Sức sống của thể thơ lục bát
trong thơ ca Việt Nam hiện đại
(Khảo sát Tuyển tập Thơ Việt Nam thế kỷ XX)
Lục bát là một trong những
thể thơ truyền thống của dân tộc. Lục bát có ảnh hưởng lớn đối với văn học viết
nói chung, thơ ca nói riêng. Lục bát thể hiện rõ sức sống của nó trong diễn
ngôn thơ ca hiện đại. Kết hợp góc nhìn văn hóa học với góc nhìn ký hiệu học,
bài viết khảo sát Tuyển tập Thơ Việt Nam thế kỷ XX nhằm làm rõ những
hằng thể và biến thể của thể thơ lục bát trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
1. Không nghi ngờ gì nữa
khi nói: lục bát là thể thơ bắt rễ sâu nhất vào cơ tầng văn hóa Việt. Nếu coi
văn học dân gian như chiếc nôi êm ái thì lục bát ca dao như dòng sữa mát lành đối
với văn học viết nói chung, thơ ca nói riêng. Được nuôi dưỡng từ những trầm
tích thâm sâu như thế nên đến thơ ca hiện đại, ít có nhà thơ nào không một lần
“dan díu” với lục bát. Khởi nguồn từ ca dao, sau bao “dâu bể”, lục bát vẫn trở
về với cái “Giận thì giận, thương càng thương” trong tâm tình dân tộc. Kết
hợp góc nhìn văn hóa học với góc nhìn ký hiệu học, bài viết khảo sát Tuyển
tập Thơ Việt Nam thế kỷ XX (trơ trữ tình) [8] nhằm làm rõ những mã kí hiệu
đã ngưng tụ thành hằng thể cũng như một số biến thể của thể thơ lục bát trong
thơ ca Việt Nam hiện đại.
2. Thơ Việt Nam thế kỷ XX (đã dẫn) là một tuyển tập thơ tập hợp 620 bài thơ của hơn 450 nhà thơ
Việt Nam trong suốt một thế kỷ. Trên cơ sở nhiều tiêu chí khác nhau, ở một mức
độ nào đó, có thể nói: những bài thơ trữ tình Việt Nam hay nhất thế kỷ XX, cơ bản,
đều góp mặt trong tuyển tập này. Khảo sát về thể thơ, chúng tôi nhận thấy, do
là một tuyển tập thơ xuyên qua cả hai thời kì văn học nên thể thơ đương nhiên hết
sức phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, một điều ngạc nhiên là, lục bát vẫn là không
hề “lép vế”; ngược lại, còn chiếm vị trí trung tâm. Trong 620 bài thơ thì có đến
139 bài được viết theo thể lục bát, chiếm 22,42%. Như vậy là, chỉ sau thơ tự
do, lục bát chiếm gần một phần tư tuyển tập thơ hiện đại. Đưa ra một con số thống
kê cụ thể như thế để thấy: chỉ xét về số lượng, lục bát vẫn trường tồn với tiềm
năng lớn trong thơ ca. Một tương quan khác sẽ cho ta có thêm niềm tin về sức sống
mạnh mẽ của lục bát dân tộc: Ở bài viết “Lục bát Thơ mới 1932-1945 - những đặc
trưng cơ bản về chức năng và nội dung thể loại” [3], TS. Biện Thị Quỳnh
Nga cũng qua sự thống kê với những con số để đi đến kết luận: “Trong cuộc “cạnh
tranh” giành vị thế và đáp ứng yêu cầu của độc giả hiện đại so với các thể loại
khác của Thơ mới, lục bát vẫn khẳng định được khả năng tồn tại và sức hấp dẫn mạnh
mẽ của mình với hơn 148 tác phẩm, chiếm 13,82% (số liệu được thống kê từ cuốn
Thơ mới 1932 - 1945, tác giả và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội)”. 13,83% đối
với tuyển tập Thơ mới đã tăng lên thành 22,42% đối với tuyển tập thơ thế kỷ XX
(trong đó có Thơ mới) đã nói với chúng ta về sự hồi sinh của lục bát, cũng đồng
nghĩa với việc các nhà thơ ngày càng trở về nhiều hơn với thể thơ mang tính căn
cốt, cội nguồn dân tộc này.
