Thứ Hai, 28 tháng 2, 2022
Về vấn đề người đọc cổ điển và người đọc hiện đại
Về vấn đề người đọc cổ điển
Cái kết ở bài viết của Đỗ Lai Thúy (Người đọc như
là... Báo Văn nghệ số 27 ngày 03-07-2010) gợi một cảm tình với người
đọc, ông nói “mô hình người đọc” mình đã nêu lên không có
mục đích nào khác là để nhận diện nó trong một hệ hình tư duy mới,
tạo bước tiến trên hành trình hội nhập thế giới, tạo ra quyền học
thuật “Ở cái khác của những hệ hình tư
duy khác nhau”.
Cảm nhận bài thơ "Mẹ tôi chửi kẻ trộm"
Cảm nhận bài thơ
"Mẹ tôi chửi kẻ trộm"
Nguyên văn bài thơ của Tòng Văn Hân:
MẸ TÔI CHỬI KẺ TRỘM
Những lần gà nhà tôi bị mất
Mẹ tôi chửi:
Cái đứa trộm gà ơi
Ta cầu mong cho ngươi
Nuôi được gà đầy đàn
Lứa này tiếp lứa khác
Có nhiều gà nhất bản
Có nhiều gà nhất mường!
Những lần lợn con nhà tôi bị mất
Mẹ tôi chửi:
Đứa nào trộm lợn nhà tôi
Thì hãy có nhiều lợn
Đàn tiếp đàn núc ních
Lứa tiếp lứa không ngừng
Bán được nhiều tiền nhé !
Từ thuở bé đến giờ
Hễ nhà mình mất gà mất lợn
Tôi đều nghe thấy mẹ tôi chửi như thế
Cầu mong cho kẻ trộm kia khá giả
Không bao giờ đến nhà tôi ăn trộm nữa
Tôi là đứa con gái dưới mức bình thường
Nhan sắc không bằng đám bạn
Khéo léo không bằng người ta
Thế mà có hẳn bốn nhà
Muốn được tôi làm con dâu của họ.
Ở
tỉnh lẻ báo chí về muộn, mãi đến gần đây thấy trên mạng fac có nhiều ý kiến
khác nhau về bài thơ này. Hình tượng thơ bao giờ cũng có tính đa nghĩa, tạo nên
nhiều cách hiểu khác nhau điều đó không lạ, chúng ta mong tiến đến cách hiểu
khá gần vẻ đẹp của bài thơ.
Chúng
tôi xin trình bày cách cảm nhận của chúng tôi về bài thơ trên.
Bài thơ có hai phần/ đoạn dưới cách nói (nhân xưng) ngôi thứ
nhất.
Phần một nói chuyện mất gà, lợn của gia đình, mẹ thường chửi thủ phạm. Cái lạ
là nội dung câu chửi khác những câu chửi thông thường mắng nhiếc, xỉa xói, cầu
cho thủ phạm bị tai nạn, tù tội, đau đớn cho đáng số, ở đây thì mong nó:
… Nuôi được gà đầy đàn
Lứa này tiếp lứa khác
Có nhiều gà nhất bản
Có nhiều gà nhất mường!
… có nhiều lợn
Đàn tiếp đàn núc ních
Lứa tiếp lứa không ngừng
Bán được nhiều tiền nhé!
… Cầu mong cho kẻ trộm kia khá giả
Không bao giờ đến nhà tôi ăn trộm nữa.
Nghĩa là mong nó đủ
ăn nếu không khá giả để khỏi đi trộm nữa! Bà mẹ có một tấm lòng nhân hậu, bà hiểu
kẻ trộm cũng có ba, bảy loại.
Giữa hai đoạn là một khoảng
lặng để cho người đọc tự kết nối.
Phần hai bài thơ nói
hoàn cảnh cô gái, tuổi cập kê nhan sắc bình thường nhưng nhiều đám dạm hỏi muốn
lấy làm vợ, phải chăng vì em là con một bà mẹ trung thực nhân hậu, là “con gái nhà lành”. Vì mến cái phẩm hạnh gia đình như vậy nên nhiều
trai làng muốn lầy làm vợ!
Thông điệp bài thơ
nghĩa đen là vậy, nhưng nghĩa bóng, nghĩa xa cuả nó khá sâu sắc, nó gợi cho người
đọc suy nghĩ nhiều vấn đề đạo đức cũng như thiết chế xã hội. Tấm lòng bà mẹ ẩn
dưới tiếng chửi là sự thông cảm, bà hiểu cái điều “ăn mày là ai, ăn mày là
ta, vì chưng khốn khó nên ra ăn mày”, trộm cắp cũng là vậy! Ta có thể liên hệ với Nguyễn Trãi về việc ông phân xử vụ án bảy tên trộm nhỏ tuổi, bảy tên
cướp vị thành niên bị quan hình sự xử tội chết, ông xin tha, nghĩ rằng khi yên ổn
no đủ khắp nơi chốn thanh bình thì nạn trộm cắp ắt không còn, hay liên hệ Nguyễn
Du nói về cái sự liều lĩnh phản loạn của người nông dân trong xã hội cũ
vì thiếu, khổ nên đi ăn cắp, đói nghèo đi làm loạn. Giải quyết tận
gốc vấn đề đó, đủ sống là hết nạn trộm cắp, loạn tặc. Cái tư tưởng này Nguyễn
Du nói nhiều lần “Dân đen không chịu nỗi đói rét/ Lo bát cơm manh
áo mà xem nhẹ tính mạng… Chỉ cần cứu tế một chút thì dân tự yên” (Tiểu dân
bất nhẫn hàn thả cơ/ Cẩu đồ bão úc than vi khinh/… Sảo gia tồn tuất đương tự
bình - Trở binh hành). Nó vừa bày tỏ nỗi cùng cực đến phải liều thân của kiếp dân đen trong xã hội cũ, nó cũng gián tiếp cho ta thấy phần nào cái
nguyên nhân sâu xa đưa đến các cuộc khởi nghĩa nông dân triền miên trong lịch sử.
Ý
nghĩa thứ hai: Bài thơ không chỉ qua tiếng chửi của bà mẹ mà còn qua tình
cảm, sự lựa chọn của trai làng thể hiện một lối sống lành mạnh trong cái thời
trắng đen còn lẫn lộn, cái bên ngoài lừa gạt bên trong, hình thức lấn át nội
dung. Bài thơ đề cao sự trung thực, nhân hậu của đạo lý ứng xử trong gia đình
cũng như ngoài xã hội, cái đạo lý luôn được đề cao trong nhân dân ta. Phần một
bài thơ là nhân, phần hai là quả. Chính tấm lòng nhân hậu của bà
mẹ đã đem đến vẻ đẹp phẩm hạnh của cô con gái khiến bao chàng trai muốn
gá ngãi trăm năm. Bài thơ làm sáng thêm cái triết lý đạo đức mà nhân dân ta thường
nói đến “cha mẹ ăn ở để phúc cho con cháu” hay “con nhờ phúc mẹ mẹ ơi”.
Hình
thức bài thơ mộc mạc, tươi mát được xây dựng bởi một ngôn ngữ đời thường
và bố cục kiểu cắt dán có khoảng lặng khá mới. Cái lối ẩn ý nói ngược ta
cũng thường quen gặp trong văn hóa dân gian kinh cũng như thượng, bên
ngoài là chửi nhưng bên trong là cầu mong, nghe qua là tầm thường nhưng
nghĩ lại là tốt đẹp cao quý, thoáng hẩng hụt ban đầu sau lại thấy giàu ý
nghĩa. Đặt bài thơ này vào trùng điệp các bài thơ dự thi khác nó nổi lên như một bông hoa đồng nội đầy hương thơm. Bài thơ có cấu tứ đẹp. Nói như
chơi mà thấm thía!.
19/4/2021 Yến Nhi
19/4/2021
Về các phạm trù mỹ học và nền nghệ thuật mới
Về các phạm trù mỹ học
và nền nghệ thuật mới
Trong cuộc trao đổi của hai nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc
Hiến và Đỗ Văn Khang các vị có nhắc đến các phạm trù mỹ
học hiện hành. TS Đỗ Văn Khang nói đến năm phạm trù cái bi, cái
hài, cái trác tuyệt, cái đẹp, cái xấu, GS Hoàng Ngọc
Hiến nhắc đến bốn là cái bi, cái hài ,cái cao cả, cái đẹp. Quả là các tài liệu mỹ học thông dụng thường nhắc
đến các phạm trù mà TS Đỗ Văn Khang nêu lên, cũng có tài liệu nêu
thêm cái thấp hèn thành ba cặp đối lập: cái đẹp - cái
xấu, cai bi - cái hài, cái cao cả -cái thấp hèn và ta cũng không
lấy làm ngạc nhiên khi các tác giả của Nguyên lý mỹ học Mác Lênin chỉ chú trọng đến ba phạm trù chính là cái đẹp, cái
bi kịch và cái hài kịch (1), tuy nhiên trong trường hợp nào
thì cái đẹp thường được xem là phạm trù
trung tâm khi nói về mối quan hệ thẩm mỹ giữa nghệ thuật và hiện
thực. Nhân việc trao đổi của các vị chúng tôi muốn biện luận thêm
một vài vấn đề liên quan khá thú vị về mối quan hệ giữa
các phạm trù thẩm mỹ hiện hành với nền nghệ thuật nước
nhà đương đại.
Vấn đề số lượng các phạm trù thực ra không cố định
trong lịch sử mỹ học, vì theo thời gian có phạm trù này mất đi và
phạm trù kia thêm vào, nó không nhất thành bất biến. Vấn đề thực
sự có ý nghĩa là nội dung các phạm
trù và cách vận dụng vào các nền văn chương,
nghệ thuật ra sao! Về số lượng các phạm trù mỹ học trong
lịch sử thì có những phạm trù nay đã mất (Thí dụ phạm trù cái
tốt đẹp - kalokagatiia - trong nền nghệ thuật cổ Hy Lạp,
thời kỳ sau không còn nữa). Có những phạm trù mà có thời
và có quốc gia các nhà mỹ học bản địa đưa thêm vào, chẳng hạn phạm
trù cái anh hùng!
Vào những năm giữa thế kỷ trước các nhà mỹ học Xô
viết gắn cái anh hùng với Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa, xem là “phạm trù biểu hiện những đặc trưng trong sáng nhất của
thời đại’ (2), sau đó trên cơ sở hai cuộc kháng chiến anh
hùng của dân tộc, nền nghệ thuật chúng ta có những thành công trên
mặt trận văn hóa chống đế quốc ,có tác động giáo dục lớn đến tình
cảm quần chúng, các nhà nghiên cứu Hà Huy
Giáp và Lê Anh Trà tiếp tục cổ súy bổ sung phạm trù cái
anh hùng cho nền nghệ thuật Việt Nam. Tuy không thật chặt chẽ về phương
diện lý luận thẩm mỹ nhưng trên phương diện thực tiễn sáng tạo, bổ trợ cho
việc xây dựng CNAHCM trong đạo đức, phạm trù cái anh hùng đã
có những tác động nhất định vào lý tưởng thẩm mỹ
của văn chương, nghệ thuật nước ta suốt quãng đường dài.
Nhìn chung cái anh hùng trên góc độ thẩm mỹ gần
với cái cao cả, cái đẹp nhưng không đồng nhất và vì
đến sau nên chưa thật có nhiều thành tựu gây ấn tượng! Trong
những năm đánh giặc thì quan điểm chi phối nền nghệ thuật chủ yếu
dựa trên phương diện đạo đức và chính trị. Đề tài gắn
với thời sự phục vụ chủ trường đường lối, nhân vật chủ
yếu là nhân vật tích cực để làm gương, chủ đề thì ngợi ca CNAHCM để
giáo dục, đó là yêu cầu tất yếu mà lịch sử giao phó cho nền
nghệ thuật cách mạng. Trong hoàn đặc biệt của
Tổ Quốc, phạm trù cái anh hùng trở thành nội dung thẩm mỹ
chủ đạo của nền nghệ thuật chúng ta, vấn đề này lúc bấy
giờ cộng hưởng được với tình cảm của dân tộc, các tác phẩm
với cảm hứng anh hùng tạo được hiệu ứng thẩm mỹ
lớn trong công chúng. Bước sang chặng đường mới, khi cuộc sống đã
trở lại bình thường, đất nước phải lấy sự hội nhập làm thước đo
phát triển thì nghệ thuật nước nhà, nếu kéo
dài mãi tình hình trên sẽ không ít khó khăn, sẽ có nhiều hạn chế cho
nền nghệ thuật mới trong việc phát triển để đi vào con đường
lớn của nhân loại.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều tâm sự trong một
lần gặp gỡ hội thảo với các nhà thơ Đông Á đã nói đến khoảng cách đó, tuy ông chỉ nói về thơ nhưng
có thể suy rộng ra cho cả nền nghệ thuật nước nhà:
... Từ khi nền thơ ca hiện đại Việt Nam ra đời, có thể nói nền
thơ ca này mới chỉ cất tiếng nói chính thức của mình trên thế giới khoảng 20
năm nay [...]. Trước năm 1975 Thơ ca hiện đại Việt Nam không
có một cơ hội nào xuất hiện ở phía bên kia của thế giới. Nhưng một nửa phía bên
này thơ ca hiện đại Việt Nam cũng chỉ xuất hiện như là một dấu mờ nhạt trong những
chính sách ngoại giao chứ không phải là sự tôn vinh vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ
ca [...]. Chỉ đến những năm cuối cùng của thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nghĩa là khoảng
gần 30 năm trở lại đây, thơ ca hiện đại Việt Nam bắt đầu mới xuất hiện trước bạn
đọc của nhiều nước trên thế giới.(3)
Ba mươi năm trở lại đây, nền nghệ thuật
ta mới hội nhập vào “sân chơi” thế giới với “vẻ
đẹp đích thực của ngôn từ” chứ không bằng “chính sách ngoại giao”, ta
đã đến chậm lại ít gây ấn tượng, vì sao? Không phải vì tác giả ta
ít tài năng, độc giả ta bảo thủ, văn hóa ta thấp, mà vì phương thức
sáng tạo, cách nhìn nhận về đối tượng thẩm mỹ cũng như sự sáng
tạo về thủ pháp nghệ thuật vẫn còn theo lối
cũ chưa thật hòa nhập với thế giới! Đề cao
bản sắc dân tộc (tính đặc thù) nhưng cũng cần theo cái
chuẩn thẩm mỹ của nhân loại (tính phổ quát) để có thể hội nhập nhanh
chóng và có thành công lớn. Ngay thời chống Mỹ những tác
phẩm được bạn đọc các nước yêu thích đa phần không
phải là những tác phẩm nêu “gương sáng” mà là những tác phẩm giàu
chất nhân văn, giàu tính thẩm mỹ. Người ta thích bài Hạn
chế của Bác trong Nhật ký trong tù ,đánh giá cao tính
trào lộng của Hồ Xuân Hương, chất nhân văn của Truyện
Kiều, Chinh phụ ngâm..., gần hơn, các tác phẩm đương đại được đón
nhận cởi mở cũng là nằm trong quỹ đạo đó. Tác phẩm của ta bấy nay
thường hướng vào cái anh hùng, cái đẹp, cái hài và
có không ít thành công, nhưng ít tiếp cận vào các
phạm trù thẩm mỹ như cái cao cả, cái bi, đặc biệt là cái
bi (có lúc ta cổ súy nhiều cho cái anh
hùng mà muốn bỏ qua cái bi), những phạm
trù mà văn học thế giới thường tiếp cận thể hiện và thu
được thành công lớn, hệ quả là nhìn chung toàn cục nền nghệ thuật
có phần đơn điệu.
Cơ sở của các phạm trù thẩm mỹ trong nghệ thuật là
các hiện tượng giàu tính thẩm mỹ trong đời sống. Cuộc
sống hiện đại không phải không có các
hiện tượng gần gũi với các phạm trù thẩm mỹ đã nêu mà trái lại
gặp rất nhiều, đó là những vấn đề mà thời nào, nơi nào nghệ
thuật cũng có sự mệnh thể hiện và thức tỉnh. Khi gặp những hiện
tượng có sự hài hòa bên trong và bên ngoài, nội dung và
hình thức khiến ta nghĩ đến cái đẹp; ngược lại cái bên ngoài,
hình thức lấn át nội dung, sự trống rỗng bên trong được che đậy bằng
một vẻ ngoài hào nhoáng ta nghĩ đến cái hài; khi cuộc sống bên
trong, tài năng nhân cách cao hơn số phận, con người đương
đầu với sức mạnh to lớn với một tinh thần đầy tự
hào ta nghĩ
đến cái cao cả; những tính cách cao
đẹp, mãnh liệt bị thất bại do giới hạn của thời đại, ta nghĩ về cái
bi... Những phẩm chất thẩm mỹ trong nghệ thuật đều bắt nguồn từ đời
sống. Cuộc sống với những oan trái, bất hạnh khiến Nguyễn
Ngọc Tư đã thú nhận văn mình nghiêng về “những giọt nước mắt”; cái
cao cả chùm lên cuộc đời các chiến sĩ như bí thư Kim Ngọc, chủ tịch
Nguyễn Tư Thoan, cũng như sự chống chọi mạnh mẽ của những ngư dân trong
mùa cá đương đầu cùng bão tố; cái bi của những số phận trong CCRĐ,
trong chiến tranh vừa do hạn chế của thời cuộc,
vừa do sai lầm của con người; cái đẹp tràn đầy trong cuộc sống bình
dị hài hòa của người dân sông nước miền cực Nam, hoặc cần
cù, phóng khoáng của người dân miền núi cực Bắc,
cũng như nơi cảnh trí nên thơ của Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng... Cuộc
đời của Bác chẳng phải là một hiện hữu sinh động tuyệt
vời của cái cao cả đó sao! Về
phía ngược lại, kẻ thù bây giờ, nội cũng như ngoại, bọn
tham nhũng đầu cơ áp bức, đủ các mưu mẹo ác độc, đểu giả tác oai,
tác ác là những mẫu hình cho việc xây dựng cái hài,
cái xấu, cái thấp hèn. Rất nhiều tiền đề cho sự thể
hiện các phạm trù thẩm mỹ hiện đại.
Tiếp cận các hiện tượng thẩm mỹ trong đời sống, thể hiện nó
dưới ánh sáng của các phạm trù thẩm mỹ, đó là một yêu cầu không mới đối
với các nền nghệ thuật thế giới nhưng với chung ta thì đang là một
thử thách. Có những hiện tượng đáng ra có thể khai thác dưới
góc nhìn của các phạm trù thẩm mỹ để tạo những hiệu ứng cao thì
tác giả lại đi theo lối mòn tiếp cận điển hình đạo đức kiểu
cũ nên trên mặt bằng văn chương, nghệ thuật ít có thành
công mới lạ độc đáo. Theo lối viết quen thuộc, miêu tả mặt trái đời
sống, về cái xấu, ta mới chỉ làm cho độc giả ghét mà chưa
tạo được sự khinh bỉ hay phẩn nộ, viết về mặt sáng, tích cực của đời sống chỉ
mới làm cho độc giả công nhận chưa tạo được cảm giác xót thương, sợ
hãi, say đắm hay vui sướng, khoái trá, vì chưa xây dựng
các hình tượng nghệ thuật được soi dọi bởi những đặc trưng thẩm mỹ,
tạo được những tình cảm mãnh liệt mà chỉ dừng lại những tình cảm
thường thường, chưa làm được cái gọi là “thanh lọc tâm hồn” mà chỉ
dừng lại mức cảm nhận chung chung. Suy cho đến cùng, thật sâu sắc khi
các nhà kinh điển đều cho rằng nghệ thuật là “quy luật riêng của
tình cảm” mà tình cảm thẩm mỹ luôn là sở hữu thượng phong của nghệ
thuật!. Vấn đề là cùng một hiện thực ta khám phá và thể hiện theo
khuynh hướng nào để đạt hiệu quả cao về phương diện thẩm mỹ nghĩa
là tạo được sự thích thú, khoái trá - cảm giác thường
gặp của con người trước cái đẹp!
Cuộc sống dân tộc đang trên chặng đường mới,hội nhập đã
trở thành một nhu cầu tất yếu, cần có một sự soi
sáng về lý luận nói chung và mỹ học nói riêng thích hợp đáp ứng
yêu cầu phát triển của nghệ thuật. Trong quan niệm học thuật
cũng như thực tiễn sáng tác không ít tác giả ngoài việc
tập trung thể hiện cái anh hùng, chỉ quanh quẩn
với các phạm trù thẩm mỹ quen thuộc như cái xấu, cái
hài, phạm trù cái đẹp thể hiện cũng chưa thật đầy đặn. Các
phạm trù như cái bi, cái cao cả, cái đê tiện ít
tiếp cận vì thấy chưa thiết thực, hoặc lấn cấn lẫn lộn giữa chính
trị, đạo đức và thẩm mỹ nên ít vận dụng một cách tự giác, thảng
hoặc có một vài sáng tác thể hiện có tính tự
phát thì hình tượng nghệ thuật chưa thật đậm nét. Không
phải chỉ khi hướng cái nhìn vào quá khứ ta mới thấy các
nhân vật đầy tính thẩm mỹ như Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly, Cao
Bá Quát, Phan Thanh Giản, hay qua kịch lịch sử của Nguyễn
Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi ta mới gặp những số phận giàu
tính bi, tính hài; thấp thoáng trong các trang viết của Ma
Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Xuân Khánh...
đều có những số phận thời nay gần với cái bi,
cái cao cả. Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Nguyễn
Quang Thiều... và một số tác giả trẻ trong những chùm thơ mới so
với thơ thời chống Mỹ đã có nhiều đổi thay khi thể
hiện cái đẹp, cái xấu trong đời thực và trong cả tâm
linh, với một nhãn quan mới mẻ; tất cả tiến dần đến một cách viết
đầy cách tân mà trong đó có thể tìm thấy khá rõ dấu ấn các phạm
trù kể trên, tác động tới bạn đọc bởi vậy cũng đa dạng
hơn, sâu sắc hơn.
Hài hòa truyền thống, bản sắc dân tộc, với cái
chuẩn lớn mà thế giới hướng đến tạo nên sức sống mới của nghệ thuật!. Bao
nhiêu năm, phẩm chất anh hùng nổi bật trong đời sống dân tộc đã được
văn chương ta ghi lại khá nổi bật, bên cạnh, so với các phạm trù
phổ quát khác như cái cao cả, cái bi, cái đẹp thì quả thật
nghệ thuật ta còn có khoảng cách, chưa đồng đều, nên chăng trong hướng
đi tới bằng những hình thức tổng hợp thẩm mỹ giàu tính hiện đại
mà đậm đà bản sắc dân tộc, văn chương, nghệ thuật ta cần hóa giải
cái khoảng cách đó để tiếp cận hoàn hảo thị hiếu thẩm mỹ cộng
đồng nhân loại, gia nhập một cách tự tin vào quỹ đạo nghệ thuật
thế giới!.
Chú thích:
(1) Viện HLKH LX - Nguyên lý mỹ học Mác Lênin - Tập 3
- Cái đẹp, Cái bi kịch và Cái hài kịch - NXB Sự thật, Hà
Nội 1963.
(2) Sách đã dẫn,tr.127
3) Nguyễn Quang Thiều - Thông điệp về Cái đẹp và Tự do - Tham
luận trình bày ở Hội thảo “Thơ Đông Á trong thời đại toàn cầu
hóa” tổ chức tại làng Manhea, Hàn Quốc.
30/07/2009Yến Nhi
Có một nhà thơ xứ Nghệ
Có một nhà thơ xứ Nghệ
Trong một cuộc hội thảo về cuốn “Thi nhân Việt Nam” khi nhắc
đến Quỳnh Dao, nhà nghiên cứu văn học lão thành Nguyễn Đình Chú có cho rằng
“… sự tiếc nuối tăng lên nhiều lần bởi sự thiếu vắng khuôn mặt thi nhân Quỳnh
Dao bên cạnh ba nhà thơ cùng quê hương Xuân Diệu, Huy Cận, Thái Can
trong công trình rất sáng giá “Thi nhân VIỆT NAM”- một công trình mà có người
đánh giá là cuốn sách của thế kỷ…” (Hội thảo 50 năm xuất bản
“Thi nhân Việt Nam”- Hà Nội 1992).
Tại sao Nguyễn Đình Chú cũng như nhiều người yêu thơ khác khi
nói đên Quỳnh Dao lại có một sự luyến tiếc như vậy?
Nhiều trường phái thơ xuất hiện vào khoảng những năm 30-45
thường được biết đên với các tên tuổi đã thành danh: Trường thơ Loạn Bình Định,
Nhóm Dạ đài, Nhóm Xuân thu nhã tập… và rất nhiều thi sĩ tuy không thành nhóm
nhưng cũng tập hợp một cách không tự giác và thường được nói đến trong một liên
danh như các nhà thơ Xứ Huế , các nhà thơ Lục Tỉnh, các nhà thơ Xứ
Nghệ… Trong “Thi nhân VIỆT NAM”, các ông Hoài
Thanh, Hoài Chân có tuyển chọn và đánh giá cao ba nhà thơ xứ Hồng Lĩnh (Hà
Tĩnh) là Huy Cận, Xuân Diệu, Thái Can. Hai thi sĩ đầu là hai ngôi sao của
làng Thơ Mới, còn người thứ ba không là “sao” nhưng cũng thường được biết đến
như một tài năng hứa hẹn với nhiều bài ngũ ngôn độc đáo về quê kiểng. Thực ra còn một nhà thơ khác nữa mà nhiều thi phẩm cũng khá thành
công gây nhiều ấn tượng cho độc giả đương thời nhưng thiếu vắng
trong công trình của hai ông, đó là Quỳnh Dao, một tài
thơ trẻ độc đáo.
Quỳnh Dao (1918-1947) tên thật là Đinh Nho Diệm
quê ở xã Gôi Mỹ, huyện Hương Sơn, một vùng đất nổi tiếng khoa bảng tỉnh Hà Tỉnh.
Bố là một nhà nho yêu nước mẹ là một cô gái xứ Huế, con một vị đốc học chuyên
trông coi việc giáo dục ở kinh đô. QUỲNH DAO được gia đình nuôi ăn học chu đáo,
hứa hẹn một tương lai viên hạnh. Quá khứ từng cho ta thấy nhiều sự kết hợp huyết
thống đẹp đẽ sản sinh nhiều nhân tài như sự kết hợp dòng tộc quê mẹ
vùng Bắc Ninh trữ tình với quê cha vùng Nghi Xuân kiêu dũng
đã sản sinh một thi hào lớn là Tố Như, gần hơn dòng màu
ông đồ nho cần mẫn xứ Nghệ hòa hợp dòng máu người phụ nữ hiền thục Quy
Nhơn cho ta một Xuân Diệu lừng danh. Có thể chăng sự hòa
hợp dòng máu Hương Sơn nghĩa khí, thông minh với xứ Huế mộng mơ sẽ
nuôi dưỡng một hồn thơ thành nổi tiếng nếu số phận không mang ông về thế giới
bên kia quá sớm?. Bút danh Quỳnh Dao phần nào nói lên
hoài bão của chàng thi sĩ trẻ.
Nhà thơ mang dòng máu hai miền nhưng sống nhiều ở cố
đô, và mảnh đất xứ Huế nuôi dưỡng trong ông nhiều tình cảm sâu đậm
mà sau này ông mang vào trong các thi phẩm của mình. Chỉ trong khoảng
1938-1941, chàng thi sĩ tuổi vừa đôi mươi đã cho ra mắt bạn đọc các tập thơ
“Tơ trắng”, “Dưới cầu Giang Tô”, và rất nhiều bài thơ lẻ khác đăng trên các báo
rất được bạn trẻ ưa chuộng như Tiếng chuông chiều, Bài thơ Huế, Mối duyên hải hồ,
Cả một buổi chiều, Hơi sương… Ngoài thơ tình ông còn viết một số bài thơ thế sự
khác như Vịnh quan về hưu, Lính Tây mộ, Thăm cụ Phan Sào Nam… và một số truyện
ký. Không phải bổng nhiên mà Lê Tràng Kiều một cây bút khá nổi đương thời,
nguyên chủ bút “Tiểu thuyêt thứ năm”, đã không quên tên
ông khi nhắc đến các thi sĩ tài danh một thời như Anh Thơ, Thanh Tịnh,
Yến Lan Phạm Huy Thông, Lưu trọng Lư…: “Những vần mơ màng của Quỳnh Dao, nhẹ
nhàng của Anh Thơ, những vần trong sáng của Đổ Huy Nhiệm, những vần diễm ảo của
Thanh Tịnh, những vần thành thực, tha thiết của Lê Anh Xuyên, những
vần đầy mộng ảo và âm nhạc của Yến Lan, và những vần đặc
biệt của TCHYA, Phạm Huy Thông, Lưu Trọng Lư…”
Thế tại sao ông không vào được cặp mắt xanh của các tác giả
“Thi nhân VIỆT NAM” để rồi sau đó tên tuổi chìm dần theo thời
gian tạo một luyến tiếc cho đời sau? Phải chăng vì khi hai ông Hoài Thanh, Hoài
Chân xuất bản THI NHÂN VIỆT NAM trong tay chưa có nhiều thi phẩm của
Quỳnh Dao, hay nghệ thuật thơ ông không hợp “gu” hai tác giả? Hoặc giả các vị
thấy miệt Hồng Lĩnh có quá nhiều thi nhân trong tập sách nên không muốn đưa
thêm vào một tên tuổi còn quá mới! Chỉ có thể nghĩ rằng có lẽ so với các tác giả
nổi tiếng đương thời, Quỳnh Dao chưa có các bài “đỉnh” gây ấn tượng mạnh cho các
ông như kiểu Tiếng thu - Lưu Trọng Lư, Bức tranh quê - Anh Thơ, Làng tôi - Tế
Hanh, Ông đồ - Vũ Đình Liên, Hổ nhớ rừng - Thế Lữ…
Một điều an ủi là dẫu không có tên trong THI NHÂN VIỆT NAM xuất
bản năm 1942 nhưng trước đó và mãi sau này thơ ông vẩn được nhiều
người mến mộ trong đó có những tác giả đã nổi tiếng. Nữ sĩ Anh Thơ trong hồi ký
của mình đã viết về Quỳnh Dao với những dòng cảm phục: “Tôi thật sự
kính phục anh về nhân cách và lòng tận tụy với văn học nghệ thuật, cảm mến anh
về thái độ chân thành, cởi mở và tế nhị với đồng sự và bạn bè”. (Nhiều tác giả
- Văn phẩm Quỳnh Dao - NXB Thanh Niên Hà Nội 1992).
Cũng như các nhà thơ đồng trang lứa lúc bấy giờ, thơ của họ
là tiếng nói của lòng ham sống một cuộc sống trong sạch không chạy theo những
cám dỗ vật chất mà xã hội đương thời đang giăng bẩy, đang muốn lôi
kéo thanh niên đi vào. Đó là tiếng nói của cái tôi cá nhân thấy mình có trí tuệ,
có nhân cách, có quyền vui sống. Với họ vũ trụ, đất trời, thiên nhiên rất
tươi đẹp, đẹp ở sự tươi nguyên mới mẻ, trẻ trung: “Sớm hôm nay
lòng ta như tủ áo, mới tinh khôi là lượt xếp từng đôi”. (Huy Cận). Cuộc đời với
bao hy vọng đang đón chào. Các thi phẩm của Quỳnh Dao tô đậm thêm
cái sự mơ mộng ham sống, dồi dào tình yêu với cái đẹp, những câu
thơ vừa giàu chất tạo hình vừa thẩm đẫm những cảm xúc tươi mát hồn
nhiên, bây giờ đọc lại ta vẫn không khỏi xúc động:
Cả một chiều say trào cát bụi/ Lá vàng bay liệng
mãi trong sân
Trời ơi làn gió vô duyên lạ/ Thiếu nữ hai tay giữ
lấy quần.
(Vài ba con hạc về tiên động/ Lộ cái thân ngà ngược
gió mưa)
Những nét điên cuồng trên áo lụa/ Đương đòi cắt nghĩa ý da tơ.
Nước mưa như luyến mùi son phấn/ Chưa ráo thêm
duyên cặp má hường
Ta tưởng hồn đi trên xứ lạ/ Hàng
ngàn ý nghĩ lạc trong hương.
(Tơ trắng - 1939)
Chàng thanh niên 21 tuổi với những cảm xúc chân thực của
mình khi ngắm những cô nữ sinh trường Đồng Khánh đi học về
gặp mưa ướt như “hạc”... Thơ chân thành dể hiểu, lay động
người đọc vì cải cảm xúc chân thành hồn nhiên hơi nhục thể nhưng vẫn trắng
trong! Cảnh và người xứ Huế hiện lên trong các thi phẩm Quỳnh Dao
quả thật rất thơ, rất mộng, con mắt chàng thi sĩ đa tình đã phát hiện nét đẹp
riêng của các cô gái Huế quý phái, tươi vui mà dân giã lại rất gần gũi với
thiên nhiên sông nước: “Một hàng tôn nữ cười trong nón/ Sông mở
lòng ra đón bóng yêu.”
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông gần gũi, tỏa lan chầm chậm đi vào hồn ta như một tình cảm quen thuộc muôn thuở,
khơi gợi ở ta tình quê hương đất nước mặn nồng. Đó là một thiên nhiên không có
cái sự ồn ào cuồng nhiệt như ở Xuân Diệu, cổ kính như Huy Cận, hoang dã như Thế
Lữ, Lưu Trọng Lư mà tĩnh lặng, mơ màng giống như một bức tranh thủy mạc, rất gần với Anh Thơ:
Sương bay vô số gội lên cành
Mặt lá thêm buồn nhợt nhạt xanh
Ứa lệ hoa tàn run lẩy bẩy
Rồi triềng xuống cỏ cỏ làm thinh
(Hơi Sương - Tơ trắng)
Và cái ngôn ngữ mà tác giả xử dụng thật tươi mát,thật trẻ
trung: “Trời ơi làn gió vô duyên lạ/ Thiếu nữ hai tay giữ lấy quần”. hay “Sương bay vô số gội lên cành… Rồi triềng xuống cỏ cỏ làm
thinh” Nó trẻ trung và hồn nhiên như chính tuổi Xuân của tác giả!. Với một ngôn
ngữ thơ như vậy sẽ có người với thói quen thẩm thơ cũ cho là thô mộc, sống sít,
nhưng với những con mắt khai sáng thấu thị ưa nhìn về tương lai sẽ cảm nhận được
cái gì đó mới mẻ mà thi ca dần đến.
Bên cạnh những bài thơ về tình yêu và tuổi trẻ, Quỳnh
Dao cũng có nhiều vần thơ thông cảm với số phận những người lam
lũ, những mảnh đời cay cực, trong thời buổi tao loạn: Cầu Giang Tô với
Bích dương/ Ngói tan gạch nát con đường rêu xanh (Duới cầu
Giang Tô). Sau này, với sự nhạy bén với thời cuộc ông đã
có nhiều bài viết kín đáo lên án bọn cai trị, bày tỏ lòng mến mộ những nhà ái
quốc (Lính Tây mộ, Thăm Phan Sào Nam), hướng về một đổi thay xã hội. Nhiều
bài báo in trên tạp chí Đông Tây (1940 -1945) đã bị Sở liêm phóng
theo dõi cho đến khi tòa báo này bị đóng cửa.
Cách mạng thành công ông tham gia hồ hỡi vào
các Nhóm công tác tuyên truyền Trung bộ và phụ trách Đoàn kịch quần chúng địa
phương cho đến khi mất 1947 (29 Tuổi).
Quỳnh Dao cũng như nhiều thanh niên trí thức tân học thời bấy
giờ đã đến với Cách mạng từ lòng yêu văn chương, yêu cái đẹp. Cuộc sống ngắn ngủi
nhưng “tiếng thơm” còn mãi với thời gian. Dẫu người đọc có kẻ nhớ, người quên
nhưng chắc rằng trên con đường lưu lạc văn chương sẽ có những người
bạn đồng hành gọi tên anh với một niềm yêu mến!.
Chú thích:
Các câu thơ trích dẫn lấy ở Thơ Hà Tĩnh thế kỷ XX
- Sở VHTT, Hội VHNT Hà Tĩnh xb 2000.
31/7/2009 Yến Nhi
Chân cảm một hồn thơ
Chân cảm một hồn thơ
Duy Thảo sinh năm Mậu Dần (1938), tại làng Đông Thái, xã Yên
Đồng, tổng Việt Yên nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ. Học xong phổ thông Duy
Thảo ra Vinh tìm kế sinh nhai. Đầu năm 1962 anh nhập ngũ vào binh chủng
Phòng không, trung đoàn pháo cao xạ 280. Đấy là những năm tháng mà sau này nhớ
lại anh nói, cái may mắn cho đời văn chương của anh là thời gian ở quân chủng
Phòng không được chiến đấu, sinh hoạt cùng những người đồng đội yêu văn chương
và tài hoa sau này có người trở thành nhà văn nổi tiếng.
Anh là một người kín đáo và khiêm tốn, sự khiêm tốn thể hiện ngay ở cả
cái bút danh anh chọn cho mình Duy Thảo - ngọn cỏ nhỏ. Khi đề tựa cho tập thơ
80 bài của anh nhà văn Đỗ Chu có viết một nhận xét về Thơ đầy ẩn ý: “Cái vùng ấy
mênh mang như bãi nước bí ẩn không thể giải mã, lúc rủ nhau nhào xuống thì đông
mà lúc ngoi lên sao muốn vắng. Vậy mà nó cứ rủ rê con người ta mon men đến” (Duy
Thảo và tôi). Dòng sông thơ rất khắc nghiệt, bao nhiêu người nhảy
xuống đều chìm nghỉm họa hoằn vài người nổi lên, nhà văn có ngụ ý tin rằng
trong số ngoi lên đó có Duy Thảo!
Xuất phát điểm là nhà thơ mang áo lính! Ghi nhớ thời trận mạc, “màu áo
lính - màu xanh giản dị” xuất hiện rất nhiều trong thơ anh. Khi
là kỷ niệm “Một thời thắm thiết màu xanh/ Cái màu áo lính trở thành nhớ thương”,
khi là niềm tin “Cái màu tin để mà yêu/ Xa rồi để nhớ, gặp nhiều để mong, là
nguồn an ủi“ đời mà nặng gánh bão giông/ Gặp màu áo lính nghe lòng nhẹ
rơi…” (Màu áo lính). Chính chất lính ấy giúp Duy Thảo bền chí, vững
bước trước những thử thách cuộc đời thời hậu chiến, rồi thời đổi mới mở cửa “Bao
điều bạc phếch lòng tin/ Chỉ còn quê kiểng giữ xanh lời thề” (Cõi về).
Thơ anh giai đoạn đầu thấm đượm chất hào hùng, cái âm
hưởng chung của thơ ca bấy giờ Niềm tự hào nước mắt bỗng rưng rưng... Nó cộng
hưởng với người đọc về tâm trạng hơn là kỹ thuật thơ. Về sau thơ anh chủ
đề trải rộng nhiều chiều hướng, với chiều sâu của một vốn sống từng trải luôn
có những câu thơ đằm sâu suy nghĩ. Anh nói về sự hy sinh mất mát của những bà mẹ,
người chị trong chiến tranh: Ngày báo tử chị khóc không thành tiếng Rồi
hóa thân làng xóm gọi bằng bà (Mưa ngâu), hay Để tâm linh thấm vào tận
nỗi đau, Lời trăn trối mẹ già lúc vĩnh biệt, Nắm nhang thắp giữa chừng không
cháy hết, Khúc đoạn trường lời cách biệt âm dương (Nhắn tìm đồng đội).
Trước mất mát của cuộc đời, sự hy sinh của người đi trước, ta bắt gặp trong thơ
của Duy Thảo một tâm trạng riêng khá nổi bật, đó là sự tự hối, thấy cái hạn hẹp,
tầm thường của mình trong mối cộng cảm cùng thế sự. Một cái gì có phần ray rứt
có phần hối hận, khi nhớ đến những người bạn đã đi xa, dang dở bao nhiêu
ý nguyện. Cái cảm thức về sự suy tính thiệt hơn đầy toan tính cá nhân, thấy
mình là người có lỗi luôn trở đi trở lại cùng tác giả. Gần hết cuộc đời nhìn lại: Ngoái
lại đằng sau bao nuối tiếc/ Tự trách mình chưa làm được nhiều hơn/ Qua nắng mưa
qua nóng lạnh đời thường/ Vẫn chỉ thấy mình là người có lỗi/ Những toan
tính của một thời nông nổi (Trước xuân này).
Chủ đề quê
hương, gia đình cũng sâu đậm trong thơ anh. Trong chiều dài cảm hứng gia tộc,
gia đình, tác giả tìm được sự kết nối, sự phát triển, từ bé đến lớn, từ nhạt
nhòa đến sâu đậm, từ bóng tối ra ánh sáng, từ đau khổ đến sướng vui. Tất cả hiển
hiện qua sự thay đổi của làng xóm, từ cái thuở lao đao giáp hạt ngược xuôi
tảo tần, đến bây giờ một vùng văn vật nên thơ nên vần và qua sự thay
đổi của chính bản thân, từ cậu bé quần đùi mò ốc rét cắt da/ mà
nay đi giữa phồn hoa đô hội têt/ man mác ân tình xuân cố hương
(Gặp lại tết xưa). Thơ tràn đầy tình nghĩa với cuộc đời, gia đình, bè bạn
nhưng không chỉ có thế, với bao nhiêu năm tháng từng trải tác giả còn ý
thức được cả những va chạm, những cọ xát đằng sau bao sự việc. Những ân tình trải
qua thời gian bao thử thách không phải không có nghịch lý, nhưng với những nghịch
lý đó tác giả nghiệm sinh một lẽ sống, một cách xử sự nhẫn nại, yêu thương và
tin tưởng. Đó là cái mạch ngầm triết lý mà người đọc nhận thức
gián tiếp qua bề sâu thơ anh.
Khi nhà thơ nhắc đến ông bà tổ tiên trong mạch cảm hứng truyền thống dân tộc: Chân hương bao lớp cắm dày/ Tổ tiên cha mẹ họ hàng nằm đây/… Cúi đầu cầu nguyện
tổ tiên… hay nhớ đến song thân: Cha đi biệt xứ quê người bao năm/ Một
đôi vai mẹ tảo tần/ Gánh bao cay cực âm thầm ngày đêm, ta cảm thấy đã nói
hộ cho tấm lòng của mình. Trong làn hương khói nhạt nhòa, sống lại với người đọc
cái tâm thức một thời trôi nổi “nửa thì gia tộc, nửa thì quê hương” (Hồ Dzếnh).
Nhiều câu thơ nói về tình cảm gia đình, làng xóm thật cảm động. Đón người vợ
sau tai biến trở về, chưa hoàn toàn bình phục “nhìn em lóng ngóng cầm rơi
đũa/ Anh thương nước mắt bỗng trào ra”, câu thơ không có gì to tát, một
chi tiết đơn giản mà thấm đẫm tình thương yêu tấm mẵn, tao khang! Và có thật gắn
bó với quê làng mới thấy được đời sống bà con Đồng tiền gom nhặt dân quê/
Còn lo đóng đậu nhiều bề ăn theo! Câu thơ khiến người đọc không khỏi quặn
lòng!
Sinh trưởng trên một vùng đất đẹp như tranh họa đồ, có núi giăng tiếp núi,
mây trôi kín trời, vùng đất hội hè, đình đám, hết Chùa Hương, đến Chợ Củi, hết chọi trâu đến đua thuyền… Vùng đất xinh đẹp, đầy hào khí song cái
nghèo đeo đẳng ngàn đời nay. Tập quán thẩm mỹ nơi này không ưa những hào
nhoáng, những phù vân những hình thức giả tạo.Thơ Duy Thảo cốt lấy cái tình
thực làm điểm tựa mà thể hiện, mà tỉ tê cùng bầu bạn. Đứa con miệt quê
nghèo khi nói về nơi chôn rau cắt rốn thật khiêm nhường, dung dị:... Thương
mẹ già còng lưng lo chống chọi
Nước xiết chân lẩy bẩy chuyến đò đầy
Thương em thơ bụng đói, mắt thơ ngây
Chờ tấm bánh mỏi mòn chưa kịp tới…
(Gửi miền Trung).
Và trong cái thời buổi còn nhiều nhố nhăng, thật giả lẫn lộn,
nhiều đua đòi thái quá, người đọc tìm thấy đâu đây một hơi gió lành
khoan hòa, ấm áp, một nền nếp gia phong:
Câu tục ngữ ôm vào câu thành ngữ/
Đời cho ta giàu tiền gạch, ngãi vàng/
Để lúc vui con biết cười ý tứ/
Để lúc buồn con biết khóc đoan trang/
(Thơ cho con ngày đi lấy chồng)
Duy Thảo thử thách trên nhiều lối thơ: năm chữ , thơ tự do, thơ tám chữ,
thơ lục bát, tứ tuyệt... đâu cũng gặp một cách nói ấy, chân thật, giản dị, không
khoa trương, màu mè, không hô to, gọi giật. Đặc biệt các bài thơ về hoa lá cây
cảnh. Thiên nhiên vốn trong sạch và vô tư. Người xưa khi tránh cái đời “đục” hay tìm về với thiên nhiên. Duy Thảo khi mệt mỏi cũng tìm về
thiên nhiên để nghỉ ngơi Chân mỏi gót trần lên thiền viện/ Bỗng
nhẹ thênh lòng một tiếng chim (Tiếng chim). Đời không bình yên,
nhà thơ tìm về với hoa lá mong nhận được một sự thủy chung chân
thật. Đến cái tuổi cổ lai hy, ngẫm nghĩ sự đời câu thơ anh thốt
lên đầy vẻ nghiệm sinh xoáy vào tâm tư người đọc: Thủy chung còn
lại nhành hoa bưởi/ Thơm ngát góc vườn giữ tuổi xuân (Hoa
bưởi). Bao năm trăn trở lưu lạc với đời, về vườn xưa nhà thơ thấy
mình trẻ lại bởi cành bưởi thơm ngát giữ tuổi xuân cho mình!
Thời nào cái tình ngươi vẫn quý nhất, và quý nhất trong cái bể
tình đó là sự thủy chung. Và chính sự thủy chung nó làm cho tình
người chiến thắng thời gian!
Là nhà báo giúp anh đi và biết nhiều nơi nhiều vùng, nhiều cảnh đời, với tâm hồn
thơ Duy Thảo gửi gắm vào đấy nhiều rung cảm. Nào Tam Soa, Cầu Ngúc, Suối Tiên,
rồi Xóm Mồ Côi, Núi Thiên Tượng, Ngã ba Đồng Lộc… tất cả đều được gửi gắm
trong những câu thơ đằm thắm, chân tình. Theo con đường đi của các gia đình Việt
Nam từ làng quê ra phố phường, trong cuộc di chuyển mưu sinh nặng nhọc này cái
được, cái mất thật khó lường. Duy Thảo thổ lộ theo cách của mình: Từ ngày
ra bám phố, kẻ lạ rồi khách quen, đêm ắng im cánh cửa, ngày nhao nhác đồng tiền.
Từ ngày ra phố lạ, chen đi với dòng đời, chút gia tài góp nhặt, biết mình đang
đánh rơi (Tìm về). Ai đã qua rồi những thăng trầm, lên xuống, những được
thua, vấp ngã hẵn không thờ ơ lật qua những dòng thơ:
… Rồi tất cả tan chìm cơn dĩ vãng
Những dại khờ, những lọc lõi phù du
… Xin lượm chút sợi vàng vương trên gối
Khóe mắt nhìn âu yếm những thương yêu
(Lối
rẽ)
Hơn
năm mươi năm cầm bút, trải nghiệm bao nhiêu thăng trầm của đời sống, “có
bao nhiêu là ký ức, cuộc sống tưởng đã nghìn năm”, tác giả chiêm nghiệm thổ lộ
ra trên những dòng thơ chân chất đằm sâu tâm sự. Trăm năm mỗi cuộc đời như là bốn
mùa thì cái tuổi “cổ lai hy” của tác giả đã là cuối thu sang đông; những cơn
mưa giao mùa này không còn cái mát mẻ hay nồng ấm của thì xuân, không hào
nhoáng cháy bỏng cái sự lạ mùa hạ hay trong trẻo hương đưa của mùa thu mà
giao hòa giữa trầm lắng pha chút u hoài của cái gì đã qua và sắp tới ở mùa đông.
“Khép lại tập sách, những lo lắng,
thấp thỏm ban đầu mờ dần, đọng lại là nỗi bâng khuâng vướng vít, vừa lạ, vừa
quen trước một hồn thơ đa cảm và chân chất. Chính điều này đã cứu anh và giữ lại
cho chúng ta cái khôi nguyên của khá nhiều rung động thơ sau bao nhiêu trải
nghiệm vui buồn” (Hữu Thỉnh - Hồn thơ Duy Thảo).
Xin mượn câu nhận xét của nhà thơ Hữu Thỉnh để gói lại bài viết
này.
22/5/2021 Yến Nhi
Trần Nam Phong và viết chờ sen lên
Trần Nam Phong và viết chờ sen lên
Viết chờ sen lên (*), tập thơ đầu tay cũng như nhiều
bài khác trên trang Fac của Trần Nam Phong rất được bạn đọc trìu mến đón nhận.
Lãng đãng ít sắc màu triết lý, pha một chút hương vị thiền, đậm chất trữ tình đồng
quê…, thơ của anh gợi nhiều ấn tượng cho bạn đọc! Tuy nói tập thơ đầu nhưng là
tập đại thành cả một quá trình sáng tác rất dài của anh, nên tập thơ nhìn chung
chỉn chu, thoáng đãng đọc rất dễ vào.
Sinh ra ở một miền quê có nhiều đặc sắc, nơi đây là mảnh đất cuối, địa đầu phía
Nam của nước Việt cổ và cũng là tuyến sau của bao lớp binh đao thời Trịnh -
Nguyễn phân tranh. Một vùng hỗn cư nhiều lớp cư dân, ngoài người bản
địa, còn nhiều lớp người từ xa đến: những cung phi, thái giám, quan lại thất sủng, kẻ phản loạn chống triều đinh bị đi đày, nho sĩ ẩn cư vì thời loạn…, theo với
lẽ hưng phế của thời cuộc họ cùng gia quyến về đây sống bao đời tạo nên một lớp
cộng đồng nhiều nét đặc biệt. Văn hóa đằng ngoài ảnh hưởng vào đây từ rất sớm.
Sinh thời nhà nghiên cứu văn hóa Thái Kim Đỉnh có cho rằng, không phải ngẫu
nhiên mà hai vị tiến sĩ Lê Quảng Ý, Lê Quảng Chí thuộc lớp khoa bảng đầu tiên
nước ta ( tk14), các nhà khoa học, nhà văn hóa tên tuổi về sau cùng những
doanh gia xây dựng cơ nghiệp lớn trên đất Âu, Mỹ nhiều người xứ
này… Đời sống tinh thần mãnh liệt, tính cần cù nhẫn nại của đời trước còn truyền
lại cho đời sau tạo một cốt tính để thích nghi hoàn cảnh! Trần Nam Phong gắn bó
nhiều năm nắm rõ sắc thái văn hóa xứ quê và không phải điều đó không ảnh
hưởng ít nhiều trong sự chuyển dịch âm hưởng đời sống vào thi ca tạo một âm hưởng
riêng mà quê hương mang lại.
Trên con đường từ miệt quê về phố thị anh vẫn mang theo
nhiều âm hưởng quê kiểng tạo nên trong thơ một nét trong sáng dịu dàng mà
không ít bạn đọc thích thú.Từ cái ấn tượng đầu tiên tập thơ Viết chờ sen
lên đập vào cảm thức độc giả một hương vị của mùa sen đến độ, rồi
sau đó những vần thơ trên trang fac cồn lên bao kỷ niệm về dấu chân người ra đi…
Bạn trẻ đọc thơ anh, bắt gặp một cảm xúc dịu ngọt mà mới mẻ trước tiên ở
mảng thơ tình. Những câu thơ khá độc đáo, với những hình ảnh lạ, ngôn ngữ
cũng rất ấn tượng:
… Bìm bịp ngủ trong lồng ngực em / Anh mơ làm con nước/
… Trăng thức để tròn/ Sao tình em/ Lại khuyết
… Gió ngậm tóc đi tu/ Sen thơm vào cốm nõn/ Mình anh thơ thẩn
tìm thu
… Ra bể tìm sông, sông giấu mặt/ Mùa đi/ Vời vợi mảnh buồm nâu
(Tìm thu)
… Bìm bịp ngủ trong lồng ngực em/… Gió ngậm tóc đi tu/ Sen thơm
vào cốm nõn.
Những hình ảnh vừa ẩn dụ vừa siêu thực đánh mạnh vào cảm giác
người đọc. Cảm xúc thì trẻ trung, ngôn ngữ lại mới mẻ, những câu thơ mang hương
vị riêng.
Hay:
Tiếng chim gáy cất lên/ Em họa mi trong mắt
Bình minh/ Mang cơn mưa/ Về gieo hạt
Anh nhặt được/ Những ánh sao/ Còn ướt
(Bình minh)
Người và vật, hình và tiếng, tất cả quyện lẫn hài hòa đánh thức
các giác quan người đọc trong một niềm hân hoan khó tả. Niềm hân hoan của tình
yêu! Dẫu sao đó cũng là cơn mơ tình ái. Nó lóe lên ở một vài bài, đa phần thơ
anh mực thước và mang âm hưởng làng quê hồn hậu.
Như
một nhà thơ tiền bối đã nhắc nhở, Thơ hay cốt hai điều: chân thật và có nét
riêng! Hai điều đó đều có ở thơ Trần Nam Phong. Những điều anh thổ lộ về quê
hương, cha mẹ, về tình yêu đều rất mực cảm động và cái dư vị đồng quê tạo nét
riêng thơ anh. Một miền quê nghèo còn đầy sương gió nhưng không vì thế mà
làm nguôi nỗi nhớ nhung, yêu mến của tác giả. Nhớ câu thơ cua P.Neruda “Tôi
yêu đến tận cùng gốc rễ, Quê hương tôi nhỏ bé lạnh lùng”. Anh cũng vậy, yêu từ Mấy
cành lan mộc lúc trăng lên đến Những hòn đá trắng mờ rêu
xám của cái thôn nghèo Hoàng Diệu cho đến những vườn cau, những chiếc cầu
mà trên đó từng in dấu mẹ, dấu em:
… Vườn quê vẫn ngát hương cau
Lối về phố thị bắc cầu qua sông
Nhớ xưa dáng mẹ trên đồng
Áo tơi, nón lá, nâu sồng nắng mưa.
(Khúc hạ 3).
... Ta về núi bỗng hai vai
Con sông thì chảy dặm dài nhớ mong
Bàn chân bước giữa cõi lòng
Em ơi sông rộng nhưng không có đò
(Bên sông).
Thơ Trần Nam
Phong rất sâu nặng tình cảm với cha mẹ. Đó là mẫu số chung của tình người
ai cũng có, nhưng Trần Nam Phong đậm đà nồng hậu một cách nói riêng. Anh gắn hình ảnh mẹ với “nỗi buồn tháng tư”, nỗi mệt nhọc vất vả của mẹ qua đặc tả vạt
áo mồ hôi trên cánh đồng chiêm tái nhợt lưỡi cày vào lúc trời thâm thẩm tối. Hình ảnh thơ đầy sức gợi về thời gian và cường
độ lao đông, nói rõ sự vất vả, mệt nhọc của mẹ (Tháng tư)! Hay những câu
thơ đầy thương cảm “Lối nào mẹ tôi chạy chợ/ Nôn nao đòn gánh bán mua”, với hình
ảnh người mẹ với “chiếc đòn gánh” hơn một lần xuất hiện trong “Văn chiêu
hồn” của Nguyễn Du người đọc gặp lại trĩu nặng cõi lòng (Thơ gửi mẹ ngày giáp hạt). Cộng hưởng thêm là nỗi thương nhớ khôn nguôi đối với người cha cùng anh gắn bó
năm tháng nay đi xa: Đưa cha qua cánh đồng chiều/ Khổ đau níu lại bao
nhiêu tháng ngày. Nỗi niềm làm tím cả khung trời tháng tư! Tình nghĩa gia
tộc nhuần đượm trong thơ anh, nó tạo nên cảm giác miên man, xót xa mà trầm
tĩnh. Đọc thơ anh cảm xúc ta lắng lại một dư âm hoài niệm lan xa mãi.
Kỳ
Anh là một miền đất nhiều thắng cảnh sông, núi, biển, đồng, luôn tạo những nét
riêng vừa hùng vĩ vừa dịu dàng luôn níu giữ bước chân du khách. Cảnh quê
trìu mến nồng đượm trong thơ anh. Nơi có Đèo Ngang thơ mộng, đền Bà Chiêu Trưng
cổ kính, Chợ Voi hoang dã nơi Quang Trung từng làm trại dừng đàn tượng binh
trên đường ra Bắc. Đây cũng là nơi khúc thắt giao thông tuyến đường Nam Bắc thời
chống Mỹ là vùng trọng điểm chịu nhiều bom đạn, có nhà văn đã viết về vùng đất
này “Một chiếc cầu ba thước mặt trời lên bom dội chùm chùm”, nơi “Từng chuyến
xe qua từng dặm lửa/ Bom đạn trong chiều bay đuổi theo” (Quốc Anh). Bao
xương máu đã đổ để giữ mạch máu này! Tập thơ đã phản ánh khá rõ nỗi gian
lao mà anh dũng của mảnh đất quê, nơi Dòng sông thức với phù sa/ Nên chi
điệu ví đậm đà hồn quê nhưng cũng là nơi “Mộc miên dậy đỏ đất trời/ Hoa
rơi như níu hồn người bay lên/ Chiều ơi, chiều có bình yên/ Nơi bao xương máu nặng
nguyền núi sông”.
Trần Nam Phong còn nặng tình với quê, một tình cảm sáng trong mà đằm thắm gắn với
những năm tháng trẻ trung của mình, những hình ảnh thân thương thuở hoa niên hiện
về trong thơ anh rất cảm động: những ngọn khói, cánh diều, mùa phượng vĩ, những
tiêng ve ngân dội lên trong lòng anh bao xao xuyến:
… Bâng quơ ngọn khói lên trời
Cánh diều no gió rong chơi chốn nào
Lá đa thả vạn bè sao
Bao nhiêu hạt gạo nôn nao ngân hà
… Mây lành chầm chậm lên cao
Đã nghe trong gió xôn xao hạ về
Vườn xuân e ấp tiếng ve
Đâu đây lửa phượng đam mê đất trời
(Khúc hạ 3)
Tập thơ không chỉ nổi bật bởi
những khúc tâm tình sâu lăng, những niềm vui bàng bạc về tình yêu, tập thơ còn
gợi cho ta một bề sâu khác của tâm tình thi sĩ, ấy là nỗi bâng khuâng lo âu với
cuộc đời, với thế sự. Tác giả nhìn cuộc đời bằng con mắt tình yêu nhân thế
có pha chút suy tư của thiền giới. Qua một màn mưa anh thấy:
… Mưa rút ruột trời/ Chẳng lấp nổi đáy tham trần thế/
Mưa ơi có hay/ Khổ đau đã thành sông bể
Hay:
… Quê hương ơi đã qua thủa đói nghèo
Vẫn còn đó bao khổ đau, bất hạnh
Nhà thơ có thể rất vui với sắc màu cuộc sống đổi thay trên
quê hương nhưng không bàng quang với những nghịch cảnh đang tồn tại. Nhận thức
rõ sự hy sinh của cha anh một thời qua “Trên đất nước máu
xương thành sông núi”, thấy rõ trách nhiệm thế hệ đi sau, đó là tâm niệm của
anh. Sự mong ước của tác giả có pha mùi đạo giới nhưng bề sau là tấm lòng của một
con người sống không bàng quan vô trách nhiệm với đồng loại: Biết
đâu trong cõi vô thường/ Nguyện làm ngọn cỏ lót đường người đi/ Biết đâu trên nẻo
thiên di/ Nguyện làm chiếc lá yêu vì mùa xuân (Viết chờ sen lên). Vẫn biết
sự mong manh bé nhỏ của mình, của một kiếp người, của một kẻ “với bất công, đang
vào trận đánh” vẫn không nguôi mơ ước:
Chiếc lá mục cuối vườn
Gân lá cuốn theo dòng lũ
Xoay tít giấc mơ hóa thân
Làm chiếc bè cứu nhân độ thế
Tôi yêu những giấc mơ tự đáy lòng của thi sĩ, như trước đây Chế Lan
Viên cũng từng thao thức “Tôi trong đau vẫn làm viên muối bể/ Để mặn lòng những
kẻ muốn vô tư”. Thầm cảm nhận bề sâu những suy cảm trong thơ của anh. Nếu
chỉ toàn niềm vui dẫu hay đến đâu thơ cũng sẽ nhẹ so với đời!.
Thơ Trần Nam Phong dẫu chưa có phong cách thật riêng nổi bật cá tính sáng tạo
nhưng cũng đã có nhiều nét riêng về ý tứ, câu chữ. Con đường thi ca anh đi mới ở chặng đầu, chắc còn nhiều thay đổi cho đến khi anh “ngộ” được cái “tạng”
thơ của mình. Cái đáng quý là những tác phẩm đầu tiên của anh đã đến được
với tấm lòng bạn đọc. Đón chờ những tác phẩm mới của anh!.
Chú thích:
(*) Viết chờ sen lên, Thơ Trần Nam Phong, NXB.HNV 2020.
Tháng 5-2021 Yến Nhi
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Làng Mới
Làng Mới Làng Mới dựng ven suối dưới chân thác Voi Trắng. Núi rừng mênh mông thả sức phá phách, chẳng ma nào dòm ngó. Lửa khói ngập trời. ...

-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...