Văn hóa ứng xử người Việt thể hiện
Bài viết đặt ra vấn đề ứng xử văn hóa theo truyền thống thông
qua mối tình cụ thể là tình yêu Kim - Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn
Du. Có kết hợp phân tích so sánh chi tiết giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện
để thấy những nét ứng xử khác biệt giữa hai tác phẩm. Đó cũng là nét đẹp nhân văn
tạo nên sức sống lâu bền của tác phẩm.
Tự thuở nào tình yêu đã lên tiếng, đã mời gọi, đã ru lòng người
bằng bao cung bậc bổng trầm. Có một mối tình đẹp đi qua cuộc đời đó là vạn
phúc, đó là hương hoa, đó là thơ dâng trào, đó là nhạc vút cao…Ai chưa nếm trải
chưa phải là người sâu sắc tình đời. Nguyễn Du đã mang một trái tim yêu đi suốt
cuộc đời để gieo rắc nỗi sầu cho nhân thế, để cắt cứa thêm lòng đau, để dài
thêm nhung nhớ nhưng cũng để cho khúc hát tình yêu tuyệt vời tiếp tục vút cao,
vang xa…
Như một người đi trước thời đại, Nguyễn Du không nói chuyện
cao đạo, không theo khuôn lồng chật hẹp của Nho giáo phong kiến, ông một mình vẽ
ra một chân trời mới, một hướng bay mới. Chân trời mới ấy, hướng bay mới ấy
cũng lênh đênh, gập ghềnh, cũng khúc khuỷu nhục vinh, cũng cay đắng tình đời…nhưng
quan trọng là con đường ấy đi đến yêu thương và ở đó có những con người với những
ứng xử sâu sắc, với những nghĩ suy cao thượng, với những cảm xúc nhiệt thành. Kết
thúc của tình yêu có thể buồn, có thể không hạnh phúc nhưng tình yêu dẫn con
người đến hạnh phúc, đến cách sống cao đẹp ở đời. Có lẽ đó cũng là nét đẹp ngàn
đời của truyền thống văn hóa Việt mà thế giới ngày nay dù có hiện đại đến đâu
cũng không thể xóa nổi.
Buổi đầu hội ngộ của tình yêu lứa đôi thường là những hình ảnh
thăng hoa trong thơ ca. Ca dao xưa đã mời gọi tình yêu bằng những lời lẽ hết sức
trang trọng, hết sức tin yêu:
- Cô kia đứng ở bên sông
Muốn sang anh ngã cành hồng cho sang
Mời gọi và bày tỏ cảm xúc của mình
- Người về em vẫn trông theo
Trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi
- Nhìn em chẳng dám nhìn lâu
Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi.
Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi.
Táo bạo, hóm hỉnh, duyên dáng để tiến tới một dự định nào đó:
- Yêu nhau một cái lá đa
Nửa nằm nửa đắp hơn nhà năm gian.
- Tình cờ anh gặp em đây
Như cá gặp nước như mây gặp rồng.
Nửa nằm nửa đắp hơn nhà năm gian.
- Tình cờ anh gặp em đây
Như cá gặp nước như mây gặp rồng.
Mây gặp rồng mây lồng cuồn cuộn
Cá gặp nước con ngược con xuôi.
Chồng nam vợ Bắc anh ơi!
Sao anh chẳng lấy một người như em?
Cá gặp nước con ngược con xuôi.
Chồng nam vợ Bắc anh ơi!
Sao anh chẳng lấy một người như em?
