Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa
Tiểu sử
Tự học. Là một trong những người tiên phong trong lãnh vực
phê bình văn học. Trương Tửu sinh ngày 18/10/1913 và mất ngày 16/11/1999
tại Hà Nội. Bài viết đầu tay của ông là bài Triết lý truyện Kiều in
trên Đông Tây tuần báo năm 1931, năm ấy ông mới 18 tuổi, đang tự học để thi tú
tài. Từ đó ông hiện diện thường xuyên trên các tạp chí văn học tại Hà Nội.
Trương Tửu nổi tiếng từ năm 1935 với loạt bài phê bình nhan đề Văn
Học Việt Nam hiện đại, tuyên bố đưa ra một phương pháp "phê bình
mới" trên báo Loa, từ số 75 ra ngày 25/7/1935 đến số 86, ra ngày
10/10/1935, ông phê bình các tác phẩm: Nửa Chừng Xuân của Khái
Hưng, Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc
Phách, Vàng Và Máu của Thế Lữ, Lan Khai, Lưu Trọng Lư và Tam Lang. Loạt
bài này bị bỏ dở.
Song song với việc viết phê bình, ông còn sáng tác một loạt
tiểu thuyết tranh đấu như: Thanh niên S.O.S (Minh Phương, Hà Nội,
1937), Một chiến sĩ (Minh Phương, Hà Nội, 1939). Cùng những tiểu thuyết
xã hội như Khi chiếc yếm rơi xuống (Minh Phương; Hà Nội, 1939)
và Khi người ta đói (Phổ thông bán nguyệt san, số 59 tháng 5 năm
1940). Không kể một loạt tiểu thuyết khác như Một cổ đôi ba tròng (Tân
Việt, Hà Nội, 1940), Trái tim nổi loạn (Văn Thanh, Hà Nội,
1940), Đục nước béo cò (Minh Phương, Hà Nội, 1940), Một kiếp đọa
đầy (Hàn Thuyên, Hà Nội, 1941). Hoặc loại sách khảo luận như: Những
thí nghiệm của ngòi bút tôi (Đại đồng thư xã, Hà nội, 1938). Nhưng sở trường
của ông vẫn là văn nghị luận và phê bình.
Giai đoạn 1940-45, Trương Tửu làm giám đốc văn chương nhà xuất
bản Hàn Thuyên và cũng là linh hồn của nhóm Hàn Thuyên, đã xuất bản những tác
phẩm ký tên Nguyễn Bách Khoa gồm những cuốn: Kinh Thi Việt Nam (Hàn
Thuyên, 1940), Nguyễn Du và truyện Kiều (Hàn Thuyên, 1944), Tâm
lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Hàn Thuyên, 1944), Văn Chương truyện
Kiều (1945), là những công trình phê bình áp dụng phương pháp duy vật biện
chứng. Thời kỳ ký tên Nguyễn Bách Khoa gắn liền với nhóm Hàn Thuyên là giai đoạn
quan trọng trong sự nghiệp phê bình của Trương Tửu.
1946, tham gia kháng chiến, giảng dạy lý luận và văn học Việt
Nam tại các lớp "văn hoá kháng chiến" ở Thanh Hóa. 1949, tướng Nguyễn
Sơn mời dạy trường Thiếu Sinh Quân. 1952, làm giáo sư trường Dự Bị Đại Học ở
Thanh Hóa. Sau 1954, trở thành giáo sư đại học ở Hà Nội.
1956, tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, với hai bài nghị
luận hùng biện nổi tiếng "Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo
văn nghệ đăng trên Giai Phẩm mùa thu tập II (30/9/56) và Văn nghệ và
chính trị, trong Giai phẩm mùa thu tập III (30/10/56), Trương Tửu trở
thành một trong nhà lãnh đạo tư tưởng phong trào cùng với Trần Đức Thảo và Nguyễn
Mạnh Tường.
Ông bị cách chức giáo sư đại học năm 1958, tự nghiên cứu Đông
y làm nghề để sống đến cuối đời.
Những năm gần đây, sách của Trương Tửu-Nguyễn Bách Khoa đã được
in lại.
Sự hình thành một phong cách phê bình
Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa mất tại Hà Nội một ngày cuối
đông, năm tận cùng của thế kỷ XX, trong sự lãng quên của mọi người.
Là nhà phê bình tiên phong và tài hoa đã đưa phê bình Việt
Nam vào thời hiện đại, Trương Tửu xuất hiện cùng thời với Lê Thanh, Hải Triều
và trước Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan; nhưng cách viết của Lê Thanh nằm trong khuôn
khổ phê bình lịch sử của Sainte-Beuve, Lanson, thế kỷ XIX, Hải Triều là nhà
chính trị mác-xít hơn là nhà phê bình, và cách viết của Hoài Thanh, Vũ Ngọc
Phan cũng vẫn còn nằm trong đường lối phê bình ấn tượng và giáo khoa thế kỷ
XIX, thì Trương Tửu, ngay từ 1935, đã tìm một hướng đi mới: coi phê bình là việc nghiên
cứu tác phẩm chứ không phải chỉ là sự thuần túy cảm nhận cái đẹp như Hoài
Thanh, hoặc sự phê phán theo quy ước giáo khoa như Vũ Ngọc Phan.
Thời kỳ báo Loa, 1935, tuy chưa có một định hướng phê bình rõ
rệt, nhưng Trương Tửu đã nhận diện được mối tương quan giữa nghệ thuật và phê
bình:
"Nghệ thuật, theo ý tôi, tìm và diễn cái hoàn toàn
trong tự nhiên. Nghệ sĩ là người có tài lượm nhặt được những vật liệu rải rác
trong cái đại thể bộn bề và xây thành một cái chòi biệt lập, hoàn toàn ở phạm
vi của nó.
Nhà phê bình không khen chê cái tính chất của của cái chòi ấy
mà chỉ xét cách thức tạo tác ra nó, nghĩa là khảo cứu cái hoàn toàn trong nghệ
thuật.
Cái chòi của ông Khái Hưng, như tôi nghiệm thấy, không dựng
trên miếng đất tâm lý hay thực tế. Nó đứng trong địa hạt lý tưởng". (Nửa
chừng xuân, Loa số 76, ra ngày 1/8/1935).
Lời mở đầu bài phê bình Nửa chừng xuân trên đây có
ba yếu tố xác định phong cách phê bình mới của Trương Tửu:
1- Nghệ thuật là một cõi riêng, ví như cái chòi riêng của
mỗi nhà văn.
2- Nhà phê bình không có phận sự khen chê cái chòi ấy.
3- Nhà phê bình có bổn phận phân tích cách thức nhà văn
tạo ra cái chòi ấy.
Ba điểm mấu chốt này cũng chính là nguyên tắc đích thực
của phê bình hiện đại mà Trương Tửu đã nhận thức được. Ông cũng là người đầu
tiên đưa ra nhận xét "Khái Hưng là nhà văn lý tưởng", sau
này Vũ Ngọc Phan và những người khác lấy lại, tuy nhiên, nhận xét này đúng hay
sai, lại là chuyện khác. Bài phê bình Nửa chừng xuân đã hé mở cho thấy
khuynh hướng phê bình xã hội học của Trương Tửu, sự phát triển khuynh hướng này
sẽ bắt đầu ở giai đoạn hai, 1940-1945.
Từ năm 1940, Trương Tửu đã vận dụng phương pháp luận mác-xít
với chút phân tâm học Freud để đưa vào phê bình. Tuy ngày nay cả hai phương
pháp này đều đã lỗi thời, nhưng lúc đó đối với Việt Nam là tân kỳ và khoa học.
Ở miền Bắc, sau 1954, học sinh và sinh viên không được
tiếp xúc với tác phẩm của Trương Tửu, cũng như Thi Nhân Việt Nam của
Hoài Thanh và Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan. Nhưng ở miền Nam,
Hoài Thanh và Vũ Ngọc Phan trở thành những ngôi sao sáng vì được đưa vào chương
trình giáo dục phổ thông, lối phê bình ấn tượng và giáo khoa của hai ông đã có ảnh
hưởng lớn lên học sinh trung học. Phê bình mác-xít của Trương Tửu chỉ được giảng
dạy ở đại học.
Nếu ở miền Bắc sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm, tên tuổi và
tác phẩm của Trương Tửu bị chôn vùi, thì ở miền Nam, ảnh hưởng Trương Tửu - Nguyễn
Bách Khoa trong đại học rất lớn. Nguyễn Văn Trung viết:
"Nguyễn Bách Khoa là người đầu tiên và độc nhất đã đưa
ra một quan niệm phê bình rõ rệt và áp dụng nó một cách có hệ thống, với một lối
văn lôi cuốn. Chưa xét quan niệm phê bình mác- xít đúng hay không đúng. Chỉ xét
về phương diện chủ thuyết và viết thành hệ thống hẳn hòi thì phải nhận là Nguyễn
Bách Khoa thành công hơn tất cả những nhà phê bình trước ông và hiện nay cũng
khó tìm ra một Nguyễn Bách Khoa khác. Do đó ảnh hưởng của Nguyễn Bách Khoa vẫn
còn rất mạnh ở miền Nam hiện nay như Thanh Lãng đã nhận định: "Mấy cuốn
phê bình của Nguyễn Bách Khoa, nhất là từ sau 47 trở đi, đã hầu như biến thành
sách gối đầu giường cho thế hệ trẻ. Ở nhà trường, từ giáo sư cho đến học sinh,
tất cả đều phê bình theo Nguyễn Bách Khoa. Một phong trào rộng lớn lan
tràn" (Nguyễn Văn Trung, Lược Khảo Văn Học, tập 3, Nam Sơn, Sài
Gòn, 1968, Xuân Thu chụp và in lại tại Cali, Hoa Kỳ, 1990, t. 192).
Những lời trên đây của giáo sư Nguyễn Văn Trung cho thấy địa
vị của Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa trong văn học miền Nam. Và điạ vị ấy, khởi
đi từ thời kỳ Hàn Thuyên.
Thời kỳ văn học 1940-1944
Để tìm hiểu con đường tư tưởng của Trương Tửu và nhóm Hàn
Thuyên, chúng ta cần phải nhìn lại thời điểm văn học mà nhóm này xuất hiện, đó
là thời kỳ 1940-1945.
Giai đoạn văn học 1940-1945, trước khi chiến tranh Việt-Pháp
bùng nổ và trải dài trong thế chiến thứ hai, là một giai đoạn phong phú của văn
học Việt Nam. Phạm Thế Ngũ, trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, gọi
đây là giai đoạn Phục Hưng của văn học Việt Nam và ông giải thích như sau:
"Phục Hưng đây không chỉ có cái nghiã phục cổ
(restauration) mà còn có cái nghĩa phục sinh (renaissance). Văn học Việt Nam
sau 1940 bày ra một cảnh tượng phát sinh rộn ràng và mới mẻ. Không những phái
già tha thiết với những giá trị cổ tưởng như gặp thời sống lại, mà phái trẻ
cũng hăng hái góp phần. Nhiều thanh niên tân học đứng ra giải quyết lại các vấn
đề mà Nam Phong còn bỏ lửng: Vấn đề học thuật và giáo dục quốc gia, vấn đề tổng
hợp văn hóa đông tây, vấn đề thâu nhập khoa học Tây phương, giải quyết với tất
nhiên tinh thần mới bản lĩnh mới của họ." (Phạm Thế Ngũ, Việt
Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Quốc học tùng thư, Sàigòn, 1961-1965, tập 3,
tr. 613).
Sau thời kỳ sôi động của Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới
(1932-1939), và của những nhà văn độc lập như Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng...,
văn học nước ta bước vào một giai đoạn mới với những cây bút mới, những chiều
hướng sáng tác, biên khảo khác trước.
Thời kỳ 1940-1945, cũng là thời kỳ đất nước chuyển mình, trí
thức văn nghệ sĩ đồng lòng đứng lên kêu gọi lòng yêu nước bằng con đường văn
hóa và lịch sử. Vì vậy, các tác phẩm trong thời kỳ này nghiêng hẳn về lịch sử
và xã hội: Nguyễn Đức Quỳnh viết Gốc tích loài người, Đời sống thái cổ; Chu
Thiên viết Lê Thánh Tông, Bà quận Mỹ; Nguyễn Tế Mỹ viết Lý Thường
Kiệt; Lương Đức Thiệp viết Xã hội Việt Nam; Nguyễn Huy Tưởng viết Đêm
hội Long Trì, Vũ Như Tô, An Tư công chúa; Hoa Bằng - Hoàng Thúc Trâm viết Quang
Trung, anh hùng dân tộc; Hoàng Xuân Hãn viết Lý Thường Kiệt, v.v...
Những tác phẩm như thế vừa có tham vọng, không những kêu gọi
lòng yêu nước, mà còn muốn xây dựng một đời sống tư tưởng mới cho dân tộc,
thoát khỏi ảnh hưởng của nho giáo đã lỗi thời, tìm đến những triết thuyết khác,
có tính chất khoa học, gắn bó với tự do dân chủ của Tây phương. Chủ nghĩa dân tộc,
nằm trong nội tâm của nhiều nhà văn, đã nổi dậy dưới nhiều hình thức, tiêu biểu
hơn cả là Hồ Hữu Tường và Trương Tửu.
Triết học Tây phương được đưa vào một cách có hệ thống hơn, với
những phương pháp nghiên cứu khoa học hơn, đặc biệt hệ tư tưởng Mác-xít, đưa đến
một lối nhìn mới, trong phương pháp phê bình, mà Trương Tửu là một đại diện.
Trước đây đã có Hải Triều (1908-1954), nhưng Hải Triều là người viết về chính
trị và bút chiến vận động cho chủ nghiã cộng sản, chỉ đưa ra một số bài phê
bình lẻ tẻ, ngắn, chưa có một công trình đáng nói, Trương Tửu mới là người vận
dụng lập luận mác-xít một cách nhuần nhuyễn, có hệ thống trong phê bình văn học.
Không khí Phục hưng này, được Phạm Thế Ngũ phân
tích, trình bày khá cặn kẽ, qua ba nhóm trí thức, phần lớn là Tây học, nổi bật
nhất: Nhóm Tri Tân, nhóm Thanh Nghị và nhóm Hàn Thuyên.
Tri Tân chủ trương: ôn cổ tri tân. Tờ Tri Tân số 1 ra đời
tháng 6/1941. Chủ bút là Hoa Bằng - Hoàng Thúc Trâm với những cây bút: Nguyễn
Văn Tố, Dương Bá Trạc, Nguyễn Đôn Phục, Tiên Đàm, Trúc Khê, Thiếu Sơn, Nhật
Nham, Chu Thiên, Khuông Việt. Nghiên cứu lịch sử là một trong những mục đích
chính của Tri Tân, bởi họ quan niệm: Có biết rõ lịch sử mới hiểu được công khó
của tổ tiên xây dựng nước nhà và tạo được tinh thần trách nhiệm quốc gia của
người công dân. Mục đích của Tri Tân dưới thời Pháp thuộc rõ ràng là mục đích
ái quốc ẩn trong văn hoá. Hoa Bằng viết: "Quốc sử không phải là một nắm
hoang đường mờ thần thoại. Quốc sử không phải là một tập phả ký của một hoàng
gia. Quốc sử phải là những trang dưới ngòi bút thờ sự thật". (Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên, t. 616).
Nhóm thứ nhì là nhóm Thanh Nghị: Tờ Thanh Nghị cũng
xuất hiện tháng 6/ 1941. Nhóm này phần lớn là những nhà trí thức, nhà khoa
học đã đi du học Pháp về. Mục đích của họ là "muốn giải quyết những vấn đề của
dân tộc Việt Nam". Nội dung tờ báo có tính cách bách khoa: Về chính trị có
Vũ Văn Hiền, Phan Anh. Kinh tế và xã hội có Nghiêm Xuân Yêm, Vũ Văn Cẩn. Sử học
có Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Thiệu Lâu, Nguyễn Văn Huyên. Giáo dục và văn học có
Vũ Đình Hòe, Đinh Gia Trinh, Lê Huy Vân. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp tháng
3/45, những thành viên chính của nhóm Thanh Nghị như Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh,
Vũ Văn Hiền, tham gia chính phủ Trần Trọng Kim, để thực hành lý thuyết canh tân
và kiến thiết đất nước mà họ đã đề ra trên tờ Thanh Nghị.
Nhưng chủ trương giáo dục lịch sử của nhóm Tri Tân và canh
tân kiến thiết đất nước của nhóm Thanh Nghị chưa kịp thực hành thì xẩy ra việc
cộng sản cướp chính quyền năm1945, với sự thanh trừng đối lập, chiến tranh Việt
Pháp sau đó, nên tất cả đều bị đình chỉ.
Con đường tư tưởng của Trương Tửu và nhóm Hàn Thuyên
Nhóm Hàn Thuyên gồm toàn bộ những nhà văn, nhà phê bình, nhà
biên khảo có khuynh hướng mác-xít như: Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Tế Mỹ, Đặng
Thai Mai, Nguyễn Đình Lạp, Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Hải Âu, Lương Đức Thiệp và Trương
Tửu - Nguyễn Bách Khoa.
Hàn Thuyên chủ trương canh tân đất nước bằng con đường khác
hai nhóm Tri Tân và Thanh Nghị. Không hoài cổ như Tri Tân, Hàn Thuyên đả phá
quan niệm Khổng Mạnh. Cũng không theo con đường Âu hóa như Thanh Nghị, Hàn
Thuyên chủ trương "đi tìm một triết lý mới về nhân sinh có lợi ích
thiết thực cho cuộc sống hiện tại của quốc dân Việt Nam" và qua các
tác phẩm của họ chúng ta thấy rõ đó là triết học mác-xít.
Hàn Thuyên lập nhóm Tân Văn Hóa, ra bán nguyệt san Văn
Mới.
Căn bản tư tưởng của Hàn Thuyên dựa trên triết học Mác-xít
qua hai điểm chính:
1- Coi lịch sử nhân loại như một
tiến hoá sử, là lịch sử đấu tranh giai cấp.
2- Cho rằng sinh hoạt kinh tế -tức
hạ từng cơ sở- chi phối mọi quyết định thượng từng cơ sở- nói khác đi: vật chất
chi phối tinh thần.
Từ quan điểm mác-xít này, Hàn Thuyên nhìn lại lịch sử và văn
học:
Nguyễn Tế Mỹ xem cuộc khởi nghiã của Hai Bà Trưng là
kết quả của cuộc đấu tranh xã hội thị tộc mẫu hệ chống lại hệ thống phụ quyền.
Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa coi Ca dao là hình thức
đấu tranh không ngừng của dân tộc chống lại toàn bộ hệ thống cầm quyền nho
giáo.
Nhưng điểm khác biệt sâu xa nhất giữa nhóm Hàn Thuyên, theo
quan điểm đệ tứ của Trotsky và nhóm cộng sản đệ tam, theo Staline, là Hàn
Thuyên chống lại quan niệm sùng bái anh hùng. Và Hàn Thuyên chủ trương tự
do tuyệt đối trong sáng tác. Sự khác biệt sâu xa này là một trong những lý
do chính khiến Staline thanh trừng và tiêu diệt Trotsky.
Ở điểm chống lại sự sùng bái anh hùng, họ đã đi đúng đường
lối của Karl Marx hơn những người cộng sản đệ tam chính thống. Marx cho rằng:
Anh hùng hay vĩ nhân chỉ là "sản vật của một hoàn cảnh, một thời cuộc
nào đó, của một sản xuất kinh tế nào đó". Anh hùng chỉ là "sự
tất yếu của thời thế". Tóm lại, theo Marx, hoàn cảnh vật chất và kinh
tế tạo ra anh hùng. Nước Pháp nếu không có Napoléon người Corse, thì sẽ có một
Napoléon khác thay thế. Triết học ở thời điểm giữa thế kỷ XIX, nếu không có
Marx, Engels thì cũng có những Marx, Engels khác. Nguyễn Tế Mỹ viết: "Sự
hưng thịnh, hùng cường của một quốc gia, nhờ dân tộc tiến hoá hơn là nhờ thủ đoạn
siêu việt của một thiểu số cá nhân, cho dầu cá nhân ấy là Lý Thường Kiệt, Trần
Quốc Tuấn, Lê Lợi hay Nguyễn Huệ".
Chủ trương tự do tuyệt đối trong nghệ thuật, của nhóm
Hàn Thuyên, chịu ảnh hưởng của Bản tuyên ngôn văn học của Trotsky và
Breton (Mễ Tây Cơ, ngày 25/7/1938).
Bản tuyên ngôn lịch sử này tựa đề Vì một nền nghệ thuật
cách mạng độc lập (Pour un art révolutionnaire indépendant) được Trotsky
soạn chung với Breton (André Breton là cha đẻ bản tuyên ngôn siêu thực). Breton
cho biết vì lý do chiến thuật, Trotsky đã để Diego Rivera ký thay. Nội dung bản
tuyên ngôn này có những điểm chính sau đây:
1- "Sau khi xua đuổi khỏi nước Đức tất cả các nghệ
sĩ ít nhiều yêu chuộng tự do... chế độ phát-xít Hitler đã buộc những ai còn muốn
tiếp tục cầm bút hoặc cầm chổi vẽ phải tuân lệnh phụng sự chế độ và ca tụng chế
độ, với những điều kiện tồi tệ hơn cả những quy ước tồi tệ nhất. Ở Liên Xô cũng
vậy, ngày nay tình trạng đó đang lên tới cao độ và gần như công khai".
2- "Một nền nghệ thuật chân chính là nền nghệ thuật
không chấp nhận những biến thể khác nhau từ một khuôn mẫu sẵn có nào, mà nó cố
gắng thể hiện những nhu cầu nội tâm của con người và của nhân loại ngày
nay".
3- "Do ảnh hưởng của chế độ cực quyền ở Liên Xô và
thông qua những tổ chức được gọi là "văn hóa" mà Liên Xô kiểm soát ở
những nước khác, bóng đêm thù địch đối với sự nẩy nở những giá trị tinh thần
đang bao trùm lên toàn thế giới. Trong bóng đêm của bùn và máu đó, những con
người giả danh là trí thức và văn nghệ sĩ, lấy sự hèn hạ làm sức bật, coi sự phủ
nhận những nguyên tắc của chính họ là một trò chơi xảo trá, coi sự dối trá như
một thói quen vụ lợi và coi sự ca ngợi tội ác là một thú vui.
Nền nghệ thuật của nhà nước dưới thời Stalin thể hiện, với sự
tàn bạo chưa từng có trong lịch sử, những cố gắng lừa dối một cách vô lý nhằm
che giấu bộ mặt gian phi của họ".
4- Mác nói: "Lẽ tự nhiên là nhà văn phải kiếm được
tiền để có thể sống và viết. Nhưng anh ta không có lý do gì sống và viết để kiếm
tiền... Nhà văn không thể nào coi tác phẩm của mình là phương tiện. Tự
bản thân các tác phẩm đó sẽ là cứu cánh [được dịch là mục đích], chứ
không phải là phương tiện đối với nhà văn và những người khác. Cho nên, khi cần,
nhà văn phải hy sinh đời mình cho cuộc đời của tác phẩm... Điều kiện đầu
tiên của tự do báo chí chính là không coi đó như một nghề".
5- "Trong sáng tạo nghệ thuật, điều chủ yếu là trí
tưởng tượng không bị ràng buộc, không bị áp đặt dưới bất cứ lý do nào theo những
khuôn mẫu sẵn có.
Chúng tôi dứt khoát phản đối tất cả những ai, dù hôm nay hay
mai sau muốn ép buộc chúng tôi chấp nhận rằng nghệ thuật phải tuân theo một
khuôn phép mà chúng tôi thấy hoàn toàn không phù hợp... chúng tôi tuân theo
công thức: hoàn toàn tự do trong nghệ thuật."
6- "Điều chúng tôi muốn: "Độc lập của nghệ thuật -
Vì cách mạng - Vì sự giải phóng vĩnh viễn nghệ thuật".
(trích theo bản dịch của Hoàng Hoa Khôi và nhóm Đệ Tứ)
Trương Tửu chịu ảnh hưởng của Trotsky, đề nghị một nền Tân
Văn Nghệ, trong cuốn Tương lai văn nghệ Việt nam, do nhà Hàn
Thuyên xuất bản năm 1945.
Đặng Thai Mai, lý thuyết gia hàng đầu của cộng sản đệ tam lúc
bấy giờ, đứng ra "phê bình" cuốn sách này dưới tên Thanh Bình, qua ba
bài Phê bình tập sách Tương Lai Văn Nghệ Việt Nam của Trương Tửu, in trên
Tiên Phong số 2, số 3 và số 6.
Trong lời Tựa, Trương Tửu viết:
"Giờ phút này, đứng trước trạng thái biến động mãnh liệt
của toàn thể nền văn minh thế giới, chứng kiến sự xụp đổ tan tành của hầu hết
những giá trị tinh thần mà bấy lâu nay phần đông nhân loại vẫn tôn thờ -chúng
ta, văn sĩ và văn nghệ sĩ- không khỏi hoang mang lo lắng, băn khoăn khi nghĩ đến
vị trí, đến trách nhiệm của chúng ta trong hiện tại và tương lai..."
Câu này phảng phất tinh thần của bản tuyên ngôn Vì một nền
nghệ thuật cách mạng độc lập của Trotsky và Breton, cũng đã mở đầu bằng
câu:
"Người ta có thể nói không quá đáng rằng, chưa bao giờ nền
văn minh nhân loại lại bị nhiều nguy cơ đe dọa như hiện nay. Sự phá hoại nền
văn hoá bằng những phương tiện tàn bạo đã tiêu huỷ nền văn minh cổ đại..."
Chúng tôi không có trong tay cuốn sách này. Nhưng dựa trên ba
bài phê phán cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam của ĐặngThai Mai, ký
tên Thanh Bình, in trên báo Tiên Phong (tạp chí của Hội Văn Hoá Cứu Quốc) cuối
năm 1945 (số 2 ra ngày 1/12/1945, số 3 ra ngày 16/12/45 và số 6 ra ngày
16/2/1946), và bài của Nguyễn Đình Chú tựa đề Đôi điều về cuốn sách Tương
Lai Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Trương Tửu, trên internet, chúng ta có thể biết
qua những nguyên tắc chính của Trương Tửu, để kiến thiết một nền Tân Văn Nghệ,
như sau:
1- Tự do tuyệt đối cho văn nghệ.
2- Đoàn Tân Văn Nghệ sẽ không theo một mệnh lệnh của
một Đảng nào.
3- Trong khi sáng tạo, những thành viên của Đoàn Tân Văn Nghệ
sẽ đặt Văn Nghệ lên trên tất cả, trên mọi huấn lệnh của Đoàn, trên mọi chủ
nghiã.
4- Nếu có "một huấn lệnh, một chủ nghiã" thì "huấn
lệnh, chủ nghĩa phải biến thành máu họ, để sáng tạo tự do và thành thực bằng những
phương tiện thuần văn nghệ".
Quan niệm tự do văn nghệ và không phục tòng sự
lãnh đạo của bất cứ Đảng nào, cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam của
Trương Tửu đã bị Thanh Bình (Đặng Thai Mai) phê phán trên báo Tiên Phong tháng
12/45. Nhưng sau đó là chiến tranh Việt Pháp, Trương Tửu đi theo kháng chiến, dạy
học ở khu tư trong 9 năm. Đến 1956, Phong trào Nhân Văn Giai phẩm ra đời,
Trương Tửu vẫn kiên quyết giữ vững lập trường tự do văn nghệ trên các
tờ Giai Phẩm. Chính vì đường lối Văn nghệ tự do và độc lập đối với Đảng mà
Trương Tửu đã bị những người lãnh đạo văn nghệ như Tố Hữu, Hoài Thanh, Hồng
Vân, lên án và bôi nhọ.
Phê bình của Trương Tửu
Trở lại địa hạt phê bình của Trương Tửu. Câu hỏi đầu tiên là
ông đã làm gì cho phê bình, ở thời điểm những năm 35- 45 của thế kỷ trước.
Trong những tên tuổi xuất hiện củng thời với Trương Tửu như
Thiếu Sơn, Lê Tràng Kiều, Trần Thanh Mại, Hoài Thanh... thường là nhũng bài tản
mạn bàn về văn chương, theo lối họ bình văn hơn là phê bình theo đúng nghiã của
nó, họ chỉ trích vài câu thơ này, khen câu kia hay, dỉ dỏm, câu nọ dở, nhạt,
v.v... một cách rất chủ quan.
Có thể tóm tắt tình trạng phê bình chung vào thời điểm 1940,
qua hai ngòi bút phê bình nổi tiếng nhất là Hoài Thanh và Vũ Ngọc Phan. Tất
nhiên không thể chối cãi những đóng góp quý giá của họ, mà chỉ nhận định lại
cách phê bình của họ so với cách phê bình của Trương Tửu: Vũ Ngọc Phan phê bình
theo lối giáo khoa. Ông khen, chê, tác phẩm một cách rạch ròi, đoạn này được,
đoạn kia hỏng, theo chủ kiến của chính ông. Ở Hoài Thanh là lối phê bình ấn tượng,
nghiã là người phê bình viết lại cái ấn tượng mà mình cảm nhận được khi đọc tác
phẩm.
Cả hai lối phê bình này đều chủ quan. Nhà phê bình giáo khoa đương nhiên coi nhà văn và người đọc là học trò, và khi họ sai lầm, thì cái sai lầm ấy rất tai hại, nó trở thành giáo điều và có khả năng chôn vùi tác phẩm và nhà văn. Có thể thấy rất rõ những tai hại của lối phê bình giáo khoa trở thành giáo điều này qua những ngòi bút phê bình chính thống từ 1945 đến ngày nay: họ áp đặt cái dốt nát của họ trên các nhà văn, và chính những ngòi bút phê bình «vô văn hóa» đó đã chôn vùi bao nhiêu nhân tài vửa chớm nở. Phê bình ấn tượng, cũng không thoát khỏi sự chủ quan, nó dẫn đến sự tán, đến tình trạng người phê bình tùy hứng gán cho tác phẩm những giá trị không có trong văn bản. Sau 1945, Vũ Ngọc Phan không viết phê bình nữa, nên ông vẫn giữ được tư cách của nhà phê bình, trong khi Hoài Thanh đi vào con đường quan lộ và ông đã phải cộng hưởng hai khiá cạnh tồi tệ nhất của phê bình, đó là phê bình tán dương và phê bình giáo điều để giữ vững địa vị của mình trong suốt cuộc đời còn lại.
Cả hai lối phê bình này đều chủ quan. Nhà phê bình giáo khoa đương nhiên coi nhà văn và người đọc là học trò, và khi họ sai lầm, thì cái sai lầm ấy rất tai hại, nó trở thành giáo điều và có khả năng chôn vùi tác phẩm và nhà văn. Có thể thấy rất rõ những tai hại của lối phê bình giáo khoa trở thành giáo điều này qua những ngòi bút phê bình chính thống từ 1945 đến ngày nay: họ áp đặt cái dốt nát của họ trên các nhà văn, và chính những ngòi bút phê bình «vô văn hóa» đó đã chôn vùi bao nhiêu nhân tài vửa chớm nở. Phê bình ấn tượng, cũng không thoát khỏi sự chủ quan, nó dẫn đến sự tán, đến tình trạng người phê bình tùy hứng gán cho tác phẩm những giá trị không có trong văn bản. Sau 1945, Vũ Ngọc Phan không viết phê bình nữa, nên ông vẫn giữ được tư cách của nhà phê bình, trong khi Hoài Thanh đi vào con đường quan lộ và ông đã phải cộng hưởng hai khiá cạnh tồi tệ nhất của phê bình, đó là phê bình tán dương và phê bình giáo điều để giữ vững địa vị của mình trong suốt cuộc đời còn lại.
Trương Tửu đưa ra một quan niệm khách quan về phê bình. Quan
niệm này được ông xác định trong bài đầu tiên, khi phê bình Tố Tâm, năm 1935,
trên báo Loa, như sau: «Phê bình từ nay, theo tôi muốn, không thể, không
nên, chỉ là một sự thưởng thức của từng người. Nó phải là một nghệ thuật, một
khoa học, căn cứ vào lịch sử quan, với những luật tâm lý, xã hội, nghệ thuật để
nghiên cứu».
Và trong cuốn Nguyễn Du và Truyện Kiều, in năm 1942, đi
vào chi tiết hơn, ông viết:
«Bởi vậy, bổn phận nhà phê bình không phải chỉ đi tìm tâm sự
nhà văn trong tác phẩm văn chương. Nhà phê bình cần phải tìm hiểu đến cá tính
nhà văn - vì cái này mới là tất cả nhà văn. Cái này mới thành thực, mới không bị
che đậy hoặc xuyên tạc. Nó là phần sâu thẳm nhất, tiềm tàng nhất, mạnh mẽ nhất
của cơ thể, của khối óc, của tâm hồn. Cá tính, đó mới là cái phần cống hiến
riêng của nhà văn đem dâng trong linh từ văn học.» (trích Nguyễn Du
và Truyện Kiều, trang 22).
Phải nói ngay rằng cả cách phê bình xã hội học, sử học và tâm
lý học của Trương Tửu, ngày nay cũng đã lỗi thời -vì sao nó lỗi thời, điều này
chúng tôi sẽ đề cập đến sau- nhưng ở thời điểm 1940, ông là ngòi bút phê bình
hiện đại nhất. Áp dụng nguyên tắc phê bình khoa học, Trương Tửu đã đi xa hơn những
người cùng thời: ông có một cái nhìn tổng thể về xã hội, về tính chất đấu tranh
trong xã hội. Nhà văn vừa được coi là sản phẩm của xã hội vừa phản ánh lại bản
chất của xã hội, bằng tính chất đặc thù của mỗi cá nhân nhà văn. Và ông đã thiết
lập được mối tương quan mật thiết giữa ba yếu tố: cá nhân, xã hội và tác
phẩm. Trong khi phần lớn những nhà phê bình khác chỉ mới nêu lên được một vài
khía cạnh tương đối hiển nhiên của tác phẩm hoặc một số chi tiết khá đặc sắc về
cách cảm nhận của họ khi đọc tác phẩm, thì Trương Tửu đã nhìn thấy cái sườn
chính của tư tưởng, tức là sợi chỉ đỏ xuyên suốt con đường nhận thức của tác giả,
xuyên qua các tác phẩm. Cái phần chìm ấy, không hiển hiển nhiên và không phải
người đọc hay người viết phê bình nào cũng thấy được, mà chỉ những nhà phê bình
có kiến thức và có thực tài mới tìm ra.
Trương Tửu là một nhà văn, nhà tư tưởng của những người
nghèo. Trong tiểu thuyết cũng như trong phê bình, ông luôn luôn bênh vực giai cấp
vô sản, khuynh hướng ấy đã gặp ở triết học Karl Marx những mẫu số chung cần thiết,
đặc biệt cho việc phê bình văn học. Sự tiếp cận triết học Mác-xít và tìm thấy ở
đó một đường lối mới cho phê bình không chỉ có ở Trương Tửu mà một số người
cùng thời với ông như Tam Ích, cũng thừa nhận, khoảng năm 1936, đã tiếp xúc với
chủ nghiã này: «Trong các sách Mác-xít, tôi để ý đến biện chứng pháp duy vật
nhiều nhất, là vì tôi cần biết để để dùng làm phương pháp phê bình» (trích
thư trả lời Nguyễn Văn Trung về câu hỏi «Tiếp cận đầu tiên với Mác-xít và Cộng
sản»).
Về phần Trương Tửu, ngoài một phương pháp luận cho phê bình,
ông còn tìm thấy ở triết học Mác-xít, những giải pháp phù hợp với lý tưởng đấu
tranh xã hội của ông. Trong bản Tuyên ngôn cộng sản năm 1848, hàng chữ đầu tiên
của Karl Marx là: «Lịch sử tất cả mọi xã hội cho đến chúng ta, là lịch sử
đấu tranh giai cấp». Cho nên, ngay từ năm 1935, khi phê bình các tác phẩm
của Hoàng Ngọc Phách, Khái Hưng, Nhất Linh, Tam Lang, Trương Tửu đã dùng tính
chất đấu tranh và mâu thuẫn, như hai yếu tố nòng cốt để
biện luận. Ông vạch ra tính đấu tranh và mâu thuẫn giữa tự do cá nhân và nền
luân lý độc tài của xã hội Khổng Mạnh. Ở tác phẩm của Tam Lang là tính chất đấu
tranh giai cấp giữa nghèo và giầu. Sau này, khi Trương Tửu quay lại công kích
Nhất Linh, Khái Hưng, cũng lại là một hình thức đấu tranh giai cấp: bởi Tự Lực
Văn Đoàn tiêu biểu cho giai cấp trí thức tiểu tư sản còn Trương Tửu là chiến sĩ
của giai cấp vô sản.
Sự nghiệp phê bình của Trương Tửu có thể chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất ký tên Trương Tửu gồm loạt bài phê bình trên báo Loa năm
1935, mang tựa đề «Văn học Việt Nam hiện đại» và cuốn Kinh Thi Việt
Nam do Hàn Thuyên xuất bản năm 1940, ký tên Trương Tửu.
Trong giai đoạn này, tính đối kháng nổi bật. Trong Nửa
chừng xuân, Tố Tâm và Đoạn tuyệt là sự đối kháng cá nhân chống
lại gia đình; và trong Kinh thi Việt Nam là sự phản kháng của giai cấp
bình dân chống lại hệ thống chính trị nho giáo của giai cấp cầm quyền.
Giai đoạn thứ nhì, gồm các tác phẩm như: Nguyễn Du và
truyện Kiều (1942), Nhân loại tiến hoá sử (1943), Tâm lý và
tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1944) v.v... ký tên Nguyễn Bách Khoa, là giai đoạn
phân tích xã hội. Ông đi sâu hơn vào duy vật biện chứng, nhất là ở cuốn Tâm
lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ ông đã sử dụng duy vật biện chứng như một
phương pháp phê bình mà ông cho là: «phương pháp khoa học cao nhất, hiệu
nghiệm nhất trong tư tưởng hiện đại».
Bài phê bình cuốn Tố Tâm có thể coi là một trong những bài viết
đầu tiên xác định phong cách phê bình của Trương Tửu, mở đầu, ông giải thích vì
sao sự nghiên cứu tác phẩm Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách phải bắt nguồn từ
xã hội:
«Mấy ngàn năm nay, trong xã hội Việt Nam vẫn tiềm tàng sự
xung đột âm thầm của cá nhân và gia đình. Quá trọng lý tính, nho giáo đàn áp những
tình cảm thiên nhiên của lòng người. Bao nhiêu lễ nghi, phong tục ở gia đình -gốc
của xã hội- kiềm chế sự phát triển tự do của cá nhân. Mỗi người chỉ là chiếc
vòng trong chuỗi xích, một cái gạch ngang của hai thế hệ. (...) Vì thế nên
trong cái yên lặng giả dối của xã hội Việt Nam, vẫn ẩn nấp một sức phá hoại.
Dân tộc ta sống theo hai dòng sinh khí ngược nhau. Ở tầng trên, các đồ đệ trung
thành của đạo Khổng chịu hy sinh cá thể cho chế độ tổ quyền. Trái lại, đám bình
dân quê mùa, thô lỗ vẫn chạy theo tự nhiên. Những câu ca dao tụ cngữ, tự tình,
chỏng lỏn, mánh khóe, theo ý tôi, chính là sự trả thù cái quan niệm nhân sinh
khô khan của Nho giáo.
Những câu ve vãn, bỡn cợt (...) những ngạn ngữ phóng đãng,
táo bạo (...) chứng thực rằng dân chúng Việt Nam vẫn khao khát sống một cuộc đời
đầy đủ, lý thú hơn cái đời nhân tạo ngoài xã hội.» (trích bài Tố Tâm
của Song An, in trên báo Loa số 78-79 ra ngày 15-22/8/1935)
Đời sống xã hội Việt Nam như thế, nhưng, theo ông, nhờ sự
tình cờ của lịch sử, đầu thế kỷ hai mươi, văn chương Pháp trở thành môn học bắt
buộc của thanh niên - và chính những cái phải học một cách bắt buộc ấy đã mở cửa
cho thanh niên Việt Nam bước vào hai thế giới tân kỳ: Mỹ thuật và Ái
tình và dẫn họ vào vũ trụ lãng mạn. Và Trương Tửu cho rằng: với cuốn
Tố Tâm, Song An muốn «đánh hai cái dấu hỏi thật lớn vào trang đầu của thời đại» đó
là:«Đôi trai gái «lãng mạn» gần nhau có tránh thoát được ái tình không?» và «Ái
tình ấy, ở hiện trạng xã hội bây giờ gặp những trở lực gì và gây ra những tai
họa gì?
Một vấn đề tâm lý và một vấn đề xã hội. Toàn truyện là một
bài khảo cứu cái nguyên nhân và cái kết quả của thời bệnh (le mal du siècle)» (trích Tố Tâm của Song An, in trên báo Loa số 78-79 ra
ngày 15-22/8/1935). Qua một bài phê bình ngắn, Trương Tửu đã đặt tác phẩm
vào trong lòng xã hội, và từ những vấn đề nóng bỏng của xã hội thời ấy, ông làm
lộ những vấn đề trong tác phẩm: Trong một xã hội có truyền thống «nam nữ thu thụ
bất thân», «ái tình», hay tình yêu tự do bị coi là «căn bệnh của thế
kỷ» thì những câu hỏi «lớn» phải là: đôi trai gái gần nhau có thoát được sự tự
do luyến ái hay không? Và tình yêu này dẫn họ đến đâu?
Lối phê bình của Trương Tửu do đó cũng là một cách nghiên cứu
xã hội qua tác phẩm văn học: ông đọc Tố Tâm không chỉ để thưởng thức tác phẩm,
mà để tìm ra những điều tiềm ẩn đằng sau chữ nghiã, tức là phần hồn của tác phẩm,
và ở Hoàng Ngọc Phách, đó là tình yêu tự do, là «căn bệnh của thế kỷ» lần đầu
tiên được mổ xẻ sâu sắc trong một cuốn tiểu thuyết quốc ngữ.
Khi phê bình Nửa chừng xuân, Trương Tửu nhận xét: «Trong
Tố Tâm, cá nhân xung đột với một cảm tình». Còn trong Nửa chừng xuân «cá
nhân chiến đấu với một chế độ». Khi phê bình Đoạn tuyệt, Trương
Tửu nêu lên trục chính của tác phẩm:
1- Tuyên cáo cho mọi ngưòi biết rằng mới và cũ hay cá nhân và
gia đình vì điều kiện thành lập trái ngược nhau không thể đi đôi được.
2- Nhân đó bày cho thanh niên còn lưỡng lự một phương pháp
xác định: hoàn toàn theo mới.
3- Công bố sự phá sản hoàn toàn của gia đình cũ.
4- Phác họa cho thanh niên một tương lai rực rỡ.
Và trong bài so sánh ba tác phẩm, Trương Tửu rút ra những nhận
xét sau đây:
«Tố Tâm bày ra một hiện trạng. Nửa chừng xuân phác ra một lý
tưởng. Đoạn tuyệt vạch ra một con đường. Song An tả, Khái Hưng nghĩ, Nhất Linh
phá (...)
Trước sức mạnh của chủ nghiã gia đình, Song An phục tòng than
khóc, Khái Hưng cười nụ trốn đi, Nhất Linh gióng trống đánh lại. (...)
Song An là nhà tâm lý. Khái Hưng là nhà tư tưởng. Nhất Linh
là nhà cải cách».
Như thế, trong thời kỳ phôi thai của nền phê bình văn học Việt
Nam, Trương Tửu là người đầu tiên đã có cái nhìn phân tích và tổng hợp về tác
giả và tác phẩm.
Trong cuốn Kinh Thi Việt Nam, ông bắt đầu áp dụng một
cách hệ thống lối phê bình sử học và xã hội học mác-xít. Vận dụng thuyết của
Marx vào trường hợp Khổng giáo, ông viết:
«Trong Khổng giáo, tất cả triết lý và chính trị đều dựng trên
sự nhận định này: con người là một động vật sống trong xã hội. Không có xã hội
thì không có Khổng giáo. Đạo của Khổng Tử là một hệ thống triết lý chỉ có thể
xuất hiện trong một xã hội đã tổ chức, hơn nữa một xã hội nông nghiệp đang ở thời
kỳ hỗn độn của chế độ phong kiến có xu hướng tiến đến thời kỳ trật tự của chế độ
quân quyền. Bởi phát sinh từ cỗi rễ ấy nên Khổng giáo mới coi con người sống
trong xã hội là con người muôn thủa và mới tin ở sức mạnh cùng cực của chế độ
chính trị trong việc cải tạo con người. Theo Đức Khổng thì tình cảm con người
thiện hay ác là do chính trị tốt hay xấu.» (Kinh Thi Việt Nam, Liên Hiệp
tái bản, Sàigòn 1950, trang 35-36).
Lối vận dụng khéo léo này của ông, khiến ta có cảm tưởng rằng
Khổng đã nghĩ như Marx, tức là Khổng cũng cho rằng: «con người là một động
vật sống trong xã hội». Ông lồng tư tưởng Marx vào Khổng như vậy để làm gì? Để
trả lời câu hỏi: «Tại sao Khổng Tử san định Kinh Thi» và để trả lời
câu hỏi này, ông viết:
«Khổng Tử san định Kinh Thi bởi vì Khổng Tử tìm thấy ở Kinh
Thi một phương pháp trị dân Khổng Tử tin rằng nghệ thuật là sản phẩm của tình cảm.
Vì thế, cái khởi điểm giáo hoá của Khổng Tử là chỉnh lại nền tình cảm của con
người. Muốn chỉnh lại tình cảm của con người, Ngài cho học Thi vì thơ chính là
tiếng nói của tình cảm (...). Ngài cho rằng thơ, nhạc vả tình cảm có ảnh hưởng
mật thiết với nhau. Tình cảm trong sạch thì thơ nhạc thiện, tình cảm vẩn đục
thì thơ nhạc ác: Ngược lại, thơ nhạc dâm oán thì lôi cuốn tình cảm vào tội lỗi,
thơ nhạc khoan hoà thì biến tình cảm theo điều thiện» (trang 34-35).
Chúng ta có thể nhận ra đây cũng là lập luận của Socrate về
thi nhạc. Vậy thì, đi từ một lập luận như thế về Khổng Tử, Trương Tửu tiến
đến «đoàn thể», một ý niệm mới mẻ nữa của triết học Mác-xít, ông viết:
«Muốn biết rõ tình cảm của một đoàn thể, không gì bằng xét những
phát hiện tinh thần của đoàn thể ấy. Cái phát hiện thuần khiết nhất của nó là
thơ và nhạc, vì thế nên Khổng Tử đã nói trong Nhạc ký: «Thanh âm chí đạo,
dữ chính thông hỷ: đạo thanh âm thông với chính trị vậy» và lại nói: «Thẩm
nhạc dĩ tri chính: xem kỹ âm nhạc thì biết cách chính trị». Đã nói: «thơ nhạc
do tình cảm con người mà sinh ra» lại nói: «tình cảm con người do chính trị tạo
thành» thì có khác gì nói: «thơ nhạc bắt nguồn ở xã hội»? Cái mối tương quan của
nghệ thuật và nhân sinh diễn đạt đến như trong Khổng giáo thật cũng đã cặn kẽ
và đanh thép lắm. Từ cái thuyết: «thơ nhạc gốc ở tình cảm, tình cảm gốc ở
chính trị», Khổng Tử đã đi đến một kết luận rất hợp lý, là: «Có thể dùng
thơ nhạc để cải tạo tình cảm và luôn thể cải tạo xã hội» (trang 38-39).
Tất cả những dẫn chứng và biện luận trên đây của ông để đưa đến
luận điểm then chốt sau cùng: «Chúng ta cũng có một Kinh Thi quý giá không
kém gì Kinh Thi của người Tàu. Bổn phận chúng ta ngày nay là phải ghi chép nó,
san định nó, chú thích nó, như Chu Công đã ghi chép, Khổng Tử đã san định, Chu
Hy đã chú thích kinh Thi của Trung Hoa» (trang 23).
Với những ai cho rằng không phải Khổng Tử san định Kinh Thi,
thì chỉ cần thay Khổng Tử bằng những người cầm quyền, là lập
thuyết của Trương Tửu vẫn đứng vững: Khi người cầm quyền lấy văn hóa, lấy nhân
nghĩa mà cai trị thì sẽ đạt được kết quả tốt. Văn chương là sản phẩm của môi
trường, vậy muốn biết môi trường như thế nào thì phải khảo sát văn chương. Hai
luận điểm này đã dẫn ông đến việc phê bình ca dao. Và khi phê bình ca dao, ông
dùng các phương pháp sử học, xã hội học và tâm lý học và nhất là ông dựa trên
tư tưởng nòng cốt: Lịch sử tiến hóa của nhân loại là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Con người là sản phẩm của môi trường. Tác phẩm văn chương do
con người làm ra, vì vậy, nó vừa phản ảnh cái môi trường sống ấy, và nó cũng phản
ảnh cá tính riêng của tác giả và tâm lý dân tộc. Từ luận điểm đó, Trương Tửu chủ
trương phải san định lại ca dao Việt Nam. Bởi ca dao mới là tiếng nói của dân tộc
Việt Nam qua các thời đại. Qua ca dao, người ta biết được phong tục tập quán của
dân tộc Việt. Ca dao chính là tiếng nói phát xuất từ quần chúng đối kháng lại
giai cấp cầm quyền. Ca dao là những mũi tên phản kháng bắn vào hệ thống đạo đức
cổ hủ của nho gia, chống lại chế độ phụ quyền, chống lại đạo đức nam nữ thụ
thụ bất thân của Khổng Mạnh, đòi tự do nhục dục, chống lại vấn đế trinh tiết,
chống lại vấn đề lẽ mọn, v.v...
Tóm lại, ca dao là hình thức phản kháng thường trực của người
dân.
Để chứng minh phản ứng của dân tộc Việt Nam trong ca dao đối
với nho giáo. Ông thiết lập một bảng thống kê những luật tắc của Nho giáo:
1. Tôn trọng quyền đàn ông và áp chế quyền đàn bà.
2. Tôn trọng quyền chồng và áp chế quyền vợ.
3. Tôn trọng quyền cha và đoạt mất quyền con.
4. Tôn trọng quyền vua và đàn áp quyền dân.
5. Tôn trọng lý tính và toả chiết tình cảm cùng bản năng.
Và ông viết: «Chân tướng của nho giáo là vậy đó. Chính
cái thứ nho giáo này đã được quyền tràn lấn sang xứ Việt Nam ta, hồi đầu Tây lịch
kỷ nguyên. Và tôi phải nói ngay rằng nó đã bị dân chúng Việt Nam nổi lên chống
lại rất dữ dội. Vì ở một hoàn cảnh kinh tế và xã hội khác với Trung quốc, dân
ta không thể chịu đồng hoá theo cái triết lý ngoại bang ấy. Suốt khoản lịch sử
mấy nghìn năm của xứ Việt Nam chỉ là cuộc xung đột gắt gao giữa dân chúng Việt
Nam và nho giáo. Tổ tiên ta đã chứng tỏ một tinh thần độc lập hùng mạnh vô
cùng. Cho nên tuy được giai cấp cầm quyền (vua, quan, sĩ) cần cù truyền bá và ủng
hộ, nho giáo vẫn phải luôn luôn lùi bước trước sức phản kháng của dân chúng Việt
Nam» (trang 79).
Nhưng để hiểu ca dao tức là Kinh Thi Việt Nam, thì không những
phải tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến ngày nay, mà còn
phải hiểu cả bản chất của Kinh Thi và xã hội Trung Hoa nữa. Sự tìm kiếm này dẫn
ông đến lập luận: Kinh Thi là một tài liệu xã hội học. Và ông chứng minh lập luận
này qua ba yếu tố sau đây:
1- Nó đánh dấu sự xuất hiện của văn tự.
2- Nó là bức họa chân xác của những tín ngưỡng, tư tưởng,
chính pháp, phong tục trong một xã hội.
3- Nó điểm chỉ cho nhà xã hội học những vết tích của một cuộc
sinh hoạt kinh tế.
Xuyên qua những dẫn chứng trong kinh Thi, ông tái tạo bộ mặt
xã hội Trung Hoa cổ, với những nề nếp, phong tục của người Tàu:
"Nghiên cứu theo quan điểm xã hội học và tâm lý học,
Kinh Thi của Trung quốc đã cho ta những tài liệu quý báu như trên. Nhờ Kinh
Thi, ta đã tìm đến được cỗi rễ xã hội và cỗi rễ luân lý của Khổng giáo.Chính
cái Khổng giáo này vào khoảng đầu Tây lịch kỷ nguyên, đã tràn sang xứ ta. Phải
nhìn thấu suốt được chân tướng nó, lại phải am hiểu được tình trạng xã hội đặc
biệt của xứ Việt Nam mới có thể hiểu được cái xu hướng chống nho giáo của nền
thơ phong dao Việt Nam - Kinh Thi của nước nhà". (trang 72-73).
Trong những chương kế tiếp ông đã căn cứ vào ca dao, để «truy
cứu tới cái cơ sở hạ tầng và cái kiến thiết thượng tầng của xã hội Việt Nam».
Ở thời điểm những năm ba mươi của thế kỷ trước, Trương Tửu đã
góp phần như một nhà phê bình văn học có tư tưởng cấp tiến, dùng một phương
pháp khoa học để hệ thống hoá tiến trình cải cách xã hội mà ông đã nhìn ra
trong một số nhà văn đương thời, và nhất là ông đã tìm thấy ở ca dao, hình thức
thi ca lâu đời nhất của dân ta, như một cuôc cách mạng thường trực. Và ông đã dấn
thân vào cuộc cách mạng văn hóa xã hội ấy, vừa như một chứng nhân, vừa như một
tác tố, kích động tiến trình dân chủ hóa xã hội qua ngả nghiên cứu và phê bình
văn học.
Để tìm lại tầm quan trọng của Trương Tửu trong thời kỳ này;
không gì rõ hơn là đọc lại những bài đánh Trương Tửu của những nhà văn lãnh đạo
thời ấy. Qua lời buộc tội Trương Tửu của Tố Hữu, Hoài Thanh, Hồng Cương, Như
Phong, Bùi Huy Phồn v.v... chúng ta có thể biết được đường hướng hoạt động của
Trương Tửu và ông được xem như là một trong những nhà tư tưởng "đầu sỏ"
cùng với Trần Đức Thảo, cầm đầu phong trào đấu tranh ở đại học, khuyến khích và
nâng đỡ tinh thần cho sinh viên.
Tố Hữu viết: "Chúng - tức là Trương Tửu và Trần Đức
Thảo - muốn biến đại học thành một "pháo đài" phản cách mạng như bọn
chúng thú nhận, và thật sự từ vị trí ấy, chúng đã tung ra trong giới văn nghệ
sĩ trí thức những sách báo phản động nhất, những tác phẩm của Trốt- Ky phương
Tây, cùng những tài liệu của bọn phản cách mạng, bọn xét lại quốc tế".
"Trong những tập giai phẩm mùa thu, mùa đông, Trương Tửu đưa ra luận điệu
"văn nghệ sĩ chân chính xưa nay đều chống lại chính trị của giai cấp cầm
quyền" (Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận, t. 161).
Hoài Thanh viết: "Trương Tửu nhắc đi nhắc lại lời
Gide khuyên các nhà văn nhà nghệ sĩ hãy giao rắc vào tâm trí mọi người chất men
bất phục tùng và phản kháng (...) Trương Tửu chủ trương thành lập một đoàn Tân
văn nghệ, không chịu sư lãnh đạo của một đảng nào hết, mà chỉ có thể hợp tác với
đảng chính trị một cách hãn hữu" (sđd, trang 65).
Vẫn lời của Hoài Thanh trong bài "Thực chất của Trương Tửu",
viết: "Trong ba tập Giai Phẩm liên tiếp, nó đả kích thậm tệ vào toàn
bộ cán bộ Đảng phụ trách công tác văn nghệ, phủ nhận tính chất mác xít, tính chất
vô sản của đảng. Vẫn một lối huênh hoang và bịp bợm cũ, nó làm như chỉ có nó mới
là triệt để cách mạng. Một mặt nó bóp méo, bịa đặt sự việc để vu khống... một mặt
khác nó xuyên tạc lời nói của các lãnh tụ" (sđd, trang 66).
Như vậy, phương pháp luận và hành động của Trương Tửu lúc bấy
giờ thể hiện trên hai lãnh vực: Là giáo sư đại học và là ngòi bút chính trực tiếp
trông nom bài vở các tờ Giai Phẩm Mùa Thu và Mùa đông, về tư tưởng, Trương Tửu
chủ trương thành lập một phong trào Tân Văn Nghệ, theo đường lối Trotsky,
không chấp nhận sự lãnh đạo tư tưởng. Về hành động, ông tìm cách tác dụng mạnh
mẽ lên sinh viên và văn nghệ sĩ bằng những bài bút luận lôi cuốn, đầy tính thuyết
phục.
Ông đã phê phán trực tiếp tư cách của những nhà văn nhà thơ
lãnh đạo thòi ấy, từ Lưu Trọng Lư đến Tố Hữu. Theo ông, đó là những kẻ có tâm
lý "bảo hoàng hơn vua". Trong bài "Bệnh sùng bái
cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ" đăng trên Giai Phẩm mùa thu tập
II, ra ngày 30/9/1956, Trương Tửu viết:
"Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, những người của
Đảng phụ trách lãnh đạo văn nghệ, trong kháng chiến cũng như sau khi hoà bình lập
lại, đều có thứ tâm lý nói trên. Ở cửa miệng họ, bao giờ ta cũng bắt gặp cái điệp
khúc bất di bất dịch này: Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi từ chỗ nói: Đảng
không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân lãnh đạo Đảng không bao
giờ sai lầm" [...]
Họ sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ
cá nhân họ. Nhờ phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban
khác, leo dần lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh
miệt quần chúng, báo cáo lên trên thì xuyên tạc sự thực có dụng ý, lãnh đạo anh
em thì mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể tiến
thân bằng đường lối ấy.
Cho nên, khi vị lãnh tụ văn nghệ Tố Hữu chỉ thị bỏ những
tranh tĩnh vật trong một cuộc triển lãm hội hoạ (1955) thì họ bỏ hết những
tranh tĩnh vật; khi ông Tố Hữu tấm tắc khen bức tượng "Hướng điền" của
Song Văn thì họ xô nhau vào tấm tắc khen theo; khi ông Tố Hữu chê hai bức sơn
mài "Trăng lên" và "Niềm vui" của Nguyễn Sáng trong kỳ triển
lãm năm ngoái thì họ ùa vào chê theo mặc dầu họ đã khen Nguyễn Sáng lúc ông Tố
Hữu chưa có ý kiến [...]
"Thêm vào tư cách lãnh đạo ấy sự hiểu biết nông cạn và lệch
lạc về văn nghệ, sự áp dụng máy móc phương châm phục vụ kịp thời, sự bắt buộc lồng
một cách công thức chủ trương chính sách vào tác phẩm nghệ thuật, sự độc quyền
và bè phái trong việc xuất bản báo, sự áp chế có tính cách hành chính hoặc quân
sự đối với những văn nghệ sĩ dám nói thực, nói thẳng, nói hết... là ta có tất cả
cái tình trạng văn nghệ ngột ngạt năm sáu năm nay. Bao nhiêu năng lực sáng tạo
văn nghệ vì thế mà quằn quại không phát triển mạnh được".
Bài viết của Trương Tửu tố cáo toàn diện bộ mặt lãnh đạo văn
nghệ thời ấy, nhưng qua đó ông phê phán cả bộ mặt lãnh đạo nói chung.
Trên đường tranh đấu, Trương Tửu luôn luôn quay về văn nghệ,
bởi đối với ông, văn nghệ mới là nền tảng sâu xa của xã hội. Trong bài "Văn
nghệ và chính trị", Trương Tửu trở lại bản chất của một nhà phê bình,
ông viết về điều kiện sáng tạo:
"Muốn sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải
có một cái nhìn độc đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng
độc đáo, một lối nói độc đáo. Phải duy trì, bảo vệ, phát triển tính độc đáo ấy
không để sức mạnh bên ngoài nào xâm phạm đến hay làm cho mất đi. Phải tự do
nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng
ngôn ngữ nghệ thuật - để có thể phán ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do
đây có nghiã là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức, mọi
quyền uy bắt mình nói điều mình không muốn nói, nghĩ điều mình không muốn nghĩ,
nhận là đúng điều mình cho là sai, yêu những cái mà mình ghét, ca tụng những
cái mà mình phản đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo.
Giả tạo là kẻ thù của nghệ thuật. Giả tạo là tiêu diệt nghệ thuật. Một tác phẩm
văn nghệ không tiết ra từ những cảm nghĩ thành thực và sâu sắc của chính tâm hồn
tác giả sẽ là một phản ảnh nhạt nhẽo của thực tại. Nó khô khẳng vì thiếu chất sống.
Nó bất thành nghệ thuật, và do đó, chẳng xúc động được ai cả". (Giai
phẩm mùa thu tập III, 30/10/56).
Sự đấu tranh của Trương Tửu vì vậy không có tính cách nhất thời,
chống lại một quyền lực độc tài, mà có tính cách miên viễn, bởi nó là sự đấu
tranh của con người với chính mình: Muốn sáng tác hay, người nghệ sĩ bắt buộc
phải tự do: "Phải tự do nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do
tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật".
Và ông đã giải thích chữ tự do, trong điều kiện bị áp bức,
có nghiã là: "chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công
thức, mọi quyền uy bắt mình nói điều mình không muốn nói, nghĩ điều mình không
muốn nghĩ, nhận là đúng điều mình cho là sai, yêu những cái mà mình ghét, ca tụng
những cái mà mình phản đối".
Trương Tửu cho rằng: quy luật của văn nghệ là "phát
hiện sự thật toàn diện". Do quy luật của "tự thân văn nghệ" như
thế, người nghệ sĩ đích thực phải theo đúng "lý tưởng nghệ thuật cao
cả" của mình, theo cái "tự do nội tâm" của mình,
cho nên khi nhìn vào sự thật họ thấy đúng sự thật, và nếu người văn nghệ sĩ
nói "sự thật toàn diện" ấy lên, đúng như sự nhìn thấy của
mình, thì điều đó tức khắc có lợi cho chính trị tiến bộ, cho giai cấp cách mạng.
Đứng trên quan điểm văn nghệ đó, Trương Tửu đòi hỏi:"Một
đảng cộng sản chân chính phải tạo đầy đủ điều kiện cho văn nghệ sĩ làm tròn nhiệm
vụ phát hiện sự thật sâu sắc của cuộc sống. Lãnh đạo tốt là tuyệt đối không
ngăn cản văn nghệ sĩ phát hiện sự thật một cách hoàn toàn tự do".
Sau khi đặt điều kiện như thế, ông tuyên bố: "Nếu
lãnh đạo không tạo điều kiện ấy cho văn nghệ, thì nó cũng tư tạo cho nó điều kiện
ấy" và ông dứt khoát đòi: "Trả công việc lãnh đạo văn nghệ
cho văn nghệ sĩ". Cuối cùng, Trương Tửu kết luận: "Vận mạng
của văn nghệ sĩ dài hơn vận mạng của đảng, dài hơn vận mạng của chế độ",
"văn nghệ sĩ là những chứng nhân về mọi hành động của Đảng trước toà án lịch
sử nghìn đời".
Những lời trên đây là những biện chứng chặt chẽ và tha thiết
nhất của một nhà văn, nhà phê bình đòi quyền tự do tư tưởng.
Xuất thân trong một gia đình nghèo, Trương Tửu gắn bó với với
lý tưởng công bằng xã hội, những tác phẩm đầu tay của ông là những tiểu thuyết
đấu tranh xã hội, đấu tranh cho giai cấp cần lao. Cho nên khi cách mạng nổi
lên, ông đã tìm thấy ở cuộc cách mạng giai cấp này, như một điều kiện cần thiết
để tiến đến công bằng xã hội. Nhưng ông không thể chấp nhận sự chuyên chính của
một đảng cầm quyền, độc quyền tịch thu tự do tư tưởng của toàn thể dân tộc và
ông đã bước vào cuộc đấu tranh thứ nhì và cũng là cuộc đấu tranh cho những lý
tưởng cao nhất của người cầm bút: Đó là cuộc tranh đấu cho tự do và sự
thật.
Trương Tửu gắn bó với hai hệ lụy: Ông thuộc nhóm trí thức Hàn
Thuyên được coi là nhóm phản động Trốt-kít và ông đã tích cực tham gia phong
trào Nhân Văn Giai Phẩm. Hai cái án ấy đã chấm dứt sự nghiệp của nhà phê bình
Trương Tửu và sự nghiệp giảng dậy của ông ở Đại học Văn Khoa Hà Nội, từ 1958.
Trong 40 năm còn lại của đời ông, từ 1959 đến 1999, Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa
đã sống một cuộc đời gần như ẩn dật, làm nghề thầy thuốc Đông y, không liên hệ
đến sinh hoạt văn học nữa. Những năm gần đây, tên tuổi Trương Tửu đã được
"phục hồi", tác phẩm của ông đã được in lại, nhưng dường như ông vẫn
chỉ được tuyên dương như nhà phê bình mác-xít đầu tiên, còn quãng đời tranh đấu
cho tự do tư tưởng của ông vẫn bị "bỏ quên".
Trương Tửu đã bị kết án im lặng trong 40 năm. Có lẽ đó là sự
trừng phạt đau đớn nhất cho một giáo sư, một nhà phê bình, một nhà tư tưởng.
Nhưng sự im lặng ấy, cũng là thái độ đẹp nhất của một nhà văn: Không viết vì
không thể viết những điều trái với sự thật.











Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét