà trẻ con. Vua sai dân nhà nào cũng phải làm đèn cá bằng
giấy treo ở cửa nhà để nó trông thấy, nếu thấy giống nó thì nó đi, không đến
nữa, để dân được yên ổn. Từ đó về sau, cứ đến Rằm tháng Tám người ta lại bồi
giấy làm voi, ngựa, rồng, kỳ lân, sư tử…và các thứ đèn cá cho trẻ con rước
chơi. Do vậy, tục này cũng gọi là Tết Trẻ con. Đây là sự biến thể của một nghi
lễ nông nghiệp cổ truyền mang mầu sắc thần thoại. Trong Tết Trung thu, nhà nào
cũng ăn bánh trông trăng: bánh dẻo mặt trăng tròn, bánh nướng thập cẩm
cũng tròn, nên gọi là tết Trăng, tết Âm, cũng tức là tết Đàn bà. Mấy năm gần
đây, Hà Nội đã tổ chức Trung thu trong phố cổ một cách long trọng và đầy hấp
dẫn, thu hút trẻ em khắp các quận nội ngoại thành…
Hình
như mùa thu mới là lúc những trái quả ở nội ngoại thành Hà Nội phô diễn hết cái
sắc vị được tích tụ bằng nắng gió và tinh túy đất trời qua suốt cả mùa xuân,
mùa hạ. Đây đó thấp thoáng bóng người phụ nữ quẩy đôi gánh chung chiêng, bên
trong lấp ló những quả thị vàng mượt, những quả ổi tỏa mùi thơm thôn dã, bình
dị … Lúc này cũng là lúc, nắng mùa thu đang vẩy những đốm trứng cuốc vào trái
chuối tiêu, đang làm cho những quả hồng đỏ như môi mọng, na xanh biếc, bưởi
vàng mơ, nhãn nâu đậm đà…, và đặc biệt làm cho quả sấu vàng ươm, chua ngọt- một
lọai quả chỉ có ở Hà Nội, một loại quả len lỏi từ nhà hàng đặc sản đến bữa ăn đạm
bạc bình dân, hấp dẫn từ quí cô quí bà đài các đến em bé bán rong trên hè phố.
Và
nói đến mùa thu Hà Nội là phải nhắc đến cốm làng Vòng… Mỗi lần Hồ Gươm lăn tăn
ánh vàng nắng thu, thì phố phường Hà Nội lại thấy xuất hiện cái bóng dáng của
người gánh đôi thúng cốm Vòng tiến vào theo đường cửa ô Cầu Giấy. Đôi quang
gánh nhẹ như gánh mây chỉ có nắm rơm xanh mướt, chiếc lá sen hồ Tây to đùng đậy
hững hờ. Nếu nói rằng: cốm là một món ăn đặc trưng của nghệ thuật ẩm thực đất
Hà Thành, thì làng Vòng chính là cái nôi của món ăn đặc trưng này. Nhiều người
đã cảm nhận được một điều: mùa thu Hà Nội như trong hơn, tinh khiết hơn, nhờ
hương thơm từ những lò cốm làng Vòng… Những hạt cốm xanh ngọc trong đến nõn nà
mang hương trời khí đất, cả hồn quê và huyền thọai làng được bọc bằng lá sen
phảng phất hương thơm thóat tục, bên ngòai buộc thêm một vài sợi rơm không quá
chặt, không quá lỏng – trở thành một món quà dân dã mà quý của người Tràng An –
Hà Nội. Dù bán ít bán nhiều, những mẻ cốm làng Vòng bao giờ cũng ngon đặc biệt,
không pha tạp. Hạt cốm mềm, dịu dàng một vị ngọt tinh khiết thường được ăn kèm
với chuối trứng cuốc. Người Hà Nội thường nhâm nhi từng hạt cốm để cảm hết
hương vị trời, đất, đồng quê và nắng gió trong hạt cốm. Rất nhiều người xa xứ
khi thăm lại Hà Nội đều muốn hít hà hương cốm để tận hưởng cảm giác trở về đất
mẹ… Cốm còn được làm thành bánh chằng lên một múi lạt chữ thập nhuộm đỏ cánh
sen để gửi đến ngõ nhà người yêu, để đặt trên bàn tiệc cưới, đám hỏi…Có câu
chuyện kể về lai lịch cốm Vòng: từ rất lâu, vào một năm giáp hạt đói kém, một
gia đình ở làng Vòng thuộc phường Dịch Vọng – quận Cầu Giấy bây giờ, vì đói quá
nên phải lấy một nắm lúa nếp non rang lên để ăn tạm, thì thấy có hương vị thơm
ngon lạ lùng. Nhà nọ truyền tai nhà kia, và cốm Vòng ra đời từ đó. Các nhà văn
Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng đều có những trang viết thật hay về cốm làng
Vòng…
Tháng chín là tháng mà nhà văn Vũ
Bằng trong Thương
nhớ mười hai đã phải tự hỏi: ”làm sao đến tháng chín, có nhiều
cái thú ý nhị thần tiên thế nhỉ?” Trước
cảnh nhà trai đem hồng đỏ chói chang và cốm xanh biêng biếc đến sêu tết nhà
gái, nhà văn đã ngẩn ngơ: ”Nhìn những mâm hồng và cốm tốt đôi, ai cũng cảm thấy lòng mình nở hoa và
kính sợ tổ tiên ta hơn lên một chút, vì sao các cụ lại có thể lựa chọn tài đến
thế trong việc chơi màu sắc, đồng thời lại đem cho nhân duyên của trai gái một
ý nghĩa đậm đà đến thế…” Và không ai
miêu tả hấp dẫn hơn nhà văn Vũ Bằng cái thú săn chim ngói, và tục lệ cúng món
chim ngói hầm cùng cơm mới gạo Tám Cói ở đất Bắc – Hà Nội trong tháng cuối mùa
thu…
Đó
cũng là tháng của những cơn mưa bóng mây… Mưa bóng mây không chỉ là một hiện tượng
thời tiết quen thuộc của mùa thu, mà còn đi vào tâm hồn của người Hà Nội như
một sắc thái của tình cảm:
Khoảng trời em mưa thưa bóng mây
Mưa khó hiểu như tình ta buổi ấy
Cơn mưa giận, cơn mưa thương biết mấy
Nhớ nhung gì cho ướt áo người xa…
(
Thơ Quang Huy)
Nhưng
cơn mưa bóng mây đa tình đó cũng còn được gọi là mưa rươi.
Rươi là thực phẩm làm ra món chả
rươi – món ăn của “một thiên
nhiên chuyển mùa, đẹp đến não nùng, mê đến xôn xao trong dạ”, một món ăn mà người Hà Nội vốn sành ăn mê nhất– như nhà văn Băng Sơn từng khẳng định! Sinh thời, nhà văn
Nguyễn Tuân vào cữ rươi này thế nào cũng phải có mặt ở cái quán rươi ám khói ở
phố Huế, nhón hai ngón tay nâng chiếc chả rươi lên… Mùa rươi, cứ chiều chiều
lại có những phụ nữ bán rươi rong rao vang khắp phố phường những lời hối thúc,
mời gọi. Một cô gánh rươi đi trước, bà đứng tuổi đi sau tay cầm một cái bát
đong rươi, tay kia xách chiếc liễn nước để nhúng tay…Rươi nấu cùng củ cải, hoặc
cùi gấc xanh, khế mọng vàng, và không thể thiếu món đầu vị là vỏ quýt vàng ươm!
Cứ tầm tháng chín, tháng mười, khi đêm về, dọc vỉa hè Hà Nội có những cô bán
hàng nhanh tay đảo những hạt dẻ trên ánh than hồng. Có hai loại là hạt dẻ to và
hạt dẻ nhỏ. Mỗi loại có một vị thơm đặc trưng rất thú vị, và đều là thứ hạt dân
dã, mộc mạc – thứ hạt dù được chế biến thế nào cũng vẫn giữ nguyên được hương
vị đặc trưng của nó… Nó là món quà dành cho nhau của mọi lứa tuổi trong tiết
trời thu se lạnh đêm vắng, khi mà người ta cảm thấy cần hơn hơi ấm của người
thân. Đôi tình nhân, người cha, người mẹ, người chị…dừng xe mua hạt dẻ dù đã
muộn… Đây cũng là món quà vặt rất được các bạn sinh viên xa nhà ưa chuộng vì vị
thơm ngon và giá cả vừa phải…
Thu
Hà Nội còn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, nhạc họa từ xa xưa tới hôm nay.
Bài thơ Nôm Mùa thu của Ngô Chi Lan trongHồng Đức quốc âm thi tập dành trọn cho việc tả cảnh thu của kinh thành Thăng
Long
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Trong phần phim Mùa xuân Hà Nội,
chúng ta đã có dịp nói qua về Bà Huyện Thanh Quan khi dừng trước những con chim
sâm cầm Hồ Tây lặn ngụp. Chính bà đã có công trong việc phá bỏ lệ tiến cống
chim sâm cầm, trả lại cho Hồ Tây một vẻ đẹp hiếm có của thiên nhiên Thăng
Long- Hà Nội. Bà Huyện Thanh Quan còn là một nhà thơ người Long thành chính gốc
mà lịch sử văn học cổ – trung đại Việt nam buộc phải nhắc đến. Thơ của bà là
thơ mùa thu và chiều tà, và hầu hết đều mang một giá trị nghệ thuật đặc sắc. Bà
đã nhiều lần Ngơ ngẩn
lòng thu khách bạc đầu… Thời
gian mùa thu tượng trưng cho sự tàn tạ, và sự tàn tạ đó lại gắn với một không
gian đổ nát, hiu quạnh là kinh đô Thăng Long- lúc bấy giờ lại trở thành cố đô.
Mặc dù trĩu buồn về những cảnh tượng đó, nhưng thi nhân vẫn thấy được vẻ đẹp
của sự tiêu vong:
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Tâm trạng này cũng giống như của các
nhạc sĩ Hà thành như Văn Cao, Cung Tiến, Zoãn Mẫn trong những bài hát Tàn thu, Hương xưa, Biệt ly – đặc biệt là của thi sĩ nổi danh Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu – người huyện Ba Vì Hà Nội trong bài thơ Cảm thu tiễn thu:
Lá sen tàn tạ trong đầm
Lặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Nhưng đó là những mùa thu đã
xa…Trong những mùa thu nay của Hà Nội, nhà thơ đã nghe được hương cốm mới và trong vắt nói cười thiết tha ( Thơ Nguyễn Đình Thi). Những ngươì nghệ sĩ của thời
đại mới đã cảm nhận được trong mùa thu Hà Nội không chỉ vẻ đẹp kỳ diệu của
thiên nhiên mà còn cả cái sức sống vươn lên của một dân tộc sau khi Rũ bùn đứng dậy sáng lòa …
Cố
nhạc sỹ tài hoa Trịnh Công Sơn, bằng sự rung động của một tình yêu hết sức tinh
tế đã miêu tả thu Hà Nội trong hiện tại thật gợi cảm, và nói hộ nhiều người
từng yêu mùa thu Hà Nội qua giọng hát của ca sĩ Cẩm Vân:
Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ,
Nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu.
Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội,
Mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió,
Mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ,
Cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua.
Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi.
toàn bài hát kinh điển về mùa thu hà nội :)
Trả lờiXóa..............................................................................
Mr. Sỹ - Chuyên viên tư vấn giải pháp hội nghị truyền hình cho các doanh nghiệp
SDT:0909223007- 0918642886
Click để xem chi tiết:
hoi nghi truyen hinh | hội nghị truyền hình