Thứ Năm, 20 tháng 9, 2018

Nguyễn Bính và và con đường trở thành “Người của ngày mai”

Nguyễn Bính và và con đường 
trở thành “Người của ngày mai”
1. Một con người
Nguyễn Bính có bài thơ Người của ngày mai mà lời thơ như lời tự vận vào bản thân: “Một tâm hồn bao trùm vũ trụ/ Trái tim đau nhưng thương cả loài người”. Ông đã từ một nhà thơ lãng mạn trở thành nhà thơ cách mạng.
Quả vậy, Nguyễn Bính đã hướng về tương lai, là người của ngày mai. Ngày mai của cuộc đời mới. Ngày mai của văn nghệ cách mạng. Cùng với thế hệ đương thời, nhà thơ đã được “đổi đời” và “đổi thơ”. Nhà thơ đã  “đi đến”, “đi cùng” và  “đi đến cùng” với cách mạng.
Con đường cách mạng của Nguyễn Bính - có thể nói như vậy, là một con đường tiêu biểu thật đẹp của một nhà thơ dấn thân vì đại nghĩa trong thời đại mới.
2. Một hành trình
Từ nhà thơ lãng mạn được chỉ lối mở đường…
Nhân tố quan trọng lớn nhất, có tính chất quyết định đời thơ Nguyễn Bính, cũng như thế hệ văn nghệ sĩ tiền chiến chính là công cuộc cách mạng. Tuy nhiên, để gặp gỡ và đi cùng cuộc đời mới, những thân phận nô lệ đã có sẵn một ý thức dân tộc thật mạnh mẽ, lòng yêu nước thầm kín và hết sức thiết tha.
Thời Thơ mới với nhiều nhà thơ là thời thấm đượm hồn dân tộc. Từ trong căn cốt tâm hồn của một thế hệ là sự thức tỉnh quốc hồn trước sự áp chế tinh thần và đè nén với sức mạnh thôn tính của phong trào Âu hoá. Thi sĩ “chân quê” Nguyễn Bính là một trong những người sớm có ý thức gìn giữ cái hồn xứ sở và có những sáng tác đậm đà hồn quê, tình quê như hồn Việt thiêng liêng. Ý thức tâm hồn dân tộc từ cảm nhận đến thể nghiệm là một trong những sức mạnh tinh thần lớn lao của nhà thơ. Nó có sức níu giữ nhà thơ ngay trước những thử thách gay cấn, hiểm nghèo nhất. Nguyễn Bính khi lưu lạc vào Nam đã từng bị địch bắt giam trong bót cảnh sát, và từng bị dụ dỗ chiêu hồi trong nhiều trường hợp với giá thật cao bằng cả một gia tài đồ sộ!
Từ khi tham gia Việt Minh và Văn hóa Cứu quốc, cũng như bè bạn, đồng chí giác ngộ ở miền Bắc (Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Quốc Uy,...) Nguyễn Bính đã khẳng định được lý tưởng mới - lý tưởng cách mạng và lý tưởng văn nghệ cách mạng. Đây chính là kim chỉ nam cho chuyển biến cuộc đời sau này của một thi sĩ lãng mạn. Sự gần gũi và tiếp cận tuyên truyền, giác ngộ của bè bạn, đồng đội, đồng chí, nhất là những chiến sĩ cộng sản ưu tú, những nhà lãnh đạo cách mạng lớn cũng tạo nên một cốt cách mới để biến một thi sĩ lãng tử tài hoa thành một nhà thơ công dân yêu nước, rồi trở thành nhà văn - chiến sĩ.
Sự gặp gỡ may mắn với những chiến sĩ cộng sản ưu tú, những nhà lãnh đạo cách mạng lớn đương thời như Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng cũng như Lê Duẩn giữ vị trí quan trọng trong đời Nguyễn Bính. Trong cuộc đời Nguyễn Bính, Hoàng Tấn là một nhà thơ, nhà văn, nhà báo gắn bó mật thiết với ông trong nhiều hoạt động thời Hành phương Nam: “Đôi ta lưu lạc phương Nam này... Người sang bên ấy sao mà lạnh... Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi”.
Giữa những ngày Chiến tranh thế giới lần thứ hai đang vào giai đoạn quyết liệt, Nguyễn Bính may mắn gặp Nguyễn Oanh là đồng hương và cán bộ Thành uỷ Sài Gòn. Qua bình văn thơ và bàn luận thế sự, Nguyễn Oanh đã cảm hoá nhà thơ và Nguyễn Bính đã định hướng con đường cách mạng cho đời mình.
Một sự may mắn hiếm có khác là sự gặp gỡ và gần gũi với Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ Lê Duẩn. Ông Ba Duẩn đã từng chèo xuồng cùng đồng đội suốt đêm và đọc thơ Nguyễn Bính giữa bưng biền. Nhà lãnh đạo có “con mắt xanh” với nghệ sĩ đã tác thành nhân duyên cho nhà thơ đã có lời tâm sự với người vợ tương lai của Nguyễn Bính: “Kháng chiến cần sự góp mặt của Nguyễn Bính...” và kỳ vọng ở chị Hồng Châu: “Chúng tôi nhận thấy chị đủ sức giữ con người ấy lại cho cuộc kháng chiến đến kỳ cùng”.
Được cán bộ cao cấp thân tình, vun đắp, người vợ tri kỷ - là cán bộ của cơ quan Đảng - cũng  góp phần thúc đẩy Nguyễn Bính bồi dưỡng ý chí, dấn bước trên con đường đi tới và đi cùng cách mạng, con đường đẹp nhất đã xác định. Đó là đoạn đường gập ghềnh, gian truân, cực nhọc nhưng vinh quang, mà Nguyễn Bính đã lựa chọn và cống hiến tâm huyết cho hoạt động văn nghệ.
… đến nhà thơ thức tỉnh đi tới và đi cùng cách mạng
Nguyễn Bính là nhà thơ có tính cách rất khó trộn lẫn. Ông có số phận long đong từ tấm bé, 3 tháng tuổi đã mồ côi mẹ. Lớn lên là một thi sĩ lãng tử, đã lang bạt kỳ hồ khắp cả ba miền đất nước. Đặc biệt là cuộc phiêu du nhiều lần vào Nam với nhóm Võ Trọng Can, Tô Hoài từ năm 1939 qua Huế và dừng lại khá lâu ở nhiều tỉnh thành miền Nam những năm từ 1943 - 1954: vùng U Minh, Đông Nam Bộ, Rạch Giá, miền lục tỉnh, châu thổ sông Cửu Long, nhất là ở đô thành Sài Gòn,... Chính thời gian này, Nguyễn Bính đã đến với cách mạng và dấn thân vào cuộc đấu tranh sôi động của nhân dân vùng Nam Bộ. Ngay từ năm 1939, Nguyễn Bính đã từ Sài Gòn qua Biên Hoà, Mỹ Tho, Vĩnh Long... Đây cũng là thời gian thử thách lớn nhất về chính trị và đời sống với Nguyễn Bính. Chính quyền Sài Gòn biết Nguyễn Bính đang hiện diện ở miền Nam đã từng kêu gọi nhà thơ chiêu hồi: Thủ tướng Nguyễn Văn Thịnh có treo giải 1000 Đông Dương nếu nhà thơ quay về với chính phủ “Nam Kỳ tự trị”. Ai đưa được Nguyễn Bính về thành công được thưởng như vậy. Nhưng vốn giàu lòng yêu nước và ý thức dân tộc, Nguyễn Bính đã tỏ ra là một tráng sĩ với một chí khí sắt đá. Trong một bài thơ, ông đã khẳng định:
Mình không bỏ Sở sang Tề/ Mình không là kẻ lỗi thề thì thôi.
Theo một tài liệu, thực ra, Nguyễn Bính đã gia nhập Vệ quốc đoàn từ lâu. Khoảng năm 1947, ông đã là quân của Tướng Trần Văn Trà và Nguyễn Văn Vịnh. Ông đã được Bảo Định Giang qua hồi ký cho biết từ lời gửi gắm của thủ trưởng đơn vị “đối đãi đàng hoàng và chăm sóc tác giả Lỡ bước sang ngang”.
Năm 1951, ông đã kết hôn với bà vợ đầu tiên là Nguyễn Lục Hà (tức Hồng Châu). Bà Hồng Châu xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng. Nhà văn và nhà báo là hai bạn tri âm, tri kỷ về văn chương, dĩ nhiên kể cả về chính trị, có lẽ đó cũng là một nguyên cớ rất quan trọng để nhà thơ Nguyễn Bính dấn bước trên con đường cách mạng đã lựa chọn. Khi tập kết ra Bắc, nỗi thương nhớ vợ con đã trở thành cảm xúc để Nguyễn Bính viết bài thơ đầy xúc động: Gửi người vợ miền Nam với niềm tin và hy vọng mạnh mẽ: “Mẹ chân cứng đá mềm chờ đợi/ Em khăng khăng đứng mũi chịu sào/ Chín nắm xương trắng máu trào/ Lẽ đâu lại chịu công lao dã tràng...”.
Hơn ai hết, có lẽ Nguyễn Bính thấm thía sâu sắc tận đáy sâu tâm hồn tình yêu quê hương các vùng miền, dù là núi Côi, sông Vy, Hà Thành hay đất thần kinh Huế, rừng U Minh, sông nước Đồng Tháp hay ruộng đồng Rạch Giá, Trà Vinh, cũng như đô thành Sài Gòn. Lòng yêu nước và căm thù giặc ngày càng sâu sắc đã hun đúc nên bản lĩnh của người kẻ sĩ Bắc Hà khi trực tiếp chứng kiến và tham dự những sự kiện và tiếp cận con người miền Nam.
Theo lời giới thiệu của Đỗ Đình Thọ trong tập Thơ tình Nguyễn Bính (xuất bản 1991) thì Nguyễn Bính đã đến với cách mạng từ khá sớm, ngay từ trước 1945 - trước Cách mạng tháng Tám, và cũng theo hồi ký của Bảo Định Giang, như đã nêu thì Nguyễn Bính cũng đã theo Việt Minh từ những năm đó. Ngày 23/8/1945, Nguyễn Bính đã có mặt trong đoàn người tham gia Tổng khởi nghĩa. Nguyễn Bính làm thơ về chủ đề đấu tranh trong kháng chiến chống Pháp, khắc họa gương chiến đấu của mọi tầng lớp nhân dân. Có thể kể: Tập thơ yêu nước, Sóng biển cỏ rồi Trăng kia đã đứng ngang  đầu, Những dòng tâm huyết,... Có những bài thơ ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ vào năm 1953. Có thơ về đấu tranh xuống đường của thế hệ trẻ như học sinh, sinh viên - Máu chảy trên đường(1950) và gương chiến đấu của thế hệ lớn tuổi: Ông lão mài gươm (1947).
Những năm theo diện tập kết ra Bắc, Nguyễn Bính tiếp tục cho xuất bản những tập thơ và kịch bản sân khấu (chèo), truyện thơ về chủ đề thời sự là đấu tranh thống nhất suốt những năm từ 1955 - 1964. Có thể nói, hồn thơ Nguyễn Bính như chín lại, nở rộ một mùa hoa trái mới. Nhà thơ làm cuộc dấn thân mới vào công cuộc hoà bình, buổi đầu xây dựng và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng ở thời kỳ khởi phát.
Nguyễn Bính âm thầm, lặng lẽ đi vào cuộc sống làm ăn bình dị, tảo tần của quê hương, đất nước qua nhiều vùng miền. Ông đi sâu vào vùng quê quen thuộc đất Nam Hà (Nam Định - Hà Nam hợp nhất) vào những năm từ 1955 - 1958  cho đến 1966. Bài thơ quê hương là một cuộc tổng kết lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay, không chỉ về hiện thực cuộc sống, mà còn ở cấp độ cao hơn, khái quát về văn hoá, văn minh thời đại. Đây là một cuộc dấn thân và nhập cuộc kỳ lạ vào cuộc đổi mới. Những ngày hồi hương về đất Bắc, Nguyễn Bính đã như đổi khác thật sự, cùng với quê hương, đất nước thay da đổi thịt. Nhà thơ lãng mạn ngày nào đã thực sử trở thành nhà thơ công dân cách mạng, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh đổi đời cùng với đội ngũ tiên tiến nhất.
3. Một đời người                 
Con đường đi đến và đi cùng cách mạng của Nguyễn Bính là một điều tất yếu. Yếu tố khách quan thúc đẩy và quyết định, nhất là công cuộc cách mạng và lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc, khát vọng tự do giải phóng.
Con đường và hành trình cách mạng hoá tư tưởng của Nguyễn Bính cũng mang những nét đặc sắc. Nhìn chung là thuận chiều, không có những trắc trở lớn như một số nhà Thơ mới cùng thế hệ. Chế Lan Viên lạc vào siêu hình nên “đi xa về hóa chậm”. Huy Cận thì chậm chín lại một hồn thơ theo khí quyển mới cách mạng.
Sau cuộc đấu tranh tư tưởng lớn trong văn nghệ (1955 - 1957), là cuộc thâm nhập thực tế lao động của các văn nghệ sĩ. Rất nhiều nhà văn, nhà thơ đã đi vào nông thôn, vào xưởng máy, đến với người lao động sản xuất. Huy Cận chính là người chuyển biến mạnh mẽ nhất trong quá trình ấy. Nguyễn Bính, do hoàn cảnh, khi thâm nhập vào nhân dân trong kháng chiến ở Nam Bộ đã đồng thời tự thân tiến hành cách mạng hóa tư tưởng và quần chúng hóa sinh hoạt. Tức là thực sự dấn thân, và thực sự được chuyển hóa. Đó là một may mắn lớn so với một số nhà thơ thời Thơ mới.
Nguyễn Bính không như Huy Cận, Xuân Diệu ở miền Bắc đã đành, nhưng cũng không đi theo đường của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng khi bỏ về Thành. Cùng đại lộ - hướng đến chính nghĩa, nhưng mỗi nhà văn, nhà thơ lại có những nẻo đường riêng khác biệt.
Cùng với thế hệ Thơ mới, Nguyễn Bính có một hành trang tương tự rất quý giá: đó là ý thức dân tộc mạnh mẽ, và lòng yêu nước chân chính. Đó cũng chính là cái phẩm chất cao đẹp của thi nhân, cũng là của con người Việt Nam trong lịch sử hào hùng: “Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa” (Huy Cận). Nguyễn Bính có thời vướng mắc vào tuần báo Trăm hoa cùng với ông anh Trúc Đường (thời gian 1956, 1057). Theo hồi ký của Tô Hoài thì ban đầu “cấp trên” kỳ vọng Trăm hoa là tờ báo tư nhân, có tiếng nói chống lại luận điệu ngang ngược của Nhân văn - Giai phẩm nên giúp tiền và giấy cho in báo. Tô Hoài được giao nhiệm vụ “ thuyết phục” chủ bút. Nhưng rồi  trên cũng không có sức hỗ trợ, báo thua lỗ phải tự đình bản. Điều quan trọng như nhận xét của Tô Hoài  “Tờ Trăm hoa ra một vẻ khác. Không về hùa với Nhân văn nhưng cũng chẳng đi với ai”. Nhà thuyết khách Tô Hoài tâm sự: “Tôi bàn lại với Nguyễn Bính. Nguyễn Bính cười: “Trăm hoa phải thế mới là Trăm hoa của Nguyễn Bính chứ !” Câu trả lời bộc lộ bản lĩnh cứng cỏi và cốt cách trung thực của nhà thơ. Nghĩa là “trung lập”, không “theo”, cũng không “đánh” Nhân văn. Thường tình trung lập không phải là lửa chọn tốt nhất, hay nhất. Tuy nhiên, với Nguyễn Bính cũng như nhiều người, có được một tiếng nói chính trực có sức tâm phục, khẩu phục tối cao trong tình thế ấy thật, khó biết bao!
Nguyễn Bính là một nhà thơ lớn, nhà thơ cách mạng đáng trân trọng, có chỗ đứng vững chãi trong lòng quần chúng nhân dân - những con người của thời đại mới cách mạng. Nguyễn Bính vẫn đồng hành với chúng ta trên tư cách người của hôm nay và Người của ngày mai.
Đoàn Trọng Huy

Nguồn: Trăm năm Nguyễn Bính, Truyền thống & Hiện đại. 
Nhiều tác giả. Hội thảo khoa học về Nguyễn Bính do Viện Văn học & Trường Đại học Văn Lang tổ chức. NXB Hội Nhà văn, 07-2018.


Theo https://trieuxuan.info/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt

Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là con trưởng của Hiếu Vũ đế...