2.1. Số lượng bài thơ chỉ
cho thấy sức sống hiện tồn của một thể thơ. Trong khi muốn nắm bắt những hằng
thể và biến thể của lục bát, người nghiên cứu phải quan tâm đến tương quan trên
nhiều phương diện: nội dung lẫn hình thức, cảm thức thẩm mỹ lẫn tư duy nghệ thuật,…
Chưa có học giả nào khẳng định chắc chắn về thời điểm ra đời của lục bát nhưng
mọi người đều dễ dàng đồng nhất rằng, những bài thơ lục bát cổ nhất còn lại
chính là những bài ca dao. Ca dao hầu hết sáng tác theo thể lục bát (95% - theo
Nguyễn Xuân Kính) [2]. Các thi nhân bình dân dùng lục bát để sáng tác ca dao phổ
biến đến mức khiến chúng ta mặc định rằng lục bát là “thể thơ bản quyền” của
ca dao. Chức năng, đồng thời là đặc trưng bản chất nhất của ca dao là trữ tình.
Nếu tục ngữ thuộc phương thức luận lý, thì ca dao thuộc phương thức trữ tình. Từ xuất phát điểm ấy, tục ngữ sử dụng câu chữ dài ngắn khác nhau rất cơ động; trong khi, ca dao thường gắn chặt với thể thơ lục bát. Đôi khi, chúng ta cũng thấy một số câu tục ngữ được viết bằng thể thơ lục bát nhưng những trường hợp này rất ít và đều thuộc dạng mượn yếu tố trữ tình để phục vụ cho chức năng luận lý, kiểu như Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước thì thương nhau cùng. Như vậy, có thể thấy: ca dao, lục bát, trữ tình là những yếu tố luôn luôn đi liền, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau. Phần lớn các bài ca dao Việt đều được cấu thành từ đơn vị là một cặp lục bát. Ca dao than thân, trách phận hay ca dao tình nghĩa, ca dao tình yêu hay ca dao trào phúng, phản kháng… đều được cấu trúc theo lối này. Ít có những bài ca dao được viết “dài hơi” theo kiểu Tát nước đầu đình, Trèo lên cây bưởi hái hoa… Như vậy, xét ở mức độ phổ biến, tiêu biểu; một bài ca dao Việt Nam (14 tiếng) còn nhỏ gọn hơn thể thơ vốn lâu nay được coi là ngắn nhất thế giới như haiku của Nhật Bản; càng kiệm lời hơn một thể thơ được coi là bức tranh khảm trai hàm súc của Trung Hoa như thể thất ngôn tứ tuyệt (28 tiếng). Do đó, có khi ca dao mới là thể loại/thể thơ “nhỏ gọn” nhất thế giới. Rất khả dĩ nhưng đó không phải là vấn đề để bàn tới trong bài viết này.
Nếu tục ngữ thuộc phương thức luận lý, thì ca dao thuộc phương thức trữ tình. Từ xuất phát điểm ấy, tục ngữ sử dụng câu chữ dài ngắn khác nhau rất cơ động; trong khi, ca dao thường gắn chặt với thể thơ lục bát. Đôi khi, chúng ta cũng thấy một số câu tục ngữ được viết bằng thể thơ lục bát nhưng những trường hợp này rất ít và đều thuộc dạng mượn yếu tố trữ tình để phục vụ cho chức năng luận lý, kiểu như Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước thì thương nhau cùng. Như vậy, có thể thấy: ca dao, lục bát, trữ tình là những yếu tố luôn luôn đi liền, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau. Phần lớn các bài ca dao Việt đều được cấu thành từ đơn vị là một cặp lục bát. Ca dao than thân, trách phận hay ca dao tình nghĩa, ca dao tình yêu hay ca dao trào phúng, phản kháng… đều được cấu trúc theo lối này. Ít có những bài ca dao được viết “dài hơi” theo kiểu Tát nước đầu đình, Trèo lên cây bưởi hái hoa… Như vậy, xét ở mức độ phổ biến, tiêu biểu; một bài ca dao Việt Nam (14 tiếng) còn nhỏ gọn hơn thể thơ vốn lâu nay được coi là ngắn nhất thế giới như haiku của Nhật Bản; càng kiệm lời hơn một thể thơ được coi là bức tranh khảm trai hàm súc của Trung Hoa như thể thất ngôn tứ tuyệt (28 tiếng). Do đó, có khi ca dao mới là thể loại/thể thơ “nhỏ gọn” nhất thế giới. Rất khả dĩ nhưng đó không phải là vấn đề để bàn tới trong bài viết này.
Nhìn từ cội nguồn thể thơ, lục
bát hiện đại đã có nhiều sự biến thiên. Lục bát từ ca dao đi vào văn học viết
đã có sự mở rộng về dung lượng thể loại rất lớn. Trong văn học viết, không có
những bài thơ được cấu tạo từ một cặp lục bát như ca dao. Sự mở rộng này cũng
không theo chiều tăng dần từ văn học trung đại đến văn học hiện đại mà “co duỗi”
bất định tùy theo hệ hình, tư duy thể loại,… của mỗi phạm trù/ thời kỳ văn học.
Dài có thể lên đến 3254 câu như Truyện Kiều, ngắn cũng phải bốn dòng,
ngang với một bài thơ tứ tuyệt, như Chăn trâu đốt lửa của Đồng Đức Bốn,
Ngã ba của Hồng Quang [8, tr56, tr605]. Tuy nhiên, trong tuyển tập chúng tôi khảo
sát, những bài lục bát như Chăn trâu đốt lửa, Ngã ba là rất hiếm, chỉ
có vài ba bài. Hơn 98% các bài thơ lục bát được viết từ tám dòng trở lên. Đặc
biệt, những bài được trích từ các trường ca có dung lượng khá lớn. Việc tăng
dung lượng rõ ràng là một thay đổi xuất phát từ mối tương quan giữa nội dung và
hình thức. Trong phương thức truyền miệng, diễn xướng, đối đáp,..; với khả năng
của những “thi nhân” nghiệp dư, khuôn khổ thể loại như trên cũng là điều dễ hiểu.
Thơ ca là thể loại trữ tình nhất trong các thể loại trữ tình, để đáp ứng nhu cầu
diễn giải, giãi bày tâm tư, một cặp lục bát quả là khó gói ghém cho hết những
gì nhà thơ cần nói.
2.2. Mở rộng dung lượng trước hết
bắt nguồn từ đòi hỏi của nội dung. Nhưng người Nhật Bản vẫn bằng lòng với thể
thơ chỉ có 17 tiếng, người Trung Hoa vẫn rất nghiêm ngặt về số từ, số câu với
thể thơ 28 tiếng. Việc mở rộng biên độ về dung lượng của lục bát ca dao rõ ràng
phát xuất từ nhu cầu trữ tình: chính nhu cầu trữ tình đã dẫn đến việc phá vỡ
khuôn khổ dung lượng nhỏ gọn của ca dao. Thực tế lịch sử văn học Việt Nam cho
thấy, lục bát là thể thơ đa năng: có thể sử dụng để tự sự, để trữ tình, để trào
phúng, châm biếm, để giải trí, mua vui,… Trong thơ ca trung đại, chức năng tự sự
của lục bát được phát huy khi mà sứ mệnh chủ yếu của hệ hình văn học này là chở
đạo, minh đạo. Thế nhưng, đến thơ ca hiện đại, lục bát đã trở về với chức năng
trữ tình cố hữu của lục bát ca dao. Khảo sát tuyển tập thơ nói trên, chúng tôi
nhận thấy, các thi nhân sử dụng lục bát theo hai hướng chủ yếu là: tự sự và trữ
tình. Song, xu hướng lục bát trữ tình “lấn át” tuyệt đối so với lục bát tự sự.
Trong 139 bài thơ lục bát, chỉ có vài chục bài “ngả sang” hướng lục bát tự sự.
Thế nhưng, ở đây ranh giới giữa tự sự và trữ tình là hết sức mong manh. Với những bài thơ nằm ở số ít trên, tự sự cũng chỉ là nền tảng, là bệ đỡ để đôi cánh trữ tình được bay bỗng, thăng hoa. Hơn thế, nếu “nhìn sang” các thể thơ khác sẽ thấy, trong cuốn tuyển tập những bài thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XX, những bài thơ tự sự hay nhất, nằm lòng sâu nhất trong ký ức mọi người lại không thuộc về thể lục bát mà vinh dự đó thuộc về các thể thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ hỗn hợp. Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Núi đôi của Vũ Cao, Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Quê hương của Giang Nam,… là những cái tên sừng sững. Do vậy, có thể nói, lục bát hiện đại có thiên hướng phát huy chức năng/ đặc tính trữ tình của lục bát ca dao. Chúng ta cũng nhận thấy cả hằng thể lẫn biến thể ở điểm này: mở rộng biên độ thể thơ là biến thể; nhưng sự mở rộng ấy không nằm ngoài việc quay trở về khai triển “mã” trữ tình trong hằng thể của lục bát ca dao. Sau một chặng đường dài vận động, lục bát hiện đại lại trở về với tính trữ tình của lục bát ca dao. Có thể coi đây là một kiểu lựa chọn của văn hóa Việt.
Thế nhưng, ở đây ranh giới giữa tự sự và trữ tình là hết sức mong manh. Với những bài thơ nằm ở số ít trên, tự sự cũng chỉ là nền tảng, là bệ đỡ để đôi cánh trữ tình được bay bỗng, thăng hoa. Hơn thế, nếu “nhìn sang” các thể thơ khác sẽ thấy, trong cuốn tuyển tập những bài thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XX, những bài thơ tự sự hay nhất, nằm lòng sâu nhất trong ký ức mọi người lại không thuộc về thể lục bát mà vinh dự đó thuộc về các thể thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ hỗn hợp. Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Núi đôi của Vũ Cao, Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Quê hương của Giang Nam,… là những cái tên sừng sững. Do vậy, có thể nói, lục bát hiện đại có thiên hướng phát huy chức năng/ đặc tính trữ tình của lục bát ca dao. Chúng ta cũng nhận thấy cả hằng thể lẫn biến thể ở điểm này: mở rộng biên độ thể thơ là biến thể; nhưng sự mở rộng ấy không nằm ngoài việc quay trở về khai triển “mã” trữ tình trong hằng thể của lục bát ca dao. Sau một chặng đường dài vận động, lục bát hiện đại lại trở về với tính trữ tình của lục bát ca dao. Có thể coi đây là một kiểu lựa chọn của văn hóa Việt.
2.3. Việc trở về với thể thơ lục
bát của các nhà thơ Việt Nam thế kỷ XX, xét theo chiều lịch đại, cũng giống như
những người đã từng đi tới bao chân trời xa lắc nay quay trở về với “bến quê”.
Kế thừa khả năng trữ tình của ca dao, lục bát hiện đại chất chứa cả một cuốn
“bách khoa ngàn tâm trạng”, nhưng đó là những tình cảm mang đậm dáng nét tâm hồn
Việt Nam; những tâm tình thuộc về hồn làng, hồn quê - thuộc về “hương đồng gió
nội”. Đến với lục bát, các thi nhân như tìm lại được tất cả những gì nồng ấm nhất,
thân quen nhất trong hữu thức lẫn vô thức của cá nhân mình. Qua 139 bài lục bát
của tuyển tập thơ, các tác giả đã đi đến từng ngõ ngách tâm tư của đời sống hôm
nay. Ở đây, chúng ta thấy quan hệ hai chiều của sự lựa chọn thẩm mỹ: thi nhân
có nhu cầu bộc lộ những tình cảm gần gũi nhất trong nguồn mạch trữ tình dân tộc
sẽ tìm đến thể thơ lục bát; và ngược lại, lục bát như một ký hiệu quyển tiềm
tàng trong hữu thức lẫn vô thức của nhà thơ, để khi cần, lục bát cũng “đi tìm”
để đến với nhà thơ.
Lục bát hiện đại vẫn bảo tồn những
đặc tính của lục bát ca dao như tông nhịp chậm (tĩnh, âm tính), mềm mại, uyển
chuyển,… Nhưng như đã thấy, lục bát hiện đại có xu hướng mở rộng về dung lượng
khá lớn. Điều này do nhu cầu, đòi hỏi của việc biểu đạt nội dung. Nhiều bài lục
bát không chỉ nhằm diễn tả một trạng thái, một cảm xúc mà là cả một dòng trạng
thái, dòng cảm xúc; một số trường hợp, tác phẩm dung chứa nhiều trạng thái cảm
xúc đan xen nhau. Đã là con người trong cõi đời thì ai cũng nằm trong vòng “ái,
ố, hỷ, nộ…”, song, chính thể thơ mang tính thủ thỉ tâm tình như lục bát lại ưu
trội hơn trong việc chuyển tải những thông điệp tình cảm của con người Việt
Nam. Bên cạnh điều ấy, chúng ta cũng thấy nét riêng của lục bát hiện đại trong
cách thức thực hiện chức năng trữ tình. Haiku của Nhật Bản, thất ngôn tứ tuyệt
của Trung Hoa có dung lượng ngắn và cách lập ngôn khác biệt. Haiku không mô tả
cảm xúc mà chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt, "luôn đón bắt những
khoảnh khắc độc sáng để trong một hạt cát nhỏ xíu có thể bao hàm cả nhật nguyệt".
Do vậy, tác giả thường ít sử dụng tính từ và trạng từ. Haiku sáng tạo theo
nguyên lý mùa và tính tương quan hình ảnh: một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương quan
với một hình ảnh nhỏ (đời thường). Thất ngôn bát cú cũng dựa vào tương quan: động
- tĩnh, sáng - tối, gần - xa,…; đồng thời chủ yếu dựa vào sức gợi của hình ảnh,
hình tượng. Lục bát hiện đại không lập ngôn theo các tương quan trên mà hoặc trực
tiếp giãi bày hoặc bằng các phương tiện nghệ thuật rất gần gũi trong văn hóa
dân tộc: so sánh, ẩn dụ, lối nói luyến láy, đối đáp giao duyên,… Bằng cách
trên, cách trữ tình của lục bát rất uyển chuyển, mềm mại, tinh tế, do vậy mà
cũng rất dân tộc.
Như vậy là, sự bảo tồn những mã văn hoá của lục bát hiện đại được bộc lộ qua cả hai phương diện: nội dung thể hiện lẫn cách thức thể hiện.
Như vậy là, sự bảo tồn những mã văn hoá của lục bát hiện đại được bộc lộ qua cả hai phương diện: nội dung thể hiện lẫn cách thức thể hiện.
Lê Quốc Hán trong Bài thơ
thời gian mở đầu bằng lối so sánh: Thời gian như chuyến tốc hành/ Mang
theo lá đỏ và anh trở về. Ngay sau đó, cảm xúc bàng hoàng xen lẫn niềm tiếc nuối
lại được trao gửi bằng lối ẩn dụ và hoán dụ đầy gợi cảm: Tóc xanh vừa lỗi
lời thề/Thoắt thành mây trắng cuối hè bay ngang. Tinh tế hơn khi cái muộn màng
đến lỡ làng cả một mối duyên tình lại được biểu đạt bằng: Ngu ngơ chạm phải
ao làng/Sen chưa kịp hái đã tàn trên tay. Các hình ảnh ao làng, hoa sen tự
nó đã chạm vào tình cảm dân tộc; Lê Quốc Hán qua các phép tu từ cũng rất dân tộc
đã thổi hồn thơ khắc khoải của mình vào tứ thơ. Ở một bài thơ khác, chỉ từ một
tiếng ếch kêu trong “Đêm làng” đã mở ra bao suy tư về: quá khứ và hiện tại, mơ
và tỉnh, phận mình và phận người,…
Ngọn
đèn quán nước liêu xiêu
Mặt
hồ rau muống cánh bèo nổi trôi
Có
gì da diết bồi hồi
Tiếng
hoang dã, tiếng đầy vơi, tiếng buồn.
Chính việc sử dụng từ láy, âm hưởng,
cách ngắt nhịp cũng đã thể hiện những giai điệu rất dân tộc cho bài thơ. Đêm
mưa của Tô Hoàn lại là một trường hợp đặc biệt về dung lượng, bài thơ chỉ
có ba cặp lục bát. Thế nhưng, chính Nguyễn Bùi Vợi cũng nhắc đến khả năng trữ
tình của thi phẩm: “Bài thơ này ít câu ít chữ nhưng đầy ắp nỗi niềm, viết như
không vì tâm trạng người viết có sự dồn nén tình cảm lớn” [7, tr289]
Mưa
rơi sợi thẳng sợi xiên
Cứ
nhằm vào mẹ những đêm trắng trời
Con
đi đánh giặc suốt đời
Vẫn
không che được một nơi mẹ nằm.
Bài thơ sử dụng phép nhân hóa và lối nói sóng đôi rất khéo. Những hạt mưa lạnh
lẽo, vô tư cứ tìm đúng chỗ mẹ nằm mà nhỏ xuống. Những làn mưa đêm trắng trời
hay người mẹ bạc đầu lại phải thức trắng đêm vì mưa rét? Lục bát có thể ít hướng
đến những cảm thức lớn lao mang tầm vũ trụ nhưng riêng cái sâu sắc, tinh tế
trong tình đời, tình người thì được mở ra với những chiều kích vời vợi. Bài thơ
kết thúc trong nỗi xót xa đau đáu. Một lần nữa phép chuyển nghĩa ẩn dụ đã
chuyên chở thành công ý thơ này: Con đi đánh giặc suốt đời/ Vẫn không che
được một nơi mẹ nằm.
Tự hỏi rồi tự trả lời hay nói
cách khác, chủ thể trữ tình tự phân đôi để một mình đối đáp, cũng là phương thức
thường gặp trong lục bát. Bên cạnh lối tự vấn lòng mình là lối so sánh, ví von;
cách điệp cú pháp, điệp ngữ nhằm tạo mối liên kết, câu nọ gọi câu kia bắc cầu
cho cảm xúc nối tiếp tuôn trào:
Mùa
đông rụng lá ưu phiền
Sang
xuân biết có nỗi niềm nhớ mong?
Biết
là nỗi nhớ bằng không
Tôi
ra cửa biển ngồi trông cánh buồm
Tôi
rơi vào cuối ngọn nồm
Em
rơi vào cuối nỗi buồn của tôi
Nỗi
buồn như tấm gương soi
Gặp
em không gặp thì tôi gặp mình
(Tôi
ra cửa biển - Hải Kỳ) [8, tr386]
Ở một đất nước mà chiến tranh đã gây ra bao nhiêu vết thương dai dẳng; lục bát
có sở trường trong việc diễn tả những thổn thức của người ở lại:
“Ra
sông giặt áo cho chồng
Vắt
vai cả một dòng sông mang về”
(Ra
sông giặt áo cho chồng - Hồ Anh Tuấn)
“Gần
được ấm, xa được êm
Biết
thì ruộng hóa cũng nên mùa màng...
Chị
thản nhiên mối tình đầu
Thản
nhiên em nhận bã trầu về têm…
2.4. Trong 139 bài lục bát,
một điều thú vị là nhiều nhà thơ hiện đại lấy chính hình tượng lục bát làm nguồn
cảm hứng, làm thi tứ cho tác phẩm của mình: Lục bát tuổi mười lăm - Đặng
Nguyệt Anh, Lục bát ngày mưa - Phạm Ngọc Cảnh, Lục bát Tiên Điền -
Yến Thanh, Nghe câu hát cũ - Phan Trọng Dật, Mưa - Nguyễn
Ngọc Ly,… Đó là chưa kể đến các bài thơ được gợi hứng từ một điệu lí, từ một
câu ca dao, một bài dân ca,… Có thể gọi những bài thơ này là “siêu lục bát”.
Nơi những áng “siêu lục bát” trên, luôn có sự gặp gỡ, nối kết, tương liên giữa
tâm hồn nhà thơ với lục bát truyền thống. Từ góc độ lí thuyết tiếp nhận, chúng
ta nói đến mức độ tiếp nhận kí thác, tri âm. Từ góc độ liên văn bản, chúng ta
nhìn thấy sự cộng hưởng hình tượng rất lớn. Bài Mưa của Nguyễn Ngọc Ly lấy hai
câu ca dao rất nổi tiếng “Trời mưa bong bóng phập phồng/Mẹ đi lấy chồng con ở với
ai” làm đề từ để nối kết với tâm trạng của chủ thể trữ tình khi người mẹ một
lần nữa sang đò:
Ấy
là tôi nói ngày xưa
Mẹ
tôi tái giá - đò đưa theo dòng
Không
mưa cũng thể phập phồng
Lừa
tôi ngõ trước, mẹ vòng lối sau.
Lời ca dao xưa và lời thổn thức bây giờ hô ứng liên hoàn làm một, hòa quyện đến
mức khó mà phân tách được. Không biết mưa của ngày xưa hay mưa của hôm nay, chỉ
biết một màn mưa mù mịt hòa vào cơn mưa nước mắt của mẹ vì phải “vòng lối sau” để
tránh đi sự níu kéo khi nhìn thấy mặt con. Khổ thơ tiếp theo, nhân vật trữ tình
trực tiếp thổ lộ sự tác động của những câu ca dao đến nỗi niềm của người hiện tại:
Ấy
là tôi nói ca dao
Con
chuồn chuồn ớt đậu vào đời tôi
Bà đừng
ru nữa bà ơi
Vít
thêm ngọn nắng mồng tơi giậu nhà
Ở những bài thơ này, tâm tình của
hôm qua và hôm nay đã tạo nên sự giao hòa, để từ giao điểm đó, chủ thể thữ tình
mở ra những lối suy tư của riêng mình. Đặng Nguyệt Anh trong Lục bát tuổi
năm mươi đã van nài con tạo “Cất giùm tôi tuổi năm mươi” đặng quay về
với cái thời “lúng liếng đong đưa”: “Để tôi về sống lại thời ngày xưa”. Một
lần quay về như thế, nhà thơ bắt gặp được biết bao lời dân ca:
Dẫu
rằng không hát trúc xinh
Mà
ai cứ đứng sân đình đợi ai
Khoảnh khắc ngày xưa chỉ trở về trong hồi ức nên bài thơ kết thúc trong dư ba của
sự tiếc nuối:
Có
còn lúng liếng đong đưa?
Có
còn cậu ấm. Ngày xưa có còn?
Chính sự khép mở của những hình ảnh lục bát ca dao đã làm cho Lục bát ngày
mưa của Phạm Ngọc Cảnh thêm mịt mù tâm trạng:
Bếp
nhà ai đốt nùn rơm
Tàu
lăn qua ngọn khói thơm quê nghèo
Khói
lan xanh cả ruộng bèo
Con
cò mở cánh dập dìu muốn bay.
2.5. Trong thơ ca hiện đại,
lục bát ca dao vừa có sự biến đổi về mặt nội dung vừa có sự biến đổi về hình thức
thể thơ. Chính trong những biến thể này, chúng ta càng thấy rõ sức sống, sức ảnh
hưởng của lục bát dân tộc. Lục bát truyền thống lúc này sẽ trở thành ký hiệu
quyển cho các thi nhân đương đại thi triển những ý tưởng sáng tạo của mình.
Lục bát hiện đại đi vào những cảm
xúc tế vi nhưng không phải là không thể hiện được những suy tư rộng lớn vượt
lên các dòng tâm trạng “nhỏ nhặt” đời thường. Khi cần, các thi nhân vẫn gói
trong những vần thơ mềm mại, uyển chuyển kia bao triết lý về cõi siêu hình, về
kiếp phù sinh. Đây là nét mới, là biến thể về nội dung của lục bát thế kỷ XX so
với lục bát ca dao:
Đưa
tay dắt gió vào đêm
Linh hồn ta
ngỡ bỏ quên cuối trời
Dấu
chân xin cát chớ vùi
Cho ta lại được
luân hồi kiếp sau
(Qua
hoàng hôn - Mai Văn Phấn)
Vẫn là dấu vết trong cõi miền tâm linh người Việt, thi sĩ Bùi Giáng dùng lục
bát để gói ghém thành công bao tâm tình khác của cõi đời:
Bỏ
trăng gió lại cho đời
Bỏ
ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ
người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ
hình hài của tiên nga trên trời
Bây
giờ riêng đối diện tôi
Còn
hai con mắt, khóc người một con.
(Mắt
buồn)
Mở rộng khảo sát ra ngoài tuyển
tập thơ trên, chúng tôi nhận thấy: một số thi phẩm, bên cạnh việc “thừa hưởng”
những mã thẩm mĩ của lục bát ca dao, nhà thơ có sự gia công thêm về hình thức
thể thơ. Ở các thi phẩm này, “hồn cốt” lục bát được ẩn dưới một chiếc áo mới nhờ
việc thay đổi cách ngắt dòng. Các biến thể theo hình thức trên chính là phương
thức/ cách thế để lục bát trường tồn cùng trường diễn ngôn của thời đại:
Tháng
ngày chạng vạng cơn mê
Oán
ân chạng vạng
Bốn
bề đong đưa
Đôi
khi chạng vạng vần thơ
Làm
sao soi đến bến bờ tương lai
Xin
trăng sáng trọn đêm dài
Vén
Màng
chạng vạng
Phủ
dày hồn tôi.
(Chạng
vạng - Nguyễn Văn Phương)
3. Vậy là, trải qua hàng
ngàn năm, lục bát cũng “chìm nổi” theo những quy luật vận động riêng của văn học.
Điều đáng mừng là, với nền thơ ca Việt Nam hiện đại, lục bát vẫn khẳng định được
chỗ đứng của mình trong lòng dân tộc. Từ thời Thơ mới đến nay, lục bát có sự
gia tăng về số lượng, nghĩa là ngày càng có nhiều nhà thơ “duyên nợ” với lục
bát. Ca dao - dân ca vốn đi từ trái tim lên miệng. Lục bát đã thừa hưởng toàn bộ
gia sản này của ca dao để từ đó bộc lộ tâm tình của nhà thơ trước cuộc sống hôm
nay. Nhu cầu bộc lộ càng lớn và những điều kiện đi kèm càng thuận lợi thì lục
bát càng có xu hướng nới rộng về dung lượng. Mở rộng dung lượng cũng xuất phát
từ chính nhu cầu trữ tình, nhu cầu biểu đạt những tình cảm trong hằng số văn
hóa dân tộc. Điểm chung đó đã dẫn đến sự gặp nhau, sự đồng vọng giữa lục bát hiện
đại và lục bát dân gian. Lục bát hiện đại trở về với nguồn cội là một thể thơ
dùng để tâm tình. Các thi nhân sáng tác bằng lục bát cũng sử dụng tương quan
nhưng lại là một chiều tương quan khác: tương quan của lối đối đáp giao duyên;
lối so sánh ví von; lối ẩn dụ, hoán dụ,… để tạo nên cái tinh tế, cái mềm mại,
cái ngọt ngào trong cách trữ tình. Tâm tình thì thời nào, nền văn học nào cũng
có nhu cầu thổ lộ. Nhưng lục bát hiện đại có thiên hướng rõ trong việc lưu giữ
những ký ức thuộc tâm tình dân tộc, đồng thời viết tiếp những dòng ký ức mới để
tết dệt nên một nét đẹp giàu bản sắc của văn chương Việt.
Các thi nhân của nền thơ ca thế kỷ XX vẫn chung thủy với việc dùng cách thức riêng của người Việt để thể hiện tình cảm riêng của người Việt. Điểm mạnh, điểm yếu đều lộc lộ ở điều này. Cùng với lục bát trong quá khứ, lục bát hiện đại đã tạo nên một giá trị của văn hóa Việt. Nếu thi nhân đương đại biết kết hợp chiều sâu tâm tình vốn là “gene trội” trong văn hóa dân tộc với tính hàm súc cao độ của những hình tượng đa nghĩa, mang tính triết lý, thì lục bát sẽ còn ghi dấu ấn đậm hơn nữa không chỉ đối với văn học dân tộc mà còn có thể lan tỏa đối với văn học nhân loại.
Các thi nhân của nền thơ ca thế kỷ XX vẫn chung thủy với việc dùng cách thức riêng của người Việt để thể hiện tình cảm riêng của người Việt. Điểm mạnh, điểm yếu đều lộc lộ ở điều này. Cùng với lục bát trong quá khứ, lục bát hiện đại đã tạo nên một giá trị của văn hóa Việt. Nếu thi nhân đương đại biết kết hợp chiều sâu tâm tình vốn là “gene trội” trong văn hóa dân tộc với tính hàm súc cao độ của những hình tượng đa nghĩa, mang tính triết lý, thì lục bát sẽ còn ghi dấu ấn đậm hơn nữa không chỉ đối với văn học dân tộc mà còn có thể lan tỏa đối với văn học nhân loại.
Tài liệu than
khảo:
1. Michel
Gresset (1985), Intertextuality in Faulkner, Univ Pr of Mississippi.
2. Nguyễn
Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học Xã hội, tr.118.
3. Nhiều tác
giả (2014), Văn học và ngôn ngữ - những góc nhìn mới, Nhiều tác giả,
Nxb Đại học Vinh, tr.103-118
4. Biện Thị
Quỳnh Nga (2007), “Vị thế và đặc trưng thi pháp thể loại lục bát trong Thơ mới
1932 - 1945”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh, Tập XXXVI, Số 2B, tr. 29 -
36.
5. Bùi Văn
Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Phan Diễm
Phương (1998), Lục bát và song thất lục bát, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
7. Chu Văn
Sơn (2004), “Về bản sắc dân tộc và một hướng tìm kiếm trong thơ”, Tạp chí Văn học,
số 11, 2004, tr. 41.
8. Nguyễn Bùi
Vợi (chủ biên) (2015), Thơ Việt Nam thế kỷ XX (Thơ trữ tình), NXB
Giáo dục, Hà Nội.
9.
http://m.nguoiduatin.vn/.
Trần Viết Thiện








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét