Thứ Năm, 31 tháng 1, 2019

Pháp du hành trình nhật ký 2

Pháp du hành trình nhật ký 2
Nhật ký đi Pháp từ tháng 3 đến tháng 9, 1922
Phần 5
VIII [1]
Paris, thứ tư 17 tháng 5
Bấy lâu khao khát được đến Paris, nay đã nghiễm nhiên ở Paris rồi đây. Lúc còn mơ tưởng Paris, tưởng được trông thấy mừng rỡ xiết bao. Nay đã đến nơi, thấy điềm nhiên như không, tựa hồ như mình ở đây đã lâu năm rồi. Sáng ngày thức dậy, mở cửa phòng trông ra ngoài phố, mơ màng như vẫn ở nước nhà, sực nhớ ra mới biết rằng mình đương ở một nơi đô thành đệ nhất trong thế giới. Nghĩ người ta cũng lạ: mơ tưởng cái gì mà chưa được thì bồn chồn háo hức, tưởng được rồi sướng không biết bao; đến khi được thật, thấy cũng chẳng sướng hơn gì trước, đã sẵn lòng coi thường, coi rẻ. Không biết rằng sự sướng, sự khổ, sự vui, sự buồn ở đời, không phải là bừng bừng như lửa cháy, cuồn cuộn như nước lên, vụt phát ra, vụt biến đi, như trong khi diễn kịch ở trên sân khấu. Phàm tình cảm của người ta, phải dần dần dà dà, nhật tẩm nguyệt tí [2], lâu ngày đằm thắm, mới thật là chân tình; còn ngoại giả là những sự háo hức nhất thời mà thôi, càng nóng nẩy bao nhiêu, lại càng dễ nguội bấy nhiêu.
Một nơi đô hội lớn như Paris này, chắc là có một cái tinh thần riêng, một cái “hồn” riêng; cái hồn ấy, không thể trong một buổi mà cảm giác được. Mà có cảm giác được cái “hồn” ấy, mới thật là biết Paris, chứ không phải xét cảnh tượng bề ngoài mà đủ biết. Mình còn ở đây lâu, thử cố xem có cảm được cái “hồn” thiêng của một nơi danh thắng đệ nhất trong hoàn cầu. Chớ nên vội vàng hấp tấp mà đã xét đoán theo cái cảm giác một buổi đầu.
Đến Paris, việc thứ nhất là phải mua một cái bản đồ, và chiếu bản đồ đi chơi mấy buổi để lấy phương hướng. Cả buổi chiều hôm qua là đi chơi lấy phương hướng (tiếng tây gọi là courses d'orientation). Ở Paris có thứ xe điện ngầm gọi là Métropolitain, nghe nói lạ lắm. Bèn tự trọ [3] ra nơi đỗ xe gần nhất, cũng cách đến hai phố dài. Chỗ này xe lại không chạy ngầm mà chạy ở trên cầu, vì là chỗ trũng nhất ở Paris. Lấy vé, rồi vào xe đứng, không đầy một phút xe chạy, chạy mau vùn vụt như tên bắn vậy, một loáng thời vào đường hầm, tối như cái đường phố hẹp ban đêm mà có thấp thoáng mấy cái đèn điện. Tuy đi dưới đất như thế, nhưng cũng thoáng hơi, không đến nỗi hầm lắm, vì mỗi đầu phố lại có cửa lên xuống, xe đến nơi đỗ độ nửa phút cho khách lên xuống, rồi lại vùn vụt chạy. Đứng trong xe thấy mỗi chỗ đỗ kẻ lên người xuống tấp nập, mình chẳng biết đâu vào đâu cả, cứ đứng bên. Sau đứng mãi mỏi chân, đến một chỗ thấy người ta lên mình cũng lên, thì ra xe đã chạy ngầm dưới sông Seine mà sang bên kia sông, là chỗ phồn hoa náo nhiệt nhất thành Paris. Sau mới hiểu ra rằng lối xe điện ngầm này là chạy vòng quanh khắp thành Paris, người nào định đi đâu thì phải chọn đường mà đi và phải biết trước đến đầu phố nào phải xuống, không thì xe kéo đi khắp thành phố, ra đến ngoài ô. Cho nên ở Paris này, nếu thuộc địa đồ biết đường xe nào đối chiếu với đường xe nào, thì đi đâu cũng tiện lắm, vì các đường sắp đặt rất khéo, đối nhau như in. Nhưng khách lạ bỡ ngỡ như mình, mới trông vào địa đồ thật là hoa mắt rối trí, đứng trong xe thời cứ thấy chạy bắn đi, mà nhìn chung quanh tối om như hũ nút, đến chỗ đỗ mình chưa đọc rõ tên chỗ nào, xe đã chạy vụt đi rồi!
Ở dưới hầm lên, thấy đứng giữa một con đường thông cù [4] lớn, hai bên nhà cửa nguy nga, hàng quán la liệt. Mở địa đồ xem mới biết là chỗ này gần dinh quan Giám quốc. Anh em nói đùa nhau rằng bọn mình đến Paris, không rắp định và cũng không có tư cách vào chào ông quốc trưởng của Đại Pháp, vậy mà tình cờ đưa chân ngay đến trước cửa dinh ngài, ấy cũng là một sự không ngờ. Âu là ta đi dạo quanh một lượt xem hình thế cái dinh quan Giám quốc thế nào, ấy cũng là một cách thi lễ của người khách đối với ông chủ nhà vậy. Cơ ngơi cũng to tát rộng rãi thật, vườn tược um tùm, nhưng kể đẹp thì không lấy gì làm đẹp cho lắm, nước Pháp tưởng còn nhiều nơi cung điện đẹp hơn nhiều. Có lẽ lấy cái tính cách bình đẳng một nước dân chủ, ông quốc trưởng không nên ở nơi lộng lẫy quá chăng? Xem bề ngoài không có cái gì là đặc biệt với các nhà lầu khác, duy có mỗi cửa hai tên lính “đầu rồng” (dragons) đeo gươm trường đứng canh là hơi có cái vẻ quan cấm một chút. Bên ta chưa được trông thấy thứ lính “đầu rồng” này bao giờ, chỉ được xem trong tranh, bây giờ mới mục kích: lính này mặc áo dạ đen nẹp đỏ, đầu đội cái mũ đồng bóng nhoáng có đuôi dài rủ xuống sau lưng, một tay cầm gươm vác vai, một tay cầm vỏ gươm kéo xuống đất, mà người nào cũng lực lưỡng cao lớn, trông thật oai vệ. Thứ lính này chỉ dùng về việc nghi vệ mà thôi.
Cách dinh Giám quốc một ít, lại có một cái dinh nữa cũng có “lính đầu rồng” canh: hỏi ra mới biết là Bộ Nội vụ, trông ra nơi công trường Beauveau. Ta thường đọc báo tây cứ thấy trong báo nói đến các bộ mà không có nói rõ là bộ gì bộ gì, chỉ gọi tên đường phố mà thôi, như Nội vụ thì gọi là Place Beauveau, Ngoại vụ là Quai d'orsay, Lục quân là Rue Saint Dominique, Thuỷ quân là Rue Royale, Bộ Thuộc địa là Rue Oudinot, v.v., cũng là một cái thói quen riêng của các nhà làm sách làm báo, tức như bên ta gọi người không gọi bằng tên và họ mà gọi bằng tên làng, như cụ Yên Đổ, cụ Đồng Tỉnh, ông tú Đông Ngạc, ông đồ Lương Đường, vân vân.
Đi chơi lan man đường nọ ra phố kia, xem đã thích mắt, nhưng còn ngơ ngác như chú Mán đường ngược xuống chơi Hà Nội vậy. Cứ thế mà đi suốt đường thông cù Champs Elysées hai lượt, đi bên này phố từ nơi dinh quan Giám quốc đến cửa Bắc đẩu khải hoàn môn (Arc de triomphe de l'étoile), rồi lại đi bên kia phố tự cửa Khải hoàn về đến Cộng hoà trường [5] (Place de la Concorde), hai bên phố cách nhau đến trăm thước, mà con đường dài cũng tới ngàn thước. Ngắm cảnh tượng con đường thông cù này mới biết thành Paris là lớn là đẹp. Nhưng chắc còn nhiều cảnh đẹp nữa, ta chớ nên vội hăm hở mà nức nỏm khen như chú Mán nọ, về chốn kinh kỳ kẻ chợ, thấy cái gì cũng lạ mắt lạ tai, mỗi mỗi kêu lên: “úi chà, to! úi chà, đẹp!” Người đi quan sát mà đứng trước một cái cảnh tượng gì, dù to dù đẹp lạ lùng thế nào mặc lòng, không cầm được cái tiếng kêu “úi chà!” đó, là người chưa đủ tư cách quan sát vậy. Tuy vậy, lúc ghi chép vào quyển nhật ký này, tưởng tượng đến cái đường thênh thang đó, hai bên hai dãy cây um tùm, một đầu sừng sững cửa khải hoàn, một đầu chon von cái cột đá (là cột đá Ai Cập ở giữa Cộng hoà trường), kể cũng đã trang nghiêm, kể cũng đã tráng lệ, kể cũng có khí tượng, kể cũng có hùng uy, bất giác cũng lẩm bẩm khen thầm: “úi chà, đẹp!” Như vậy thời cũng chửa khỏi là chú Mán mà đã dám tự cao…
Tự đường thông cù Champs-élysées mà không biết đi quanh đi co, đi luẩn đi quẩn thế nào, lại về đến trước cửa nhà Ga Lyon là nơi mình xuống xe lửa lúc nãy. Đi đất tự 4 giờ, bây giờ đã hơn 7 giờ, bụng vừa đói, chân vừa mỏi, gặp hàng cơm ở đường Lyon, vào ăn cơm tối, thế là bữa cơm thứ nhất ở thành Paris vậy. Bữa này ăn ngon quá, duy nói đến “cơm” mà thèm “cơm”, vì từ khi sang đây đến giờ chỉ mới được hai lần là ăn cơm gạo thật, còn tuy gọi là “cơm” mà là “cơm tây” cả! Cái tiếng “cơm tây” ấy cũng kỳ; ta nói thường quen miệng đi, ai cũng hiểu “ăn cơm tây” là dùng đồ ăn tây, nhưng nghĩ ra, - mà có sang đây, không được thường ăn cơm của mình, mới nghĩ đến, –thật không có nghĩa gì cả; cơm mà của Tây, Tây mà có cơm, thế là cái gì? Cho hay ngữ ngôn của mỗi nước là đặc biệt cho nước ấy, xét ra cho kỹ, không có một tiếng một chữ nào là giống nhau như hệt, kháp nhau như in được. Chẳng qua là miễn cưỡng mà dùng, rồi dùng mãi thành quen mà thôi. Như ăn lối tây thì gọi là “ăn cơm tây”, nằm lối tây thời gọi là “nằm giường tây”, nhưng mà “cơm tây” với “giường tây” có gì là giống với cơm ta và giường ta không? Người đã ăn theo lối tây, nằm theo lối tây, thì nói đến cơm tây, giường tây, mới hiểu là cái gì, chứ người chưa từng ăn bánh bột mì, chưa từng nằm giường “lò so”, thì nói đến những tiếng ấy phỏng có nghĩa lý gì? Nói mà không có nghĩa lý thì dẫu nói luôn miệng cũng chẳng ăn thua gì. Chẳng qua là truyền khẩu như con yểng mà thôi. ấy là thí dụ những tiếng tầm thường về sự ăn sự nằm cũng đã cách xa nhau một vực một trời như thế; huống những tiếng có ý nghĩa sâu xa u ẩn thì còn cách nhau đến thế nào! Cứ xét một điều đó thì biết học tiếng ngoại quốc khó là dường nào. Học một thứ tiếng nước ngoài mà cho đến “nhập diệu”, nghĩa là đọc một chữ lên mà tưởng tượng hay là suy nghĩ ngay ra cái sự vật hay là cái nghĩa lý nó bao hàm ở trong chữ ấy, đúng như trong óc một người sinh trưởng trong thứ tiếng ấy, thì phải đến mấy chục năm, lại phải sinh hoạt theo như người nước ấy, biến hoá tâm tính theo như người nước ấy, mới có thể được. Còn thời chẳng qua là nhồi óc cho đầy những cái vỏ chữ của ngoại quốc, mà trong vỏ nhiều khi không có tí ruột nào. ấy người mình học chữ tây đại để như thế. Có công có sức học được thì cứ việc mà học. Nhưng mà chỉ sợ một điều, là trong khi cố công dùng sức nhồi óc cho đầy những cái vỏ chữ của người, thì cái ruột chữ của mình mất hết cả, rút cục xôi hỏng bỏng không, tiếng người chửa biết, tiếng mình đã quên, ấy mới nguy, ấy mới hại!…
Rõ mình cũng lẩm cẩm thật, nhân chuyện “cơm tây” mà nói đến dài dòng văn tự như thế, nhật ký đâu lại nhật ký lôi thôi như vậy? Nhưng mà trong khi nằm trọ ở chốn tha hương, duy có quyển nhật ký là bạn liền tay, cả ngày thơ thẩn ở đất nước người, tối đến giở sách ra biên, như nói chuyện với người bạn thân, gặp chuyện gì nói chuyện nấy, việc gì mà sợ lôi thôi, ai chê là người lẩm cẩm?
Nhưng mà nói chuyện đâu đâu, đến chuyện ngày hôm nay vẫn chưa biên, mà đêm thời đã khuya, giấy cũng đã hết rồi
Thứ năm, 18.5.1922
Hai ngày hôm nay cũng được nhiều việc.
Hôm qua thì đi thăm các viên chức ở “Kinh tế cục” (Agence économique) là sở thay mặt chính phủ Đông Pháp để giao thiệp về các việc kinh tế ở bên này. Hồi ở nhà đi, có mấy ông quý quan ở bên ta gửi giấy giới thiệu cho các ông ở Kinh tế cục, vậy phải đến tiếp mặt các ông ấy cho phải phép. Các ông tiếp đãi ân cần và hứa có cần hỏi han việc gì sẽ hết sức giúp. Mình cũng cảm ơn cái bụng tốt của các ông, nhưng trong bụng cũng mong rằng không có việc gì phải phiền đến các ông lắm. Sự giới thiệu vẫn là một sự hay, vì nhân đó mà được quen biết rộng, đỡ lạ lùng lúc mới đầu. Nhưng mà cũng có khi phiền, phiền cho người giới thiệu mình, phiền cho người mình được giới thiệu tới, mà phiền cả cho mình nữa. Đi đến một nơi xa lạ, được một vài chỗ giới thiệu đích đáng, để giúp cho việc đưa đón hành lý, tìm kiếm trọ ở, chỉ dẫn cho biết những cách thức ăn ở, giá hạng các đồ, v.v… thế là đủ, còn không cần phải nhất nhất quấy phiền người ta làm gì. Đến đâu phải tuỳ đáo tuỳ biện, không nên nhất thiết ỷ lại vào kẻ khác. Phương ngôn ta nói: “khỏi nhà ra thất nghiệp”, là nói sai. Người nào mà đến ra khỏi nhà thành thất nghiệp, thì người ấy chỉ nên ở nhà với “mẹ đĩ”, chẳng nên ra khỏi cửa làm gì. Nhất là người du lịch, lại cần phải tự do lắm, muốn đi đâu thì đi, muốn xem gì thì xem, gặp đâu có ăn thì ăn, gặp đâu có nằm thì nằm, phải hơi “bông lông” một tí như thế thì mới thường gặp được sự bất kỳ. Nếu mỗi bước có người chỉ dẫn, đi đâu cũng phải nhờ kẻ đón người đưa, như cậu học trò mới ở trường ra, thì sự du lịch mất cả thú, và nhiều khi thành một sự phiền. Mình nghĩ như thế, nhưng có ông lại không nghĩ thế. Cho rằng bọn mình là “phái bộ” của Chính phủ đi quan sát quý quốc, thì phải có quan Nhà nước đưa đi mọi nơi, như ông giáo dắt lũ học trò vậy. Có ông lấy thế làm vẻ vang, tự mình cho thế khí [6] đê tiện. Mình không phải là lũ trẻ con đi xem hội mà cần phải có người lớn chỉ cho từng trò, đây là phường múa rối, nọ là lũ leo dây. Có mắt để mà xem, có tai để mà nghe, có trí để mà nghĩ, hà tất phải ai chỉ cho vạch cho mới biết. Nếu còn cần phải có người chỉ vạch cho như thế, thì sang đây mà làm gì? Còn nói rằng đi đâu nên đi cả đoàn, có quan Tây đưa dẫn, trọng sự thể hơn, thời điều đó tôi lấy làm ngờ lắm. Có lẽ ở bên mình đi theo sau một vị quý quan, hoặc có điều vẻ vang chăng, vì có thể huyễn diệu [7] được kẻ khác, chứ ở đây thời họ cho là một lũ mán xá phải có người cai quản hướng đạo. Nhưng mà ở đời mỗi người một ý, mình cho thế là không nên, họ cho thế là nên, cũng là tuỳ cái ý riêng của mỗi người, chẳng nên nghị luận làm gì.
Cả ngày hôm qua xem điện Panthéon là nhà kỷ niệm các danh nhân nước Pháp. Ở trọ đi ra gần lắm, cách có vài phố. Đi qua con đường d'Ulm, thấy trường Cao đẳng sư phạm (Ecole Normale Supérieure), trong bọn học sinh thường gọi tắt là “cái nhà đường d'Ulm” (la maison d'Ulm), nhà cũng thường thôi, không lấy gì làm to lớn đẹp đẽ lắm, nhưng có cái vẻ nghiêm trang bình tĩnh, thật là một nơi học hành cao thượng. Chung quanh có vườn, cây cao bóng mát, dưới gốc cây có ghế đá, dưới bóng cây khoác tay thơ thẩn dăm mươi thày học sinh, người thời vừa đi vừa nói, ra dáng hăng hái nghị luận; người thời tay để dưới cầm, ra bộ nghĩ ngợi xa xôi; người thời con mắt đăm đăm, ra tuồng mơ màng tưởng vọng. Nhìn nét mặt các người sinh viên đó, như có cái hào quang của sự học, trong lòng cảm phục cái chí cao của kẻ thanh niên nước Pháp, mà lại bùi ngùi cho cái công học hành dở dang của mình. Than ôi! mình không phải là không có cái lửa nhiệt thành về sự học, nhưng mà sinh trưởng vào giữa buổi thanh hoàng [8] học không ra gì cả, nho đã chẳng ra nho, mà tây cũng chẳng thành tây. Phàm sự học phải cho đến nơi đến chốn thì sở học sở hành mới điều hoà dung hợp nhau, mà gây nên cái nhân cách thanh cao. Hễ còn dở dang, còn nửa chừng, thì không ra con người gì cả. Ông cha mình mấy mươi đời học nho, nghiệp nhà đến mình là đoạn tuyệt. Bây giờ muốn cầu làm ông đồ cổ, bàn nghĩa tính lý, ngâm thơ nhà Đường, nhắp dăm ba chén chếnh choáng cho tiêu sầu khiển hứng, bảo mươi lăm thằng trò chẹt [9] biết dã, giả, chi, hồ, an nhàn vô sự, ngày tháng vui qua, cũng không được nữa. Nói đến học tây, thì chẳng qua học mấy câu tiếng tây để đi làm thuê, cũng tự biết còn thiếu thốn, muốn ra công học thêm, nhưng thày đâu sách đâu, ở trường thông ngôn ra, được học mấy ông hương sư ở Tây sang, thế đã là tột phẩm rồi, nào đã bao giờ được từng ngồi qua cái ghế một trường Đại học như trường Sư phạm này? Mà đã không được học đến bậc đó, thì còn mong lập nên sự nghiệp gì về đường học vấn? Dở dang, dở dang, thôi mình đã đành là một con người dở dang! - mà cả nước mình cũng là một nước dở dang! … Mỗi lần đi qua những nhà học nghiêm trang như chốn này, trông thấy những học trò anh tuấn, giáo sư đạo mạo, người nào trong con mắt cũng hình như mơ màng những sự cao xa, mà “thèm” người ta biết nhường nào! Tưởng giá phải ăn bánh hẩm, uống nước lã, mà được làm một người trong những người tha thẩn dưới bóng cây, thấp thoáng trong rào sắt nọ, cũng cam tâm. Nhưng mà thôi, đã sinh vào buổi lỡ làng thì cũng phải chịu cái phận hẩm hiu vậy, biết sao bây giờ? Duy phải biết rằng học đã chẳng ra gì, thời làm cũng chẳng nên chi, vì có gốc mới có lời, vốn ít mong sao được lời to? Cho nên cũng chớ có mong mỏi những sự to tát quá sức không làm nổi; chỉ nên hinh hương chúc vọng [10] cho kẻ đến sau này họa được may mắn hơn mình chăng…
Thứ năm, 18 tháng 5.1922
Ở đường d'Ulm đi lại, vừa trông thấy mặt tả điện Panthéon, sừng sững trước mắt như một cái vách đá trăm thước cao. Quy mô coi cũng hùng. Điện hình chữ thập, trừ mặt tiền có cột đá, có cửa vào, còn ba bề bịt bung kín mít, không có một chỗ hở. Tưởng như một cái mả xây bằng đá của một con thú lớn đời tiền cổ nào. Mà thật điện này chính là một cái mả chung của danh nhân nước Pháp. Nguyên trước là nhà thờ bà thánh Genevière, là thần bảo hộ của thành Paris, đời Cách mệnh dùng làm đền kỷ niệm danh nhân, sau lại mấy lần làm nhà thờ, rồi đến năm 1885 mới định hẳn là đền kỷ niệm. Bây giờ trong đền chỉ có tượng và tranh mà thôi. Tượng thời cũng thường, không lấy gì làm lạ, duy tranh có những bức bích họa lớn, khắp từng gian tường, vẽ các tích trong lịch sử nước Pháp. Nét đan thanh, hồn tổ quốc, tức là những bài sử học hiển nhiên cho người Pháp đời nay, giục lòng nhớ đến công nghiệp đời trước. Nào tích vua Charlemagne, nào truyện bà Jeanne D’Arc, đẹp nhất là những bức của ông Puvis De Chavannes vẽ sự tích bà thánh Geneviève. Ông là một nhà danh họa đời nay, mới mất mươi lăm năm nay, đọc sách vẫn biết tiếng ông, nay mới được xem bức vẽ của ông. Người đời nay mà vẽ một người liệt nữ về nghìn năm trước, chắc là không có bằng cứ gì, chẳng qua là ở sự tưởng tượng cả. Vậy mà tưởng tượng thế nào đến tả mạc [11] ra hiển nhiên như thực, khiến cho người xem phải cảm động, thật cũng phải có cái bút tài thế nào mới vẽ được như thế. Bà Geneviève là một người con gái thành Paris, hồi tướng Hung Nô Attila vào đánh phá thành ấy, bà đốc suất dân quân ra chống cự, kinh thành được thoát nạn. Đời sau Giáo hội phong tặng cho bà lên bậc thánh. Tức cũng như truyện Hai Bà Trưng nước ta, nửa thực nửa huyền, không gì bằng cứ. Ngày nay ai biết hình dung mặt mũi Hai Bà Trưng thế nào? Nhưng nếu có một tay vẽ giỏi, lấy sức tưởng tượng mà tả mạc ra hình ảnh hai bà, hiển nhiên ra hai người con gái Lạc tướng, con mắt nét mặt như chan chứa cái lòng căm giận vì nước vì nhà, thế chẳng là phục sinh được người đời trước và giúp cho người đời sau học quốc sử dư? Thực hay hư, việc đã đến ngoài nghìn năm, không biết đâu mà đoán định. Bà Geneviève với bà Trưng Trắc có thực như truyện trong sử thuật lại không? Không thể biết được, và cũng không cần phải biết cho rõ làm gì. Nhà mĩ thuật có thể bằng không mà sáng tạo ra được, thời há chẳng nên mượn tích của lịch sử mà tả mạc những người đời xưa, để nuôi lấy tấm lòng yêu nước của người đời sau dư? Đó là cái nhiệm vụ tối cao của nhà mỹ thuật. Nước ta bao giờ mới có một tay họa sĩ có tài biết nghĩ đến những sự đó?… Trong mấy bức của ông Puvis De Chavannes tả về tích bà Geneviève, có một bức tôi lấy làm khéo lắm, là bức đề là “Bà Geneviève thức đêm canh cho thành Paris”. Bóng trăng chiếu rọi, trong tỉnh thành ai nấy đều ngủ yên cả, duy có một người thức. Người ấy là ai? Là một người con gái mộc mạc, ở một cái phòng nhỏ, bên cái góc sân con, ra đứng trước bao lơn, nhìn xuống dưới phố phường, nét mặt đau đớn, con mắt đăm đăm, trong bụng nghĩ những gì? Chắc nghĩ rằng: “Cái vận mệnh thành này chỉ còn một sợi tóc, mà người dân trong thành không ai biết lo cả. Âu là ta phấn nhiên [12] ra cứu cho lũ mê ngủ đó. Nay đêm còn trường, ngày chưa sáng, ta nên thức mà canh cho bọn đó ngủ…” Nét vẽ khéo lắm, linh hoạt như người sống thật.
Xem xong trong điện rồi, xuống dưới hầm; dưới hầm cũng rộng như trên, có mả của mấy bậc danh nhân ở đấy. Mới đến có cái điện nhỏ thờ quả tim của ông Gambetta; rồi đến mả ông J. J. Rousseau, ông Voltaire, ông Soufflot là người họa kiểu dựng ra điện Panthéon này; mộ ông Lazare và Sadi Carnot, ông Victor Hugo, ông Emile Zola, ông bà Berthelot, v.v.
Xem xong dưới hầm, trèo lên trên mái. Mái đây là một cái mái tròn, như một cái vung úp ở trên cái mộ vậy. Cao ngót trăm thước, có thang cuốn đi lên tận trên đỉnh, trèo hết mấy trăm bậc thang, đã thấy chồn chân. Đứng trên ấy thu quát được cả cảnh tượng một phần thành Paris.
Có người cho kiểu điện Panthéon này là nặng nề và nghiêm lặng quá. Tôi tưởng đã là cái đền kỷ niệm, lại là một cái nhà mồ, thời có cái vẻ nghiêm trang lạnh lẽo là phải. Còn cho là nặng nề quá, tôi tưởng cũng không phải là không hay; cái mả phải có vẻ vững vàng kiên cố, như thiên niên bất dịch vậy.
Ra ngoài cửa, ngoảnh lại nhìn, thấy lồng lộng chữ vàng trên biển đá một câu đề rằng: “Nhà nước cảm ơn kẻ danh nhân”.
Thứ sáu, 19 tháng 5.
Hôm qua gặp ông B. đưa vào xem sách ở nhà “Đại Pháp Đồ thư quán” (Bibliothèque Nationale [13]). Ông này đỗ văn khoa cử nhân, đã học đến năm thứ ba trường Cao đẳng Sư phạm, không biết vì cớ gì, nay ở ngoài làm việc cho một công sở nọ, nhưng vẫn học để thi Agrégation. Người còn trẻ, mới chừng 24, 25 tuổi, nhưng uyển nhiên [14] là một nhà học vấn nho nhã.
Hai người mới gặp nhau cũng có ý tương đắc. Trước ông đưa vào qua báo quán Le Temps, ông có bạn làm việc ở đấy. Nhà báo này tuy có tiếng khắp hoàn cầu, nhưng nhà sở và cách bày biện không có vẻ trang hoàng lộng lẫy như mấy nhà báo Le Matin, Le Journal. Các nhà báo kia là những báo phổ thông cho công chúng, dùng những cách cổ động tối tân, để làm cho thiên hạ chú ý, cho nên nhà cửa nguy nga, tối đến đèn điện thắp như ngày hội, chữ tên sáng rực một góc trời, đi ngoài phố trông cũng đã rực rỡ thay! Báo Le Temps là báo của bọn thượng lưu học thức xem, nên không phải dùng những cách quảng cáo lộng lẫy, những cách trang hoàng loè loẹt, mà có cái vẻ dịu dàng kín đáo, đứng đắn, “quân tử” hơn. Xem giọng văn đã biết, trông cái cảnh tượng báo quán lại rõ hơn nữa. Nhà báo nào cũng có một gian rộng để yết các điện tín trọng yếu cho thiên hạ đến xem, gọi là “phòng tin tức” (salle des dépêches). Phòng tin tức của báo Le Temps thời chỉ có mấy cái bàn lớn, trên bầy mấy bộ báo đóng thành tập cho khách đến xem, còn tịnh không có trang sức loè loẹt, không có cả những tranh ảnh, những bức họa, những chùm đèn pha lê tự trên trần rủ xuống, những ghế ngồi bọc nhung để la liệt hai bên, như các báo quán lớn kia. Lại người đến xem cũng phần nhiều là các cụ già, người đứng đắn, chứ không phải là chú đánh xe, cậu hầu bàn, cô đi khâu, thày làm việc, đi qua rẽ vào xem tranh, xem ảnh cho vui, như mấy nhà báo kia đâu. Lạ thay, mỗi tờ báo có một cái thái độ riêng, mà thái độ ấy lộ ra khắp cả, từ lời văn trong báo cho đến cách bầy biện ngoài. Nay đến trông thấy báo quán mới nghĩ ra như thế, nhưng tưởng cứ đọc báo Le Temps cũng đã đủ tưởng tượng biết vậy.
Ở báo quán ra, đi thẳng ra nhà sách Nationale, tức là “Đại Pháp Đồ thư quán”. Nhà thư viện này mình vẫn biết tiếng là kho sách giàu nhất trong thế giới, có đến hơn 360 vạn quyển sách in, không kể các tả bản (manuscrits) và các họa đồ (plans, cartes); nay mới được bước chân vào đây, thật là rừng sách, chứ không phải nói ngoa. Không biết “Tứ khố” của ông Khang Hi, ông Càn Long bên Tàu ngày xưa được bao nhiêu sách, nhưng kể cổ kim thư tịch, sưu tập lại thời khắp hoàn cầu không đâu bằng đây, nhà British Museum ở Luân Đôn đã có tiếng mà cũng chửa bằng. Ở nước văn minh, sự học vấn của người ta có cách dễ dàng tiện lợi, như thế không trách người ta giỏi hơn mình. Nghề phổ thông ấn loát đã giúp cho văn minh tiến bộ được một bước lớn, các thư viện công lại giúp cho sự học tiện biết bao nhiêu, tưởng cũng là một cái lợi khí cho văn minh. Loài người biết tư tưởng, biết học vấn, kể đã mấy vạn năm nay; biết chế tác ra văn tự để ghi nhớ lấy những sự học vấn tư tưởng ấy, kể đã mấy nghìn năm; trong mấy nghìn năm mấy vạn năm ấy, cái óc con người khám phá cũng đã được nhiều điều hay lẽ phải. Người đời nay tự cho là khôn hơn đời xưa, không biết rằng có khôn, - nhưng vị tất đã là khôn hẳn, - cũng là nhờ cái công suy tầm khảo sát của người trước mấy mươi đời tích lũy mới được như bây giờ. Các cổ thư tịch chính là cái kho chứa sự khôn ngoan của người trước (cũng có khi chứa cả cái dại, nhưng dại đây cũng là khôn, vì đủ làm gương cho đời sau). Nếu cứ vài thế kỷ lại xuất hiện ra một kẻ bạc quân như Tần Thủy Hoàng, bao nhiêu sách vở đời trước đốt sạch, thời sự tiến hoá của nhân quần ắt cũng bị ngăn trở nhiều. Cổ triết Tây phương đã có câu nói rằng: “ở dưới bóng mặt trời, không có sự gì mới”. Về đường vật chất văn minh, có lẽ mỗi ngày một biến báo ra nhiều sự mới lạ thật, xét cho kỹ chẳng qua cũng là làm phiền cho cuộc đời, làm nhọc cho thân người mà thôi; nhưng về đường tinh thần thời tưởng bao nhiêu nghĩ lý cao sâu, người đời nay tự phụ là đã phát minh ra được, các tiên hiền tiền triết đã từng suy nghĩ tới lâu đời rồi, chỉ vì không còn vết tích lại rõ ràng nên ta không biết mà thôi. Lại đến tâm lý người ta, xưa nay cũng ít thay đổi lắm: đời nào cũng có bấy nhiêu kẻ hiền, kẻ ngu, người khôn, người dại, bấy nhiêu kẻ loạn thần tặc tử, bấy nhiêu người chí sĩ nhân nhân [15]. Lại đến sự biến thiên trong lịch sử, đời nọ qua đời kia, cũng là theo một điệu bất dịch, là cái điệu trị loạn, hết trị rồi loạn, loạn chán lại trị, như mặt bể khi phong ba khi bình tĩnh vậy. Như thế thì ở dưới bóng mặt trời không có sự gì lạ thật, mà sự kinh lịch của người trước có thể làm bài học cho người sau được. Như thế thì thư tịch là quý thật, vì thư tịch là cỗ xe để truyền, để chuyển cái đạo học, cái tâm thuật của cổ nhân cho hậu thế.
Mình là một người “dâm” sách, mê sách như mê gái đẹp, mà được vào một nơi rừng sách như thế này, sướng biết bao nhiêu! Còn nhớ năm trước ở trường Bác Cổ, chì vì ham đọc sách mà nhiều khi xao nhãng cả việc làm, đến bị ông chủ Tây mắng!…
Nhà Đồ thư quán thành Paris này có hai “phòng đọc sách” rất lớn, mỗi phòng ngồi được tới bốn năm trăm người: một phòng công đồng cho thiên hạ vào xem, một phòng riêng cho những người đến khảo cứu. Phòng khảo cứu này có bàn ghế, bút mực, lại la liệt những tủ sách nhỏ và thấp, đựng những bộ tự điển, bộ tùng thư có nhiều quyển, để tiện cho người ta tra cứu. Vào khảo cứu ở đây phải có giấy phép của viện trưởng hay phòng trưởng; vào đến nơi, muốn dùng sách gì thời tra trong thư mục, biên rõ tên sách và số sách vào mảnh giấy, giao cho người làm việc đi tìm và đem lại cho. Thư viện mở cửa từ 9 giờ sáng đến 4, 5 giờ chiều, trong tịnh không có một ngọn đèn điện nào, là sợ sự hoả họan. Duy mấy phòng đọc sách thời mái bằng mặt kính cả, nên ánh sáng thiên nhiên lại càng tốt lắm.
Tôi có ý nhận những người đến khảo cứu ở đây, ra dáng chăm chỉ nhất có mấy ông cụ già đầu bạc phơ, chừng là những ông giáo học hay là những cụ lão nho đến tìm tài liệu để làm sách; còn người khác, vừa đàn ông đàn bà, thời có lẽ phần nhiều là những nhà làm sách, những nam nữ học sinh các trường đại học, đến khảo sách để soạn bài thi cử nhân hay tiến sĩ gì đó; người ngoại quốc cũng nhiều lắm.
Xem ra mấy ông lão nho chăm lắm, ngồi suốt từ khi mở cửa đến khi đóng cửa, mình đến đã thấy rồi, mình về chưa đứng dậy. Bữa trưa ăn ngay trong thư viện, vì ở cạnh phòng sách ấy có một gian nhỏ cho người lĩnh trưng [16] bán cơm bữa cho khách đọc sách. Các cụ mãi đến một giờ, một giờ rưỡi trưa, mới ra ăn cơm, coi bộ như bất đắc dĩ mà phải ăn; mà ăn gì? Một miếng bánh mì, một món trứng, dăm ba miếng giồi lạp, một cốc rượu vang, thế mà thôi, mà vừa ăn vừa đọc lại những mảnh giấy “nốt” đã biên chép đặc cả, như không để ý đến miếng ăn nữa. Lúc ấy bọn mình cũng ăn ở đấy, đương gọi nhà bếp đem món thịt cừu, nghĩ lại mà ngượng thay: ăn ngon cho sướng miệng mà óc cùng chẳng bằng người, thì cũng xấu hổ thật!…
Trong thư viện không những lắm sách kim, mà cũng nhiều sách cổ, không những chỉ có sách Tây phương, mà có cả sách Đông phương nữa: sách Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ, Tây Tạng, Nhật Bản, Tàu. Tôi có xem cái mục lục những sách Tàu, được hàng mấy nghìn bộ, mà có bộ tùng thư tới mấy nghìn quyển. Ở Paris mà muốn khảo cứu về Hán học, về chữ nho, cũng là thừa có tài liệu.
Nhà Đại Pháp Đồ thư chia ra bốn bộ phận lớn: 1. Sách in và bản đồ; 2. Tả bản (là những sách chép bằng tay, không có in) và các văn bằng cổ (manuscrits, chartes); 3. Mộc bản (estampes); 4. Huy chương và kỷ niệm bài (médailles et antiques).
Sách in ngót 4 triệu quyển; tổng mục lục các tên sách mới đến chữ G mà đã tới 57 quyển rồi.
Các tả bản thời chia ra: sách Đông phương 2 vạn rưởi quyển; sách Hi Lạp 4 vạn 960 quyển; sách La Mã 21 vạn 544 quyển; sách Pháp 45 vạn quyển; sách bằng các văn tự cận đại của Âu châu 4 nghìn quyển (vì đến cận đại thì nghề in đã thịnh, nên các tả bản ít dần đi); sách về lịch sử các châu quận nước Pháp 2530 quyển; các sách linh tinh 8 nghìn quyển. Cộng tới 11 vạn quyển, trong đó có đến vạn quyển có tranh vẽ và các kiểu chữ cổ đẹp lắm. Những sách này thật không đâu có, vì mỗi quyển chỉ có một bản mà thôi, quý giá vô cùng.
Số các mộc bản, vừa tranh vừa sách (estampes) có tới 250 vạn bản.
Các huy chương và kỷ niệm bài thời chia ra các thời đại và để vào trong tủ kính.
Nhưng gọi là đi lượt qua cho biết mà thôi, không có thì giờ xem nhất nhất cho tường được. Vả muốn vào mỗi bộ, lại phải có giấy phép riêng.
Tính mình thích khảo cứu các thư tịch, chỉ tiếc không được ở Paris này mà học suốt đời thì sướng biết bao nhiêu.
Hôm qua vào xem thư viện mất cả ngày. Sớm hôm nay mới có rảnh thì giờ lại thăm quan nguyên soái P., có giấy của một quý quan bên ta giới thiệu cho. Nguyên soái năm nay đã ngoại bảy mươi, nhưng người còn mạnh mẽ; ngài về hưu đã lâu và đã từng làm nghị viên mấy khoá. Trong khi chiến tranh, chính ngài làm chánh Hội đồng ủy viên coi về quân sự ở Hạ nghị viện, đã có công to trong khi bàn định về việc chiến hoà. Người ôn hoà, cẩn trọng và rất ân cần. Ngài hứa sẽ giới thiệu cho biết nhiều nhà chính trị có danh giá, thứ nhất là những ông nghị viên chuyên trị về việc thuộc địa và việc Đông Dương ta.
Thứ bảy, 20 tháng 5
Hôm nay thăm ông đốc trường Thuộc địa, ở đường Observatoire.
Mình phải làm một bài diễn thuyết ở trường này, nên phải đến tiếp chuyện ông để cùng ông định ngày. Ông này người nho nhã, chính là anh em thúc bá với ông nghị viên Nam kỳ, nhưng ông đốc coi có vẻ “trưởng giả” hơn ông nghị nhiều. Ông tiếp đãi một cách rất hòa nhã mà lại rất trịnh trọng, coi mình như một kẻ văn sĩ nước Việt Nam thật (không biết rằng cái giống văn sĩ Việt Nam đã có giá trị gì!) Ông nói rằng ông đã được giấy của Đông Dương kinh tế cục báo cho biết rằng mình sẽ diễn thuyết ở trường Thuộc địa, ông chỉ mong đợi được tiếp mặt để cho biết đầu bài và định ngày nào. Bèn nói đầu bài cho ông biết sẽ diễn về “Sự tiến hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”, còn ngày diễn thời để tùy ông. Ông nghĩ một lát, rồi định vào chiều ngày thứ tư 31 tháng 5, mình cũng thuận như thế.
Nói chuyện xong rồi ông đưa đi xem cả nhà trường, qua các lớp học, vào phòng diễn thuyết, phòng đọc sách. Nhác trông thấy mấy thầy học sinh đi thấp thoáng, tự nghĩ bụng rằng những thầy này độ vài ba năm nữa tốt nghiệp lại sẽ sang bên mình làm quan cai trị đây. Bấy giờ bất giác hồi tưởng đến năm xưa có quen một ông phán nọ, hễ gặp quý quan nào cũng cúi đầu chào, hỏi sao thì ông đáp rằng: “Biết đâu đấy, ngộ nay mai người ta làm quan cai trị mà mình phải “sú-doóc” người ta thì làm sao?” Giá bụng mình cũng nghĩ như ông thì trông thấy các thầy học sinh ở đây phải ngả mũ chào cả mới là phải…
Buổi chiều lại thăm quan cai trị C. là chánh văn phòng của quan Toàn quyền, ở Kinh tế cục, nói chuyện cho ngài biết việc diễn thuyết của mình. Ngài lấy làm vui vẻ và có ý ân cần, dặn đi dặn lại rằng: “Phải nói cho “giỏi” (épatant) để cho người quý quốc biết người An Nam mới được!” Vẫn biết thế, giỏi thì cũng muốn giỏi thật, nhưng ngộ lực bất cập thời thế nào? Cũng xin cám ơn ngài đã có bụng kỳ vọng cho như thế, nhưng điều đó thì không dám cam đoan trước. Vả lại còn ngại một nỗi này: là mình lạ nước lạ non, đường đột đến diễn thuyết, ai biết mình là người thế nào? Chức tước thì không có, xưng là “chủ bút báo Nam phong”, ai biết báo Nam phong là cái “quái” gì? Hoặc diễn mà không nên thân, tất họ cho là thằng da vàng học chữ tây bất thông; diễn mà nghe được, có lẽ họ lại cho là đọc thuộc lòng một bài của người Tây nào làm gà cho. Khó quá, khó nghĩ quá! Ông C. thấy mình có ý ngại như thế, cười mà nói rằng: “Không ngại gì. Ông đốc trường Thuộc địa viết giấy bảo tôi giới thiệu ông bữa ấy. Tôi sẽ vui lòng lấy tư cách làm chánh văn phòng của quan Toàn quyền, lại lấy cảm tình riêng của tôi đối với ông mà giới thiệu ông cho thính giả. Vả tôi cũng là học trò cũ ở trường Thuộc địa, tôi đã quen cả…”.
Thế là mình yên tâm. Bây giờ chỉ còn hì hục viết cho xong mấy chục trang diễn thuyết, dẫu không được “giỏi” cũng mong rằng không đến nỗi “tồi” cho lắm.
Tối hôm nay cùng anh em đi đánh bữa cơm tàu. Ở Paris có hai nhà cao lâu Khách; vào ăn ở “Trung Hoa phạn điếm” đường Des Carmes. Bánh mì, rượu vang, thịt bò, thịt cừu mãi đã xót ruột, nay được bát cơm rang, bát canh thịt, vài món sào tàu, ăn thật thấy ngon! Vào ăn đây phần nhiều là học sinh Tàu và mấy người Tây người đầm hiếu kỳ muốn nếm đồ ăn Tàu, nhiều người thì ăn bằng thìa dĩa, nhưng có người muốn tập cầm đũa, trông buồn cười quá. Họ thấy mình cầm đũa dẻo quẹo, và nhanh thoăn thoắt, họ lấy làm kinh dị lắm, nức nỏm khen thầm với nhau, như trông một lũ leo dây múa rối làm những trò kỳ lạ vậy. Ừ, mà mình quen tay quen mắt đi không biết, chứ người ngoại quốc họ trông thấy mình chỉ có hai chiếc đũa mà gắp gì cũng được, dung dị như không, nghĩ cũng lạ thật!
Chủ nhật, 21 tháng 5
Ông C. trước ở bên An Nam cũng là một người Tây tốt, thường ân cần giao tiếp với người mình. Nên khi sang đến Marseille, mình có viết thư lên Paris hỏi thăm, lại khi lên Paris có điện cho biết trước. Tới nơi lấy làm lạ, không thấy ra ga đón. Ông ở bên ta vốn là người cẩn thận lắm, không hề sai hẹn bao giờ: có lẽ không tiếp được điện chăng? Mấy bữa sau đến chỗ ông làm hai ba lần, lần thì người ta bảo ông đi vắng, lần thì người ta trả lời có ý nhạt nhẽo, tựa hồ như cái lệ trong sở làm không muốn cho người làm ra tiếp khách mất thì giờ. Mãi đến lần sau mới gặp, thì xét ra khác khi xưa, không có ý vồn vã như trước, lại có nét mặt như bẽn lẽn, bấy giờ mới hiểu rằng từ ngày ông về đây cũng là làm việc nhỏ mọn ở sở này, không được phong lưu sang trọng như bên mình, nên trông thấy anh em cũ có ý thẹn. Ông nói thoái thác rằng ông nhận được điện chậm quá, không thể đi đón kịp, nhưng mình đã hiểu ý rồi. Nghĩ cũng ái ngại thay, vì ông vốn bụng tốt, không phải kiêu căng làm bộ như ai: ở bên An Nam thì nghiễm nhiên làm một ông chủ, lên xe xuống ngựa, sung sướng biết bao, về đây làm một chân thư ký hay kế toán ở công ty này, lương nhiều lắm là bẩy tám trăm quan một tháng, lấy đâu nhà cao cửa rộng, kẻ hầu người hạ như khi xưa? Thôi thời cũng an phận, vì cách sinh họat ở “mẫu quốc” đây có phần eo hẹp hơn ở “thuộc địa”, nhưng ngờ đâu lại có anh An Nam sang tận đây mà cố đến tìm mình ở tận chỗ này! Nghĩ cũng hơi ngượng thật. Nhưng ông cũng cả thẹn quá, chứ mình có ý tò mò hay thóc mách gì đâu, chỉ là vì tình thật muốn cố đến thăm ông mà thôi. Vả mình cũng là người hiểu biết, có lạ gì những sự “đổi cảnh” khi ở quý quốc sang bên ta hay khi ở bên ta về quý quốc như thế, có ai lại cười ai về sự đó…
Hỏi phu nhân và cậu con trai thì nói về quê ở, vì ở Paris này tốn kém lắm. Ông ở đây chỉ thuê một cái buồng khách sạn, ở chung với một người “bạn” gái, chắc là cô đi khâu đi khiếc gì đó. Ông định hôm nay là ngày chủ nhật cùng anh em họp mặt một bữa cho vui vầy. Mời ăn cơm trưa cùng với cô “bạn” ông, rồi thuê taxi (là xe ôtô hàng) đi chơi mấy vòng trong rừng Boulogne, lại mời vào hoa viên uống vài cốc nước mát. Một buối này cũng phí mất hơn trăm quan, ở bên An Nam thì chẳng coi vào đâu (vì có 10, 15 đồng bạc), nhưng ở đây kể cũng là một món to vậy.
Buổi chiều bọn mình mời lại ông và “cô” ăn cơm tàu ở cao lâu khách [17].
Thứ hai, 22 tháng 5
Lại còn một bài diễn thuyết ở trường dậy tiếng Đông phương nữa. Mình đã hứa tự Marseille để lên đây sẽ diễn thuyết ở trường ấy về vấn đề tiếng An Nam, không nghĩ rằng nói về tiếng An Nam ở đây thì ai là người hiểu mà ai là người nghe. Nhưng đã nhận lời cũng phải y lời. Vậy hôm nay đến thăm ông Paul Boyer là Chánh đốc trường Đông phương Bác ngữ (Ecole des langues orientales) để định ngày diễn thuyết. Nhà trường đã sắp nghỉ hè, và bài diễn thuyết này cũng chỉ để riêng cho mấy người học sinh chuyên trị tiếng An Nam mà thôi, vậy định làm ngay ngày thứ sáu 26 tháng 5 này.
Ông đốc này người đã có tuổi, coi đạo mạo lắm, rõ ra một tay bác học. Xét ra trường Đông phương Bác ngữ này chuyên dậy cả các thứ tiếng ở Đông phương, vừa về Cận Đông, vừa về Viễn Đông. Trường lập từ năm 1795, xưa nay có tiếng, bao nhiêu những tay chuyên trị tiếng Đông phương giỏi ở nước Pháp trong ngót một thế kỷ rưỡi nay là xuất thân ở đây cả. Khoa tiếng Tàu và chữ nho hiện nay là ông Vissière dậy, bao nhiêu những người muốn đi làm thông ngôn, làm Lãnh sự ở Tàu phải học qua. Khoa tiếng An Nam thì trước ông Deloustal, nay ông Pazyluski dậy, có một ông trợ giáo người An Nam, trước là ông Phan Văn Trường, nay là ông Dương Văn Giáo (người lục tỉnh). Còn nhớ hồi năm 1909, trường Bác Cổ Hà Nội đã cử mình sang làm chức trợ giáo ấy, nhưng bấy giờ mới lấy vợ, không chịu đi! Giá nhận đi hồi ấy, thì trường Bác Cổ không đề cử ông Phan, và sự nghiệp mình có lẽ lại xoay ra một phương diện khác. Thế nào gọi là thê tróc tử phọc!…
Thứ ba, ngày 23 tháng 5
Thăm ông M. là Chánh đốc trường Bác Cổ trước. Ông từ đầu năm 1914 về nghỉ bên Pháp, rồi gặp sự chiến tranh, từ đấy không trở lại bên ta nữa. Chính ông năm xưa (1908) đã đem mình vào làm việc trường Bác Cổ. Còn nhớ hồi bấy giờ mới thi tốt nghiệp ở trường Bảo hộ ra, ông làm Chánh chủ khảo khoa thi ấy. Mình đỗ đầu, đương khét tiếng là “cậu thủ khoa tây”! Thậm chí có người nói: - Lương Ngọc [18] có đất thật, thi chữ tây cũng đỗ thủ khoa! Các cậu học sinh trường Bưởi bây giờ, nghe nói thế chắc không khỏi buồn cười, nhưng phải biết rằng hồi bấy giờ mới đặt ra thi diplôme, trong dân gian còn lấy làm trọng lắm, trọng hơn là thi Cao đẳng bây giờ. Thôi, cậu nào mới đỗ ra là coi như ông cử ông tú ngày xưa, trong nhà tâng nhau lên, làng xóm tâng nhau lên, bạn bè bốc nhau lên, các cậu lại càng phỉnh mũi, coi người bằng nửa con mắt! Thủ khoa, mà lại thủ khoa tây, thì còn trời nào biết đâu mà dò sức học hành ra thế nào nữa! Nói cho công bằng thì mình bấy giờ còn nhỏ dại quá, cũng chưa biết làm bộ làm tịch như các cậu tân khoa khác, lại thật thà hiền lành, đến nỗi anh em đã đặt tên cho là “anh lý nhà quê”! Thủ khoa tây mà chữ nho chỉ biết viết nổi hai chữ tên, còn thời mù tịt cả. Kỳ thi có một bài Hán tự dịch ra chữ tây (còn nhớ đâu là một bài trong sách Tân quốc văn của Tàu đề là Ôn Tuyền) dịch giỏi đến nỗi chấm được một nửa điểm (1/2)! Đáng thì phải 0, hỏng “toẹt” không được đỗ, vì dịch sai cả, làm hẳn một bài chữ tây khác, không giống gì nguyên văn chữ Hán cả. Nhưng may ông Chánh chủ khảo có bụng nhân từ, xét các bài khác được cả, làm ơn cho lên nửa điểm cho khỏi hỏng, lại đến khi cộng “nốt” quyết cho đỗ thủ khoa, ơn ấy không bao giờ quên vậy. - Sau này vào làm việc với ông ở Bác Cổ, gia công học Hán tự trong mấy năm, những khi ông đưa cho dịch các sách nho ra chữ tây, ông thường tủm tỉm cười nhắc lại cái nửa điểm chữ nho khi đi thi. Ông làm việc có tính nghiêm khắc, nhưng biết người, và đối với mình cũng có bụng yêu, nên vẫn nhớ, định lên Paris tìm cho được nhà vào thăm.
Gặp ông lấy làm vui vẻ lắm. Người vẫn phì nộn như xưa, duy hơi có vẻ già một chút. Trong khi chiến tranh ông làm việc ở bộ quân lương, coi việc thu thập và vận tải các lương hướng cho quân lính: nhân đó, từ khi chiến tranh xong, có ý xoay về đường thực nghiệp. Tôi hỏi ông còn có nghiên cứu về Đông phương, và thứ nhất là về khoa Nhật Bản học là chuyên khoa của ông, nữa không? Ông nói rằng hiện không có thì giờ, nhưng các sách vở mới xuất bản ở Nhật Bản ông vẫn nhận được luôn, khi nào rảnh lại làm việc khảo cứu, không có ý bỏ hẳn. Nói đến chuyện mình, ông cũng mừng cho nay đã có một cái địa vị nhỏ trong xã hội An Nam, nhưng lại có ý tiếc rằng không ở trường Bác cổ, mà chuyên trị về khoa cổ học nước Tàu nước Nam, vì ông xét ra mình cũng có tư cách riêng về đường khảo cứu. Điều đó, tự riêng mình đã nhiều khi có ý tiếc, vì tính mình vốn ưa khảo cứu sách vở, lại không có cái chí gì về đường công danh sĩ hoạn cả, tưởng giá cứ làm bạn với quyển sách để tiêu dao ngày tháng lại yên ổn hơn. Vả đương giữa lúc quốc dân nhiệt thành về Âu hoá, đem những chuyện cũ, việc cũ, cái tinh thần cũ, cái lý tưởng cũ của Đông phương mà bàn bạc, mà nhắc lại cho người mình biết, tưởng cũng là một sự hay. Song nghĩ đi thì thế, mà nghĩ lại nước nhà còn đương buổi nhu tài [19], các việc công ích còn cần phải có người cổ động, dữ kỳ [20] an thường thủ phận mà làm một nhà khảo cứu có lẽ không bằng khua môi múa mép mà làm một nhà ngôn luận, dẫu “bí beng” chẳng ăn thua gì, nhưng cũng khiến cho xã hội có cái vẻ hoạt động một chút… Mình trả lời thế, ông cũng hiểu thế, song vẫn có ý hoài nghi một chút, và tự mình có lẽ cũng chưa chắc hẳn rằng chọn đường ấy là phải, là hợp với cái tính cách đạm bạc của mình.
Nói chuyện với ông giờ lâu rồi mới lui về. Ông hẹn ngày mai đến ăn cơm trưa để nói chuyện thêm nữa.
Trời hôm nay nắng nực quá, mùa hè ở Paris mà không khác gì mùa hè ở bên ta. Ông ăn mặc quần áo trắng, khi tiễn ra cửa, trông thấy trời nắng chang chang, cười mà nói rằng: “Tôi mặc thế này là theo lối bên An Nam, chứ ở đây nắng đến thế nào cũng không ai mặc trắng. Cứ thế này mà ra ngoài phố, người ta cho là dở hơi, và cười chết mất!” - Mà thật thế, tôi có ý nhận ngoài đường phố không ai mặc áo trắng, đội mũ trắng cả. Song lại nhận ra cái nắng này tuy nóng nực thật, nhưng không có gay gắt như bên ta: nắng ôn đới có khác!
Buổi chiều đến thăm ông Chánh sở Đông Pháp Kinh tế cục. Tự bữa đến Paris, hôm nay mới được tiếp mặt, cũng là theo lệ thường đến chào cho phải phép. Ông này hàm Thống sứ ở bên mình. Tiếp đãi ân cần, nhưng vẫn có cái vẻ quan đại hiến lắm, trong sự ân cần ấy có cái ý che chở cho kẻ dưới vậy. Mình không thể không cảm ơn ngài có bụng như thế.
Đi thăm hai chỗ thế là hết cả ngày.
Tối đến, cơm rồi, ngao du phố phường mãi đến khuya mới về trọ. Buổi tối mát, đi ngoài phố xem người, ngắm cảnh, sướng lắm. Đường đây lát bằng đá cả, xe ngựa đi không có bụi, không phải cái khổ “trần ai” như ở Hà Nội mình về mùa này.
Ngày hôm nay trời lại nóng dữ hơn hôm qua. Chỗ không có nắng, hàn thử biểu cũng lên tới 36 độ.
Ăn cơm trưa ở nhà ông M., đường Blanche, nói chuyện bên ta. Ông ở về từng thứ hai, ba bốn phòng lớn lịch sự. Ở Paris mà dọn được chỗ ở thế này là vào bậc phong lưu rồi.
Đi đến đường Blanche, qua một nơi công trường, ở giữa có nhà thờ Trinité, làm theo kiểu đời Phục hưng, hiện cái tháp chuông đương chữa, bắc gióng kín cả, không thể vào xem được. Ở đường Blanche này cũng không có gì lạ, chỉ có một sở câu lạc bộ lớn gọi là Casino de Paris, mặt trước lại ở về đường Clichy và mới bị cháy to.
Ở nhà ông M. về, đóng cửa ngồi hầm trong buồng viết bài diễn thuyết cho trường “Đông phương Bác ngữ”.
Thứ năm, 25 tháng 5
Hôm nay cũng ngồi hầm ở nhà để viết cho xong bài diễn thuyết. Sang đến đây mà phải bó chân ngồi một chỗ làm cái nghề “vẽ voi” như ở nhà, thật cũng buồn quá. Không biết ông Tây nào đã có nói một câu rằng: “ở đời không có cảnh gì khổ bằng một cái đầu trống không ngồi đối với một mảnh giấy trắng xoá”. Chắt óc cho thành chữ, cái khổ ấy là cái khổ hằng ngày của mình ở nhà, tưởng tránh được xa mà sang đây, ai ngờ sang đến đây cũng lại phải bưng đầu không ngồi trước mảnh giấy trắng! Tôi lấy làm khen thay những người làm văn chương trôi như nước chảy, gặp chuyện gì viết cũng được, dễ dàng như không. Tôi thì phải cái tật hễ trong óc không có gì, không tài nào nặn ra chữ được, không thể nào viết phiếm cho đầy giấy được. Muốn nói chuyện gì thì phải nghiền ngẫm kỹ, như “ngấu nghí” trong óc rồi mới xuất ra lời văn được, cho nên văn mình có ý khắc khổ mà không được lưu loát như văn người ta. Nhưng có lẽ được cái thành thực, không dám “nói láo”, không dám ‘loè” ai bao giờ. Cũng bởi thế nên vụng lối văn du hí, văn thù tạc, và những giọng ngâm phong, vịnh nguyệt thì thật không biết làm bao giờ. Chỉ biết bụng nghĩ thế nào nói thẳng ra như thế, nhưng phải trong óc có gì mới nói được, không có óc trống rỗng mà cũng cố nặn ra câu văn bóng bẩy như người ta được…
Tối đi ăn cơm tàu với ông B., ở Kinh tế cục.
Thứ sáu, 26 tháng 5
Thôi, thế là thoát nợ. Còn mấy trang diễn thuyết, tối hôm qua viết nốt rồi, thế là ngày hôm nay được thư thả đi chơi.
Định lên ăn cơm trưa trên tháp sắt Eiffel. Mất năm quan một người, đi thang máy lên tận từng thứ ba trên đỉnh tháp, đứng đấy trông được hết cả thành Paris. Sẵn có hộp giây thép, có bút mực, mua mấy cái cartes postales viết mấy chữ về thăm nhà, dưới đề là: “Viết tự 300 thước cao trên thành Paris”! Trẻ ở nhà nhận được thư có lẽ tưởng rằng khó nhọc nguy hiểm lắm mới lên được cao như thế, lo thay cho khách du lịch bạt thiệp [21] gian nan! Có biết đâu rằng khách du lịch chẳng phải động đến gót chân, cứ đứng vào trong thang máy là tự khắc từ từ lên hết từng ấy đến từng khác, rồi lại từ từ xuống như thế, chỉ khác khi lên thì càng lên các nhà cửa đường phố càng nhỏ tít đi như sợi tóc, mà khi xuống thì càng xuống càng to dần ra. Tháp có ba từng, xem đến từng cao nhất rồi thì xuống từng dưới cùng (cũng cách đất đến 60 thước) ăn cơm; từng này rộng lắm, như một cái phố nhỏ, có cao lâu, khách sạn, nhà cà phê, nhà hát, nhà nhẩy đầm, hàng quán bán những đồ vật kỷ niệm, như tranh, ảnh, sách, ống nhòm, v.v… - Ăn cơm đây mất mỗi người 12 quan, cũng lịch sự lắm.
Xét ra tháp Eiffel này là cái công trình kiến trúc cao nhất trong thế giới. Tháp Woolworth Building ở New York cao 229 thước, thạch bi [22] Ai Cập ở Washington cao 160 thước, mà tháp sắt Eiffel này cao tới 300 thước. Do ông kỹ sư Eiffel nghĩ kiểu đốc công dựng lên, bắt đầu ngày 28 tháng 01 năm 1887, đến ngày 31 tháng 3 năm 1889 mới hoàn công, nặng 7 triệu cân tây, có 1 vạn 2 nghìn mảnh sắt nối lại với nhau bằng 2.500.000 cái ốc lớn nặng cả thảy là 45 vạn cân; bốn chân mỗi chân to là 26 thước vuông, chôn sâu xuống đất từ 9 thước đến 14 thước. Tháp có ba từng, từng dưới cách đất 57 thước, từng giữa cao 115 thước, từng trên cao 275 thước, còn từ đấy lên đến trên ngọn 300 thước có một sở vô tuyến điện, nhưng không được lên xem. Sở vô tuyến điện ấy cũng mới đặt từ khi có chiến tranh đến giờ. - Nghĩ cái chí người Tây họ cũng hùng thật: bỗng dưng làm một cái tháp sắt ngất trời mà chơi! Chẳng bù với người mình chơi cây uốn với chơi non bộ!…
5 giờ chiều diễn thuyết ở trường Đông phương Bác ngữ. Được chừng mươi mống đến nghe! Nói về vấn đề “Sự tiến hoá của tiếng An Nam” thì thuộc về chuyên môn quá, cả thành Paris dễ không được mười người chuyên trị tiếng An Nam. Nhưng diễn thuyết ở trường dậy tiếng Đông phương mà không diễn về ngôn ngữ học thì diễn về cái gì? Nói về một chuyên khoa thì không mong có nhiều người nghe được. Vả chủ ý mình là mượn cuộc diễn thuyết này và mượn cái thanh thế của trường Đông phương Bác ngữ để làm một bài kể về cái tình trạng của tiếng An Nam thế nào và nói rõ cho thiên hạ biết rằng tiếng An Nam không phải là hèn mạt gì, cũng có cơ tiến hoá được, rồi cho đăng báo cho người Tây họ biết, kẻo có nhiều người ở bên ta quen miệng cứ công kích tiếng ta oan quá…
Tuy có ít người như thế, nhưng xem ra họ cũng chú ý nghe, lấy cái vấn đề tiến hoá tiếng An Nam làm một điều quan hệ [23] nên khảo cứu.
Ghi chú:
[1] Talawas: trong tác phẩm đã in, phần này vẫn được đánh số là VII, có lẽ do nhầm lẫn?
[2] Mặt trời nghỉ liền có mặt trăng đỡ, ý nói cái nọ dựa vào cái kia.
[3] Nói tắt chữ nhà trọ.
[4] Đường thông bốn ngả.
[5] Quảng trường Cộng hòa.
[6] Có phần.
[7]Đây không có nghĩa là hào nhoáng rực rỡ, mà nhằm ý khoe khoang.
[8] Tức buổi giao thời, cái cũ chưa đi, cái mới chưa tới.
[9] Trò chẹt: như học trò nói chung. Đồng giao có câu: học trò, học chẹt…
[10] Đốt hương lên mà mong mỏi.
[11] Vẽ nên.
[12] Mạnh mẽ, quả quyết.
[13] Ngày nay hay gọi là Thư viện quốc gia.
[14] Y như.
[15] Người có lòng nhân.
[16] Lĩnh: nhận lấy; trưng là vời đến; lĩnh trưng nghĩa như nhận thầu.
[17] Tức là cửa hàng của người Trung Hoa.
[18] Quê tác giả.
[19] Nhu tài: cần người tài.
[20] Nếu như.
[21] Đường đi khó khăn.
[22] Bia lớm làm bằng đá.
[23] Có ý nghĩa quan trọng.
Nhật ký đi Pháp từ tháng 3 đến tháng 9, 1922
Phần 6
[1]
Thứ bảy, 27 tháng 5
Hôm nay đã rỗi việc, định đi xem các nhà bảo tàng. Nhà bảo tàng ở Paris thì biết bao nhiêu mà kể, cứ giở một quyển “Chỉ nam thành Paris”, về mục “bảo tàng viện”, trông thấy một dòng dài những tên cũng đã đủ ngốt rồi. Tựu trung có mấy sở có danh tiếng nhất, như sở Louvre, sở Luxembourg, nhưng các sở đó to lớn lắm, mỗi nơi phải đến mấy ngày xem mới hết được, và trước khi đi xem phải kê cứu các sách cho kỹ thời xem mới bổ ích, cho nên chửa dự bị sẵn, chửa dám đến xem. Còn các sở khác thì nhiều lắm, không biết xem chỗ nào trước chỗ nào sau, thôi thì cứ tiện đâu xem đó, vì đâu cũng nên xem cả.
Hôm qua chơi tháp Eiffel, đứng trên trông xuống thấy ở giữa vườn hoa rộng có cái nhà tròn to lớn lạ lùng, hai bên có hai cái tháp ả Rập cao ngất trời. Đó là điện Trocadéro, làm theo kiểu Đông phương, nguyên là nhà Đấu xảo năm 1878. Điện có một cái nhà tròn ở giữa, hai bên hai đường hành lang chạy vòng như hình bán nguyệt. Nhà giữa nay làm nhà hội tiệc, hoặc làm nơi diễn kịch cho công chúng xem, có thể ngồi được 6000 người. Hai nhà hành lang hai bên thì từng dưới làm bảo tàng viện về nghề chạm khắc so sánh của các đời và các nước (musée de sculpture comparée), từng trên làm bảo tàng viện về khoa dân tộc học (musée ethnographique).
Cả buổi sáng hôm nay đi xem hai nơi bảo tàng đó. Nơi bảo tàng về nghề chạm khắc không phải là bày nguyên những đồ chạm khắc đời xưa đời nay đâu, toàn là những hình nặn bằng đất về các kiểu chạm khắc và kiểu xây dựng thật đẹp và thật lạ của nước Pháp cùng các nước ngoài, nhưng nặn khéo đến nỗi trông hệt như thực. Đi xem qua một lượt thì biết nghề đắp tượng, chạm các kiểu nhà ở Âu châu đời nọ sang đời kia thay đổi tiến hoá thế nào. Từ thượng cổ cho đến thế kỷ thứ 19, bao nhiêu những kiểu chạm đẹp ở phương Đông, phương Tây là có hình nặn ở đấy cả, sưu tập thật cũng đã dụng công mà truyền nặn thật cũng đã khéo léo, khiến cho nhà khảo cứu nhất lãm mà thu gồm được, so sánh được cả mĩ thuật mấy mươi đời mấy mươi nước. Các tượng Ai Cập, tượng Hi Lạp, tượng La Mã, những mảnh tường, mảnh cửa, kiểu mộ, kiểu nhà, hết thảy những lối lăng thuộc về nghề chạm nặn, nghề xây dựng, đều xếp đặt theo thời đại, theo xứ sở, như một pho sách hiển nhiên, hết thiên này đến thiên khác, chương nọ đến chương kia, thật là rõ ràng rành rẽ. Trong nhà bảo tàng lại có mấy gian riêng để bày những hình nặn về các cổ tượng và di tích của Cao Miên, Diến Điện, Chiêm Thành và cả An Nam ta nữa. - Ấy cách học vấn của người Tây, bất cứ về môn nào, cũng là kỹ càng trọn vẹn, đến chốn đến nơi như thế, không trách sự học của người ta dễ sâu xa và mau tấn tới vậy.
Viện bảo tàng về dân tộc học thời bày những kiểu đồ đạc, đồ dùng, nhà cửa, đồ lễ bái, đồ khí giới, hình thể các giống người, nói tóm lại là hết thảy những đồ vật gì đủ hình dung được cách sinh họat của các dân tộc trên thế giới. Chia ra từng gian: gian về Mĩ châu, có phần về nước Mexique đời xưa nhiều đồ hơn cả; gian về Âu châu, lại chia ra từng nước, mà phần nước Pháp thường hơn nhất; gian về Phi châu, về các quần đảo đại dương. Duy về Á châu thì không thấy có mấy tí đồ. ý giả vì Á châu đã có nhiều nhà bảo tàng riêng, như nhà bảo tàng Guimet, nhà bảo tàng Cernuschi(rồi sau này cũng phải đi xem hết), nên ở đây bày lược thế chăng?
Bảo tàng là nơi chứa những đồ vật quý, nhưng chớ nên tưởng rằng đồ quý chỉ là vàng bạc châu báu, ngọc thạch kim cương mà thôi đâu. Đối với kẻ học giả, một mảnh xương người, một miếng đá vỡ về đời thượng cổ còn có giá hơn là hòn kim cương mấy chục vạn. Nhà bảo tàng chính là một sở học, chứ không phải là một kho chứa đồ, những đồ bày đó là để giúp cho sự học, vì học không phải ở sách mà thôi, học còn ở sự vật nữa, mà học đến sự vật gì có hình ảnh ngay trước mắt, đó mới là học đến nơi. Bởi thế nên ở các nước văn minh, nhà học đường mở ra nhiều mà nhà bảo tàng đặt ra cũng lắm, môn học nào cũng có nhà trường dạy, lại có sở trần thiết [2], về lịch sử học cũng như về vệ sinh học, về văn học cũng như về mỹ thuật, về binh học cũng như về nông công. Không những các ông giáo các trường đem học trò đến nhà bảo tàng để giảng nghĩa, lại thường ở các viện bảo tàng lớn có đặt ra từng phiên giảng công; mỗi tuần lễ hay mỗi tháng mấy lần, khách đến xem có biên tên trước thời được nghe nhà chuyên môn cắt nghĩa cho rõ ràng về các đồ vật bày.
Ở viện bảo tàng Trocadéro, cũng có những phiên giảng như thế, vừa giảng về khoa chạm khắc, vừa giảng về dân tộc học. Nhưng hôm nay đi xem không trúng vào phiên giảng. Ban chạm khắc lại có bán cả các hình nặn cho các nhà nghề và cho khách du lịch, để truyền bá các kiểu đẹp đời xưa đời nay.
Xem xong trong nhà bảo tàng, ra đến ngoài vườn hoa. Vườn rộng thênh thang, sửa sang than thán, chỗ thì bụi cây, chỗ thì bể nước, còn những tượng đồng tượng đá la liệt. Có sáu bức tượng lực lưỡng hình sáu đại châu: Âu châu, Á châu, Phi châu, Bắc Mĩ, Nam Mĩ, Đại Dương châu. Ở một bên lại có cái sở nuôi cá lớn, mỗi tuần lễ có diễn thuyết về nghề nuôi cá.
Quanh quẩn xem mãi đây, đến quá mười hai giờ trưa mới đi kiếm hàng ăn cơm. Không muốn về trọ xa quá, định gặp hàng nào ăn ở đấy, để quá trưa lại đi xem nhà bảo tàng Guimet ở gần đây. Ở nước nhà, mình phải cái thói ngủ trưa, hễ ăn xong tất phải ngủ nửa giờ một giờ đồng hồ, nhiên hậu [3] mới khoan khoái làm việc được. Sang đây thời thấy mất hẳn cái thói ấy; một đôi khi cũng có nghỉ buổi trưa, nhưng đó là theo lệ thường, chứ không phải là một sự cần, khuyết không được. Đêm có thức khuya thì sáng dậy trưa, nhưng buổi trưa không cần phải nghỉ ngơi gì, có thể đi chơi hay làm việc luôn cả ngày được. Đó là một sự lợi thời giờ nhiều lắm, chứ cái cách cắt một ngày ra làm đôi bằng một buổi nghỉ trưa là cách rất không tiện. Nhưng cái khí hậu xứ mình viêm nhiệt, nếu trưa không nghỉ thì người uể oải, không có tinh thần đâu mà làm việc cho hết ngày được. Khí hậu quan hệ cho sinh lý như thế; làm người ở đất ôn đới thật được nhiều điều sung sướng tiện lợi hơn ở các xứ nóng thật. Cứ nghiệm ngay mình: ở nước nhà tuy không phải có đau ốm gì quanh năm, nhưng khi nóng khi lạnh trong người vẫn không được thư thái; thế mà từ khi sang đến bên này, thấy trong người khoan khoái mạnh khoẻ, tưởng xưa nay không bao giờ được như thế.
Năm xưa làm việc ở trường Bác Cổ vẫn đã biết tiếng nhà bảo tàng Guimet, vì sở này chuyên sưu tập những đồ cổ thuộc về á Đông, thứ nhất là về các tôn giáo ở á Đông, và thường giao thông với trường Bác Cổ nhiều. Cả buổi chiều đi xem khắp trong nhà bảo tàng này. Thôi, biết cơ man nào là những đồ Tàu, đồ Nhật, đồ Cao Ly, Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu, Xiêm La, Cao Miên, Ấn Độ, cùng những tượng thần, tượng Phật, thật là hằng hà sa số. Đồ sưu tập trong nhà này gấp mấy nhà bảo tàng của trường Bác Cổ ở đường Đồn Thủy Hà Nội, mà trường Bác Cổ kể cũng đã nhiều đồ rồi. Lại những đồ sứ cổ, bức hoạ cổ, đỉnh cổ, lọ cổ, trông mà đẹp mắt quá. Lạ thay, lấy con mắt người An Nam mà xem những cổ vật, cổ tượng của Hi Lạp La Mã, dẫu đẹp mười mươi, nó vẫn thế nào ấy không cảm mình tí nào cả; hoặc mình đã đọc sách qua mà thấy trong sách khen thì cũng cố miễn cưỡng tìm cho ra cái đẹp ở đâu, chớ cứ tự nhiên mà nhìn qua thì thật không lấy gì làm đẹp cả. Như tượng Vénus, tranh Joconde, cả thế giới khen là đẹp, mình cũng vâng rằng đẹp, mà trong lòng trong trí thật chưa từng thấy có cảm giác gì. Thế mà giá đứng trước một cái lọ sứ đời Minh hay một bức cổ họa đời Đường, thì tự nhiên thấy cảm ngay, hình như thần trí mình cùng với đồ vật ấy có cái thanh khí thiên nhiên [4]. Buổi sớm xem ở sở Trocadéro, dẫu nhiều hình đẹp kiểu lạ thật, nhưng đứng đấy vẫn như bỡ ngỡ, phải gắng sức mới gọi là thưởng thức được ít nhiều; nay vào đến sở Guimet này, thời như vào chỗ quen thuộc vậy; những cái quý cái đẹp ở đây, mình thật biết, thật cho là đẹp là quý, không có chút miễn cưỡng gì. Không nói về văn chương; nói về âm nhạc, về mỹ thuật, tôi tưởng rằng người Nam mình cũng ít ai nghe khúc nhạc tây, ngắm bức họa tây, mà thật có cái “mĩ cảm” như người Tây. Có lẽ là người mình không có cái “mĩ thuật giáo dục” (éducation artistique) như người Tây, sự giáo dục ấy nó khiến cho biết thưởng thức những hình sắc thanh âm khác lạ với tai mắt mình. Song ở đời đã không có cái gì là “tuyệt mĩ”, và sự xấu sự đẹp chẳng qua là một sự tập quán, thì ngoài những kẻ hí tân [5] hiếu kỳ, cố ý lấy cái mới cái lạ làm đẹp, còn phần nhiều người ta quan sát về mĩ thuật không thể dời bỏ hẳn cái thiên kiến riêng của giống mình được. Tỉ như một điều sau này: người Tây bình phẩm đàn bà An Nam có thói nhuộm răng đen thường nói rằng: trông miệng người đàn bà An Nam tối om như cái hố sâu. - Người Tây có lẽ lấy thế làm xấu thật, nhưng ta lại cho thế là đẹp, cô con gái nào nhuộm răng khéo, đen lánh như hạt huyền, thì tựa hồ như có duyên thêm lên. Tôi xin thú thật rằng tôi không thể trông được một người đàn bà An Nam để răng trắng, dẫu đẹp mười mươi mà coi bộ răng đủ chán ngắt rồi! Vì người đẹp là người thế nào? Là một người hệt với hình ảnh một kẻ “ý trung nhân” của mình. Kẻ “ý trung nhân” của người An Nam ta là một người đàn bà da trắng tóc dài, hình dung yểu điệu… mà phải có bộ răng đen nhay nháy mới được. Nếu răng trắng thời hỏng toẹt, không hệt với người trong mộng nữa! – Có lẽ đó cũng là một cái thiên kiến, và không khỏi có kẻ chê là hủ lậu. Nhưng cái sự đẹp xấu nhiều khi chỉ quan hệ ở một cái thói quen trần hủ [6] mà thôi…
Nhưng lấy cái phương diện học vấn mà xét, thời người ta ai cũng nên biết thưởng thức mĩ thuật các nước; xem đồ ngoại quốc dẫu không có cảm mà cũng phải biết hiểu mới được, hiểu cái đẹp của người ta ở đâu và sở dĩ làm sao người ta cho là đẹp.
Người Tây thật là có cái trí thông hiểu như thế; xem như cách sưu tập và xếp đặt những đồ á Đông ở trong nhà bảo tàng Guimet này thì đủ biết.
Nhà bảo tàng này nguyên là của một ông phú hào tên là Emile Guimet, ông thường đi du lịch ở các nước Đông á mua được nhiều đồ cổ đem về bày ở nhà, sau dần dần mở rộng ra làm một sở bảo tàng, trước còn ở Lyon, rồi đến năm 1888 ông biếu nhà nước chuyển đem lên Paris, ở đường Iéna bây giờ. Ông mới mất được mấy năm nay; hồi sinh thời ông ham khảo cứu về các tôn giáo á Đông đến nỗi rước những sư Tây Tạng, sư Nhật Bản về nhà mà lập đàn tràng làm các lễ để mời những nhà bác học đến xem.
Viện bảo tàng Guimet đã có ảnh hưởng to về khoa Đông phương học ở nước Pháp. Ngoài các bộ đồ trần liệt, lại có một cái thư viện nhiều những sách về á Đông. Lại xuất bản những sách nghiên cứu nhiều lắm, gọi tổng danh là “Guimet Bảo tàng viện Tùng thư” (Publications du Musée Guimet). Mỗi năm trong mấy tháng, cứ mỗi tuần lễ có một phiên diễn thuyết công về văn chương mỹ thuật, tôn giáo, triết học các nước á Đông, do những tay bác học có tiếng đến diễn và thiên hạ đến nghe đông lắm.
Hội “Đông phương ái hữu” (Société franỗaise des Amis de l'Orient) cũng có hội sở ở đấy. Nhân vào xem nhà bảo tàng, có lại thăm chánh thư ký Hội là cô K. và phó thư ký là ông B. Cô K. cũng là một tay bác học, chuyên trị về ấn Độ, lại có tài họa. Ngồi nói chuyện giờ lâu về cái lẽ tương thân của người Đông phương với người Tây phương. Hội này đặt ra chính là để giúp cho sự tương thân đó. Hội họp những người Pháp có cảm tình với Đông phương và tiếp những người Đông phương sang qua chơi bên Pháp. Hội mới rồi có nghênh tiếp nhà đại văn hào ấn Độ Rabindranath Tagore. Ông B. và cô K. có ngỏ lời muốn mời mình diễn thuyết cho người trong Hội nghe; mình cũng hứa nhận, nhưng chưa định bao giờ. Hiện còn đương phải soạn một bài cho trường Thuộc địa, nếu lại phải làm bài nữa cho Hội Đông phương ái hữu này, thì thành ra bận quá: sang đây để tiêu dao xem xét mà thành ra cứ phải viết hoài!…
Chủ nhật, 28 tháng 5
Hôm nay ở trọ, viết nốt bài diễn thuyết cho trường Thuộc địa. Bài này nghĩ đã mấy tuần nay, thảo cũng được khá rồi. Muốn nói rõ về cái tình cảnh nước Nam ta về đường tinh thần thế nào. Đề là “Sự tiến hoá của dân An Nam từ khi đặt Bảo hộ Pháp”. Trị cái đề này cho cứng và cho ổn cũng khó thật; khó là muốn cho vừa cứng mà vừa ổn. Nếu ổn quá thì thành ra nịnh rồi, mà nịnh thì mình không mặt mũi nào; mà nếu cứng quá tất sẵng, mà sẵng cũng không xong. Thật là một sự khổ tâm. Phải xoay làm sao cho êm thấm mà không hại đến cái chí bình sinh của mình. Khó, khó quá!…
Thứ hai, 29 tháng 5
Hôm nay cũng ở nhà, làm cho xong bài diễn thuyết, vì chiều thứ tư này đã phải diễn đây.
Có ông bạn giới thiệu cho một người thiếu phụ, coi cũng hữu tình. Lấy chén nước chè, làm đầu câu chuyện, chuyện vắn chuyện dài, tối ngày không biết…
Thứ ba, 30 tháng 5
Buổi sáng đến thăm quan Nguyên soái P., ngài đưa đi xem nhà “Câu lạc bộ” của các quan võ (Cercle des officiers), lại đưa đến “Phòng khảo sát về việc Thuộc địa” của mấy ông nghị viên lập ra, và giới thiệu cho biết ông nghị viên G., là đại biểu một thuộc địa ở Hạ nghị viện. Ông này người lanh lợi hoạt bát, tiện đây ông có mời đi ăn cơm trưa với ông để nói chuyện cho tiện. Ông hỏi han nhiều điều về việc chính trị bên ta.
Thứ tư, 31 tháng 5
Chiều hôm nay là ngày diễn thuyết đây. Nghe đâu trường Thuộc địa có gửi giấy mời nhiều người.
11 giờ đến thăm quan cai trị C. Ở Kinh tế cục. Ngài đọc cho nghe lời ngài giới thiệu mình chiều hôm nay; có nhiều câu quá khen.
3 giờ chiều ở trường Đại học Sorbonne có khai hội nghị các nghị viên các nước về thương nghiệp (Conférence internationale parlementaire du Commerce), ông nghị viên Pháp Chaumet làm chủ toạ. Trong đại diễn đàn nhà Sorbonne có tới 3 nghìn người đến xem, mình cũng nhờ người quen cho vé được vào xem. Ông Chaumet diễn thuyết trước, đại khái nói thương nghiệp ngày nay là một việc rất quan hệ đến quốc tế, nghị viện các nước nên hiệp lực nhau mà nghiên cứu các vấn đề về việc giao thông buôn bán trong vạn quốc. Rồi kế đến đại biểu nghị viện các nước Anh, Mỹ, Ý, Nhật, Tỉ, v.v…, mỗi người tiếp nhau diễn thuyết một hồi, có người nói bằng tiếng Anh, mình nghe chẳng hiểu gì cả, mà xem chừng những người ngồi quanh mình cũng thế.
Xem xong, về trọ nghỉ một lát, rồi đi ăn cơm để sửa soạn diễn thuyết buổi tối. Tối hôm nay quyết ăn mặc quần áo An Nam, lấy quốc phục làm lễ phục, cho nó thêm trịnh trọng. Nghiễm nhiên ra một anh “đồ” An Nam mà ngồi diễn thuyết bằng tiếng Pháp, chắc người nghe phải chú ý vào những lời mình nói. Cái bộ áo “anh đồ” này, ở bên mình khinh thường, chứ ở đây có giá trị lắm…
12 giờ. - Được lắm. Diễn thuyết được lắm. Bắt đầu từ 8 giờ 3/4; người đến nghe ngồi chật cả các ghế trong phòng diễn thuyết trường Thuộc địa, ước tới 300 người. Trên diễn đàn, mình ngồi giữa, quan đốc Outrey ngồi bên tay phải, quan cai trị Chatel ngồi bên tay trái. Quan Chatel đọc mấy lời giới thiệu mình cho thính giả, rồi mình diễn thuyết luôn từ 9 giờ đến 10 giờ rưỡi, kể cũng lâu, nhưng xem ra người nghe không chán, lại hoan nghênh lắm, vỗ tay luôn. Diễn xong nhiều người đến nói là: - Được lắm! Được lắm! Sau cuộc diễn thuyết có chớp ảnh [7] về Đông Pháp, mãi quá 11 giờ mới tan.
Thứ năm, 1 tháng 6
Được tin chiều hôm nay quan Thủ tướng Poincaré sẽ diễn thuyết ở Hạ nghị viện. Mỗi lần quan Thủ tướng diễn thuyết, xin được vé vào nghe là khó lắm. Mà mình thì lâu nay mong mỏi được nghe quan Poincaré, không có lẽ để lỡ mất dịp này. Nhưng làm thế nào xin được vé bây giờ? Có mấy ông nghị quen thì hỏi không ông nào có thừa vé cả. Chỉ còn một cách là đến thăm quan Thuộc địa bộ Thượng thư Sarraut mà cố xin, họa may được chăng.
Vậy sớm hôm nay đến bộ Thuộc địa. Lần này mới biết cái cảnh chầu chực cửa quan là một. Thường thấy chữ tây có câu faire antichambre, bây giờ mới biết là thế nào. Faire antichambre là đứng chực ở phòng đợi cho đến lượt mình vào, vì lúc ấy đã có sáu bảy người đến trước mình chực vào thăm quan Thượng thư rồi. Ấy là ít, chứ nghe đâu có ngày đến mấy chục người, ai đến sau phải đợi mất cả ngày cả buổi. Nhưng hôm nay quan Thượng thư lại vừa đi hội đồng vắng, chỉ có quan Chánh văn phòng tiếp khách thay ngài mà thôi. Quan Chánh văn phòng đây chính là quan Touzet, năm xưa mình đã được biết ở Hà Nội. Vậy không được tiếp mặt quan Thượng thư thì xin vào thăm quan văn phòng vậy. Song cũng phải đợi, vì những người đến trước mình họ cũng xin vào thăm quan Chánh văn phòng cả. Ngồi trong phòng đợi đọc không biết mấy chục tờ nhật trình nữa mà chưa đến lượt mình. Đã thấy mấy tờ nói qua đến cuộc diễn thuyết của mình tối hôm qua. Đến từ 9 giờ đợi đến 11 giờ mới được tiếp chuyện, nhưng chậm thế mà lại may, vì nhân đó mà tình cờ được gặp quan Thượng thư.
Quan Touzet tiếp một cách ân cần vui vẻ, hỏi han mọi việc bên ta. Sau mình mới ngỏ ý muốn xin một cái carte để vào nghị viện chiều hôm nay, ngài có ý ngần ngại nói rằng: “Quan Thượng thư chỉ còn có hai cái cartes để dành cho người quen. Không biết ngài có cần dùng đến không; nay ngài đi hội đồng vắng, tôi không dám tự tiện”. Nghe thấy thế, mình đã lấy làm thất vọng rồi: đến xin tận đây mà không được thì không còn mong gì nữa. Đương lúc ấy thì nghe tiếng còi ô tô ở ngoài xa về, quan Chánh văn phòng nói: “Quan Thượng thư đã về kia. Ông có muốn vào chào ngài mấy phút, để tôi cho người bẩm. Buồng giấy ngài ở cạnh đây”. Chưa nói xong thì đã thấy quan Thượng thư tay cắp cặp ở ngoài vào. Ngài trông thấy, có ý vồn vã hỏi han. Bấy giờ quan văn phòng mới tỏ ý tôi muốn xin carte vào nghị viện cho ngài biết. Ngài cũng hơi lưỡng lự, hỏi quan văn phòng: “Có phải chỉ còn hai cái cartes không?…” Quan văn phòng nói phải; ngài nghĩ một lúc rồi nói rằng: “Chính chiều hôm nay quan Poincaré sẽ diễn thuyết đây. Tôi đã hứa lấy hai cái cartes cho người quen… Nhưng mà thôi, để tôi bảo lại người ta, lần khác người ta đi cũng được…” Rồi ngài ngoảnh lại quan văn phòng mà bảo: “Ông cứ đưa một cái cho ông Phạm Quỳnh.” - Bấy giờ tôi thật mừng như được hòn ngọc báu vậy. Cám ơn quan Thượng thư, quan văn phòng, rồi lui về. Hai ngài đều ân cần dặn rằng còn ở chơi Paris nên năng lại thăm hai ngài, và có chuyện gì cứ đến mà hỏi, không ngại gì.
Nghị viện đúng 3 giờ khai hội đồng. Ba giờ kém một khắc, mình đã ở đó rồi: thật là chăm lắm! Tới cửa đã thấy người đông cả: Các ông nghị thì đứng tụm lại chỗ năm người chỗ ba người, nói cãi ồn ào, nhiều ông trông ra dáng hăng hái. Người đến xem, hoặc là bà con thân thuộc của các ông nghị viên hay các quan Thượng thư, hoặc người các nước do các toà sứ xin giấy cho vào, ai nấy tấp nập như muốn đi mau để lấy chỗ. Tự cửa ngoài vào có mấy chặng canh, toàn là những chân “thừa phái” (huissiers) của nghị viện. Chặng thứ nhất hỏi vé, rồi xướng lên cho chặng thứ nhì biết; tôi nghe thấy xướng: "Ministres", nghĩa là có vé của quan Thượng thư cho, chắc là có chỗ ngồi riêng; chặng nọ xướng cho chặng kia, lên mấy từng gác, rồi mới đến một chỗ có người “thừa phái” cầm lấy vé, mở cửa chỉ cho vào, mũ gậy phải để ở ngoài cả. Vào đến nơi đã thấy người ngồi đông, trên mình, dưới mình, quanh mình rặt những người đến xem đông nghìn nghịt. Nhà nghị viện tựa như kiểu Nhà Hát Tây, nhưng rộng lắm. Chỗ sân khấu là chỗ các ông chánh phó nghị trưởng, chánh phó thư ký và những người có phần việc ngồi. Còn sàn giữa bày ghế vòng quanh là chỗ các ông nghị ngồi, có đâu hơn 600 ghế, ông nào đã có ghế nhất định; những người đến xem quen, người ta đã thuộc cả những chỗ ngồi, thấy chỉ trỏ: “Chỗ này là chỗ ông Daudet, chỗ kia là chỗ ông Cachin”, v.v... Ở giữa, vào hàng thứ nhất là dẫy ghế các quan Nội các, tức là các quan Thượng thư. Còn diễn đàn thì đặt ngay chính giữa, dưới chỗ ông nghị trưởng ngồi. Người xem thì ngồi các từng trên, vòng chung quanh như các “lô” Nhà hát. Nghe đâu có chia ra từng nào là từng khách của các quan Nội các, từng nào là từng khách của các ông nghị viên, lại khu nào là khu để riêng cho các sứ thần ngoại quốc, v.v…
Coi cũng có cái vẻ nghiêm trang và uy vệ lắm. Chỗ này là chỗ bàn bạc những quốc sự của Đại Pháp đây. Một nước dân chủ thời Nghị viện tức là vua: cái chủ quyền nước Pháp là chung đúc ở chốn này, mà vận mệnh của nước Pháp cũng ký thác ở chốn này đây. Gặp những cơ hội quan trọng, thời sự chiến, sự hoà, việc quân cơ, việc quốc phòng là quyết định ở đây cả. Cái đêm ngày mồng 4 tháng 8 năm 1914, cả nghị viện đồng thanh quyết khai chiến với Đức, không biết cái cảnh tượng ở chốn này thế nào nhỉ?
Đúng 3 giờ thấy lính đầu rồng đứng hai bên cửa sân khấu, giơ gươm, hô: “Ngài nghị trưởng” (M. le Président!), rồi ông nghị trưởng Raoul Péret đội mũ đi vào, bước lên thượng toạ. Bấy giờ các ông nghị ở các nơi mới kéo vào giải toạ cả. Các ông ngồi chật ních, không sót một chỗ nào. Nghe đâu những buổi thường thời không mấy khi nghị viên đến đông đủ, nhưng buổi nay có bàn về việc ngoại giao của chính phủ, quan Thủ tướng Poincaré phải đáp lại lời chất vấn của đảng phản đối, nên không ông nghị nào vắng mặt cả.
Quan Poincaré nói luôn trong 3 giờ đồng hồ, từ 3 giờ rưỡi đến 6 giờ rưỡi mới thôi. Trong khi nói, kẻ thì vỗ tay, kẻ thì huýt còi, chốn nghị trường thành một nơi rất náo nhiệt. Sau bỏ vé quyết nghị thì phần nhiều nghị viên biểu đồng tình với chính phủ…
Buổi tối cùng ông V. ăn cơm ở nhà quan nguyên soái P., mãi đến khuya mới về trọ. Quan nguyên soái và quý phu nhân người phúc đức lắm, con cháu đầy nhà; bữa tiệc rất vui vẻ.
XI.
Thứ sáu, 2 tháng 6.1922
Hôm qua là tình cờ mà được gặp riêng quan Thượng thư. Hôm nay cả anh em phái viên Bắc kỳ rủ nhau công nhiên vào chào ngài, một là cái lễ phải thế, hai là cái tình đối với ngài là Toàn quyền cũ bên mình. Cũng phải chờ, không được vào ngay, vì quan Thượng thư còn dở tiếp khách, và trong buồng đợi cũng còn mấy người nữa đã đến trước mình. Đợi đến nửa giờ đồng hồ thì có người thừa phái ra mời vào quan Chánh văn phòng tiếp trước. Chuyện trò một lát rồi quan văn phòng đưa vào quan Thượng thư. Ngài tiếp ân cần vồn vã, hỏi chuyện từng người, rồi nói về cuộc Đấu xảo của Đông Pháp ta thật đã được thập phần hoàn hảo, ngài lấy làm bằng lòng lắm; sau hỏi đến anh em phái viên sang chơi bên Đại Pháp này như thế có lấy làm vui vẻ thoả thích không; chắc ai cũng đồng thanh trả lời rằng thực được vui thích, bấy lâu ao ước được xem cái cảnh tượng văn minh của quý quốc, nay được mục kích, thật là thoả lòng. Ngài khuyên nên đi du lịch quan sát cho nhiều, những nơi thắng cảnh thắng tích ở kinh đô và các vùng phụ cận nên dạo chơi cho khắp, và nếu lại có thể đi chơi được các tỉnh lớn khác nữa thì lại càng hay lắm. Ngài lại nói rằng hoặc có cần đến ngài giúp cho trong khi du lịch các nơi được tiện lợi thời ngài sẽ sẵn lòng. Anh em cũng cảm cái tấm lòng ân cần của ngài, nhưng nghĩ bụng rằng ở đất văn minh này có thú thật, nhưng đi mỗi bước là mất tiền, giá quan Thượng thư giúp ngay cho mỗi người dăm bảy nghìn quan để thêm vào phí du lịch thì hay biết dường nào! Song nghĩ lại một quan tiền tây bên này cũng trọng bằng đồng bạc bên ta, và quan Thượng thư tuy vậy chứ sử dụng đồng phật lăng của công khố Đại Pháp có lẽ không được ung dung bằng quan Toàn quyền sử dụng đồng hoa viên của công khố bên ta, nên biết rằng cái câu ước nguyện anh “keo” đó, chắc hẳn không đắt nào…
Lâu nay vẫn nghe tiếng xóm Bình khang ở đây có lắm thú lạ lùng, nhà nho định đi “khảo sát” một hôm xem thế nào. Không có lẽ sang đến Ba lê mà không biết cái phong vị ấy. Cơm tối rồi anh em bèn rủ nhau đi “Mông mạc”. Đi xe điện ngầm métro đến Place Pigalle, đây chính là giữa xóm ăn chơi đây. “Mông mạc” là gồm cả cái khu ở trong khoảng mấy đường Pigalle, Blanche, Clichy, Rochechouart, Clignancourt, san sát những tửu lâu trà quán, đèn điện sáng choang, thật là một nơi “bất dạ thành [8]”; tuy không nghe thấy những tiếng cắc! tòm! tòm! cắc! như ở Hàng Giấy hay Tân ấp Hà Nội ta, nhưng trong không khí văng vẳng những tiếng đàn tiếng hát, đủ biết là chỗ ăn chơi. Trong bấy nhiêu nhà, chửa biết vào nhà nào. Khách tỉnh xa mới về Hà Nội muốn đi hát một chầu đến Hàng Giấy hay Tân ấp chắc cũng bỡ ngỡ như thế. Chợt trông thấy hình cái cối xay đỏ sáng loè ở đàng xa, mới nhớ ra quán “Cối xay đỏ” là nơi có tiếng ở xóm này, có tiếng là chỗ chơi bời phóng túng mà lại có phong vị hào hoa, những tao nhân mặc khách cũng không nề đến đây ngâm thơ uống rượu. Nhưng nghe đâu quán này đã bị cháy từ năm 1916, có lẽ mới dựng lại. Anh em định vào đây. Đến nơi thấy những kẻ ra người vào tấp nập. Vào cửa phải mất tiền. Trong rộng như cái chợ, đèn thắp rực rỡ, bàn ghế la liệt, dưới sàn toàn rải thảm đỏ cả, mà trong không khí thời như đầy những sương mù, tức là khói thuốc lá vậy. Chỗ này uống rượu, chỗ kia đàn ca; thôi, thiếu gì là những “ả mày ngài” cùng với “khách làng chơi”. Nghe đâu các “tiên” ở đây nhũng lắm, nên anh em đã dặn nhau vào đến nơi cứ làm mặt “mán xá”, nói toàn tiếng An Nam, ấm ê như không biết câu tiếng tây nào, họ muốn cho mình là Ngô Lào gì mặc ý. Vừa kéo ghế ngồi, bảo hầu sáng dọn các thứ rượu ngọt như nước ngọt và nước đá, thời “tiên” ở đâu kéo đến từng lũ, thoáng mắt một cái bác nào bác ấy có đôi cả. Chào mời đón hỏi tươi cười, lũ “mán xá” cứ ngây ngô nhìn nhau, họ cũng tức cười. Họ tưởng mình là người Tàu hay người Nhật, họ nói tiếng Anh, mình lại càng ngẩn nữa. Bấy giờ một người mới bập bẹ làm thông ngôn, nói nhiều câu chuyện tầm phơ cũng lý thú. Rượu chuyện đã vãn, đêm cũng đã khuya, bác nào cao hứng thời theo “tiên”… lên mây; còn rủ nhau ra về cả, tính ra ngồi nói chuyện “chay” như thế mà mỗi người cũng mất năm sáu chục quan về tiền nước chanh, nước cam, nước đá, ấy là không ai nghiện “sâm banh” cả, chứ nếu lại đụng cốc chúc thọ nữa thì chửa biết đến mấy trăm quan.
Thôi, thế cũng là đủ, gọi là trải qua xem dạng cho biết cái mùi phồn hoa chốn danh đô một chút.
Xét ra xóm “Mông mạc” này ngày xưa có tiếng lắm. Kẻ thi nhân đến đây để trợ hứng, nhà họa giả đến đây để tìm kiểu. Bậc đạo đức chắc không dám bước chân đến, nhưng khách phong lưu thường không nề tới lui. Vì chỗ này cũng có một cái tinh thần riêng, tiêu biểu một cái trạng thái đặc biệt của chốn danh đô. Thành Paris không phải là chỉ ở những hội hàn lâm, trường đại học, thành Paris ở cả những nơi hoa liễu, xóm ăn chơi nữa. Người Paris dẫu khi chơi bời lơi lả cũng biết điểm thêm một cái vẻ phong thú khác người: những thi ca ngâm vịnh ở xóm Mông mạc này biết bao nhiêu mà kể, mà bài nào cũng có cái giọng “tự nhiên” như thơ Xuân Hương vậy. Ai bảo thơ Xuân Hương không phải là biểu hiệu một cái tinh thần riêng của người An Nam ta?… Nhưng nghe đâu tự mươi lăm năm nay, xóm Bình khang đây đã giảm giá đi nhiều. Bây giờ cũng thành chỗ ăn chơi như các nơi ăn chơi khác, không có cái tính cách đặc biệt gì nữa, nghĩa là thô bỉ không đủ nói vậy.
Trong sách Les Curiosités de Paris của Henri Boutet, đoạn nói về Mông mạc có câu rằng: “Mông mạc bây giờ là Paris của khách ngoại quốc. Nếu tra tính danh quốc tịch của những người đến chơi chốn này, sẽ thấy phần nhiều người là người ngoại quốc, người các tỉnh, chứ không phải là người Paris… Chính người Paris có bước chân đến đây cũng phải rầu lòng mà tránh cho xa cái phong vị Paris hủ lạn [9] này… (Le vrai Parisien s'évade mélancoliquement de ce parisianisme faisandé)” – Có lẽ bởi khách tạp các nước và khách tứ chiếng đến đây quần tập huyên náo quá, người Paris không đến nữa, nên chốn này mới mất cái phong vị cũ đi như thế.
Còn nhớ trước có đọc một bài [10] kịch của Pierre Frondaie đề là Montmartre diễn ở Paris năm 1910. Bài này là chuyện một chàng thiếu niên tài tử, có tính hào hiệp, phải lòng một ả Mông mạc, âu yếm rất mực. ả cũng thực tình với chàng và xem ra cũng là con người có thiên lương, chứ không phải cái căn tính xấu. Sau chàng làm nên, ra tay tế độ vớt người trầm luân, muốn lấy nàng làm vợ. Không ngờ nàng tuy bụng dạ khá thật, nhưng cái thói cũ trăng hoa không thể nào gột rửa cho hết. Ở với nhau ít lâu, rồi gia đình tan nát, sau phải quyết liệt [11] nàng lại về xóm cũ như xưa. Tác giả kết luận rằng gái giang hồ không bao giờ làm vợ chính chuyên được, và cái hoa giữa đường dẫu có cúi xuống nhặt lên bao giờ cũng không khỏi lấm bụi. Lời kết luận ấy nói cho bên Tây, chứ tưởng nói về bên ta cũng đúng vậy.
Thứ bảy, mồng 3 tháng 6
Buổi sớm đi dạo xem các hàng sách, mua được một mớ sách tốt lắm.
Những hàng sách có tiếng như Hachette, Delagrave, Armand Colin, v.v…, ở bên mình tưởng tượng cho là những cửa hàng lớn, sách gì cũng có, khách đi lại đông như chợ. Sang đây mới biết phân biệt hiệu bán sách (librairies) với hãng xuất bản (maisons d'éditions): Armand Colin, Hachette, là những hãng xuất bản, chỉ bán buôn những sách của nhà mình xuất bản mà thôi, cho nên nhiều khi không bày cửa hàng, đi ngoài phố không có ý nhận thì không biết. Như ngày nào cũng đi qua đường Saint Michel đến mấy lượt mà không trông thấy hàng Armand Colin ở đâu; sau tra số nhà tìm đến tận nơi thì thấy bên ngoài cũng giống như các nhà khác, vào tận trong nhà mới biết là hàng sách. Những hãng này chỉ bán buôn cho các cửa hàng thôi, không bán lẻ cho khách. Muốn mua lẻ thì phải vào các hiệu bán sách. Những hiệu bán sách ở đây không phố nào là không có, mỗi ngày xem qua ngoài cửa hàng cũng thấy năm sáu chục quyển mới xuất bản, không kể các nhật báo và tạp chí. Mình có tính mê sách, trông thấy sách gì hay cũng muốn mua. Tháng trước ở Marseille cũng đã mua để đầy một hòm, phải gửi lại nhà trọ, không đem theo lên đây được, nay lại mua mãi để la liệt cả trong buồng thế này thì không biết lúc về làm thế nào đây?…
Chiều xem chớp bóng ở Salle Marivaux, đường Italiens. Đường này là một đường phố lớn, nhiều người đi lại, mà nhà chớp bóng này cũng là nơi lịch sự, nên khách đến xem coi ra những bậc sang trọng cả.
Chủ nhật, mồng 4 tháng 6
Hôm nay đi Versailles.
Versailles cách Paris chừng 20 cây-lô-mét, muốn đi bằng xe lửa hay xe điện cũng được. Lượt đi định đi xe điện, lượt về đi xe lửa. Mãi 11 giờ mới đi, đến nơi vừa trưa, ăn cơm trưa ở đấy. Ngày chủ nhật này thiên hạ đi xem đông lắm, và chỉ có một buổi chiều không tài nào xem hết được. Vậy hôm nay hẵng gọi là thiệp liệp một lượt, rồi lần sau sẽ đi từ sáng sớm mà xem cho kỹ từng nơi từng sở một.
Versailles tuy là một tỉnh lỵ cũng khá lớn (6 vạn người), nhưng thiên hạ đến xem là chỉ xem cung vua Louis thứ 14 và vườn Ngự uyển, là hai nơi thắng tích đệ nhất của nước Pháp. Chính thể quân chủ trong thiên hạ, đến đời vua Louis thứ 14 là cực thịnh, cổ kim Đông Tây không có đâu, không bao giờ bằng; nay đã thành lịch sử rồi, còn di tích lại đó, là nơi hoàng cung và chốn ngự uyển này, kể cái công kinh doanh kiến trúc của người ta đến như thế là cực kỳ trang nghiêm tráng lệ vậy.
Xét ra cung Versailles là tự vua Louis thứ 14 dựng ra, kiểu mẫu là do hai nhà kiến trúc Le Vau và Mansart. Vườn ngự uyển thì do Le Nôtre vẽ kiểu, công trình đào đắp phải dùng đến 3 vạn 6 nghìn người và 6 nghìn con ngựa, kinh phí xây cung và làm vườn tới một ngàn triệu livres (tiền phật lăng ngày xưa). Hiện nay Nhà nước Pháp cũng phải tiêu mỗi năm tới 62 vạn quan làm tiền phí bảo tồn và tu bổ hoàng cung và ngự uyển. Vua Louis thứ 14 thiên triều đình và chính phủ ở Paris ra Versailles năm 1682. Bấy giờ Versailles thành nơi trung tâm chính trị của nước Pháp. Nhà vua được toàn thịnh và bắt đầu suy dần cũng từ đấy. Năm 1789, phong trào Cách mệnh nhóm lên, ngày mồng 5 tháng 5, Tam đẳng quốc dân họp đại hội đồng ở thành Versailles; ngày 20 tháng 6 những đại biểu của thứ dân họp ở trường đánh quần (Jeu de Paume, ngày nay làm bảo tàng viện về đời Cách mệnh), thề rằng đặt hiến pháp được cho nước rồi mới giải tán. Ngày mồng 5 tháng 10, công chúng kéo nhau vào trong cung, bắt vua Louis thứ 16, hoàng hậu và các hoàng tử công chúa đem về Paris. Cung Versailles bỏ tự bấy giờ và chính thể quân chủ cũng suy tự bấy giờ.
Hồi thịnh thời, nghĩa là hồi vua Louis thứ 14 mới về ở, sách chép rằng cung sửa sang rộng có thể dung được hơn một vạn người. Mặt ngoảnh ra vườn dài tới 580 thước và trổ tới 400 cái cửa và cửa sổ. Đến hồi nhà vua suy, Dân quốc lập, thời cung suýt bị đem bán, sau bỏ hư hỏng mãi đến đời vua Louis Philippe. Từ năm 1833 đến năm 1837 vua mới tu bổ lại, đặt làm viện bảo tàng. Hồi trận Pháp Phổ, vua Guillaume thứ I nước Phổ đóng bản doanh ở đấy từ ngày 5 tháng 10 năm 1870 đến ngày 6 tháng 3 năm 1871, và làm lễ xưng hoàng đế nước Đức cũng ở đấy. Hồi Dân quân khởi loạn sau khi thua Đức (la Commune), Lâm thời Chính phủ đóng ở đấy từ ngày 20 tháng 3 đến ngày 28 tháng 5 năm 1871, quốc hội họp hội đồng và bàn bạc ở trong “phòng hát bội” (salle de l'Opéra). Ngày 25 tháng 2 năm 1875, tuyên bố Dân quốc, mãi đến ngày 18 tháng 6 năm 1879 hai nghị viện mới quyết nghị thiên về Paris. Ngày nay cứ mỗi bảy năm bầu quan Giám quốc, hai nghị viện họp thành quốc hội ở Versailles để bầu. Tháng 5 năm 1919, sau cuộc thế giới đại chiến, đại biểu của các nước Đồng minh cùng với đại biểu nước Đức họp ở Versailles để nghị hoà. Hoà ước ký ở “Lầu trăm gương” (Galerie des glaces) ngày 26 tháng 6.
Ấy lịch sử cung Versailles như thế. Trước khi vào xem phải mua một quyển chỉ nam về Versailles, trong kể tường tất cả. Xem như thế thì cung Versailles này trong khoảng ngót ba trăm năm thật đã có mật thiết quan hệ với quốc sử nước Pháp vậy. Xem một nơi cổ tích cũng phải biết qua lịch sử một chút thời mới có bổ ích. Không biết nhà làm sách nào đã nói rằng những chốn cung điện lăng tẩm của đế vương cùng những nơi đã xẩy ra các việc lớn trong lịch sử, đời đời có một cái khí vị riêng, như còn phảng phất cái tàn hồn của các thời đại đã qua vậy, khiến cho khách du quan không thể cầm lòng điếu cổ [12]. Tôi còn nhớ năm trước xem các tôn lăng ở Huế đã cảm giác như thế, ngày nay đi thơ thẩn dưới bóng cây trong vườn ngự uyển này cũng thấy như vậy.
Xem Versailles này phải đến hai ngày, suốt từ sáng đến chiều, mới gọi là hơi kỹ được. Hôm nay chỉ có mấy giờ đồng hồ, xem sao cho khắp? Vậy chỉ dạo chơi vườn ở chung quanh cung để xem các tượng phun nước (chỉ ngày chủ nhật mới mở máy), không dám đi xa ra ngoài lắm, sợ về không kịp. Xong rồi đi lần lượt xem các cung các sở qua loa cho biết đại thế, không chỗ nào dám đứng lâu. Trước xem cung Versailles, trong có hai cái lầu: một cái gọi là “lầu trăm gương” (Galerie des glaces), trông ra vườn ngự uyển, dài 72 thước, rộng 10 thước rưỡi, cao 19 thước, hai bên toàn những gương đứng cao bằng một đầu một với, nạm bằng đồng sáng choang cả, còn tường và trần thì toàn những tay danh họa đời xưa vẽ những bức chiến đồ (phần nhiều là của nhà hội họa Lebrun), đứng trên lầu này mà nhìn ra ngoài vườn, thu quát được cả cái đại thế, thật không cảnh gì trang nghiêm bằng; một cái gọi là “lầu trăm trận” (Galerie des batailles), cái này là sửa lại sau (năm 1836), chứ không phải có tự đời vua Louis thứ 14, kiểu cách và trang sức không được đẹp bằng cái trên, nhưng dài và rộng lắm (120 thước và 13 thước), hai bên treo toàn những bức họa về các trận của nước Pháp từ xưa đến nay, và bày tượng các bậc danh tướng, kể có mấy trăm bức và mấy trăm pho. Lại xem những phòng ngủ của vua Louis thứ 14, phòng hội đồng, v.v… ở trong cung chính. Còn những cung nhỏ như Grand Trianon, Petit Trianon, thì chỉ xem bên ngoài, không kịp vào. Sau cùng xem đến “kho xe” (musée des voitures) là một sở bảo tàng những xe cộ của các đời vua.
Mãi 6 giờ chiều đóng cửa mới ra về. Đi xe lửa về Paris, trong xe chật những khách đi xem ngày chủ nhật. Lúc nãy ở trong vườn rộng, không biết số người xem đông đến thế.
Cơm tối rồi đi xem hát ở rạp hát Théâtre des Capucines, đường Capucines. Tối hôm nay diễn bài hài kịch: Ce qu'on dit aux femmes(Nói chuyện gì với các bà) của Tristan Bernard, chuyện hoạt kê, buồn cười lắm. Lối kịch của Tristan Bernard là lối có cái “Paris phong vị” hơn cả (très parisien). Thế nào là cái “Paris phong vị”? Cũng khó mà giải cho được. “Paris phong vị” là cái phong vị hào hoa, thanh lịch, phong nhã, tài tình, có cái dư vị hoạt kê, có cái tinh thần trào phúng, nhẹ nhàng họat bát, phóng túng tự do, tựa hồ như sỗ sàng mà lịch sự; tựa hồ như dâm đãng mà vẫn kín đáo; nói tóm lại là một cái phong vị đặc biệt, duy ở Paris mới có, mà không phải ở khắp cả Paris, chỉ ở một cái xã hội riêng của Paris mà thôi. Xã hội này là xã hội những bọn “tài tử” về văn chương mỹ thuật, những tay ăn chơi lịch sự, những bậc phu nhân phú quý mà có cái tính hiếu kỳ. Cái đặc tính của xã hội ấy là cái trí dĩnh ngộ: các tài tử giai nhân này là những người đã văn minh lọc lõi lắm rồi, sành sỏi sự đời lắm rồi, không còn có kém cái cạnh cái khoé gì nữa, lấy trò đời làm một cuộc mua vui, nhưng chuyện đời lâu rồi cũng không có cái thú gì mới lạ nữa, nên phải bày đặt ra những chuyện oái oăm rắc rối để làm cái món khiển hứng tiêu sầu. Cho nên phần nhiều những tiểu thuyết kịch bản gọi là có cái “phong vị Paris" ấy, toàn là những chuyện như thế cả. Người không quen, không tinh, hay là có tính thật thà, thời đọc những sách ấy, xem những kịch ấy, không khỏi có hại. Người biết ra thời cũng có một cái phong thú đặc biệt vậy.
Bài kịch như bài này mà nói ra tiếng ta, dịch cho người mình nghe, thì ít ai hiểu được. Cái tinh thần nó có từng tiếng, từng chữ, từng câu lộng ngữ, từng cách đối đáp, từng chỗ nói ngầm nói bóng, nói xa nói xôi, thật là “ý tại ngôn ngoại”, nói một nửa để cho người ta đoán ra một nửa, nếu cố cắt nghĩa cho ra thì thật không có nghĩa gì. Văn chương này mà muốn dịch ra tiếng ta thì đành chịu thôi. Vả ta cũng chưa cần đến cái lối văn “yêu quái” ấy vội. Nếu trình độ chưa tới mà đã vội thâu thái những cái món thượng phẩm văn minh đó thì có hại chứ không có lợi. Người nào biết thưởng thức hẵng cứ nên thưởng thức một mình, không nên mong truyền bá ra làm gì. Có muốn truyền bá, còn lắm cái cần hơn nhiều.
Thứ hai, mồng 5 tháng 6.1922
Ở Paris có một cái cảnh lạ, là cảnh các hàng bán sách cũ ở bờ sông Seine. Trong Anatole France đã có tả cái cảnh ấy một cách rất lý thú, vì cụ thân sinh ra tiên sinh khi xưa có làm nghề bán sách ấy. Nói hàng sách chớ tưởng là những cửa hàng lồng mặt kính, thắp đèn điện đâu. Số là trên bờ sông Seine có xây dẫy tường thâm thấp như dẫy bao lơn. Về bên tả ngạn sông, suốt một dọc chạy dài từ cầu Saint Michel cho đến Cộng hoà trường (la Concorde), những người buôn sách cũ bày la liệt những sách cùng tranh vào trong những cái tủ dèm dẹp như hình cái hòm hay cái tráp đóng liền ở trên bao lơn, sáng mở ra, tối lại khoá lại. Sách bán đây toàn là sách cổ hoặc sách cũ cả, khác nào như ở ngõ Hàng Quạt Hà Nội ta mấy năm xưa. Người mua là những học trò, những ông lão nho, ông đồ cổ, những người ham mê các đồ thư cổ bản. Ở đời tàu bay ôtô này mà trông thấy giữa nơi đô thành phồn hoa náo nhiệt những ông cụ già giương nhỡn kính lên đứng hàng giờ dở những chồng sách cũ kỹ rách nát, lấy làm khoái lạc đến quên cả ngày giờ không muốn dứt ra đi nữa, đó là một cái cảnh rất nên thơ cho con nhà hiếu cổ. Chắc lấy con mắt vô tình của người nông nổi mà xem thời những chồng sách rách nát ấy không phải là một cái vẻ mĩ lệ gì cho chốn danh đô và không khỏi làm bề bộn phố phường. Nên nghe đâu hội đồng thành phố Paris có hồi đã bàn nên cấm không cho hàng sách bày ở bờ sông nữa, bắt phải đem ra ngoại ô. Nhưng bấy giờ những nhà hiếu cổ, muốn bảo tồn lấy một cái cảnh tượng của Paris cổ thời, hết sức phản đối, nên lời bàn ấy thôi không thi hành nữa. Ngày nay khách du quan đến Paris, muốn nghỉ cái cảnh huyên náo những nơi đường phố đông người, đi dạo qua dẫy bờ sông này mà xem mớ sách cũ, cũng có một cái thú đặc biệt vậy [13].
Cả buổi sáng sớm hôm nay mình thơ thẩn ở chỗ này, đi hết dẫy sách ấy sang dẫy sách khác, đồng hồ đã điểm mười hai giờ mới sực nhớ đi ăn cơm. Mua được mấy quyển hay, có một quyển đề là La Guerre du Tonkin (Trận Bắc kỳ), đã rách nát mất cả bìa, không biết của ai làm, sách thuật tường về việc nước Pháp can thiệp sang Bắc kỳ ta, đánh với quân nhà vua ta và quân Cờ Đen, trong có hình vẽ nhiều lắm, như hình Đức Dực Tôn (vua Tự Đức), hình quan Phụ chính Nguyễn Hữu Độ, v.v…, xem ra thì có lẽ là sách của một viên quan võ Pháp nào đã tòng quân về trận Bắc kỳ.
Tối đi xem nhà hát Folies Bergère, ở đường Richer. Nhà này là thuộc về hạng music halls (nhạc quán), có tiếng lắm, người ngoại quốc đến xem rất đông. Có ca nhạc, nhảy múa, trò vè và bày cảnh rất là trang hoàng. Trong nhà chia ra từng khu một, mỗi khu một trò, vào cửa mất tiền, rồi xem trò gì lại mất tiền riêng về trò ấy. Người xem trò cũng đông mà người vào chơi để kiếm chuyện trăng hoa lại nhiều hơn, vì ở đây cũng không khác gì như ở Mông mạc vậy. Cũng những ả mày ngài, cũng những khách làng chơi, và cũng một cái không khí khói thuốc lá như vậy. Trò thời ngoài những cuộc đờn ca, là những trò khoả thân khiêu vũ, các hoạt kịch chia ra từng cảnh, v.v… Tối hôm nay diễn bản hoạt kịch đề là Folies sur folies (Hết cái cuồng ấy đến cái cuồng khác) của Louis Marchand, có hai hồi, 40 cảnh, bản này dài lắm, nhưng chỉ diễn có một mục về Les Folies du jour (Những cái cuồng hiện đương lưu hành), là: cái cuồng để cổ trần (la folies des décolletés), cái cuồng thể thao (la folies des sports), cái cuồng đeo trân châu (la folies des perles), cái cuồng khiêu vũ (la folies des danses), mỗi cảnh đến mấy chục con trai con gái tuyệt đẹp ra nhẩy múa, thật là choáng mắt. Lại diễn một bản hoạt kịch nữa ngắn hơn, đề là “Các cách hôn nhau”: cái hôn vô tình, cái hôn của vợ chồng, cái hôn của mẹ con, cái hôn của gái kỹ nữ, cái hôn phong tình, cái hôn dâm dục, cái hôn vũ phu, cái hôn ma quái; toàn bày cảnh hoạt động, không có lời nói. Đại khái những trò này là chỉ chủ ý làm cho người xem vui mắt, choáng mắt, chứ không có thú vị văn chương gì, không hiểu tiếng Pháp cũng xem được, nên người ngoại quốc đến đông lắm. Song vui thì vui thật, choáng thì choáng thật, mà nó vẫn có cái khí vị tục tằn, không thú gì.
Thứ ba, mồng 6 tháng 6
Các ông phái viên Nam kỳ mới đến Paris, hẹn cùng với phái viên Bắc Kỳ sáng hôm nay vào chào quan Thượng thư. Bọn mình đã đi rồi, nhưng các ông ấy rủ lại đi nữa cũng bất phương [14]. Tính các ông hay trọng sự thể, như đi chào quan Thượng thư thời phải đi cùng một quan cai trị Tây, tựa hồ như phải có người bề trên dắt tay chỉ đường thời mới yên tâm. Nghe nói các ngài trong Nam - Trung hay có khí khái, nhưng xét cách các ngài đây cử động thời không thấy lộ cái tính ấy chút nào cả.
Buổi tối cùng các ông phái viên Nam kỳ đi xem hát ở Odéon, diễn bài Le Songe d'une nuit d'été (Giấc mộng một đêm mùa hè) của Shakespeare dịch ra tiếng Pháp. Diễn khéo, cảnh đẹp. Rạp Odéonnày là rạp hát của Nhà nước cũng như rạp Comédie Française, mở từ năm 1782, trong rộng lắm, ngồi được một nghìn ba trăm người, ngoài làm theo kiểu đền Hi Lạp, có hành lang và cửa cuốn chung quanh. Dải hành lang này có các hàng sách bán, nhất là hiệu Flammarion. Mặt trước, bên ngoài có tượng Emile Augier là một nhà soạn kịch trứ danh về cận đại, bên trong có tượng Molière lúc lâm chung của Allouard chạm, có tiếng là pho tượng đẹp.
Ghi chú:
[1] Talawas: Trong tác phẩm đã in, chúng tôi không thấy có phần IX, chưa rõ là do đây là phần không được sử dụng đến trong bản in lần này hay do có sự nhầm lẫn hoặc sơ suất nào đó.
[2] Bày đặt.
[3] Sau đó.
[4] Chỉ sự đồng điệu trong tâm hồn, nó được hình thành một cách tự nhiên.
[5] Chơi cái mới.
[6] Cổ hủ, không kịp thời.
[7] Chiếu phim.
[8] Khu thành không có đêm.
[9] Mục nát, ôi thiu.
[10] Vở (kịch).
[11] Nghĩa cổ: chia xẻ hẳn ra.
[12] Cảm việc quá khứ.
[13] Bỏ một chú thích bằng tiếng Pháp trong đó trích ra một đoạn văn nói về các cửa hàng sách cũ.
[14] Có thể chấp nhận, không phản đối.
Nhật ký đi Pháp từ tháng 3 đến tháng 9, 1922
Phần 7
XII.
Thứ tư, mồng 7 tháng 6
Quan sáu L. hồi xưa đã có tòng quân ở bên ta, nay hưu trí. Mới quen mình từ bữa diễn thuyết ở trường Thuộc địa, hẹn sáng hôm nay đến chơi ở Ligue maritime et coloniale (Hội cổ động về Hải quân và Thuộc địa), ở số 30 đường Capucines. Hội này tập hợp được nhiều người, nghe như thế lực cũng mạnh. Chủ ý là cổ động cho quốc dân Pháp chú ý đến việc hải quân và việc thuộc địa, cho rằng hai khoản ấy có quan hệ to đến vận mệnh nước Pháp. Đổng lý sự vụ trong Hội là ông Maurice Saint Rondet, quan sáu giới thiệu mình cho ông, ngồi nói chuyện ít lâu về việc bên ta, rồi ông tặng hai quyển sách của ông xuất bản trong khi chiến tranh (1916-1917) thuật về cuộc du lịch của ông ở Đông Pháp mấy năm trước, một quyển đề là: Choses de l'Indochine contemporaine (Sự vật ở Đông Pháp ngày nay), một quyển đề là: Dans notre Empire Jaune (Trong cái đế quốc giống da vàng của ta).
Ông này làm sách viết báo nhiều, toàn là về việc du lịch, về quân sự và về thuộc địa cả, chủ ý cổ động truyền bá hai cái chủ nghĩa đế quốc và quân quốc, khuếch trương cái thế lực nước Pháp trong thế giới; cứ xem những tên sách của ông như sau này thì đủ biết: La Grande Boucle. Notes et Croquis de l'ancien Continent et des deux Amériques (Cuộc du lịch hoàn cầu. Biên chép về tân cựu thế giới), sách được Hội Hàn lâm ban thưởng; L'Afrique équatoriale française (Đất Trung Phi châu thuộc Pháp); Dans notre Empire Noir (Trong cái đế quốc giống da đen của ta); L'Avenir de la France est sur mer (Hậu vận nước Pháp là ở trên mặt bể); Aux confins de l'Europe et de l' Asie (Giáp giới châu Á với châu Âu); En France africaine (ở đất Phi châu thuộc Pháp). Mấy quyển đó, quyển nào cũng đến tái bản, tam bản [1] cả. Xem đó thời biết người Pháp không phải là không thiết đến chuyện thuộc địa, không phải là không có cái chí chinh phục và cái tính hiếu võ vậy. Ông Maurice Saint Rondet là một tay trước thuật tiêu biểu rõ nhất hai cái tinh thần đó.
Quan sáu L. cũng vào phái cổ động về thuộc địa. Từ ngày về hưu, thường viết trong các báo nói về chuyện thuộc địa. Chính trong tạp chí Les Annales một đôi khi cũng có bài của ngài. Về việc Đông Pháp thì nghe chừng ngài đã xa bên ta lâu năm, không được am tường về hiện tình lắm. Nhưng việc về ba bốn mươi năm trước thì ngài biết rõ, nhất là hồi Đức Đồng Khánh mới lên ngôi. Ngài nói ngài có được bệ kiến tiên hoàng mấy lần.
Ông P. giáo học tiếng An Nam ở trường Đông phương Bác ngữ, trước làm quan cai trị bên ta, có mời mấy anh em 9 giờ tối đến uống nước chè ở nhà ông, đường de Luynes, số 9. Đường này mình chưa đi đến bao giờ, lại đi tối, quanh quẩn mãi không tìm thấy, thuê cái taxi thì chẳng may gặp bác cầm lái cũng bỡ ngỡ như mình, thành ra mãi đến 10 giờ mới đến, ông giáo và phu nhân có ý đợi. Ông P. năm trước mình đã có quen gặp ở trường Bác cổ Hà Nội, không những là một người thuộc tiếng An Nam đã sành mà lại là một tay khảo cứu có công nữa. Ông đã có làm một bài khảo về lễ “động thổ” và một bài khảo về “vàng trong lễ tục An Nam”, in trong sách biên tập của trường Bác cổ. Ông người tính khí ôn hoà điềm đạm, ra tư cách một nhà bác học chứ không phải một quan cai trị thuộc địa. Nghe đâu định chuyên về đường học vấn, không có chí trở về làm quan bên ta nữa. Ông vừa dạy tiếng An Nam ở trường Đông phương (nguyên là thay cho ông giáo chính D., nhưng ông này bị đau luôn có lẽ cũng từ chức, thời ông sẽ được thực thụ) lại vừa kiêm một khoa giảng nghĩa về cổ văn tự Đông Pháp ở học viện Collège de France thay quan chánh đốc Finot trường Bác cổ Hà Nội. Nói chuyện về sự học tiếng An Nam, ông có ý phàn nàn rằng ông dạy học lấy làm khó lắm, vì không có sẵn sách vừa tầm sức học trò. Ông ước ao rằng có ai biên tập được những bài nho nhỏ, ngăn ngắn, dê dễ, gồm được đủ các giọng các lối mà phần nhiều nói về phong tục, cách ăn ở, cách sinh hoạt người An Nam ta, thì giúp đỡ cho người Pháp ở bên Pháp học tiếng ta nhiều lắm. Mình nghĩ bụng rằng không những người Pháp học tiếng An Nam không có sách, mà đến người An Nam học tiếng “mẹ đẻ” cũng là vô sư vô sách nữa, một là bởi chính người An Nam đối với tiếng nước mình vẫn chểnh mảng, hai là bởi các trường Nhà nước không chịu cho tiếng An Nam được một địa vị xứng đáng, nên dẫu có nhà làm sách cũng ngại không dám xuất bản, sợ in rồi bỏ đó không ai mua! Sách giáo khoa đứng đắn, trừ phi sở Học chính công nhận và bắt học trò phải mua, còn đời nào tiêu thụ được mạnh bằng những sách tiểu thuyết ngôn tình hay là những sách thi ca bá láp. Nhiều ông ở bên mình nhiệt thành cứ giục: Sao không lập cuộc tu thư đi? Sao không mở hội dịch sách đi? Không biết rằng dịch sách với tu thư mà xuất bản độ ba nghìn quyển, ba năm không bán chạy được năm trăm quyển, thì sớm trưa cũng đến phá sản mà thôi!
Thứ năm, mồng 8 tháng 6
Hôm nay quyết đi xem viện bảo tàng Le Louvre. Đã mấy lần rắp đi mà vẫn ngần ngại, sợ hãi, như người sắp vào một chốn thiêng liêng, chưa chắc mình đã đủ trai giới, đủ kính cẩn mà dám bước chân vào. Chỗ này là chỗ bao nhiêu cái tinh hoa của văn minh Thái Tây đã mấy mươi đời nay sưu tập cả ở đây, biết rằng con mắt phàm nhìn vào có hiểu được không? Cho nên từ khi tới Paris đến giờ, rảnh được chút thì giờ nào thì đọc những sách, xem những tranh cùng ảnh về nghề họa và nghề tượng ở Âu châu và nhất là nước Pháp, khảo những bộ “chỉ nam” về Le Louvre, mua những phiến ảnh các danh họa danh tượng họp thành từng tập dầy, nói tóm lại là dự bị sẵn để cho có đủ tư cách đi xem viện bảo tàng cho thật ích lợi. Mới đây lại mua được quyển sách: Mes promenades au Musée du Louvre, của J.F.Raffaelli, sách của một nhà họa giỏi bình phẩm về nghề họa. Xem sách này khám phá được nhiều điều lạ, lĩnh hội được nhiều lẽ hay về mỹ thuật Âu tây. Như ông giải cái tâm lý của nhà mỹ thuật như thế này: “Nhà mỹ thuật có tính hay cảm kích, không thể không tự phô diễn ra ngoài. Phô diễn ra là vừa phát biểu cái tinh tuý của tạo vật, vừa phát tiết ra cái tinh anh của riêng mình, kết quả sự đó có nhiều cách. Sáng nghĩ [2] được một “lối” riêng, thế là phát tiết được cái tinh anh của mình, mà phát biểu cái tinh tuý của tạo vật là suy tôn những cảnh thiên nhiên cho có vẻ mĩ lệ, lại phụ thêm cái văn vẻ của tính tình mình. Một bên thì biểu dương cho mình, một bên thời giáo dục cho người: tức là ông thầy dạy đẹp cho đời vậy” [3]. Nay cái đẹp là cái gì? Làm thế nào cho người đời công nhận một sự hay một vật là đẹp? Ông thí dụ một việc như sau này ở trong họa sử nước Pháp, đủ chứng về sự phát sinh ra cái quan niệm “đẹp” ở trong tâm trí người ta. Đời vua Louis thứ 14, có một nhà họa tên là Téniers dâng vua mấy bức tranh vẽ bọn bình dân cục súc, vua bắt đi mà nói rằng:
«Đem cất cái lũ khố rách này đi!»
Đời ấy các nhà họa không ai thèm vẽ đến bọn “khố rách”, và trong tư tưởng chung coi bọn đó đáng khinh bỉ vô cùng. Sau ý kiến mỗi ngày một đổi đi. Kịp đến thế kỷ thứ 18 thì cái lý tưởng bình đẳng lại thịnh hành lắm. Bấy giờ có một nhà họa tên là Millet, ông là con nhà quê đất Normandie, trong những bức tranh của ông chỉ vẽ người nhà quê xứ ông mà thôi: bác thợ cầy, kẻ chăn bò, toàn là bọn “khố rách” cả, nhưng ông có cảm tình với bọn ấy, ông cảm kích về tình cảnh bọn ấy, ông không thể không phát biểu cái tinh thần nó ngụ ở trong nghề lam lũ, tức là ông suy tôn kẻ nhà quê cho đến cái phẩm giá đẹp, khiến cho người ngoài trông vào cũng phải cảm. Ông làm thế là ông vừa gây được một “lối” riêng cho nghề họa mình, nghĩa là tìm được một cách để phát tiết cái tinh anh, tức là cái cảm tình của mình; lại vừa phát biểu được một cái vẻ tinh túy của tạo vật, trước kia chưa ai biết đến mà từ đấy nhờ ông thiên hạ cảm được cả. Thế là ông vừa biểu dương được cái tài tình của ông mà lại vừa giáo dục được sự đẹp cho đời. Đó là cái vinh dự tối cao của nhà mỹ thuật.
Theo cái lý tưởng về mĩ thuật đó thì phàm sự vật gì trong trời đất, bất cứ sang hèn, đều có ngụ một cái vẻ đẹp cả; nhà mĩ thuật là người biết cảm kích cái vẻ đẹp ngầm đó mà có tài phô diễn được nó ra, trong khi phô diễn ấy không những là phát biểu được cái tinh tuý của sự vật mà lại phát tiết được cái tinh anh của mình nữa. Cái lý tưởng về mĩ thuật của á Đông ta có khác, nhất là về nghề họa. Nhà họa Tàu hay nhà họa Nhật không chủ phô diễn cái đẹp ngầm ở trong sự vật, nhưng cốt là tả một cái thái độ của thần trí người ta đối với cảnh vũ trụ bao la. Mĩ thuật ấy có một cái vị triết lý, một cái vẻ siêu hình, cho nên không châu tuần ở trong vòng sự vật mà muốn siêu thoát ra ngoài cõi thanh không [4]. Nhìn một bức thuỷ mạc Tàu với một bức nhân vật Tây đủ biết hai cái mĩ thuật khác nhau thế nào. Đó là một vấn đề người An Nam mình cần phải nghiên cứu, vì có quan hệ to cho sự tiến hoá về đường tinh thần của dân tộc ta. Chuyến này về, có thì giờ phải nên khảo về họa học của Trung Quốc và của Nhật Bản…
Trước khi xem nhà bảo tàng đã dụng công dự bị như thế, thế mà xem còn không hiểu thì thật là hủ lậu quá!
Xem viện Le Louvre này cũng như xem cung Versailles, không thể một buổi khắp được; phải đến vài ba ngày. Ấy là xem qua cho biết đại khái mà thôi, chứ nếu muốn nghiên cứu về nghề họa hay nghề tượng cho rành từng thời đại một hay từng môn phái một, thì không biết mấy tuần mấy tháng cho khắp. Vì trong một viện bảo tàng này không biết mấy mươi nghìn pho tượng, mấy mươi vạn bức tranh, tự thượng cổ, qua trung cổ, cho đến cận đại, đời nào cũng có, và toàn là những kiệt tác trong mĩ thuật Âu tây cả. Nghe đâu khắp trong thế giới không có sở bảo tàng nào nhiều đồ quý đồ lạ bằng ở đây. Mà không những đồ chứa ở trong đẹp, lại cái nhà chứa cũng đẹp nữa. Nhà này là cung các vua nước Pháp tự thế kỷ thứ 16, đời đời sửa sang và mở rộng mãi ra, đến năm 1857 mới thật là làm xong như quy mô bây giờ. Sách chép trong khắp thế giới không có nơi cung điện nào nguy nga tráng lệ và diện tích to rộng bằng sở Le Louvre này; mặt rộng tới 197.000 thước vuông, có sở Vatican là cung đức Giáo hoàng ở La Mã kể đã là rộng mà mới chỉ bằng chia ba một phần đây mà thôi. Cung Le Louvre bây giờ hình như chữ môn, ở trên lại chồng một chữ khẩu nữa: phần chữ khẩu gọi là “cung cũ” (Vieux Louvre), có bốn điện chạy quanh, sân rộng ở giữa, xây tự thế kỷ thứ 16 và 17; phần chữ môn [5] thời về phía Nam chạy dọc sông Seine, nguyên trước đã có cung sẵn tự thế kỷ thứ 16 và 17, nhưng về thế kỷ thứ 19 sửa đổi lại nhiều; về phía Bắc thì mới làm tự đời vua Napoléon thứ I, đến đời vua Napoléon thứ 3 và chính phủ Dân quốc lại làm thêm ra nhiều. Ở giữa hai vế chữ là nơi công trường Carrousel, một bên có cửa khải hoàn Carrousel của vua Napoléon thứ I dựng từ năm 1806, một bên có hai tượng ông thủ tướng Gambetta là người đã có công to lập ra chính phủ Dân quốc, và ông Lafayette là tướng Pháp đã giúp cho nước Hoa Kỳ trong trận Độc lập. Ngoài nơi công trường là sở công viên Tuileries. Khu này là một nơi thắng cảnh đệ nhất thành Paris dây; một ngày mình đi đi về về qua biết bao nhiêu lần, vì ở bên tả ngạn sang hữu ngạn bao giờ cũng đi đường autobus "Gobelins - Notre - Dame de Lorette” chạy qua ở dưới cửa cung Louvre này. Mỗi lần trông thấy cung điện sừng sực trước mắt mà tưởng tượng đến cái công gây dựng văn minh của giống Pháp Lan [6] này, không thể cầm lòng tán thán, nghĩ bụng rằng cái mục đích của giống người ở trên mặt đất này chẳng qua là tổ chức lấy cuộc đời cho sung sướng, trang sức lấy cảnh đời cho đẹp đẽ, như thế thời giống Pháp này đã được hưởng cái sướng cái đẹp đến tuyệt phẩm vậy. Dẫu đời ấy sang đời khác có kinh qua lắm buổi gian nan nguy hiểm, nhưng đời nào cũng còn để lại những di tích như chốn này, thật là đủ tô điểm cho non sông rực rỡ biết dường nào! Làm dân một nước như nước này, mở mắt ra đã được trông thấy những quang cảnh tráng lệ như thế, khác nào như cái bài học của đời trước khuyên cho đời sau càng ngày càng làm tốt làm đẹp mãi lên, khiến cho vui lòng hởi dạ mà dũng dược [7] tinh tiến biết dường nào! Cớ sao cũng một kiếp người mà lại sinh ra giống khoẻ giống yếu, giống mạnh giống hèn, để cho khách du quan mỗi lần nghĩ đến cái câu “ưu thắng liệt bại” ở đời, bỗng dưng chạnh mối thương tâm, mà tấc dạ đỗ quyên những khắc khoải đòi hồi!…
Cung Louvre từ đời các vua ở cũng đã đặt làm sở bảo tàng rồi. Ngày nay thì ở trong chia ra làm bảy kho, có thể gọi là “thất khố bảo tàng”: 1/ Kho các đồ cổ Hi Lạp và La Mã, phần nhiều là các tượng đá cả; 2/ Kho các bức họa và bức vẽ; 3/ Kho các đồ cổ Đông phương và đồ gốm về cổ đại; 4/ Kho các đồ chạm và tượng về trung cổ, đời Phục Hưng và cận đại; 5/ Kho các đồ mĩ thuật về Trung cổ, đời Phục Hưng và Cận đại; 6/ Kho các đồ cổ Ai Cập; 7/ Kho các đồ cổ về hải quân.
Trong bảy kho ấy có kho họa là quý nhất và nhiều nhất, toàn là những bức không có hai ở trong thế giới. Chia ra từng phái (écoles), bày thành từng gian, theo loại mục như trong họa học sử Thái Tây. Có phái nước Pháp, phái nước Ý, phái nước Tỉ (école flamande), phái nước Hoà, phái nước Tây Ban Nha, phái nước Đức và phái nước Anh; lại một phái riêng các danh sư ở thành Venise ngày xưa (école vénitienne). Đi qua một lượt các gian cũng gọi là thu được cái hình ảnh mường tượng về các thời đại và các môn phái trong nghề họa Âu châu. Lấy con mắt phàm của mình mà xem, không mong biết được hơn nữa. Đến trước bức họa nào nhìn đến tên cũng thấy là tên một danh gia mình đã từng đọc ở trong sách. Về phái nước Pháp là phái nhiều nhất, thì nào là: Poussin, Claude Lorrain về thế kỷ thứ 17; Watteau, Fragonard, Greuze, Chardin về thế kỷ thứ 18; David về đời Đại Cách mệnh; Ingres, Delacroix, Millet, Corot về thế kỷ thứ 18. - Phái nước Pháp, trước thế kỷ thứ 17, vào hạng gọi là các danh sư tiền cổ (les primitifs) thì có ít lắm, chỉ có mấy bức của François Clouet về thế kỷ thứ 16 là có giá trị hơn nhất. Như thế thì nghề họa ở nước Pháp cũng chẳng lấy gì làm cổ lắm, sánh với nghề họa nước Tàu ngày nay còn giữ được những bức thuộc về thế kỷ thứ 4 thứ 5, như của Kou K’ai Tche (Cố Khải Chi), kém xa nhiều. Phái nước ý thì có những bức của Fra Angelico, Pérugin, Léonard De Vinci (vẽ hình mĩ nhân đề là La Joconde, bức này có tiếng lắm, năm trước bị ăn trộm, rồi lại tìm được), Le Corrège; riêng về phái thành Venise bày hẳn một gian thì có Titien, Véronèse, Le Tintoret. Phái Tây Ban Nha, có ít bức thôi: Le Greco, Velasquez, Murillo, Goya, v.v… Về phái nước Tỉ và nước Hòa thì nhiều lắm, những bức có tiếng nhất là của Rembrandt, Rubens, Van Dyck, Franz Hals; - Phái nước Đức có ít thôi: Holbein, Kauffmann, Durer, v.v. Phái Anh cũng vậy: Lawrence, Reynolds, v.v…
Ngoài những bức chia ra các môn phái như trên, khiến cho nhà khảo về họa học dễ theo thời đại lưu phái mà xét, lại còn nhiều những bức thuộc về di sản của mấy bậc phú hào bình sinh sưu tập được, đến khi chết tặng cho nhà nước để vào bảo tàng, như Legs Duchatel, Collection Chauchard, v.v..., lắm bức quý lắm.
Kho tượng cổ thì phần nhiều là những tượng đá của Hi Lạp La Mã, các nhà bác học đào được ở dưới đất, có cái sứt vỡ cả, nhưng hình thể tuyệt đẹp. Đẹp nhất là tượng nữ thần Vénus ở đảo Milo, để trần một nửa người, gẫy mất hai cánh tay, người Tây cho là thân thể người đàn bà đến thế này là tuyệt xảo, tạo vật vị tất đã nặn được hình người nào đẹp như thế. Tượng này của Hi Lạp, thuộc về thế kỷ thứ 4 trước Giatô giáng sinh, mãi đến năm 1820 người ta mới đào được ở dưới đất lên, cạnh làng Castro ở đảo Milo. Còn một pho tượng nữa cũng cho là kiệt tác của nghề chạm Hi Lạp, nay sứt vỡ cả, gọi là tượng “Thần Chiến thắng” ở Samothrace, hình người đàn bà có cánh, vẫy cánh bay ở trên cái thuyền trận, nhưng đầu và một cánh đã gẫy, mất, và cái thuyền cũng không còn hình nữa, thế mà người Tây khen là hình tượng sự chiến thắng một cách hùng tráng vô cùng.
Nghề tượng ở nước Pháp thì từ thế kỷ thứ 17 cho đến ngày nay không thiếu một người nào, bắt đầu từ ông Puget cho đến ông Carpeaux.
Còn những gian đồ cổ của Á châu (chỉ về đất Tiểu á Tế á [8] nhiều, còn về á Đông thì có một ít đồ gốm Tàu, Nhật và Xiêm của ông Grandidier đem về năm xưa và một mớ những đồ họa và đồ chạm của ông Pelliot đem ở Tân Cương - Turkestan - bên Tàu về), đồ cổ về Ai Cập, Phi châu, v.v. chỉ đi qua thôi không xem kỹ.
Duy đến năm cái phòng lớn bày toàn những đồ gỗ và những tấm thảm của Pháp về các đời trước, không thể không dừng lại xem kỹ một lượt. Có đủ các thứ đồ về đời vua Louis thứ 14, 15, 16, trông thật là choáng mắt. Lại đẹp hơn và quý hơn nữa là nơi gọi là Galerie d'Apollon, là một cái điện dài, quy mô hùng vĩ (hơn 60 thước dài, ngót 10 thước ngang, cao 11 thước), trang sức tuyệt đẹp (có những bức họa sơn về tứ thời, về buổi sớm, buổi chiều, về các tích thần tiên Hi Lạp, v.v…); trong điện bày toàn những đồ vàng, đồ sứ, cùng những kim cương bảo thạch, quý giá vô cùng. Có một hòn kim cương gọi là Le Régent (ông Nhiếp chính), người ta cho là suốt trong thế giới không đâu có hòn kim cương nào to và đẹp bằng, nặng 136 carats, trị giá 12 triệu.
Đi xem qua một lượt như thế, mà cũng mất ba giờ đồng hồ, vừa đến giờ đóng cửa nghỉ trưa mới ra về. Định hôm nào đến một buổi xem riêng về các bức hoạ cho kỹ hơn một chút, chứ như hôm nay sơ lược quá.
Xét ra những bức họa cổ ở viện bảo tàng Le Louvre này, người nước Pháp lấy làm quý báu vô cùng. Có một hội những nhà ái mĩ, gọi là “Hội các bạn sở Louvre (Société des Amis du Louvre) lập ra để giúp nhà nước giữ gìn các bức cổ họa ấy, và tìm cách sưu tập những bức chưa có, cùng mua thêm cho nhiều ra. Lại người ngoại quốc đến nghiên cứu về nghề họa ở đây cũng đông lắm. Có người đem giấy bút, bắc giá vẽ, ngồi mà phóng [9] những bức cổ họa, cứ ngày hai buổi, có khi đến hàng tuần hàng tháng. Sáng hôm nay gặp hai người Nhật Bản đến phóng như thế. Lại mỗi tuần lễ có một ngày các ông giáo mỹ thuật đến diễn thuyết và bình phẩm các bức họa cho người đến xem nghe. Những buổi có diễn thuyết như thế thì phải biên tên trước và nộp tiền mới được vào xem. Vào xem những ngày thường như hôm nay thời không mất tiền, nhưng nghe nói chính phủ đương định đặt một cái thuế vào xem các sở bảo tàng công, sắp thi hành nay mai. Trong sách ông Raffaelli có nói rằng: “Nếu đặt ra cái lệ những ngày nào vào xem sở bảo tàng phải trả tiền thật đắt, thời bấy giờ thiên hạ mới hiểu rằng được xem những cái kỳ quan như thế này, đã phải bao nhiêu công phu mới tích lũy được, mà bày ở trong một nơi cung điện như thế này, là một sự khoái lạc biết dường nào!” Song lại có kẻ bác rằng làm như thế không được bình đẳng, người có tiền đã đành, còn người thường dân, người nghèo, không cho người ta được hưởng cái thú mĩ thuật hay sao? Nghe đâu chính phủ muốn châm chước hai phương diện, định đặt ra lệ lấy tiền, nhưng trừ ngày thứ năm và ngày chủ nhật cho vào không.
Ngày hôm nay thứ năm có diễn ban ngày ở rạp Comédie Française(bây giờ người ta thường gọi là Théâtre Française, hay là Française không thôi). Cơm trưa xong đi lấy vé vào kịp 1 giờ 1/2 vào xem. Những buổi diễn ban ngày như thế này là để cho học trò các trường và các nhà nền nếp không hay đi chơi buổi tối, cho nên thường diễn những bài kịch thuộc về cổ điển, nghĩa là hoặc là bài cổ hẳn, như Corneille, Racine, Molière, v.v., hoặc là bài mới nhưng kết cấu theo lối cũ, có cái ý tứ, cái phong vị cũ, chứ không bạo quá như các bài tối tân ngày nay (thí dụ bài Nói chuyện gì với các bà của Tristan Bernard mình mới xem hôm nọ). Buổi nay diễn bài Ông cố Constantin, hí kịch có ba hồi, do hai ông Henry Crémieux và P. Decourcelle trích ở bộ tiểu thuyết L'abbé Constantin của L. Halévy. Chuyện cũng hay. Đại khái như thế này: Cố Constantin là một người hiền hậu, coi xứ Longueval. Đấy có một cái phủ đệ, chủ cũ sa sút, vừa mới bán cho hai người đàn bà Mỹ giàu lắm, là Scott phu nhân và em gái là Bettina Percival tiểu thư. Hai người dọn đến ở đấy, trước tiên lại thăm ông cố. Thiên hạ cũng có đồn rằng tung tích làm giàu của hai người Mỹ có điều ám muội, nhưng mà người tử tế, nhã nhặn, lại có tiền sẵn trong tay, thời chuyện gì mà không che đi được. Vậy hai người đến thăm nhà đạo viện, cúng nhiều tiền bạc để cố giúp cho kẻ nghèo, rồi làm thân ở lại đấy ăn cơm tối. Cố bấy giờ trong nhà có một người cháu tên là Jean Raynaud, hiện làm quan một pháo thủ, người đẹp trai lắm, Bettina tiểu thư trông thấy cũng động tình; ăn xong vui vẻ, ca xướng một lúc, rồi hẹn một tuần lễ nữa mời cả ông cháu vào phủ uống rượu. Chuyện sau thế nào, đoán cũng đủ biết: quan một với tiểu thư hai người có tình với nhau, tiểu thư thì chỉ dốc một lòng muốn lấy quan một, nhưng quan một còn giữ ý, vẫn ngần ngại, sợ mang tiếng là người tham của. Đương khi ấy lại thêm một chuyện rắc rối, là có một bà Lavardans phu nhân, có người con trai tên là Paul, là một tay phá gia chi tử, bà cố vận động để hỏi tiểu thư cho chàng. Bà lại khéo lấy lòng được bà chị tiểu thư là Scott phu nhân. Tiểu thư còn chống lại chưa thuận, nhưng quan một Raynaud không tự quyết, lại có ý ghen, muốn đâm ngang để phá đám hẳn. Bấy giờ tiểu thư mới tức mình, một hôm nhân có tiệc, thuận để cho chàng kia “nhẩy đầm” với mình. Bà mẹ chàng thừa cơ mới phao tin lên rằng hai bên đã thuận lấy nhau rồi.
Quan một phát phẫn, quyết chí đi theo quân ngay. Nhưng trước khi đi đến giáp mặt với chàng kia, hai bên nói mát nhau, rồi đến cãi nhau, sau đến đem nhau ra đấu gươm, nhưng may không bên nào bị thương cả. Bấy giờ tiểu thư nghĩ lại, biết rằng quan một thực có tình với mình, chỉ vì sợ mang tiếng tham của nên không dám hỏi làm vợ, tiểu thư bèn tự mình tuyên bố ái tình, và nói khéo đến nỗi khiến cho quan một phải nhận lời. Thế ra người chỉ vị tình, không tham của, được cả của lẫn người; còn chàng kia chỉ tham của, không có thực tình, thành ra xôi hỏng bỏng không…
Bài này diễn khéo lắm, nhiều đoạn rất cảm động. Vai Scott phu nhân, bà Sorel đóng, bà là một vai đào có tiếng ở rạp Théâtre Française, giọng nói lơ lớ hệt như giọng người Mỹ nói tiếng Pháp, buồn cười lắm.
Nhân đi xem qua trong rạp hát, thấy vô số những tượng cùng tranh các nhà danh kịch danh ưu ở nước Pháp từ xưa đến nay. Vì rạp này là một rạp cũ nhất ở thành Paris, năm 1900 bị cháy nên mới trùng tu lại. Ông Molière khi xưa thường ra trò ở đây, nên có khi gọi là “nhà ông Molière” (la maison de Molière). Trong phòng khách có tượng ông Voltaire của Houdon chạm, lại có một cái lò sưởi có tượng “Các con hát đặt vòng hoa lên đầu ông Molière”; còn những tượng khác nữa nhiều lắm, không biết đâu mà kể.
Xem hát về, nhận được ba cái thư ở nhà sang. Tin tốt cả.
Tối ra ga Lyon đón anh N. B. N. ở Marseille lên.
Thứ sáu, mồng 9 tháng 6
Quan Thuộc địa Thượng thư Sarraut có viết giấy xin phép cho các phái viên Nam Bắc kỳ vào xem một nhà “băng” lớn ở Paris, là nhà Crédit Lyonnais. Nhà này ở đường Italiens, là một nhà “trữ kim ngân hàng” (banque de dépôts), lập ra từ năm 1863, trước ở Lyon, sau chuyển ra Paris, nay có chi điếm không những ở khắp các tỉnh lỵ ở nước Pháp, mà lại ở khắp cả các đô thành lớn trong thế giới nữa. Vào trong nhà băng này như vào một cái thành phố lớn, các phòng làm việc hai bên như hai dẫy phố, lại đường ngang, ngõ dọc, từng dưới, từng trên, thật là mê li, không có người dẫn đường thì lạc. Nhà băng có phái mấy người đưa đi từng khu từng sở mà cắt nghĩa rõ ràng; lại cho xem các tủ bạc, các hầm để bạc nữa; thật là kiên cố vô cùng. Đến khi ra về, lại biếu mỗi người một quyển tiểu sử về nhà Crédit Lyonnais, in năm 1913, hồi làm lễ ngũ thập chu niên của nhà băng. Xem cách sắp đặt và quản lý một nhà ngân hàng lớn như thế này, thật không khác gì cách cai trị một nước vậy.
Chiều hôm nay trời mưa, không muốn ra ngoài nữa, bảo chủ trọ dọn đồ ăn trong phòng, mấy anh em đánh chén với nhau.
XIII.
Thứ bảy, mồng 10 tháng 6.1922
Các ngài phái viên Nam kỳ xử với thượng quan thật là khéo quá. Những cách thù phụng như thế, tự mình không mấy khi nghĩ đến, hoặc có bao giờ cũng là bất đắc dĩ, vì lấy làm chẳng hay ho gì. Nhưng mình không nghĩ đến, may đã có các ngài nghĩ cho. Số là các ngài định đặt một bữa tiệc trọng thể để đãi quan Thượng thư Sarraut và ông nghị viên Nam kỳ Outrey. Các ngài đã sửa soạn cả rồi, bèn bảo cho anh em Bắc kỳ biết để dự vào một phần. Tiệc định đặt ở một hiệu cao lâu lớn ở Versailles. Thế là mình nhân tiện lại được đi xem Versailles một lần nữa.
Có ăn tất phải có nói, đặt tiệc trọng thể như thế, tất phải có “đít cua”. Ông L. K. N [10] là ngài phái viên Nam kỳ cao tuổi nhất, có đọc một bài tán tụng quan Thượng thư và ông nghị viên, không nhớ nói những gì nữa. Quan Thượng thư trả lời lại, có ý vỗ về, khuyên lơn, cũng không nhớ rõ những câu gì, nhưng nói hùng hồn lắm.
Tiệc xong có chụp ảnh làm kỷ niệm.
Nhân tiện ở cả buổi chiều đây, để xem điện Versailles một lần nữa cho kỹ hơn.
Trước lên xem lại hai lầu “Trăm Gương” và “Trăm Trận”, các phòng của vua Louis thứ 14, 15, 16, ở trong cung chính, rồi ra xem các cung Đại Trianon và Tiểu Trianon, ở trong ấy các phòng bày biện như sinh thời các vua chúa. Ngày nay trông còn rực rỡ như thế, huống đương thời thì lộng lẫy biết bao!
Xem xong các cung rồi ra dạo chơi ngoài ngự uyển, đi lan man đến hai ba giờ đồng hồ. Chợt đến một chỗ, như hình cái làng lạc vào ở giữa vườn ngự uyển. Giở sách ra xem mới biết chỗ này tức là cái “xóm quê” (le hameau paysan) của bà phi Marie Antoinette dựng ra ở cạnh cung để thỉnh thoảng ra ở đấy giả làm cách nhà quê. Các bà sung sướng quá, không được biết cái thú thôn quê là gì, nên phải bịa đặt ra thế. Nhưng biết một cái thú quê chưa đủ, phải biết cả cái khổ sở, cái khó nhọc dân nhà quê nữa. Nghe nói hồi bấy giờ, các cung phi, các công chúa, những buổi ra ở “xóm quê” cũng làm lụng như người nhà quê, nấu bếp, vắt sữa, v.v…, nhưng làm chơi với làm thật nó vẫn khác nhau lắm.
Đi chơi trong vườn này có cái vẻ êm đềm lặng lẽ; chim kêu, gió thổi, cành cây sột sạt, lá cây lác đác, nước chẩy róc rách, thật là cảnh đìu hiu, bỗng thấy lòng quê lai láng.
Bóng đã xế chiều, gió đã thấy lạnh, mới bước ra về; về tới Paris vừa tối.
Tối đi xem hát ở Opéra. Nhà Opéra này là nơi ca trường sang trọng nhất ở Paris. Hôm nay có Hội ái hữu các người làm việc Sở Xe lửa mở một cuộc diễn kịch để quyên tiền cho Hội, mời quan Thủ tướng Poincaré đến chủ toạ. Cơm tối rồi mới đi lấy vé, vé đã gần hết cả. Hôm nay diễn bài nhạc kịch Faust, soạn theo bộ tiểu thuyết trứ danh của nhà đại văn hào Đức Goethe, ông CH. Gounot nước Pháp đặt ra bài đàn. Lối nhạc kịch này thì mình không sành âm nhạc, không thuộc ca điệu, không sao hiểu hết; người mình nghe ả đào hát, nhiều khi cũng không hiểu được cả, nữa là nghe người Tây hát theo giọng điệu của người ta. Xem ra chính người Tây đi Opéra lắm khi nghe cũng lỗ mỗ như mình. Nhưng mà cảnh bày đẹp, con hát lịch sự, lại cái thanh âm dáng điệu thật khéo, dẫu người không sành cũng sướng tai vui mắt. Bài kịch có năm hồi, mỗi hồi nghỉ lại có họa những khúc danh nhạc xưa nay, như của Massenet, Saint Saens, v.v…
Giá ở Opéra này đắt hơn các rạp khác: một ghế ở sàn (fauteuil d'orchestre) giá 30 quan (tính ra bạc 6 quan là 5 đồng bạc bên ta). Nhưng khách đây toàn là khách lịch sự cả, vào xem phải mặc lễ phục, như đi dự tiệc buổi chiều vậy. Lệ đó ngày xưa là nhất định và nhất luật cả, nhưng ở một nước dân chủ lấy bình đẳng làm trọng, không khỏi có người dị nghị, nên bây giờ phải đặt riêng mỗi tuần lễ mấy ngày, ai vào xem ăn mặc thế nào cũng được. Nhưng nghĩ cũng lạ, những buổi được ăn mặc tự do như thế, thiên hạ đến xem lại ít, và những buổi phải có lễ phục mới được vào thì khách lại đông. Thế mới biết người ta tuy ngoài miệng nói rằng muốn bình đẳng, mà trong bụng bao giờ cũng muốn đặc biệt với kẻ khác. Cũng có lẽ là đặt ngày riêng như thế thì người nào đi vào ngày không phải ăn mặc lễ phục tự cho là không sang trọng, nên ít người muốn đi. Muốn điều hòa sự bình đẳng với cách lịch sự thật cũng khó thay.
Chủ nhật, 11 tháng 6.1922
Hôm nay nghỉ nhà, không đi chơi đâu.
Các phái viên Nam Bắc kỳ định cùng nhau tổ chức một cuộc du lịch các miền chiến địa cũ. Định trước đi Origny en Thiérache, là quê Đức cha Bách Đa Lộc, làng này bị tàn phá cả, Nam kỳ đã quyên tiền cho để trùng tu lại; rồi đi ra Soissons, Reims, Verdun, là những miền chiến tranh dữ nhất mấy năm trước. Ước nhau đến sáng ngày thứ ba đi sớm, đã thương lượng với một công ty ôtô chở thuê để đón sẵn ở các ga, rồi đưa đi các trận địa. Họp nhau lại vài chục người đi luôn thể thế này, rẻ hơn là đi riêng một vài người. Các ngài phái viên Lục tỉnh bàn ra trước, mình lấy làm phải lắm, nhận lời ngay. Cứ thực ra thì việc này xướng suất tự quan cai trị E. đầu phái bộ Nam kỳ, nên cũng nhờ một tay ngài sắp đặt hết.
Thứ hai, 12 tháng 6.1922
Buổi sớm đi xem sở Sorbonne, là nơi trường đại học thành Paris ở đấy. Mình đã vào đây mấy lần, một bữa lại nghe diễn thuyết ở đây, nhưng chưa bao giờ đi xem được khắp. Hôm nay nhờ có bộ Thuộc địa đã xin phép trước, các phái viên đến xem được người phần việc dẫn đường và cắt nghĩa tường lắm.
Xét ra sở Sorbonne này có đã lâu lắm, tự năm 1250. Nguyên trước là một trường chuyên về thần học, do ông Robert De Sorbon, là nhà thấy coi việc lễ bái trong cung vua Saint Louis, lập ra. Mười năm sau, trường đã đông học trò; đến thế kỷ thứ 14 thì nổi tiếng khắp Âu châu, về khoa thần học đến các giáo hoàng ở La Mã cũng thường phải theo ý kiến của các thầy Sorbonne. Sau ông tể tướng Richelieu sai Lemercier xây mấy lớp nhà, ngày nay chỉ còn cái nhà thờ lại. Đến trường Đại học bây giờ thì mới dựng từ năm 1885, theo kiểu của ông Nénot. Sách chép bề dài tới 250 thước, bề mặt 83 thước, từng trên và từng dưới có tượng đá hình các khoa học, như Hoá học, Tự nhiên học, Vật lý học, Số học, Sử học, Địa dư học, Triết học, Khảo cổ học, mỗi bức tượng của một tay danh sư chạm. Trên bức phá phong lại có hai tượng lực lưỡng hình Văn học và Khoa học.
Sở Sorbonne bây giờ là nơi trường Đại học Paris, trừ có hai ban Luật khoa và Y khoa là có nhà riêng. Trong sở có ban Văn học (29 khoa) và ban Khoa học (25 khoa); lại có trường Cổ điển, khảo về các sử liệu cũ nước Pháp, viện Cao đẳng nghên cứu, cùng Thư viện của trường Đại học cũng ở đấy. Sinh viên các khoa đến nghe giảng và đến khảo cứu ở đây, có tới 2 vạn người. Độ rầy đã bắt đầu nghỉ hè, nên các lớp vắng dần. Nhân thấy một lớp đương học, người phần việc đưa vào nghe một chốc. Lớp này là lớp quan giáo Schneider đương giảng về mĩ thuật Pháp, nghe đâu là một lớp riêng cho người ngoại quốc đến học mấy tháng hè. Ông giáo đương bình phẩm về mấy bức họa, có chiếu bóng lên cho người nghe xem. - Xong rồi lại vào phòng thí nghiệm của quan Giáo Lapique. Ngài chuyên dạy khoa thực vật sinh lý học; ngài nói buồng ngài làm việc đây chính là buồng ông Paul Bert khi xưa, vì ông Paul Bert trước khi sang làm Thống sứ bên ta có dạy sinh lý học ở trường Đại học Paris. Trong phòng thí nghiệm đây đương có một cô nữ học sinh khảo về các giống rêu đổi sắc; cô trông mặt thông minh và lanh lợi lắm, quan Giáo bảo cô thử cho chúng mình xem, thấy một cây rêu khi ra nắng và khi ở tối đổi sắc hiển nhiên.
Xem xong các phòng học rồi ra đại diễn đường, rộng thênh thang, ngồi được đến bốn nghìn người. Giữa có một bức hoạ to lớn lạ thường, vẽ "Rừng học", của nhà danh hoạ Puvis De Chavannes. Lúc ra về vào xem nhà thờ Sorbonne và mộ tể tướng Richelieu.
Buổi chiều sắm sửa ít đồ hành lý để mai đi chơi sớm.
XIV.
Thứ ba 13 đến thứ năm 15/6.
Ba hôm nay đi cũng đã nhiều đường đất. Bây giờ về mở địa đồ ra tính mới biết cái số cây-lô-mét đã khá to. 8 giờ 50 phút sáng ngày thứ ba ở Paris đi chuyến xe lửa phía Bắc, đến 11 giờ 1/4 tới xã Origny, vừa 192 cây-lô-mét, chạy trong hai giờ rưỡi đồng hồ, tức là mỗi giờ ngót 80 cây (chẳng bù với xe lửa bên ta mỗi giờ không chạy được 25 cây). Bốn giờ kém mười, ở Origny về Soissons, 87 cây-lô-mét, chừng hơn một giờ tới nơi. Ngày thứ tư ở Soissons ra Reims, 55 cây, đi ô-tô, mất 2 giờ đồng hồ (xe này là xe chở khách, ngồi đến 20 người một, nên chạy chậm). Năm giờ rưỡi chiều đi xe lửa tự Reims ra Verdun, 120 cây-lô-mét, đường xe lửa này là đường nhà quê nên chạy chậm, mãi đến 8 giờ rưỡi mới tới nơi. Hôm sau là thứ năm, cả ngày đi xem các trận địa Verdun, đến 6 giờ 50 phút chiều lên xe lửa về Paris, chạy thẳng một mạch 280 cây-lô-mét, 10 giờ 1/2 tối tới nơi. Thế là trong ba ngày đi xe lửa tới 730 cây-lô-mét mà ung dung, còn thừa chán thì giờ để đi vãn cảnh mọi nơi. Giá bên mình phải đi đến bấy nhiêu đường đất trong ba ngày thì chỉ những ngồi trên xe mà hết ngày giờ. Ở đây cách giao thông tiện lợi quá. Nói về xe lửa thì toàn hạt nước Pháp chia ra làm bốn đường chính hoặc thuộc về Nhà nước, hoặc thuộc về công ty kinh lý: là đường phía Bắc và phía Đông (Nord et Est), đường phía Tây (Ouest-), đường Trung Ương và phía Nam (Orléan et Midi), đường Đông Nam (Paris - Lyon - Méditerranée), bốn đường ấy chạy tự kinh đô Paris đến các đô thành lớn. Tiếp với các đường chính đó thì có những đường chà chạnh, chạy khắp các tỉnh thành, các đô thị lớn nhỏ, các châu huyện, cho chí các xã, các ấp lớn nữa. Bấy nhiêu đường chính đường phụ chằng chịt nhau như cái mạng nhện, cứ trông một bản đồ xe lửa ở nước Pháp thì đủ biết. Mà bấy nhiêu đường đều có đối chiếu nhau hết cả, hành khách muốn đi đâu giở địa đồ ra tính trước, sắp sẵn cái hành trình của mình, đến chỗ nào cũng hình như có xe đón, không sai tí nào và không mất thì giờ vậy. Duy những đường xe lửa nhà quê, tức gọi là "xe lửa hàng quận" (chemins de fer départementaux), thời chạy chậm, đỗ ở các ga lâu, cũng như xe lửa bên ta.
Trưa ngày thứ ba đến xã Origny, là quê Đức cha Bách Đa Lộc. Xã này ở giữa trong vòng chiến tranh năm trước, nên bị tàn phá dữ lắm. Nay đã xây dựng lại được ít nhiều, nhờ tiền lạc quyên của Nam kỳ giúp đỡ, nhưng cái dấu vết phá hoại vẫn còn rõ lắm. Nhà thờ đổ nát cả. Nhà thị sảnh (tức là nhà đốc lý), cũng bị đổ, đương chữa lại chưa xong.
Quan Thuộc địa bộ đã có tư giấy cho dân xã biết trước, nên bọn mình đến nơi, cả hội đồng hàng xã, xã trưởng đứng đầu, mặc lễ phục chỉnh tề cả, đã đứng đón sẵn ở sân ga; còn người dân, nam phụ lão ấu, cũng đến đứng đông nghịt cả ga, trẻ con thì cầm cờ tam tài phất. Vì chúng mình đến đây là lấy tư cách kẻ ân nhân mà đến, nên được nghênh tiếp trọng thể như thế. Không biết dân làng đây trước kia họ không biết mình, tưởng tượng người An Nam mình ra thế nào; hôm nay trông thấy xem ý lấy làm lạ, có lẽ họ tưởng mình là một giống kỳ khôi lắm, nay thấy phần nhiều cũng ăn mặc như họ - trừ có mấy ông vẫn giữ quốc phục, - mà xem ra lại ăn mặc óng ả lịch sự, các anh các chị nhà quê chỉ trỏ ra dáng phục lắm.
Khi các phái viên ở xe lửa xuống, phường nhạc trong làng thổi mừng. Rồi ông xã trưởng mũ cao áo dài bước lên đọc một bài diễn văn rất dài, đại khái nói dân làng cảm ơn xứ Nam kỳ đã có bụng tốt giúp tiền cho chữa sửa lại những nhà cửa bị tàn phá, và bữa nay kẻ đồng hương của đức cha D'Adran được nghênh tiếp các ngài đại biểu nước Nam Việt để cùng nhau tỏ tấm lòng ân ái cả hai bên, thật lấy làm mừng rỡ vô cùng. Ông xã trưởng nói xong, ông nghị viên Nam kỳ Outrey bèn thay mặt các phái viên An Nam ứng khẩu nói mấy lời đáp lại, đại khái tỏ cái ý rằng người An Nam giúp tiền cho xã này tu bổ lại, không phải là làm ơn, chính là trả ơn lại đức cha Bách Đa Lộc khi xưa. (Thế mà lúc nãy mình đã tự cao cho là bậc ân nhân rồi! Té ra cái nợ ông Bách Đa Lộc bấy lâu nay ta trả vẫn chưa hết đấy...). Mình chưa được nghe ông nghị Outrey diễn thuyết bao giờ, vẫn tưởng là một tay ngôn ngữ giỏi lắm thì phải. Nghe ông nói hôm nay, lái đi lắp lại, giọng đã không lấy gì làm hùng hồn, lời cũng lại không được chải chuốt lắm, cũng lấy làm lạ. Cho hay cái nghề nói này, không cứ là làm nghị viên mới sành.
"Đít-cua" xong rồi, kèn trống đi trước, dẫn các phái viên ra nhà thị sảnh, đi qua phố chính trong làng, người dân kéo ra xem và đi theo sau đông lắm. Nhiều cô con gái nhà quê dễ coi quá, trông thấy bọn mình cứ cười tít lên, có người bạo lại đến tận bên cạnh mà biếu hoa. Các ông phái viên giá ở đây mấy ngày thì vô số chuyện vui... Đến nơi, các ông hội đồng làng mời phái bộ lên trên lầu, vào buồng hội đồng, trong đã bày bàn ghế, cắm cờ xí trang trọng lắm. Khi mở rượu sắp đụng cốc thì một ông hội viên trong hội đồng làng lại đọc một bài diễn văn chúc tụng; quan cai trị Eutrope là đầu phái bộ Nam kỳ đáp lại, đại khái cũng là xuất nhập cái đầu đề mấy bài diễn trước...
Uống rượu ăn bánh xong rồi, đi dạo chơi trong làng. Làng này trước khi chiến tranh chắc cũng là một làng to, nhưng nay đã đổ nát cả, nên không có gì lạ mà xem. Người làng có nghề đan rổ (vannerie) khéo lắm. Vào xem các nhà tư, thấy đàn bà con trẻ ngồi làm cũng như bên ta. Có một cái xưởng lớn của một nhà phú hào ở đây chuyên làm đồ đan để chở bán đi các nơi, ông chủ có mời phái bộ vào xem khắp trong xưởng, từ nhà máy cho đến các kho, cách sắp đặt rất chỉnh đốn, nhưng hôm nay nhân trong làng có mở hội đón phái bộ An Nam nên thợ nghỉ cả, không được xem cách làm bằng máy như thế nào. Đoạn rồi xem nhà thờ, và nhà cũ của đức cha Bách Đa Lộc, nay sửa làm như một cái bảo tàng viện nhỏ để họp những đồ kỷ niệm về Đức cha. Nhà thấp bé, ở ngay sau nhà thờ, nên trong khi chiến tranh không bị hại mấy. Ở trong vẫn còn giữ quy mô như hồi xưa, cái buồng xúc xích nhỏ hẹp, đây là chỗ Đức cha sinh, kia là buồng của cha mẹ nằm, nọ là buồng các anh các chị. Ở phòng khách thì có bày những đồ thường dùng của Đức cha hồi bình sinh, quyển kinh, tràng hạt, mấy cái lọ cổ, v.v... Lại có một cái bằng phong tặng của Đức Cao hoàng ta lồng kính, nghe đâu là chính nguyên bản; và nhiều những tranh cổ và sách cổ. Sở "bảo tàng" này giao cho ông cố trụ trì ở nhà thờ bên cạnh coi, có một hội khảo cổ về Đông Pháp ở Paris trông nom, hội này có phái riêng một người đại biểu đến để chỉ dẫn cho phái bộ xem. Người đại biểu ấy chính là quan thanh tra thuộc địa hưu trí Salles, bên ta nhiều người biết, vì trước ngài đã có công với các hội học và hội "Trí Tri" ở Nam Bắc kỳ nhiều lắm.
Chuyện vãn một hồi, rồi cáo biệt các quan viên hương chức, 3 giờ 50 phút, lên xe lửa về Soissons. Mấy giờ trước, khi mới trên xe xuống, hai bên còn như bỡ ngỡ, nay từ giã nhau trong sân ga, tình khứ lưu [11] xem ra có một đôi chút vậy. Lúc trước còn thuần là sự lễ nghi, lúc này đã hơi có lòng âu yếm. Kẻ Đông người Tây, gặp nhau ở trong khoảnh khắc, mà biệt nhau không đến nỗi vô tình, thế thì biết rằng dân Pháp cũng là một dân có bụng, mà người Nam không phải là giống không tình. Cứ như thế thì hai giống ăn ở với nhau lâu năm, tất phải thương yêu nhau lắm thì mới phải. Cớ sao các nhà chính trị hai nước cứ thường phải hô hào, cổ động luôn về sự Pháp Việt tương thân, Pháp Việt đề huề, tựa như sự đề huề, sự tương thân ấy chửa được thập phần mĩ mãn vậy? Không nói về đường chính trị, nó lại biệt ra một câu chuyện khác; nói về sự giao tế thường, muốn có cảm tình, tất phải bình đẳng; không có bình đẳng thời tình người dưới đối với người trên không ngoài sự sợ, tình người trên đối với người dưới không ngoài sự thương; thương với sợ, ngoài tình cốt nhục trong gia đình, không đủ gây nên sự cảm tình đích đáng. Cho nên muốn cho hai giống đề huề thân ái với nhau, phải làm thế nào cho sự cách biệt bớt dần đi, dẫu không thể tiêu được hẳn, cũng không đến nỗi xa nhau như thiên nhưỡng [12] vậy. Cứ xem người Pháp ở bên Pháp này, đối với người ta sang đây, tuyệt nhiên không có lòng sai kỵ [13], không có ý cách biệt gì cả, nên mối cảm tình dễ bén và dễ thân.
Khi xe lửa đã chạy, trông lại nhà ga vẫn còn có người phất khăn vẫy, như quen thuộc nhau đã lâu vậy.
Chiều tối đến Soissons, nhưng hãy còn đủ sáng để đi dạo chơi ngoài phố được một vòng. Cả vùng này ở trong vòng chiến địa mấy năm trước, nên ngồi trong xe lửa trông ra chỉ thấy những đồng điền trơ trụi, nhà cửa đổ nát, phong cảnh tiêu điều. Ấy là đây còn vừa đấy, chứ đến gần Reims và Verdun lại thảm hơn nhiều nữa. Ngay thành phố Soissons này, mấy lần bị quân Đức chiếm cứ, cả thảy đến ba mươi tháng trời; trong khi ấy thì quân Pháp ở ngoài bắn vào, đến khi quân Pháp đuổi được quân Đức đến đóng thì lại bị quân Đức bắn lại. Có toà nhà thờ và toà thị sảnh là hai nơi đẹp nhất, nay tan tành cả. Phố nào cũng có nhà đổ, vôi gạch chất đống, chưa kịp dọn. Ngay trong thành phố còn có dấu vết những hầm hố của quân Đức và quân Pháp đào để chống nhau.
Tối hôm nay ăn và ở trọ ở nhà khách sạn "Kim Thập tự" (Hôtel de la Croix d'Or): nhà này trong khi chiến tranh cũng bị hư hỏng mất ít nhiều, đã chữa lại, nay là nơi khách sạn lớn nhất trong thành phố. Khi ăn cơm được mấy chị hầu bàn cũng coi được, ứng đối rất hoạt, lại được uống thứ rượu cidre ngon lắm, ai nấy đều vui vẻ thoả thích; ăn xong rồi có người không muốn lên buồng vội, còn ở lại, phòng ăn, uống rượu mạnh nước ngọt để nói chuyện cà kê với các cô hàng...
Sáng hôm sau đã có xe ô tô của công ty Le Bourgeois đến đón đi Reims. Thành Soissons trông đã tiêu điều mà thành Reims này lại còn tiêu điều hơn nữa. Nghe nói trong thành phố có một vạn hai nghìn cái nhà, mà bây giờ tính ra không được năm trăm cái còn đứng vững. Nhưng trông thảm nhất là cái nhà thờ. Nhà thờ thành Reims là một nơi danh thắng đệ nhất của nước Pháp, về đường mĩ thuật, về đường lịch sử, đều có giá trị đặc biệt. Về đường mĩ thuật thời là một cái kiểu nhà thờ lối gothique đẹp nhất trong thế giới. Suốt từ trên ngọn tháp cho đến dưới chân tường đều chạm trổ soi lồng cả. Người ta thường nói nhà thờ thành Reims chính là một tấm "đăng ten" bằng đá; thật thế. Tấm "đăng ten" ấy trong bốn năm chiến tranh đã chịu không biết mấy vạn viên trái phá của Đức, nên chỗ thì rách toạc, chỗ thì nát nhầu như tờ giấy lộn, không còn ra hình thể gì nữa.
Những khách ái mỹ [14] trong thế giới cho sự tàn phá ấy là cái tội ác đệ nhất của người Đức, dẫu thiên vạn cổ không bao giờ chuộc lại được. Về đường lịch sử thì nhà thờ này rất có quan hệ với vận mệnh nước Pháp đời xưa. Những vua các tiền triều mỗi khi lên ngôi thường đến làm lễ "gia miện" ở đây, nghĩa là để cho một vị Đức cha thay mặt Giáo hoàng đặt cái vòng mũ đế vương lên đầu. Nước Pháp xưa nay vẫn có tiếng là "con gái cả của Giáo hội Gia tô", tức là nước có thế lực nhất trong các nước sùng đạo Gia tô, nên lễ "gia miện" ấy quan hệ lắm. Đời đời các vua đã gây dựng cho nước Pháp được như bây giờ đều "chịu chức" ở đây cả, nên chốn này quốc dân coi như một nơi bảo tàng của linh hồn tổ quốc. Có người nói cũng vì thế nên quân Đức cố ý bắn cho đổ. Chẳng hay người Đức quả có cái ý hiểm độc vô ích như thế không, vì nghe đâu nhà quân Pháp ngay khi thành Reims mới bị vây đã tuyên cáo rằng nơi nhà thờ này không dám dùng gì về việc binh cả, như thế mà bắn thì thật không ích gì cho quân Đức. Song phải biết rằng phàm đại bác đứng xa mà phóng pháo vào một nơi tỉnh thành nào, cốt để triệt hạ cả thành trì, thời không thể không lấy những lầu cao tháp lớn làm đích hay là làm cữ, và cho dẫu có muốn tránh nữa cũng không thể sao được; có lẽ bởi thế nên người Đức đến vây thành Reims bất đắc dĩ phải lấy hai cái tháp nhà thờ là nơi cao nhất trong thành làm đích hoặc làm cữ cho pháo binh mình, chứ nước Đức cũng là một nước có văn hoá, há lại không biết trọng mỹ thuật mà cố ý làm một sự phá hoại vô ích như vậy.
Dù thể nào mặc lòng, nhà thờ thành Reims nay bị hủy hoại như vậy, thật là một sự thiệt to cho cái kho mỹ thuật chung của thế giới. Có người thương tiếc đến than khóc, buồn rầu, coi như một cái tang chung cho nhân loại văn minh, vì bây giờ dẫu phí bao nhiêu công, bao nhiêu của để tu bổ cũng không bao giờ khôi phục được lại hoàn toàn cái kỳ công có một không hai của nghề kiến trúc trong thiên hạ đó.
Dạo qua các phố phường, trông thấy cái cảnh nhà đổ tường xiêu mà thương tâm. Ấy là trong ba năm nay đã sửa sang xây dựng lại được nhiều, chứ hồi mới chiến tranh xong, trông còn thê thảm hơn nữa.
Nay giữa trong khi binh lửa đương nồng nàn thời người dân ở đây chạy trốn vào đâu? Thành Reims này trước khi chiến tranh có tới 11 vạn 5 nghìn người ở, không lẽ bấy nhiêu người thiên cư đi cả nơi khác được, mà cố ở lại cũng không sao tránh khỏi sự nguy hiểm được, vì trong bốn năm giòng, quân Đức đóng ở chung quanh thành, cách vài ba cây-lô-mét, cứ bắn luôn, không ngơi lúc nào, cố ý triệt hạ cả thành trì mới nghe. May sao ở dưới đất thành Reims lại có một cái thành phố nhỏ, cách mặt đất từ 15 đến 20 thước; thành phố ngầm ấy là hầm rượu của công ty Pommery, công ty này chế rượu "sâm banh" đã có tiếng trong thế giới. Hôm nay nhân tiện được phép vào xem trong hầm, quả nhiên là một thành phố thật, mà một thành phố dài tới 18 cây-lô-mét, trong có đường ngang lối dọc, ngã ba ngã tư, đều có biển đề tên cả, mà rộng thênh thang, giá hai cái ô tô tránh nhau được. Ấy trong khi ở thành phố trên bị phóng pháp dữ quá thời trừ đàn ông có phần việc mạo hiểm phải ở trên, còn bao nhiêu đàn bà, con trẻ, người già, đều xuống ở dưới hầm cả, đặt nhà thờ để lễ bái, nhà trường để dạy học, y như trên mặt đất.
Xét ra nghề làm rượu "sâm banh" này thật cũng công phu, không trách rượu bổ mạnh và quý giá như thế. Lấy thứ rượu "vang" trắng thượng hạng mà còn phải để cho lắng cặn trong mấy năm, sang đi lọc lại biết mấy mươi lần, rồi mới thành ra thứ "bồ đào mĩ tửu" là rượu "sâm banh" này. Bởi thế nên cần phải có hầm rộng để chứa được nhiều và được lâu, càng lâu càng quý. Người ta nói trong dẫy hầm này hiện chứa có tới 16 triệu chai, chia ra làm nhiều hạng, hạng để được một năm hai năm, hạng để được dăm mươi năm, mười lăm hai mươi năm, cứ cách mấy năm lại một lần sang chai cho thật hết cấn cặn, thật trong sạch, chỉ còn như cái tinh túy rượu mà thôi.
Xem hầm rượu mất cả buổi sáng, trưa về khách sạn ăn cơm, rồi liền lên ô tô đi thăm các trận địa và đồn lũy ở chung quanh thành. Công ty ô tô vừa cho thuê xe, vừa phái một người hướng đạo đi đến đâu chỉ dẫn và cắt nghĩa đến đấy. Trông anh chàng này không khác gì một anh cung văn ở bên ta, có một bài học đã thuộc lòng, đọc đi đọc lại không biết đến mấy trăm lần rồi, nên tựa hồ như không còn có tinh thần nghĩa lý gì nữa. Cứ cách năm trăm thước, hay một nghìn thước, anh ta lại dừng xe lại, quay mặt lại mình, rồi hét lên: "Thưa các ngài, chỗ này là thế này, chỗ kia là thế kia", nói nhai ra từng chữ như người kêu đường. Mình không biết, được người chỉ dẫn cho thế không phải là không có ích, nhưng nghe mãi một anh nhai chữ như nhai bã mía, truyền âm như máy lưu thanh [15] ấy, cũng chán thay!
Hai bên đường toàn là nơi chiến trường cả, bây giờ cỏ đã mọc xanh rì, nhưng dưới cỏ còn bao nhiêu xương người chưa thu nhặt được hết. Quan binh đã phải đặt biển yết thị bằng chữ to ở bên đường rằng: "ở đây mỗi tấc đất là một nắm xương. Khách du lãm phải nên dè bước và nếu có bụng tốt nên ngậm ngùi thương xót cho kẻ chiến sĩ đã vì nước liều mình". Có chỗ mấy trăm thước tới nghìn thước toàn những vỏ đạn và dây thép gai chất thành đống, khi nhà quân dọn lại để mà sửa sang đường đi quân lính thường bị hại vì cuốc phải hay đập phải những viên đạn chôn xuống đất mà chưa nổ. Bởi thế người dân ít người chịu ra phá hoang các trận địa cũ để cầy cấy. Người ta đã tính ra cứ rẫy phá được một cây lô mét mỗi năm hơn bù kém chết mất một người vì đạn nổ như thế. Thế là chiến tranh xong rồi mà cái di hại chiến tranh chưa hết.
Đi thăm đồn Pompelle, nơi gọi là "số cao 108" (cote 108), và nơi gọi là "Đường các bà" (Chemin des Dames), toàn là những chỗ đánh nhau dữ mấy năm trước, bây giờ chỉ những gò đống ngổn ngang, hang hốc sâu thẳm, trên phủ một tấm cỏ xanh, dưới che không biết bao nhiêu xương mục, nhưng trông xa tưởng là một đồng cỏ rộng, biết đâu là nơi đạn bắn như mưa, người chết như rạ, vừa mới mấy chục tháng nay! Tạo vật khéo thay, đem cỏ cây mà vùi cái thảm trạng của loài người! Độ vài mươi năm nữa, mà có lẽ cũng không đến thế đâu, rồi những chỗ này sẽ có bò ăn cỏ, người cày ruộng cả. Tạo vật lại lấy cái chết mà gây ra cái sống, theo lẽ tuần hoàn của trời đất, chỉ còn có tấm bia đá hay cây câu rút để nhắc lại cho hậu thế rằng đây là nơi cổ chiến trường đây. Hậu thế hoặc có tay sính văn chương muốn làm một bài "Điếu cổ chiến trường" thời tưởng cũng phải dụng sức tưởng tượng lắm mới tả ra được những cái cảnh gió sầu mưa thảm, đạn lạc tên bay, hay là đêm khuya văng vẳng, quỷ khóc hồn than; lại phải dụng sức suy nghĩ lắm mới lường được cái tâm sự kẻ chiến sĩ: "Hàng ư? chung thân làm nô lệ; chiến ư? phơi xương trên bãi cát" [16]; và muốn kết luận một câu về cái nạn chiến tranh rằng: "Ô hô! ý hi! Thời da? Mệnh da? Tòng cổ như ti, vị chi nại hà? [17] (Than ôi! Thương thay! Là thời hay là mệnh? Xưa nay vẫn thế, biết sao bây giờ?) [18], cũng phải dùng triết lý lắm mới được, chớ cái cảnh cỏ xanh mơn mởn đây, thật không có một chút thảm sầu gì cả; trừ ra... sau này thế giới lại diễn một cái chiến cục kịch liệt hơn để làm trò tiêu khiển cho loài người một phen nữa thì không kể... Nhưng người dầu bày trò đến thế nào cũng không địch nổi với Tạo vật; Tạo vật chỉ phủ một lượt cỏ xanh là che đi hết cả. Ôi! Ông Hóa công vốn vẫn vô tình...

Ghi chú:
[1] In lần thứ hai, thứ ba.
[2] Nghĩ được một điều chưa ai từng nghĩ.
[3] Lược bỏ đoạn diễn nguyên văn tiếng Pháp.
[4] Tức thinh không, nơi hoàn toàn vắng lặng.
[5] Nguyên văn viết chữ vuông, chúng tôi chuyển ra chữ quốc ngữ.
[6] Nói tắt chữ Pháp lan tây, một cách phiên âm chữ France.
[7] Vui vẻ làm việc.
[8] Vùng đất phía tây châu Á.
[9] Mô phỏng, bắt chước.
[10] Lương Khắc Ninh.
[11] Kẻ ở người đi.
[12] Trời và đất.
[13] Sai: ngờ, kỵ: ghen ghét.
[14] Yêu cái đẹp.
[15] Tức máy ghi âm.
[16] Bài Điếu cổ chiến trường văn của ông Lý Hoa đời Đường.
[17] Lược bỏ hai câu viết bàng chữ vuông.
[18] Bài Điếu cổ chiến trường văn của ông Lý Hoa đời Đường.
Nhật ký đi Pháp từ tháng 3 đến tháng 9, 1922
Phần 8
XV.
Thứ năm 15 tháng 6. 1922
Xem xong ở vùng thành Reims rồi, đến 5 giờ rưỡi chiều thời lên xe lửa đi ra Verdun. Đến nửa đường, ở nơi gọi là Saint-Hilaire, phải đổi xe. 8 giờ rưỡi tối mới đến Verdun, mặt trời chửa lặn hẳn, còn trông rõ phố phường, nhưng thật là tàn phá cả. Cũng có ít nhiều nhà mới dựng lên, nhưng nhà cũ đổ nát còn ngổn ngang cả. Thành Verdun này là một nơi yếu tắc (place forte) trấn mặt Đông nước Pháp, nên trong mấy năm chiến tranh quân Pháp với quân Đức đánh nhau ở đây dữ lắm. Thành ở hai bên bờ sông Meuse, địa thế hiểm yếu, chung quanh những tường lũy, những cửa ô, những hầm, những ụ, kiến trúc kể đã kiên cố, nên trong bốn năm trời quân Đức dùng đến một trăm tám mươi vạn người (180.000) hết sức đánh mà không lấy được. Sự chống giữ thành Verdun này, thế giới cho là một cái đại chiến công đệ nhất trong lịch sử. Chung quanh thành Verdun, cách mấy dặm, lại có một dẫy đồn lũy cũng kiên cố lắm, như đồn Vaux, đồn Douaumont, v.v..., sáng mai sẽ đi xem một lượt. Vùng này đã thành một nơi kỷ niệm về chiến tranh, nên khách du lịch ngoại quốc đến đông lắm. Bọn mình vào nhà trọ tên là Le Coq Hardi, thấy người Pháp ít mà người các nước thật nhiều, nhất là người Anh người Mỹ, v.v... Ăn cơm tối, ngủ đấy rồi sáng mai đi xem thành phố và các đồn các lũy.
Định 10 giờ sáng đến thăm nhà thị sảnh thành Verdun, để tỏ lòng kính phục cái hùng uy của các quân tướng Pháp trong bốn năm đã liều sống chết mà chống giữ thành này, khiến cho quân Đức đến thất bại và Đồng minh được toàn thắng. Vậy sáng dậy sớm đi dạo chơi các phố. Chỉ trông thấy quanh mình nhanh nhản những nhà đổ tường xiêu. Song đã có nhiều phố dựng lên nhà mới, hàng quán la liệt, buôn bán sầm uất. Nhờ có khách du lịch các nơi đến đông, nên thành phố đã có cái cảnh vui vẻ. Xem ra đây là chỗ đóng quân, nên có cái khí vị riêng, cái khí vị nhà quân vậy. Buổi sớm hôm nay trời sáng sủa bảnh bao, nên trông phong cảnh không có vẻ tiêu điều như chiều hôm qua mới đến. Ở Verdun này nghe nói có thứ kẹo ngon có tiếng. Anh em đi chơi đã mệt, bèn vào hàng kẹo mua mỗi người mấy trăm "gam". Ở nơi chiến địa có khác, đến kẹo cũng nặn ra hình súng, đạn, cối xay, đại bác. Ai nấy ăn dăm mười viên "trái phá", rồi trước mười giờ về trọ nghỉ để đi ra nhà thị sảnh.
Nhà thị sảnh này cũng bị tàn phá, nay mới chữa qua lại. Đến nơi có ông thị trưởng ra tiếp ở trong phòng hội đồng. Quan cai trị Eutrope thay mặt các phái viên An Nam nói mấy lời để tỏ lòng cảm phục dân thành này vì sự can đảm chịu nạn trong bấy lâu. Ông thị trưởng trả lời kể cái cảnh khốn nạn của dân Verdun trong bốn năm ròng rã không mấy ngày là không nhận được mấy trăm mấy nghìn quả phá của quân Đức ở tứ phía bắn vào. Đoạn rồi ông đưa cho xem một tấm biển gắn những huy chương của các nước tặng thành Verdun: Bắc đẩu bội tinh của nước Pháp, "mền đay" quân công của nước Anh, nước Nga, nước Ý, nước Nhật, v.v... Khi ra về cái phái viên có để lại mấy trăm quan để quyên vào việc trùng tu thành Verdun.
Ở nhà thị sảnh ra, liền đi ra nơi nghĩa địa Faubourg Pavé ở ngoài thành. Đây có sáu nghìn cái mả những lính tử trận, là những người còn nhận được xác chôn tử tế, chứ phần nhiều thời sau mới nhặt được xương, rời rạc mỗi nơi một mảnh, không còn biết là ai nữa. Số quân Pháp chết trận ở vùng Verdun này có tới 40 vạn người. Phái bộ có thửa một vòng hoa để viếng ở nghĩa địa.
Về ăn cơm trưa ở nhà trọ, rồi lên xe ô tô của công ty Le Bourgeoisđi thăm các trận địa và đồn lũy ở quanh thành. Kể thì đến hơn một chục nơi là những nơi xung yếu đánh nhau dữ mấy năm trước, nhưng không thể đi cho khắp được. Vậy chỉ định đi đồn Vaux, đồn Douaumont, và nơi gọi là "Hầm lưỡi lê" (Tranchée des baionnettes) mà thôi. Vả trừ nhà binh học chuyên môn thời xem xét địa thế mới có ích lợi, chứ chúng mình trông chỗ nào cũng như chỗ nào, cũng một cái thảm trạng phá hoại đảo điên như thế, cũng những gò đống hang hốc như thế cả. Mặt đất đứng xa trông lỗ chỗ như một nắm "rong đá" (éponge), mà cứ như thế đến hàng chục cây-lô-mét. Có chỗ trái phá lớn nổ quật đất lên thành một vực sâu, rộng bằng cái hồ cái ao. Mà những nơi ấy trước kia toàn là những làng xóm đông đúc người ở cả. Đến một chỗ người ta chỉ cho chúng tôi nói: "Đây là làng Mỗ; chính chỗ ta đứng đây là nhà thờ làng. Làng này bị bắn dữ quá đến bao nhiêu nhà ở cho chí nhà thờ tan tành hết, và bị vùi lấp hay là bắn ra mấy nghìn mấy trăm thước ngoài xa. Trận xong rồi, tìm không biết làng ở đâu nữa. Mãi mới nhận được chỗ này là nhà thờ, là đoán phỏng chừng như thế, chứ không còn dấu vết gì nữa. Bây giờ chỉ có cây câu rút chôn ở đây, để cho người sau biết đây là làng Mỗ." Xem thế thì biết sự phá hoại dữ là dường nào. Đồn Vaux, đồn Douaumont chắc khi xưa là xây dựng kiên cố lắm, bây giờ cũng chỉ còn đống đất đống gạch lù lù đó thôi, không còn nhận biết ra quy mô một nơi pháo đài đồn lũy gì nữa. Người hướng đạo có thắp nến cho chúng tôi vào xem các hang hầm và đường tụy đạo [1]. Trong đó lắm chỗ quanh co ẩn khuất, kể cũng đã hiểm, nhưng đi ghê quá, có nơi như sắp đổ sụp vào đầu, người ta phải đặt gióng để giữ. Một cái đồn hiểm như thế này, tưởng tượng như cái tổ chuột hay tổ kiến vậy. Thế mà quan quân ở trong này hàng tháng hàng năm, nhiều khi đoạn tuyệt giao thông với đại quân ở phía sau, chung quanh bị vây cả, đạn bắn xuống như mưa, mà đồ ăn hết, nước uống không có, lại bị trái phá nổ chôn sống ở trong hầm không biết bao nhiêu mà kể, cái khổ thật không bút nào mà tả cho được. Ông văn sĩ Henry Bordeaux có làm một quyển sách tả về sự thất thủ đồn Vaux và cái cách quan tư Raynal coi đồn chống lại với quân Đức thế nào. Thật là một vị tướng anh hùng, dẫu sau thế cùng không thể giữ được nữa, bị quân Đức bắt, mà người Đức cũng phải phục, đãi một cách đặc biệt, vẫn để cho đeo gươm. Đồn Vaux này bị quân Đức quân Pháp đánh đi đánh lại mấy lần, bây giờ tan tành không còn gì nữa. Chỉ còn mấy đường tụy đạo, lúc trước đầy những xác người chết hôi thối và những quả phá đạn lựu, có cái chưa nổ, nguy hiểm lắm; gần đây quan binh mới cho sửa dọn để khách du lịch vào xem.
Đồn Douaumont đại khái cũng như thế. Cạnh đồn có một nơi gọi là "Hầm lưỡi lê". Nguyên chỗ này là một đường hầm hố của quân Pháp đóng. Một hôm quân sắp tiến lên để sang chiếm dẫy hầm bên kia của quân Đức, đã cắm lưỡi lê (baionnettes) vào đầu súng, chỉ đợi lệnh là nhẩy lên, chợt có một quả phá cực lớn rơi vào, đánh bật đất lên che kín cả dẫy hầm, cả toán quân đều bị chôn đứng, lưỡi lê hãy còn chô chổ trên mặt đất như một đám chông. Sau quan binh cứ để y nhiên như thế, cho rào lấy để làm kỷ niệm. Một người nhà giàu nước Mỹ tên là Georges E. Rand quyên tiền để xây chung quanh như hình một cái mả cực lớn, đứng ngoài trông vào hãy còn thấy những đầu lưỡi lê trên mặt đất. Người Mỹ này sau khi quyên tiền xây mả được ít lâu thời đi tàu bay bị ngã chết. Ngoài cửa có cái biển đá khắc đề rõ cả như thế.
Cách đấy một ít, có một nơi để xương các quân lính chết trận (ossuaire). Những quân lính chết ở các đồn lũy và trận địa quanh thành Verdun này nhiều quá, sau khi tìm thấy xương tan tác trên mặt đất, dưới hầm hố, không nhận biết là của ai nữa. Vậy phải chia trận địa ra làm mấy khu, đánh số rõ ràng, rồi những xương nhặt được ở khu nào để riêng ra khu ấy, tạm đặt vào mấy chục cái quan quàn một chỗ, để đợi hoặc là thiêu đi, hoặc là xây mả mà chôn lấy. Chỗ quàn này dựng cái nhà xoàng, đặt bàn thờ có ông cố coi, khách thập phương đến quyên tiền nhiều lắm. Bước chân vào chỗ này, thấy thương tâm vô cùng. Phần nhiều những người đến đây là có cha con anh em chết trận ở gần đây cả, nét mặt rầu rầu, giọt châu lã chã, coi thảm quá! Có người bước ra về lại còn lấy cái thiếp danh để lại, gài lên trên áo quan! Chẳng biết người thân của mình có ở trong đống xương này không, và có biết gì nữa không?...
Trời đã chiều bèn quay xe trở về Verdun. Quan binh trong thành có bụng tốt cho người đưa anh em đi xem các đường tụy đạo chạy ngầm quanh lũy thành, như một dẫy phố dưới đất, mà sâu tới mười tám hai mươi thước. Trong cũng rộng như các hầm rượu ở thành Reims, mà có phòng bị kiên cố hơn. Khi nào nguy cấp thì quân lính trong thành ẩn vào đấy mà bắn ra. Người ta có chỉ cho chúng tôi cái buồng quan Thống tướng Pétain thường ở đấy mấy bữa thế quân đương nguy kịch để cầm quân cho tiện. Quan Pétain này là người rất có công to trong trận Verdun, ở đây xem chừng ai cũng kính phục lắm, nói đến ngài thời chỉ gọi trống là "Le Maréchal", nghĩa là "Tướng quân". Xem xong rồi, chúng tôi có ký tên vào quyền sổ kỷ niệm, trong đó có chữ ký của vua quan và khách du lịch các nước nhiều lắm, người Tàu người Nhật ký bằng chữ nho, thật là đủ các thứ người, đủ các thứ chữ.
Về trọ nghỉ được một chút thời vừa đến giờ ra ga, lên xe lửa về Paris. Xe chạy từ 5 giờ 50 phút, mãi đến 10 giờ rưỡi đêm mới tới Kinh đô. Bữa cơm tối ăn ở trên xe lửa. Trong hành khách ngồi cùng toa có hai vợ chồng già ở xa lắm, đến Verdun để nhận mả con, nhưng không tìm thấy, nay lủi thủi về, trông mặt buồn quá! Than ôi! Một phen chiến tranh này đã tổn mất bao nhiêu nước mắt của loài người!...
XVI.
Thứ sáu, 16 tháng 6
Ba ngày vừa rồi thật là đầy đặn. Du lịch thế mới gọi là du lịch. Song nếu ngày nào cũng đi như thế thời nhọc quá. Và mắt trông toàn là cái cảnh điêu tàn thảm đạm cả, trong lòng cũng không thấy vui gì. Người ta thường nói văn minh có hai mặt: một mặt vui vẻ tươi cười, một mặt âu sầu ủ rũ. Cái cảnh rực rỡ ở Kinh đô, chiều chiều hàng mấy trăm ô tô nối đuôi nhau chạy quanh cửa Khải hoàn, cái chạy thẳng vào "Rừng", cái ở "Rừng" đi lại, một bên thời vừng thái dương đỏ ối sắp lặn ở chân trời, ánh sáng chiều còn phản chiếu trên đường dài sơn hắc ín lấp loáng như tấm gương to, một bên thời những lâu đài san sát, nhấp nhô trong đám cây rậm xanh rì, trên mái hãy còn rãi bóng tà dương, dưới nhà đã thấy đèn điện sáng nhoáng, đó là cái mặt vui vẻ của văn minh. Mà cái cảnh buồn rầu của văn minh là cảnh chiến trường mình vừa qua mấy bữa trước đây: lại là cảnh mấy xóm thợ thuyền lam lũ ở ngay chốn Kinh đô này; lại là những bi kịch hằng ngày xẩy ra trong xã hội, đầy rẫy trên báo chương, chồng giết vợ, vợ giết chồng, cha giết con, con giết cha, nhân ngãi giết lẫn nhau, khẩu súng lục liên hầu thành như cái cơ quan [2] tất yếu của xã hội để giải quyết những vấn đề khốn nạn về kinh tế, vì muôn việc ở đây, cho đến việc ái tình nữa, rút lại cũng là một vấn đề kinh tế cả.
Hôm qua đi mệt, sáng nay ngủ kỹ đến mười giờ mới dậy, không đi chơi được đâu cả. Buổi trưa này, hội Đông Pháp Công thương ủy hội" (Comité du Commerce et de l'Industrie de l'Indochine) có mời các phái viên ăn tiệc ở hiệu cao lâu Le Doyen, có quan Thượng thư Sarraut làm chủ toạ. Hội này là họp cả những tay "sù" có quyền lợi to ở bên ta, như các chủ công ty rượu, công ty mỏ, công ty xe lửa, công ty vận tải v.v...
Các phái viên đến dự tiệc hôm nay, quá nửa mặc áo gấm hết: có thế trông mới đẹp. Nhưng mà những ông Tây ăn tiệc bữa này, toàn là những người đã ở qua bên ta cả, đã từng sai khiến người ta cả, còn có lạ gì cái vẻ áo gấm của người Nam Việt mình!... Tiệc xong tất phải có diễn thuyết. Quan Thượng thư đứng lên diễn, đại khái nói về sự giàu có ở bên mình, và tán dương cái công những nhà công thương Pháp giúp cho sự giàu có đó.
Ở cao lâu ra, ông nghị viên Nam kỳ Outrey đưa các phái viên vào Hạ nghị viện xem. Bữa nay nghị viện vắng lắm, các ông nghị lơ thơ có mấy chục ông, còn người xem thì lại ít nữa. Là bởi hôm nay không còn bàn chuyện gì quan hệ. Khi mình đến thời thấy một ông nghị đương diễn thuyết về giá thóc lúa, xem chừng cũng ít người thích nghe. Cho nên anh em ở xem chừng nửa giờ rồi về.
Cả buổi chiều hôm nay là ông nghị Outrey định đưa anh em đi thăm các nhà báo lớn ở Paris, đã có tin trước cho các nhà ấy biết, nên đều có sửa soạn đón tiếp cả.
3 giờ 1/2 đến nhà báo Le Journal. Nhà này to nhất ở Paris; vào trong như một cái lâu đài mênh mông bát ngát, bốn bề rặt những bức vẽ đẹp của các tay danh hoạ đời nay. Nhà báo người ta như thế, chẳng bù với các báo quán của mình! Ngay trong bọn mình đây, cũng có hai ông chủ báo, chứ chẳng vừa! Hai ông "chủ" hôm nay phải một bữa! Đến thăm nhà báo, hai ông là tay làm báo "danh giá" ở nước nhà, tất phải thay mặt anh em mà nói mấy lời chúc mừng bạn "đồng nghiệp" bên quý quốc: ấy mới rầy! Nhưng mà thôi, cũng đành liều quấy quá vài lời cho xong chuyện; mình là dân đàn em, dẫu có sơ suất cũng chẳng ai chấp nào. Vậy hai anh em chia nhau: ông Vĩnh nói ở nhà Le Journal, mình nói ở nhà Le Matin. Hùng biện quá, không nhớ nói những câu gì nữa!
Nhà báo nào cũng có đặt tiệc "sâm banh" để mừng các phái viên, và đưa đi xem các buồng máy.
4 giờ 1/2 đến nhà báo Le Matin, nhà này cũng lớn chẳng kém gì Le Journal. Hai tờ báo này là phổ thông nhất ở nước Pháp, trong dân gian đọc nhiều lắm, mỗi ngày xuất bản có tới mấy trăm vạn số.
5 giờ 1/2 thời đến nhà báo La Liberté. Nhà báo này nhỏ, nhưng chủ bút là ông Aymard, trước làm thầy kiện ở Sài Gòn, nên ông nghị Nam kỳ đưa các anh em đến thăm nhân thể.
Tối đi xem Hội chợ Neuilly ở ngoài thành phố Paris. Những hội chợ này là cuộc mua vui của hạng bình dân nước Pháp, bán hàng có ít mà các trò chơi rất nhiều, thường thường là những trò đánh số, bắn giải, ngựa máy, v.v... Đi chơi những chỗ này dễ nghiệm được cái tâm lý những kẻ thường dân ở đây: xem ra tính ham chơi và nhẹ dạ, tự nhiên, không kiểu sức [3]. Lắm trò tưởng là trò trẻ con, mà người lớn cũng vào chơi, không ngượng ngập gì cả. Anh em vào một nơi đề là "cái nhà xoay": bước chân vào bị quay nhào đi một cái, ngã rúi người xuống. Chơi thế mới sướng! Thế mà các anh các chị xem ra khoái lắm.
Thứ bảy, 17 tháng 6. 1922
3 giờ chiều hôm nay đi xem "Nghĩa sĩ từ" ở Nogent sur Marne, cách thành Paris về phía Đông chừng mười cây-lô-mét. Đây là nơi kỷ niệm những quân sĩ An Nam bị tử trận ở Pháp trong hồi chiến tranh vừa rồi. Chỗ này chính là vườn thí nghiệm các cây cỏ thuộc địa; nguyên khi Đấu xảo Thuộc địa ở Marseille năm 1906 có làm một cái nhà gỗ kiểu An Nam để đấu xảo, gọi là "cái nhà Thủ dầu một", xong cuộc Đấu xảo thì nhà ấy đem tự Marseille về đây, dựng ở giữa vườn để làm như một cái phòng thí nghiệm về thực vật học. Kịp đến khi chiến tranh, bộ Thuộc địa định sửa sang lại, làm một nơi để kỷ niệm các quân sĩ Việt Nam đi tòng chinh mà chẳng may bị chết trận ở bên này, giao cho Hội "Đông Pháp Kỷ niệm" (Le Souvenir indochinois) có quan nguyên Học chánh Gourdon đứng đầu trông nom. Bây giờ thời nghiễm nhiên là một cái đền thờ vậy. Dưới trời Tây mà phảng phất có một nơi miếu mạo như bên ta, nhác trông thấy lòng quê luống những bồi hồi. Giá được vài cây đa, cây đề, cây muỗm, cây gạo ở trước sân, hay một lũy tre nữa ở đàng sau thời hệt như ngôi đình bên mình. Hồn tử sĩ ở miền minh mạc [4], ví còn quanh quất đâu đây, tưởng cũng hay đi lại chốn này để mơ màng trước cái hình ảnh tổ quốc ở nơi khách địa cho bớt nỗi thương nước nhớ nhà. Vào đến trong đền thời hương án chỉnh tề, hương hoa ngào ngạt, trướng đối rủ rê. Lại kia bức hoành phi của Hội Khai Trí gửi tặng năm xưa, bốn chữ Hán nét vàng còn chói lọi mà mặt gỗ đã nứt rạn. Thường thường những đồ sơn đồ gỗ của mình đem sang Tây hay nứt như thế, là vì khí trời bên này khô hanh, không ẩm thấp như bên ta, phải dùng thứ gỗ thật khô mới chịu được.
Trong anh em có ông khéo kiếm được một thẻ hương và nhớ mua được bao nến đem tự Paris đi, mỗi bàn thờ thắp mấy nén hương, đốt một cây nến, rồi cúi vái, gọi là tỏ tấm lòng mỗi người thương tiếc kẻ đồng bào.
... Xem hết trong đền xem đến ngoài vườn, có dựng một tấm bia kỷ niệm riêng cho những chiến sĩ theo đạo Gia tô không thờ trong đền, trong lòng vơ vẩn như thế. Mãi đến chiều anh em mới thơ thẩn ra về.
Khi về có rẽ vào rừng Vincennes. Rừng này cũng như rừng Boulogne, là một nơi đi chơi mát của người Paris. Bên ta không có những "rừng chơi" như thế này, chỉ có những "rừng hoang", "rừng rậm"; nói đến rừng là nghĩ ngay đến những nơi ma thiêng nước độc, thú dữ người mường. Rừng bên ta là "rừng nhiệt đới" (forêt tropicale), là tổ hổ beo, là hang sốt rét; tuy cũng là cái kho lâm sản quý báu, nhưng không phải là chỗ sống người, lại quyết không phải là chỗ cho người ngao du. Rừng đây là rừng ôn đới, chẳng qua là cái vườn cái trại lớn, đủ có vẻ sầm tịch [5] cho người ta được hưởng cái thú lâm tuyền, nhưng không sầm tịch quá đến u uất lặng lẽ khiến cho người ta ghê sợ. Chung quanh thành Paris thường có những nơi rừng như thế, những ngày mùa hè nóng nực, hay những buổi chủ nhật tạnh ráo, ngoài thành phố đến chơi đông lắm. Ở giữa rừng Vincennes này có một trường tập bắn của pháo binh. Ngoài cửa rừng trông ra ngoài phố thì có một cái lâu thành cổ, xưa làm pháo đài, nay làm trại lính, kiến trúc kiên cố mà quy mô hùng vĩ, thật là một kiểu thành cũ đẹp nhất ở nước Pháp. Tiếc vì có binh lính đóng, khách du lịch không thể vào xem khắp ở bên trong được. Nghe nói trong thành có một sở bảo tàng bày những đồ cổ của nhà binh, có cho khách xem, nhưng hôm nay quá giờ rồi.
Tối hôm nay có hẹn lại ăn cơm ở nhà ông P., đường Saint-Germain. Ông hiện làm quản lý công ty "Đông Pháp và Phi châu Tổng Thương cục" (Union commercial indochinoise et africaine), tức là sở chính của nhà "Gô đa" Hà Nội ta. Vào khoảng năm 1908, chính ông đã làm quản lý nhà "Gô đa" bên ta mấy năm, nên ông vẫn nhớ bên An Nam lắm, hôm gặp ở tiệc "Công Thương ủy hội" có ý ân cần hỏi han và hẹn hò đến nhà chơi để giới thiệu cho bà vợ, ông em và hai cô con gái biết, vì ông đã từng nghe mình diễn thuyết ở trường Thuộc địa mấy tuần trước. Bà vợ người nhã nhặn vui vẻ lắm; hai cô con thì cô lớn sắp ra thi tú tài kỳ này, cô nhỏ thì chính sinh ở bên ta năm trước, nhưng hai cô cũng không còn nhớ gì về bên An Nam mấy tí nữa; còn một cậu con nhỏ nữa cũng đương đi học. Trước khi về nhà riêng, ông P. có hẹn đến chỗ hội sở ông gần đường Royale để cùng lại bộ Lao động (Ministère du Travail) tiếp chuyện và đón ông em ông làm sảnh trưởng ở đấy, rồi cùng về nhà nhân thể. Chức sảnh trưởng trong một bộ (Directeur de ministère) cũng là một chức to, gần bằng như tham tri thị lang trong Bộ ta. Ông này lại có chân "Tham chính viện" (Conseil d'état), kể cũng là một bậc quan lại danh giá. Người có học thức rộng và am thông việc chính trị lắm. Chuyện vãn ít lâu, rồi ba người cùng về nhà riêng ông P. Ở đường Saint Germain. Tiệc chỉ có mình là người lạ, cả nhà xúm lại nghe chuyện bên An Nam; hai ông bà thì nhắc lại chuyện cũ, lại hỏi về những sự thay đổi trong khoảng mười năm nay; hai cô và cậu con thì nghe ra dáng có ý tứ lắm, như nghe giảng một bài địa dư vậy, thỉnh thoảng hỏi một vài câu dí dỏm cũng buồn cười, nhất là cô lớn lại có vẻ phong vận hữu tình lắm, tưởng giá chuyến này ra thi vào kỳ vấn đáp được hỏi về bên An Nam, cô chắc biết được nhiều điều hơn chị em, không sách nào có, và bấy giờ có lẽ cũng nhớ đến anh thầy giáo tình cờ ở đâu lại nói chuyện cho mình nghe. Nhưng hiện nay con mắt mơ màng cô đương nghĩ ngợi gì? Có lẽ hồi tưởng đến thuở nhỏ ở bên An Nam chăng? Nhưng cô sở biết [6] người An Nam bấy giờ chắc chỉ mới biết thằng bồi Ba, thằng bếp Tư, thằng xe Năm mà thôi, chứ đã biết người An Nam là giống gì. Nay nghe chuyện như phảng phất mơ màng, cảnh cũ tình nay, giao cảm trong lòng, cũng khó biết được cô nghĩ ngợi gì. Nhưng mà con mắt hữu tình thay! Miệng cười có duyên thay! Không có cái vẻ đường đột tự do như các cô con gái Tây khác, lại có cái vẻ dịu dàng thuỳ mị như một vị tiểu thư khuê các ở Đông phương. Bây giờ mình mới biết cái ý nhị phong thú của con gái Ba Lê...
Ông sảnh trưởng thì nói chuyện chính trị, chuyện giáo dục, tỏ ra một người có ý tưởng rộng rãi; ông xưa nay không nghiên cứu về việc thuộc địa, nhưng ông nói nước Pháp ở thuộc địa phải có một cái chính sách khoan dung đại độ, hợp với nhân đạo, thời mới thỏa lòng những bậc tấn thân [7] và tiếp được dư luận trong nước. - Mãi đến mười một giờ mới cáo từ ra về.
Chủ nhật, 18 tháng 6
Hôm nay gặp ông B. học trò trường Thuộc địa, năm thứ nhì, ban Đông Pháp. Ông sắp thi lên lớp nhất (năm thứ ba). Sang năm mà đỗ tốt nghiệp thì sẽ được bổ sang làm quan cai trị ở bên ta. Bấy giờ sẽ là một vị quý quan sang trọng, có lẽ chẳng nhớ hay là chẳng muốn nhớ đến anh em mình nữa. Nhân ông nghe mình diễn thuyết ở trường hôm nọ, muốn làm quen, cho nên hôm nay hẹn đến trọ chơi, đưa cho xem mấy tờ báo có bình phẩm về bài diễn thuyết của mình. Tính vui vẻ, hay nói đùa. Mà có một cái tài lạ, là chưa sang bên ta bao giờ, chỉ học tiếng An Nam ở bên Tây mà nói đã sõi lắm, hát được bằng tiếng ta, nhịp Tứ đại cảnh! Hỏi ra mới biết rằng khi chiến tranh ông có được ở gần lính An Nam, nên có dịp tập nói tiếng ta nhiều. Hạng này mà sang làm việc bên ta thì sành lắm đây, có lẽ sành hơn... quan An Nam. Cũng là một tay "hách" sau này đó.
4 giờ chiều hôm nay, quan Thượng thư Sarraut và ông nghị viên Outrey tiếp các phái viên Nam Bắc kỳ ở Kinh tế cục để giới thiệu cho ông nghị trưởng Hạ nghị viện Raoul Perret. Nhân có đặt một cuộc chớp bóng các "phim" về Đông Pháp, tân khách mời đến xem đông lắm, toàn là những nhân vật thuộc về "thuộc địa giới" (les milieux coloniaux), nghĩa là những người trong các giới mà có quan hệ gần xa đến các thuộc địa, như nghị viên, nhà báo, các nhà công thương, các quan binh, các quan lại thuộc địa, v.v... Tức cũng là một cách quảng cáo cho Đông Pháp; và thứ nhất là quảng cáo riêng cho... quan Thượng và ông Nghị ta. Các phái viên hôm nay phần nhiều áo gấm cả. Đúng giờ ông nghị trưởng đến, các phái viên đứng dẹp ra hai bên đón chào, rồi một ngài phái viên nam trung thay mặt anh em đọc một bài chúc mừng, mình đứng xa cũng không nghe được câu gì cả. Nghe đâu bài này là ông nghị Nam kỳ đã soạn sẵn cho học thuộc lòng, đại khái cũng là tỏ cái lòng rất kính trọng ông nghị trưởng, rất trung thành với Đại Pháp. Chính cuộc nghênh tiếp ông nghị trưởng hôm nay cũng là tự ông Outrey xướng ra. Nhân bữa đi thăm cố hương đức cha Bách Đa Lộc, ông có tra trong gia phả đức cha thấy họ Perret cũng có họ xa với đức cha, ông bèn mượn sao lấy cả thiên gia phả, và định hôm nay mời ông nghị trưởng Raoul Perret đến để tặng ông bản sao ấy giữa chỗ công đồng, tỏ ra rằng ông cũng có quan hệ với Đại Pháp. Thật như phương ngôn ta nói rằng: Thấy người sang thì... Nhưng mà nghĩ cũng là một cách thù tạc khéo. Người ta ở đời muốn cho tiến đạt chỉ cần phải thạo những cách đó là đủ. - Trong đám đông các tân khách, mình lại được gặp ông đốc trường Thuộc địa, chính là anh em họ với ông nghị Nam kỳ, đứng nói chuyện giờ lâu, có cả bà vợ, người con gái và người rể, thảy đều bình phẩm về bài diễn thuyết của mình bữa trước. Ông nói rằng ông thật không ngờ cuộc diễn thuyết ấy có đặc sắc như thế, vẫn tưởng rằng người An Nam nói thời không khỏi ra ngoài những câu tán tụng thường, biết đâu lời thành thực dễ cảm người và nhiều chỗ nói thật mà không mất lòng, ông cho là khéo. Mình nghe được lời khen như thế, dẫu không đến nỗi nở mũi ra, nhưng trong bụng cũng thích, - nhân tình ai chẳng thế? - định về trọ biên vào nhật ký cho nhớ, vì xem ra ông này nói cũng thực tình, chứ không phải là lời đãi bôi.
Thứ hai, 19 tháng 6
Gặp quan Đại tướng P. Ngài chỉ cho các chỗ nên đi xem ở Paris, lại hứa sẽ giới thiệu cho mấy ông nghị viên.
3 giờ chiều cùng với cậu H.Đ.D., học sinh trường Thuốc, đến thăm bà lớn Sarraut ở nhà riêng, đường Latour Maubourg. Nguyên khi ở Hà Nội đi, lệnh tế [8] là quan Chánh Liêm phóng ở Phủ Toàn quyền có cho giấy giới thiệu, nên bữa nay đến chào Bà lớn. Quan Thượng thư và Bà lớn không ở Bộ, vẫn ở nhà riêng. Bà lớn ân cần hỏi han, nói rằng vẫn nhớ bên An Nam lắm, khen người An Nam là một dân tộc khôn khéo, chăm chỉ và có tính thuần thục, dễ thương.
Thứ ba, 20 tháng 6
Ông F. là chánh Công ty Rượu Đông Pháp có mời các phái viên về ăn cơm trưa ở nhà riêng ông ở làng Torsy, Seine et Marne, cách Paris 25 cây-lô-mét. Sáng sớm cho mấy cái ô tô đón anh em cùng đi. Cái biệt thự của ông đẹp lắm, đặt tên là Les Charmettes, chung quanh có cái trại mấy mẫu trồng các hoa quả. Hoa hồng không biết đến mấy chục thứ, quả hạnh (cerises) thời nặng trĩu trên cành, kể hàng mấy trăm gốc cây. Lại có đặt nhà "ôn thất" (serres) để trồng các thứ hoa cỏ lạ ở nhiệt đới. Trong vườn giữ sạch như li như lai, không có một cái lá rụng, một cái cành khô. Ông nói mỗi năm kinh phí về cái trại này tới mấy chục vạn quan. Tính ông thích làm vườn, những khi nhàn hạ thường ra trồng cây xới đất, cho là một cách thể thao tốt. Ông được tiếp anh em lấy làm vui vẻ lắm, vì phần nhiều ông đã từng quen biết bên An Nam. Dự tiệc, ngoài ông và các phái viên An Nam đủ mặt cả, còn có ông em ruột ông làm đại lý trong Công ty, bà em dâu, và hai đứa cháu gọi ông bằng ông bác. Hai thằng bé ngộ quá, mình chơi đùa với chúng nó lại càng thêm nhớ đến lũ con ở nhà. - Tiệc xong, chuyện vãn giờ lâu, rồi ra ngoài vườn chụp mấy cái ảnh làm kỷ niệm.
Chiều gặp hai ông D. và G. là hai người cán sự trong Hội "Đại Pháp Thuộc địa viện" (Institut Colonial française), ở đường Volney. Khi còn ở Marseille hai ông đã viết thư mời mình hễ đến Paris thời lại chơi, có ý muốn mời diễn thuyết ở Hội. Hôm nay hai ông cũng nhắc lại lời mời ấy, nhưng nói rằng đến cuối tháng tám hay đầu tháng chín các hội viên mới đông đủ cả. Mình không chắc còn ở đến bấy giờ không, nên không dám nhận. Vả sang đây là để đi chơi cho biết đó biết đây, phải có rộng thì giờ mới xem xét được, nếu cứ diễn thuyết hoài thì thành ra chỉ đóng cửa ngồi trong buồng mà cắm cổ viết, còn thú gì nữa. - Hai ông lại nói rằng hội Thuộc địa này là gồm nhiều người có danh giá, có thế lực ở nước Pháp, có ý muốn khoáng trương ra các thuộc địa, lập các hội sép [9] ở mọi nơi, hỏi mình có thể đương được việc cổ động cho Hội ở bên ta không. Khi ra về, có đưa cho nhiều những chương trình, thể lệ và giấy má của Hội để về xem cho kỹ.
Thứ tư, 21 tháng 6
Gặp ông nghị viên A. chủ tạp chí Revue du Pacifique (Thái Bình Dương tạp chí). Ông này là người đồng hạt với quan Toàn quyền Long, mới được nghị viện cử xét về sổ dự toán Đông Pháp, lại mới lập ra một tập nguyệt báo để nghiên cứu về việc á Đông. Cũng là một tay sắc sảo trong phái thuộc địa ở nghị viện. Có người nói có ngày ông sẽ sang làm Toàn quyền Đông Pháp. - Buồng giấy ông ở cùng một nhà với Kinh tế cục Đông Pháp. Ông tiếp chuyện giờ lâu, hỏi han các việc bên An Nam; lại mời viết bài cho tạp chí của ông.
Gặp cô K., tổng thư ký hội "Đông Dương ái Hữu" (Socitété des Amis de l'Orient), ở viện Bảo tàng Guimet. Mình đã hẹn làm một bài diễn thuyết cho Hội này, trước khi dời Paris. Vậy bữa nay đến để định đầu bài và định ngày trước. Ngày thời định vào thứ tư mồng 5 tháng bảy mà đầu bài thời là nói về "Thi ca Việt Nam" (La Poésie Annamite). Đã không muốn nhận diễn thuyết ở đâu nữa, nhưng Hội "Đông Phương" là một hội có tiếng, năm ngoái đã nghênh tiếp ông văn sĩ Ấn Độ Tagore, nay mời đến mình, cũng là một sự danh giá cho mình, nên cũng phải cố vậy. Thế là lại mất ba bốn ngày nằm hầm trong buồng để soạn bài. Mà ở đây tài liệu không có, sách vở không có, soạn cũng khó. Chỉ có một quyển Kiều, tối tối mấy anh em cùng trọ họp nhau lại pha chè uống cùng ngâm với nhau mà thôi.
Buổi tối đi xem hát ở rạp Grand Guignol, đường Chaptal. Gần đây nghe tiếng rạp này xướng ra một lối diễn kịch mới, thiên hạ hoan nghênh lắm. Đặc sắc của rạp này là diễn những bài ngăn ngắn, khiến cho mỗi buổi diễn được bốn năm bài [10], bi kịch, hí kịch xen lẫn nhau, và bài nào cũng chú trọng về bộ [11], về cảnh, không kém gì lời văn.
Trong chương trình hôm nay có năm bài, bốn bài hí kịch độ một hồi hay hai hồi ngăn ngắn và một bài bi kịch có hai cảnh (tableaux). Bài sau ấy là lối "kịch bằng cảnh" (pièce en tableaux), lấy cảnh mà giúp thêm cho lời nói, lối này tưởng các rạp ở nước ta có thể châm chước mà phỏng theo được.
Bài bi kịch xem cảm động quá, đề là "Một đêm ở Luân Đôn" (Une nuit à Londre ou The Black Veil) của Gustave Frajaville và C. Choisy (là quản lý rạp Grand Guignol) rút trong thuyết bộ [12] của nhà văn sĩ nước Anh Dickens và đặt thành cảnh. Truyện một người đàn bà già có con phạm trọng tội phải án xử tử thắt cổ, sớm mai hành hình, đêm đến tìm một ông thầy thuốc danh sư nọ, kêu van ông ngày mai đúng giờ ấy đến nhà bà cứu cho một người sắp chết, nhưng không nói rõ vì cớ gì; hôm sau ông đến, xác mới khiêng về, nhưng đã chết rồi không thể cứu được nữa. Bấy giờ ông mới hiểu là người tội nhân mới bị thắt cổ; nhưng người mẹ trông thấy xác con như phát điên lên, cứ ôm lấy mà than khóc kể lể một cách rất thảm thiết, một mực van ông cứu cho, bà nói: "Con tôi dại dột, nó quá nghe anh em mới đến nỗi này, chứ nó không đáng tội. Tôi xin ngài, tôi van ngài cứu cho con tôi, nó chưa chết đâu." Ông thầy thuốc bấy giờ trong lòng cảm thương bi đát vô cùng, vẫn biết rằng kẻ phạm tội với xã hội, thời xã hội có quyền trừng trị, ấy là lẽ công bằng, nhưng mà trị kẻ có tội mà để thương, để xót, để đau, để khổ cho người không tội, há phải là lẽ công bằng sao? Song cái công lý của người đời chỉ biết thô lược như thế thôi; người ta ăn ở với nhau lấy một công lý mà xử chưa đủ, phải có lòng từ bi bác ái mới được, vì trông thấy cái cảnh đau khổ của bà già này, ai là người cầm lòng cho đang?... - Diễn khéo quá, tài quá, dáng bộ cảnh bày hiển nhiên như thực, khiến người xem rùng mình sởn tóc, lay chuyển cả quả tim, cảm kích đến phải chẩy nước mắt ra. Có bà đầm ngồi bên nức nở khóc đến mười lăm phút đồng hồ. Người ta nói có khi có người cảm kích quá ngất người ngã ra. Trong bài kịch, lời nói không có mấy, mà những lúc không nói lại là chỗ hay nhất.
Xét ra văn diễn kịch phải là văn cứng cát lắm mới được; văn quốc ngữ ta bây giờ còn non nớt, dùng vào diễn kịch không khỏi khuyết điểm. Vậy nếu bây giờ có một lối kịch như lối kịch bằng cảnh đó, lấy cảnh mà giúp sức cho lời văn, thời hợp với trình độ của ta lắm. Vả lại lối này là đoản kịch, chỉ một vài hồi mà thôi, và diễn không đầy một giờ đồng hồ, tưởng bắt chước cũng không khó.
Trong lời quảng cáo của rạp Grand Guignol này có nói: "Rạp Grand Guignol ngày nay cả thế giới đều biết tiếng là nơi kịch trường ở Paris diễn được lắm bài ly kỳ, có khi kết cấu cũng bạo, nhưng bao giờ cũng có đặc sắc văn chương. Rạp này đã có một lối riêng, thiên hạ đến xem đặt tên cho là genre Grand Guignol, bất cứ hí kịch hay bi kịch, bao giờ cũng có một cái vẻ đặc biệt, có khi cảm kích vô cùng. Những bài bi kịch thời hành động mau, và giống hệt như sự thực, vì lối diễn kịch này không có dung được những cảnh giả dối. Phàm diễn ra là đều diễn cái chân tướng của sự đời, nồng nàn, mãnh liệt, khốc hại, hung tàn, cốt lấy thực, mà trong sự thực có cái vẻ đẹp thâm trầm ở đó. Hí kịch thì bao giờ cũng có văn chương, cũng có trí tuệ, khi thời sự xảy đột ngột, khi thời đối đáp dĩnh ngộ [13], làm cho tức cười không nhịn được, v.v...".
Thứ năm, 22 tháng 6
Ngày thứ năm, ở Théâtre Française (tức là Comédia Française) thường có diễn kịch ban ngày, và diễn những kịch cổ điển cho học trò các trường xem. Nhân xem nhật báo thấy hôm nay diễn bài Le Bourgeois gentilhomme của Molière (tức ông Vĩnh dịch là "Trưởng giả học làm sang"), anh em rủ nhau đi xem. Bắt đầu diễn từ 1 giờ 30 trưa, đến 5 giờ mới xong.
Bài này Hội Khai Trí đã diễn năm trước, chắc là không bao giờ bằng người ta được, nên có ý nhận kỹ xem họ hơn mình cái gì. Phường hát ở đây là những tay nghề có tiếng trong nước, mà bài này lại là một bài cổ kịch, họ diễn đi diễn lại không biết đến mấy trăm mấy nghìn lượt rồi, chắc là phải thạo lắm, phải hay lắm. Thế mà cứ bình tình mà xét, cũng không lấy gì làm tài cho lắm, sánh với bọn tài tử của mình diễn năm nọ cũng là một tám một mười mà thôi, chứ không đến nỗi cách xa nhau một trời một vực, như mình vẫn tưởng thế. Nhưng có ý nhận ra không phải là họ không có thể làm hơn nữa đâu, nhưng vì là bài cổ kịch nên họ cũng diễn chiếu lệ đó mà thôi, không có ý cẩn thận, không có ý trau chuốt, nên còn có chỗ sơ suất, còn có chỗ khuyết điểm.
Độ này ở nghị viện đương thảo luận về vấn đề cải cách trung học, nên theo hẳn về đường tân học hay là nên giữ lấy phần cổ học La Mã Hy Lạp. Có hai đảng phản đối nhau: đảng tiến bộ thì theo về tân học, đảng bảo thủ thì muốn giữ cổ học. Mà chính phủ có ý khuynh hướng về đảng bảo thủ, muốn đổi lại chương trình trung học, đặt thêm phần cổ văn Hi - La xen vào với các môn học mới khác. Không những ở nghị viện các đảng cãi nhau phân vân, mà trong dân gian cũng chỗ này diễn thuyết, chỗ kia hội họp, kẻ bàn ra, người bàn vào, kẻ tán thành, người phản đối, bên nào cũng có một phần lẽ phải cả. Tối hôm nay có một cuộc diễn thuyết của hội Université nouvelle (nhất danh là Les Compagnons), thuộc về đảng tiến bộ, tổ chức tại Hôtel des Sociétés savantes, đường Danton, để cùng bàn về vấn đề ấy. Nhật báo đăng có mấy ông giáo trường Đại học Sorbonne diễn thuyết. Vậy cơm tối rồi, thủng thẳng đến nghe xem nghị luận thế nào. Người dự cuộc cũng đông lắm, mình đến thì đã thấy bắt đầu rồi. Có hai ông giáo Guignebert và Mornet diễn thuyết, đại khái nói rằng cổ văn tuy hay thật, nhưng không thích hợp với thời nay, không nên cưỡng bách con trẻ phải học, sợ chậm mất thì giờ của chúng nó và hại đến các món khác còn cần hơn. Sự giáo dục cần phải ban bố cho khắp trong dân gian: ấy là nghĩa vụ cốt yếu của một nước dân chủ. Vậy phải mở rộng các trường trung học cho trẻ con bình dân vào không đặt chương trình khó khăn để hạn chế. Trong bình dân thiếu chi những con trẻ thông minh tuấn tú: phận sự của quốc gia là phải ra công đề bạt cho những trẻ ấy được hưởng sự giáo dục hoàn toàn, và sau này có cách trổ tài xuất chúng. Vậy quốc gia phải cấp lương học cho những trẻ có tư cách ở các trường tiểu học để cho chúng nó vào trung học được. Bậc trung học phải mở rộng cho cả quốc dân, chứ không thể để riêng cho một bọn có tư bản được. - Hai ông giáo này nói thạo lắm: ôn tồn dễ nghe mà lại có cái vẻ hoạt bát hùng hồn. Nghe biết là những người đã quen giảng học, và cũng quen nói với công chúng.
Ở một nước tự do có khác, bất cứ chuyện gì cũng có thể đem ra công chúng mà nghị luận được. Kẻ nói đi người nói lại, quốc dân đứng giữa mà phán đoán. Chính phủ ở trên mà chiết trung, tưởng còn hơn là cái chính sách "bịt bung", rút lại chẳng có lợi cho ai hết. Song cho được đủ tư cách nghị luận hay là phán đoán, cái trình độ văn minh cũng phải kha khá mới được, nếu còn thấp kém lắm thì dẫu được quyền bàn cũng chẳng biết bàn gì, được quyền nói cũng chẳng biết nói sao, nói lắm bàn lắm càng lại nát chuyện nhiều, huống lại còn biết phán đoán sự hay sự không, lẽ phải lẽ trái là gì nữa! Nhưng muốn nâng cao trình độ dân thì có cách gì? Duy có sự học mà thôi...
Ghi chú:
[1] Đường chui dưới lòng đất.
[2] Công cụ.
[3] Giả dối lòe loẹt bề ngoài.
[4] Minh: tối, mạc: yên lặng.
[5] Ngày nay hay nói trầm tịch với nghĩa vắng vẻ sâu kín.
[6] Sở: điều mà, cái mà, cô sở biết tức điều mà cô biết.
[7] Kẻ thượng lưu trí thức.
[8] Người con rể bà.
[9] Phân nhánh.
[10] Vở (kịch).
[11] Diễn xuất.
[12] Các bộ tiểu thuyết.
[13] Thông minh.
Phạm Quỳnh
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...