Nhất Linh rất nghiêm khắc với tác phẩm của mình. Trong cuốn Viết
và đọc tiểu thuyết ông đã phê bình không nhân nhượng Đoạn Tuyệt, tiểu
thuyết nổi tiếng nhất của ông. Và dường như Nho Phong từ khi in lần đầu
năm 1926, chưa bao giờ được ông cho tái bản.
Tái bản Nho Phong hôm nay, có trái ý Nhất Linh không?
- Hẳn là có.
Nho Phong là cuốn tiểu thuyết đầu tiên, ký tên Nguyễn Tường
Tam, tức là cuốn sách thử nghiệm của một người mới bước vào nghề, nói nôm na là
cuốn sách nháp, cuốn sách tập viết, cuốn sách viết thử xem sao. Một cuốn sách
như vậy, viết ra, đưa cho một người thân đọc trước, bảo hay, thì in, bảo dở, chắc
bỏ.
Chúng ta thử tìm xem người ấy là ai?
Người bạn văn và bạn thân của Nhất Linh, chắc phải là Khái
Hưng. Nho Phong, như thế, có thể là đã được Khái Hưng đọc
trước -bởi Khái Hưng có kinh nghiệm viết văn trước Nhất Linh- Khái Hưng
"OK" nên đem ra trình làng.
Nhưng không phải thế: Cuối năm 1923, đậu bằng Cao Tiểu, nhưng
vì chưa đủ tuổi vào trường Cao Đẳng, Nhất Linh đi làm thư ký cho sở tài chính
Hà Nội, tại đây, ông "kết duyên văn nghệ" với Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu và
viết Nho Phong. Như vậy, rất có thể người đầu tiên đọc Nho
Phong là Tú Mỡ. Về phần Nhất Linh, nhiều năm sau đọc lại Nguyễn Tường Tam,
thấy "cổ" quá, không cho in lại. Chúng ta có thể phỏng đoán sự tình
như vậy. Nhưng trong những "diễn biến" kể trên có một sự kiện không mấy
ai để ý: không ai ngờ Nhất Linh tự vượt mình nhanh quá thế, kể cả Nhất Linh.
Trong một thời gian kỷ lục, chỉ gần hai năm, đến Người
Quay Tơ, 1926, cuốn sách thứ nhì, Nguyễn Tường Tam đã "lột xác" để trở
thành Nhất Linh. Nhiều người, trong đó có Nhất Linh, thường xem Người Quay
Tơ và Nho Phong là cùng một sản phẩm, một chất lượng của một thời
kỳ, thời kỳ chưa đích thực bước vào nghề văn. Thực ra có khác.
Người Quay Tơ là một tập truyện ngắn, nối tiếp và gián
đoạn với Nho Phong, có nhiều chủ đề khác nhau, đưa ra nhiều "cục diện"
con người khác nhau. Tuy Từ Nương trong truyện ngắn Người Quay
Tơ còn mang dấu ấn của Lê Nương trong Nho Phong, nhưng bối
cảnh đã chuyển sang thời tranh đấu, với người chồng theo Văn Thân, bị tù Côn đảo,
và một đoạn kết "không có hậu": Từ Nương hoá điên sau những bất hạnh
chồng chất cuộc đời.
Mặc dù Người Quay Tơ vẫn còn ký tên Nguyễn Tường
Tam, và văn phong vẫn có chỗ còn cổ điển, nhưng tác phẩm đã trình bầy một bút
pháp khác, một không khí khác, một không gian tranh đấu của Tự Lực Văn
Đoàn.
Trước hết là một xã hội lý tưởng, của Nhất Linh, trong
truyện ngắn Giấc mộng Từ Lâm, mà sau này Võ Phiến sẽ chịu ảnh hưởng và lấy
lại hai chữ Từ Lâm. Giấc mộng Từ Lâm, chính là tiềm thức của chương trình
nhà ánh sáng Tự Lực Văn Đoàn. Rồi vẫn trong tập truyện ngắn ấy, truyện Làm
gì mà băn khoăn thế, đã chớm nở tư tưởng băn khoăn, như một
hoài nghi của người trí thức trước thời cuộc, không dứt khoát trong lựa chọn, băn
khoăn cũng sẽ là một loại ý thức chủ yếu của Tự Lực Văn Đoàn, mà hơn 10
năm sau Nhất Linh sẽ đào sâu, tìm đến ý nghiã triết học trong Bướm Trắng,
và Khái Hưng sẽ tìm cách mổ xẻ trong tiểu thuyết Băn Khoăn. Truyện Giật
mình tỉnh dậy đã thực sự trình bầy một Nhất Linh nhà văn. Riêng truyện Sư
bác chùa Kênh, dẫn đến bộ mặt chìm của những con người làm chính trị bị tha hoá
trong xã hội kim tiền, mà Nhất Linh Nguyễn Tường Tam sẽ gặp trên đường tranh đấu
và đường cầm bút, suốt thời kỳ còn lại: 1926, vào Nam, rồi trốn sang Cao Miên;
1927, du học Pháp; 1930, về nước với bằng cử nhân khoa học, quyết định làm báo,
làm nhà xuất bản; 1932, Phong Hoá ra đời; 1933, Tự Lực Văn Đoàn xuất hiện...
Tóm lại, Tự Lực Văn Đoàn chính thức ra đời năm 1933, và những
tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn bắt đầu ra mắt độc giả trên Phong Hóa từ 1932...
Nhưng mọi sự khởi đầu bằng... Nho Phong, viết năm
1924.
Cuốn sách đầu tiên, luôn luôn là một chập chững. Có thể là một
thành công như Mai Thảo với Đêm Giã Từ Hà Nội. Nhưng cũng có thể là một
cái gì quá non nớt mà tác giả muốn chối từ. Nho Phong, không non nớt, nó mới
chỉ là Nguyễn Tường Tam, chưa phải Nhất Linh, cho nên nó không được Nhất Linh
cho in lại.
Nhưng tại sao chúng ta làm trái ý Nhất Linh?
Bởi vì chúng ta có một lý do khác: Cuốn tiểu thuyết này, văn
hẳn có vài câu cổ, kiểu "Lê Nương năm ấy tuổi mới trăng tròn", hoặc "bóng
hoa thấp thoáng dáng liễu thanh tân", và nó còn có sự dàn xếp tình tiết
éo le, có những sự tình rút trong cổ tích, cổ văn, truyền kỳ, mạn lục... Nhưng
nó không chỉ có thế.
Cuốn tiểu thuyết này là một cuốn sách nháp, một cuốn dàn bài
cho sự nghiệp văn học Nhất Linh, khởi sinh từ cái tên Nguyễn Tường Tam do cha mẹ
đặt.
Cuốn tiểu thuyết này là tác phẩm giao thời trong tất
cả mọi khiá cạnh của hai chữ giao thời. Nó biểu trưng con người giao thời và xã
hội giao thời mà Nhất Linh sinh ra và tồn tại.
Không nói về giá trị văn chương tư tưởng, hãy chỉ nhìn đến
khía cạnh hành văn của ba cuốn tiểu thuyết in gần như trong cùng thời điểm đó:
Hồ Biểu Chánh, trong Ai làm được, tác phẩm đầu tiên, viết
năm 1912, in năm 1922, viết: "Khiếu Nhàn bước vào kéo ghế mà ngồi,
ngó quanh quất không thấy khách ăn uống, duy có một người trai trạc chừng mười
bẩy, mười tám tuổi, đương ngồi tại bàn gần cửa mà viết".
"... từ đây sẽ vắng tanh tin nhạn, bao nhiêu chuyện tình
xưa nghiã cũ, sẽ theo mây bay gió thổi mà mơ màng như giấc chiêm bao. Những
khi canh tà giăng xế, khi mưa sa trước cửa, khi gió thổi bên màn, khi em soi
gương thấy bóng..."
Nhất Linh, trừ một số câu kiểu cách như vừa trích ở trên, viết Nho
Phong như sau:
"Trong sân vắng vẻ, một mình Lê Nương đứng lượm rau bên
dàn thiên lý; có mấy chùm đương nở, rủ xuống gần mái tóc màu hoa tươi mà thanh
như nét mặt dịu dàng".
Hồ Biểu Chánh mớỉ nhất, rồi Nhất Linh, sau cùng mới đến Hoàng
Ngọc Phách. Tại sao?
Bởi Hồ Biểu Chánh nhắm vào dáng điệu, cử chỉ hành động của
nhân vật để xác định con người. Ông sống ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX mà ông
nghĩ và viết, hệt như chúng ta.
Hoàng Ngọc Phách, vẫn còn ở quỹ đạo văn chương thế kỷ XIX, lời
văn biền ngẫu, vế đối vế, vần đối vần, giống như tiểu thuyết thơ.
Nhất Linh đang ngập ngừng bước vào thế giới hiện đại, nhưng
lòng còn quyến luyến văn chương lãng mạng. Đó là Nho Phong.
Nhưng chỉ hai năm sau, đến tác phẩm Giật mình tỉnh dậy,
trong tập truyện ngắn Người quay tơ, Nhất Linh đã tạo ra một "không
khí" căng thẳng, khác hẳn:
"... Sát vào nhà lều có một cái bãi vào độ một mẫu đất,
nổi lên trên mặt nước. Trên bãi có vài cái mả Khách đã lâu ngày lắm. Chen vào
đám cỏ rậm có một con chó đá ngồi yên lặng như để giữ cổ lăng (...)
Ngoài lều vẫn mưa to, lắng tai nghe chỉ thấy gió ào ào như
sóng bể vỗ vào bờ. Tôi nhắm mắt sắp ngủ, sau thấy bụng lành lạnh và như bị cái
gì đè lên, bèn lấy làm nghi, lặng yên, cố sức nghĩ xem vì cớ gì, rồi lần lần
đưa tay lên bụng sờ thấy một vật tròn và nhờn nhờn... Tôi lấy tay sẽ lật chăn
lên, thì vừa có một cái chớp lên sáng rực. Trên bụng, tôi trông thoáng một con
rắn bằng cổ tay nằm vắt ngang".
Với những dòng này, Nhất Linh đã bước một bước khá dài: từ một
Nguyễn Tường Tam kể chuyện và làm văn, sang một Nhất Linh nhà văn. Tại sao như
thế?
Bởi vì người làm văn chưa thoát ra được lề lối kể chuyện:
chuyện mình, chuyện cha mẹ mình, chuyện bạn bè, thân thuộc... ngay cả khi họ tạo
ra những nhân vật, thì những nhân vật ấy vẫn lấy yếu tố chủ quan làm nền. Trong
khi những nhân vật của nhà văn đã bước ra khỏi thế giới chủ quan của tác giả, tự
xác định như một con người độc lập, thoát khỏi sự kiềm chế và mong muốn của tác
giả. Cũng là một người mẹ, nhưng người mẹ của người làm văn, là một người mẹ
nhân từ, hiền hậu, đạo đức, cả đời hy sinh cho chồng con... còn người mẹ của
nhà văn không từ chối một tính từ nào: có thể là một người làm điếm, nghiện
hút, đanh ác, đầy tật xấu, hư hèn, tồi bại, như những con người khác... Nói tóm
lại, người mẹ của người làm văn là người mẹ mà tác giả mong muốn có, còn người
mẹ của nhà văn là một con người. Nhà văn ứng xử với nhân thế và vật thế, trong
vị trí tương đồng, cả người lẫn vật, đều có khả năng tác động vào môi trường,
làm thay đổi thực tại, biến sự tầm thường thành khác thường, và đó là nhiệm vụ
của sáng tạo.
Ở đây, trong Giật mình tỉnh dậy, những yếu tố sáng
tạo trổi dậy bắt người đọc đi từ ngạc nhiên sang kinh ngạc: tức là, từ cảnh
"bình thường" của một người đàn ông "thường" đi câu cá đêm
trong đầm sen... cảnh này ban ngày chắc là nên thơ lắm. Đêm nay, thanh vắng, lặng
lẽ... nhưng những yếu tố lạ bắt đầu xuất hiện: cái bãi cát nổi, vài cái mả
Khách, một con chó đá... rồi mưa sập đến, sấm chớp... và sau cùng là con rắn...
nằm vắt ngang bụng... Điểm quái lạ là sự "rùng rợn" đến từ một thứ
ngôn ngữ thản nhiên, không hề rùng rợn, làm cho ta "rởn tóc gáy". Và
đó chính là nghệ thuật.
Nho Phong chưa có cái "không khí" đó. Nhưng
Nho Phong có một "không khí" khác.
Giao thời giữa một truyền thống cổ xưa đang tàn tạ và một ngã
ba đường.
Giao thời giữa một nền nho học đã suy và một nền tây học đang
thịnh.
Giao thời giữa kỳ thi hương, thi hội cuối cùng và những tú
tài, cử nhân, hậu bổ...
Giao thời giữa một nền văn chương Nôm, Hán và một nền văn học
quốc ngữ phôi thai.
Giao thời giữa những người phụ nữ truyến thống và những người
đàn bà hiện đại.
Lê Nương chính là người đàn bà giao thời ấy, nàng đã cam phận,
đã chịu dựng, đã hy sinh. Nhưng nàng cũng đã trổi dậy để đấu tranh, chống cuộc
hôn nhân dàn xếp. Nàng tần tảo gánh trách nhiệm ngoài đời như một người đàn bà
tân tiến nhưng nàng vẫn ham say một lọng vàng vinh qui bái tổ muộn màng của một
thời đại đang qua.
Tất cả những gì phát xuất từ Lê Nương của Nguyễn Tường Tam, sẽ
là những yếu tố xây dựng nên những nhân vật khác của Nhất Linh sau này.
Từ cái nền "đất tổ" ở ấp An Thi, Tường Tam đã xây dựng
nên một lâu đài băn khoăn, hoài nghi, buồn bã khôn nguôi trước cuộc đổi
đời: "Càng nghĩ càng buồn vì cuộc đời thay đổi, càng lo sợ khi về biết
nương dựa vào ai". Đó là tâm sự của một cụ phủ về hưu, nhưng phải
chăng đó cũng là tâm sự của một Nhất Linh, từ khi còn là một Tường Tam, ngập ngừng
bước vào văn nghiệp, rồi kháng chiến nghiệp? Suốt cuộc đời thăng trầm chìm nổi,
luôn luôn mang một tâm sự "càng nghĩ càng buồn" từ những
ngày đầu tiên bôn ba trên đất khách đến khi về xứ, vẫn "sợ khi về biết
nương dựa vào ai", một tâm sự cô đơn tuyệt đối của nhà văn, nhà cách
mạng, mang theo cho đến ngày quyết định đoạn tuyệt cuộc đời.
Trên nền đất An Thi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Nhất
Linh Nguyễn Tường Tam đã dựng sườn cho cuốn tiểu thuyết đời mình, giao thoa giữa
một nền nho học đang tàn và một nền tây học đang thịnh, giữa hành động chống thực
dân như mục đích cuối cùng của độc lập và sự hấp thụ văn hoá Pháp như con đường
duy nhất dẫn đến tự do, dân chủ, tiến bộ. Giữa cuộc đấu tranh chống Pháp và
tranh chấp đảng phái bằng bạo lực, và con người nhà văn muôn thủa ghét chiến
tranh ghê tởm bạo lực.
Trên nền đất An Thi, Nhất Linh, cũng đã phác ra khung cảnh của
một cuộc đời "lý tưởng", một đời quê mùa điền dã, chậm rãi, bình thản
của người dân quê, không bon chen, không ham bạc tiền, danh vọng. An Thi chính
là giấc mộng Từ Lâm, mà Nhất Linh đeo đuổi suốt đời.
An Thi chính là tên khai sinh của những Cẩm Giàng, những Xóm
Cầu Mới, những dòng suối Đa Mê... Lê Nương là chị của Từ Nương, là tiền thân của
những Cô Mùi, trong giai đoạn giao thời nhiều oan nghiệt.
An Thi chính là thế giới đầu tiên mà Nhất Linh dựng nên cho
tiểu thuyết của mình và cho đời mình, với những con người sống trong buổi giao
thời, đong đưa giữa cuộc đấu tranh cách mạng và đấu tranh văn hoá.
Nho Phong chớm lửa đốt lên những tranh chấp đầu tiên của
hai ý thức hệ nho giáo và tây học, cũng là tiền trạm của sự tranh chấp giữa cái
mới và cái cũ, ở thời điểm phôi thai, chưa ai định nghiã được mầu sắc của những
cuộc đấu tranh.
Tất cả những cá tính, những tâm lý, những xác định, trong cuốn
tiểu thuyết đầu tay này còn mơ hồ. Bức tranh đưa ra mới chỉ là những nét phác.
Những nhân vật mới được trình bầy chỉ có cái sườn. Những quyết định chưa hề dứt
điểm, đoạn tuyệt.
Dường như đến kết, chính tác giả cũng còn lưỡng lự chưa biết
nên cho thi cử cựu trào bước vào nghiã trang hay còn để kéo thêm nhiều năm
tháng nữa. Một sự dang dở, âm thầm, không lối thoát, đến với Lê Nương, trước giờ
phút sinh tử, bên cạnh đàn con cháu thơ dại, như một tương lai vừa sáng vừa tối,
mở ra cục diện hoang mang của đất nước và con người. Dĩ nhiên còn nhiều sơ hở,
còn nhiều cliché, còn nhiều dàn xếp vụng về, trong Nho Phong.
Nhưng đã có Nhất Linh, đã thoáng Nhất Linh, đã một phần Nhất
Linh, đã toàn vẹn Nhất Linh, ở chỗ chúng ta không ngờ nhất: một Nhất Linh thử
bút, một bản nháp Nhất Linh, vẫn là Nhất Linh.





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét