Nhạc sĩ Phú Quang - Người con của Hà Nội, ngày trở về
Người con của Hà Nội, ngày trở về như thiên sứ đã
hoàn thành sứ mệnh. Nỗi niềm canh cánh, ấp ủ từ cõi xưa vọng về "Anh vẫn
chờ những điều chưa tới. Anh khát khao khát khao bình yên giữa gió gào…"
giờ đây đã có một kết thúc có hậu. Ông còn mong gì hơn nữa?!
Chẳng phải vô tình, Phú Quang được
mệnh danh là nhạc sĩ của Hà Nội, bởi ông đã sáng tác nhiều bài về Hà Nội và
những bài của ông mang đậm dấu ấn, phong vị Hà thành. Ông khắc khoải về một Hà
Nội êm đềm nhỏ bé là những câu ca không bao giờ cũ. Người yêu nhạc, yêu Hà Nội
có thể thấy ngay được “phong vị Hà thành” qua những ca khúc của Phú Quang như
“Em ơi Hà Nội Phố”, “Lãng đãng chiều đông Hà Nội”, “Chiều phủ Tây
Hồ”, “Nỗi nhớ mùa đông”, “Khúc mùa thu”...
Đó là hương hoa sữa, phố cổ mặc
trầm, từng hàng cây góc phố, lác đác lá thu vàng rơi, cơn mưa nhỏ chợt đến mùa
hạ…Tất cả, vướng vất mang hơi thở của một Hà Nội xa xưa quá vãng… Sự cuốn hút
kỳ lạ trong giai điệu, câu ca ám ảnh, bạn cũng như tôi có thể rong ruổi hàng
giờ trên từng con phố để say sưa cảm nhận "một Hà Nội ngây ngất nắng, một
Hà Nội run run heo may", hay thơ thẩn nuối tiếc "gió mùa đông bắc se
lòng, chút lá thu vàng đã rụng chiều nay cũng bỏ ta đi"… Còn trong tình
yêu, ông đã nói hộ tâm trạng của không ít người bằng những lời ca giản dị nhưng
cũng thật tinh tế: "Dù mai ngày cách xa mãi mãi diệu kỳ là tình yêu chúng
ta. Và ta biết một điều thật giản dị. Càng xa em ta càng thấy yêu em"…
Hẳn, định mệnh đã an bài cho ông,
khi sinh ra để trở thành nhạc sĩ của Hà Nội. Người nhạc sĩ rời đất mẹ vào thành
phố mang tên Bác để lập nghiệp, nhưng vẫn quay quắt về nơi mình lớn lên trên
phố Khâm Thiên cùng bao kỷ niệm thời thơ ấu.
Ông trải lòng viết: "Năm nào
cũng vậy, cuối thu đầu đông tôi lại trở về Hà Nội, để nói lời yêu thương và tỏ
bày nỗi nhớ bằng đêm nhạc của chính mình. Trong tôi, Hà Nội là nỗi nhớ thiết
tha, như một dòng sông không ngừng chảy, lúc êm đềm, lúc lại cồn cào con sóng.
Không hiểu sao càng có tuổi tôi càng nhớ nhung những ngày thơ ấu của mình. Hà
Nội ngày tôi còn bé đẹp và yên bình biết bao. Tôi vẫn thường cùng bạn bè chơi
thổi búp lá đa, bắt dế bỏ vào ống bơ và xem chọi dế. Tôi đã lớn lên bằng những
kỷ niệm của thành phố một thời bom đạn. Thời trai trẻ của tôi thuộc về Hà Nội.
Mối tình đầu của tôi cũng thuộc về Hà Nội. Ấy là người bạn gái trong trẻo thầm
lặng dành bánh mỳ luộc cho tôi mỗi sáng. Rồi chúng tôi đi qua đời nhau… Rồi
phút ngập ngừng đầu tiên ấy trở thành kỷ niệm. Và Hà Nội là nơi cất giữ quá khứ
dịu dàng của cuộc đời".
"Cuộc đời là dòng sông chứa
đầy nghịch lý" lời bài hát trong âm nhạc của ông như đã vận vào đời ông.
Yêu tha thiết Hà Nội đến vậy mà Phú Quang ra đi, chọn Sài Gòn để sống, để lập
nghiệp. Dù sống trong phồn hoa đô hội, ông vẫn không thể quên vùng đất nguồn
cội, vùng đất của một phần đời có bóng dáng người mẹ hiền, cùng những mối tình
dang dở. Nhạy cảm quá chăng?! Tố chất trong ông luôn là nỗi cô đơn bẩm sinh đeo
bám. Người nhạc sĩ đành nương vào âm nhạc, để thổn thức nỗi lòng.
Hà Nội chính là không
gian màu mỡ để ông có thể thỏa thê khóc cười, giăng mắc tình cảm. Ông dành viết
lời 30% trong số ca khúc của mình. Mảnh đất văn chương không đủ rộng để ông tải
nỗi thiếu hụt mênh mông, bỗng dưng như cơ duyên, từng ý thơ của thi sĩ đã gợi
lên trong ông những bản tình ca lãng mạn và sâu lắng. Người nhạc sĩ tài hoa đã
phù phép để biến bài thơ thành lời ca réo rắt có tiếng, có hình, và những tình
khúc bất hủ ra đời: “Dạ khúc”, “Đâu phải bởi mùa thu”, “Tình khúc 24”, “Dòng
sông không trở lại”, “Mơ về nơi xa lắm”, “Mùa thu và em”…
Tâm hồn đồng điệu của thi sĩ và nhạc sĩ cùng bắt nhịp, họ trở
thành tri kỷ trong âm nhạc và đôi khi cả ngoài đời. Chả thế mà ông tâm sự, nửa
thế kỷ gắn bó với nền âm nhạc nước nhà, nhưng ông chỉ có bạn thân trong giới
nhà thơ, nhà văn, họa sĩ còn đứng trong đám đông nhạc sĩ, ông cảm thấy mình bơ
vơ, lạc lõng… Người nhạc sĩ của những bản tình ca trong sáng, lãng mạn, có vô
khối nỗi niềm u uất chất chứa trong lòng.
Ngay từ khi còn là cậu bé con đã bị gán cho cái tội chả lấy gì làm
tốt đẹp là kiêu ngạo và khinh người, để phần đời sau đấy là chuỗi ngày "bi
kịch về lòng tin" đeo đẳng đến tận giờ. Để nói với cuộc đời, với chính
mình, ông trải lòng viết những câu tê tái thế này: "17 tuổi. Trong nỗi bức
xúc đến tuyệt vọng của tâm trí, trong sự chao đảo của lòng tin tôi đã viết tác
phẩm âm nhạc không lời đầu tiên. Viết ào ào như một gã khùng. Bất chấp những
định kiến, những ràng buộc của những thói quen hằn lên từ cuộc đời. Tôi viết để
vơi đi những dằn vặt từng đêm bởi một đời sống thiếu may mắn và quá nhiều éo
le". Đó chính là nhạc phẩm ballats "Niềm tin" viết cho violonxen
và piano vào năm 1967. Ngay khi nhạc phẩm này ra đời, đã khẳng định được vị thế
của cậu bé Phú Quang trong làng nhạc.
Phú Quang kể, ngày thơ bé ông đã khóc dưới sự tàn nhẫn của đồng
loại. "Mày là đứa trẻ hư. Mày kiêu ngạo. Mày ích kỷ. Mày sống biệt lập và
không hòa đồng. Mày không được đi đâu hết…" không chỉ một lần người ta đã
đổ từng ấy thứ vào đầu một đứa trẻ. Số là, năm 14 tuổi cậu bé Phú Quang viết
đơn xin đi nước ngoài học nhạc, tiêu chuẩn ở trường học có hạn, nhưng nhiều
người muốn đi, và người ta đã gán cho cậu từng đấy thứ. Suốt những năm ở trường
nhạc, Phú Quang đã 7 lần “xuất ngoại... hụt” (!?).
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương nhìn thấy cậu học trò có nhiều triển
vọng, chả có lý do gì để cậu phải oan uổng thế, ông đã đề nghị không thể đưa
Phú Quang ra xét tuyển, phải cho đi nước ngoài học nhạc. 10 ngày sau, ông quá
đỗi ngạc nhiên khi nhìn thấy cậu bé đang thơ thẩn ngoài đường: "Ơ! Tại sao
cháu còn ở đây?". Cậu bé buồn rầu: "Cháu không được đi đâu, bác
ạ". Thật ra, lần đó có công văn cử Phú Quang đi học nhạc ở nước ngoài,
nhưng ai đó đã giấu công văn đi.
Một lần khác, xảy ra vào lần thứ 6 đi học nước ngoài hụt. Vào học
trường nhạc, Phú Quang học lớp kèn "cor", thầy giáo dạy kèn gặp cậu
học trò bảo: "Phú Quang à, nếu trò ra nước ngoài học nhạc thầy sẽ rất ủng
hộ em". Nhưng, cũng chính người thầy này sau khi biết nếu Phú Quang không
đi thì mình sẽ được thế vào chỗ đó, nên trong cuộc họp xét tuyển đã đổ bao
nhiêu tội xấu xa lên đầu cậu học trò. Hiệu trưởng trường nhạc, nhạc sĩ Tạ Phước
nói với thầy dạy kèn: "Anh đi rồi, ai sẽ dạy kèn thay anh". Thầy giáo
dạy kèn chỉ vào Phú Quang "Đây, cậu này có tài lắm, rất thông minh…".
Nghe xong nhạc sĩ Tạ Phước giận lắm bảo: "Anh đã bảo thằng bé không có đủ
tư cách đi nước ngoài thì làm sao thằng bé còn có thể đứng trên bục giảng làm
thầy được"… Sau đấy, nhạc sĩ Tạ Phước, gặp Phú Quang an ủi: "Bác biết
là cháu chịu nhiều bất công, cháu không có gì phải sợ hãi cả. Cháu có thể không
được đi học nước ngoài, nhưng cháu cứ tin bác đi, người như cháu dứt khoát sẽ
thành công...".
Cuộc đời của ông đến 6 lần bị "tuyên án tử hình" vì căn
bệnh ung thư. Đã lâu, những đốt xương ở khớp tay, ở lưng của ông trồi lên những
cục thịt cứng ngắc. Nó lan ra từng mảng, bác sĩ xác định ông bị căn bệnh vô
phương cứu chữa. Mãi sau này ông mới biết bác sĩ đã chẩn đoán nhầm. Cuộc sống
không yên ả, những cơn sóng gồ ghề, những đoạn lồi khúc khuỷu, người nhạc sĩ đã
tựa mình vào người tình âm nhạc, để cứu rỗi tâm hồn xanh xao vì buồn phiền.
Cách đây vài năm, gặp ông, tôi nhớ ông đã từng ao ước: "Rồi
khi tôi không còn bôn ba được nữa, tôi sẽ trở về Hà Nội sống yên bình trong một
góc nhỏ bình dị nào đó, để được nghe nhịp đập của thành phố và mường tượng lại
tuổi thơ mình…". Nỗi mong mỏi được cất cánh thành lời: "Cơn gió lang
thang về chốn quê nhà… Về đây bên nhau cùng bao buồn vui. Sau những tháng năm ở
chốn quê người". Câu ca trong âm nhạc của ông như những lời tiên tri dự
cảm điều sẽ xảy đến trong tương lai, sau đổ vỡ của cuộc hôn nhân thứ nhất giờ
đã ở tuổi 60 ông lại trở ra thủ đô để làm hai việc lớn lao, to tát của đời
người là làm nhà và lấy vợ.
Cũng thật vô tình sau hàng chục năm người nghệ sĩ "lang thang
hoài trên phố, bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi một con đường…", sau nhiều lần
dịch chuyển thì tết năm nay, tìm được bến đỗ an toàn và hoàn hảo. Tổ ấm của
ông, trú ngụ ở nơi đầy chất nhạc, đó là ngôi nhà 110m2 tại
đường Âu Cơ, phường Tứ Liên, ngay sát bờ sông Hồng. Từ dinh cơ này, người nghệ
sĩ thỏa sức ngắm, "sương giăng đỉnh núi mờ xa…" của Ba Vì trập trùng,
rồi lại "tắm mình" trong dòng sông Hồng đôi bờ cát trắng, và không
còn khắc khoải vào mỗi chiều đông, lòng tự hỏi lòng khi "làm sao về được
chiều đông, để nghe chuông chiều xa vắng", bởi quanh nhà là vườn đào Nghi
Tàm, quất Nhật Tân và những ngôi chùa cổ hiện hữu, không gian tĩnh tại để cho
người nhạc sĩ phiêu diêu thả hồn mình bồng bềnh cõi Phật như lời bài hát của
ông.
Người con của Hà Nội, ngày trở về
như thiên sứ đã hoàn thành sứ mệnh. Nỗi niềm canh cánh, ấp ủ từ cõi xưa vọng về
"Anh vẫn chờ những điều chưa tới. Anh khát khao khát khao bình yên giữa
gió gào…" giờ đây đã có một kết thúc có hậu. Ông còn mong gì hơn nữa?!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét