Thứ Năm, 31 tháng 1, 2019

Hồi ký Phạm Duy - Tập 4b

Hồi ký Phạm Duy - Tập 4b
Thời hải ngoại
Chương Mười một
Đối với người Việt, biển có nhiều huyền thoại hơn đất, núi hay rừng, kể từ huyền sử qua dã sử tới lịch sử. Những huyền thoại như:
° Biển là bước đường cùng của An Dương Vương, sau khi nghe lời biển mới biết con gái Mị Châu, ngồi sau lưng ngựa rắc lông ngỗng để người tình Trọng Thủy tìm được mình và đem lại cái chết của Phụ Vương...
° Biển chứng kiến cuộc tình không phân chia giai cấp của Công Chúa Tiên Dung và người nghèo Chử Đồng Tử...
° Biển là bạn hiền an ủi An Tiêm trong lưu đầy nơi đảo khơi...
° Biển là cõi tình của Trần Khắc Chân khi kéo quân vào Chiêm cứu Huyền Trân ra khỏi giàn hoả thiêu rồi hai người kéo buồm ra khơi, hai năm sau mới trở về đất liền...
° Biển là võ khí của Đức Trần Hưng Đạo, là đường phục quốc của Hoàng Đế Gia Long...
° Biển là nỗi buồn Nguyễn Du lúc chiều hôm trong Truyện Kiều, là lòng Mẹ bao la của Y Vân, là Mẹ Trùng Dương của Phạm Duy, là nỗi nhớ nhung (Biển Nhớ ) của Trịnh Công Sơn trong âm nhạc...
Gần đây nhất, biển trở thành lẽ sống của người đi tìm tự do nhưng biển cũng là mồ chôn của hàng chục vạn sinh linh. Thi sĩ Viên Linh gọi biển là Thủy Mộ Quan qua một tập thơ dài. Tôi phổ nhạc nhiều đoạn trong tập thơ này...
Trên huyết hải, thuyền trôi về một chiếc
Chiều bầm đen, trời rực rỡ đau thương
Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt
Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương...
Thấp thoáng trần gian mịt mù bóng đảo
Trôi về Tây, về Bắc, về Đông
Trôi về đâu bốn bề thủy thảo
Về đâu kiếp đắm với thân trầm...
Đôi uyên ương Lê Uyên Phương gọi Biển là Kẻ Phán Xét Cuối Cùng...
... Im lặng
Hoàn toàn im lặng
Chỉ còn lại bầu trời
những vì sao
nước biển đen ngòm
và tiếng thở dài câm lặng
Không một tiếng nói
Không một lời đối thoại
Chỉ có sự thất vọng
và bóng tối hoàn toàn...
Biển đã đem đến sự sống
Biển đã đem đến sự chết
Bằng ý nghĩ của con người
Chúng ta đã phán xét chúng ta
Biển chính là kể phán xét chúng ta...
(Lê Uyên Phuơng)
Còn tôi thì đã có một bài Hát Cho Người Vượt Biển trong đó biển là sự sống...
Này đoàn người đi tìm tự do
Muốn tìm người, thật là khó...
Lạy Trời Phật, cúi đầu mà coi
Bé ngây thơ trong bão tơi bời
Lạy Trời Phật, xin nhìn ngoài khơi
Ông bà lão nghiến răng cầm lái
Và còn lạy xin Ngài Thần Biển
Đoái thương đôi trẻ mới se duyên
Lạy loài người, tôi lạy tổ tiên
Hãy cho tôi thấy đất liền...
Nhưng Diệu Văn, một thi sĩ tỵ nạn ở Hạ Uy Di lại nhìn Biển Đông là một biển máu. Tôi đưa bài thơ về sự chết của thi sĩ Diệu Văn vào một ca khúc:
Ra biển chiều nay thấy mầu máu đỏ
Máu đỏ bầu trời, máu đỏ chân mây
Gió rên siết như ngàn lời uất hận
Sóng gầm gừ giận dữ cát tung bay.
Ra biển mà coi xác người trôi dạt
Xác của người già, xác của em thơ
Xác trôi quanh, tóc nhòa theo sóng cuộn
Hố mắt đen ngòm, bầy cá đùa chơi.
Ra biển chiều nay thấy người hấp hối
Ngồi ôm nhau, nhịn đói đã bao ngày
Chiếc thuyền con chồng chềnh theo ngọn sóng
Đi về đâu trời bão tố đêm nay?
Qua bài thơ Biển Máu dữ dội này, thi sĩ cho ta thấy chính trị tuyệt vời, tôn giáo cao siêu đến đâu cũng không ngăn được cảnh thống khổ của Việt Nam hôm nay và cho mọi người thấy những gì đã biến biển Thái Bình thành ra biển máu:
Một lũ điên cuồng mang mầu chủ nghĩa
Khổng giáo tam tài, phong kiến vua tôi
Lão vô vi, Phật luân hồi, Chúa bác ái
Đong mãi không đầy một chén cơm vơi.
Ra biển chiều nay thấy mầu máu đỏ
Máu của chị và máu của anh em
Tư bản đến: bom đạn và thuốc độc
Cộng Sản vào: xác ngập Thái Bình Dương
Thi sĩ cũng không quên kết tội những hải tặc gây bao tội ác ở giữa biển và những dân tộc ở vùng biển Đông xua đuổi người vượt biển không cho vào bờ:
Ra biển mà coi lũ người ác nghiệt
Xua đuổi thuyền bè, cướp của hãm hiếp
Máu lương dân sẽ oà trong giấc mộng
Dân chúng quanh vùng miền nước Biển Đông.
Dù có lúc không đỏ như máu, biển xanh bao la bây giờ là sự chia cách não nùng giữa những đôi vợ chồng son. Qua một bài hát buồn nhan đề Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh, tôi nói tới cảnh thân yêu ngày trước ở một tổ ấm nào đó tại miền Nam Việt, chiều chiều người vợ ra đứng đầu ngõ đợi chồng... Đi làm về, chồng âu yếm hôn lên mắt vợ, rồi sau ngày 30-4, chồng vượt biên qua Mỹ, vợ kẹt lại ở nhà. Người chồng ra biển rộng, gọi tên người vợ thân yêu:
Ở bên nhà em không còn đứng đợi, chờ, mong
Đợi anh về, anh hôn vào mắt nàng mầu nhung
Ở bên nhà em đi lao động
Ở bên này anh ra biển rộng, gọi trùng dương
Trùng dương nào đã chia lìa đôi vợ chồng son
Trùng dương còn thêm cắt rời cha mẹ và con 1
Trùng dương được tôi biện hộ: chế độ mới là nguyên nhân của sự chia cách:
Trùng dương nào hay chế độ nào
Đẩy con người vô kiếp nghẹn ngào, kiếp xa nhau.
Nhớ đôi tay em, xưa xinh như mộng
Tay vuốt tóc chồng, tay nựng con thơ
Nhớ đôi môi em, ôi đôi môi mọng
Ca hát cho đời thêm sắc thêm hương
Ở bên nhà đôi tay ngà em vục bùn đen
Ở bên nhà đôi môi mềm thú vạn tội oan
Ở bên này sống với ác mộng
Từng đêm ngày anh ra biển rộng khóc thương em
Bài Ở Bên Nhà... này được phát thanh trên Đài VOA trong năm 1978, sau đó ông Lê Văn, người phụ trách chương trình Nhạc Hải Ngoại nhận được bức thư cám ơn của một thiếu phụ ở Cần Thơ vì bài hát nói lên cảnh ngộ của bà. Cũng như thế, vào tháng chạp năm1991, tôi nhận được lá thư của một người bạn văn, mở đầu bằng câu: ''Tôi ngồi viết thư cho anh trong khi bầy chim đang hót trong phòng...'' Thế là nhạc phẩm Bầy Chim Bỏ Xứ của tôi đã được ba Đài VOA, BBCRFI... cho mượn không gian để bầy chim tự do đã vỗ cánh bay về.
Tiếp tục soạn những bài ca xây dựng huyền thoại biển, sau bài Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh, tôi có bài Lấp Biển Vá Trời:
Chúa đã phán rằng có được niềm Tin
Thì mình có thể vá được trời xanh
Xê dịch núi rừng, lấp cạn trùng dương
Anh có nghe chăng
Anh có nghe chăng lời em khấn nguyện?
Sau cảnh chồng ra biển gọi vợ tới cảnh vợ ở ngoài nước muốn làm phép lạ - lấp biển vá trời - để cứu chồng ra khỏi trại cải tạo rồi vượt biển tới bến bờ tự do.
Tôi đã từng nói tới sự trao tình giữa nghệ sĩ với thiên nhiên (sentiment de la nature). Tôi không dám ''khoe'' rằng nỗi buồn trong nhạc của tôi lúc này đạt tới rung động trùng dương (sentiment océanique) nhưng trong hoàn cảnh được ra chốn trời cao biển rộng và trước những nghịch cảnh vô cùng đớn đau, tình cảm của tôi không còn kích thước của lũy tre xanh, con đê nhỏ, cánh đồng xinh xinh nữa. Đã mang tâm sự của con dạ tràng (lấp biển Đông) rồi, tôi còn muốn phóng tình cảm lên tới vũ trụ (sentiment cosmique) nghĩa là muốn theo gót bà Nữ Oa (đội đá vá trời) qua bài hát này. Tất cả không ngoài ước muốn cùng con người Việt Nam của thế kỷ, với nhiều phép lạ, chống lại định mệnh ngặt nghèo.
Bài Lấp Biển Vá Trời này muốn có ngày rung được Trời Đất, để người chồng thoát được ngục thất, bay được lên trời, hay vượt biển khơi đến bên người vợ, gần nhau suốt đời. Vào lúc này, trong những bài hát của người lưu vong, tôi luôn luôn dựa vào Niềm Tin và Hi Vọng:
Nếu vẫn khó lòng vá được trời xanh
Phận hèn không thể lấp cạn đại dương
Xin được sống còn, giữ vẹn lòng son
Xin mãi yêu thương
Xin mãi yêu thương người nơi cuối đường.
Chúa sẽ thương tình vá lại hồn em
Bằng niềm Tin để lấp biển sầu thương.
Sống được trong đời, hi vọng còn nuôi
Nuôi mãi tin yêu,
Nuôi mãi tin yêu, gửi nơi cuối trời.
Còn niềm Tin mãi nơi ta
Thì rồi sẽ nối duyên xưa...
Biển và nạn hải tặc còn bắt tôi phải nói lên và chống lại số phận hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam đương thời. Bài Lời Người Thiếu Phụ Việt Nam đưa ra hình ảnh một phụ nữ, chồng chết ở trại tập trung, cha mẹ chết ở vùng kinh tế mới... Nàng bế con ra khơi, không may gặp hải tặc. Chúng hãm hiếp nàng và ném con nàng xuống biển. Hỏi tại sao người phụ nữ này không tự tử chết? Bà trả lời:
Xin đừng hỏi tôi vì sao tôi còn sống?
Vì sao tôi còn mong? Vì sao tôi còn ngóng?
Xin đừng hỏi tôi vì sao tôi mất chồng?
Vì sao tôi mất con? Mẹ Cha, tôi mất luôn.
Xin đừng hỏi tôi, khổ đau đã triền miên
Mà sao tôi chẳng điên? Mà sao tôi chẳng chết?
Lũ giặc Biển Đông làm thân tôi ố nhục
Làm con tôi chết trôi, chỉ còn tôi sống sót thôi!
Chồng tôi đã chết nơi trại tập trung
Mẹ Cha tôi chết ở vùng kinh tế
Tôi đã ra đi, ôm đứa con thơ
Trong chuyến ra khơi nửa giấc đêm mưa.
Hy vọng tìm được cuộc đời tự do
Nào ngờ bọn người ích kỷ đuổi xua
Thuyền nhân ốm đói, giặc chờ ngoài khơi
Chỉ một mình tôi sống thôi, để lên tiếng gọi...
Vâng! Người thiếu phụ Việt Nam này không thể chết được vì: Tôi còn phải sống để treo cao nợ máu, người Đông Dương khổ đau vì âm mưu đổi tráo... Tôi còn phải sống để khóc chồng khóc con, khóc cha khóc mẹ... Nhưng nếu tôi có buồn vì quê hương nát tan, lòng tôi chưa thể yếu hèn được:
Tôi còn phải sống để nuôi sâu thù oán
Kẻ gây nên lầm than, người vô tâm tàn nhẫn
Tôi còn phải sống để mang ơn những ai
Mở tay ôm những người
Nạn nhân trên cõi đời.
Kết luận: người thiếu phụ Việt Nam ở trong hoàn cảnh đáng lẽ phải chết này cần phải sống để cho thế giới phải lưu tâm tới số phận của nước Việt Nam.
Trên đường đi tìm tự do, biết bao nhiêu thiếu nữ, thiếu phụ trở thành nạn nhân của hải tặc. Để xoa dịu vết thương của những người xấu số, tôi có bài Giải Thoát Cho Em:
Giải thoát cho em, cá chậu chim lồng
Con chim Lạc Hồng bay đi mịt mùng
Con cá Tiên Rồng vượt sóng muôn trùng
Em đi tìm sống.
Giải thoát cho em, gánh nặng u buồn
Trên vai mỏi mòn, trong tim tủi hờn
Kiếp sống ngỡ ngàng, cay đắng trên đường
Xa cách quê hương...
Bài hát muốn giải thoát muôn vàn oan khiên, những tai nạn dọc đường, cho rằng người bị hãm hại là người thục nữ không may gặp phải hùm beo ác thú hay bị con chó cắn càn. Bài hát muốn giải thoát những nàng Kiều của thời đại, dù là kiếp bèo nổi trôi nhưng hồn thì chói lói, người con gái Việt Nam là cỏ núi, dù giông tố dập vùi nhưng vẫn mãi mãi xanh tươi...
Giải thoát cho em, ác mộng qua rồi
Dâng em cuộc đời, dâng em tình người
Tay đón tay mời, cuộc sống tơi bời
Cùng nhau vun xới
Giải thoát cho nhau, nối chặt tâm tình
Không ai hiểu mình hơn ta và mình
Những nỗi oan tình và những hận sầu
Giải thoát cho nhau.
Muốn vượt định mệnh ngặt nghèo của mình thì lòng phải sâu như biển, cao như núi, rộng như các thành phố Âu Mỹ. Và khi được sống với cả ba thứ đó mới thấy biển hoang vu, núi cô đơn, thành phố vắng lặng như thế nào?
Tôi soạn một bài hát nhan đề Như Là Lòng Tôi, cho rằng biển có nhức nhối, núi có buốt giá, thành phố có nặng nề đến đâu đi nữa thì cũng chỉ như là lòng tôi mà thôi:
Chiều nay ra đứng bên bờ đại dương
Biển âm u, vắng ngắt
Biển bao la một mầu tím ngát muộn phiền
Biển mênh mang niềm nhớ tiếc
Biển run lên từng đợt sóng biếc, ngỡ ngàng
Rủ nhau tới chết bên bờ biển hoang
Mặt trời cũng chết trong lòng biển sâu
Biển thương đau mấy kiếp
Biển đơn côi, biển còn nối tiếp cuộc sầu
Biển mông lung gào với gió
Biển hung hăng và làm bão tố nghiêng trời
Biển khơi nhức nhối như là lòng tôi.
Điệp Khúc là lời van xin:
Hãy lấp kín lại trùng dương
Cho tôi thôi buồn đại dương
Tái sinh làm con suối vắng...
Cho tôi xin là dòng sông
Nơi quê hương sạch và trong
Uốn quanh ngoài cánh đồng...
Đứng trước biển lòng tôi buồn như vậy...
Còn nếu khi lên núi, thì:
Bình minh lên núi, tuyết phủ đầy vai
Vùi thân trong buốt giá
Nằm chơ vơ một hàng núi đá chập chùng
Rừng xanh xao và chết cóng
Trời không cao và trời vắng bóng mây ngời
Mặt hồ băng kín như là lòng tôi.
Rồi đi xuống phố không một người quen
Nhà xi măng cốt sắt
Mọc chênh vênh và làm khuất mắt người tình.
Đường tuy đông mà quá trống
Ngày đi qua chỉ là những bóng không lời
Đời nghe xa vắng như là lòng tôi!
Điệp Khúc này vẫn là một lời van xin:
... Hãy quét tuyết sạch mùa Đông
Cho non cao khỏi lạnh băng
Hãy về gặp nhau trên đất khách...
Ta ôm nhau mà hỏi han
Ta gây lại tình thương
Sẽ thấy vui ở cuối đường.
Kết luận, bài ca vẫn hướng về sự tích cực:
Biển xanh, núi biếc hay vỉa hè kia
Rồi đây thắm thiết như là lòng ta!
Thấy tôi rất chú ý tới phụ nữ, Nguyễn Ngọc Bích viết trong bài TỰA của nhạc tập THẤM THOÁT MƯỜI NĂM do Hội Văn Hóa Việt Nam Tại Bắc Mỹ, Tủ Sách Cành Nam và Tạp Chí Xác Định ở Washington DC ấn hành vào năm 1985:
''Nét nổi bật của nhạc Phạm Duy trong lúc này là thế đứng và nhất là thân phận của người đàn bà, của phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Du viết: Đau đớn thay phận đàn bà và đau đớn như thế nào, ghê gớm như thế nào, có lẽ chưa bút nào tả siết. Phạm Duy đã thử qua nhạc của anh...''
Thân phận của người thiếu phụ được tôi chú ý có lẽ vì tôi luôn luôn bị huyền thoại Mẹ ám ảnh. Tôi còn lưu tâm tới người thiếu nữ Việt Nam trên đường tị nạn. Do đó có bài:
Người con gái Việt rời xa tổ quốc
Nàng như cánh đào trước gió phất phơ
Hoặc như chiếc thuyền lửng lơ ngoài sông nước
Hay phận liễu bồ trôi dạt phương xa
Người con gái Việt phải xa tổ quốc
Nàng vẫn giữ lòng son sắt như xưa.
Dòng Tiên giống Rồng, Nàng mang tình yêu nước
Mang cả linh hồn nữ kiệt Trưng Vương.
Tôi xưng tụng người thiếu nữ với gia tài là Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Bao năm ly loạn làm quê hương tơi bời mà người con gái Việt không hề đổi thay thì bây giờ...
... người con gái Việt ngày xa lìa nước
Dù vắng bóng chồng hay vẫn bên nhau
Dù đang sống cùng tự do nhiều hơn trước
Tinh thần gái Việt giữ gìn cho lâu.
Tôi mong rằng, dù phải chung đụng với văn hoá của các nước Âu Mỹ, xin các em vẫn giữ lòng trong trắng như hoa, đã thờ cha, kính mẹ lại thờ luôn tình yêu nước và giữ đạo yêu chồng, xây dựng con thơ. Rồi bởi vì xã hội Hoa Kỳ là sự tự do quá trớn nên ngay từ lúc này tôi mong mỏi người con gái Việt Nam đi tị nạn ở Âu Mỹ gìn giữ hộ tôi nguyên vẹn cả tinh thần lẫn thân thể qua bài Xin Em Giữ Dùm Anh:
Trong đôi mắt em, anh nhìn thấy mặt trời xa
Nắng quê Cha, bốn nghìn năm rôi đời ta
Nắng êm vui từng đón anh vào đời
Đi theo cuộc tình thăm thẳm xa vời
Em có đôi môi thơm mùi cốm vàng ngày xuân
Môi ngọt ngào như ngụm sữa Mẹ, hiền ngoan
Miếng môi ngon từng vướng dăm giọt lệ
Cho anh hôn vào, vui buồn mải mê.
Nhớ ngày mới khởi sự sáng tác, sự nguyên vẹn hình hài nằm trong cái chết. Bây giờ nó là sự sống:
Ôi đôi tay! Như sóng Biển Đông say
Hay gió rừng lay trên dẫy núi miền Tây
Đôi tay tròn, nếu được em ẵm ôm
Anh rồi sẽ chôn biết bao nhiêu tủi hờn
Ôi đôi chân, em mang đi đằng đẵng
Những dặm đường trường, trên con đường cái quan
Đôi chân son, chân ngát hương Saigon,
Đôi chân u buồn, đôi chân vượt trùng dương.
Xưng tụng môi mắt, tay chân của người con gái Việt Nam, tôi còn muốn bơi trong làn tóc của em, những làn tóc xanh như nước sông bồng bềnh của quê mình. Tôi muốn em gìn giữ hộ tôi một góc quê bàng hoàng đã in trong tâm hồn và trong thân thể nở nang của em:
Xin em giữ dùm anh mắt rực lửa hồn
Em soi sáng hộ anh Đại Lộ Hoàng Hôn
Xin em giữ hộ anh môi mềm lời nguyện
Ru anh chết một đêm, tuyết phủ mộ êm
Em hãy giữ hộ anh tay ngà nhỏ ngọn năm nhánh.
Anh say giấc ngàn thu, hơi Mẹ còn nồng mộng mơ
Em đi tới ngày mai, chân dài vượt vạn nẻo đời
Anh nơi suối vàng vui, ngỡ mình miệt mài chẳng ngơi.
Xin em giữ dùm anh, người con gái đồng trinh.
Theo gót Nguyễn Du, nói tới thân phận đớn đau của người đàn bà, sau những lời ca của thiếu phụ Việt Nam khi gặp cảnh thủy ngục đại dương, tôi có thêm bài Trả Lại Chồng Tôi ghi lại hình ảnh điển hình nhất của thời đại là người đàn bà ở trong địa ngục quê hương:
Trả lại chồng tôi, chồng của tôi
Trả lại người yêu qúy của tôi
Bao năm chinh chiến đã xa vời
Hoà Bình về nơi quê hương rồi
Mà người chồng tôi vẫn bặt hơi
Hình dạng người yêu vẫn bặt khơi.
Người thiếu phụ Việt Nam có chồng bị bắt giam ở trại cải tạo, cất tiếng hỏi:
Cũng là anh em hai miền ruột thịt
Mà sao nỡ bắt đem đầy xa?
Cũng là con dân máu đỏ da vàng
Mà sao nỡ giết nhau, hại nhau, gây thương đau?...
Trả lại chồng tôi, chồng của tôi
Trả lại quyền dân sống thảnh thơi
Cho quê hương ấm no yên lành
Trả lại thương yêu cho gia đình
Trả lại Việt Nam những tình thiêng
Của triệu đàn con giống Rồng Tiên.
Sau ngày 30-4-75, những bà vợ quân nhân công chức của chính quyền quốc gia là những nhân vật oanh liệt nhất của thời đại khốn khổ này. Biết bao nhiêu phụ nữ Việt Nam, dù phải sống khổ nhục dưới chế độ mới, vẫn tận tụy nuôi con sau khi chồng bị bắt. Rồi lặn lội đi thăm nuôi chồng ở những nơi rừng sâu núi thẳm. Sau thời gian tù đầy dài như thiên thu, chồng vừa được thả về là có sẵn bãi, sẵn thuyền để đưa chồng vượt biên.
Lũ nhạc sĩ chúng tôi cứ luôn luôn thích xưng tụng người Mẹ. Bây giờ trong cơn quốc nạn của Việt Nam, tôi thấy người vợ mới thật là quả cảm, tinh khôn, bền chí, nhẫn nại, trung thành, chân chính.
Nói thêm về huyền thoại biển...
... Hơn các nước lân cận như Ai Lao, Cao Miên, Thái Lan, Miến Điện... với biển cả mênh mông từ biển Bắc tới biển Nam (gọi chung là biển Đông), nước ta mở ra với thế giới để đón nhận hay để tung đi muôn phương. Chỉ có điều buồn là sau cuộc Nam Tiến, tiền nhân chưa có dịp đưa nước Đại Việt ra biển thì nước ta bị bế môn toả cảng do lỗi lầm của một triều đại (Tự Đức) hẹp hòi, do nạn ngoại xâm dài gần một thế kỷ, do cuộc kháng chiến, nội chiến 50 năm và do sự mù quáng của một chính quyền, chỉ mới he hé ''mở cửa'' cho tiền đô-la đi vào Việt Nam với người về thăm quê hương mà chưa hề ''cởi trói''cho quốc gia và dân tộc.
Trong việc xưng tụng quê hương, tổ quốc, tôi đã có lần đả động tới biển ở nước mình. Qua bài Mẹ Trùng Dương (trong trường ca Mẹ Việt Nam), biển được tôi coi là nơi luôn luôn cung cấp cá lớn thơm tho đầy thuyền, nếu biết khai thác kỹ thì ngành thủy sản là một nguồn lợi kinh tế rất lớn lao, ngoài lúa gạo xuất cảng. Qua bài Mừng Xuân, tôi nói tớivàng đen tức là dầu lửa, thì ở dưới thềm lục địa của nước ta (rộng khoảng 1 triệu 300 ngàn km2), cứ cắm mũi khoan thăm dò là gặp ngay dầu khí.
Thi sĩ Bắc Phong ở Gia Nã Đại cho rằng biển mở đường đi biển lấp đường về. Nhưng vì anh cũng nói biển hẹn tương lai nên tôi ước mong biển Đông mau mau thoát ra khỏi huyền thoại về sự chết để vĩnh viễn là Mẹ Việt Nam vĩ đại với nguồn sinh lực dồi dào nuôi nấng lũ con, một ngày nào, giống như trong câu ca:
Lũ con lạc lối đường xa
Có con nào nhớ Mẹ ta thì về...
Nhân đây, xin nói thêm tới tác dụng của các chương trình tiếng Việt tại những Đài VOA, BBC và Đài Úc...2 Đó là mối liên lạc độc nhất và hiệu quả nhất giữa nghệ sĩ ở ngoài nước và dân chúng ở trong nước. Chính quyền có thể kiểm soát chặt chẽ thư từ, sách báo nhưng bất lực trước làn sóng âm thanh. Trong suốt hai chục năm qua, tôi không bỏ lỡ một cơ hội nào để được phỏng vấn bởi các đài phát thanh vừa kể.
Tôi mang ơn các vị phụ trách chương trình tiếng Việt của các đài đó. Vì ở cách xa nhau năm châu bốn bể, sự truyền thông giữa người Việt ở hải ngoại rất khó khăn, đồng hương có thể không biết rõ những sinh hoạt của tôi, nhưng ở trong nước, qua các Đài phát thanh VOA, BBC... đồng bào theo rõi tôi trong bất cứ một bài hát nào của bất cứ một xu hướng nào.
Ghi chú:
1. Vì nghĩ tới hoàn cảnh gia đình mình nên tôi có câu hát này.
2. Sẽ có thêm Đài RFI (Radio internationale Francaise) của Pháp.
Thời hải ngoại
Chương Mười hai
Sau năm 1979, tôi không còn đi hát với vợ hay với các con nữa nhưng tôi thường được mời đi hát một mình tại Âu Châu, Úc Châu hay Á Châu (Nhật Bản)...
Tôi tìm ra được một phương thức để có thể dễ dàng đi nhiều nơi, giới thiệu các loại ca khác nhau. Tôi thu thanh trước những loại ca này rồi đem Compact Disk đi lưu diễn, cho phát thanh từng bài của từng loại ca chen với lời dẫn nhập hay giải thích của tôi. Tôi gọi đó là A Presentation of CD. Tổ chức biểu diễn cũng giản dị, không bắt buộc phải thuê rạp hát hay phòng họp mà có thể biểu diễn ngay trong nhà một Mạnh Thường Quân, tôi gọi đó là một buổi house concert.
... Trở lại Paris lần đầu tiên trong đời lưu dân, tôi sung sướng gặp lại các bạn cũ như Vũ Văn Thiết tự Thiết Mù, Trần Nhật Quang tự Quang Mờ, Chương Tóc Bạc, Long Kim Chung, Đặng Trần Vận, Trần Văn Khê... những bạn suốt đời của tôi và luôn luôn được tôi nhắc tới trong ba cuốn Hồi Ký trước. Chưa kể những người tình cũ Annie, Marcelle... tóc vàng sợi nhỏ đã nhuốm mầu thời gian, nhưng chúng tôi vẫn nhìn nhau với cặp mắt có đuôi.
Nhưng cũng tại Paris là nơi dường như năm nào tôi cũng ghé chơi một lần, tôi được gặp lại người bạn cố tri Phạm Xuân Thái, mà tôi tưởng là phải chết từ lâu rồi. Cựu Tổng Trưởng Thông Tin thời Ngô Đình Diệm vẫn sống phây phây, sau khi ở trại cải tạo một thời gian, tuổi đã ngấp nghé 80 mà vẫn một mình chống ba toong đi Pháp, đi Mỹ thăm vợ cũ và các con.
Đi đâu thì cụ cũng dùng xe bus để di chuyển, khi tới Santa Ana, gọi phone để bố con tôi đi đón, chúng tôi lái xe đi tìm đường gần chết, bởi vì từ khi tới Mỹ, chúng tôi không hề biết ga xe bus ở đâu cả? Phạm Xuân Thái, tuy vậy, đầu óc cũng lẫn lộn rồi, trong vài ngày ở chơi với chúng tôi, trong lúc đàm đạo, anh bạn già đều chỉ nhắc lại những chuyện đã nói rồi.
Nhưng được cái cụ Thái vẫn ăn ngon, ngủ yên, khi ngủ không ngáy to như cụ Trần Văn Khê chẳng hạn, nhân dịp đi diễn thuyết tại Los Angeles, đến nhà tôi ở vài ngày. Khi cụ Khê đi ngủ, lũ con tôi thu thanh lén tiếng ngáy như sấm của nhạc học gia để sẽ tặng cho bảo tàng viện âm nhạc Việt Nam, coi như là một tài liệu hiếm có về tiếng ngáy.
Paris vẫn làm tôi cảm động như xưa, khi ngồi trong quán café, gặp rất nhiều bạn bè xưa, khi dạo bước trên đại lộ Champs Elysées hay thơ thẩn trong Quartier Latin hoặc khi ngồi trên thang đá bên bờ sông Seine...
Tôi cảm động vì thường coi Paris như một trong những cái nôi ái tình và nghệ thuật của mình, ngoài Huế và dòng sông Hương lặng lẽ. Nhận ra mình đang phải tha hương và không biết bao giờ mới trở về cố quốc nên tôi nặng tình hơn với những nơi chốn tôi từng yêu mến khi còn là khách lạ. Bây giờ tôi thấy gần Paris hơn xưa vì tôi cô đơn hơn trước, có lẽ vì đang khởi sự làm kiếp lưu vong chăng? Nhớ tới chuyện người Do Thái bị lưu đầy rồi ngồi bên bờ sông Babylon để than khóc:
Babylon xác héo mòn
Nhớ thương than khóc Sion tháng ngày
(Hoàng Vũ)
Trên rặng liễu đó đây
Chúng tôi treo lên đàn cầm
Ở đó họ réo chúng tôi
Bên cướp bóc đòi lời than vãn
Lũ đô hộ muốn một khúc vui
Hát ta nghe ca vãn Sion đi nào
Mà làm sao chúng tôi hát được ca vãn
Yavê đất khách quê người.
(Đào Mộng Nam)
Tôi yêu Paris và muốn chia sẻ với Nàng nỗi buồn xa xứ nên soạn bài Bên Bờ Sông Seine Ta Ngồi Ta Khóc để tặng Paris:
Bên bờ sông Seine ta ngồi ta khóc
Nỗi đớn đau tràn ngập cả kinh thành.
Như gió lạnh làm băng giá nẻo đường
Như tuyết phủ vùi chôn nghĩa địa buồn.
Bên bờ sông Seine ta ngồi ta nhớ
Tiếng võng đưa đều đặn buổi trưa hè
Tiếng sáo diều chiều xa vắng, vông về
Trẻ gọi trâu rộn rã bờ đê.
Bên bờ sông Thương ngày xưa phơi phới
Nước chẩy đôi dòng nhưng lòng ta vui
Ta hát say sưa tiếng hát võng đưa
Bên bờ sông Hương tình ta thấp thoáng
Câu hát câu hò ta tặng người thương
Ta hát vang vang tiếng hát quê hương.
Bây giờ ta xa dòng sông năm cũ
Như chim lạc tổ như ma lạc mồ
Thương nhớ ơ hờ giọng hát nghìn xưa
Bây giờ tìm đâu cầu tre lắt lẻo
Qua khúc sông đào tới nẻo người yêu
Câu hát trong chiều, giông hát tìm nhau.
Ngồi bên bờ sông Babylon, người Do Thái có câu: Trong cơn cùng khổ rã rời, thành tâm tin Chúa chờ thời hồi hương... (Hoàng Vũ)... thì ngồi khóc bên bờ sông Seine cho tới khi biến thành tượng đá, tôi cũng chờ ngày tái sinh để hồi xứ như con cháu Chúa Giê Su:
Bên bờ sông Seine ta ngồi ta khóc
Nhà báo Đinh Văn Ngọc, Nguyễn Ang Ca và Ngô Văn Cường chủ nhà hàng Tự Do
Đã thấm sâu khổ nhục kiếp lưu đầy
Ma mất mộ, tìm không thấy cuộc đời
Chim mất tổ là thôi hát ngày dài
Bên bờ sông Seine ta thành tượng đá
Ta lắng thinh bỏ mặc những nhân tình
Trong hiu quạnh, chờ mong tháng ngày lành
Sưởi hồn ta, đổi kiếp... tái sinh.
Tại Hoa Kỳ trước ngày 30-4-75, không bao giờ có những tổ chức thiên cộng công khai của Việt Kiều. Chỉ có rất nhiều những hoạt động của người Mỹ, hoặc vì lý tưởng hoà bình hoặc vì truyền thống dân chủ quen chống lại những bộ máy chính quyền nên xuống đường, biểu tình, đốt thẻ trưng binh phản đối cái gọi là VIET NAM WAR.
Tại Mỹ cũng không hề có những tổ chức ngoại vi của Cộng Sản như Hội Việt Kiều Yêu Nước chẳng hạn. Sau ngày 30-4, trước sự vi phạm nhân quyền của Hà Nội do phong trào boat people tố cáo, không thấy những ''chiến sĩ hoà bình'' kể trên đâu nữa, tôi phải soạn thêm một bài tỏ tình với Mỹ Quốc, sau bài Hát Trên Đường Tạm Dung. Tôi hỏi họ trước đây đã từng đấu tranh cho những người bị giam trong ''chuồng cọp'' dưới các chế độ gọi là Mỹ-Diệm hay Thiệu-Kỳ-Hương gì đó. Bây Giờ Các Ngài Ở Đâu? là tên của bài hát:
Các Ngài bây giờ ở đâu?
Khi xưa hay đứng hàng đầu
Nhân danh Hòa Bình
Và lương tâm loài người
Các Ngài kêu gọi thật là oai...
Các Ngài bây giờ ở đâu?
Ngày nào các Ngài đua nhau
Xuống đường tranh đấu
Ôi muôn sắc muôn màu
Nhớ những lời Ngài
Vang trên đường dài
Muốn có Hòa Bình
Hãy cứ làm tình
Đừng làm chiến tranh.
Bây giờ các Ngài ở mô?...
Các Ngài có còn ngủ không?
Nhìn về phương trời hừng Đông
Nơi người dân sống
Ôi đau đớn vô cùng
Dưới ách độc tài
Trí thức ngậm ngùi
Giáo sĩ lìa đời
Mất hết quyền người
Trẻ già gái trai
Sống đời nô lệ mà thôi.
Bây giờ các Ngài ở đâu?
Làm ơn cho đời được biết
Ngài còn sống hay chết?
Sau ngày 30-4-75, có bao nhiêu Việt Kiều ở Mỹ là có bấy nhiêu người chống Cộng Sản nhưng khi tới Paris vào năm 79, 80 tôi vẫn còn thấy sự hiện diện của những tổ chức thiên Cộng như thời 54-55. Nghe nói vào năm 1977, khi ông Phạm Văn Đồng qua đây, sự đón tiếp của kiều bào hồ hởi không kém cuộc đón tiếp ông Hồ vào năm 1946 là mấy. Còn có thể nói tưng bừng hơn vì ở Paris hiện nay có Đại Sứ Quán để công khai huy động Việt Kiều, không phải chỉ là công nhân và lính thợ, mà là trí thức hay đại trí thức có địa vị cao sang trong xã hội Pháp.
Nhưng từ khi xẩy ra phong trào boat people (1978) thì có một sự tỉnh mộng nào đó nơi những người xưa nay có cảm tình với Hà Nội. Bà con thân thích vượt biển (hay đoàn tụ gia đình) tới Pháp và dạy cho họ một bài học chính trị thực tế. Sau đó, có người hoàn toàn cắt đứt liên lạc với Sứ Quán, có người chưa dứt khoát vì họ còn cần o bế Hà Nội để đưa gia đình qua Pháp hay thủ lợi trong dịch vụ nào đó. Chỉ cần hơn mười năm nữa (1992) là huyền thoại về chủ nghĩa Mác-Lê vô địch, về nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa sẽ tan tành. Việt Kiều thiên Cộng ở Pháp càng về thăm quê hương càng tỉnh mộng hơn.
Vượt Đại Tây Dương nhiều lần, viếng thăm nhiều nước Âu Châu, tôi thấy đồng hương ở đâu cũng ổn định nhanh chóng cuộc sống, phấn khởi sau khi có phong trào boat people và những mâu thuẫn trong nội bộ Cộng Sản. Ai cũng đóng góp thêm vào việc thức tỉnh lương tâm nhân loại, vận động mọi người ở mọi nơi đấu tranh cho người dân ở trong nước.
Tuy được may mắn đi đây đi đó, gặp gỡ bạn cũ hay thính giả mới, nhưng bây giờ con người du khách trong tôi muốn được thoả mãn những giấc mộng giang hồ, nuôi từ thời còn đứng bên cầu biên giới, mơ sống bên người đẹp Tô Châu hay chết bên bờ sông Danube...
Thực ra, danh lam thắng cảnh ở Âu Châu nhiều vô cùng. Tôi rất chú trọng tới di tích của những danh nhân thời xưa và muốn biết người ta đã đối xử với người làm văn hóa như thế nào?
Tới Anh Quốc, tôi đi thăm căn nhà xưa của William Shakespeare, đã trở thành bảo tàng viện. Ngôi nhà cổ xây theo kiểu nông trại miền quê, phòng rất hẹp, trần nhà thấp, cột gỗ đầy nhà. Gác xép ngắn ngủi đưa lên tầng hai, tôi chú ý tới sự nghiêng lệch của sàn gác. Cái giường ngủ của Shakespeare nhỏ như giường con nít. Thi thư, kịch bản nằm đầy trên bàn giấy của đại thi sĩ kiêm kịch tác gia.
Tới thăm của quê hương của đại thi sĩ Anh Quốc, tôi nhớ ra mình có dịch và phổ thành ca khúc một bài thơ tiếng Anh. Bài này có cái tên là Nhiệm Mầu Thay Phép Lạ Hóa Công và do Elvis Phương hát vào băng PHƯƠNG NGA 4 ở PARIS, hồi mới 1978. Lúc dựa vào bài thơ để phổ nhạc, tôi cứ tưởng bài thơ là của Shakespeare, gần đây anh bạn Phạm Quang Tuấn ở Australia đã cho biết đó là bài Eyes And Tears của Andrew Marvell:
How wisely Nature did decree,
With the same Eyes to weep and see!
That, having view'd the object vain,
They might be ready to complain.
And since the Self-deluding Sight,
In a false Angle takes each hight;
These Tears which better measure all,
Like wat'ry Lines and Plummets fall.
Two Tears, which Sorrow long did weigh
Within the Scales of either Eye,
And then paid out in equal Poise,
Are the true price of all my Joyes.
What in the World most fair appears,
Yea even Laughter, turns to Tears:
And all the Jewels which we prize,
Melt in these Pendants of the Eyes.
I have through every Garden been,...
Thus let your Streams o'reflow your Springs,
Till Eyes and Tears be the same things:
And each the other's difference bears;
These weeping Eyes, those seeing Tears.
Bài Nhiệm Mầu Thay Phép Lạ Hóa Công có những lời ca như sau:
Thật là nhiệm mầu thay phép lạ của hóa công
Cùng là một đôi mắt sao vừa khóc vừa trông
Thi nhân đã nói đúng
Tôi nhìn rồi khóc ròng
Nhìn cuộc đời xa xôi hay nhìn ngay gần tôi...
Nhìn về miềễn quê hương thấy là một vết thương
Mình là người trong nước sao toàn thấy hờn căm
Ba mươi năm chinh chiến
Giết mình và giết người
Giờ này còn chưa thôi nuôi thù oán ngụt trời.
Ngồi nhìn quanh thế giới, thấy toàn gian dối
Ai cũng nói hoà bình, cũng nói cuộc tình
Giữa loài người trong cõi tử sinh
Nhìn rồi sẽ khóc to cho người khốn khó
Đang kêu gào tự do trong khổ đau
Muốn loài người hãy cứu được nhau...
Thật là nhiệm màu thay phép lạ của hóa công
Cuộc đời còn mong muốn phép lạ đến nhiều hơn
Xin cho trên thế giới cho người phải cứu người
Để được dùng con mắt khóc rồi sẽ được cười...
CODA
Thực là nhiệm màu thay
Phép lạ của hóa công
Ta vừa trông vừa khóc
Khóc mừng cho cuộc sống...
Khi tới nước Pháp, cùng với con trai Duy Cường, vốn thích hội họa, hai bố con bèn đi thăm nhà Van Gogh. Phòng nào cũng treo đầy những bức tranh rực rỡ của nhà họa sĩ đã tự xẻo tai mình trong cơn điên hội họa.
Không còn gì thú vị hơn là vừa được coi một bức tranh Van Gogh vẽ nhà thờ, rồi lại tới ngay ngôi nhà thờ đó.
Tới Salzbourg ở nước Áo, tôi vội vã đi thăm căn nhà Mozart, cũng trở thành một bảo tàng viện từ lâu. Bản thảo nhạc viết tay, đàn clavecin, thậm chí cả áo quần giầy dép của Mozart đều được giữ gìn cẩn thận. Nhà Shakespeare xưa đã hẹp nhà Mozart còn hẹp hơn.
Tôi qua nước Ý nhiều lần và đã hai lần tới Venise, một thành phố nằm trên bờ biển, với những lâu đài, dinh thự cổ kính và những con sông với những chiếc thuyền cong (gondola) nên thơ mà hình ảnh đã in sâu vào trí não tôi từ ngày tôi còn nhỏ, coi cinéma hay nghe nhạc Pháp Ý do Tino Rossi, Rita Kelly hát... O Venise La Belle, La Chanson Des Gondoliers... 
Nước Ý còn là kinh đô Roma với thánh khu Vatican của người công giáo... với võ trường là nơi bạo chúa Néron tới coi đấu sĩ (gladiators) giao tranh với thú dữ... với vườn hoa phun nước để tôi ném vài đồng xu xuống đó, miệng khấn thầm mong được gặp một người tình, như trong phim chiếu bóng La Fontaine Des Amours thuở nào.
Được đi thăm những nơi có di tích của lịch sử văn hóa, chen chân giữa đám đông khách du lịch tứ xứ, lòng đầy cảm phục người ta mà cũng đầy ngán ngẫm thương cho thân phận nghệ sĩ Việt Nam...
Cho nên cảnh đồng quê tĩnh mịch vô danh bao giờ cũng quyến rũ tôi nhiều hơn. Tại vùng quê nước Pháp hay tại vùng Bắc Âu, đi trên những con đường vắng vẻ, bên bờ biển Bắc âm u, hay nằm dài trên sườn đồi vắng... kẻ lãng mạn như tôi có dịp được hoà mình với thiên nhiên, như đôi bạn thân thiết xa nhau lâu ngày bây giờ gặp lại.
Và càng thêm nhớ rừng sâu Việt Bắc, núi đồi trung du, sông nước Hậu Giang, biển Đông sóng gợn...
Thời hải ngoại
Chương Mười ba
Nói về sáng tác, trong loạt tỵ nạn ca, bây giờ, tôi chuyển đề tài từ con "con đường tự do" qua "con đường mất tự do" với những bài như Hát Cho Người Ở Lại:
Hát cho người ở lại quê hương
Với tấm lòng sót thương vô vàn
Hát cho người trong họ hàng
Đang biến thành ma đói lang thang...
Vào năm này, quả rằng dân Việt Nam phải ăn cơm trộn thường xuyên...
Hát cho người ở lại nơi quê
Chúng tôi thường vẫn mong ngày về
Nắm tay cười, xây lại đời
Nơi nước Việt yêu quý yên vui
Hát cho người tình vợi thương đau
Hát cho Mẹ với em quên sầu
Hát cho đời! Hát cho người!
Quyết đấu tranh cho nước Việt tôi!
Thế rồi hai năm trước khi tập thơ khủng khiếp của Nguyễn Chí Thiện bay ra thế giới tự do, tôi soạn bài Giấc Mơ Khủng Khiếp, một tác phẩm trong loại ác ảnh quê hương:
Đêm hôm qua tôi nằm mơ về nước
Đi lang thang trong thủ đô lạnh ngắt
Những gốc me trước tôi hay thả hồn
Chờ người yêu, để nắm vai hôn
Cây me tươi, nay già khô trụi lá
Người tôi yêu tóc bạc khô ngồi đó
Mắt trông tôi, rất xa vời, xa lạ
Nhìn tôi như nhìn khoảng trống bao la.
Giật mình tỉnh dậy!
Trời ơi! Khủng khiếp, khủng khiếp quá thôi!
Giật mình tỉnh dậy!
Trời ơi! Khủng khiếp, khủng khiếp quá thôi!
Xin cho tôi đừng ngủ nữa
Xin thôi không nằm mộng dữ
Xin cho tôi mộng dệt hoa
Xin cho tôi đẹp mộng mơ
Cho tôi mơ nước Việt Nam giàu có
Quê hương tôi đi về nơi rực rỡ
Có con tim biết quên đi hận thù
Và Tình Yêu nổ vỡ tim ra.
Cho tôi mơ nước của tôi được thoát
Khỏi cơn nguy, ra khỏi tay tàn ác
Chốn Á Đông có nước Việt yên lành
Tự do xây một đời sống thanh bình.
Tôi không được sống ở Việt Nam sau ngày 30-4-75 nên chỉ tưởng tượng ra cảnh quê hương được mô tả trong những cuốn sách vễ học tập cải tạo. Phải đợi khi có tập thơ của Nguyễn Chí Thiện thì mới thấy tất cả những tác phẩm văn học nghệ thuật của chúng tôi - dù tác giả ra khỏi nước hoặc kẹt lại và được hưởng mùi trại cải tạo trong năm năm hay mười năm - đều rất bé bỏng so với tác phẩm của một người Việt Nam chống Cộng bằng bút mực trước cả những nhà trí thức Nga Sô như Pasternak, Soljenytsine và Sakharov nghĩa là từ ba, bốn chục năm về trước. Tuy nhiên xin bạn đọc cho phép tôi được kể nốt ra đây phần còn lại của bài Giấc Mơ Khủng Khiếp:
Đêm hôm qua tôi nằm mơ lội nước
Suôi theo sông tôi về quê thuở trước
Đứa bé con vẫn hay quen đợi quà
Của Mẹ yêu, chợ vãn ban trưa.
Như con trâu, cha mẹ tôi lầm lũi
Phải lao công xin chuộc bao tội lỗi
Khắp nước tôi đã biến ra trại tù
Toàn dân tôi thành một đám nô lệ.
Giật mình tỉnh dậy!
Trời ơi! Khủng khiếp, khủng khiếp quá thôi!
Giật mình tỉnh dậy!
Trời ơi! Khủng khiếp, khủng khiếp quá thôi!
Xin cho tôi đừng ngủ nữa
Xin thôi không nằm mộng dữ
Xin cho tôi mộng dệt hoa
Xin cho tôi đẹp mộng mơ.
Cho tôi mơ nước Việt Nam giầu có
Quê hương tôi đi về nơi rực rỡ
Có con tim biết quên đi hận thù
Và Tình Yêu nổ vỡ tim ra
Cho tôi mơ nước của tôi được thoát
Khỏi cơn nguy, ra khỏi tay tàn ác
Chốn Á Đông có nước Việt yên lành
Tự do xây một đời sống thanh bình.
Tôi sẽ soạn thêm một số bài ca khủng khiếp như vậy trước khi có tập thơ Hoa Địa Ngục của Nguyễn Chí Thiện để soạn 20 bài ngục ca rút ra từ 300 bài thơ của một người - tôi cho là - rất trong sáng, một người tôi gọi là ngục sĩ.
Cho tới những năm đầu của thập niên 80, đồng bào vượt biên càng ngày càng nhiều trong đó có số đông văn nghệ sĩ và cựu quân nhân, công chức đã từng bị Cộng Sản giam cầm. Ra tới thế giới tự do, mỗi người có một chuyện để nói về trại tập trung cải tạo.
Tạ Tỵ có Đáy Địa Ngục, Phạm Quốc Bảo có Cùm Đỏ, Hà Thúc Sinh có Đại Học Máu và loạt tủi nhục ca. Đó là chưa kể những cuốn sách cũng tố cáo quần đảo ngục tù Việt Nam của những người tới trước hay tới sau ba người kể trên, như Trần Huỳnh Châu với Hồi Ký Cải Tạo, Hoàng Liên với Ánh Sáng Và Bóng Tối v.v...
Tất cả đều nói tới chính sách trả thù và lối cai trị bằng khủng bố của chính quyền mới qua những trại cải tạo. Cuốn sách nào cũng mô tả tới tột đỉnh đau thương của tác giả sau những năm tháng khổ nhục tại các trại giam ở nơi rừng thiêng nước độc, dưới quyền sinh sát của cán bộ.
Nhưng tính cho tới mùa Thu 1992, thời gian mà những văn nghệ sĩ, quân nhân, công chức của chính quyền miền Nam cũ nếm mùi cải tạo lâu nhất là trên dưới 16 năm. Người nào cũng có thân quyến hay bạn bè vượt muôn ngàn khó khăn đi thăm nuôi, tối thiểu cũng một hai lần.
Chỉ có một người ở tù lâu năm nhất - tính cho tới ngày được thả là trên dưới 30 năm - bị bắt giam không cần xét xử trong 20 năm mà không được ai biết tới, không được ai thăm nuôi. Nếu người tù này không dũng cảm tung ra thế giới tự do một tập thơ làm cho trời long đất lở, chắc ông đành phải chết âm thầm trong bóng đêm như lời thơ của ông. Và nếu người Việt hải ngoại không tìm mọi cách phổ biến tập thơ của ông, chưa chắc cái gọi là gulag Việt Nam được thế giới chú ý đến thế, khơi dậy được lòng người đến thế, chính quyền Hà Nội bị tố cáo vi phạm nhân quyền trầm trọng, rồi bị cô lập đến thế!
Người đó là Nguyễn Chí Thiện.
Lúc đó là vào tháng 10 (tháng sinh nhật của tôi) năm 1980. Tại Khu Bolsa, chúng tôi thường nhóm họp, đàn hát trong những ngày cuối tuần, hoặc ở nhà tôi hoặc ở nơi sinh ra tờ báo Người Việt là cái garage chật chội và bụi bậm của Đỗ Ngọc Yến, hay ở nhà Nguyễn Đức Quang.
Tôi hãy còn đang sống trong cơn mê sảng của những bài hát ảo ảnh quê hương dù đã tự coi mình là gió muôn phương nghĩa là gió nóng trên sa mạc Úc Châu, gió lạnh nơi núi tuyết Canada, gió thổi lá chết (của Jacques Prévert) ở Paris, gió hôn hoa đào ở Nhật Bản... và đang chờ thời cơ để thổi về Việt Nam... Thời cơ chưa tới vì bức tường Bá Linh chưa đổ, Vạn Lý Trường Thành chưa lung lay, cửa điện Cẩm Linh chưa vỡ toang.
Thì không ngờ cơn gió lớn lại từ trong nước thổi ngược ra. Qua tập thơ của Nguyễn Chí Thiện.
Một buổi tối cuối tuần tại nhà Đỗ Ngọc Yến, trong khi mọi người đang ngồi chơi, Bùi Bảo Trúc từ Hoa Thịnh Đốn gọi ''long distance'' qua, đọc cho nghe vài bài thơ của một người không ai biết là ai? Nhất là tôi, khi được hỏi tới.
Chỉ biết đó là thơ của một thi sĩ ở Bắc Việt. Mới nghe vài câu thơ mọi người đã sửng sốt! Sau đó, chúng tôi có phóng bản của một tập thơ viết tay gồm 4000 câu thơ. Chúng tôi biết thêm sự xuất hiện ly kỳ của tập thơ này. Một người tù được tạm tha tới Sứ Quán Anh ở Hà Nội trao cho nhân viên sứ quán tập thơ của mình kèm theo một tờ thư viết bằng Pháp ngữ:
C'est au nom des millions de victimes innocentes de la dictature, déjà succombées ou subissent encore une mort lente et douloureuse dans les bagnes communistes, que je vous prie de faire publier ces poèmes dans votre pays libre. C'est le fruit des mes vingt ans de travail. La plupart ont été créés dans mes années de détention (...) De ma vie brisée, il ne reste qu'un rêve, c'est de voir le plus grand nombre possible d'hommes prendre conscience de ce que le communisme est un grand fléau de l'humanité.
Bản dịch:
Nhân danh hàng triệu nạn nhân của độc tài, đã chết hay đang chết chậm và đau đớn trong lao tù cộng sản, tôi xin ngài cho ấn hành những bài thơ này tại xứ sở tự do của ngài. Đây là kết quả của hai mươi năm làm việc của tôi. Phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị giam giữ (...) Trong cuộc đời tan vỡ của tôi, chỉ còn một ước mơ được thấy nhiều người ý thức được chủ nghĩa cộng sản là một tai hoạ của nhân loại.
Bị Công An chặn lại khi vừa tới cổng Sứ Quán Anh, ông chỉ kịp ném tập bản thảo vào bên trong rồi bị bắt giam ngay 1. Tập thơ được gửi về Bộ Ngoại Giao Anh rồi được chuyển qua Đài BBC ở London. Nhân viên người Việt của đài là ông Đỗ Văn vội vàng gửi ngay cho Hồ Anh, chủ báo Văn Nghệ Tiền Phong ở Washington DC để tùy nghi khai thác.
Tại vùng Thủ Đô Hoa Kỳ này có ủy Ban Đòi Tự Do Cho Văn Nghệ Sĩ Bị Cầm Tù do nhà văn vừa ra thoát khỏi nhà tù Cộng Sản là Nguyễn Hữu Hiệu thành lập. Hồ Anh chưa kịp khai thác tập thơ thì bằng cách nào đó, Nguyễn Hữu Hiệu có tập bản thảo và tự cho mình có nhiệm vụ phải ấn hành ngay tập thơ, lấy tên là Tiếng Vọng Từ Đáy Vực. Báo Văn Nghệ Tiền Phong cũng cho ấn hành tập thơ với tên Chúc Thư Của Một Người Việt Nam. Cả hai tập in ra đều không đề tên tác giả vì lẽ giản dị vào lúc đó, không ai biết tác giả là ai.
Tập thơ làm tôi rúng động. Trong mười đêm, tôi chọn một số bài thơ để phổ thành mười ca khúc tôi gọi là ngục ca. Vì cũng không biết tên tác giả, tôi gọi thi sĩ là ngục sĩ.
Rồi thấy mười bài chưa đủ, tôi phổ nhạc thêm mười bài nữa. Đó là những bài:
Từ Vượn Lên Người Từ Người Xuống Vượn
Đảng Đầy Tôi
Ngày 19 Tháng 5
Xưa Lý Bạch
Những Thiếu Nhi Điển Hình Chế Độ
Tôi Có Thể hay là Vô Địch
Chuyện Vĩ Đại Bi Ai
Thấy Ngay Thủ Phạm
Nước Đổng Trác Điêu Thuyền
Sẽ Có Một Ngày
Cái Lầm To Thế Kỷ
Đôi Mắt Trương Chi
Vì Ấu Trĩ
Tia Chớp Này Vĩ Đại
Ôi Mảnh Đất Hình Hài Chữ S
Đất Nước Tôi
Xin Hãy Giữ Mầu Trong Trắng
Biết Đến Bao Giờ Lời Thơ Của Tôi?
Trong Bóng Đêm
Thời Đại Hồ Chí Minh
Tôi cố gắng làm cho ngục ca có nhiều nhạc tính.
° Khi thảm thiết như Những Thiếu Nhi Điển Hình Chế Độ, Chuyện Vĩ Đại Bi Ai...
° Khi ngạo nghễ như Đảng Đầy Tôi, Xưa Lý Bạch...
° Khi cười cợt như Từ Vượn Lên Người Từ Người Xuống Vượn, Nước Đổng Trác Điêu Thuyền...
° Khi tiếc hận như Ôi Mảnh Đất Hình Hài Chữ S, Cái Lầm To Thế Kỷ...
° Khi mãnh liệt như Trong Bóng Đêm, Tia Chớp Này Vĩ Đại...
° Khi như vè, ca dao trong Thấy Ngay Thủ Phạm...
° Khi sót sa như Xin Hãy Giữ Mầu Trong Trắng...
° Khi trong sáng, lãng mạn như Sẽ Có Một Ngày...
Vừa soạn ra những bài đầu tiên là tôi hát trong phone hay tới hát cho bạn bè nghe trong buổi sinh hoạt cuối tuần. Nguyễn Đức Quang thuật lại buổi ra mắt đầu tiên của tập thơ Tiếng Vọng Từ Đáy Vực và của ngục ca trong báo Người Việt số 26 ra ngày 10-10-1980 nhan đề Lại Nổi Gai Ốc:
Ở sân Đại Học Xá Thanh Quan năm 66 nghe anh Phạm Duy hát tâm ca rồi ngâm thơ Đêm Liên Hoan, tôi còn nhớ cảm giác bấy giờ là người rờn rợn nổi da gà (...) mặc dù tôi đứng hát với anh:
Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe
Cứ thích đi về nẻo đường mà mình mong ước
Nẻo đường mong ước đó bây giờ anh trở lại. Khi mà tiếng gọi mới mở ra như một thôi thúc đúng nhịp: Từ vượn lên người mất mấy triệu năm... Bài hát mới, soạn theo tập thơ vừa ra đời. Tính chất của thơ lộ rõ trong đêm đọc thơ đầu tiên. Đó là đêm hối hả, chờ chực, sốt ruột (...) vì tôi là người cầm quyển thơ độc nhất và đem đi học từ buổi sáng.
Phạm Duy, Phạm Cao Dương, Thái Tú Hạp, Duy Sinh, Trần Diệu Hằng,Tống Hoàng và vài người nữa... ngồi trong hơn một tiếng đồng hồ (để nghe) tôi đọc thử vài bài:
Bác Hồ rồi lại bác Tôn
Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác màu hồng
Nước da các cháu nhi đồng màu xanh.
Phạm Duy bật dậy như một cái lò xo. Phản ứng như một quả lưụ đạn đã rút chốt ''Tôi sẽ phổ nhạc''. Cái bắt gặp của anh và mọi người đêm đó là như vậy. Và suốt trong 3, 4 ngày, (dùng) dây điện thoại hỏi tập thơ đã (từ Washington DC gửi) về chưa? Phạm Duy không nói, anh hát ngay trong điện thoại cho nghe:
Một tay em trổ: đời xua đuổi
Một tay em trổ: hận vô bờ
Thế giới ơi ai có thể ngờ
Đó là một tù nhân tám tuổi
Trên bước đường tù mà tôi rong ruổi
Tôi gặp hàng ngàn em bé như em...
Cũng như cảm giác thời ở Đại Học Xá Thanh Quan, tôi rợn da người (...) Tôi giật mình vì cái bén nhậy 15 năm xưa không tàn theo tuổi đời.
Vâng, lúc đó tôi nhìn thấy ngay tập thơ mang tên Tiếng Vọng Từ Đáy Vực hay Chúc Thư Của Một Người Việt Nam là một vũ khí rất hữu hiệu để tố cáo chủ nghĩa Cộng Sản. Từ ngày phải bỏ nước ra đi, trong Cộng Đồng người Việt, ai cũng nói tới một nền ''văn nghệ chiến đấu''. Ai cũng nghĩ rằng loại nhạc chiến đấu bây giờ có thể giống như loại nhạc huy động nhân dân đánh Pháp trong thời kháng chiến hay nhạc vận động thanh niên đi lính Cộng Hòa chẳng hạn.
Nhưng theo thiển ý thì nó đã phải khác rồi: nếu trong đám nghệ sĩ có ai muốn thực sự soạn nhạc chiến đấu thì phải tay súng tay đàn cùng với đoàn quân giải phóng đột nhập vào Việt Nam... chứ không nên sống khơi khơi trong xã hội đầy tiện nghi của Âu Mỹ Úc rồi kêu gọi mọi người phục quốc. Tôi cũng biết tị nạn ca của tôi chỉ là than vãn phận mình và thương nhớ quê hương. Nhưng nếu bước thêm bước nữa, soạn nhạc (gọi là) phục quốc là đi vào con đường nhạc mị dân. Theo tôi, muốn làm chính trị bằng văn nghệ khi mình chưa có cơ hội (hay can đảm) về sống tại chiến khu trong nội địa, điều hay nhất là người hải ngoại nên phối hợp với người trong nước để nói lên tiếng lòng của dân tộc Việt Nam.
Vào lúc này, tập thơ Tiếng Vọng Từ Đáy Vực hay Chúc Thư Của Một Người Việt Nam đã gợi cho tôi một mối thương tâm lớn đối với một người tù có những bài thơ làm tôi choáng ngợp. Nếu tôi cũng phần nào vô tình hay hữu ý đóng góp vào cứu cánh mà chính thi sĩ cũng mong đợi qua lá thư kể trên... thì nó khởi sự từ cái nhìn thấy giá trị của tập thơ và tôi cần phải phổ nhạc nó để cứu nhà thơ này ra khỏi ngục tối.
Trong một thời gian ngắn, tập thơ mang hai cái tên của một người tôi gọi là ngục sĩ và những bài ngục ca được phổ biến khá rộng rãi trong hai vùng Washington DC và Nam Cali là những nơi có đông người Việt. Một cựu giáo viên ở Bắc Việt tên là Minh Huy qua được Hồng Kông (nhờ vụ chính quyền Hà Nội cho người Hoa đi theo kiểu bán chính thức) rồi tới định cư ở Khu Bolsa. Ông này đọc báo Người Việt và báo Văn Nghệ Tiền Phong, thấy tập thơ kỳ lạ này có mặt tại nước Mỹ nên tới gặp tôi tại Thị Trấn Giữa Đàng, và sau khi truyện trò thì tôi biết rõ hơn về Nguyễn Chí Thiện để sẽ cung cấp tin tức về nhà thơ này cho những ai muốn biết...
Từ đó trở đi nhân dân thế giới được biết một câu chuyện ly kỳ nhất của thời đại...
° Ly kỳ vì bây giờ người ta mới biết rằng sau Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm, vẫn có người trí thức ở miền Bắc kịch liệt chống đối chế độ. Người này tố Cộng ở ngay trong lòng địch trước khi miền Nam mở chiến dịch tố Cộng.
° Ly kỳ vì trong đời tù dài 20 năm, không có giấy bút trong tay mà thi sĩ làm được 4000 câu thơ trong đầu.
° Ly kỳ trong hành động sáng suốt và can đảm của ông, liều chết đưa được tập thơ vào Sứ Quán Anh.
° Ly kỳ ở chỗ người Anh muốn tập thơ ra với thế giới tự do, không sợ rắc rối ngoại giao mà ỉm nó đi.
° Còn khá ly kỳ trong việc có hai tổ chức cùng ấn hành tập thơ gây nên một vụ án văn học.
° Ly kỳ thêm là nhờ có bạn đồng tù của thi sĩ vượt biên qua Mỹ nên mọi người mới biết rõ tên tuổi và cuộc đời của ông.
° Ly kỳ nhất là dù Cộng Sản Hà Nội muốn bịt miệng, trói tay, giam ông vào ngục tối một cách tàn bạo và kỹ càng đến đâu đi nữa cũng không tránh được việc quả bom nguyên tử của ông nổ tung ra thế giới.
° Ly kỳ tột bực là sau 30 năm bị giam trong bóng đêm đè nghẹt, ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện vẫn chưa chết để ra khỏi đời tù vào một ngày mùa Thu năm 1991. Đúng như lời thơ của thi sĩ:
Để đánh được kẻ thù
Tôi không được hèn ngu
Để thắng được kẻ thù
Tôi phải sống ngàn thu!
° Còn thêm một việc ly kỳ nữa là các nhân vật nổi tiếng trong chính trường như cựu Tổng Thống nước Sénégal, Léopold Senghor... và trên văn đàn như Pierre Emmanuel, René Tavernier, Norman Mailer, các hội Văn Bút quốc gia và quốc tế như Pen Los Angeles, Pen Netherlands, Pen international, Writers in Prison Committee cùng các tờ báo lớn của Pháp, Mỹ, Nhật như Le Figaro, New York Times, Asahi Evening New, các tổ chức nhân quyền Amnesty international, Asia Watch... và sau khi được người Việt hải ngoại tích cực vận động nên đã liên tục đấu tranh không ngưng nghỉ cho ngục sĩ. Rồi cuối cùng, thi sĩ đã được trả tự do.
Tôi cũng đóng góp vào việc vận động tự do cho ông Nguyễn Chí Thiện trong thời gian tôi nhận làm correspondant cho Amnesty international, được hân hạnh giao thiệp với các vị cao cấp trong tổ chức Ân Xá Quốc Tế và nhất là với Ông Leopold Senghor, bạn học của anh tôi, Phạm Duy Khiêm.
Sau khi tôi vận động ông cựu Tổng Thống kiêm thi sĩ của nước Sénégal, ông này đã gửi cho tôi bản sao của lá thư ông gửi cho ông Phạm Văn Đồng, xin ân xá cho nhà thơ Nguyễn Chí Thiện mà ông gọi là bạn đồng bút (collègue).
Bây giờ xin nói về địa vị của một người trí thức Việt Nam trong công cuộc tố cáo chế độ Cộng Sản ở trên thế giới. Trước đây, qua cuốn Gulag Archipelo của nhà văn Soljenytsyne, thế giới biết rằng Liên Sô không phải chỉ có Sibérie để làm nơi giam cầm thể xác những người chống đối mà còn rất nhiều trại giam ở rải rác trên đất Nga khiến cho nhà văn này phải gọi là Quần Đảo Lao Tù. Rồi qua lập luận của thi sĩ Mislop người ta thấy ngoài việc giam cầm thể xác ở Liên Sô, Cộng Sản còn một hình thức cai trị khác là giam nhốt tâm trí ở Ba Lan.
Nay qua 4000 câu thơ viết bằng nước mắt, mồ hôi và máu (được gọi chung là Hoa Điạ Ngục), Nguyễn Chí Thiện lột trần bộ mặt thực của chủ nghĩa Cộng Sản hơn bất cứ một nhà trí thức nào trên thế giới vì ông là người bị giam cầm cả tâm hồn lẫn thể xác và bị giam giữ lâu nhất (tính tới ngày được thả là 30 năm) Ông lại là người nói lên điều này trước tất cả mọi người, chống đối Cộng Sản bằng ngòi bút trước cả ba người đoạt giải Nobel là Pasternak, Soljenytsyne và Sakharov.
Ai cũng biết vai trò của người trí thức là rất quan trọng tại các nước độc tài. Tại các nước dân chủ, trí thức không quá ư cần thiết vì đã có tôn giáo với Thượng Đế và Giáo Hội để điều hợp xã hội. Các nước Cộng Sản (tức là Đảng) cần trí thức để biện minh cho chế độ độc tài, cho rằng chuyên chính vô sản là một nhu cầu lịch sử không thể nào tránh được trên bước đường giải phóng nhân loại.
Nói cho ngay, từ khi chủ nghĩa Cộng Sản mới xuất hiện, vốn là những con người lý tưởng, lớp trí thức dễ dàng bị quyến rũ. Nhưng sau khi chế độ Cộng Sản được thành lập ở Nga, có những trí thức tỉnh mộng ngay. Tuy nhiên, các chứng nhân André Gide, Arthur Koestler chỉ nhìn vào sự phi nhân của chế độ Stalinist với con mắt bàng quan. Họ không phải là nạn nhân của chế độ nên không có thái độ chống đối tích cực. Phải đợi khi có những nhà văn, nhà thơ ở trong các nước Cộng Sản bị chế độ giam giữ tinh thần hay thể xác, mới thấy có sự lên tiếng mãnh liệt về cái mà Nguyễn Chí Thiện gọi là hiểm hoạ của nhân loại.
Tại thành trì Cộng Sản là Liên Xô hay tại các nước Cộng Sản Đông Âu không có hiện tượng toàn thể trí thức cùng một lúc đứng lên phản đối chế độ như ở Việt Nam. Tôi hiểu được vì sao Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm bị Cộng Sản Việt Nam đàn áp tàn bạo như vậy. Đây là sự chống đối của tất cả trí thức vì nhóm Nhân Văn Giai Phẩm gồm đầy đủ thành phần văn nghệ sĩ các ngành, trí thức các khoa. Họ bị kết án, sa thải, đầy đọa, phải thú tội rồi được ân xá ra sao, chúng ta đã biết.
Duy chỉ có kẻ sĩ Nguyễn Chí Thiện (người tiếp tục tinh thần Nhân Văn Giai Phẩm) là bị giam giữ lâu năm nhất vì sự chống đối kịch liệt của ông qua những câu thơ chửi chế độ, chửi lãnh tụ mà những người trong Nhân Văn Giai Phẩm không ai dám làm. Các kiện tướng của phong trào phản kháng như Phan Khôi, Hoàng Cầm, Trần Dần cũng chỉ dám nói bóng nói gió mà thôi.
Trong thời gian tôi "gặp" Nguyễn Chí Thiện, anh bạn của tôi là bác sĩ Trần Ngọc Ninh đã từ Denver (Colorado) dọn về mở phòng mạch tại Santa Ana. Tôi vừa mua được một căn nhà mới ở ngay cạnh căn nhà cũ để "cứu sống" mười hai mạng người trong gia đình, bấy lâu nay vì ở chung một nhà chỉ có ba phòng ngủ và một phòng vệ sinh độc nhất cho nên vào mỗi buổi sáng (nói đùa đấy nhé) phải "giết" nhau mới làm được việc tiểu tiện, đại tiện, đánh răng, rửa mặt, tắm rửa! Bỏ thêm chút tiền xây thêm phòng ngủ, phòng tắm cho cả hai căn nhà, từ nay trở đi gia đình chúng tôi sống êm thắm như trong bài học của sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Tôi có đầy đủ sự yên tĩnh để làm hai công việc vừa khởi sự là soạn tài liệu cho bài thuyết trình về Năm Mươi Năm Tân Nhạc và phổ một số bài thơ của Nguyễn Chí Thiện thành 20 bài ngục ca.
Giải quyết xong vấn đề ăn ở cho toàn thể gia đình, tôi rất rảnh rỗi, nhân anh chị Ninh cần người đưa đón bệnh nhân (người già hoặc mới qua Mỹ chưa có xe hơi), tôi không nề hà nhận làm việc này ngay. Tôi đã từng làm thợ rèn, thợ điện, nông phu, thầy giáo trong thời niên thiếu. Qua Mỹ, đáng lẽ tôi cũng phải làm việc chân tay nhưng tôi khéo xoay xở nên được làm công việc trí óc.
Bây giờ tôi đang có phương tiện (xe hơi), sức khoẻ và thời giờ - lúc này chưa được nhiều nơi mời tôi đi hát như trong những năm sau -, tại sao tôi không dùng nó để kiếm tiền nhỉ? Dù chỉ là tiền "petty cash" cao hơn tiền săng nhớt một chút thôi! Nhưng công việc rất nhàn nhã này không kéo dài vì xảy ra vụ một số y sĩ gian lận về medicare bị đưa ra toà. Khi nhận giúp việc cho cả hai bên bệnh nhân và bác sĩ, rất ngây thơ và ngay thẳng, tôi không biết tới chuyện lạm dụng này, bởi lẽ giản dị anh Ninh không hề làm chuyện đó. Nay thấy cần phải tránh xa cái thế giới đang có "sì căng đan" lớn nên tôi "sì tốp" ngay việc giúp bệnh nhân đi khám bệnh. Vả lại tôi đã khởi sự được mời đi hát sau khi soạn xong 20 bài ngục ca.
Dù sao đi nữa, tôi muốn cám ơn những ngày được làm nghề tài xế cao quý (giống như các ông hoàng Nga trắng tỵ nạn Cộng Sản ở Paris) vì tôi có dịp tiếp xúc với người dân thường, hoặc đã qua Mỹ từ 1975 hoặc vừa mới tới đây bằng đường vượt biên.
Tôi được biết rõ tâm tình của người tị nạn, biết thêm những chuyện vui buồn thầm kín trong xã hội lưu vong. Cuộc tiếp xúc thân mật với dân chúng lần này trong chiếc xe hơi chẳng khác chi lúc tôi đi hát bằng xe lửa, ô tô buýt, bằng thuyền và thời tôi đi bộ trong kháng chiến, đi tới đâu tôi cũng học hỏi rất nhiều ở người dân.
Ngoài ra, đưa bệnh nhân tới phòng mạch phải ngồi chờ rất lâu rồi mới đưa bệnh nhân về nhà, tôi có nhiều thời giờ để sáng tác. Tại phòng khám bệnh của bác sĩ Ninh, trong khi anh bạn bắt bệnh nhân thè lưỡi ra coi hay sắn tay đo tension, tôi ngồi cắn bút viết ngục ca bên cạnh những chai nước khử trùng. Hèn gì ngục ca có mùi nhà thương trong nhạc, ngoài mùi nhà tù của thơ. Có lúc rỗi rãi, chúng tôi ngồi nói chuyện văn nghệ văn gừng trong phòng mạch hay trong quán ăn trưa ở gần đó. Có thể nói bác sĩ Trần Ngọc Ninh là thính giả đầu tiên của những bài ngục ca.
Đêm 27 tháng 12, 1980 là đêm tôi xuất hiện tại Santa Ana với chương trình Địa Vị Của Ngục Ca Trong Năm Mươi Năm Tân Nhạc sau một thời gian khá lâu không có tác phẩm mới.
Ghi chú:
1. Có giả thuyết thi sĩ vào được Sứ Quán nhưng bị giao lại cho nhà chức trách.
Thời hải ngoại
Chương Mười bốn
Trong hai năm trời, 1980-1982, tôi đi khắp nơi trên thế giới với những bài hát gọi là tị nạn ca, ngục ca...
Nhưng tôi đã có phần mỏi mệt, không phải vì con đường dài rộng của thế giới tự do này đầy chông gai hay dãi dầu mưa nắng mà chính vì trong bẩy, tám năm qua, tôi đã phải gân cổ lên hát những bài ca quê hương rất là mê sảng, những bài tị nạn ca đầy tủi nhục, những ngục ca chan chứa hận thù... Và tôi đã nhận lờ mờ ra rằng những người nghe tôi hát cũng mê sảng như tôi.
Phúc đức thay, vào đầu thập niên 80 này đã có một sự kiện làm cho tâm hồn tôi lắng xuống. Sau khi thấy ''dường như'' đã mất quê hương, tôi bỗng nhiên gặp lại quê hương qua những bài thơ của một người bạn cũ. Thơ truyền khẩu thôi, chưa hề là thơ được in ra, ngâm lên...
Đó là những bài thơ đem lại cho tôi những chuyện tình lá diêu bông, chuyện leo vườn ổi và đánh bài tam cúc, chuyện thân thương của những con bê vàng đi tìm mẹ, những con chim cu ngồi gù trên rặng cây, chuyện con chào mào đón gió chờ trăng, chuyện con phù du lận đận, con chim vành khuyên nhớ nhà nhớ tổ... Chao ôi là QUÊ HƯƠNG (viết hoa) của tôi!
Nhờ những bài thơ này mà tôi thấy quê hương của tôi còn quá nhiều cái đẹp chứ không phải chỉ có ác mộng, tù đầy, uất hận và tuyệt vọng.
Lúc đó là ngày mùng 1 tháng giêng năm 1982. Trong một buổi sáng lái xe đi chơi Los Angeles, bước vào một tiệm phở ở Khu Chinatown, tôi bỗng gặp triết gia Phạm Công Thiện đang ngồi ăn với một người bạn, giáo sư dạy Anh Văn. Trong bữa ăn ngồi riêng bàn, chúng tôi nói vài ba câu chuyện xã giao.
Mới đây, Phạm Công Thiện tới nghe tôi ngâm thơ Hoàng Cầm trong một đêm sinh hoạt tại thính phòng ART STUDIO của ký giả Nguyễn Tú A ở thành phố Westminster trong khu Bolsa. Anh cất tiếng hỏi:
- Phạm Duy có biết con gái Hoàng Cầm là Kiều Loan đang ở đây không?
Tôi giật mình vì cái tin quá bất ngờ này! Đã biết thoang thoáng vợ cũ của Hoàng Cầm là Kiều Loan Mẹ đang ở miền Washington DC, rồi biết thêm Kiều Loan Con cũng đã vượt biên, nhưng tôi không thể nào ngờ rằng vợ con của một người bạn rất xa tôi lại đang ở một nơi rất gần tôi, trong khi tôi vừa phổ nhạc những bài thơ của người bạn đó! Thế là tôi nằng nặc đòi được dẫn ngay tới thăm vợ con Hoàng Cầm...
... Trong buổi chiều đầu năm dương lịch này, trên căn gác nhỏ của một chung cư nghèo ở giữa thành phố Los Angeles, hai mẹ con Kiều Loan, Phạm Công Thiện và người bạn giáo sư Anh Văn cùng tôi quây quần quanh cái bàn nhỏ, có nắng Cali lọt qua cửa sổ, rọi xuống khay trà và đĩa bánh ngọt làm tôi nhớ tới vạt nắng hanh vàng ở vùng đất Bắc Giang ngày nào. Căn phòng bỗng dưng có chút gió lạnh mùa Thu Bắc Việt thoảng về. Tôi chợt thấy trong tôi trườn lên một nỗi buồn rất là mênh mang. Người đàn bà không tuổi kia là Tuyết Khanh đấy à? Một câu thơ cũ của một người tình xưa vang trong đầu tôi: Người yêu ơi, sợ quá thời gian...
Chợt nghe người vợ cũ của Hoàng Cầm hỏi:
- Anh Phạm Duy còn nhớ ngày ở Phố Nỉ không? Đây là con gái Hoàng Cầm đó! Anh có thấy cháu giống bố không?
- Nhớ chứ! Làm sao tôi quên được cảnh Hoàng Cầm rung đùi ngâm thơ trong bữa cơm chia tay với chị ở BắcGiang? Chị ơi, thấm thoát đã gần 40 năm rồi! Còn Kiều Loan thì giống bố quá nhỉ! Cháu kể chuyện cho bác nghe ngày cháu gặp bố lần đầu tiên ở Saigon đi...
Tôi được nghe Kiều Loan rối rít nói về việc gặp Hoàng Cầm như gặp một nhà thơ gần gũi hơn là gặp một người cha rất xa lạ, khi thi sĩ từ Hà Nội vào Saigon để gặp con sau ngày 30 tháng Tư 1975...
Hôm nay, trong cuộc tiếp xúc với gia đình Hoàng Cầm sau 37 năm không gặp, tôi tránh không hỏi tới đời tư của hai mẹ con trong hoàn cảnh vì thời cuộc mà vợ phải lìa chồng, con không biết mặt cha. Đóng vai người phóng viên, tôi chỉ muốn biết rõ hơn tiểu sử cũng như những tác phẩm đầu đời của anh.
Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1921 (một bài báo ở Saigon gần đây cho biết anh sinh vào năm 1922) tại Làng Lạc Thổ, Huyện Lang Tài, Phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình Nho Giáo. Hoàng Cầm học Tiểu Học tại Bắc Giang rồi lên Hà Nội học Trung Học và đậu Tú Tài II Pháp. Khi còn đang học lớp Đệ Tứ, Hoàng Cầm phóng tác cuốn Graziella của Lamartine thành chuyện Việt Nam với tên Hận Ngày Xanh. Tiểu thuyết đầu tay của Hoàng Cầm là Thoi Mộng, viết vào năm 1943. Trở về Bắc Giang, dạy học tại trường La Clarté, Hoàng Cầm vẫn viết văn, làm thơ để gửi đăng trên các báo Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy. Anh là người dịch truyện Ba Tư Một Ngàn Đêm Lẻ ra Việt ngữ...
Tôi lúc nào cũng thao thức đi tìm những bài thơ mới cũ của Hoàng Cầm cho nên trong buổi gặp gỡ kỳ thú này, tôi muốn biết thêm về thơ tình của anh, ngoài các loại kịch thơ, thơ kháng chiến mà tôi đã biết rành rẽ. Tôi bèn hỏi:
- Chị có còn nhớ những bài thơ tình mà Hoàng Cầm viết ra để tặng chị không?
Người vợ cũ của Hoàng Cầm định đọc cho chúng tôi nghe bài thơ thi sĩ tặng bà vào năm 1945 khi bà còn là nữ kịch sĩ Tuyết Khanh nhưng Phạm Công Thiện đề nghị chép bài thơ ra để cho cô con gái ngâm lên. Và tôi đã ngất ngây vì giọng ngâm rất giống lối ngâm của Hoàng Cầm:
Một sợi tóc treo ngang trước mộng
Một hàng mi rũ bóng bên đèn
Miệng cười một đóa trao duyên
Lầu thơ mới dựng chưa quên ý tình.
Anh đã về đây lại gặp mình
Cõi đời thiên hạ giấc u minh
Níu tay cười xuống hoàng hôn cũ
Vớt mắt em về bến hóa sinh...
Kiều Loan giống bố một cách lạ thường. Cũng là đôi mắt có đuôi, cái mũi dọc dừa, cái miệng tươi hồng, cái giọng trong trẻo.
Cô nói giữa hai khúc thơ ngâm:
- Hoàng Cầm (không nói là bố cháu) dạy cháu ngâm thơ đó...
Cô ngâm:
... Khanh ơi!
Thể xác hiu hiu bụi
Nắng dãi hoe vàng,
Em ở đâu?
''Khanh ơi! Thể xác hiu hiu bụi'' của Hoàng Cầm cũng là ''Khanh của Hoàng ơi'' của Vũ Hoàng Chương đó! Nếu tôi nhớ không lầm thì - trước hay trong kháng chiến? - thi sĩ họ Vũ cũng đã có một bài thơ tỏ tình với Tuyết Khanh:
Khanh của Hoàng ơi! Lửa bốn phương
Sầu lên dằng dặc gió tha hương
Hỡi ôi trạnh nhớ niềm ly tán
Lại sót nòi thơ buổi nhiễu nhương...
Hoàng Cầm còn có những câu thơ tình để tặng Tuyết Khanh khi hai người phải xa nhau trong kháng chiến - hay khi mất nhau sau khi đất nước bị phân đôi:
Mái tóc buông suôi dòng khói lạnh
Bóng người thiếu phụ thoảng đêm xuân
Minh châu đôi hạt cài bên gối
Đợi đến bao giờ gửi cố nhân...
Trong khi dĩ vãng hiện lên qua những lời thơ ngâm, tôi nhìn trộm Tuyết Khanh nhưng không tìm thấy một nét cảm động nào trên gương mặt hiền hậu của Bà. Người tình xa xưa của Hoàng Cầm, từng trải qua rất nhiều truân chuyên của cuộc sống Việt Nam trong hai thời binh lửa, sau cuộc đổi đời ở Hoa Kỳ đã tìm được quên lãng, an nhiên trong Đạo Phật rồi! Tôi chợt thấy mình có lỗi khi đem dĩ vãng lại cho Bà. Nhưng tôi cứ tham lam gặng hỏi về sự nghiệp của nhà thơ. Và thấy rằng vợ con của anh cũng không biết gì cho lắm.
Chẳng hạn không biết một bài thơ Hoàng Cầm soạn từ khi còn đang làm nghề thầy giáo ở Bắc Giang mà có lẽ thi sĩ cũng đã quên rồi! Hơn nữa, vì anh vắng mặt trong 30 năm nên nếu có ai còn thuộc thơ anh thì cũng chỉ thuộc lõm bõm vài câu thôi. Như hoạ sĩ kiêm thi sĩ Tạ Tỵ:
Nếu anh còn trẻ như năm trước
Quyết đón em về sống với anh
Những buổi chiều vàng phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh.
???
Nhưng thuyền em buộc trên sông hận
Anh chẳng quay về với trúc tơ
Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt
Mộng héo bên song vẫn đợi chờ...
Một người có lẽ đã lớn tuổi và là dân Hà Nội cũ, trong một bài báo đăng trên một tờ nguyệt san ở Virginia còn nhớ thêm bốn câu nữa:
Nếu có ngày nào em trở gót
Quay về thăm lại bến thu xa
Thì đôi mái tóc không xanh nữa
Mây bạc trăng ngàn vẫn thướt tha...
Tôi đã phổ nhạc mấy câu thơ của bài thơ vô đề này và đặt tên bài thơ phổ nhạc là Tình Cầm. Người ta có thể hiểu đó là bài hát nói về mối tình của Hoàng Cầm hay bài hát nói về một mối tình của một danh cầm nào đó. Để cho có đủ câu nhạc, tôi soạn thêm một đoạn lời (coi như đó là đoạn 2), mong rằng nó vẫn nằm trong hơi thơ và cảm súc của thi sĩ:
Có mây bàng bạc gây thương nhớ
Có ánh trăng vàng soi giấc mơ
Có anh ngồi lại se phím cũ
Mong chờ em hát khúc Xuân xưa...
Bài Tình Cầm được Thái Thanh, Duy Quang, Thái Hiền và nhiều ca sĩ khác hát trong các băng nhạc sản xuất tại Hoa Kỳ.
Trong cuốn Hồi Ký II, tôi đã kể lại những hoạt động của tôi và Hoàng Cầm trong kháng chiến nhưng tôi còn bỏ sót một bài thơ rất quan trọng của Hoàng Cầm. Trong chiến thắng Sông Lô, Hoàng Cầm có một bài thơ dài nhan đề Trường Ca Sông Lô (giống như cái tên bản nhạc của Văn Cao):
Sông Lô chẩy xuống Sông Hồng
Sông Hồng trôi xuống Biển Đông xa vời
Biển Đông dội sóng vang trời
Nhắc đi bốn bể những lời Sông Lô...
Em là em bé Sông Lô
Em đi theo Chị bến bờ là đâu?
Chiều nay thương Mẹ em sầu
Cho em kể lể vài câu tâm tình...
Này Chị trông em nhé:
Em trải tóc rừng xanh
Em quấn khăn núi biếc
Áo em sớm thì xanh
Chiều về đỏ như huyết...
Bài thơ này, tôi đã ngâm cho Phạm Đình Chương nghe khi vào làm rể nhà họ Phạm Đình, và đã gây hứng cho cậu em soạn bài Hội Trùng Dương.
Tại căn gác nhỏ ở Los Angeles này, sau khi hỏi chuyện về Hoàng Cầm, tôi sung sướng vô cùng khi được nói cho vợ con của anh nghe về những ca khúc tôi đang chuẩn bị tung ra, phóng tác từ lời thơ của thi sĩ. Để cho khán thính giả hiểu được những bài ca đầy tính chất ẩn dụ này, tôi đọc cho mọi người nghe những lời giới thiệu trước khi tôi hát Hoàng Cầm Ca...
Sau đây là hành trình lưu diễn của Hoàng Cầm Ca trên toàn cầu:
° Buổi ra mắt Hoàng Cầm Ca (ngày 18 tháng 10-84, tháng sinh nhật của tôi) tại Phòng Trà Lê Uyên Phương ở Santa Ana.
Sau đó là những đêm diễn tại:
° Café Viễn Xứ ở San Jose,
° Trường Đại Học Georges Mason ở Virginia,
° Nhà thờ Saint Teresa ở Honolulu,
° Town Hall ở Melbourne,
° Hiệp Hội Báo Chí tại Úc Châu ở Sydney,
° Cộng Đồng người Việt ở London,
° Báo Quê Mẹ ở Paris,
° Tòa soạn của báo Độc Lập ở Stuttgart v.v...
Hoàng Cầm Ca là gì? Đó là những bài ca gợi những cái đẹp - mỹ ảnh - của đất nước hơn là những cái sai, cái xấu - ảo ảnh, ác ảnh - của quê hương qua tị nạn ca, ngục ca và tủi nhục ca. Đó những bài thơ mà người bạn thi sĩ viết ra sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm và bây giờ đã được tôi phóng tác thành ca khúc.
Một thời gian sau khi cùng bị đàn áp với các văn nghệ sĩ chống đối khác như Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần... Hoàng Cầm cho luân lưu tại miền Bắc một tập thơ truyền tay nhan đề Đường Về Kinh Bắc. Đó là những bài thơ ẩn dụ, nếu đọc lên thì bất cứ ai nghe cũng thấy bàng bạc những hình ảnh và mầu sắc tuyệt vời của quê hương nhưng không ai hiểu Hoàng Cầm muốn nói gì trong đó...
Tôi cần phải nói rằng vào năm 1982, trong lúc tôi đang mệt mỏi vô cùng sau sáu, bảy năm sống đời lưu vong, vào những giờ phút lung linh hiếm có, tôi chợt nhìn ra ý chí của Hoàng Cầm trong những bài thơ đầy ẩn ngữ này. Tôi bỗng hiểu được rằng: vào cuối thật niên 60, dù bị đẩy vào hoàn cảnh cùng cực của đời mình là bị bẻ bút và bị bao vây kinh tế nên phải bán rượu lậu ở vỉa hè để mưu sống, với tập thơ truyền tay Đường Về Kinh Bắc, Hoàng Cầm vẫn... cứ làm thơ! Trong một miền đất nước mà những thi bá như Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan Viên... chỉ còn biết đem thơ làm đòn bẩy cho chế độ, thơ của anh là giọt nước mắt làm chấn động ao tù, là nỗi buồn vạm vỡ của loài sư tử cô đơn...
Lúc đó tôi không có trong tay tập thơ Đường Về Kinh Bắc, tôi chỉ sưu tầm được dăm ba câu thơ ở nơi này, nơi nọ trên đường đi hát rong cho nên khi phổ nhạc, tôi phải phóng tác thêm vào những câu thơ ngắn ngủi của thi sĩ để soạn ra bốn bài Hoàng Cầm Ca. Đó là những bài Lá Diêu Bông, Qua Vườn ‘i, Cỗ Bài Tam Cúc, Đạp Lùi Tinh Tú...
Bài Lá Diêu Bông quyến rũ tôi ngay lập tức khi tôi vừa đọc xong bài thơ thiếu đầu thiếu đuôi. Mở đầu, Hoàng Cầm đưa ra hai câu thơ rất thân thiết, đó là lời nhắn nhủ của một người chị nói với đàn em:
Đứa nào tìm được lá diêu bông
Từ nay tao sẽ gọi là chồng!
Trước hết chúng ta cần biết lá diêu bông là lá gì? Lá diêu bông (lá bông diêu thì đúng hơn) là thứ lá đặc biệt ở làng Đình Bảng, Bắc Ninh, phụ nữ thời xưa thường vắt ra nước rồi bôi lên mặt cho da dẻ được hồng hào tươi đẹp. Với bài thơ này, Hoàng Cầm đưa ra câu chuyện một chị đàn bà xấu xí, muốn có bộ mặt đẹp nên dỗ dành đàn em đi tìm hộ chị thứ lá thẩm mỹ này...
Vài ngày sau em tìm thấy lá
Chị chau mày: đâu phải lá diêu bông?
Mùa Đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu nhìn nắng vãn bên sông.
A! Chị muốn có chiếc lá thần dược để làm cho mặt chị đẹp? Chỉ vài ngày sau đã có người tìm ra chiếc lá. Đó là chiếc lá dân tộc, giản dị là như vậy! Nhưng chị chau mày bảo rằng: đó không phải là lá diêu bông! Rồi một nămqua đi, nhớ lời chị nhắn nhủ, lại có người tìm ra chiếc lá, nhưng chị vẫn chưachịu chấp nhận nó, cho nên chị lắc đầu, ngoảnh mặt đi, nhìn nắng vãn bên sông... Bài hát tiếp tục:
Ngày cưới chị, em tìm thấy lá
Chị mỉm cười, se chỉ cắm trôn kim.
Chị đã ba con, em tìm thấy lá
Xoè tay, phủ mặt, chị không nhìn...
Khi cho rằng không có ai tìm ra chiếc lá thần diệu nên chị bèn đi lấy chồng, thì vào ngày cưới chị, vẫn có người đem lại cho chị chiếc lá thẩm mỹ của dân tộc. Nhưng than ôi, chị đã ''lỡ bước sang ngang'' nên chị mỉm cười, chị se chỉ, chị cắm vào lỗ trôn của cây kim, chị khâu vá cuộc đời vong thân của mình rồi! Tới khi chị có ba đứa con, vẫn còn có người nhớ tới chuyện chị muốn có chiếc lá diêu bông và muốn đem lại cho chị chiếc lá thần diệu đó thì chị xoè tay phủ mặt, chị không nhìn, hay chị không muốn nhìn ra cái lá có thể làm cho chị đẹp được nữa!
Với những câu thơ cuối của bài Lá Diêu Bông, Hoàng Cầm muốn nói rằng: Không ai có thể làm cho người chị khó tính này tốt đẹp được vì dù có tìm thấy chiếc lá thẩm mỹ nhiệm mầu thì cũng không được chị chấp nhận:
Từ thuở đó, em (Hoàng) cầm chiếc lá
Nơi đầu non, cuối bể, em đi...
Lời vi vút, gió quê lắng gọi
Diêu bông hời hời hỡi diêu bông!
Em đi trăm núi nghìn sông
Nào tìm thấy lá diêu bông bao giờ?
Với bài thơ phổ nhạc này, tôi đã thay mặt Hoàng Cầm, trong nhiều năm, đi trăm núi nghìn sông, nghĩa là đi khắp mọi nơi trên thế giới để rao giảng cho mọi người nghe những ''thông điệp nhân văn'' của thi sĩ. Ngoài việc nói lên cái xấu xí và sự mù quáng của một người chị, bản Hoàng Cầm Ca - Lá Diêu Bông còn đặt ra vấn đề đãi ngộ đàn em nữa. Người chị muốn lũ đàn em tìm đủ mọi cách để tô son điểm phấn cho chị rồi chị sẽ đãi ngộ, chị sẽ lấy làm chồng kia mà... Nhưng chẳng bao giờ chị biết nghe tiếng nói trung thực của đàn em, nói gì đến chuyện đãi ngộ?
Bài Qua Vườn Ổi thì nói tới chuyện bất công và chuyện tham nhũng:
Cách xa ba bước qua vườn ổi
Chị xoạc cành ngang em đứng trông...
Hai chị em (tức là người dân nghèo) dắt nhau tới vườn ổi nhưng không được phép vào vườn. Phải đứng xa xa, rồi chị vạch cành lá cho em nhìn. Em thèm ăn ổi quá, xin chị hái trộm cho em một quả:
- Này chị ơi! Xin chị một quả non.
Chị không dám hái nên nói dối em:
- Ổi non, em ơi, còn xanh chát
A à! ổi non xanh chát lè...
Em bé bèn:
Em nằn nì xin chị:
- Này Chị ơi! Xin chị một quả chín
Chị chỉ còn biết trả lời:
- Ổi chín, em ơi tít ngọn cây
A à! ổi chín quá tầm tay...
Bài Qua Vườn Ổi có câu kết:
Lẽo đẽo em đi đường mai sau
Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng...
Nghĩa là cả hai chị em - đại diện cho người dân nghèo, thấp cổ bé miệng - phải lẽo đẽo đi trên đường đời, không bao giờ được ăn một quả ổi nào ở trên cây, bởi vì những quả ổi ngon lành đó, hoặc để dành riêng cho người trên hưởng thụ, hoặc bị trộm cướp đục khoét hết cả rồi! Nếu thèm ăn ổi, hai chị em chỉ còn biết cúi nhặt những quả ổi thối, rụng rơi trên những con đường chiều, có mưa rơi rả rích...
Trong mấy bài thơ ẩn dụ này, có một điều lý thú là Hoàng Cầm thích đưa ra những câu chuyện (gần như chuyện tình) giữa một người trai ít tuổi và một người thiếu nữ hơn tuổi mình. Người được thi sĩ gọi là chị đó có thể tượng trưng cho lý tưởng mà thi sĩ từng ôm ấp. Lý tưởng vẫn còn đó hay đã bị cướp đi, hiển hiện trong thơ qua hình ảnh người chị khi thì tươi đẹp mặn mà, khi thì xấu xa khó tính...
Bài Hoàng Cầm Ca thứ ba nhan đề Cỗ Bài Tam Cúc muốn đòi lại một hạnh phúc xa xưa của hai chị em này, nay đã bị mất đi vì một ông quan Đốc Đồng áo đen nẹp đỏ:
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Chị gọi đôi cây trầu cay má đỏ
Kết xe hồng đưa chị tới quê em...
Ghé coi bài, tìm hơi tóc ấm
Em đừng lớn nữa, chị đừng đi
Tướng sĩ đỏ đen chui xấp ngửa
‘ rơm thơm đọng tuổi xuân thì...
Đứa được bài chinh chuyền xủng xẻng
Đứa thua bài đáo gỡ ngoài thềm.
Em đi đêm tướng điều, sĩ đỏ
Đổi xe hồng, đưa chị tới quê em...
Pháo, mã ra bài, năm sau giặc giã
Quan Đốc Đồng áo đen nẹp đỏ
Xua tốt điều đè lũ tốt đen
Thả tịnh vàng đưa chị võng mây trôi
Em đứng nhìn theo,
Em gọi:... Đôi!
Qua bài thơ này, Hoàng Cầm nói lên một hạnh phúc tuyệt vời của hai chị em khi rút rơm để trải ổ rồi cùng mọi người ngồi đánh tam cúc trong mấy ngày Tết. Ngồi cạnh chị, em giả vờ nghé mắt coi bài để được ngửi mùi tóc ấm của chị. Em tự khuyên em đừng lớn nữa nhé! Em còn xin chị cứ ở trong làng, đừng vội đi lấy chồng 1 nghe! Em yêu chị đến độ em bằng lòng đi đêm cả tướng điều, sĩ đỏ để đổi lấy xe hồng, đưa chị tới quê em. Ai ngờ năm sau giặc giã, quan Đốc Đồng áo đen nẹp đỏ, (bạo quyền) xua tốt điều đè lũ tốt đen (đàn áp người dân). Còn thả tịnh vàng, đưa chị võng mây trôi, đem chị đi mất (cướp đoạt hạnh phúc của nhân dân). Em, Hoàng Cầm, cỗ bài trong tay, đứng nhìn theo chị bị cướp mang đi, em gọi: Đôi! Nghĩa là em vẫn chưa chịu thua, em vẫn còn đôi cây xe hồng để sẽ kết liễu ván bài tam cúc này.
Bài Đạp Lùi Tinh Tú - tên ca khúc do tôi đặt - thì nói lên sự xơ xác, buồn rầu, ngủ vùi của tất cả mọi người, chỉ có nhà thơ là còn tỉnh thức. Hoàng Cầm đưa ra những hình ảnh buồn thương như con bê vàng lạc mẹ, con chim cu ngồi gù rặng tre, con chào mào khát nước, cây ổi giơ xương chống đỡ mùa Đông, con phù du ao trời lận đận, con chim vành khuyên nhớ nhà nhớ tổ. Tất cả, giống như đôi cá đòng đong, đều ngủ say cả rồi. Chỉ có thi sĩ là còn tỉnh thức, ngồi soi hình vào đáy nước, giơ chân đạp ánh sao đêm đang lấp lánh trên mặt ao:
Ta là con bê vàng lạc dáng chiều xanh
Đi tìm sim mà sim chẳng chín
Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
Gặm cỏ mưa phùn
Ngoài đồng sương bóng người thấp thoáng
Chiều nay mẹ chẳng về chuồng...
Ta là con chim cu về gù rặng tre
Gọi nắng ấu thơ về sân đất rộng
Mong tin mừng từ những trời xa
Đưa mây lành về tụ nóc rơm.
Ta là con chào mào khát nước
Về vườn xưa hạt nhãn đâm mầm...
Ta, cây ổi giơ xương!
Chống đỡ mùa Đông xụp về đánh úp.
Ta là con phù du ao trời lận đận
Trên cánh bèo đong gió, lặn dưới nước tìm sao
Hứng nước mắt con chim vành khuyên
Nhớ nhà nhớ tổ, vừa rụng chiều nay
Làm dềnh mặt nước gương sen.
Ta soi hình vào tận đáy ao đêm
Chỉ thấy mình đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi đôi cá đòng đong...
Soạn Hoàng Cầm Ca vào lúc đó, tôi không còn theo đuổi mục đích soạn nhạc một cách dễ dãi (dễ hát, dễ nghe, dễ hiểu) như trước nữa. Nhà báo Đỗ Ngọc Yến đã nhận xét:
Trước đây người ta chỉ biết Hoàng Cầm qua thơ tình, kịch thơ, thơ kháng chiến, thơ phản kháng trong thời Nhân Văn Giai Phẩm. Bây giờ với những bài ca ẩn dụ này, Phạm Duy đưa ra một Hoàng Cầm mới nhất, hiện đại nhất qua những bài thơ có nhiều ẩn ngữ nhất. Ca khúc là hình thức nôm na nhất bây giờ lại được đóng thêm vai trò diễn tả siêu thực nhất, đưa tác giả vào một vị trí hóc hiểm nhất, phơi bày trước quần chúng một vấn đề chính trị tinh tế nhất!
Thế là sau khi quá mệt mỏi với loại ngục ca, tị nạn ca hay tủi nhục ca vì phải lên gân trước thời cuộc, những bài thơ ẩn dụ của Hoàng Cầm mà tôi soạn thành Hoàng Cầm Ca vào đầu thập niên 80 này làm cho tâm hồn tôi lắng xuống. Sau khi thấy ''dường như'' đã mất quê hương, tôi bỗng nhiên gặp lại quê hương qua những câu chuyện mà tôi cho là rất kỳ diệu, ảo huyền, lung linh và đầy thi vị...
... Đó là chuyện lá diêu bông, vườn ổi, cỗ bài tam cúc, chuyện tâm tình của những con bê vàng, con chim cu, con chào mào, con phù du, con chim vành khuyên... Quê hương mờ nhạt hay rực rỡ, êm đềm hay chua sót của tôi hiện ra, quả rằng còn quá nhiều cái đẹp, chứ không phải chỉ có ác mộng, ngục tù, hận thù và tuyệt vọng!
Những bài thơ trong tập Đường Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm được phổ nhạc thành Hoàng Cầm Ca vẫn còn buồn rười rượi vì nó phản ảnh một miền của đất nước Việt Nam vào những năm 60-70 nhưng nó chứa đựng quá nhiều hương vị quê hương nên nó là liều thuốc an thần cho bản thân tôi sau khi tôi bị đắm chìm vào không khí chết chóc gây nên bởi thơ Nguyễn Chí Thiện (ngục ca) hay nhạc Hà Thúc Sinh (tủi nhục ca). Tôi cũng nghĩ rằng: là một người luôn luôn có phản ứng trước nghịch cảnh, tôi không nên tự đầy đọa tôi hay khuyến khích người nghe đi vào ngõ bí là sự thù hận, oán ghét, chửi rủa. Chắc chắn Đường Về Kinh Bắc (nghĩa là đường về quê cũ) giúp tôi có một lối thoát.
Dù biết là khó hát, khó nghe, tôi cũng cố gắng đem thơ Hoàng Cầm đi trình diễn ở khắp mọi nơi trên thế giới và đúng như tôi dự đoán, sự phổ biến của Hoàng Cầm Ca bị hạn chế vì tính chất ẩn dụ của nó. Tuy nhiên tại Việt Nam, lá diêu bông trở thành một huyền thoại mới. Vài năm sau khi những bài ca ẩn dụ này được tung ra ở hải ngoại thì ở trong nước (nhất là sau khi có chủ trương cởi trói cho văn nghệ sĩ), trong nhạc, có Trần Tiến nói tới chuyện lá diêu bông và trong đời, tại thành phố vẫn luôn luôn được gọi là Saigon, có một thiếu nữ mở một cái quán (quán café hay quán rượu?) lấy tên là QUÁN DIÊU BÔNG. Vào lúc tôi viết những dòng chữ này (1990), nhà thơ tình họ 70 tuổi của tôi (có lẽ) đang ''làm lại cuộc đời'' với cô chủ quán.
Sau khi giới thiệu ''thông điệp nhân văn'' của Hoàng Cầm, với cái tật tham lam, bao giờ cũng muốn đi tới tận cùng của bất cứ vấn đề gì, tôi còn muốn viết thêm về con người của anh cho nên tôi luôn luôn nhắc tới anh trong những cuốn HỒI KÝ. Tập tiểu luận Hoàng Cầm Trong Tôi này thì muốn nhấn mạnh tới địa vị của anh trong văn học sử.
Tôi muốn nói rằng: trước hết, trong thi ca Việt Nam có một giai đoạn được gọi là ''thời kỳ kịch thơ'' thì ai cũng phải công nhận đó là thời kỳ của Hoàng Cầm. So với các thi sĩ khác, kịch thơ của Hoàng Cầm chói lọi nhất mặc dù về sau kịch thơ không còn đất đứng. Sau nữa, thơ của Hoàng Cầm là tiếng thơ lên đường kháng chiến sớm sủa nhất và được dân chúng yêu mến nhất trong thời gian cả nước lên đường. Trạng thái đặc biệt của thơ Hoàng Cầm là thơ ngâm lên, có diễn xuất (spectaculaire). Trong thơ của anh, ta thấy rất nhiều hình ảnh đẹp, chan chứa hương vị quê hương. Tất cả tứ thơ của Hoàng Cầm, dù là thơ tình, thơ lịch sử, thơ kháng chiến đều rất vững chãi. Thơ năm chữ, thơ lục-bát đều được chuyển thể rất giỏi. Hoàng Cầm dùng những từ ngữ của dân tộc, thơ anh không lai căng như của vài nhà thơ lớn khác. So với thơ cùng một đường hướng là thơ Nguyễn Bính, thơ Hoàng Cầm cao hơn, trí thức hơn. Hoàng Cầm còn đáng quý ở chỗ không bao giờ chịu khuất phục trong khi có những nhà thơ khác, vì lý do này lý do nọ, phải chấp nhận đường lối văn nghệ ''được'' chỉ huy. Thơ Hoàng Cầm không bao giờ tỏ ra là bị ép buộc. Trái lại là khác. Hãy nhớ lại bài thơ Em Bé Lên Sáu anh viết trong thời kỳ cải cách ruộng đất ở Việt Nam. Đầy tính nhân bản:
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miêng ăn
Bố: cường hào nợ máu
Đã trả trước nông dân
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào trong Nam....
Bụng phình lại ngặng cổ
Mắt tròn đỏ hoe hoe
Em nhìn đời bỡ ngỡ
Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm, thầy ơi!
Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài.
Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ.
Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa...
Chị đi bỗng lùi lại
Nhìn đứa bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch
Chỉ thấy một con người...
Hoàng Cầm còn viết một vở kịch thơ ngắn, nhan đề TIẾNG HÁT, nói về truyện Trương Chi. Thi sĩ biến lời hát ái tình của Trương Chi thành tiếng gọi của Tự Do. Mỵ Nương là tượng trưng cho giới văn nghệ bị kìm hãm và Quận Công, cha của Mỵ Nương là đại diện cho uy quyền độc đoán. Trong vở kịch thơ này còn có thêm nhân vật Hồng Hoa, nữ tỳ, tượng trưng cho nhân dân đói khổ. Tiếng hát kêu gọi mọi người đang bị hành hạ hãy đứng dậy:
Nào người quả phụ trắng khăn tang
Nào đứa em mồ côi khát sữa
Nào ai sống nhục, chết oan
Nào ai tan lìa đôi lứa
Nghe tiếng hát này.
Trong khi người cha của Mỵ Nương truyền lệnh: Khoá kín cửa lầu, lấp cả sông, để không còn tiếng hát 2 thì tiếng hát tự do vẫn lọt tới lòng người:
Cửa ngoài bằng đá tảng, tiếng hát đẩy được vào
Vì đó là tiếng gọi của trời cao đất rộng.
Và Mỵ Nương, tức là giới văn nghệ, vẫn gan góc:
Cánh cửa khoá [...] ta mở được
Ta vượt qua tường đá
Ta chạy ra sông đi bốn phương trời
Tìm tiếng hát, ta đi cùng thiên hạ...
Sau phong trào phản kháng vào cuối thập niên 50 của tất cả trí thức Hà Nội, Hoàng Cầm cũng như các bạn bè trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị đối xử ra sao, mọi người đã biết. Phải đợi cho tới gần đây, với phong trào glasnost ở các nước Đông Âu và với sự cởi mở ở Việt Nam thì địa vị nhà văn, nhà thơ của anh và của những bạn anh mới được phục hồi.
Tôi không biết sự thương nhớ của tôi đối với một người bạn thơ xa xưa - qua những Hoàng Cầm Ca - có làm cho thi sĩ bị phiền lụy 3 hay có đem lại cho anh một an ủi nhỏ nhoi nào không, nhưng tôi rất vinh hạnh đượccó mặt trong đời anh từ khi còn trai trẻ cho tới khi đã tóc bạc răng long, mặc dù tôi chỉ được gần anh trong một thời gian rất là ngắn ngủi. Sự chung tình đó cũng còn nhờ ở phép lạ của cuộc đời khiến tôi bỗng gặp lại vợ cũ của anh và người con gái tôi ''quen biết'' khi còn là bào thai trong bụng mẹ, cùng một lúc với việc tôi khám phá ra những bài thơ ẩn dụ của anh.
Trong vòng 10 năm nay, tôi luôn luôn có mặt trong gia đình anh để theo dõi quãng đời của anh vào lúc xế chiều. Để được nghe ngân nga một số câu thơ trác tuyệt của anh gửi cho vợ cũ và con gái:
Trích Đoạn Kiều Loan Ngâm Thơ
Rực sáng chân mây một điệu đàn
Biển động bừng chớp mắt Kiều Loan
Mắt điên, mắt sóng men huyền diệu
Xanh thẳm hàng mi bến hợp tan.
Cả Thái Bình Dương là hạt lệ
Một người đi biệt một hành tinh
Cả dãy Trường Sơn là dấu phẩy
Ngắt dòng thơ trang sử u tình.
Bẩy sắc mây chìm đợi bão tan
Hôm nào nắng xoá vệt thời gian...
Gò cao má ửng đùa thiên mệnh
Em có về không? Hỡi tiếng vang!
Tôi nhận Kiều Loan, con ruột của Hoàng Cầm là con nuôi và đã giúp đỡ cho con gái về cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, lo lắng cho con nuôi trong việc gia đình cũng như trong công việc làm ăn. Thấy con gái nuôi thích văn nghệ, đã nhiều lần, Kiều Loan xuất hiện bên tôi trong những buổi ngâm thơ hay diễn kịch thơ... Tại San Jose là nơi cư ngụ, Kiều Loan rất được hoan nghênh mỗi khi xuất hiện trước khán thính giả với tiết mục ngâm thơ hay diễn kịch.
Tiếng thơ Hoàng Cầm lúc nào cũng có khả năng gọi người về. Về với tình yêu, về với gia đình, về với xóm làng, nói tóm lại về với quê hương mà suốt đời Hoàng Cầm xưng tụng:
Có lặng thầm ru vọng tiếng Khanh?
Dòng lệ mặn dẫu tê môi héo
Ngửng đầu sao sáng bỗng long lanh
Sao treo lối nhỏ về quê mẹ
Mẹ gọi nghìn thu: Con hỡi!... Khanh!
Ai gọi nghìn thu: Em hỡi!... Anh!
Tôi muốn được coi như người bạn thơ cũng róng tiếng gọi tôi qua những câu thơ mà vào một hoàng hôn rất tím, trong một quán ăn rất sang, trên bãi biển San Francisco rất vắng, người con gái của thi sĩ là Kiều Loan đã ngâm cho tôi nghe:
Đất Bắc ngậm ngùi thương phận bạc
Điù hiu thân thế bến sông mơ
Chân ai đi lén về xa đó?
Bỏ lại vườn hoang bóng nguyệt mờ
Nức nở canh khuya hoài thánh thót
Khóc làm chi nữa tuổi đương tơ...
Gần đây (1989-90) Hoàng Cầm tái xuất hiện trên văn đàn với những tập thơ Men Đá Vàng, Mưa Thuận Thành trong đó tôi thấy con tim khối óc của anh vẫn bền vững như gạch Bát Tràng, vẫn ướt át như cơn mưa hồi sinh của dân tộc. Trong tập Mưa Thuận Thành, Hoàng Cầm cho đăng nguyên văn bốn bài thơ trong tập Đường Về Kinh Bắc mà tôi phổ nhạc với những tên Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc, Quả và Về Với Ta...
Chúng tôi đã trao đổi thư từ trong đó, hai ông già ngoài 70 tuổi vẫn cứ xưng hô mày tao như trong tuổi 20. Chúng tôi đều cho rằng cả hai thằng bạn, vào lúc gần đất xa trời, rốt cuộc đều thấy đời mình chỉ là một cuộc chơi! Cuộc chơi đã đưa hai đứa lên rất cao, rồi cũng đã dìm hai thằng xuống rất sâu nhưng cả hai kẻ đãng tử này đều được cứu rỗi bởi một sợi dây bí ẩn.
Đó là sợi dây cảm nhận, rung động và sáng tạo nghệ thuật làm cho chúng tôi, sau nhiều cơn vật vã, vẫn có thể gạn đục khơi trong rồi làm ra những vần thơ điệu nhạc lung linh sức sống kỳ diệu của con người. Vâng! Nghệ thuật đã rửa hồn chúng tôi, như Hoàng Cầm nói: ton art purifie ton âme và sẽ còn giúp chúng tôi đi nốt con đường đã chọn: CON ĐƯỜNG TÌNH, tình nước, tình người.
Viết thêm: Bày này được viết ra từ đầu năm 1984 với ý định sẽ cho vào HỒI KÝ IV. Qua năm sau, nghĩ rằng đây là chuyện liên hệ tới nhà thơ và đã có chút dễ dãi cho việc người Việt hải ngoại trở về thăm quê hương, tôi nhờ hai người bạn là BS Bùi Duy Tâm và cô Quế Hương đem bài này - dưới đầu đề HOÀNG CẦM TRONG TÔI - cùng với một đoạn video ngắn tới cho Hoàng Cầm. Ít lâu sau, anh bạn có những phản ứng mà tôi xin được ghi lại trong chương sau...
Ghi chú:
1. Trần Tiến cũng đã dựa vào bài thơ này để soạn ca khúc của anh.
2. Trạnh lòng nhớ tới tiếng hát của mình, than ôi, cũng đang bị cấm đấy!
3. Hoàng Cầm bị bắt vào năm 82 vì nhờ một Việt Kiều đem tập thơ MEN ĐÁ VÀNG ra ngoại quốc cho con gái. Không phải vì Hoàng Cầm Ca...
Thời hải ngoại
Chương Mười lăm
Chương 14 đã ghi lại một giai đoạn trong cuộc đời soạn nhạc của tôi, gọi là giai đoạn Hoàng Cầm Ca. Một đoạn dài của chương này, dưới nhan đề Hoàng Cầm Trong Tôi, vào năm 1985, đã được gửi về Hà Nội cho nhà thơ họ Hoàng. Anh bạn già đã hồi âm như sau:
Duy,
Nhờ anh Bùi Duy Tâm và Quế Hương, tao mới thực sự đọc được lòng mày trên vài trang thư. Cái ''Hồi Ký Hoàng Cầm Trong Tôi'' ấy tao đã đọc từ tháng Tư vừa rồi. Đưa mấy bạn già biết cả tao lẫn mày, xem, họ đều cảm kích vì tình bạn gần 40 năm của hai thằng nghệ sĩ đã sắp đi vào cõi hư vô. Nói thế thôi, chứ cũng phải kiêu hãnh nhận thấy rằng ít nhiều hai thằng cũng có góp vào cõi hư vô vô biên ấy một chút gì gọi là cái hằng số tồn tại của Nhân Bản để sau này chí ít cũng còn đôi ba người nhớ đến, hát đến, đọc đến mà thêm được năng lượng sống của con người mà thêm thương yêu nhau, gắn bó hơn vào nhau nhau, những con vật tối linh trên mặt quả đất này, những vật vốn dĩ cũng mong manh không hơn những bong bóng sà phòng thuở bé sinh ra từ cái cọng rơm hay ống rau muống. Mày nói lúc này là lúc êm êm chờ chết, đá đít tất cả rồi, ừ, thế là phải và cần như thế. Cõi Phật thì người ta gọi thế là vào cõi Thiền rồi. Nhưng chắc không?
Như vậy là vào năm 1985, Hoàng Cầm và những người bạn già của chúng tôi ở Hà Nội (có thể là các ''cụ'' Nguyễn Hữu Đang, Văn Cao, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt v.v...) đã đều cảm kích vì đọc thấy trong bài viết (bài Hoàng Cầm Trong Tôi), mối tình bạn gần 45 năm của hai thằng nghệ sĩ đang sắp đi vào cõi hư vô... (theo lời viết trong thư Hoàng Cầm).
Tôi rất vui, vì thấy rằng: trước khi đá đít cuộc đời - hay bị cuộc đời đá đít - tôi đã có dịp mở tấm lòng mình ra với thằng bạn ở nơi không gian xa tít và sau một thời gian tưởng như vô tận.
Rồi cuộc đời đẩy đưa tôi thênh thang trên đường hát rong, hát dạo... cho tới năm 1992, đối với tôi, loại Hoàng Cầm Ca đã đi vào dĩ vãng. Những bài ca đầy ẩn ngữ này, khó hiểu hay dễ hiểu, nhạc dở hay nhạc hay, đã chẳng còn được ai nghe và cũng chẳng còn được tôi hát nữa, ngoại trừ bài ca ái tình của tuổi 60 hay 70, bài Tình Cầm còn thỉnh thoảng văng vẳng trong thinh không hải ngoại...
Thế nhưng chuyện ''lá diêu bông'' bây giờ bỗng nhiên được nổi tiếng như cồn qua một bài hát từ trong nước tung ra hải ngọai, bài này chắc chắn đã lấy hứng từ những bài thơ trong tập Đường Về Kinh Bắc hay qua những Hoàng Cầm Ca. Đó là bài Sao Em Vội Lấy Chồng của Trần Tiến.
Ở hải ngoại, con trai tôi (Duy Quang) là người đầu tiên thu thanh bài hát này vào băng nhạc. Tôi không hiểu - và cũng chẳng cần hiểu - có phải vì bài Lá Diêu Bông của tôi soạn ra từ 7, 8 năm về trước, mà bây giờ đã có thêm Trần Tiến phụ giúp tôi trong việc vinh danh một nhà thơ bị bỏ quên hay không?
Có một lúc bài Hoàng Cầm Trong Tôi được đăng trên nguyệt san HỢP LƯU, coi như là một chương trong cuốn HỒI KÝ thứ tư mà tôi đang hoàn tất...
Thời gian qua đi... Một ngày mùa Thu năm 1992, tôi được anh em văn nghệ ở cả trong nước lẫn ngoài nước cho tôi biết là Hoàng Cầm đã gửi một lá thư cho báo HỢP LƯU, phê bình tôi rằng tôi đã cho vào Hoàng Cầm Ca những ý định không phải là của thi sĩ. Ông đã cho rằng tôiđã trông gà hoá cuốc, nhìn hoa trong rừng khuya...
Tôi hiểu ngay vì sao lại có chuyện này... Chẳng cần suy nghĩ gì cả, tôi gửi ngay cho anh bạn thơ một lời xin lỗi công khai, cũng đăng trên báo HỢP LƯU, số đặc biệt về Văn Cao... Nhưng tôi cũng phân trần rằng: trong vấn đề văn nghệ, nếu tác giả có quyềntự do sáng tác thì độc giả cũng có quyền tự do cảm nhận... Tôi xin lỗi Hoàng Cầm vì đã chót nhìn anh như một nhà thơ hiên ngang...[...] tưởng đó (thơ ẩn dụ của H.C) là những mặt trời mọc trong đêm khuya...
Để yên lòng mọi người, từ đó tôi không nhắc tới những bài hát tuyệt vời này với bất cứ ai ở trên đời này nữa... Thản hoặc, khi có một vài người thấy chuyện tình và nghĩa của cái lá diêu bông kỳ diệu đã xẩy ra như thế giữa tôi và Hoàng Cầm, họ an ủi tôi, họ vỗ về tôi... thì tôi đã tâm sự rằng:
Trong một đoạn đời u uất, nặng nề của kiếp ca nhân trên đường lữ thứ, tôi đã được cứu rỗi bằng những hình ảnh lá diêu bông, vườn ổi, cỗ bài tam cúc, con bê vàng lạc mẹ, con chim cu ngồi gù rặng tre, con chim vành khuyên nhớ tổ, con cá đòng đong đã nhắm mắt ngủ vùi... của người bạn thi sĩ mang tên Hoàng Cầm...
Chính những hình ảnh chan chứa tình quê của nhà thơ này mà ngay đầu thập niên 80, tôi đã tìm lại được hứng thú trong sáng tác và đã nuôi ý định sẽ sớm hay muộn trở về nơi quê cha đất tổ. Do đó khi hoàn tất HỒI KÝ 4 này, tôi vẫn cần giữ lại chương sách đã viết về Hoàng Cầm Ca.
Tiếp tục ca hát cho đời, trên hành trình nghệ thuật, tôi rời bỏ Hoàng Cầm Ca để soạn:
1.- Mười bài rong ca với nhan đề Người Tình Già Trên Đầu Non để hẹn ngày về vào năm 2000, trong đó có bài Mẹ Năm 2000 với lời khuyên nhủ rằng: tất cả người Việt nên biết hối lỗi, phải xúm xít lại rồi giải cứu cho người... Người đây là Mẹ Việt Nam đấy!
2.- Đồng thời, tôi sửa lại nội dung và hình thức của một tổ khúc tôi đã bỏ dở gần 15 năm trời, để cho bầy chim bỏ xứ có ngày hồi xứ, chim dữ thì đi giữ biên cương, chim hiền thì đi xây tổ ấm...
3.- Sau đó ít lâu, tôi soạn tiếp mười bài thiền ca đi kèm với mười bài đạo ca... rồi còn soạn thêm trưòng ca Hàn Mặc Tử để xây lại đời sống tâm linh của chúng ta, từ lâu đã phiêu bạt hay mất tích rồi...
4.- Cuối cùng tôi mời tất cả mọi người tới với nhau để cùng nhau tự tình trong một bức tranh vĩ đại, bức Minh Họa Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Cuộc đời trôi di, trôi đi... Thỉnh thoảng, Kiều Loan đem vở KIỀU LOAN tức NGƯỜI ĐIÊN mà Hoàng Cầm soạn ra từ năm 1945 và những bài thơ kháng chiến của anh để tổ chức những buổi Ngâm Thơ hay Kịch Thơ, khi thì ở San José, khi thì tại Westminster hay Houston... Tôi đều tham gia để cho những buổi văn nghệ này thành công hơn về phương diện tài chánh.
Chuyện Hoàng Cầm Trong Tôi tưởng đâu đã hết. Năm 1993, bỗng nhiên Hoàng Cầm gửi cho tôi bản thảo một bài viết của anh nhan đề Phạm Duy Trong Tôi.
Bài này sẽ mang cái tên ĐƯỜNG TA TA CỨ ĐI, nằm trong cuốn sách HOÀNG CẦM - VĂN XUÔI và đã được nhà xuất bản VĂN HỌC ở Hà Nội ấn hành vào tháng 11, 1999.
Đường Ta, Ta Cứ Đi
Nhớ bạn nhạc sĩ P.D
Người trẻ tuổi đãng tử ấy đi phơi phới trong mầu xanh núi rừng Việt Bắc. Anh chàng vứt bỏ cái vét tông rẻ tiền ở Hà Nội phù hoa đổi lấy bộ quần áo chàm. Với cái ca lô đội lệch, vàng xỉn, chả biết được của ai, dáng vẻ lẳng lơ, và cái ba lô con cóc, đôi giày ba ta đã hơi hơi há mõm, trông đúng cậu công tử Hà Nội nhà nghèo, vì thích ca hát, mê đời tự do, bỏ nhà đi hát rong. Anh chàng hát rong dễ dàng hòa nhập với những ngày tháng đầu tiên - còn rất lãng mạn - của cuộc chiến chống thực dân Pháp.
Kìa đoàn người đi lang thang trên đường gian nan
In hình qua mây núi xanh lơ bát ngát
Lúc chiến đấu xa nhà nhịp theo nguồn sống mới
Người vui đời giang hồ... nơi miền quê. (PD)
Một ngày giữa năm 1947 - Tôi và vợ tôi, Tuyết Khanh, đang còn ngơ ngẩn tiếc những đêm diễn kịch thơ Kiều Loan ở Nhà hát thành phố bị đứt đoạn vì những trò khiêu khích của của bọn mũ nồi xanh, lính của tướng Leclerc, hai vợ chồng đã xông lên một vùng rừng đang rất xa lạ với mình, nhập luôn vào Vệ quốc đoàn chiến khu 12, rồi mầy mò tìm bạn, thành lập ngay một đội văn nghệ tuyên truyền, có thể gọi là đội Văn công đầu tiên của Quân Đội gồm mười một anh chị em, 3 nữ 8 nam kể cả một cậu y tá với túi thuốc nghèo nàn cứ khăng khăn xin với ông Lê Quảng Ba, chỉ huy trưởng quân khu, được đi theo đội văn nghệ để trông nom sức khoẻ cho mọi người nay đây mai đó, đến với từng trung đội, đại đội Vệ quốc quân, dân quân, du kích khắp bốn tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh, Lạng Sơn để biểu diễn đủ loại kịch ngắn, kịch cương, ngâm thơ, hát tốp ca, đơn ca, múa vài ba điệu dân dã đã học được của đồng bào miền xuôi, miền ngược. Tóm lại là một tốp nhỏ anh chị em hăng hái và sôi nổi phục vụ một cuộc ''trứng chọi với đá'' thực kì thúc trong lịch sử một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục, giặc to đến đâu, sức mình bé đến mấy cũng đánh, mà đã đánh là phải thắng. Hồi đầu ấy, những ''tiết mục'' rất xoàng xĩnh, thậm chí có khi ngô nghê nữa, mà sao các anh nông dân mặc áo lính còn chưa đọc thông viết thạo lại say sưa thưởng thức đến thế! Nửa đêm nay tiểu đội A đi phục kích ư? Trung đội C đi quấy rối địch ư? Chập tối họ vẫn được nghe ngâm thơ sang sảng...
Đêm liên hoan, bạn ơi, đêm liên hoan
Đầu nhấp nhô như sóng biển ngang tàng
Tôi muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Vệ quốc đoàn.
(Đêm Liên Hoan, thơ H.C)
Nhiều khi họ lại ''đồng ca'' luôn theo đội văn nghệ:
Đường ta ta cứ đi
Nhà ta ta cứ xây
Ruộng ta ta cứ cầy
Đợi ngày...
Say sưa, họ còn vỗ tay theo điệu hát:
Ngày mai ta tiến lên
Diệt tan quân Pháp kia
Cười vui ta hát câu tự do...
(Nhạc Tuổi Xanh - PD)
Vào một buổi chiều cuối thu 1947. Trên đường đê sông máng đi từ đập Takun (riếng Pháp đặt thay Việt ngữ: tên gọi đập Tháp Huống) có 3 người, 1 quàng ghi ta,1 đeo ắccoócđêông, 1 cầm clarinette, ngơ ngác hỏi thăm chỗ đóng quân của Đội Văn nghệ tuyên truyền khu 12. Đó là anh P.D, Ngọc Bích, Ngọc Hiền, đang tìm về với đội văn nghệ của Hoàng Cầm sau khi Đoàn Kịch Chiến Thắng của các anh giải thể.
Tối hôm đó, trong căn nhà ấm cúng ven rừng Yên Thế, trong ánh sáng ngọn đèn măng sông,ông Lê Quảng Ba giới thiệu ba chàng văn nghệ này với tôi. Ô có gì lạ nhau đâu, P.D đây mà, với giọng nói cố làm ra vẻ trịnh trọng: ''Tôi ở trên Ban Văn Nghệ Trung Uơng, nghe tin anh Hoàng Cầm mới lập một đội văn nghệ lưu động, tôi và hai bạn tôi đây nhất quyết về với các bạn khu 12, vì toàn là trẻ trung cả.''
Rồi qua cặp kính trắng rất tài tử, P.D chớp chớp đôi mắt lẳng lơ nhìn các nữ nhân viên trẻ đẹp của tôi: Tuyết Khanh, Thúy Nga, Kim Oanh đến nỗI cả ba cùng ngượng nghịu, đưa mắt nhìn nhau, tủm tỉm. Tôi với P.D quen biết nhau từ sau Cách mạng tháng Tám. Chỉ biết qua loa về gia cảnh anh, hình như có chuyện éo le gì đó. Mới 16 tuổi đã bỏ nhà đi theo những bậc đàn anh như Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương, Đàm Quang Thiện, học được cách ghi xướng âm và những điều cơ bản về âm nhạc,chẳng bao lâu tài năng bộc lộ, anh chịu khó chắt lọc, sử dụng tinh hoa dân ca miền Bắc. Vốn thông minh, học một biết hai, anh đã có thể đi đàn ở các tiệm nhẩy để mưu sinh. Vốn là một cậu con trai dòng dõi văn hoá nghệ thuật lại sớm đa tình, miệng cười rất có duyên, tán chuyện với những cô gái cũng rất hóm hỉnh, quyến rũ, nên anh chàng bảnh trai này sớm có những chuyện dập dìu yến oanh. Sẵn có một trái tim đa cảm, nhiều cánh vỗ vào bầu trời lãng mạn, vào không khí trữ tình, vào cả gió bão thất thường của những năm thế chiến mà xứ sở Việt nam không thể không bị cuốn vào cơn khói lửa hỗn độn, anh chửa bao giờ ở lâu một chỗ, tuổi trẻ của anh bềnh bồng gió Bắc mưa Nam, và ánh sáng nhấp nháy của những đô thị náo động cũng cuốn anh vào những xập xình của cuộc sống phồn thực mà khoái cảm là một phương thuốc hiệu nghiệm để trốn chạy thực tế bão táp phũ phàng. Nghèo, nhưng mang cái máu của thi sĩ Tản Đà đã thú nhận: ''Giang hồ mê chơi quên quê hương'', anh chỉ khác Tản Đà ở chỗ tâm hồn không neo vào một bến quê nào nhất định, hồn anh từ 16 tuổi đã phiêu bạt và phiêu diêu với nhiều đam mê lắm khi chao đảo, anh không lúc nào muốn buộc mình vào một sợi dây vướng víu, kể cả sợ dây tơ tình đẹp nhất, anh cũng chỉ choàng lên cổ tự ngắm vuốt, tưởng như thích thú lắm, nhưng rồi chỉ mấy ngày bướm đậu rồi bướm lại bay thôi, anh có thể bứt đi mà tiếp bước giang hồ nhẹ tễnh.
Tôi rất thích khi có bộ ba ''xe pháo mã'' ấy, một bộ ba hồng mà P.D là cây xe không lúc nào muốn dừng bánh. Từ cuối năm 1947 ấy các anh đã thành cô panh (bạn chia nhau từng mẩu bánh) của tôi. Ngọc Bích thì vui tính thường viết những bài hát vui, giản dị cho bộ đội dễ thuộc. Ngọc Hiền ít nói hơn nhưng với chiếc kèn clarinette lắm lúc cứ nỉ non thiết tha như mời gọi, anh lại hóm hỉnh, lúc nói chuyện đã pha trò là có duyên ngay.
Riêng P.D, trong khoảng 13 tháng sát cánh bên nhau thì tôi cần phải nói rằng có anh trong đơn vị, người tôi như mọc thêm cánh. Đóng quân ở đâu độ bốn năm ngày là anh sốt ruột ngay, lúc nào anh cũng ham cảnh vui, người lạ, những cuộc ''kỳ ngộ'' trên đường rừng, lối mòn Thái Nguyên - Lạng Sơn - Bắc Giang - Đồng Mỏ rồi Phố Bình Gia - Văn Mịch, rồi từ Sông Thương đến sông Kỳ Cùng, từ đèo Nong ''nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống'' (Quang Dũng) tới đất cụ Đề Thám với xứ sở Cai Kinh, đèo Dồng Mỏ thấp hơn nhưng lại tình tứ hơn vì trên đỉnh đèo có mấy quán cà phê, trướng, sữa, bán cả phở bò, cháo gà mà chủ nhân là mấy chị em người thành thị tản cư, áo phin nhuộm nâu, quần lĩnh tía, vẫn còn thiết tha cái ''dáng kiều thơm'', chưa quen nỗi truân chuyên trong khói lửa loạn ly.
Tôi thường chiều ý P.D, vì biết cứ xê dịch luôn, có cảnh đẹp lạ mắt, có những cô gái xinh tươi thì thể nào P.D cũng bật ra được những giai điệu say mê, trữ tình, mặc dầu đề tài nhiều bài ca nổi tiếng của anh không phải là chuyện tình nam nữ hoặc chuyện xa cách nhớ nhung, thở ngắn than dài như một số ca khúc buồn trước cách mạng. Tôi cứ chuyển quân liên miên, nay đơn vị A, mai sang đơn vị B, nay vừa biểu diễn ở Nhã Nam, mai đã sang Bố Hạ, ngày kia đã tưng bừng tiếng ghi ta thánh thót trong đêm lạnh chân núi Mẫu Sơn, rồi chỉ vài hôm sau, đội của tôi đã hát vang trong bóng núi Chi Lăng, nơi gần 600 năm về trước, tên giặc Liễu Thăng chết gục dưới mũi kiếm của đoàn quân do Bình Định Vương Lê Lợi chỉ huy và thiên tài Nguyễn Trãi bày mưu tính kế. Có thể nói chúng tôi đi không biết mỏi. Ngày đi, tối biểu diễn, có khi trên sàn nhà đồng bào Tày, có khi đốt lửa trong hang đá lạnh thấu xương hát cho tiểu đoàn của anh Thế Dũng vừa thắng trận Bông Lau trở về. Thường những đêm hát như thế, đội văn nghệ chúng tôi, đặc biệt là P.D tha hồ mà thưởng thức loại cà phê thượng thặng và hút thuốc lá ''Craven A'' cao cấp trong số chiến lợi phẩm mới thu về.
Sáng ra lại xuất quân - P.D mê man đi, vừa đi vừa lẩm nhẩm thầm thì sáng tác thì chợt đến khi bắt được một giai điệu đẹp, tha thiết, là anh ngồi ngay xuống tảng đá bên đường, lấy bút giấy ra ghi. Nếu chỉ qua một đoạn đường mà xong được một bài, anh lập tức kêu tôi và các bạn dừng lại, túm tụm trên vệ cỏ, nghe anh hát:
Đường Lạng Sơn âm u (ù u)
Gà bình minh êm ru (ù u)
Vẳng nghe thấy tiếng súng trong sương mù
Đường Thất Khê bao la (à a)
Rừng núi ta xông pha (à a)...
Thường những lúc như thế, nhân thể tôi cho toàn đội nghỉ, tìm một xóm nhà dân nào đó gần nhất, xin trú quân, thổi cơm ăn, đồng thời bảo mấy tốp ca học thuộc ngay vài hát anh vừa hoàn thành. Cứ như vậy, toàn đội, đặc biệt là P.D đã truyền cho tôi sức mạnh dẻo dai để vừa đi vừa sáng tác. Ghi ngay thành thơ hoặc chủ đề kịch ngắn, những cảm xúc, những ý tứ bất chợt loé lên trong tôi. Sáng tác đến đâu, biểu diễn luôn đến đó, anh chị em lại động viên tôi say sưa với nhiệm vụ của người đội trưởng tháo vát, biết tổ chức đời sống, chỉ đạo phương hướng làm việc, đạt hiệu quả cao nhất trong các đơn vị bộ đội đóng rải rác khắp bốn tỉnh và trong các làng bản mà nhân dân tuy chưa hiểu kháng chiến được bao nhiêu, nhưng do những lời ca tiếng hát nên đã yêu mến và hết lòng ủng hộ bộ đội, nuôi chiến sĩ và làm nghĩa vụ với chiến trường. Chỉ trong vòng chưa đầy 12 tháng, P.D đã liên tục sáng tác hàng chục ca khúc, có nhiều bài chỉ hát đôi ba lần. bộ đội đã thuộc lòng, chúng tôi còn phân công dạy hát cho các đơn vị từ trung đội đến trung đoàn và cả nữ dân quân, dân công tải đạn, cáng thương bệnh binh. Gì chứ về cái công việc đi sâu, đi sát vào đời sống chiến sĩ này thì P.D hăng hái, sôi nổi nhiệt tình số một, vì bất cứ ở đâu có nhiều chị em, D cũng thầm thì cho đội trưởng biết: cô kia có đôi mắt đẹp quá,chị này thật lẳng lơ, cô nọ sao lại có nụ cười quyến rũ thế kia. Tôi cũng thừa biết cái thú say mê ấy của D đã đẩy ngòi bút xúc cảm của anh ghi nhanh nhiều giai điệu nồng nàn uyển chuyển, với 1ời ca thắm thiết, với bao nốt nhạc khí phách hào hùng hay hào hoa phóng khoáng nữa kia, nên bao giờ tôi cũng đồng tình với D về một loại công việc mà D thường nói đùa là ''việc sinh sự, sự sinh'' ấy.
Tôi nhớ mãi môt chuyện ở phiên chợ Bó Tuổng, dưới chân đèo Đồng Mỏ, có ba chị em người Nùng thấy P.D ngồi ở một cái quán nước tay đàn miệng hát. Thế là các cô cứ xán đến, rất bạo dạn, kéo vai áo anh nhạc sĩ đẹp trai này và ân cần, nài nỉ mời anh và cả ''đồng chí chỉ huy nữa vớ!'' về nhà chúng em chơi đi, gần đây thôi vớ, đàn hát cả đêm nay đi, hay 1ắm vớ. Pì noọng chúng em thích bộ đội đàn hát lắm đấy mà! P.D nháy mắt với tôi như muốn bảo: đội trưởng đồng ý chứ? Chuyến công tác ấy, vợ tôi vì có thai đã được 6 tháng, cấp trên bắt tôi phải để vợ nghỉ an dưỡng trong một quân y viện ở huyện Hữu Lũng, do vậy tôi cũng được rảnh rang hơn, nhưng trước sự mời mọc quá tha thiết, ân cần của ba cô gái người Nùng tôi phân vân do dự, bối rối vô cùng. Ngày hôm ấy chúng tôi côn phải đi gần 20 cây số nữa đến điểm hẹn biểu diễn phục vụ một Trung đoàn sẽ có mặt của ông Lê Quảng Ba, ông Phan Phúc Tường, Chính ủy Quân khu và nhiều cán bộ đang chuẩn bị những trận đánh lớn dọc quốc lộ số 4, một con đường chiến lược huyết mạch của địch nối liền từ Quảng Ninh lên đến Cao Bằng. Ông Quảng Ba đã có liên lạc hẹn trước với tôi rồi. Không thể về nhà ba cô gái kia được.
Bây giờ đã gần 9 giờ sáng, chơi chợ một lát rồi phải đi ngay, chiều đến nơi, ăn cơm xong, nghỉ một chút là biểu diễn luôn. Vậy rẽ ngang mà du hí thế nào được. Hồi đó tuy quân phong quân kỉ còn sơ sài, kỷ luật cũng chưa chặt chẽ lắm, nhưng tôi rất lo trách nhiệm của minh, không thể làm lỡ việc của anh Ba, để bộ đội phải chờ đợi văn công. Tôi khăng khăng từ chối. P.D cố thuyết phục năm lần bảy lượt, thì thầm những lời đường mật ''Bộ đội vẫn ở đây, không xem hôm nay thì mai, có sao đâu. Chứ đã lên đây, không ở chơi với gia đinh đồng bào Tày Nùng lấy một ngày, với ba cô bé xinh đẹp của xứ Lạng thế này, tao thấy tiếc, tiếc lắm. Đồng ý đi mày, mai anh Ba có phàn nàn gì, mày cứ bảo tao bị sốt rét dọc đường, là được''.
Tôi càng bối rối vì trong tôi: trách nhiệm và thích thú cá nhân đã giằng co nhau mãnh liệt, lại phải cái tính cả nể, nên có lẽ mặt mũi tôi lúc đó chắc là trông buồn cười lắm. Rồi cả ba cô, tiếp đến chín, mười cô và dễ thường đến một nửa cái chợ Bó Tuổng ấy mỗi lúc một xúm đông quanh chúng tôi và P.D. Họ cũng đoán tôi là ''cấp chỉ huy'' gì quan trọng lắm đấy, nên các cô gái cứ vây lấy đồng chí chỉ huy à! Về nhà chúng em vui lắm vớ! Trừ có vợ chồng nhạc sĩ Văn Chung là không có ý kiến gì, còn hầu hết anh chị em trong của tôi đều tán đồng với anh chàng đầu tầu P.D:
- Nên đi cho biết anh Cầm ơi! Bộ đội thì quen quá rồi còn đồng bào miền núi, mình đã biết gì lắm đâu! Đồng ý đi, anh đội trưởng! Cuối cùng tôi cũng đành nhượng bộ và quả thật, từ lúc đến nhà ba cô, cuôc vui thật là ''đầy tháng'' (tuy chỉ có nửa ngày, và một đêm) và ''trận cười suốt đêm'' (Nguyễn Du).
Sáng hôm sau, lúc chia tay với gia đình ấy trông D ỉu xìu: dùng dằng mãi, không quàng nổi cái dây đàn lên cao, còn riêng tôi khi xuống cái cầu thang nhà sàn, sóng đôi với cô chị lớn tuổi nhất ra đến đầu ngõ, tôi cảm thấy hồn mình đã bị ai buộc chặt vào cái cột nhà sàn mất rồi, chỉ còn cái xác vật vờ, chệnh choạng mà vào phút cuối cùng chia tay với cô chị (tôi còn nhớ tên là Ché Mai và tên cô bạn của P.D hôm ấy là Ché Cẩm) Ché Mai níu chặt cánh tay tôi, đưa vạt áo chàm lên lau nước mắt, tôi thì nghèn nghẹn, không nói được gì, nước mắt cứ ứa ra, nhòe hết núi đá, rừng cây và con đường đá trắng quanh co trước mặt.
Khổ! Cái anh chàng P.D này, đúng y hệt mình thôi, cứ đến ''chuyện ấy'' tưởng được vui hóa ra lai chuốc lấy cái sầu ly biệt. Với D nó cũng nhẹ thoang thoáng qua thôi, chứ với tôi, cuộc chia tay ấy nặng như núi đá và cứ xanh thẫm cái màu chàm quái ác và dùng dằng mãi đến khi kết thúc công tác phía Lạng Sơn, về xuôi rồi thậm chí đến hôm nay nữa, khi ngồi viết ra mấy trang hồi ức này tôi vẫn không nguôi nỗi nhớ.
Quả vậy, tôi rời cái bản của Ché Mai, nặng 1òng bao nhiêu thì khi ra đến mặt đường tỉnh từ Đồng Mỏ lên Phố Bình Gia, P.D lại phơi phới bấy nhiêu. Anh ta vẫn nhẹ tênh cái hồn say sông núi, cỏ cây xứ Lạng. Rồi mấy anh trong đoàn lại vừa đi vừa hát, nhiều khi làm thơ kiểu ''nối đuôi'' nhưng bắt buộc một câu bẩy chữ phải cùng một âm cốt, ví du: Đường đá đưa đoàn đi đến đâu Để quên cái đoạn đường đá lởm chởm đang nhức gan bàn chân. Văn Chung xướng ra câu đầu tiên: ''Đường đá đưa đoàn đi đến đâu''. một lát P.D nói: ''Xa xa xam xám xuống sương sầu''. Tôi quên mấy câu do những Trúc Lâm, Ngọc Hiền, Ngọc Bích làm tiếp theo, riêng tôi là người làm thơ thì lại chẳng bật ra dược chữ nào vì đang lo việc về chậm nơi tập kết, và cứ nao nao nhớ Ché Mai.
Mới biết về chuyện ân tình nam nữ thì P.D khá nhẹ nhõm, anh ta như gió thoảng qua trên hoa lá, lẳng lơ tình tứ đấy mà quên ngay đấy, rồi ngọn gió ấy lại thổi tạt con bướm non sang chòm hoa lá khác. Có lẽ do cái bản chất tênh tênh ấy, mà càng lưu diễn qua nhiều nơi mới lạ thì anh lại càng sáng tác được nhiều chăng? Mà không biết có phải cũng vì thế mà phần lớn ca khúc anh viết ở Việt Bắc 1947-1948 đều như thiếu một khoảng gì (không cần sáng lắm) dễ chạm chìm vào lòng người những nét suy tư sâu sắc? Bài nào anh viết ra đều nhẹ nhõm, dễ thuộc, cũng có thể nhớ lâu, nhưng nhớ lâu chưa chắc cùng một vần với nhớ sâu. Những tác phẩm của anh hồi đầu kháng chiến, tôi ít thấy cái da diết, thắm thiết đến khắc khoải như một vài ca khúc của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao... Nhưng quả thật P.D lại người viết ca khúc được hầu hết các chiến sĩ bộ đội, cán bộ và thanh niên nam nữ khắp Việt Bắc lúc bấy giờ yêu mến nhất, nhắc nhở nhiều nhất, vượt xa các nhạc sĩ nổi tiếng khác cùng thời.
Đến khi cuộc sống kháng chiến đi vào chiều sâu thì anh đã không còn ở bên tôi nữa. Như con chim ưa tìm xứ lạ, anh đã bay đi còn để lại trong tôi một cái gì giống như tiếng sáo vi vu, giàn giụa tình nghĩa xóm quê xa với những nẻo đường cũng đã quá xa, tưởng chừng khó có khi gặp lại.
Muời ba tháng tròn bên nhau, ăn cùng một rổ khoai sắn, chia nhau từng cái bắp ngô nướng bếp nhà sàn, từng đọt măng mai măng nứa, đắp chung nhau cái chăn trấn thủ mỏng dính, hụt hẫng như ca dao của Lê Kim: ''Đắp dọc thì hở hai bên, đắp ngang thì lạnh như tiền cái chân...'' rồi cùng chia nhau cả những dây tơ tình vắt thoáng qua lướt nhẹ hai vai, rồi đến cả mấy bài hát sáng tác ngay bên cạnh tôi, anh cũng cho phép anh đội trưởng dốt đặc âm nhạc này được hoan hỉ nhập vào một tốp ca do anh bố trí người đàn người hát, ngược lại mấy bài thơ ''dài dòng văn tự'' của tôi (Đêm liên hoan, Bên kia sông Đuống, Tâm sự đêm giao thừa, Tiếng hát sông Lô) anh cũng xin tôi cho được ''đồng ngâm''. Tôi đã chia đoạn mỗi bài thơ ấy như để đối xướng và giao cho anh những phần có thể ngâm nhiều hơn doc. Anh thích ngâm thơ và cũng đã thành một ''cây ngâm thơ'' không phải hạng xoàng. Vậy thì tôi đã giúp gì được anh? Có lần trong chuyến đi công tác dọc tả ngạn sông Cầu, đi đường, một bên là P.D, một bên là vợ tôi, không biết từ đâu và do cảm hứng gì, thật bất ngờ tôi đột nhiên cất tiếng cao giọng ''hát'' trọn vẹn một bài thơ của Lưu Trọng Lư mà tôi rất thích:
... Ai có nghe tiếng hát chị đò đưa
mà không nhớ thương người quả phụ...
Nằm ấp bóng trăng thưa...
Tôi hát thật (hoàn toàn không phải ''ngâm'' như là ''nghề'' tay trái của tôi, mà càng là ''cao tay nghề'', ''nhà nghề'' lắm lắm, nghề ngâm thơ). Dầu chỉ là ngón sở đoản của tôi, P.D cũng rất thích rồi... ngược đời thật... P.D lại ''học hát'' ở một anh bạn "mít xoài" âm nhạc. Đầu tiên, chỉ là những trò chơi cho quên vất vả dọc đường, nhưng dần dà lại ngấm sâu vào cả tôi và anh. Tôi biết P.D say mê dân ca, anh luôn luôn lắng nghe và tìm hiểu để thụ nhập những lời ca điệu hát của biết bao trai gái quê Bắc Ninh, Bắc Giang, cả những anh chị người Tày, Nùng mà trong 13 tháng ấy anh luôn luôn được tiếp cận. Bởi thế nên lời thơ của dân ca xứ Bắc đã trở thành sinh khí trong các ca khúc P.D hồi đầu kháng chiến chống Pháp. Chỉ cần một phẩm chất ấy trong các sáng tác của anh thời đó là đủ cho tên tuổi anh thành thân thiết với bộ dội và nhân dân từ Trung du lên đến biên cương phía Bắc. Từ khi chia tay với anh lần cuối vào khoảng sau tết âm lịch năm 1951, tuy xa cách, tôi vẫn nhận được nhiều tin về sáng tác của anh. Vào công tác ở khu Bốn dưới trướng Thiếu Tướng ''Mạnh Thường Quân'' Nguyễn Sơn, một ông ''nhà binh'' lại đam mê văn nghệ, P.D đã viết những ca khúc đặc sắc: v.v... chứa chan sắc thái miền Trung. Miền thuỳ dương bóng dừa ngàn thông - Thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông dài... Chúng tôi nghe thấy rõ tiếng sóng bờ biển Quảng Bình, tiếng xao xuyến những đợt mưa ngàn, mưa núi Quảng Trị, thấy cả một bầu trời xanh, rất xanh mầu ''hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm'' (Tản Đà) từ thuở Chiêm Thành, đã tưởng mất hút qua thời gian lặng lẽ và lạnh lùng. Phong vị dân ca quan họ đã theo anh vào nhiều ca khúc, đặc biệt là bài Khúc hát hành quân xa thì giai điệu, âm lượng âm sắc và tiết tấu nào có khác gì với bài thơ Lưu Trọng Lư mà tôi đã bất chợt hát trên đường hành quân bên bờ sông Cầu năm ấy?
Ai có nghe khúc hát hành quân xa
Mà không nhớ thương người mẹ già
Chờ con lúc canh khuya
Người con đã ra đi... vì nước...
(P.D)
Quan họ, dân ca miền Bắc, hò và dân ca miền Trung thấm vào người anh như nước tưới thấm nhuần cây cam cây bưởi, và anh đã trả lại cho đời những hoa ngát trái lành trên nền âm nhạc Việt Nam với già nửa thế kỉ những khúc ca đến nay còn bịn rịn vương vấn 1òng người. Rồi sau ngày giải phóng miền Nam, biết tin anh P.D đã đi xa, xa đất nước, xa quê, xa bạn, thú thật lắm khi nhớ anh, tôi cứ tiếc... càng tiếc và nhớ khi thấy hai đứa bạn trẻ ngày xưa, bây giờ tóc đã cùng ngả màu sương tuyết. Gần nửa thế kỷ cách biệt giữa hai tấm lòng tri ân, tri kỷ, không kể còn bao nhiêu cái éo le, truân chuyên của số phận mỗi người, hôm nay tôi cứ ước ao có một ngày nào chăng hai đứa ôm ngang lưng nhau đi bên hồ trả Gươm 1, mặt hồ ''xanh mầu cốm đậm'' 2, P.D và tôi tha thẩn cái tuổi ngoài bẩy mươi, tóc trắng bay nhịp với lá bàng rụng tím bên hồ, đi mà sống lại, nhớ lại một thời ngắn ngủi bên nhau, sóng nước gợn lăn tăn hình như đang se sẽ gợi một khúc hát nào của anh xa xưa. Có thể có ngày ấy không hỡi những Tình cờ và Hữu ý, hỡi những Hữu hạn và Vô hạn trên thế gian này?
Hà Nội - Tháng 12-1993
Bây giờ thì chuyện tình LÁ DIÊU BÔNG mới được coi là chấm dứt. Thời gian đã gạn đục khơi trong. Hoan hô cuộc đời, hoan hô cuộc tình! Hoan hô con người, hoan hô nghệ thuật!
Năm 1998, với sự khuyến khích của tôi, Kiều Loan trở về Hà Nội thăm bố. Được đi thăm đình chùa ở Bắc Ninh, được nghe hát quan họ tại làng Lim, quê hương của Hoàng Cầm...
... được gặp bạn bè của bố như đạo diễn Phan Tại, cựu thủ lãnh của phong trào NHÂN VĂN GIAI PHẨM Nguyễn Hữu Đang...
... gặp vợ chồng ca sĩ Ngọc Bảo và nhiều người khác...
Về phần tôi, Hoàng Cầm trước sau vẫn là một cảm hứng không bao giờ nguôi. Bắt gặp một bài thơ của anh ở đâu đó, tôi phổ nhạc thành ca khúc để cho Thái Hiền đưa vào một chương trình compact disc nhan đề Tình Vẫn Rong Chơi do con gái yêu của tôi sản xuất. Tôi đặt tên bừa cho bài thơ được phổ nhạc là:
Trăm Năm Như Một Chiều
(do Duy Quang hát)
Anh đứng đây là đâu?
Là đâu, anh đứng đây là đâu?
Em cười như lá mỏng
Khép cửa vào chiêm bao a á...
Anh đứng đây là đâu?
Là đâu, anh đứng đây là đâu?
Anh đứng đây là đâu?
Là đâu, anh đứng đây là đâu?
Em nói như gió nghẹn
Chiều như mây Thị Mầu
Em nhìn như mưa trắng
Trăm năm bay ngang đầu...
Anh đứng đây là em
Là em anh đứng đây là em...
Em đứng đây từ bao
Từ bao, em đứng đây từ bao?
Em từ trong lối hẹn
Hé cửa về mai sau a á
Em đứng đây từ lâu
Từ lâu em đứng đây từ lâu
Em đứng đây từ lâu
Từ lâu em đứng đây từ lâu
Anh tới nơi ước hẹn
Chiều nay như thuở nào
Anh nhìn em trong nắng
Trăm năm như một chiều
Anh đứng đây là em
Và em, em đứng đây là anh...
Mùa Xuân năm 2000, sau 50 năm xa cách quê nhà, tôi trở về Hà Nội, người bạn đầu tiên tôi tới gặp là Hoàng Cầm. Tôi sẽ có dịp viết về chuyện gặp nhau của chúng tôi, sau nửa thế kỷ xa nhau.
Ghi chú:
1. Chữ của Nguyễn Tuân.
2. Chữ của Phạm Văn Hạnh.
Thời hải ngoại
Chương Mười Sáu
Trong ba năm 1985-88, với hành trang khá đầy đủ, gồm những tỵ nạn ca, ngục ca và hoàng cầm ca... tôi ngao du khá nhiều nơi trên thế giới...
... Tôi được mời đi trình diễn tại rất nhiều đô thị lớn ở các tiểu bang trên lục địa Hoa Kỳ như San Jose, Washington D.C, Houston, San Diego, Chicago, Dallas, Oklohama City, Dayton, Boston, Bridgeport, Sacramento, Oakland, Wichita... Còn được mời đi Toronto, Montreal (Canada)... nữa chứ.
Rồi từ Mỹ Quốc, vượt Đại Tây Dương đi Âu Châu, được mời tới trình diễn tại London (England), Paris, Lyon (France), Lugano (Italy), Stuttgart, Munchen (Germany)...
Xong rồi lại từ Mỹ quốc đi ngược về hướng Tây, vượt Thái Bình Dương để diễn tại nhiều nơi trên nước Úc, nước Nhật và còn may mắn hơn nữa là được ghé hát ở Honolulu, hải đảo thần tiên của tôi.1 
Đi nhiều đến độ thi sĩ Nguyên Sa phải gọi tôi là đại lực sĩ trong một bài báo. Anh cho rằng tôi đi nhiều hơn cả hai vị được coi như tổ sư văn nghệ sĩ lang bạt kỳ hồ... là Paul Morand và Nguyễn Tuân. Anh viết: Phạm Duy di chuyển nhiều ở mức kỷ lục, không một nghệ sĩ Việt Nam nào ở trong cũng như ngoài nước có thể so sánh được, mà ngay cả Paul Morand và Nguyễn Tuân cộng lại cũng còn ở dưới cả mức kỷ lục đó rất xa...
Tại sao vào khoảng thời gian này, nghệ sĩ như tôi lại được nhiều nơi mời tới hát như vậy?
Hãy nhớ tới một ngày trước đó không lâu. Tôi được mời đi hát tại New York vào mùa Xuân 1982. Cộng đồng Việt Nam tại đây phần nhiều là người Việt gốc Hoa. Họ là những người có tiền, bằng mọi cách đang lo tổ chức vượt biên cho những người Việt gốc Chợ Lớn ra khỏi Việt Nam. Họ tìm được một Sư huynh theo đạo Ky Tô tên là Paul Trịnh Hảo ở New York để giúp họ đưa người vượt biên vào nước Mỹ một cách hợp pháp.
Sư huynh Hảo giới thiệu tôi với cộng đồng người Việt Chợ Lớn để họ mời tôi qua New York giúp vui "tồng pào" trong mấy ngày Tết. Thi sĩ kiêm điện ảnh gia Hoàng Anh Tuấn cũng được mời qua đây.
Sau mấy buổi diễn đông nghẹt khán thính giả, hai chúng tôi có nhiều ngày khá vui vì được sống tại thành phố sinh động nhất thế giới này, đi chơi các khu khác nhau của dân Mỹ gốc Ý, gốc Balan, gốc Do Thái v.v... đi coi tranh của giới nghệ sĩ ở Greenwich Village, đi nghe nhạc, coi kịch tại khu Broadway hay hoà mình vào đông đảo du khách đầy đủ mầu da chen nhau đi "rửa mắt" - nghĩa là ngắm đồ - tại Times Square. Và nhất là được nếm đầy đủ các món ăn Tầu tại China Town. Còn được đi biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc để chống Liên Xô xâm lăng A Phú Hãn nữa...
Nhưng vào lúc hoàng hôn xuống của mùa Đông mưa lạnh nơi đại đô thị rất hung dữ này, chúng tôi xuống xe điện ngầm để trở về nhà của Sư huynh ở khu Bronx thì cả hai đều rất lo lắng... Nghe đâu bất cứ người Việt nào ở New York cũng tối thiểu bị những tên cướp vặt da đen, hai, ba lần dí súng vào mặt để lấy tiền, dù chỉ là dăm ba đô la.
Một buổi tối, chúng tôi được Sư huynh Hảo mời coi một cuốn video, trong đó có anchorman Dan Rather của đài CBS nói về một Mặt Trận và về người lãnh đạo có cái tên mà những chữ đầu cũng giống tên của một người quen thuộc: HCM. Sau đó là phóng sự buổi lễ ra mắt của Mặt Trận này tại một nơi - nói là - chiến khu ở vùng biên giới Thái Lan-Cao Miên.
Hoàng Anh Tuấn và tôi đều sửng sốt! Ai mà chẳng phải sửng sốt vì Đài Truyền Hình CBS của Mỹ đâu có phải là một đài thích loan tin bịa đặt? Ngay trong đêm đó, Hoàng Anh Tuấn ngồi viết ra một bài thơ nhan đề THÁNG TƯ XANH và sau đó thì tôi phổ nhạc nó ngay.
Ơ này... lại cuối tháng tư
Trời bỗng xanh, xanh ngắt Để mình nhớ người yêu, như quãng đời đã mất
Để mình và New York thấy mình rất trẻ thơ
Thèm cái thèm vô tư, dầm thân trong cỏ dại
Hát cho tròn môi lại, như hôn Thần Tự Do
Tháng tư phai mầu đen, rồi loãng dần sắc xám
Hy vọng và Tin tưởng, tháng tư xanh đó em...
Mới hay nghệ sĩ là người thừa nhiệt huyết. Nhưng cũng có thể nói rằng làm cho Việt Nam chuyển mình là giấc mộng của tất cả nhũng ai phải xa xứ.
Nhưng khi trở về Cali, riêng tôi không tha thiết lắm với Mặt Trận, được gọi là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, lúc này đang trong thời kỳ phát triển rất là mạnh mẽ. Dù trong số các vị cao cấp của tổ chức, có một vài người như cựu Đại tá Phạm Văn Liễu, điện ảnh gia Hoàng Xuân Yên, đối với tôi, không phải là những người xa lạ, còn có thể nói rằng xưa nay giữa chúng tôi vẫn có một mối thân tình. 2
Tôi sinh ra và không may lớn lên tại một nước đang trải qua thời đại rất khắt khe của chính trị. Như đã nói trong HỒI KÝ 3, tôi thường cố gắng để không bị chính trị lung lạc. Tôi không có nhiều những hành động chính trị, nghĩa là tôi tránh vào tổ chức này, vô đảng phái kia, dù tôi đã có nhiều cơ hội để gắn liền mình vào một xu hướng chính trị nào đó. Có lẽ vì tôi là người chỉ ưa thoải mái. Tôi còn biếng lười ngay cả trong việc đi bầu, vốn là một chọn lựa chính trị căn bản. Tuy nhiên tôi rất để ý đến những ai làm chính trị thật sự và vốn là người không biết phù thịnh, chỉ biết phù suy cho nên nếu ai thất bại thì tôi rất thương cảm.
Khi có người làm chuyện anh hùng đơn thương độc mã và trả giá bằng 10 năm tù như ông Võ Đại Tôn, hoặc âm thầm tham gia vào một tổ chức dùng võ lực để giải phóng Việt Nam và trả giá bằng sinh mạng của mình như ông Trần Văn Bá... thì tôi không ngần ngại dùng tiếng đàn, giọng hát của mình để vinh danh họ. Nếu họ lại là văn nghệ sĩ như Nguyễn Chí Thiện hay Hoàng Cầm, đã có những hành động chính trị bằng lời thơ đanh thép hay bằng lời thơ ẩn dụ của mình, người thì bị tù 30 năm, người thì bị bẻ bút, thì tôi lại càng cần phải ca tụng nồng nhiệt hơn nữa.
Nhưng khi số phận của các ông đó, trong thực tế, đã được giải quyết xong xuôi thì tôi xin được kính cẩn đặt các ông vào những trang sử, như trong những trang nhạc sử này, chẳng hạn. Nếu có sự tiếp tục hay ngưng nghỉ hoạt động chính trị của các ông này thì... tôi đi chơi chỗ khác.
Vào khoảng hai năm đầu tiên hoạt động (1983-1985), Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất này đã thu hút được đa số người Việt lưu vong. - khắp mọi nơi trên thế giới, đã có những tổ chức chính trị được thành lập bởi Mặt Trận kể trên và các tổ chức này đã chú ý tới văn nghệ dù - cũng như đã xẩy ra ở trong nước - người làm chính trị theo đường lối quốc gia hay cộng sản, trước sau, thường chỉ coi văn nghệ là công cụ của chính trị mà thôi! Những nghệ sĩ như tôi được mời đi hát thường xuyên trong những năm đó là vì quả rằng có nhu cầu "văn nghệ phục vụ chính trị". Hiểu lờ mờ hay biết rõ như vậy, nhưng phải chép miệng mà nói: cũng tốt thôi!
Như vậy, tôi đã có câu trả lời cho câu tự hỏi rằng tại sao vào khoảng thời gian này, nghệ sĩ như tôi lại được nhiều nơi mời tới hát như vậy?
Hơn nữa, vì bây giờ những ban tổ chức đã có đầy đủ nhân sự và phương tiện để làm cho chương trình ca nhạc ở các địa phương phong phú hơn trước, người con dâu cũ là Julie (lúc này đã ly thân với con trai tôi) cũng được mời đi hát cùng tôi tại khá nhiều nơi tại Châu Úc, Châu Âu.
Chúng tôi không bao giờ quên cám ơn những Phong Trào hay œy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến ở Boston (MA-USA), Bridgeport (CN-USA) Geneva, Fribourg (Thụy Sĩ)... và rất nhiều những tổ chức ngoại vi của Mặt Trận ở rất nhiều nước, từ Châu Mỹ qua Châu Âu rồi Châu Á đã cho chúng tôi đối tượng để sáng tác và địa bàn để biểu diễn.
Không may cho chúng tôi, về sau Mặt Trận bị khủng hoảng trong nội bộ rồi gần như tan vỡ, không còn nhiều tổ chức khác ở nhiều nơi có đầy đủ nhân sự, phương tiện, thì giờ và mục đích... để tổ chức mời nghệ sĩ tới hát nữa. Có thể vì vậy mà văn nghệ hải ngoại xuống cấp dần dần chăng?
Ghi chú:
1. Cứ đi đây đi đó như thế mỗi lần tôi có thêm một sáng tác phẩm mới như Bầy Chim Bỏ Xứ, Rong Ca, Thiền Ca, Trường Ca Hàn Mặc Tử và Minh Họa Truyện Kiều... Đi cho tới khi nhà tôi mất (August 1999) thì mới thôi!
2. Sau này, có thể nói đa số văn nhân, ký giả, nghệ sĩ ở hải ngoại gia nhập Mặt Trận.
Thời hải ngoại
Chương Mười bảy
Thế rồi người Việt gọi là hải ngoại như chúng tôi bước vào năm 1985, nghĩa là năm thứ 10 của đời sống tỵ nạn... lưu vong... hay di dân... gì đó. Sự chấn động trong tâm hồn, sự hoang mang trước cuộc đời mới, sự nhớ nhung đất tổ quê cha của chúng ta đã dần dần được cuộc sống xô bồ Hoa Kỳ chen vào, xô đi, đẩy xa, lấn át...
Nếu không phải là của tất cả mọi người thì cũng là của đa số những người đang hay đã trở thành công dân Mỹ... ưu tư hàng ngày bây giờ là: công ăn việc làm.
Riêng gia đình chúng tôi đã trở thành công dân Hoa Kỳ từ cuối năm 1984. Ngày chúng tôi làm lễ tuyên thệ tại Los Angeles phải được coi như ngày chính thức mở ra một đoạn đời mới. Tối thiểu cũng phải là một mốc thời gian rất quan trọng. Cũng như chúng tôi, vào lúc này, tuy vẫn được gọi là tỵ nạn... ít người Việt Nam ở Hoa Kỳ còn thấy nhức nhối trong tim hay rối rắm trong óc như trước nữa. "Tị nạn" gì nữa khi đã trở thành công dân một nước giầu mạnh, tự do, dân chủ như nước Mỹ, được hưởng đầy đủ mọi thứ quyền lợi như người da trắng, da đen, da đỏ!
Nhưng khi một thời điểm 10 năm tới trong một đời thì ai cũng muốn làm công việc kỷ niệm một chặng đời, nhất là những người trong giới làm văn học nghệ thuật.
Tôi có may mắn được ba tổ chức văn nghệ tại Washington D.C là Hội Văn Hóa Việt Nam Tại Bắc Mỹ, Tủ Sách Cành Nam và Tạp Chí Xác Định giúp tôi ấn hành một nhạc tập nhan đề Thấm Thoát Mười Năm.
Tôi tập trung những ca khúc mà tôi đã soạn ra trong 10 năm qua để in thành một công trình ngắn hạn, gồm 44 ca khúc trong đó người viết bài giới thiệu là Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích đã nhấn mạnh đến chủ đề Phụ Nữ và Quê Hương nổi bật lên ở trong cuốn sách nhạc này. Ngoài ra, có thể vì tôi đã rời khỏi một nước nhỏ hẹp để ra được thế giới rộng lớn rồi cho nên đa số ca khúc trong nhạc tập đều mang hình ảnh trời cao, biển rộng, sông dài hơn là bụi tre, con đê, dòng suối...
Thế rồi, tôi lợi dụng cơ hội ghi lại công trình trong 10 năm xa xứ này để làm một cuộc thanh toán dĩ vãng, nghĩa muốn cống hiến cho những người yêu nhạc một tuyển tập có tính chất dài hạn hơn. Tôi bỏ ra một thời gian ba, bốn tháng để ngồi nhớ lại tất cả những bài hát mà mình đã soạn ra trong 50 năm đi hát rong, rồi ghi lại những lời mà mình còn nhớ được để in thành một tập sách định lấy tên là tập NGÀN BÀI CA. Tôi bắt chước thi sĩ nước Pháp Jacques Prévert với tập PAROLES chăng? Vợ tôi, Thái Thanh và dăm bảy người bạn đồng điệu đã vui lòng ngồi moi trí nhớ để giúp tôi hoàn thành cuốn sách toàn thể lời ca này.
Tôi cũng không thấy cần phải in luôn cả nốt nhạc của từng bài hát dù vào lúc này tôi đã bước vào địa hạt computer cùng với người con thứ Duy Cường rồi và có thể dễ dàng nhờ máy vi tính kẻ những nốt nhạc hộ mình. Nhưng trong thực tế, nếu in cả nhạc lẫn lời của hàng trăm bài hát thì tiền in sẽ rất tốn kém, giá bán sách sẽ phải khá cao, khó có nhiều người mua.
Vì không có nốt nhạc, tôi không gọi tên sách là nhạc tập mà đặt tên cho cuốn ca khúc này là Ngàn Lời Ca (bởi vì thực sự cũng khó mà đếm ra tổng số ca khúc, khi trong một trường ca có tới 21 ca khúc thì đếm thành một bài hay 21 bài?). Và tôi để dành cái tên Ngàn Cánh Nhạc cho những album nhạc sau này.
Ngàn Lời Ca là một cuốn sách khổ lớn, dày 400 trang, khởi sự từ sáng tác đầu tay của tôi là bài Cô Hái Mơ, qua hàng chục giai đoạn, hàng trăm ca khúc đủ loại:
° Từ những anh hùng ca, quân ca, thanh niên ca qua dân ca kháng chiến, dân ca phục hồi hay dân ca phát triển...
° Rồi tới tình ca đôi lứa, tình ca quê hương, tình tự dân tộc...
° Tới trường ca, tâm ca, tâm phẫn ca để tới hoan ca gồm bình ca, nữ ca, bé ca...
° Đó là chưa kể đạo ca, vỉa hè ca, tục ca...
° Tiếp tục với những tỵ nạn ca, ngục ca, hoàng cầm ca...
Tính tham lam cố hữu đã khiến tôi muốn cho vào cuốn sách này một tác phẩm cưng nhất của tôi vào lúc bấy giờ, dù nó còn trong tình trạng dang dở, dở dang. Đó là tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ.
Tôi đã có dịp nói về sự bế tắc của tôi trong việc sáng tác tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ. Được thai nghén từ 1975, phần đầu của tổ khúc nói lên được lý do vì sao có sự bỏ xứ bay đi của bầy chim. Nhưng sau 10 năm thai nghén, tôi vẫn chưa nhìn thấy cơ hội nào để cho bầy chim có thể tung cánh hồi xứ được. Trong khi suốt một đời làm người nghệ sĩ, tôi luôn luôn ôm ấp một định đề: Không có ra đi nào mà không có trở về! Nói một cách khác: Không có chia ly nào mà không có đoàn tụ. Nếu tôi muốn tổ khúc này được in ra trong tập Ngàn Lời Ca thì tôi phải hoàn tất nó ngay. Chưa tìm ra lối thoát, bởi vì ở trên thế giới, chiến tranh lạnh chưa tàn, tường Berlin chưa đổ, thế sử chưa sang trang... tôi đành phải lấy sự linh thiêng để giải quyết việc trần, nghĩa là dùng chim huyền sử, chim Hồng, chim Lạc để kêu gọi bầy chim Việt Nam kết đoàn bên nhau. Và dù đã được in ra trong Ngàn Lời Ca, tôi vẫn chưa muốn thu thanh vào băng cassette vì trong thâm tâm tôi thấy kết cấu của nó vẫn chưa ổn tí nào.
Phải đợi đến năm 1990, nghĩa là 15 năm sau khi thai nghén, tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ mới được tu chỉnh lại và phát hành mạnh mẽ qua hình thức nhạc tập và compact disc.
Thời hải ngoại
Chương Mười Tám
Trong chương 17 vừa rồi, tôi đã kể lại việc in ra toàn thể sáng tác phẩm của mình qua hai cuốn NGÀN LỜI CA và THẤM THOÁT MƯỜI NĂM nhân dịp đánh dấu 10 năm xa xứ... Bây giờ tôi dành chương 18 này để nói tổng quát về những hoạt động khác của tôi trong phạm vi điện ảnh, video, Karaoke, DVD, CD-Rom tại nước Mỹ từ ngày tôi bước chân tới đất mới...
Vào năm 1980, tôi được ban sản xuất phim của một Đài Public Broadcasting Services(PBS) lớn ở Los Angeles là đài KCET - Channel 28 mời tôi đóng vai chính trong một loạt bốn cuốn phim giáo dục nhan đề THE NEW AMERICANS. Một ngân sách của liên bang hay của tiểu bang - tôi không biết rõ - đã dự trù một khoản tiền dành cho việc thực hiện loạt phim giáo dục này và ban sản xuất của Đài phát hình kể trên đã được giao cho phần thực hiện. Bốn cuốn phim đầu, mỗi phim dài 60 phút - gọi là phim pilot - sau khi thực hiện xong và cho phát hình, nếu khán giả ưa thích thì sẽ được tiếp tục sản xuất thêm, có thể là năm này qua năm nọ.
Người viết truyện cho bốn cuốn phim đầu tiên này là anh David Abramowich, người Mỹ gốc Do Thái. Tất cả bốn truyện phim đều lấy chủ đề là cảnh sống chung trên đất Mỹ giữa các con cái của những người gốc Đông Dương như Việt Nam, Lào, Căm Bốt, và có luôn cả người Tàu gốc Việt. Lũ trẻ này đúng là người ''Mỹ-mới'' và đã có những va chạm giữa chúng và trẻ em Mỹ trắng, Mỹ gốc Phi Châu hay gốc Mễ nữa.
Sự va chạm là do khác biệt văn hóa mà ra và những mẫu thuẫn đều sẽ được một ông già có phép tàng hình, hiện ra giải quyết rồi biến đi. Anh chàng David Abramowich muốn vai chính - được dặt tên là Cụ Hiền - phải là một ông già biết đàn hát, biết nói tiếng Anh và biết đóng phim. Vì tôi đã có thành tích là người viết truyện phim, đạo diễn và phó Giám Đốc của Trung Tâm Điện Ảnh trong thời ông Diệm, nên tôi đã được mời đóng vai Cụ Hiền sau một lần quay thử.
Việc đóng phim đối với tôi rất là lý thú! Có bao giờ cậu bé con ở phố Hàng Dầu Hà Nội, chuyên môn coi phim cọp tại rạp cinéma Pathé ở trước Đền Bà Kiệu, cạnh Hồ Gươm... dám mơ tưởng tới ngày được tới tận ''Hồ Ly Vọng'' để chiêm ngưỡng các ngôi sao chiếu bóng? Nay thì không những được tới tận nơi gọi là Thiên Đường của điện ảnh, lại còn được mời đóng phim nữa! Nhất là được trả tiền thù lao khá cao. Chỉ hơi tiếc là vì nước Mỹ vừa thay đổi chính phủ, từ trong tay Đảng Dân Chủ qua tay Đảng Cộng Hòa, ngân sách dùng cho việc giáo dục công dân bị cắt giảm, sau bốn phim pilot, bộ phim THE NEW AMERICANS không có ngân sách để được sản xuất nữa.
Thế nhưng, vì đã có tên trong sổ ''đoạn trường'' cho nên sau đó, trong nhiều phim thương mại, tôi thường được gọi đi đóng vai phụ, toàn là vai ông già ác ôn, cầm đầu các nhóm du đãng da vàng...
Hai tài tử nổi danh Lê Quỳnh, Đoàn Châu Mậu tuy cũng được mời đóng phim tại Hollywood nhưng có thể vì tuổi đã hơi cao, không còn cơ hội đóng vai chính trong những phim Mỹ nên họ sẽ phải đổi nghề hay dọn nhà đi xa. Lê Quỳnh làm việc trong một Công Sở Xã Hội, rồi làm chủ một tiệm phở được ít lâu thì bị đứt mạch máu não. Còn Đoàn Châu Mậu thì dọn đi cư ngụ ở Seattle, rồi ở Hawaii và sẽ giã từ cõi đời trong cảnh hàn vi tại hải đảo thần tiên này. Trong đám tài tử ciné người Việt chỉ có Kiều Chinh là thành công tại Hollywood.
Khi kể lại chuyện đóng phim của mình tại Hollywood, tôi không có ý khoe khoang gì đâu! Tôi chỉ muốn nói đến một việc làm rất bình thường của một nước đa chủng như nước Mỹ, một việc đã khiến cho tôi rất bâng khuâng.
Hoa Kỳ là một nước mà người dân da đỏ, da trắng và da đen chung sống với nhau từ ngày mới lập quốc. Theo chân người Hồng Mao tới Mỹ lập nghiệp là người da trắng gốc nước bên Âu Châu. Người da đen Phi Châu thì tới - được mua làm nô lệ thì đúng hơn - để khai khẩn đất hoang. Người da vàng tới Mỹ làm phu xây đường sắt... Rồi khi Hoa Kỳ trở thành nước kỹ nghệ lớn nhất hoàn cầu thì hàng năm có chương trình đón nhận dân tứ xứ nhập cảnh, cho nên luôn luôn có ''người Mỹ mới''. Do đó, nước Mỹ rất chú trọng đến việc làm sao cho những người dân không cùng một chủng tộc sống hoà bình trong Hợp Chủng Quốc.
Khi 120.000 người Đông Dương - rồi sau đó là từ một tới hai triệu người - vào nước Mỹ thì Nhà Nước Hoa Kỳ có ngay những chương trình TIVI hay MOVIE để giáo dục người lớn - và nhất là trẻ em - hiểu biết nhau, tránh những đụng chạm có thể xẩy ra. Trong hai mươi năm qua, đã không xẩy ra những vụ kỳ thị nào to lớn giữa người Mỹ mới và người Mỹ cũ, chỉ có vài chuyện mâu thuẫn trong nghề nghiệp của giới làm nghề biển ở vùng Vịnh Mexico mà thôi.
Tôi vốn là một nghệ sĩ, qua tất cả những sáng tác của mình, từ tâm ca tới trường ca qua tổ khúc... và trong suốt một đời, đã chỉ muốn dùng âm nhạc để thống nhất đất nước và lòng người. Trong lúc đóng phim The New Americans, tôi thường nghĩ đến nước Việt Nam, đến người Việt Nam, cùng chung một nòi giống mà vẫn còn đầy chia rẽ, hẹp lượng và khinh thị với nhau không biết đến bao giờ mới nguôi. Vẫn chia ra hai phe đối nghịch mà không bao giờ có sự tìm hiểu lẫn nhau. Mới chỉ đặt vấn đề giải hòa (hòa hợp, hòa giải) thôi, mà đã cãi nhau kịch liệt rồi! Người thấy được sự cần thiết phải ''đồng thuận'' giữa mọi người là ông chủ báo THÔNG LUẬN Nguyễn Gia Kiểng còn bị hành hung tại Hòa Lan khi dám lên tiếng nói công khai về việc này!
Cũng như mọi người cùng thế hệ, tôi thích điện ảnh và từ bé, đã được nếm đủ mùi vị của phim Âu, Mỹ, từ thời phim câm, phim đen trắng của các vua hề Charlot, Stan Laurel et Olivier Hardy... tới phim nói, phim mầu, phim cinemascope như A L'Ouest Rien De Nouveau, Le Signe De Zorro, Ben Hur, Tarzan... Nhưng tôi là kẻ chơi trò quay phim gần như suốt đời. Từ khi có máy camera 8 m/m bán ra trên thị trường, mới đầu còn dùng phim trắng đen, sau đó là phim mầu, tôi đã mua nó và biết sử dụng nó ngay. Trong gia đình, từ đứa con lớn là Duy Quang cho tới con gái út là Thái Hạnh, con nào cũng có những đoạn phim 8 ly từ ngày chúng mới ra đời cho tới khi chúng lớn lên dần...
Cảnh cũ, người xưa đều nhất loạt được tôi ghi vào phim nhựa, chẳng hạn cảnh thành phố Saigon ngày chúng tôi mới bỏ vùng quê về thành sinh sống, cảnh ông bà ngoại các cháu đánh đàn, cảnh vợ chồng tôi đi Vũng Tầu, Dalat, Pnom Pênh, cảnh đám ma anh Nhượng, cảnh đám cưới của các con, cảnh sinh ra và lớn của cháu nội Ly Lan, cháu ngoại Tori v.v... cảnh tôi đi du học bên Pháp, đi chơi bên Đức từ 1955 lận. Chưa kể rất nhiều phim nhựa 8 ly hay video tape ghi lại những cuộc lưu diễn ở trong nước trước kia và trên hoàn cầu sau này.
Rồi trong phạm vi nhà nghề, tôi lại còn được vào làm việc trong một Trung Tâm Điện Ảnh (1955), đầu tiên với tư cách người viết truyện phim, rồi leo dần lên chức đạo diễn điện ảnh và cuối cùng là Phó Giám Đốc của Trung Tâm.
Qua nước Mỹ, kể từ khi có thêm phương tiện VCR hay Karaoke để âm nhạc nhẩy từ sân khấu lên màn ảnh, thì tôi - hay nhạc của tôi - đều thường xuyên có mặt trong những chương trình video do các hãng Thúy Nga, Asia, Làng Văn... sản xuất. Tôi còn được hãng Thúy Nga làm hai chương trình video về tôi để cho tôi có dịp trả lời hai phóng viên quốc tế Đỗ Văn, Lê Văn về cuộc đời nghệ sĩ của mình.
Ngoài ra, trước đây tôi có mặt trong một số phim video của Sở Thông Tin Hoa Kỳ USIS (như phim THE RAIN ON THE LEAVES) hoặc trong chương trình TIVI (về Dân Ca của Peter Seeger, có tôi hát cùng đôi song ca Addiss/Crofut)... nay những phim đó được phát hành.
Chưa hết! Với bước chân ''70 dặm'', kỹ thuật mới áp dụng vào những trò vui chơi ở trên thế giới tiến nhanh tới hình thức DVD. Bây giờ người ta coi phim, coi hình, nghe nhạc không phải bằng phim nhựa hay bằng phim video nữa mà bằng đĩa DVD. Đó là một cái đĩa thủy tinh cứng nhỏ bằng bàn tay, có khả năng chứa đựng tối thiểu là hai giờ đồng hồ hình ảnh và âm thanh, dài bằng thời gian của một phim truyện vậy. Bao nhiêu phim hay ở trên thế giới mà xưa kia chúng ta phải đi coi ở rạp chiếu bóng hay được chứa trong băng video thì nay được cho vào đĩa DVD. Thật là tiện lợi! Băng nhạc hay phim video nếu coi đi coi lại thì có thể bị hư dần nhưng đĩa CD hay đĩa DVD thì bền bỉ suốt đời.
Thế rồi người ta chế ra cái máy để làm được những ''đĩa phim đó'' ngay trong nhà, gọi là máy làm video-CD. Khi máy đó vừa bày bán trên thị trường thì tôi mua ngay để biến hàng trăm, hàng chục cuốn phim video cồng kềnh và nặng nề của tôi vào những đĩa video-CD mỏng dính và nhẹ nhàng.
Tôi còn là kẻ may mắn nhất vì được làm quen với computer từ buổi bình minh của phát minh này. Từ cuối thập niên 80, tôi và Duy Cường đã khởi sự dùng máy computer. Trước tiên, chỉ là để thay thế máy đánh chữ, nhưng khi đó chưa có ai đưa được ''fonts chữ Việt'' vào máy computer. Chúng tôi phải đi tìm mãi mới kiếm ra được một ông kỹ sư tên là Nguyễn Văn Tâm - đang làm việc cho Tổ Chức Không gian NASA - là người đầu tiên viết ra ''fonts chữ Việt''. Thế là chúng tôi gài ''fonts chữ Việt'' vào máy và bắt đầu dùng computer để viết thư, viết báo, viết Hồi Ký, viết sách nhạc và nhất để giữ lại những tài liệu cũ chất chứa trong những hồ sơ to tổ bố. Và cũng phải mất một thời gian khá lâu để chúng tôi tìm mua những ''softwares'' về âm nhạc để viết nốt nhạc, để hoà âm. Và mua thêm những ''softwares'' về hội họa để làm tranh ảnh, trang trí v.v...
Cho tới khi nhờ có computer mà tôi tiến đến giai đoạn làm ra được những CD-Rom. Trước hết, ta cần biết: CD-Rom là gì?
CD-Rom là một phương tiện có khả năng lưu trữ chỉ trên một đĩa nhỏ như loại CD mà chúng ta thường mua về nghe nhạc, một khối lượng dữ kiện khổng lồ là 680 megabytes. Chỉ cần lấy một ví dụ: toàn bộ 24 cuốn Bách Khoa Tự Điển có thể thu gọn trong một dĩa CD-Rom. Nó giống như một thư viện vậy.
Những bức ảnh (photo), âm thanh (sound tức là music), phim (video) và văn bản (text) cũng đều có thể chất chứa trên đĩa CD-Rom. Nó giống như một bảo tàng viện, một rạp hát hay một rạp chiếu bóng vậy.
CD-Rom còn cho phép người dùng nó, làm công việc ''tương tác'' (interact), chứ không thụ động ngồi coi. Khác với việc coi phim video, nếu muốn coi lại một đoạn đầu hay coi ngay đoạn cuối thì phải ta quay lại (rewind) hoặc quay tới (forward). Với CD-Rom, ta có thể chọn xem, hoặc tìm chỗ cần tìm và trở lại phần đang xem ngay lập tức.
CD-Rom cho phép ghi lại âm thanh với phẩm chất tương đương với đĩa CD audio và còn có thể phối hợp hình ảnh và âm thanh giống như hình thức karaoke.
CD-Rom được gọi là ''truyền thông đa diện'' (multimedia) vì nó có khả năng tiến lên ngang hàng với sách báo, video, đĩa nhạc. Trong nhiều trường hợp nó có khả năng lớn hơn các thứ ''truyền thông đơn diện'' vừa kể... vì đã có những ''sách nói'', ''sách hát'', ''sách hoạt hình'' cho người lớn và trẻ thơ bán ngoài thị trường rồi.
Như đã từng là người đầu tiên phát hành đĩa CD-Audio (CD Nhạc Tình), bây giờ, với sự cộng tác của một kỹ sư trẻ, anh Bùi Minh Cuơng ở San Jose, chúng tôi cho ra đĩa CD-Rom đầu tiên của Việt Nam.
Đây là một cuộc hôn phối rất tốt đẹp của nghệ thuật và kỹ thuật. Với đĩa CD-Rom đầu tiên của Việt Nam này, với chủ đề HÀNH TRÌNH TRÊN ĐẤT MẸ, chúng tôi có khát vọng đem chút gia tài văn hóa của người đi trước tặng cho thế hệ đi sau, mà có thể vì sinh ra và lớn lên ở hải ngoại, các em bị cắt đứt với dòng sống tinh thần và tình cảm của dân tộc.
Qua CD-Rom này, chúng tôi hi vọng đem lại cho các em hình ảnh quê hương, tiếng hát quê hương, phong cảnh quê hương, tình tự quê hương... Và cũng chỉ với sức chứa của CR-Rom, chúng tôi mới có thể cung cấp thêm cho các em, ngoài âm nhạc ra, vài ba dữ kiện trong thi văn, hội họa, kiến trúc... Lịch sử cũng như huyền sử, địa dư và địa chí đều nhất loạt hiện diện trong CD-Rom này cho xứng đáng với danh nghĩa truyền thông đa diện - multimedia của nó...
Chúng tôi cố gắng cho CD-Rom này có thêm phần đa ngữ để cho người ngoại quốc hoặc các em xưa rày ít nói tiếng mẹ đẻ, hiểu biết kỹ càng về công trình này. Đa số tiết mục trong CD-Rom đều được giới thiệu qua ba thứ tiếng Anh-Việt-Pháp.
Vào lúc tôi hoàn tất Hồi Ký này, tôi cũng đang hoàn chỉnh những CD-Rom:
1) Pham Duy Anthology, gồm hai phần:
Một phần ghi lại bằng văn bản, hình ảnh, âm thanh của toàn thể nhạc phẩm Phạm Duy.
Một phần ghi lại bằng văn bản, hình ảnh, âm thanh của những bài ca ngoại quốc do soạn lời Việt.
2) Pham Duy Family là một CD-Rom tóm tắt cuộc đời và sự nghiệp của bố tôi là Phạm Duy Tốn, của hai anh tôi là Phạm Duy Khiêm, Phạm Duy Nhượng và của vợ tôi là Phạm Thị Thái Hằng...
Trong CD-Rom này, tôi sưu tập được:
a) Hầu hết văn phẩm của người bố, từ những bài báo đăng trên Lục Tỉnh Tân Văn từ những năm 1915-16, qua những đoản thiên tiểu thuyết như Sống Chết Mặc Bay, Câu Chuyện Thương Tâm, Nước Đời Lắm Nỗi cho tới 108 truyện cười trong ba cuốn Tiếu Lâm Annam...
b) Hầu hết tác phẩm bằng Pháp văn của người anh Cả, từ những bài diễn văn cuối niên học cho tới những cuốn sách nổi danh Légendes Des Terres Sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi À La Courtine.
c) Toàn thể sự nghiệp của người anh thứ, tác giả của những bài Nhạc Đường Xa, Đêm Đô Thị, Bà Mẹ Chồng...
d) hoạt động của người vợ yêu quý trong ban THĂNG LONG của gia đình, ban HOA XUÂN của tôi, TAO ĐÀN của thi sĩ Đinh Hùng và ban kịch truyền thanh của Võ Đức Duy v.v...
3) Dẫn Vào Nhạc Việt Nam là một tiểu luận song ngữ, giới thiệu tổng quát về lịch sử nhạc việt, nhất là về những ngày đầu của Tân Nhạc.
4) Trống Việt Nam là một tiểu luận về một nhạc khí mà tôi rất yêu thích. Trong đó, tôi dẫn người đọc (và nghe) từ trống đồng qua trống mặt gỗ tới trống mặt da, tữ trống cái qua trống nhỡ tới trống nhỏ, từ trống thờ qua trống chầu tới trống chèo v.v...
5) Toàn Bộ Hồi Ký của tôi đã cho vào một CD-Rom. Ngoài văn bản ra, người đọc còn coi thêm được nhiều hình ảnh, nghe thêm được nhiều bản nhạc nữa trên máy computer. Với CD-Rom này, có thể in ra (print out) từng chương, từng đoạn để đọc.
6) Những Chuyến Trở Về.... Sau 50 năm xa Hà Nội và 25 năm xa Saigon, vào đầu năm 2000, tôi trở về Việt Nam và có dịp ghi lại hình ảnh, cảm tưởng, suy nghĩ của tôi... Việc trở về quê hương này còn quá mới cho nên tôi không cho vào Hồi Ký mà cho vào một CD-Rom, coi như một thứ Album dành cho con cháu mà thôi.
Việc sưu tập tài liệu về mình coi như rất là mỹ mãn. Không có nghệ sĩ nào trong thế hệ tôi có thời giờ và nhất là có phương tiện để truy lùng rồi ghi lại những sự việc đã xảy ra trong cuộc đời khá lộn xộn này. Có lẽ vì tôi là một kẻ rất gai góc và đã bị các "sử gia Nhà Nước" cố tình bỏ quên cho nên tôi đã phản ứng lại bằng cách tự viết sử của mình đến độ có thể bị hiểu là kém nhũn nhặn. Nay thì tôi yên tâm: không sợ bị bỏ rơi nữa, vì với Hồi Ký, với CD-Rom PD Anthology, PD Family v. v... tôi đã ghi lại hầu hết đời mình vào sách đọc, đĩa đọc để nếu rằng mai sau dù có bao giờ có - tối thiểu là các con các cháu và những người tình - đốt lò hương để nhớ tôi, thì xin âu yếm mời đọc và nghe những tài liệu vừa kể đó.
Tôi lại còn có thêm hạnh phúc là sống dai để hưởng được sự phát minh ra INTERNET và nhờ đó, một phần đã hoàn tất của những tài liệu của tôi đã được phổ biến quá ư tự do và rộng rãi trong dăm bẩy năm qua. Nhờ có mạng lưới toàn cầu này, nhờ công ty KICON ở Santa Ana, CA USA... một HOME PAGE (trang nhà) của tôi đã được hiện diện thường xuyên trong thinh không. Biết bao nhiêu người thuộc dăm ba thế hệ trẻ đã hằng ngày gửi điện thư (E-mail) liên lạc, khen tặng, thăm sức khỏe và chúc thọ... khiến cho tôi - trời ơi, sướng quá - không cần đợi khi chết đi, phải gọi một đàn ruồi đến để nghe dùm những bài điếu văn tuyệt diệu.
Phạm Duy
Theo https://vnthuquan.net/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...