Tình yêu trong Truyện Kiều cũng có cái dịu dàng đằm thắm: “Trẻ
thơ đã biết đâu mà dám thưa/ Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha” nhưng cũng có
cái mãnh liệt táo bạo “Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường/ Xăm xăm băng lối
vườn khuya một mình”, có cái ngập ngừng e thẹn “Thưa rằng đừng lấy làm chơi”,
nhưng cũng có cái hồn nhiên bản năng: “Sóng tình dường đã xiêu xiêu/ Xem trong
âu yếm có chiều lả lơi”, rồi cũng có cái khôn ngoan giữ gìn “Vườn hồng chi dám
ngăn rào chim xanh/ Còn thân còn một đền bồi có khi”…
Tình yêu trong Kim Vân Kiều truyện nghiêm chỉnh và khắt khe
hơn. Mọi vấn đề đặt ra dường như đã được định sẵn, khuôn sẵn, nhân vật chỉ cần
phát ngôn theo định hướng đó mà thôi. Tuy nhiên cũng có những chỗ dường như mâu
thuẫn trong xây dựng tính cách nhân vật. Ví dụ một số chi tiết: Kiều lớn tiếng
trách cứ Kim Trọng khi chàng “lách mình qua khe núi giả ôm gọn Thúy
Kiều” cho bõ những ngày tơ tưởng tưởng tơ, nhưng lại tự nhiên khóc nức nở “nằm
ngả vào lòng chàng” khi tâm sự với chàng về phận bạc, về việc trời xanh
ghét ghen tài sắc… Nằm ngả vào lòng chàng trai mới quen e rằng không phải là điệu
bộ, cử chỉ của một cô gái gia phong, nề nếp. Và cô cũng không ngần ngại chìu
chuộng một kẻ không ra gì như Sở Khanh “trai tham gái luyến dắt nhau lên giường
cùng vào giấc mộng mây mưa say tỉnh”. Với chi tiết này dễ khiến người đọc thấy
tâm lý “không còn gì để mất” của Kiều, và như thế thì phải xem lại tư cách cô
gái “Tường đông ong bướm đi về mặc ai”. Còn với Thúc Sinh, một khi nàng đã có
quá nhiều kinh nghiệm trong chốn lầu xanh thì “ân ái đêm đó chắc sẽ mặn nồng”.
Và ở đoạn cuối khi Kim Kiều hội ngộ, chúng ta cũng thấy mâu thuẫn lộ ra khi
Thanh Tâm tài nhân đã để cho Kiều đồng ý (hay nói cách khác là không phản
ứng) khi Kim “khẽ tay nới rộng đai lụa, cởi hộ áo là, đỡ nàng vô màn uyên ương,
bàn tay xoa xát tới chỗ tình nồng, dần dần tỏ ý tham hương tiếc nhụy” rồi sau
đó lại căng thẳng với chàng, lên giọng đạo đức về chữ trinh. Lạ thật, người Việt
chắc không hành xử như vậy.
Cũng không phải chỉ trong Kim Vân Kiều truyện mà trong những
tác phẩm khác của Trung Quốc như Kim Bình Mai (quan hệ giữa Tây Môn
Khánh với Phan Kim Liên và nhiều phụ nữ khác..), Hồng lâu mộng(chuyện tình
của chàng Bảo Ngọc với cô gái, chuyện Vương Hy Phượng và Giả Thụy…), Liêu
trai chí dị (truyện Thanh Phượng, Truyện Hoa cô Tử), Tiễn đăng tân thoại (Chiếc
đèn Mẫu đơn, lầu Liên Phượng, Cô gái áo xanh, Chiếc thoa vàng hình chim phượng…)…
Quan hệ nam nữ trong những tác phẩm này hầu như rất cởi mở, rất thoáng theo
nghĩa quá tự do không có giới hạn, nhất là không cần gìn giữ. Có vẻ như những mối
quan hệ này không phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của người Việt. Văn học Việt
Nam ta ảnh hưởng văn học Trung Quốc nhiều nhưng những gì thuộc về truyền thống,
về bản sắc thì người dân Việt vẫn cố gắng duy trì hay nói khác hơn cái gì thuộc
về tâm thức thì khó có sự thay đổi. Chính điều đó làm nên sự khác biệt về lối
suy nghĩ, cách thể hiện, thói quen hành động… nói chung là ứng xử văn hóa giữa
hai dân tộc. Tất nhiên sự khác biệt này phải nhìn lâu mới thấy, nó chỉ là những
lằn ranh vô cùng mong manh, có nghiền ngẫm kỹ mới thấu hết được.
Ngay từ buổi bình minh của chế độ phong kiến, có quá nhiều những
điều cấm kỵ, những điều ràng buộc nhưng người ta vẫn có cách để thể hiện tình
yêu
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ qui
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi (Xuân hiểu - Trần Nhân Tông)
(Ngủ dậy mở cửa sổ ra xem/ Không biết xuân đã về rồi/ Một đôi
bươm bướm trắng/ Vỗ cánh bay sấn tới cành hoa)
Cảnh gợi tình hay lòng người đang đuổi theo giấc mơ tình yêu
sóng đôi. Bươm bướm đang vờn hoa hay hoa đang làm nền cho không gian thêm đầy
thi hứng để đón bướm đa tình? Người đọc cũng sẽ mở lòng ra để đón nhận khung cảnh
tự tình và say sưa dõi theo lứa đôi đang tình tự. Cái chính ở đây là cách bộc lộ
tình yêu nhẹ nhàng, sâu lắng, kín đáo…qua lớp rào chắn ngôn ngữ bác học
Nguyễn Trãi, một ông quan mẫu mực nghiêm chỉnh cũng không
tránh khỏi có lúc để lòng mình xao động vì một tàu lá chuối non.
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem (Cây chuối)
Nhưng cái xao động kia nấp dưới cây lá, nấp dưới sự chuyển động
của gió, của xuân. Tàu lá chuối non kia sẽ mãi mãi chỉ là lá chuối non nếu
không có ai viết lên nó bức thư tình còn tươi nguyên nét mực và gió cũng sẽ mãi
chỉ là gió nếu không có động tác gượng nhẹ sẽ sàng nhón giở từng chút một cái bức
thư tình e ấp thẹn thùng kia. Cho nên tàu lá chuối non tơ và chàng gió thanh lịch
tạo điều kiện cho người đọc tưởng tượng thêm. Và Nguyễn Trãi ngoài những điều
ai cũng biết: một nhà chính trị lỗi lạc, nhà ngoại giao tài tình… ông còn là một
khách đa tình. Và con người đa tình ấy không phải ai cũng dễ nhận biết vì những
lời thơ đã được che chắn cẩn thận bằng những hình ảnh ví von, ẩn dụ…thanh
thoát, mang nét đẹp thẩm mỹ Việt.
Nguyễn Du cũng vậy, dù tư tưởng hết sức mới, ông đã đi trước
thời đại một cách đáng kính phục nhưng ông vẫn để cho nhân vật của mình thể hiện
những tư tưởng mới đó dưới hình thức kín đáo, tế nhị chứ không hề quá lố hay kệch
cỡm đến mức thô vụng
Trong buổi đi chơi thanh minh, Kim, Kiều đã gặp nhau và tiếng
sét ái tình đã đánh trúng họ, nhưng ánh mắt của người quốc sắc cũng chỉ dám
nhìn theo hút bóng kẻ thiên tài dù “Tình trong như đã …” chứ không hề có một
cử chỉ kém tao nhã hoặc một lời nói bóng gió xa xôi nào.
Trong lần Kiều sang nhà Kim tình tự, hai người đã có những kiểu
cách ứng xử phù hợp. Chàng Kim xem trong âu yếm có chiều lả lơi thì
cũng là một điều tự nhiên, bởi lẽ chàng Kim nếu không “xiêu xiêu” thì người ta
có thể tưởng nhầm chàng có “vấn đề” trong hoàn cảnh “Dải là hương lộn bình
gương bóng lồng” đầy gợi tình như thế. Và Kiều, với cách Kiều nói trước đây “Nên
chăng thì cũng tại lòng mẹ cha”, “Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa” thì không thể
nào Kiều không can ngăn chàng Kim dù nàng cũng yêu chàng xôn xao quấn quýt,
cháy bỏng không kém. Nhưng quan trọng là những lời ngăn đón ấy lại là những lời
hết sức chân tình chứ không phải là những lời rao giảng đạo đức cứng nhắc như
cô Kiều của Thanh Tâm tài nhân. Và điều đó cũng phù hợp với cách nhìn, cách
nghĩ, cách ứng xử theo truyền thống của dân tộc Việt. Chuyện hệ trọng cả đời
người không dễ gì đổi trao mà không đắn đo suy tính. Tự ngàn xưa người Việt đã
suy nghĩ như vậy, làm như vậy thì các thế hệ sau cũng được truyền dạy như vậy.
Kiều được xây dựng như một mẫu người yêu đương tự do, nhưng
không phải tự do quá trớn. Bước chân của nàng đến với tình yêu rất hồn nhiên, rất
mạnh bạo nhưng như đã nói nàng rất biết giữ gìn. Việc giữ gìn ấy người con gái
nào cũng phải biết, với một nàng Kiều luôn có ý thức càng thấy rõ hơn ai hết.
Cho nên dù Kiều mạnh bạo vượt rào sang nhà người yêu nhưng ai cũng nễ phục nàng
khi nàng biết nói những lời từ chối mà không làm chạm tự ái chàng Kim.
Nỗi nhớ nhung trong tình yêu cũng là một điều đáng quan tâm.
Người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm hơn ai hết ngân nga tiếng lòng chờ mong,
hoài vọng, trăn trở, xót xa, ai oán…để gửi hết tâm tư vào hình ảnh của người chồng
thương yêu đang ở ngoài xa vạn dặm đồng thời cũng trút hết nỗi niềm khát khao
cháy bỏng vào cuộc đời đầy biến động đang có khả năng gây ra những đau thương,
mất mát, chia lìa…cho hạnh phúc của cô. Người cung nữ trong Cung oán ngâm cũng
mong chờ đấng quân vương, người tình trong mộng của nàng một lần trở lại để
cùng với nàng hát khúc tương phùng nối tiếp cái quá khứ vàng son một thuở “Bóng
dương lồng bóng trà mi trập trùng” dù đó là điều khó có thể trở thành hiện thực. Những
cung bậc nhớ thương ấy nào dễ gì được bày tỏ trong xã hội phong kiến khi mà đạo
đức Nho giáo dạy phụ nữ phải phu xướng phụ tùy, phải cử án tề mi.
Nỗi nhớ của người bình dân có phần mạnh mẽ và cụ thể hơn
- Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai
- Anh đi đường ấy xa xa
Để ai ôm bóng trăng tà năm canh
- Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai ai có nhớ mình chăng ta
- Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này
- Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
- Đêm qua ba bốn lần mơ
Chiêm bao thì thấy dậy sờ chiếu không
Nguyễn Trãi cũng thể hiện nỗi nhớ bằng những lời thơ nồng
nàn, không kém phần cồn cào da diết:
Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm mà thương kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ
Cả lòng mượn lấy đắp cho cùng (Tích cảnh 10)
Trong tình yêu Kim, Kiều, những đoạn Kiều nhớ nhà suốt mười
lăm năm lưu lạc làm mủi lòng người đọc. Kiều nhớ gia đình, nhớ người thân và nhất
là không lúc nào nguôi quên hình bóng người con trai “Hài văn lần bước dặm
xanh. Một vùng như thể cây quỳnh cành dao” của buổi đầu. Tự bao giờ trái tim
yêu của Kiều đã khắc ghi hình ảnh ấy.
Nhớ lời nguyện ước ba sinh
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai…
…Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Lời thơ đơn giản tưởng chỉ là nỗi nhớ nhưng vọng từ trong sâu
thẳm là một nỗi niềm khao khát dâng trào.
Kim Trọng cũng thế, chàng chẳng đã là người tình tri âm tri kỷ
của nàng Kiều đó sao? Nỗi nhớ của chàng về người yêu đã ra đi biền biệt suốt mười
mấy năm trời cũng có kém gì nàng. Sống với Thúy Vân mà chưa lúc nào chàng nguôi
quên Kiều (Đây cũng là chỗ mà người đời thương Vân và nói nhiều đến cảnh đồng
sàng dị mộng trong cuộc sống vợ chồng của Vân):
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ
Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng
Có khi vắng vẻ thư phòng
Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa
Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ
Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm
Dường như bên nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng
Đây là nỗi nhớ của chồng đối với vợ, của tình nhân đối với
tình nhân, của người “Đã quen thuộc nết càng dan díu tình”. Cho nên chàng nhìn
đâu cũng thấy nàng “bên nóc, bên thềm”, “bóng xiêm mơ màng” lúc ẩn lúc hiện.
Càng xa càng nhớ, “Tương kiến thời nan biệt dịệc nan” (càng khó gặp nhau càng
khó biệt nhau- lời thơ của Lý Thương Ẩn). Và cũng không chỉ là nỗi nhớ của tình
yêu trai gái mà còn trắc ẩn một niềm thương nhân thế: thương nàng phải bước lưu
ly, thương nàng chịu nhiều oan khuất, thương nàng bèo nước nổi trôi…“Nghĩ mình
vinh hiển thương người lưu ly/ Xót thương chiếc lá bơ vơ/ Một nhà vinh hiển
riêng oan một nàng”. Cũng chính vì thế dù yêu Kiều đến đâu, tha thiết muốn
gắn bó vợ chồng với nàng đến đâu, Kim cũng sẵn mối tương giao để chìu theo ý
nguyện của nàng, làm yên lòng nàng, khi thấy nàng đã quyết tâm đem tình cầm sắt
đổi duyên cầm kỳ. Yêu không có nghĩa là cùng sống chung trong một mái nhà, cùng
ăn, cùng ngủ…mới là yêu. Những toan tính thấp hèn không thể có mặt trong tình
yêu, lại càng không được đem những tham vọng riêng tư để chiếm hữu người mình
yêu. Yêu là cho chứ đâu phải chỉ có nhận? Trong Kim Bình Mai, Liêu trai chí dị,
Hồng lâu mộng của Trung Quốc…hầu như vắng bóng tình yêu kiểu này, ở đấy chỉ
toàn là những chiếm hữu về mặt thân xác, những khát vọng nhục cảm… Có lẽ do thị
hiếu thẩm mỹ của từng địa phương chăng?
Tính cao thượng trong tình yêu cũng là một đặc tính nổi trội
trong ứng xử của người Việt. Tình yêu trọn vẹn là đủ đầy cả hai yếu tố vật chất
lẫn tinh thần nhưng đôi khi điều đáng quý trọng lại nằm trong cách hành xử của
con người chứ không phải ở xác thân vật chất. Điều này được Nguyễn Du thể hiện
rõ qua hình ảnh lý tưởng Kim, Kiều.
Kim hoàn toàn xem nhẹ chữ trinh của lễ giáo phong kiến, chàng
nghĩ chữ trinh có ba bảy đường và chỉ riêng lòng hiếu cũng đủ để thay
thế chữ trinh rồi. Huống chi dân gian ta từng nói:
Mình nói với ta rằng mình còn son
Ta đi qua cửa thấy con mình bò….
Chàng trai trong câu ca dao mới đáng yêu làm sao khi có hành
động mà chắc gì chàng quân tử thắm nhuần đạo đức phong kiến nào dám làm
Con nàng những trấu cùng tro
Và cũng trong dân gian, có một quan niệm rất lạ và rất mới có
lẽ xuất phát từ cái tâm bao la, bồ tát
Giữa đường nhặt cánh hoa rơi
Hai tay nâng lấy cũ người mới ta (Ca dao)
Suốt từ khi gặp lại nàng Kiều, người đọc chưa thấy bất cứ một
lời trách móc nào của chàng Kim về chuyện quá khứ của nàng (trừ lúc trách nàng
quên lời thề, hay không còn yêu chàng nữa: Khách qua đường để hững hờ
chàng Tiêu…). Chàng chỉ muốn dang rộng tay đón người cũ chứ chưa bao giờ có ý
coi khinh nàng:
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Bởi lẽ Kim theo cách của dân gian mà nhìn nhận sự việc: “Mà
trong lẽ phải có người có ta”. Đó chính là lẽ phải của người dân Việt. Lẽ phải
đó có khi trùng khít với lễ giáo phong kiến nhưng thực ra nó thuộc về truyền thống
văn hóa Việt. Thế nào là lẽ phải? Lẽ phải dựa trên nguyên tắc làm người, thiện
ác, tốt xấu, phải trái phân minh và đã thành chân lý “Nói phải củ cải cũng
nghe”. Đồng ý là trong Kim Vân Kiều truyện chàng Kim cũng nói những lời này
nhưng đó chỉ để biện hộ và cốt làm nổi bật một cô Kiều “không phải là hạng yếm
khăn, mà là một người trong đám hào kiệt”. Nguyễn Du không hề có ý định để Kiều
nổi bật theo hướng này.
Hồi kết cuộc “Tình nhân lại gặp tình nhân…”, Kiều lặng lẽ “Bâng
khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa” là để đắn đo thuyết phục Kim lần cuối nên
ngay trong cách nói, thái độ, dáng vẻ…vẫn thấy nàng luyến lưu thực sự “Mười lăm
năm mới bây giờ là đây/ Tình duyên ấy hợp tan này/ Dưới đèn tỏ dạng má đào thêm
xuân”… Yêu nhau từ mười lăm năm trước đến bây giờ mới thấy đây, bây giờ mới được
tự do cận kề, tay trong tay, mắt chìm trong mắt. Không gian ấy là không gian hạnh
phúc. Trái hạnh phúc đang treo trước mắt chờ đón Kiều, có lẽ nào Kiều không còn
chút tình cảm với Kim? Có lẽ nào “Mùi thiền đã bén muối dưa/ Màu thiền ăn mặt
đã ưa nâu sòng/ Sự đời đã tắt lửa lòng…”? Chẳng qua đó chỉ là cách nói. Còn nhiều
lắm, đong đầy hơn bao giờ hết, Kiều đã già đâu để phải đi tu? Nhưng cũng chính
vì thế mà Kiều buộc mình phải từ chối. Còn đâu nữa cái thời xuân sắc, còn đâu nữa
cái trong ngọc trắng ngà, còn đâu nữa buổi đầu e ấp, thân xác nàng bây giờ đã
là “hoa dưới đất, hương cuối mùa”, còn yêu nhau nữa “là thù đấy thôi” là “người
yêu ta xấu với người”…Đó là điều “buồn cả ruột, dơ cả đời”, và “hay gì vầy
cánh hoa tàn mà chơi”…? Cho nên tại sao không giữ gìn một chút gì còn sót lại?
Những cảm xúc ngất ngây buổi đầu, những xao xuyến cứ buộc vào
xao xuyến khi ánh mắt chạm nhau, lời thề trăm năm có vầng trăng chứng giám, sự
trân trọng dấu yêu nắng giữ mưa gìn… Quá khứ vàng son ấy sao nỡ vùi lấp nó bằng
một thân xác hoa tàn? Kiều xót xa lắm, đau đớn lắm, đau đến đứt ruột khi phải
chôn chặt trái tim yêu tận đáy lòng để cầm cho vững một chút trinh còn sót lại.
Đó là bi kịch sâu thẳm nhất nhưng cũng là đáng trân trọng nhất. Sự tin yêu, thấu
hiểu nhau, kính trọng nhau đặt vào đúng cái tâm cao thượng của nàng Kiều. Nàng
chối từ hạnh phúc, chìm ngập trong niềm đau chất ngất nhưng người đọc nâng niu
nàng như báu vật bởi vì nàng chính là hiện thân của hạnh phúc, nàng đã chỉ ra hạnh
phúc cho bao người. Nguyễn Du cũng đứt từng khúc ruột khi để cho nàng Kiều trở
thành cái bóng suốt đời đi bên cạnh hạnh phúc của Kim và Vân nhưng ông không thể
làm khác được. Muốn nâng cao giá trị nàng Kiều ông đành phải để cho nàng đi
theo cái tâm cao thượng và đó cũng là con đường tự nhiên nhất, hợp lý nhất theo
lối ứng xử của người Việt.
Trong con mắt của mọi người trong gia đình, Kiều là người biết
nghĩ, biết hy sinh và cái hy sinh này quá lớn. Bán mình không chỉ mười lăm năm
mà là cả cuộc đời và đó là nỗi đoạn trường mà Kiều phải theo cho đến hết kiếp.
Trong con mắt người đọc chúng ta, cái tên Đoạn trường tân thanh mà tác giả cố
tình đặt cho đứa con tinh thần của mình quả là đã chuyển tải được hết điều mà
Nguyễn Du muốn gửi gắm. Người đã từng bênh vực cho Dương Quý phi mà mắng cả triều
đình “…như phỗng đứng” (Dương phi cố lý), đã từng xót xa cho người phụ nữ vọng
phu hóa đá phải “một mình đứng trên đầu núi hàng nghìn năm, để muôn kiếp không
biết tới giấc mộng mây mưa…”(Vọng phu thạch) thì không thể bằng lòng để cho người
con gái đa tình, đa sầu, đa cảm, hiếu nghĩa đủ đường kia phải chôn đời mình giữa
tiếng mõ hồi kinh khi khép lại Truyện Kiều. Nguyễn Du kết thúc Truyện Kiều theo
kết thúc của Thanh Tâm tài nhân nhưng đằng sau trái tim đau đời của ông hình ảnh
một nàng Kiều nhan sắc chưa bao giờ nhạt phai và tiếng khóc của nàng Kiều cũng
chưa bao giờ dứt. Hậu thế vẫn dõi theo nàng. Cánh cửa phòng thu khép lại rồi
nhưng lối thiên thai thuở nọ vẫn còn kia, am nhỏ vẫn mỗi ngày vọng về tiếng
chuông sâu thẳm nhưng con đường tu chắc gì đón được bước chân hăm hở say mê yêu
đời (xăm xăm, thoăn thoắt) thuở nào, đàn đã cuốn dây rồi đấy nhưng âm thanh réo
rắt của buổi đầu trao nhau làm sao dứt được, duyên đôi lứa đã thành duyên bạn bầy
rồi đấy nhưng khối tình đã tan được chưa?... Trong khi đó “Thừa gia chẳng hết
nàng Vân”. Tất cả mọi thứ đều thuộc về Vân, chồng là chồng của Vân, con là con
của Vân, hạnh phúc còn nguyên đó là hạnh phúc của Vân… Kiều có còn gì đâu ngoài
tâm hồn mong manh, vật vờ như khói, như sương… khác gì Đạm Tiên?
Thương cảm nàng Kiều người đọc cũng đau đứt ruột cùng Nguyễn
Du. Thương mà cảm, cảm để rồi bái phục. Bái phục sự cao thượng cũng như cách ứng
xử tuyệt vời của nàng Kiều. Bái phục Nguyễn Du cái tài “dĩ tâm truyền tâm”, tài
lấy đi không biết bao nhiêu nước mắt người đời, tài tạc tượng Kiều trong mắt
bao thế hệ. Người đời khóc thương Kiều, tương giao tương cảm cùng Nguyễn Du
cũng chính bởi Nguyễn Du đã từ lòng dân tộc mà xây dựng nên Kiều, khóc Kiều bằng
chính con tim, khối óc, bằng cách ứng xử truyền đời của dân tộc.
Tài liệu tham khảo:
Truyện Kiều đối chiếu - Phạm Đan Quế, NXB Giáo Dục, năm
2003.
Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc bộ
qua một số ca dao tục ngữ - Trần Thúy Anh , NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội,
2004.
Tâm lý học ứng xử - Lê Thị Bừng, NXB Giáo Dục, Hà Nội,
1998
Văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt Nam - Lê Văn
Quán, NXB Trẻ, 2007.
10/8/2011
Lê Thu Yến








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét