Thứ Tư, 29 tháng 11, 2023

Tại ngục vịnh Kiều

Tại ngục vịnh Kiều

VIẾT CHO NGƯỜI YÊU
Em yêu dấu,
Những bài Tại Ngục Vịnh Kiều ở trong loạt bài anh viết cho em gọi chung là “Viết cho người yêu”. Em yêu anh càng tốt mà em yêu ai cũng được, miễn là em có yêu. Em yêu là anh viết cho em, anh cũng viết cho tất cả những người yêu trên cõi đời này.
Ngày xưa, Lạc Tân Vương, thi sĩ đời Đường ở Trung Hoa, không biết vì lý do chính trị, chính em hay văn nghệ, văn gừng chi đó mà bị tù. Một hôm ngồi buồn trong ngục, thi sĩ thấy một con ve sầu đến bên song tù, thi sĩ bèn làm bài thơ Tại ngục vịnh thiền: ở trong ngục vịnh con ve sầu. Bài thơ ngắn thôi:
Tại ngục vịnh thiền
Tây lục thiền thanh xướng,
Nam quan khách tứ thâm.
Bất kham huyền mấn ảnh
Lai đối bạch đầu ngâm.
Lộ trọng phi nan tiến,
Phong đa hưởng dị trầm.
Vô nhân tín cao khiết,
Thùy vị biểu dư tâm?
Ngày thu nổi lên tiếng ve kêu
Tình ý người tù thêm sâu sắc.
Vì không chịu được nên bóng dáng của đôi cánh mỏng,
Nên đến lên tiếng ngâm nga trước người bạc đầu.
Sương nặng, cánh khó bay lên.
Gió mạnh, tiếng dễ chìm mất.
Không có ai tin ở sự cao khiết,
Ai sẽ vì ta giải tỏ nỗi lòng?
Em có thấy như anh rằng bài thơ Tại ngục vịnh thiền trên đây của Lạc Tân Vương chẳng có gì là thâm thúy hay đặc sắc lắm không? Trước hết bài thơ gọi là bài Thơ Tù đầu tiên trong văn học Trung Hoa này không nói lên được cảnh thê thảm, u ám, đen tối, tuyệt vọng, kinh sợ, mơ ước của người bị tù. Bài thơ gọi là “vịnh thiền” nhưng con ve sầu được vịnh cũng không thấy được diễn tả nhiều trong thơ. Toàn bài chỉ có một điển tích. Đó là điển Nam Quan: mũ Nam, mũ của người phương nam. Đời Xuân Thu, Chung Nghi, người nước Sở, bị bắt tù ở nước Tấn. Ờ tù, Chung Nghi vẫn đội mũ của người Sở. Chung Nghi giỏi đàn. Khi Tấn hầu bảo Chung Nghi đánh đàn, chàng chỉ đánh toàn những bản đàn của nước Sở phương nam. Người đời sau nhân đó gọi những người tù bằng cái tên gợi hình là những người khách đội mũ phương nam.
Trong bài thơ My Trung mạn hứng, bài thơ duy nhất mà thi sĩ Nguyễn Du làm trong thời gian ông ở tù, cũng có hai câu nhắc đến người tù Chung Nghi và người bệnh Trang Tích:
Chung Tử viện cầm tháo Nam âm,
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm…
Chung Tử, tức Chung Nghi, ở nước người nhưng vẫn đội mũ của dân tộc mình, vẫn dạo những bản đàn của dân tộc mình, em đã biết rồi. Trang Tích là người nước Việt, cũng sống ở đời Xuân Thu, sang làm quan ở nước Sở. Vua Sở muốn biết Trang Tích có còn nhớ nước Việt không hay là đã quên. Mật vụ của vua Sở báo cáo rằng tuy làm quan với Sở nhưng Trang Tích vẫn còn nhớ nước Việt, bằng cớ là họ theo dõi và thấy khi Trang Tích bị bệnh, nằm rên trên giường, nhưng y vẫn không rên rỉ những câu: “O Sole mio… I need your love… Smoke gets in your eyes…” mà rên rỉ: “Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà…” hoặc “Vú em chum chúm chũm cau…”. Bằng chứng này cho thấy các quan chức mật vụ kết luận rằng Trang Tích tuy ở nước Sở nhưng hồn vẫn nhớ nước Việt. Kể từ đó văn học Trung quốc dùng những tiếng “Nam quan, Việt ngâm” để gọi những người tù và những người không quên tổ quốc.
Để trở lại với Tại ngục vịnh Kiều, anh chỉ nhắc lại bài thơ Tại ngục vịnh thiền để nói với em rằng bài thơ đó chỉ ngắn ngủi có mấy câu như vậy thôi, ý nghĩa cũng không xúc tích, cảm động gì cho lắm. Vậy mà Tại ngục vịnh thiền đã sống ở cõi đời này tới hơn một ngàn năm. So với đời người ngắn ngủi gói tròn trong năm bảy chục năm, một ngàn năm đã là lâu lắm. Và không biết bài thơ Tại ngục vịnh thiền sẽ còn sống ở đời bao nhiêu lâu nữa.
Văn học sử cho biết Lạc Tân Vương sinh năm 640, ông mất năm nào không biết. Vì sau khi tham gia khởi nghĩa chống lại Võ Tắc Thiên, viết bài hịch nổi tiếng đả kích Võ Thị, cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bỏ trốn biệt tăm. Lạc Tân Vương không bị Võ Tắc Thiên bắt cầm tù. Bài Tại ngục vịnh thiền là thi phẩm ông làm trong một lần bị tù nào trước đó mà văn học sử không ghi rõ. Cứ cho là ông làm bài Tại ngục vịnh thiền vào khoảng năm 670 hay 680 đi thì cho tới nay bài thơ đã sống hơn một ngàn năm rồi chứ không phải chỉ là một ngàn năm. Và vào năm 1988, trong một phòng tù ở miền Nam nước Việt Nam, có một anh tù nằm nuôi rệp và nghiền ngẫm những vần thơ Kiều. Không có việc gì làm hay hơn, anh tù này làm những bài thơ vịnh Kiều. Nhớ đến bài Tại ngục vịnh thiền của một người tên là Lạc Tân Vương làm từ hơn một ngàn năm trước, anh gọi những bài thơ vịnh Kiều của anh là Tại ngục vịnh Kiều…
Cạn dòng là thắm, dứt đường chim xanh…
Và do đó hôm nay anh mới có những bài Tại ngục vịnh Kiều này viết gửi em – và gửi tất cả những người yêu ở cõi đời này. Vịnh Kiều, trước hết và tất nhiên, là vịnh em Vương Thúy Kiều. Bài thứ nhất này của anh nói với em về thái độ của Thúy Kiều đối với tình yêu và cái gọi là “thâm nghiêm” của nhà riêng Thúy Kiều.
Có thể nói rằng gần như tất cả những người đọc Kiều đều yêu Thúy Kiều, đều ca tụng Thúy Kiều. Người ta có thể chửi tất cả những nhân vật trong Kiều, trừ một mình Thúy Kiều. Cũng tất nhiên là Thúy Kiều, với tư cách là một người sống thực ở đời, không thể nào toàn bích được, và anh cũng không quân tử Tàu đến cái độ đòi hỏi Thúy Kiều phải thánh thiện, phải dửng dưng trước tình yêu. Nhưng anh cũng thấy có sự khôi hài ở chuyện Nguyễn Du diễn tả Thúy Kiều với những câu như:
Một đường tuyết chở, sương che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai…
Rõ ràng là Thúy Kiều chẳng thèm để ý gì đến những chuyện bướm ong, tức là chuyện tình ái. Thế nhưng sự thực có phải nàng dửng dưng như thế không? Những việc nàng làm cho chúng ta thấy nàng là một em “lẳng lơ hạng nặng”. Phải gọi là lẳng lơ vì hai tiếng đa tình quá nhẹ đối với những việc Kiều làm. Việc Kiều vừa mới gặp Kim Trọng lần đầu ở nghĩa địa, chưa biết ất giáp gì về chàng thư sinh playboy này, nàng đã tình trong như đã, chỉ có mặt ngoài là còn e… cho ta thấy nàng là một em rất hào hứng với những chuyện ái tình, những chuyện được gọi bằng cái tên miệt thị là “chuyện bướm ong”. Không những chỉ hào hứng mà thôi, có thể nói Kiều còn rất đói ái tình nữa. Song, ta hãy bỏ qua cái vụ “tình trong như đã….” ngay từ buổi gặp trai đầu tiên ấy, cái việc nàng chui rào sang nhà Kim Trọng, không những chỉ chui một lần vào buổi chiều mà còn chui rào cả vào lúc nửa đêm là một việc mà không cần phải chi ly gọi là “lễ giáo phong kiến” không cho phép, bất cứ thứ lễ giáo nào cũng không cho phép người con gái làm như thế. Chỉ trừ những xã hội không có lễ giáo chi hết trọi mới coi việc đó là được mà thôi.
Lần thứ hai Kim Trọng rình rập chờ Kiều ở khu vườn sau, việc trai gái đứng tỏ tình với nhau qua hàng rào sau nhà là một việc nếu không thể cấm đoán được thì cũng là một việc không thể ca tụng. Nếu quả thật Kiều là người có thái độ “tường đông ong bướm đi về mặc ai” nhỏ bằng đầu que tăm xỉa răng thôi, khi nghe tiếng người con trai lạ cất lên từ nhà bên kia, nàng đã lẳng lặng bỏ về, làm sao chàng Kim hào hoa phong thấp có thể thả lời ong bướm với nàng được? Nhưng Kiều đã không “mặc ai”, nàng đã đứng lại, nàng đã bắt chuyện, và nàng tiếp nhận những lời ong bướm liền một khi. Cuộc tình của nàng với Kim Trọng đốt cháy mọi giai đoạn, nó tiến nhanh đến cái độ chóng mặt…
Vì vậy, em yêu ơi, Công tử Hà Đông khi tại ngục đọc Kiều bèn có thơ Tại ngục vịnh Kiều về chuyện này như sau:
Kiều và ong bướm
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai…
Rằng hay thì thật là hay
Tin em thì sẽ có ngày xót xa
Bướm ong khi của người ta
Thì em phớt tỉnh như là hổng ưa.
Đến khi nó đợi, nó chờ
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng.
Là em chẳng ngượng chẳng ngùng,
Dưới đào em đấu lung tung một lèo.
Lẳng lơ trướng rủ, màn treo,
Tường đông ong bướm xì xèo là em.
Chưa hết. Anh thật không biết Nguyễn Du có tính chuyện khôi hài hay có ý mỉa mai hay không khi thi sĩ tả cảnh nhà ông Vương Viên Ngoại, tức là ông thân của nàng Vương Thúy Kiều, với những câu xanh rờn như sau:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh…
Chàng Kim khi lảng vảng tản bộ trước cửa nhà Thúy Kiều chỉ thấy:
Mấy lần cửa đóng then cài
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?
Nào là “kín cổng, cao tường”, nào là những “mấy lần cửa đóng, then cài”. Thâm nghiêm và kín đến như vậy thì đúng là thâm nghiêm và kín mít rồi, không còn nhà nào có thể thâm nghiêm và kín hơn được nữa! Thế nhưng… hỡi ơi… Khu đằng sau của tòa nhà thâm nghiêm hạng nhất ấy lại là một khu vườn nát. Và khu vườn nát ấy lại chỉ chia cách tòa nhà thâm nghiêm ấy với nhà bên cạnh bằng một dẫy tường đất cũng nát không kém. Thi sĩ tả đó là bức “tường gấm”:
Lần theo tường gấm dạo quanh
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa…
Không những cái bức tường gấm ấy sự thật chỉ là một bức tường đất nát, nó còn thấp lè tè nữa, thấp đến cái độ Thúy Kiều đi chơi ở trong vườn để cây thoa cài đầu vướng vào cành cây treo tòng teng và để cho cậu Kim Trọng từ vườn nhà bên cạnh có thể
Giơ tay với lấy về nhà…
Không những cái bức tường gấm ấy sự thật chỉ là một bức tường đất nát và thấp lè tè mà thôi, nó còn bị hổng một chỗ khá lớn phải lấy mấy cành cây rào lại một cách hết sức bôi bác. Chỗ rào ấy sơ sài bê bối đến cái nước thiên hạ chỉ cần xé nhẹ một cái là rách toang và người ta có thể thơ thới chui qua để sang với nhau được:
Lần theo núi giả đi vòng
Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
Sắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai.
Đời sau, vào khoảng giữa thế kỷ 20, tức là vào khoảng 150 năm sau ngày Thúy Kiều ra đời dưới ngọn bút tài hoa của Nguyễn Du, có những tên Việt Nam tán rằng bốn câu trên đây là câu tả cảnh chàng Kim “thám hiểm Ngọc Long Cung” Thúy Kiều. Cứ kể ra thì những tên ma giáo văn nghệ này gán cho những động tác trong bốn câu Kiều trên đây cái ý nghĩa đó cũng chẳng phải là nhảm nhí chi cho lắm. Và dù cho có tán nhảm đi nữa thì cũng chẳng có lỗi gì nhiều. Bởi vì họ tán nhảm là do họ quá yêu những câu thơ Kiều.
Dù có tán nhăng tán cuội, có xuyên tạc hay là không thì việc Thúy Kiều chui hàng rào sang nhà Kim Trọng cũng là chuyện có thật. Việc người con gái chưa chồng hay đã có chồng cũng vậy, nửa đêm chui rào, leo tường, sang nhà đàn ông lạ, là một việc mà từ ngàn xưa cho đến ngàn sau, đời nào cũng không thể ca tụng được. Người ta chỉ vì yêu thơ Kiều, yêu mến tài hoa của Nguyễn Du, mà làm lơ đi cái trò bê bối đó của nàng Kiều.
Em yêu dấu… Anh thấy buồn cười, và thương hại nữa, khi mới đây anh đọc vài lời phê bình Thúy Kiều của một vài người viết cùng thời với anh, thấy có người ca tụng việc chui rào của Thúy Kiều bằng những lời đại khái như: “… Với hành động tự ý sang nhà Kim Trọng tự tình, Thúy Kiều dẫm chân lên lễ giáo phong kiến… Đêm trăng ấy, khi Thúy Kiều băng lối vườn khuya một mình, những gót chân son của nàng đã đặt lên mặt những nhà đạo đức phong kiến…” Khi đọc những lời như thế, anh chỉ mỉm cười và anh tự hỏi: “Những người viết kiểu này ca tụng việc con gái và vợ người khác nửa đêm chui rào, leo tường sang nhà đàn ông lạ để tự tình, nhưng nếu như con gái anh ta, vợ anh ta nửa đêm làm cái việc ấy liệu anh ta có ngồi yên chỗ mà rung đùi ca tụng cái gọi là tự do luyến ái và giải phóng phụ nữ hay là anh ta sẽ nhảy nhổm lên, miệng sùi bọt mép, chân tay run lẩy bẩy? Khỉ ơi là khỉ! Vừa phải thôi!”
Về mục nhà ông Viên Ngoại họ Vương được tả là “thâm nghiêm kín cổng cao tường”, Công tử Hà Đông bèn có thơ rằng:
Con oanh nó mỉa, nó mai
Thâm nghiêm kín cổng, cao tường
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oang học nói trên cành mỉa mai…
Mỉa mai nó mỉa mai ai?
Thâm nghiêm có cái mặt ngoài mà thôi.
Bề trong thì chán mớ đời
Cô em trong trắng quá chời là trong!
Dưới hoa em kết giải đồng,
Cuối tường em lộn nẻo thông mới rào.
Sắn tay em cho nó mở khóa động đào,
Rẽ mây em cho nó trông tỏ lối vào thiên thai.
Con oanh nói mỉa, nói mai
Mỉa mai nó mỉa: “Nhà này thật thâm…”
Khi Thúy Kiều xăm xăm băng lối vườn khuya một mình thì lúc đó trăng đã nhặt thưa gương rọi đầu cành, tức là vào khoảng 7, 8 giờ tối, giờ Tây dương – đêm trăng ấy lên sớm. Đến lúc đôi tình nhân diễn trò thề thốt dưới trăng thì trăng đã vằng vặc giữa trời, tức là trăng đã lên đến đỉnh trời. Thúy Kiều ở lại đó thề thốt, ký văn tự, đàn ca, uống rượu, đưa đầy với Kim Trọng mãi cho đến khi bóng tàu vừa lạt vẻ ngân, tức là khi ánh trăng đã nhạt trên những tàu lá chuối trong vườn. Thời gian lúc trăng nhạt, trăng lặng đó phải là 3, 4 giờ sáng, giờ Tây dương. Như vậy là nàng đã qua gần một đêm trắng với Kim Trọng. Nếu không có tên gia đồng vào gửi tin nhà mới sang thì ta có thể nói mà không sợ mang lỗi vu oan cho nàng là nàng sẽ pass night với Kim Trọng. Không những chỉ qua đêm mà thôi, nàng còn có thể ở đó tới trưa hôm sau mới trở về cái gọi là đài trang hết sức thâm nghiêm kín cổng cao tường của nàng.
Việc Thúy Kiều chui rào qua nhà Kim Trọng vào cái năm Gia Tĩnh triều Minh cách nay cả năm sáu trăm năm ấy là một việc mà anh nghĩ rằng những thiếu nữ lương thiện đời nào cũng không nên làm. Nhưng việc Thúy Kiều lẻn sang nhà Kim Trọng vào buổi chiều và vào lúc nửa đêm cũng chưa ly kỳ bằng sau khi được tin “… thúc phụ từ đường. Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề. Liêu Dương cách trở sơn khê, Xuân đường kíp gọi Sinh về hộ tang…”, Kim Trọng đã cũng chui rào, hoặc leo tường, phăng phăng vào tận phòng ngủ của Thúy Kiều để chia tay. Tự do cứ như là nhà Thúy Kiều không còn một người nào khác ngoài Thúy Kiều. Luông tuồng đến như vậy nhưng mỉa mai thay, tòa nhà Viên Ngoại họ Vương vẫn được mô tả là:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.

Mấy lần cửa đóng then cài
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?
Viết ở thành Hồ năm 1991.
ÁO VÀNG HOA
“Khi nào bạn thấy nếu bạn không làm thơ bạn chết bạn hãy làm thơ. Còn nếu bạn thấy không làm thơ bạn cũng chẳng sao cả, thì bạn đừng làm thơ…”
Đấy là lời của thi sĩ Rilke viết cho một thi sĩ trẻ. Tôi đọc được lời trên của Rilke từ những năm 60, thời gian tôi không làm thơ và không bào giờ tưởng tượng có ngày tôi sẽ làm thơ. Nhưng ngay lúc đó tôi đã thấy Rilke khuyên thật chí lý. Lời khuyên ấy cho tôi biết tại sao trên cái cõi đời này lại có nhiều bài thơ dở đến như thế và cũng tại sao trên cái cõi đời này lại có nhiều người làm thơ dở ẹt đến như thế mà vưỡn cứ làm thơ. Một trong những nguyên nhân chính làm cho Trường phái Thơ Con Cóc phồn thịnh khắp cõi đời này chính là vì nhiều nhà thơ không làm thơ mà vẫn sống nhăn nhưng đã làm thơ vung xích chó.
Tôi là một trong những nhà thơ Con Cóc ấy. Tuy đã biết lời khuyên của Rilke từ lâu và tuy công nhận lời khuyên ấy đúng, nhưng rất nhiều lần trong đời tôi, nếu tôi không làm thơ tôi không chết song tôi vưỡn cứ làm thơ. Tôi làm thơ trong những ngày u ám ở thành phố Hồ Chí Minh. Tôi xin tự biện hộ là nếu những lần ấy không làm thơ tôi có chết hay không, song điều rõ ràng là trong những lần làm thơ đó trái tim tôi có niềm xúc động bắt tôi phải làm thơ.
Ba tháng sau ngày 30 tháng Tư oan nghiệt, vợ chồng tôi về sống trong một căn nhà cư xá nhỏ kiểu Gia cư Liêm Giá Cuộc làm bán rẻ và bán trả góp cho người nghèo. Đây là căn nhà của mẹ tôi. Nhà vẫn bỏ không từ nhiều năm. Vợ chồng tôi tối kỵ sống trong những căn nhà liền mái nhà người nọ nghe rõ tiếng người nói trong nhà kia. Chúng tôi vẫn đi ở mướn chứ không chịu về ở căn nhà cư xá nhỏ hẹp, tối tăm thiếu quá nhiều tiện nghi đó. Nhưng sau cuộc đổi đời, chúng tôi phải về sống trong căn nhà có sẵn đó thôi. Chúng tôi “không còn con đường nào khác”. Một buổi sáng trong căn nhà tối đó – nơi giờ đây chúng tôi thấy luyến thương vì đó là nơi vợ chồng tôi đã sống, đã yêu thương nhau trong mười chín năm trời – vợ tôi mở tủ áo lấy ra chiếc áo dài chúng tôi vẫn gọi là Áo Vàng Hoa. Đứng trước gương nàng ướm chiếc áo lên người. Nàng nhìn nàng trong gương rồi nhìn tôi.

- Áo đẹp quá…

Alice nói. Tôi xúc động bảo nàng:

- Ngày nào em chết anh sẽ mặc cho em cái áo này…

Alice lại hỏi:

- Lỡ có ngày chúng mình phải bán cái áo này lấy tiền nuôi các con thì sao?

Tôi không trả lời câu hỏi ấy của Alice. Tim tôi nặng như cục đá. Buổi chiều đạp xe đi lang thang trong những phố vắng của Sài gòn, tim tôi vẫn trĩu nặng sầu buồn. Tôi làm thơ:

Sáng cuối năm trong căn nhà tối

Em mở tủ nhìn đời ngày cuối

Mắt em buồn bừng sáng màu hoa

Em nhớ lại ngày may áo mới.

Hai năm rồi mặc áo bà bà

Đời tẻ nhạt hơn làn tóc rối.

Áo ướm thân em khóc, em cười

Em có biết em vừa trẻ lại?

Đây áo hoa vàng anh chọn, em may

Như giọt nước trong dòng tình ái

Trong ưu phiền mắt lặng nhìn nhau

Ta thầm hẹn: “Áo này giữ mãi”

Em yêu dấu… ngày em trở lại

Đất ngàn năm như cỏ, như hoa

Anh sẽ mặc cho em lần cuối

Áo hoa này rồi tiễn, rồi đưa.

Em lại hỏi: Có ngày ta phải

Chia áo này cho các con ta?

Em yêu dấu, em ơi… đừng ngại

Mặc cho đời tháng lại, ngày qua

Trong xương thịt ta còn giữ mãi

Những cái gì riêng của đôi ta.

Khi em nằm xuống, khi tàn lửa

Trong hào quang của những tiên nga

Khi xe hạc vàng nhung đến cửa

Đón em về xa cõi trời xa

Anh sẽ mở hồn anh lấy áo

Mặc cho em chiếc áo vàng hoa.

Trong u ám một ngày mây phủ

Nặng những sầu thương, những xót xa

Em đóng cửa hồn, che áo mới

Và ra đường trong chiếc bà ba.

Nhưng cũng chẳng phải tôi chỉ mần thơ những lúc tôi buồn phiền. Có những lúc tôi mỉm cười tôi cũng làm thơ. Đi qua cửa chợ Ông Tạ, tôi thấy một nhà có đám tang đang giờ động quan, tức là giờ khiêng quan tài lên xe bông đi nhị tì. Đám tang có ban nhạc kèn đồng bu-dzích. Kèn tây tò te tí toét om sòm. Trên quan tài đặt tấm ảnh một bà già Bắc kỳ ri cư năm 1954: đầu vấn khăn, răng đen, mặt răn reo trạc 80 tuổi. Tôi nghĩ bà già này cả đời chẳng biết cái đàn pi-a-nô nó khác với cái đàn vi-ô-lông nó ra làm sao. Không những không biết hai cái đàn ấy nó khác nhau, giống nhau ra làm sao, bà già còn chẳng bao giờ nghe nói đến hai thứ đàn tây ấy. Vậy mà bi giờ bà chết, người ta mướn ban kèn tây đến thổi loạn cào cào châu chấu cho bà nghe những bản La Cumparsita, La Paloma, Love Story…

Đây là khi nếu không mần thơ nhất định là không những không chết mà tôi còn không bị xây xẩm mặt mày chi cả. Vậy mà tôi vưỡn cứ mần thơ:

Cả đời chẳng biết tiếng tò-le

Chết rồi tai điếc lấy gì nghe

Con cháu mừng rơn, con cháu khóc

Tò te kèn thổi khúc Lô-ve.

Khi bạn thấy cõi đời này xuất hiện những tờ báo xuân, báo Tết, thời gian đang là mùa cưới, mùa lên xe bông của những nàng thiếu nữ thành Hồ.

Trước cảnh các nàng lên xe bông với áo dài cô dâu, khăn voan, xuyến vàng, pháo hồng v.v… tuy không làm thơ tôi vẫn sống nhăn và các nàng vẫn cứ thơ thới hân hoan, “phấn khởi, hồ hởi” lên xe bông về nhà chồng, tôi đã mần thơ:

Sáu năm vất vả ở Thành Đồng

Cứ tưởng là em ế chổng mông

Ai ngờ đám cưới em ra rít

Em vưỡn xe bông, vưỡn pháo hồng.

Sáu năm cả nước xếp vào hàng

Cứ tưởng bà con đói cả làng

Ai ngờ đám cưới em ra rít

Em vưỡn khăn voan, vưỡn xuyến vàng.

Những đêm nằm trong phòng 20 khu FG lầu bát giác Chí Hòa, tuy rõ ràng là không mần thơ tôi vưỡn không chết nhưng tôi vưỡn cứ mần thơ. Nằm trong mùn tôi mần những bài thơ vịnh Kiều. Tôi mần thơ nhẩm và tôi học nhẩm đến thuộc lòng những bài thơ tôi đã làm. Có những bài Tại ngục vịnh Kiều thật buồn và cũng có những bài… dzui dzui. Chẳng hạn như bài Vịnh Thúy Vân.

Thúy Vân, nhân vật bị thiệt thòi nhất trong Kiều. Người đàn bà đau khổ nhất đời là người đàn bà sống không có tình yêu, sống không được người đàn ông nào yêu. Thúy Vân là người đàn bà đáng thương, xấu số như thế. Tôi thấy điều bất công nhất là tất cả mọi người chỉ ca tụng, chỉ thương xót, chỉ đề cao Thúy Kiều. Chẳng ai để ý gì đến Thúy Vân. Tôi chưa thấy một người nào trước tôi nói hay viết một lời đề cao Thúy Vân. Không những không được đề cao, xót thương, an ủi; Thúy Vân còn bị người đời miệt thị.

Tôi thấy nhân vật Thúy Vân tức cười ở đoạn trong bữa tiệc đoàn tụ gia đình hết sức rởm, nàng đã mượn chén, tức là giả vờ say rượu, đứng lến phát biểu vài câu cay cú. Đàn bà uống rượu đã khó coi rồi, đàn bà đã uống rượu ngà ngà say mà còn đứng lên đi một đường tạp thuyết năm bảy câu châm chít đời cho hả giận thì quả thật là một hình ảnh tức cười.

Trinh em đáng giá ngàn vàng

Công tử hào hoa phong thấp Kim Trọng hoàn toàn không yêu thương gì Thúy Vân. Công tử vồ hụt cô chị, công tử vồ luôn cô em. Công tử thuộc bang phái võ lâm tên là “Hoa thơm đánh cả cụm”, nôm na là lấy luôn ba bốn chị em ruột làm vợ cho tiện việc sổ sách. Từ những năm 76, 77, khi đọc lại truyện Kiều tôi đã tưởng tượng ra chuyện Thúy Vân có người yêu nhưng vì người chị ruột yêu cầu nàng phải hy sinh tình yêu của nàng để làm trọn tình yêu của chị. Tôi đã có dự định viết một truyện Thúy Vân là vai chính với chủ đề như tôi vừa nói: Thúy Vân có người yêu nhưng phải hy sinh tình yêu để làm vợ Kim Trọng, nàng làm vợ Kim Trọng nhưng nàng biết rõ hơn ai hết Kim Trọng yêu Thúy Kiều chứ không yêu nàng. Kim Trọng tuy lấy nàng làm vợ nhưng vẫn cứ yêu, cứ nhớ Thúy Kiều. Ngay cả khi Kim Trọng ân ái với nàng,, nàng biết chàng đang tưởng nàng là Thúy Kiều.

Tôi tưởng tượng Thúy Vân có thể dùng mấy lời thơ T.T. Kh:

Từ ấy thu rồi thu lại thu

Lòng tôi băng giá đến bao giờ?

Chồng tôi, tôi biết, còn thương nhớ

Chị ấy cho nên vưỡn hững hờ.

Vì vậy tôi tức cười và tôi thương Thúy Vân khi tôi thấy nàng đứng lên trong bữa tiệc đoàn tụ gia đình để nói mấy lời nghe không giống ai mà cũng không ai giống:

Tàng tàng chén cúc dở say

Đứng lên Vân mới giải bày một hai

Nghĩ đời vợ gá, cũng cay

Cho nên em mới dở say em tàng tàng

Tàng tàng em nói ngang ngang

Linh tinh máu chảy, lang tang ruột mềm

Lăng nhăng phận cải, duyên kim

Lằng nhằng tình chị, dây em buộc vào…

Yêu sao cái tật hoa đào

Em nào cũng lẳng, em nào cũng ghen,

Một chĩnh, đôi gáo bon chen

Chồng em, chị em….

Còn khổ ghe phen em tàng tàng.

Tôi can tội mần thơ những lúc trái tim tôi trĩu nặng. Viết đến đây tôi bỗng khám phá ra là tôi cũng can tội mần thơ cả những lúc trái tim tôi nhẹ. Nói cách khác là khi tôi buồn và khi tôi vui. Bằng chứng là khi thấy em Thúy Vân giả say đứng lên tuyên bố linh tinh, tôi tức cười và tôi mần thơ. Tôi cũng can tội mần thơ khi tôi thấy em Thúy Kiều cứ giơ cái “trinh” của em ra một cách giả tạo, gò ép đến cái độ mất hết tự nhiên. Em là người con gái nửa đêm leo tường, chui lỗ qua nhà đàn ông con trai, nhưng tác giả cứ cho em “bảo vệ trinh tiết” phây phây bất kể thiên hạ.

Khi đã hai lần mò sang nhà Kim Trọng, lần thứ nhất buổi chiều, lần thứ hai nửa đêm, và khi Kim Trọng lả lơi, Thúy Kiều nghiêm trang như vợ ông Khổng Tử mà nói:

Thưa rằng đừng lấy làm chơi

Giẽ ra cho hết một lời đã nao

Vẻ chi một tấm yêu đào

Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh

Đã cho vào bực bố kinh

Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu…

Tôi tức cười… anh ách khi nghe Kiều nói những câu “tiết hạnh khả phong” như thế. Nếu nàng nói những câu như thế mí tôi, chắc tôi đã cười phá lên rồi hỏi nàng: “Nếu em trinh tiết đầy mình như dzậy, em mò sang đây mí anh làm ký gì? Em khoe em có học chắc em cũng biết câu ‘nam đáo nữ phòng nam tắc đạo. Nữ đáo nam phòng nữ tắc dâm’ chứ? Tôi tức cười và tôi mần thơ:

Làm trai anh đánh tổ tôm

Uống trà mạn hảo, ngâm nôm Thúy Kiều.

Yêu Kiều anh thật là yêu,

Thúy Kiều mà diễn tuồng Tiều, anh chê.

Cái trinh em cứ lộn về,

Ghe phen Kim Trọng bị kê đầy mồm.

Sự đời đã ẵm thì ôm,

Í a í é… chiều hôm anh phiền.

Này em bài học không quên:

Một khi nước đã đánh phèn

Vặt lông, nấu cháo làm liền một khi.

Để dành nào có hay gì,

Quá dành ra sọt nó thì chiêm bao

Sờ quanh nào thấy đâu nào…

Kiều khuyên Kim Trọng “để dành” đã là việc quá đỗi khó tin và giả tạo, Kim Trọng chịu “để dành” còn là chuyện ruồi bâu kiến đậu nữa.

Chưa hết tức cười vì cái “trinh” to tổ bố của Thúy Kiều, cái “trinh” được văn học sử ca tụng và đánh giá là “ngàn vàng”, tôi mần thêm bài thơ này:

Trinh em đáng giá ngàn vàng

Ngàn vàng về lộn tay chàng đêm nay.

Trinh em còn những ngần này

Vưỡn to bề rộng, vưỡn dầy bề sâu.

Có mòn trinh tí nào đâu

Càng xài càng tốt, càng lâu càng bền.

Trinh em có đủ nhân duyên:

Phu nhân, Kiều Thúy, Trạc Tuyền, Hoa Nô.

Mười năm lưu lạc giang hồ

Nửa giờ chiêu tập cơ đồ còn nguyên.

Trinh em thật đáng đồng tiền.

Thúy Kiều được đời ca tụng vì cái “trinh” của nàng. Nói cách khác khi ta ca tụng, ta thờ phượng, ta quí báu, ta nâng niu Thúy Kiều cũng là khi ta ca tụng, thờ phượng, quí báu, nâng niu – hôn hít nữa – cái “trinh” của nàng. Kiều khá vì cái “trinh” và cái “trinh” đó của Kiều được Đạm Tiên gọi bằng thuật ngữ đạo giáo là “âm công”. Đạm Tiên nói trước rằng Thúy Kiều đã hết kiếp đoạn trường, sẽ được sung sướng vì cái gọi là “âm công” của Kiều khá nặng. Đó là câu:

Một niềm vì nước, vì dân

Âm công cất một đồng cân đã già

Đoạn trường sổ rút tên ra

Đoạn trường thơ phải đón mà trả nhau.

Cái “âm công” long trọng và được đánh giá bằng pound Mẽo, ký-lô Phú lang sa này làm tôi buồn cười. Tôi cười và tôi mần thơ:

Một niềm vì nước vì dân

Âm công cất một đồng cân đã già

Âm công em nặng ký ba

Thêm đồng cân nữa nó già ký tư.

Ngẫm hồng nhan tự thuở xưa

Cái điều âm đức có chừa ai đâu?

Âm công em nở, em sâu,

Âm công em đẹp, em sầu làm chi.

Đoạn trường rồi cũng qua đi

Mười lăm năm ấy hại gì ai đâu!

Túc khiên em rửa sạch lầu

Âm công ai có qua cầu mới hay.

Chuyện Thúy Kiều đòi “đi tu” – theo tôi – đáng được coi là chi tiết giả tạo nhất trong Truyện Kiều. Trong những đêm nằm buồn ở Chí Hòa, tôi mần những câu thơ cay cay để vịnh Thúy Kiều đi tu:

Sao em trong ngọc trắng ngà

Dầy dầy em đúc một tòa thiên nhiên

Đào hoa trong bấy nhiêu niên

Mà em ăn nói nghe phiền lắm thay,

Mới ba mươi tuổi trao tay

Tu gì được cái tuổi này mà tu?

Em đòi em khép phòng thu

Đêm thu gió lạnh nó cù… em mở ngay.

Hay gì chuyện đó mà hay

Em tu không khéo có ngày em hoảng chưa.

Tu mà uống rượu đánh cờ

Tu xem hoa nở, tu chờ trăng lên.

Em tu cho phỉ mười nguyền,

Cho tình em đượm cho duyên em nồng.

Tu mà làm lễ tơ hồng

Tu mà hoa chúc, động phòng sánh đôi.

Tu mà dìu dặt chén mồi.

Bâng khuâng kinh cũ, ngậm ngùi kệ xưa.

Em ơi, em tu từ sen ngó đào tơ

Mười lăm năm em tu đã, bi giờ em lại tu!

ầu ơ… ví dầu…

Cá lóc thì nấu canh chua

Em đi ở chùa, ai đẻ con anh?

Em tu em độ chúng sanh

Em ăn thịt mỡ, dưa hành ở đâu?

Em tu mà tóc đầy đầu

Nam mô bồ tát Thị Mầu… em tu!

THÚC KỲ TÂM, CÔNG TỬ VÔ TÍCH

T

húc Kỳ Tâm, Công tử Vô Tích, được giới thiệu về cuộc đời “ái tình và sự nghiệp” bằng bốn câu:

Khách du bỗng có một người

Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương

Vốn người huyện Tích, châu Thường

Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri.

Sai. Thúc Kỳ Tâm là con nhà tap hóa – người Bắc kỳ những năm 40 gọi là những nhà bán hàng hóa tạp nhạp mấy sợi giải rút, cây kim, ống chỉ, cục pin đèn, lưỡi câu, dây câu, lọ mực… này là hàng xén, tạp hóa; người Nam kỳ cũng những năm 40 gọi theo Ba Tàu là tiệm chạp phô – Thúc Kỳ Tâm không thể là con nhà thư hương được. Anh bố của Kỳ Tâm là nhà buôn gia truyền. Không thể gọi những người “nòi thư hương” là những anh có đi học lõm bõm năm ba chữ. “Nòi thư hương” phải là “thư hương” từ đời ông, đời cha…

Nguyễn Du dùng hai chữ “thư hương” hơi nhiều trong Kiều. Trước Thúc Kỳ Tâm, ta thấy Sở Khanh cũng:

Một chàng vừa trạc thanh xuân

Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng

Nghĩ rằng cũng mạch thư hương

Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh

Nhưng đây là Kiều tưởng lầm Sở Khanh là con nhà thư hương – nhà có học – qua diện mạo và trang phục của tay chơi phóng đãng họ Sở. Kiều tưởng lầm thì có thể chấp nhận được, nhưng Thúc Kỳ Tâm được Nguyễn Du giới thiệu rõ ràng là “con nhà thư hương” thì cần phải xét lại.

Anh con nhà buôn Thúc Kỳ Tâm đẹp trai, hào hoa phong nhã không kém gì Công tử Bắc Kinh Kim Trọng. Anh còn hơn Kim Trọng hai điểm:

- Có vợ.

- Biết mần thơ.

Và như như những nhà thơ lớn sẵn sàng mần thơ một cách dễ dàng ở mọi nơi, mọi lúc, Thúc Kỳ Tâm đã mần thơ khi Kiều tắm. Công tử Kim Trọng chơi đàn ghi-ta, vẽ vời cây thông cây tùng, nhưng không mần thơ được. Bằng chứng cậu phải nhờ Kiều mần giùm mấy câu thơ đề lên bức họa:

Trên yên bút giá, thi đồng

Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên

Phong sương được vẻ thiên nhiên

Mặn khen nét vẽ càng nhìn càng tươi

Sinh rằng: “Phác họa vừa rồi

Phẩm đề, xin một vài lời cho hoa”

Tay tiên gió táp mưa sa

Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.

Tôi nghĩ: Thơ phải để cho những thi sĩ chân chính mần, bọn con nhà buôn chẵn buôn lẻ dính vào thơ làm bẩn thơ, làm thơ mất giá. Năm mươi năm xưa, thi sĩ Nguyễn Bính đã phải ngán ngẩm:

Trọc phú ti toe bàn thế sự

Đĩ già tấp tểnh nói văn chương

Đã coi đồng bạc to hơn núi

Lại học đòi theo thói Mạnh Thường…

Một đêm tại ngục vịnh Kiều, tôi tưởng tượng ra cảnh chiều mùa hạ, trời nóng, ở lầu Ngưng Bích, Kiều tắm:

Dưới trăng quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông

Buồng the phải buổi thong dong

Thang lang rủ bức trướng hồng tẩm hoa

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà

Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên

Sinh càng tỏ nết càng khen

Ngụ tình tay thảo một thiên Luật Đường

Thúc Kỳ Tâm có thể làm nhiều việc thích hợp với việc Kiều tắm, nhưng y lại mần thơ. Thơ của những anh con nhà tạp hóa loại Thúc Kỳ Tâm là thứ thơ dỏm, cóc nhái, ểnh ương, thằn lằn, cắc ké, kỳ nhông. Thúy Kiều chắc phải ngán ngẩm đến buồn nôn vì thơ phú của người tình con nhà tạp hóa. Nàng ngấy người tình nên nàng – một cây mần thơ – mới giả vờ nhớ nhà để tránh làm thơ thù tạc. Tôi thay nàng làm bài thơ vịnh Thúc Sinh mần thơ:

“Lòng còn gửi áng mây Hàng

Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay”

Người hay ngợm? Lạ lùng thay!

Thang lan em tắm nửa ngày hạ thiêu

Thấy em tắm, chẳng thèm yêu

Giở trò con khỉ con tườu… mần thơ!

Thơ gì? Thơ thẩn, thơ ngơ

Thơ con cá lóc lập lờ cửa hang.

I tờ em biết tài chàng

Lời lời rau muống, hàng hàng mắm tôm.

Thơ chàng… hán cũng như nôm

Quẳng ra con vện, con xồm đều chê

Tứ thơ thì trật môn lề

Mà niêm với luật lộn mề tanh banh

Chán chường em nói loanh quanh:

- Nhớ nhà, em phải lộn vành hôm nay!

Môn đăng, hộ đối

Thúc Kỳ Tâm là con nhà buôn – xã hội phong kiến đời Gia Tĩnh triều Minh coi khinh bọn con nhà buôn nhất. Trong bốn thành ohần xã hội, bọn buôn bán được xếp hạng bét: Sĩ, Nông, Công, Thương. Nhưng vợ Thúc Kỳ Tâm con nhà tạp hóa lại là:

Vốn dòng họ Hoạn danh gia,

Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư…

Nhà mẹ Hoạn Thư có treo tấm bảng “Thiên Quan Chủng Tể” trước đôi mắt ngỡ ngàng của Thúy Kiều bị bắt cóc đưa đến:

Ngước trông tòa rộng, dãy dài

“Thiên Quan Chủng Tể” có bài treo trên.

“Thiên Quan Chủng Tể” là mỹ danh để gọi các ông Tể tướng. Như vậy ông thân sinh ra Hoạn Thư “ở ăn thì nết cũng hay, nói lời ràng buộc thì tay cũng già” từng làm tể tướng. Ngày xưa – ở vào cái thời Gia Tĩnh triều Minh thế kỷ thứ mười bốn, mười lăm ấy – người đương thời phân biệt và tôn trọng giai cấp rất chặt chẽ. Thời bi giờ người ta thường thấy những ông thạc sĩ con nhà tỉ phú du học ở Ăng-lê, Phú-lang-sa về yêu và nhất định kết hôn với những em thợ may, thợ uốn tóc chợ Bàn Cờ, Cầu Muối; những ái nữ con nhà tỉ phú nằng nặc đòi làm vợ những chú tài xế chuên nghiệp – những chuyện tình không chia giai cấp này được thể hiện nhiều nhất, trung thực nhất, trong những tiểu thuyết do những dzăng sỡi nhà nghề viết ra – nhưng đó là chuyện thời bi giờ. Còn chuyện ngày xưa, chuyện tình năm sáu trăm năm trước, người ta còn trọng cái gọi là “môn đăng, hộ đối” lắm lắm.

Con nhà công, hầu, khanh, tướng kết hôn với con nhà công, hầu, khanh, tướng. Chuện đó chắc như bắp rang, chắc hơn cua gạch. Con gái tể tướng không thể về làm dâu nhà buôn tạp hóa đứng hạng bét trong bốn nấc thang xã hội. Nhưng em Hoạn Thư, con gái quan Tể tướng, đã trở thành con dâu của me sừ Thúc ông phó thường dân chủ tiệm chạp phô. Tại sao? Gần hai trăm năm nay chúng ta đọc Kiều, yêu Kiều, tưởng tượng ra Kiều, đấu hót, tán nhảm, viết vung vít về Kiều, nhưng ít có ai thắc mắc đến chuyện tại sao lại có cuộc hôn phối hết sức hổng môn đăng, hộ đối một ly ông cụ nào như cuộc hôn nhân Hoạn Thư, ái nữ Tể tướng, với Thúc Kỳ Tâm, công tử chạp phô?

Công tử Hà Đông, anh em cùng vợ với con trai Bà Cả, bèn vận dụng công phu duy vật biện chứng Ăn Đong để phân tích cuộc hôn nhân Tể tướng – Chạp phô của Hoạn tiểu thư và Thúc công tử. Đại khái như sau:

Gia đình Hoạn Thư đã suy sụp – sự kiện này hơi khó chấp nhận vì mới đời ông bố làm Tể tướng, ông này có ngủm củ tỉ đi nữa thì bà vợ, cô con đâu đã hết sản nghiệp nhanh đến như thế – gia đình nhà buôn họ Thúc tuy không có danh vọng nhưng có tiền. Giai cấp gian thương đang lên chân, đang dần dần có thế lực trong xã hội. Hoạn Thư kết hôn với Thúc Kỳ Tâm vì tiền của nhà họ Thúc, Thúc Kỳ Tâm lấy Hoạn Thư làm vợ vì danh tiếng của nhà họ Hoạn.

Cũng được thôi, cũng đúng thôi. Ở đời ai cần cái gì thì đi tìm cái ấy. Họ Hoạn cần tiền, họ Thúc cần được kính nể. Đôi bên trao đổi sòng phẳng, hợp tình, hợp lý.

Năm xưa, những năm môi tôi còn thắm, tóc tôi còn xanh, mắt tôi còn sáng, tim tôi còn nóng… tôi cũng như mọi người, tôi chẳng ưa gì cái gọi là “môn đăng, hộ đối”. Không những chỉ không ưa, tôi còn chống đối kịch liệt những cuộc hôn nhân định đoạt theo tiêu chuẩn “môn đăng, hộ đối” ác ôn côn đồ. Không những chỉ chống đối mà thôi, tôi còn hoan nghênh, tán thành những cuộc tình con gái Đại tá – Binh nhì Chá xế, Kỹ sư – Thợ may, Thạc sĩ Kinh tế – Nữ thư ký đả cơ khí tự, v.v… Nhưng khi

Năm nay mái tóc không còn xanh nữa

Tôi đã đau thương đã nợ nần…

Khi tôi bằng ông Khổng Tử năm ông thốt ra câu để đời “tứ thập nhi nhĩ thuận”, hình như tôi lại có ý nghĩ khác về cái gọi là “môn đăng, hộ đối”.

Kính thưa quí vị nữ độc giả ái mộ thân mến thơm hơn múi mít. Xin quí vị bình tâm xét lại. Ta chẳng nên hung hăng con bọ xít chê bai, chống đối tất cả những kinh nghiệm sống của những người đã sống, đã yêu, đã hai năm mươi, xuôi sáu tấm trên cái cõi đời này trước chúng ta. Hôn nhân dựa trên tiêu chuẩn “môn đăng, hộ đối” coi bộ tốt, coi bộ đúng lắm đí chứ? Có gì là sai trái khi những người cùng một hoàn cảnh gia đình, cùng một giai cấp, cùng một nghề nghiệp… kết thân, kết hôn mí nhau? Quân tử tàu, những người khôn dàng trời, tối đất, có lời khuyên minh triết xanh rờn về việc cưới vợ, gả chống cho con như vầy:

- Cưới vợ con trai mình thì nên chọn con gái nhà nào kém nhà mình để con vợ nó về nó sợ nhà mình.

- Gả chồng cho con gái thì nên chọn nhà nào hơn nhà mình để con gái mình nó không khinh thường nhà chồng nó.

Chí lý quá xóa, phải không ạ? Chí lý đến nỗi ở trên cái cõi đời này không còn gì có thể chí lý hơn được nữa. Thúc Kỳ Tâm, con nhà tạp hóa, nếu lấy vợ cũng con nhà tạp hóa thì đâu có chuyện sợ vợ đến khốn khổ khốn nạn, thảm kịch chết đi sống lại vì mất vợ bé đâu có xảy ra. Làm sao những nỗi đoạn trường ghê gớm có thể đến với cuộc đời Thúc Kỳ Tâm tạp hóa nếu vợ Kỳ Tâm là con gái một ông chủ chạp phô nào đó ở chợ Bàn Cờ, một nhà vẫn phải lấy hàng hóa gối đầu của nhà buôn họ Thúc tổng đại lý chợ Kim Biên? Chị vợ Thúc Kỳ Tâm con nhà chạp phô nhỏ này sẽ sợ chồng một phép. Không những chỉ sợ mà thôi, chị còn mừng khi thấy chồng có vợ bé để chị yên thân ở nhà nuôi con, ăn heo quay, xá xíu béo mầm, quanh năm ngồi xem phim tình cảm Quỳnh Dao Tài Oăn ướt lướt thướt, năm bữa nửa tháng nhờ anh chồng hào hoa phong tình về thăm hỏi năm bảy phút nhấp nháy cò con….

Cuộc hôn nhân tốt đẹp, êm đềm ấy là cuộc hôn nhân đặt căn bản trên tiêu chuẩn “môn đăng, hộ đối”. Nhưng thay vì con nhà buôn hạng bét phải lấy vợ cũng con nhà buôn hạng bét, Thúc Kỳ Tâm – đúng ra phải kể là anh bố nhà buôn háo danh ngu đần của Thúc Kỳ Tâm – đã với cao hơn đầu, đã thực hiện một cuộc hôn nhân “môn bất đăng, hộ bất đối”. Và chính vì thế mà Thúc Kỳ Tâm sợ Hoạn Thư hơn sợ bố, hơn cả sợ pháp luật triều đình. Tất cả những đau đớn đứt ruột của Thúc Ký Tâm, những bất hạnh không đáng phải chịu của Thúy Kiều: bị bắt cóc, bị biệt giam, bị bắt làm tôi đòi, bắt quí tận mặt, bắt mời tận tay, bắt khảy đờn, bắt ngồi canh đèn ở cửa phòng vệ sinh, rồi đi tu chùa tụng kinh, rồi lại trở vào chốn yên hoa làm vợ khắp người ta có tiền… Tất cả những cái vừa kể đó đều không có nếu anh bố Thúc Kỳ Tâm khôn ngoan áp dụng quy luật hôn nhân “môn đăng, hộ đối”.

Tôi càng nghĩ càng thấy tâm sự minh triết của qui luật “môn đăng, hộ đối”. Chị con gái nhà buôn tuy có tiền đem về nhà chồng, tậu nhà, mua xế cho chồng nhưng vẫn tủi thân khi nghe chồng, hay người nhà chồng, nói những lời khinh thường những kẻ sống ở đời mà không phải là bác sĩ, kỹ sư, đốc phủ sứ, hoặc khi nghe chồng mạt sát bọn nhà buôn ngu si, dốt nát chỉ biết kiếm tiền.

Như con gái một cải lương chi bảo, hay một tân nhạc danh ca về làm dâu một nhà mù tịt về những cái gọi là dzăng nghệ dzăng gừng… có thể tủi thân khi nghe người nhà chồng nói đến bốn tiếng “xướng ca vô loài”. Lại tỉ như con gái một anh viết báo, viết tiểu thuyết – như tôi chẳng hạn – kết hôn với một anh chồng hoàn toàn không biết đến tờ báo, quyển truyện là cái gì, có thể nực gà, nóng mắt khi nghe thằng chồng vô tình nói: “Mấy thằng nhà báo nói láo ăn tiền…”

Nhưng nếu thằng rể quí của tôi cũng có bố hành cái nghề nói láo ăn tiền như bố vợ nó thì câu nói trên chỉ là câu nói đùa hết sức có duyên giữa đôi vợ chồng trẻ. Thảm kịch hôn nhân không môn đăng, hộ đối giữa hai họ Hoạn – Thúc làm tôi sáng mắt, sáng lòng. Tôi thấy rõ tính hợp lý của việc môn đăng, hộ đối trong hôn nhân.

Tôi tưởng tượng nếu con gái tôi có diễm phúc được làm vợ con trai của những ông Minh Vồ, Duyên Anh, Hoàng Anh Tuấn chẳng hạn, nó sẽ hết sức dịu dàng, thoải mái mà hỏi chồng nó:

- Ê… thằng khốn nạn kia! Mày chửi bố mày hay chửi bố tao đấy?

Hoặc:

- Chèng đéc ơi… Từ nãy tới giò em cứ tưởng là anh chửi bố em, hóa ra là anh chửi tía anh, anh chửi nghe đã quá!

Cuộc tình Hoạn – Thúc rắc rối tơ, sai qui luật cho tôi đi đến mấy kết luận kiểu luân lý giáo khoa thư lớp Đồng Ấu:

- Con nhà báo mần vợ chồng với con nhà báo.

- Con nhà lính mần vợ chồng với con nhà lính.

- Con nhà buôn mần vợ chồng với con nhà buôn.

- Mình là con nhà thường dân thì đừng có dính dáng gì đến những em con nhà quan lại; để cho các em chổng mông…

- Vợ chồng cùng giai cấp là hạnh phúc nếu không chắc như bắp thì cũng không đến nỗi đau khổ để văn thơ phải ghi chép tốn giấy, tốn mực. Vợ chồng đừng có lai căng, vợ chồng đầu gối, tay ấp mí nhau mà đòi hòa hợp, hòa giải giai cấp đấu tranh là hổng có được. Xung đột dữ dội lắm. Nhiều khi đi đến tạt dầu hôi, bôi át-xít nhau đấy. Ông cha đã dạy hổng chịu nghe, thảm kịch xảy ra kêu trời, kêu đất…

- Những cuộc tình đẹp, thơ mộng tuyệt vời kiểu không chia giai cấp, con gái tỉ phú lấy tài xế xe nhà, bác sĩ mua bằng giả yêu em thợ uốn tóc thẩm mỹ viện Ngã Ba Chú Ía… chỉ là những chuyện có thật trong tiểu thuyết, trên màn ảnh vi-đê-ô, đừng có tin, đừng tưởng bở…

Bố ký cóp, con bốc trời

Công tử chạp phô Thúc Kỳ Tâm thích mần thơ đã là chuyện lố bịch làm sỉ nhục thơ văn, nhưng ngu ngốc nhất là việc đương sự “tưởng Thúy Kiều là con của Tú Bà”!

Tưởng thế nào được? Thúc Kỳ Tâm tưởng cái gì về Thúy Kiều cũng có thể tha thứ được, nhưng “tưởng Thúy Kiều là con Tú Bà” thì hổng thể nào chịu nổi. Con nít lên mười, cụ già chín mươi cũng chẳng có ai tưởng một cách ngu si, đáng ghét như thế. Khi thấy Thúy Kiều tắm trong bồn nước pha Chanel No. 5, Thúc Kỳ Tâm làm cái việc ruồi bâu kiến đậu là ngồi rung đùi mần thơ. Rồi đến lúc Thúy Kiều vờ vẫn bầy đặt chuyện nhớ nhà để tránh khỏi phải mần thơ thù tạc xôi thịt đáp lễ:

Hay hèn nghĩ cũng nối điêu

Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang

Lòng còn gửi ánh mây Hàng

Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.

Thúc Kỳ Tâm làm cái việc ruồi bâu kiến đậu thứ hai khi nói:

-Ủa! Kỳ dzậy! Anh tưởng em là con má Tú?

Rằng: “Sao nói lạ lùng thay

Cành kia chẳng phải cội này mà ra?”

Lúc ấy chắc chắn Thúy Kiều phải hận đến căm gan tím ruột. Không có gì làm nàng tủi nhục bằng việc nàng bị coi là con gái của mụ chủ nhà thổ thô bỉ, bệnh hoạn, nước da xanh xao, nhờn nhợt, cao lớn, đẫy đà… Nhưng tên tưởng lầm, tên sỉ nhục nàng lại là tên có tiền chi bao nàng sống. Nàng không thể dí… vào mặt nó được, nên nàng chỉ buồn ray buồn rứt:

Nàng càng ủ dột thu ba

Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh…

Những đêm ở phòng giam tập thể 10 Ô-ten Chí Hòa thành Hồ, tôi nằm nuôi rệp xuất khẩu trong màn – chỉ giương cái màn mỏng dính lên thôi nhưng lạ kỳ biết chừng nào, tôi đã có một cõi riêng tư để thả hồn mơ mộng, để mần thơ vịnh Kiều – tôi thương Kiều bị bọn ngu si hạ nhục, tôi mần thơ chửi Thúc Kỳ Tâm, chửi đến nơi đến chốn, chửi thẳng thừng, chửi từ đời con đến đời cha, để trả hận cho Kiều:

Chửi bố cha con

Nhà chạp phô Thúc Kỳ Tâm

Rằng: “sao nói lạ lùng thay

Cành kia chẳng phải cội này mà ra?”

Chém cha con mắt mù lòa

Có đui mới tưởng em là con hoang.

Ngu thì ngu cũng phải chăng

Ngu sao qua nỗi bất bằng là ngu!

Chán cho anh bố lù đù

Suốt đời nhặt nhạnh từng xu, từng đồng.

Thằng con vừa ngọng vừa ngông

Trăm nghìn nó đổ như không trận cười

Bố ký cóp, con bốc trời

Cha đời nửa ngợm nửa người nhà ngu.

Như lu mụ Tú mập ù

Vành mông, vòng bụng lù lù một toa

Nàng thì trong ngọc trắng ngà

Dầy dầy sẵn đúc một tòa nước non

Lấy gì mẹ mẹ, con con?

Mèo mù đòi dọ ngọn nguồn, lạch sông.

Tiếc em, em đỏ như vông

Vô duyên vớ phải thằng chồng cu đen.

Người yêu em nhất

Nói đến em là người đời nói đến trinh, đến trắng…

Ngay cả đến anh Công tử Hà Đông hào hoa phong nhã chẳng bằng ai cũng ca tụng cái gọi là “chữ trinh” của em:

Trắng suốt thời gian một chữ trinh

Hai trăm năm lẻ biết bao tình

Nào dâu, nào biển, đời hay mộng

Trang giấy này em vẫn hiển linh.

Em trinh cùng mình, trinh từ đầu đến chân nhưng số em lại là số có thân chủ đàn ông đứng xếp hàng trước giường em hơi đông:

Mã Giám Sinh

Sở Khanh

Thúc Kỳ Tâm

bạc Hạnh

Từ Hải

Hồ Tôn Hiến

Thổ Quan

Kim Trọng…

Kim Trọng, Công tử Bắc Kinh, đáng lẽ là năm-bơ-oăn, nhưng chỉ vì can tội “để dành, để sọt” nên trở thành đèn đỏ. Với Thúy Kiều thì Kim Trọng “đen hơn mõm chó mực”. Số của cậu là số “đi trước, về sau”, giống như “Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi…” Sài gòn: Thành đồng tổ quốc, đánh nhau trước nhưng “được” hưởng hạnh phúc Việt cộng muộn nhất nước.

Nhưng thôi, ta bỏ qua những chuyện lẻ tẻ đó, Thúy Kiều, anh hỏi riêng em: Người đàn ông nào yêu thương em nhất?

Một trong ba tên Thúc Kỳ Tâm, Từ Hải, Kim Trọng ư? Anh thấy cả ba tên ấy đều yêu em vì “muốn” em, vì muốn được hưởng thụ nhan sắc, thân xác của em. Nếu chúng không “muốn” em, anh chắc chúng chẳng dửng dưng con cá vàng thì cũng chẳng tha thiết gì đến em. Anh muốn em hãy phân biệt “yêu” và “muốn”. Hai cái đó giống nhau lắm đấy. Nhưng nếu ta tỉnh trí đôi chút, ta vưỡn thấy chúng khác nhau.

Theo anh, người đàn ông yêu em nhất đời em, yêu em thực tình, yêu em thật trắng, thật sạch, yêu em không phải vì “muốn” em, là Tri phủ Lâm Tri.

Khi anh đã nói đến Tri phủ Lâm Tri rồi, anh chắc em sẽ đồng ý với anh. Phải không em? Thúc Kỳ Tâm, Kim Trọng yêu em, khóc với em, khóc vì em, tiếc em… sống dở chết dở, chết đi sống lại, nhắc ngoải, rên la thảm thiết chỉ là vì em đẹp, vì muốn được nằm chung một giường mí em. Kể cả Từ Hải. Cả ba yêu em chính là tự yêu thân xác chúng. Nhưng riêng Tri phủ Lâm Tri thì yêu em mà không đòi em phải đền đáp, chải cho cái gì cả. Đúng không em? Vì những lý do cao đẹp đó, anh long trọng tuyên bố:

Người đàn ông yêu Vương Thúy Kiều nhất cõi đời này là: Tri phủ Lâm Tri.

Tri phủ Lâm Tri

Trông lên mặt sắt, đen xì

Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời

Lập nghiêm nên phải thế thôi

Con người ấy thật là người hào hoa.

Hoa tiên quan mới xem qua

Nòi tình nên thấy tình là quan thương.

Khen rằng: “Giá lợp Thịnh Đường

Tài này, sắc ấy nghìn vàng chưa cân”.

Mười lăm năm, bấy nhiêu lần

Có ai bằng được Phủ Quân nhà mình?

Đa tình nên mới yêu tình,

Hào hoa sáng rực một thành Lâm Tri.

Tuy rằng mặt sắt đen xì

Nhưng tim với óc quan thì đỏ au.

Truyện Kiều tính suốt xưa sau

Hào hoa đệ nhất đứng đầu: Phủ Quân.

Khi em một bước thanh vân, em lên chức phu nhân, em ân đền oán trả, em lập tòa án xử tội những tên làm rách, làm bẩn cuộc đời ái tình và sự nghiệp của em, em trừng trị bọn Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, Bạc Hạnh, Bạc Bà, Hoạn Thư, mẹ Hoạn Thư. Em tuyên án tử hình cả hai tên gia nô tay sai Khuyển Ưng, Khuyển Phệ. Em chi “gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” máu và nước mắt nhân dân do chồng em bóp nặn, bóc lột. Em đền ơn hậu hĩ cho mụ Mã Kiều, mụ Quản gia, vải Giác Duyên…

Nhưng em quân mất Phủ Quân, người có ơn với em nhiều nhất. Anh là người thích trọn tình, trọn nghĩa, chung tình, chung thủy, ân oán rạch ròi, nên anh bất mãn khi thấy em quên Tri phủ Lâm Tri. Vì vậy những đêm u tối mà hết sức bình yên, anh nằm với ông bạn tù thi sĩ Trần Văn Hương ở nhà tù lớn Chí Hòa, anh tại ngục vịnh Kiều và anh:

Trách Kiều quên đền ơn

Lập tòa em xử vẩn vương

Trách em ân, oán đôi đường chưa minh.

Lâm Tri tri phủ đa tình

Gả chồng công lớn sao mình lại quên?

Ngàn vàng em tạ Giác Duyên

Bố già vất vả em chẳng đền một xu.

Kiếp này em lại vụng đường tu…

Kiều ơi, kiếp này rõ ràng em lại vụng đường tu. Tu là để được giải thoát. Nhưng ta phải trả hết nợ ta mới ra khỏi cõi ta bà này được. Đó là qui luật. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng qui luật “trả hết nợ mới thơ thới, hân hoan” ấy đời đời không thay đổi. Kiếp này em còn nợ anh Tri phủ, em phải mần một kiếp sau nữa để trả nợ ảnh thôi.

CÔNG TỬ BẮC KINH HOA THƠM ĐÁNH CẢ CỤM

K

im Trọng, Công tử Bắc Kinh, là nhân vật vô duyên nhất trong truyện Kiều.

Lẽ ra Công tử là người thứ nhất, nhưng vì Công tử vô duyên, Công tử lần chần nên trở thành người cuối sổ. Đau thế chứ ly! Nhưng trong những đêm nằm thao thức ở phòng 10 tập thể khu ED lầu Bát giác Chí Hòa – năm 1988, thành Hồ – suy nghĩ về Kiều và những cái gọi là rắc rối của cuộc đời, tôi không chút xót thương anh công tử bột Kim Trọng. Không những chỉ không xót thương, tôi còn ghét cay ghét đắng, ghét đến đào đất đổ đi bọn con nhà giàu được hưởng thụ đủ thứ nhờ tiền bạc, quyền thế của bố mẹ như Kim Trọng.

Bọn con nhà giàu nó đã có tiền, nó lại đẹp trai, học giỏi, đỗ đạt cao… Vậy thì nó hưởng hết rồi còn gì! Làm quan, lấy vợ đẹp, đẻ con khôn… được người đời tôn trọng, quị lụy… Bao nhiêu khoái lạc ở cõi đời này chúng nó hưởng hết, những thằng con nghèo như tôi còn cái mốc xì sư cụ gì?

Bởi dzậy cho nên bất cứ lúc nào tôi mạt sát, mạ lỵ, bôi xấu, vu cáo, chửi cạnh chửi khóe, móc máy được bọn con nhà giàu – trong Kiều, dưới chỗ để ngồi tròn nây của Thúy Kiều điển hình là hai anh Kim Trọng, Thúc Kỳ Tâm – là tôi làm tới, mần thẳng cánh. Tôi mạt sát, hạ giá bọn con nhà giàu để trả thù cho những anh con nhà công chức còm như tôi.

Kim sinh viên học gì không ai thấy, chẳng ai biết. Ta chỉ thấy cậu lái xe Jaguar đến nghĩa địa ve gái. Cậu có điều kiện mướn riêng một vi-la bên cạnh nhà người đẹp. Ta chẳng thấy cậu học hành chi cả, chỉ thấy cậu ngồi khảy đờn ghi-ta. Và cậu có sẵn một thứ mà không một người học trò nào trên cõi đời này – từ ngàn xưa cho đến ngàn sau, từ ngày loài người có học trò đến ngày loài người không còn ai là học trò nữa – thường có. Những thứ đặc biệt Kim Trọng trữ sẵn đó là những món quà tặng để ve gái.

Không những chỉ ngày đêm tơ tưởng được ôm, được hôn Thúy Kiều, cậu bị ám ảnh đến mất ăn mất ngủ. Trường hợp Kim Trọng ra vào ngơ ngẩn vì muốn Thúy Kiều được diễn ta:

Chàng Kim từ lại thư song

Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây

Sầu đong càng lắc càng đầy

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê

Mây Tần khóa kín song the

Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao

Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao

Mặt tơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.

Buồng văn hơi giá như đồng

Trúc se ngọn cỏ, tơ chùng phiếm loan.

Nguyễn Du phóng bút hơi quá tay khi tả cảnh đang giữa mùa hè “cái nóng nung người nóng nóng ghê” – Kim Trọng gặp Thúy Kiều ngay Thanh Minh trong tiết tháng ba – mà cái gọi là phòng văn của Kim công tử lại “lạnh giá như đồng“…

Nhưng thôi, ta trở lại với trường hợp Kim Trọng đáng lẽ ra là hành khách thứ nhất lên phi cơ lại trở thành hành khách thứ bét! Không những chỉ mướn vi-la, ngày ngày ngồi rình vườn sau nhà Vương viên ngoại, Kim công tử hào hoa phong nhã còn trữ sẵn những thứ không anh học trò nào trữ sẵn, là khăn voan hay khăn tay, khăn mặt, khăn bông, khăn lông, khăn choàng gì đó; và xuyến vàng. Khi vừa liên lạc được với người đẹp, Công tử lập tức hẹn nàng “Chờ anh tí” để phú lỉnh vào nhà:

Vội về thêm lấy của nhà

Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông.

Nhân đây ta để ý thấy Nguyễn Du dùng hai tiếng “thêm lấy” ngang phè và không đúng ngôn ngữ Việt Nam chút nào. Chúng ta nói “lấy thêm” chứ không ai nói “thêm lấy” trừ những anh Mít lai Tẩy, lai Mẽo, lai Tầu. Nguyễn Du có thể dùng: Vội về lấy thêm của nhà… cũng vưỡn được, chỉ có âm điệu không hay bằng. Chú học trò Việt Nam nào làm bài luận quốc văn: “Em về thêm lấy của mẹ năm bảy chục tiền nữa để mang đi bao gái…” chắc chắn bị số điểm thật khốn nạn. Nhưng Thi Sĩ Lớn dùng hai tiếng “thêm lấy” ngang phè thì những đồng bào của ông, những người thán phục thi tài của ông, đời trước, đời này, đời sau đều câm miệng hến! Thi Sĩ Lớn dùng được, thường dân hổng có dùng được. Thi Sĩ Lớn mà!

Nhưng mà con người ở cái cõi đời này đều có số cả. Số đây là Số Mệnh viết hoa. Nếu không có Số thì những bao nhiêu con gái, đàn bà đẹp, thơm, đa tình, chung thủy trên cái cõi đời này đều làm vợ lớn, vợ bé, nhân tình những tên đàn ông con nhà giàu, con nhà quan, đỗ đạt cao, ăn trên ngồi trốc trong xã hội hết cả hay sao? Nếu không có Số thì những anh con nhà nghèo, xấu trai, học dốt như Công tử Hà Đông, Gã Thâm, Con trai bà cả Đọi, v.v… chỉ có cái diễm phúc làm bạn với những em thối tai, hôi nách, tính tình quái dị, hung hãn như khủng long hay sao?

Không. Ta không nên bi quan như thế. Nhất định là con người ta có Số và không những chỉ có Số mà thôi, con người ta còn ăn thua nhau ở cái Số nữa. Nhất định là có Số và có Trời. “Không có Trời ai ở được với ai?” Ông cha ta đã xác quyết cõi đời này có Số, có Trời từ lâu lắm rồi. Ta khỏi cần thắc mắc gì về chuyện này.

Tôi nói đời có Số là bởi vì Kim Trọng có tất cả những điều kiện tối ưu, tức là tốt nhất, để đóng vai người đàn ông thứ nhất trong đời em Vương Thúy Kiều đa tình nửa đêm leo tường, chui lỗ chó sang nhà đàn ông con trai, lại hụt ăn, lại không được hưởng, lại trở thành Người Hành Khách Đi Chuyến Tàu Vét.

Tại sao thế? Câu trả lời thật giản dị: Tại vì cái Số của Kim Trọng nó đen hơn mõm chó mực. Kim Trọng không có cái Số được hưởng cái gọi văn huê là “cái yêu đào” của Vương Thúy Kiều. Nhưng một phần cũng vì Kim Trọng ngu si nặng phần trình diễn.

Kiến cơ nhi tác… Thấy có cơ hội mần được là mần ngay; không những chỉ mần ngay mà thôi, còn phải nhanh tay, nhanh chân, nhanh mắt, nhanh mồm, nhanh miệng mần liền tù tì tút suỵt, mần đến nơi đến chốn.

Kim công tử vô duyên, ngu ngơ không chịu mần ngay – Bài học luân lý giáo khoa thư lớp Đồng Ấu Kim công tử đem lại cho những người đọc Kiều gồm hai chữ cô đặc kiểu bí kiếp “Mần Ngay” – Không những đã không chịu mần ngay, Công tử còn bày đặt những trò trình diễn rình rang không ăn nhậu tí ti ông cụ nào đến tình yêu như là lập bàn thờ thế thốt – thề mí ai? Thế mí ông Cai, bà Xã Đò – thắp nhang đèn, viết tờ cam kết, kết giải dây lưng, uống tí rượu và… ruồi bâu kiến đậu không giống ai, lố bịch, ngớ ngẩn nhất là cắt tóc trao cho nhau:

Tiên thề cùng thảo một trương

Tóc mây một món, dao vàng chia đôi

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song

Tóc tơ căn dặn tấc lòng

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

Những gì xảy đến với Kim Trọng Số đen hơn mãm chó mực cho ta thấy – rõ ràng, dứt khoát – là tất cả những việc vớ vẩn Kim Trọng làm trong đêm hôm vàng ngọc ấy đều vô ích. Không những chỉ vô ích mà thôi, chúng còn gây tác hại nặng như đá đeo. Vì những nguyên nhân duy tâm kiêm duy vật kiêm duy đủ thứ biện chứng pháp đó, Công tử Hà Đông làm bài thơ vịnh Kiều tại ngục như vầy:

Kiến cơ nhi bất tác:

Vỡ mặt là cái chắc…

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao

Sắn tay mở khóa động đào

Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai…

Biết rằng gió tối mưa mai

Sao nhau để lỡ nhau hoài đếm xuân?

Tình nhân lại gặp tình nhân

Ái ân sao chỉ có ngần ấy thôi?

Xá gì trăng sáng giữa trời

Xá gì hai miệng một lời song song

Cần gì căn dặn tấc lòng

Cần gì tạc một chữ đồng đến xương.

Ngẩn ngơ toàn chuyện ẩm ương

Vô duyên cầm địch cầm đường vẩn vơ

Ngọn đèn khi tỏ khi mờ

Sao người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu?

Sao không trên gối nghiêng đầu

Cho trào chín khúc, cho cau đôi mày?

Trời cho chẳng chịu vồ ngay

Nhẩn nha thì sẽ có ngày xót xa.

Tố Như ơi, tuyệt tài hoa

Một lời thôi cũng tiếng là tiên tri

Chiêm bao nào có hay gì

Cuộc tình đến quá nửa thì chiêm bao.

TÒA EM ANH CHÁN MỚ ĐỜI

L

a Quán Trung báo cho ta biết trước Quan Vân Trường sẽ không giết được Tào A Man ở Hoa Dung đường nhỏ khi tả cảnh Tào Tháo bại binh lếch thếch tơi tả lết đến, Quan Vân Trường trịnh trọng:

- Kính chào Thừa tướng… Ngài vẫn được mạnh giỏi?

Đáng lẽ ra Vân Trường phải – không có chào thừa tướng thừa tung gì cả – hét lên một tiếng lớn, vung long đao chém luôn. Nhưng thay vì làm thế, Vân Trường lại cung kính: “Kính chào Thừa tướng…” và đã một điều “Thưa ngài, kính ngài…” thì làm sao còn trở mặt, phủi tay với ngài được?

Thúy Kiều cũng dzậy. Đúng ra Tố Như cũng báo cho ta biết Thúy Kiều sẽ không giết được Hoạn Thư.

Khi Kiều ngồi lên ghế chánh án vừa thấy mặt nữ can phạm Hoạn Thư bị cai tù áp giải đến, Kiều đã vội vã đứng lên:

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?”

Thay vì chửi mắng, ra lệnh hành quyết ngay “con khốn nạn, mày thế nọ… mày thế kia… cho mày chết…”, Chánh án dỏm Vương Thúy Kiều lại kính cẩn “Chào cô… Thưa cô…” Chắc nàng còn xưng “em” với Hoạn Thư, cô chủ của nàng. Tội nghiệp! Nàng muốn trả thù Hoạn Thư mà nàng vưỡn còn sợ nó, vưỡn còn coi nó là cô chủ, là mợ… thì làm sao nàng có thể trở mặt giết được?

Đây là lý do tại sao những người Tàu cộng phải tổ chức “học tập đấu tố bọn địa chủ ác ôn”. Tàu cộng biết nông dân từ bao đời truyền kiếp làm nông nô vẫn sợ hãi bọn chủ đất nên Tàu cộng dạy nông nô vừa thấy mặt chủ đất là phải gọi ngay bàng “thằng”, nhổ ngay vào mặt, chửi rủa tận tình. Có thế mới thực hiện được những cuộc đấu tố địa chủ. Nếu cứ để nông nô nói với chủ đất những câu như: “Thưa ông, năm xưa ông bóc lột bọn tôi hơi quá đáng… Nay bọn chúng tôi hành hạ ông để trả thù…” e rằng không đúng chỉ tiêu. Đàn em Việt cộng bắt chước đàn anh trong đấu tố, cũng cải cách ruộng đất. Những chị hai, ba mươi tuổi cong cớn, hung hãn gọi những ông già là “thằng, mày…”

Trở lại với Thúy Kiều lập tòa án nhưng không giết nổi “chính danh thủ phạm Hoạn Thư”, ta thấy rõ ràng vì Thúy Kiều đã không trở mặt được ngay từ đầu. Cái gọi là tòa án của Kiều không ra làm sao cả! Thúy Kiều còn mặc cảm tự ti “gia nô – gái chơi”. Dù nàng có là nữ thủ tướng, là vợ tổng thống đi chăng nữa, trước mặt cô chủ, mợ chủ ngày xưa, nàng vẫn cứ thấy nàng kém nước.

Công tử Hà Đông bèn có bài vịnh:

Thúy Kiều chánh án

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?”

Mới nghe chào, đã biết ngay

Chính danh thủ phạm tòa này sẽ tha.

Ai đời lôi nó ra tòa

Mà em lại gọi nó là… tiểu thu!

Vỏ lệnh bà, cốt hoa nô

Lại thêm mặc cảm giang hồ, gái chơi

Em còn sợ nó thì thôi

Tòa chi để một trận cười người ta!

Tòa gì gươm tuốt nắp ra

Tuốt ra rồi lại gươm tra nắp vào.

Chém cha cái tật hoa đào

Bắt Tào rồi lại tha Tào như chơi.

Tòa em anh chán mớ đời!…

Đã tha bổng chính phạm Hoạn Thư nhưng chánh án Vương Thúy Kiều lại xử tội hai tên tay sai của Hoạn Thư là Khuyển Ưng, Khuyển Phệ.

Hai Khuyển không thù oán gì với Thúy Kiều. Chúng chỉ là gia nô làm theo lệnh chủ. Tất nhiên là trên pháp luật, chúng cũng có tội và cũng bị trừng trị, nhưng khi chính phạm đã được tòa tha bổng – không cần biết vì lý do gì – những tên tòng phạm cũng mặc nhiên không còn bị truy tố nữa.

Vương Thúy Kiều có thể trừng trị Khuyển Ưng, Khuyển Phệ nhưng ni cô Trạc Tuyền thì không nên.

Khuyển Ưng, Khuyển Phệ can tội theo lệnh chủ đi bắt cóc một người đàn bà tên là Vương Thúy Kiều. Khi lập tòa, một phần nào người đàn bà Vương Thúy Kiều đã là ni cô Trạc Tuyền. Ni cô đã tu hành đến hơn ba niên trong chùa nhà người ta. Ni cô đã làm tốn biết bao nhiêu nhang đèn, giấy mực, cơm gạo, đậu hũ ky, tương chao… Ít nhất chánh án-ni cô cũng phải biết thế nào là ân oán. Ni cô oán người làm ni cô đau đớn, ni cô trả thù người đó khi ni cô có thể. Bọn Khuyển Ưng, Khuyển Phệ cũng oán hận ni cô vì ni cô đã trừng phạt chúng thảm thiết. Chúng cũng biết thù ni cô chứ. Kiếp này chúng không bắt ni cô trả nợ được, chúng sẽ rình ni cô ở đời sau!

Sau ba mùa lá rụng tụng kinh gõ mõ, Vương Thúy Kiều vẫn mê muội, vẫn tham sân si như chưa từng bao giờ tu hành. Nhưng ni cô Trạc Tuyền thì chắc cũng có đôi lúc thoáng thấy những tiền kiếp – và nhất là thấy những kiếp sắp đến – của nàng.

Trong mười lăm năm, Thúy Kiều có tám cuộc tình qua những tên đàn ông sắp hàng theo thứ tự người đến trước hưởng trước, người đến sau hưởng sau:

- Mã Giám Sinh

- Sở Khanh

- Thúc Kỳ Tâm

- Bạc Hạnh

- Từ Hải

- Hồ Tôn Hiến

- Thổ Quan

- Kim Trọng.

Trong số tám anh đàn ông ấy chỉ có bốn anh – phíp-ty phíp-ty – may mắn sống sót. Bốn anh chết với những cái chết ghê rợn, không được bình thường. Ta có thể gọi những tên ấy là những nạn nhân của em Vương Thúy Kiều có cái số tàn sát “thượng diệt hạ tuyệt” những anh đàn ông nằm chung chăn gối với nàng. Ông cha ta gọi loại đàn bà này là “oan gia”.

Đàn bà oan gia đẹp, đa tình, quyến rũ, mê hoặc… Phải có những đặc tính ấy mới là đàn bà oan gia chân chính. Đàn ông cõi đời này không lửng lơ con cá vàng với những người đàn bà hiền lành, vô thưởng vô phạt; nhưng lại cứ như những con thiêu thân thi nhau, tranh nhau, hại nhau, giết nhau để được ưu tiên lao đầu vào những lò lửa tình của những người đàn bà oan gia như Vương Thúy Kiều.

Than ôi! Ta đọc Kiều, ta bị Tố Như mê hoặc, ta bị Tố Như cho vào xiếc… Ta yêu Thúy Kiều, ta mộng Thúy Kiều… Nhưng chỉ cần ta hạ cơn áp huyết xuống vài số thôi, ta sẽ thấy “đàn bà như Thúy Kiều là một tai họa khủng khiếp cho đàn ông”. Ái tình mí những em con nhà lành tuy chẳng có gì sôi nổi, gay cấn, thơ mộng – như bữa bữa ăn cơm ở nhà, vừa bổ vừa lành vừa đỡ tốn – nhưng an ninh, chữ thọ vững hơn. Bằng chứng rõ ràng không thể chối cãi được là tất cả những anh đàn ông dính dáng đến cái chỗ để ngồi của em Vương Thúy Kiều đều có những cuộc đời nếu không đen hơn thì cũng đen gần bằng mõm chó. Bốn anh tưởng bở Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh, Từ Hải… bỏ mạng ở pháp trường, chết đứng… Anh Hồ Tôn Hiến dâm quan chưa chắc đã giữ nổi cái chức đại thần cho đến hết đời. Anh Thổ quan vô duyên vừa mới được quan trên ban cho vợ thừa đã tá hỏa tam tinh vì cô dâu nhảy lầu – xin lỗi, nhảy sông – đi một đường về Thủy Cunh làm vợ Hà Bá. Còn cậu Kim Trọng thì khỏi nói. Đường công danh của cậu cứ dắt cậu qua Phòng Nhất, Phòng Nhì cũng đủ làm cậu mỏi gối chồn chân, mới bốn mươi đã rề rề đeo kính…

Ai thích Thúy Kiều xin cứ việc… liều mạng, thí mạng cùi. Nhân tâm tùy mạng mỡ. Tui thì tui cứ giữ phận phó thường dân bền chữ thọ mí em Thúy Vân. Một chuyện lạ lùng, ngu si là chúng sinh bá tính cứ xúm lại ca tụng, hôn hít em Thúy Kiều, cứ dửng dưng coi thường, đôi khi còn coi khinh nữa, em Thúy Vân. Khỉ lắm! Người đáng ca tụng là Thúy Vân chứ hổng phải Thúy Kiều…

Này nhé Thúy Vân người tròn trặn, có da có thịt, hồng hào, mặt tròn, béo, lông mi lông mày mượt, nhiều, mắt sáng mà hiền, hổng có thu ba thu biếc gì hết. Đàn ông, con trai khôn ngoan đừng có mê mắt thu ba. Thu ba chỉ làm cho người ta chết chìm, chết đuối mà thôi. Thúy Vân ngực nở, lưng ong, mông to. Đàn bà như thế là đàn bà khỏe mạnh, khéo chiều chồng, khéo nuôi con, tính nết vui vẻ, dễ dàng, ăn no, ngủ kỹ, thai nghén dễ, đẻ sòn sòn, không đòi hỏi này nọ, không lăn đùng ngã ngửa, mắt trợn trắng, miệng sùi bọt mép mỗi khi gặp chuyện không được bằng lòng. Thúy Vân là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam đảm đang, trung hậu muôn đời, là người vợ giúp đỡ chồng con – vượng phu, ích tử – là chỗ dựa vững chãi cho người chồng. Dân tộc Việt Nam ta còn giữ nguyên được những đặc tính Giao Chỉ ngàn xưa mặc dù bao nhiêu đời ta bị Tây, Tàu, Nhật, Đại Hàn, Phi, Mẽo ra sức đồng hóa chính là nhờ công của những người đàn bà Việt Nam như Thúy Vân.

Nếu Thúy Vân sống ở Sài gòn những ngày đen tối sau ba mươi tháng Tư, chồng nàng đi cải tạo mút mùa, nàng cũng buồn, cũng thương chồng, xót con nhưng nàng hôm trước hôm sau ra ngồi ngay đầu ngõ bán chuối chiên, vịt lộn, khoai lang, khoai mì, trái cóc, bánh cuốn, cơm tấm, v.v… cái gì cũng được, miễn là lương thiện và có tí tiền mua gạo cho con.

Cũng trong hoàn cảnh ấy, Thúy Kiều lăn đùng ngã ngửa dẫy đành đạch, nằm thẳng cẳng thở hắt ra, rầu rĩ ủ ê, nằng nặng đòi chồng kiếm cây cho nàng đi chui, nếu không nàng uống thuốc rầy nàng hành cho trí mạng. Hai nàng tuy là hai chị em ruột nhưng khác nhau như dzậy đó.

Bởi vậy tôi thấy thật là bất công khi ta cứ đề cao Thúy Kiều mà mạt sát Thúy Vân. Bất công như thế là không khá được. Mà quả thực là ta không khá đứt đuôi con thằn lằn rồi. Mất hết cả nước. Bỏ của chạy lấy người. Mấy triệu mạng sống đời lưu vong. Bọn kẹt lại nem nép sống dưới nách những tên công an Việt Cộng lớn nhỏ…

Trở lại với ni cô Trạc Tuyền…

Ni cô đã giết oan hai gã Khuyển Ưng, Khuyển Phệ. Khi lên ghế lệnh bà nhờ anh chồng tướng cướp, ni cô ơn đền oán trả rất mực đàn bà tầm thường. Và ni cô đã ân oán không phân minh, vay trả không sòng phẳng. Bà vãi Giác Duyên chỉ tình cờ mà giúp đỡ nàng. Sau đó đã bừa bãi đẩy nàng vào nhà họ Bạc. Bà này đáng lẽ ra là phải trừng trị, đè ra đánh cho ba trăm hèo quắn đít về cái tội bê bối đã giao du mật thiết với chủ nhà thổ, lại còn ngu muội, tắc trách, không có chút tinh thần trách nhiệm nào khi đẩy đàn bà con gái đi tị nạn vào nhà thổ. Từ sau khi đẩy Thúy Kiều sang nhà họ Bạc, Giác Duyên không hề thắc mắc chi đến an ninh tối thiểu của Thúy Kiều. Mụ đẩy Kiều đi nhưng mụ giữ lại bộ chuông vàng, khánh bạc của nhà họ Hoạn.

Đền ơn hậu hĩ cho người không đáng được đền ơn, chánh án Thúy Kiều – ni cô Trạc Tuyền đã tu hành đến ba niên bằng tiền bạc, nhang đèn của nhà họ Hoạn, lại còn giết oan hai tên Khuyển Ưng, Khuyển Phệ. Ni cô Trạc Tuyền gây nghiệp oán. Kiếp này ni cô không trả được nợ máu, kiếp sau ni cô sẽ phải chi thôi.

Bèn có thơ rằng:

Trạc Tuyền…

Mười lăm năm, tám cuộc tình

Sáu tên chết bởi cô mình oan gia

Tòa gì chính phạm thì tha,

Hai thằng tòng phạm thì bà cưa đôi.

Oan còn kết, oán chưa thôi

Trạc Tuyền… em có bồi hồi không em?

ÁI ÂN TA CÓ BẤY NHIÊU NGẦN

N

hững năm 1940 tôi mới trên dưới mười tuổi, Bản Kiều thứ nhất tôi được đọc trong đời là bản Kiều của chị tôi – bản Kiều bìa đỏ, bán ở những tiệm hàng xén ngoài chợ. Kỷ niệm xưa nhất của tôi về Kiều là tôi thắc mắc về nhân vật Sở Khanh.

Tôi thường nghe loáng thoáng người lớn nói chuyện với nhau:

- Thằng ấy là thằng sở khanh…

Hoặc nói đến ai đó bằng giọng khinh bạc:

- Đồ sở khanh…

Tuy chưa biết nhân vật Sở Khanh làm những hành động gì để bị người đời khinh bỉ đến như thế, tôi cũng biết Sở KHanh là người xấu, đáng khinh. Vì vậy tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao trong Kiều lại có tên tự nhận nó là Sở Khanh? Tôi tự bảo: “Nếu nó xưng tên nó là Sở Khanh thì người ta biết nó là thằng đểu giả rồi. Nó còn lừa ai được nữa?”

Năm 1947 tôi đi kháng chiến ở vùng Bắc Ninh – Bắc Giang. Vùng này có cái tên gọi khá hay là Bắc Bắc. Nói là đi kháng chiến cho oai, thực ra tôi đi làm liên lạc viên, quanh năm đi chân đất mang thư đi giao cho cơ quan tôi – ban VB: Ban tình báo đặc biệt Gia Lâm. Có lần tôi sống với một anh trong cơ quan rất thích đọc Kiều. Anh có quyển Kiều mang theo trong ba-lô. Thấy tôi mượn đọc một chiều, anh hỏi tôi:

- Chú thích nhân vật nào trong Kiều nhất?

Tôi trả lời ngay boong:

- Em thích Thúc Sinh.

Anh ngạc nhiên:

- Thúc Sinh là thằng con nhà buôn, ăn chơi, hèn nhát. Nó có cái gì mà chú thích nó?

Tôi không trả lời được.

Năm mươi năm sau…

Năm nay mái tóc không xanh nữa

Tôi đã đau thương đã nợ nần…

Năm nay tôi biết tại sao năm mươi năm xưa tôi thích Thúc Sinh. Nhưng tôi không phân tích, không giải thích tại sao. Tôi dành việc đó để các bạn làm, nếu các bạn muốn.

Em có nhớ chăng, em có tiếc…

Tôi thấy cuộc tình Thúc Kỳ Tâm – Vương Thúy Kiều là cuộc tình đẹp nhất trong ba cuộc tình của Thúy Kiều. Tương đối thôi, nhưng là tương đối đẹp nhất.

Cuộc tình Thúy Kiều – Kim Trọng bị sứt mẻ, tiếc hận, cay cú, sai lầm nhiều hơn là ái ân. Hai nữa cuộc tình thứ nhất này của Thúy Kiều là cuộc tình ngây thơ, lãng mạng của tuổi dậy thì. Đây là thứ tình mà những năm 1960, 1970 ở Sề goòng chúng ta gọi là “tình nữ sinh, tình học trò”. Thứ tình này thường nhiều mộng mơ, thư tình mực tím, hoa cúc sân trường, cao tay lắm là hẹn hò nhau ngọn đèn cư xá, ly chanh đường, nắm tay, hôn má nhau trong bóng tối rạp xi-nê đồng hạng đồng lõa…

Cuộc tình Thúy Kiều – Từ Hải là tình oan nghiệt, tình oan khiên, tình hận, tình giết nhau, tình làm nhau chết đứng.

Công tử Hà Đông đặc biệt không ưa thứ tình yêu khốc hại này.

Chỉ còn và vưỡn còn tình Vương Thúy Kiều – Thúc Kỳ Tâm. Vưỡn biết đoạn cuối cuộc tình chẳng ra cái thống chế gì cả. Em yêu ơi… anh đã không đi mí em đến những nơi cuối bãi, đầu ghềnh, sơn cùng, thủy tận như em muốn… Nhưng mà em cũng thấy anh có yêu em chứ? Anh cũng yêu em…

Công tử Hà Đông xúc động vì tình yêu của Công tử Vô Tích. Chàng bèn tưởng tượng chàng là Công tử Vô Tích và chàng mần thơ thay bạn, nói với người yêu ngà ngọc – những nàng Kiều Thơm Hơn Múi Mít trên cõi đời này.

Ái ân ta có bấy nhiêu ngần…

Mày ai trrăng ấy mới in ngần

Phấn thừa, hương cũ xót trăm phần

Nhìn trăng nhớ nét mày em đẹp

Thơ Kiều tuyệt diệu những câu thần…

Lầu xanh lãng tử mê hồ điệp

Phật các ni cô đắm ái ân.

Trên lầu Ngưng Bích trao hồng thiếp

Dưới gác Quan Âm khóa ái ân.

Từng gian díu lắm, từng quen nết

Đàn khi gió gác, rượu trăng sân.

Bốc rời tiền ấy tiêu không mệt

Đêm đông, ngày hạ cũng là xuân.

Chàm xanh một nhúng tay xanh hết

Búa rìu ta có tiếc gì thân.

Phong lôi dù nổi, tình không tuyệt

Ba cây chập lại một cành xuân.

Mộc già một bức tay tiên viết

Sắc tài vàng ấy đáng nghìn cân.

Lá ngô vàng thuở chen cành biếc

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan.

Vầng trăng ai xẻ làm đôi chiếc

Nửa soi gối lẻ, nửa quan san.

Ba sao sáng nửa vầng trăng khuyết

Phật đài khấn chửa cạn lời vân

Hoa tình bỗng nổi gai oan nghiệt

Biết đâu là quả, biết đâu nhân!

Những tưởng xa nhau là tạm biệt

Ai ngờ vĩnh quyết lúc đưa chân.

Tìm em chín suối sai đồng thiếp

Gặp tiên hồ dễ được hai lần.

Tầm xuân đến thác tơ chưa hết

Nhớ thương trọn kiếp chẳng nguôi dần.

Anh về Vô Tích hồn tê liệt

Sống mòn ở đấy kiếp tù nhân.

Em ơi…

Phấn thừa, hương cũ đau khôn xiết

Mày em trắng ấy vẫn in ngần.

Những tưởng chôn nhau là vĩnh quyết

Ai ngờ địa ngục thấy tình nhân.

Đèn lòa, mắt quáng, ai trên tiệc?

Tóc rối, da chì, kẻ dưới sân?

Ngán nó lòng gang mà miệng thép

Thương em ngọc diệp chịu phong trần.

Tiệc rượu gia hình đau nó kẹp

Cung cầm tuyệt vọng tội em đàn.

Này yêu, này mến, duyên hay nghiệp?

Nào nhớ, nào thương, khóc với than!

Tâm hương thiêu mãi oan không hết

Quan Âm nào cứu được tình nhân.

Đoạn trường càng khóc càng oan nghiệt

Cát lầm ngọc trắng thiệt đời xuân.

Vàng phai, đá nát đành ly biệt

Núi mòn, sông cạn vẫn tình quân.

Em trốn đi em, trời đất khép

Dâu biển tình ta cũng hợp tan.

Liệu mà xa chạy, cao bay tuyệt

Ái ân ta có bấy nhiêu ngần…

Những tưởng xa nhau là vĩnh quyết

Ai ngờ gươm giáo thấy dung nhan.

Oan gia quen gặp nhau đường hẹp

Ai biết ai quì ở dưới sân?

Mười năm sương gió em càng đẹp

Nửa kiếp chua ngoa nó chẳng đần.

Sâm Thương chẳng vẹn, ta cùng tiếc

Tại ai há dám phụ tình quân.

Thương chồng, tha vợ cho tròn kiếp

Thêm trăm cuốn gấm, bạc nghìn cân.

Ít nhiều cũng một phen oanh liệt

Oan thì trả oán, ái đền ân…

Nửa vui, nửa tiếc, mừng chen khiếp

Lửa ái ân xưa vẫn chửa tàn.

Hồn anh trọn kiếp mê hồ điệp

Thịt xương rung mãi ngón em đàn.

Em có nhớ chăng, em có tiếc

Những mùa yêu cũ đã tiêu tan?

Ôi những chiều vàng, đêm ngọc biết

Còn nhớ ngày em tắm dưới màn.

Em ơi…

Phấn thừa, hương cũ đau khôn xiết

Mày em trắng mới vẫn in ngần!

Em yêu anh nhất, thơ còn viết

Sợ vợ hay không, mặc chúng bàn.

Quên em? Nào có bao giờ?

Em ơi…

Em có nghe những tiếng gọi xé trời?

Không những anh chỉ gọi em vì anh nhớ thương em, anh tiếc em… anh còn gọi em thay cho tất cả những Thúc Kỳ Tâm trên cõi đời này…

Cuộc tình Thúc Kỳ Tâm – Vương Thúy Kiều có nhiều hợp tan nhất…

Những ba lần hợp, ba lần tan.

Lần thứ nhất gặp nhau ở lầu Ngưng Bích, tan khi Thúc Kỳ Tâm về Vô Tích thăm Hoạn Thư.

Lần thứ hai gặp nhau trong bữa tiệc gia hình – nhìn nhau mà đứt ruột, yêu mà lệ rớt, thương mà máu rây. Những oái oăm tàn ác, dã man, vô nhân đạo của cái gọi là Cuộc Đời: Những người yêu thương nhau không được sống chung mí nhau, những người thù ghét nhau cứ phải sống chung mí nhau – Lần thứ hai tan hàng ở Quan Âm Các.

Lần hợp thứ ba trong pháp đình tòa án quân sự cách mạng. Chánh án Phu nhân xét xử bất chấp mọi thứ pháp luật trên cõi đời này. Đây cũng là lần tan thứ ba và lần này là lần hợp tan cuối cùng.

Lần tan thứ nhất Thúc Kỳ Tâm yên chí sẽ trở lại mí em như hổng có chuyện gì xảy ra cả. Thúc Kỳ Tâm tin chuyện này chắc hơn bắp rang, chắc hơn cua gạch. Nhưng cái gì càng tin chắc lắm thì càng dễ lép…

Thúc Ông ngu đần thấy cái xác cháy đen trong đống tro tàn, yên chí ngay đó là con dâu yêu quí, hí hửng đem về tẩm liệm, làm ma, đem chôn, khóc than ra rít. Khi về đến tổ ấm thấy “linh sàng, bài vị thấy nàng ở trên”, Công tử Vô Tích lăn đùng ngã ngửa cũng phải thôi. Thằng đàn ông nào ở vào cảnh ngộ này lại không lăn đùng, ngã ngửa. Công tử bèn khấn vái nàng và lần chia tay kẻ ở trần thế, người xuống suối vàng này là lần Công tử cũng chắc hơn bắp rang là sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy mặt nàng…

Khi nàng đã chết cháy, khi nàng đã được người ta đào sâu, chôn chặt thì… còn mong gặp lại nàng ở kiếp này là điên. Thúc Kỳ Tâm yên chí kiếp sau sẽ gặp lại Thúy Kiều, nhưng chỉ khoảng một niên sau – khi nỗi đau mất Thúy Kiều đã phai nhạt, Công tử Vô Tích trở về với vợ lớn con quan. Làm sao cậu có thể ngờ cô vợ ác ôn của cậu đã bắt Thúy Kiều về làm người ở?

Đây là lần tan hợp Kỳ Tâm – Thúy Kiều thứ hai. Chia tay nhau ở Quan Âm Các, một lần nữa Thúc Kỳ Tâm chẳng mơ màng gì đến chuyện gặp lại Thúy Kiều lần thứ ba.

Nhưng hai lần chưa hết. Định mệnh còn an bài cho cặp tình nhân đau khổ này tan hợp lần nữa. Lần thứ ba, nàng trở thành lệnh bà. Chàng rúm ró, xanh xám quì mọp cạnh cô vợ ghen tuông nay trở thành chính danh thủ phạm dưới sân tòa án Quân sự Mặt trận…

Cho họ hợp tan lần thứ ba để làm chi vậy? Chẳng để làm gì sốt. Định mệnh thường hết sức ác ôn côn đồ với những người yêu nhua. Định mệnh thường tỏ ra hết sức dễ dãi trong việc dàn xếp cho những người thù ghét nhau sống chung mí nhau nhưng định mệnh lại hết sức khắt khe, ác độc trong việc ngăn cản không cho những người yêu nhau được sống chung vợ chồng. Đã không cho sống với nhau thì chớ, định mệnh còn ác độc dàng trời khi lâu lâu lại dàn xếp cho người ta gặp nhau, nhìn thấy mặt nhau, đôi khi còn cho người ta ngửi cả thấy mùi da, mùi tóc của nhau.

Trong ngục Chí Hòa thành Hồ Xã hội Chủ Nghĩa, những đêm tù tôi tưởng tượng, tôi hóa thân làm Thúc Kỳ Tâm. Trước tòa khi nàng hỏi:

- Em… em người tình cũ của anh ở Lâm Tri đây, anh còn nhớ em không?

Khi nàng nói:

- Vì tình xưa, nghĩa cũ của đôi ta… chẳng gì đôi ta cũng đã yêu thương nhau một thời… chúng ta không sống được mí nhau đến ngày tóc nhuộm, răng giả không phải là lỗi tại em…

Tôi sẽ run, sẽ quị đầu gối – Công tử Hà Đông là bạn đồng môn học cùng thầy, cùng trường, cùng ngồi một bàn với Công tử Vô Tích – tôi sợ thấy mồ nhưng tôi vưỡn thấy nàng sao quá đẹp, quá quyền rũ. Những người đàn bà đa tình, lẳng lơ cũng chẳng có mòn thường trẻ lâu, đẹp lâu, tình lâu, quyền rũ lâu hơn những người đàn bà sơn son để thờ. Không dám hở môi ra đâu nhưng trong tim tôi, tôi thầm hỏi, thầm nói với nàng:

- Làm sao anh có thể quên em được? Không những anh không quên, anh còn nhớ ra rít. Anh chết đi, sống lại không biết bao nhiêu lần từ ngày anh mất em. Anh mới là người có quyền hỏi em có nhớ những ngày ái ân của đôi ta ngày xưa không chứ? Tại sao em lại hỏi anh…

Đây là bài thơ tôi mần để trả lời nàng trước tòa án:

Thúc Kỳ Tâm

trả lời Thúy Kiều trước tòa

Nàng rằng: “Nghĩa trọng nghìn non

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm thương chẳng vẹn chữ tòng

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”

Tiếc hoa anh ngậm ngùi xuân

Thân này dễ được mấy lần gặp tiên?

Từ ta tàn cuộc tình duyên

Tơ tình anh đứt ruột, lửa phìan anh cháy gan.

Mày em trăng vẫn in ngần

Phấn thừa, hương cũ bội phần xót xa.

Nhớ em trong ngọc, trắng ngà

Có bao giờ tưởng em là cố nhân.

Cố nhân nhẹ bước thanh vân

Nguyệt cầm có vẳng cung đàn Lâm Tri?

Nhớ từ Ngưng Bích nhớ đi

Từ Quan Âm Các nhớ về, em ơi.

Nhớ em kiếp kiếp, đời đời

Tấc son vật đổi, sao dời vẫn son.

Dẫu rằng sông cạn, đá mòn

Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ.

Quên em? Nào có bao giờ

Sao em lại hỏi hững hờ: “Nhớ không?”.

EM TẮT LỬA LÒNG

V

iệc làm vô lý nhất của Vương Thúy Kiều – ta cứ giả vờ coi như Vương Thúy Kiều là người phụ nữ có thật, sống thật ở đời này – là việc nàng cứ năm lần bảy lượt nằng nặc đòi đi tu.

Người đàn bà nào cũng có thể đi tu được, nhưng riêng Thúy Kiều thì không. Không được vì nàng nói và làm không giống nhau. Không những nàng chỉ nói và làm không giống nhau mà thôi, những gì nàng nói, những gì nàng làm còn đối chọi nhau kịch liệt nữa.

Trong thời gian bánh xe lãng tử đưa Kiều lưu lạc giang hồ, nàng nghĩ, nàng mơ màng đến chuyện tu hành, cắt đứt những dây tình làm cho nàng đau khổ thì cũng coi là tạm được đi. Nhưng khi đã trở về đời, đã sống chung một nhà, một phòng ngủ với Kim Trọng Tàu Vét, đã cho Kim Trọng làm lễ tơ hồng, đã vô đến giường động phòng, nàng vưỡn còn bày đặt: “Thôi đừng… Để em tu…” thì thật rởm và lố bịch.

Tại ngục Chí Hòa năm 1988 thành Hồ tôi mần liên tiếp năm sáu bài thơ vịnh phản đối việc Kiều tuyên bố tu hành. Kính mời bạn đọc và xét những lý do tôi đưa ra để quyết đoàn em Vương Thúy Kiều không thể tu hành được và nêu rõ chuyện em đòi khóa cửa phòng ngủ để tu là chuyện khôi hài:

Cái chuyện tu hành

khó lắm… em ơi

Đã đem mình bỏ am mây

Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa

Mùi thiền đã bén muối dưa

Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sòng

Sự đời đã tắt lửa lòng

Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi?

Dở dang nào có hay gì,

Đã tu tu trót qua thì đi thôi…

Nghe em anh những bồi hồi

Chân tu dễ được mấy người như em.

Em tu em chẳng ăn nem

Lấy ai ăn chả cho anh đỡ thèm, em ơi!

Em tu sao má em tươi,

Em tu sao miệng em cười quá xinh?

Sự đời leo lét lửa tình

Nhưng than còn đỏ cô mình chớ lo

Có lo thì em lo quả phúc em to

Bến Mê quan cấm, con đò em mắc neo.

Muốn đưa em sang sông nhưng anh lại vụng tay chèo

Để thuyền em cạ gió, lộn lèo anh hổ ngươi

Cai chuyện tu hành nó khó lắm, em ơi

Giẽ cho anh nói một lời đã nao

Cái số em là số hoa đào

Em gỡ ra nó lại buộc vào như chơi.

Đào hoa em mới ba mươi

Am mây nào chứa những người đào hoa.

Em ngẫm cái mình em trong ngọc, trắng ngà

Cỏ cây nào chịu em mà em tu!

Em đòi em khép phòng thu

Đàn cò ai kéo, đàn cù ai quay?

Nợ tình ai trả, ai vay?

Ái ân ai có ngần này chưa thôi?

Em tu, ai ngược, ai xuôi?

Với ai ai lại nối lời nước non?

Em tu ai phấn, ai son?

Ai lìa ngó ý lòng còn vương tơ?

Em tu ai rượu, ai cờ?

Ai xem hoa nở, ai chờ trăng lên?

Em tu ai lạc Đào Nguyên?

Đầu non, cửa động Ngọc Tuyền ai chơi?

Em tu ai khóc, ai cười?

Thang lan ai tẩm, ai người thơm ngây?

Tóc thề ai chấm ngang vai?

Âm công ai nặng thêm vài đồng cân?

Trăm nghìn ai gửi tình quân?

Tơ duyên ai ngắn những gần một gang?

Trinh em đáng giá ngàn vàng

Của chung ai chịu cho nàng đem tu!

Hẹp gì em chẳng hé phòng thu?

Mắc gì cứ phải như tu mới là?

Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra cánh biếc

Em đi ở chùa, anh tiếc lắm thay!

Ngàn vàng chẳng chịu trao tay

Tu làm chi cực lòng này lắm thân?

Mày em trăng vẫn in ngần

Phấn thừa, hương cũ bội phần xót xa.

Em tu ai cởi cà sa?

Trạc Tuyền ai đổi tên ra Thúy Kiều?

Có yêu em nói rằng yêu

Chẳng yêu em nói một điều rằng không!

Em cho làm lễ tơ hồng

Em cho hoa chúc, động phòng sánh đôi

Em cho dìu dặt chén mồi

Em cho duyên mới bén mùi tình xưa

Sắp cho em lại ỡm ờ”

-Giẽ ra cho thiếp, bi giờ thiếp tu!

Nắng hanh em biết vào thu

Gió may em biết sương mù sa mưa

Hồng nhan em biết từ xưa

Cái điều tình ái có chừa đi đâu?

Chữ tình ai tạc cho sâu?

Chữ tu ai lẻ nét sầu đến xương?

Em tu em khép âm dương

Em quên ai nhịp đoạn trường gió bay?

Nhưng em đã quyết lòng tu thì anh tính thế này

Cho em tu đủ cả ngày lẫn đêm

Cho em tu trong ấm, ngoài êm

Em tu đạo hạnh em thêm mượt mà

Thứ nhất là em tu nhà

Thứ nhì em tu chợ, thứ ba em tu chùa

Dưa nào em muối chẳng chua?

Tu nhà cùng với tu chùa đồng môn

Phật tại tâm, bất tại Côn Lôn

Tu đâu em sạch tâm hồn thì thôi.

Em muốn tu thì em trả hết nợ đời

Nợ duyên, nợ kiếp, nợ người, nợ ta.

Nợ phong tình, nợ tài hoa

Nợ đi, nợ ở, nợ ra, nợ vào.

Em muốn tu thì em trả hết nợ hoa đào

Tu mà quịt nợ, Phật nào chứng cho!

Ầu ơ… ví dầu quả phúc em to

Bến Mê vua cấm, con đò em đứt neo.

Thuyền Từ em trên biển giác còn lắm cồn leo

Tu sao em khỏi lộn lèo thì tu…!

Thương thay giọt nước cành dương

Thúy Kiều đi tu, xuống tóc, qui y Tam Bảo, tụng kinh, gõ mõ, chép kinh đàng hoàng chứ không phải là tu kiểu phường tuồng, cải lương, tu hú…

Nàng tu hành ở Quan Âm Các trong vườn nhà Thúc Kỳ Tâm ở Vô Tích:

Sẵn Quan Âm Các Vườn ta

Có cây trăm thức, có hoa bốn mùa

Có cổ thụ, có sơn hồ

Cho nàng ra đó giữ chùa, tụng kinh.

Đó là lời Hoạn Thư, vợ Thúc Kỳ Tâm, tuyên bố về việc em Hoa Nô mặt ủ mày chau đệ đơn xin được đi tu. Muốn tu thì cho tu. Hoạn Thư quả thật là người đàn bà ở ăn thì nết cũng hay, nói lời ràng buộc thì tay cũng già, y thị quyết định liền tù tì tút suỵt. Và thế là Thúy Kiều cây tiền lầu Ngưng Bích, vương tôn công tử chết mệt chết mê, người xuất sắc trong tất cả bốn món ăn chơi cầm, kỳ, thi, họa kiêm thạc sĩ đại học bảy chữ, tám nghề trong một ngày đẹp trời:

Tàng tàng trời mới bình minh

Hương hoa, ngũ cúng sắm sanh lẽ thường

Đưa nàng đến trước Phật đường

Tam qui ngũ giới cho nàng xuất gia

Áo xanh đổi lấy cà sa

Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền

Trạc Tuyền. Tuyền là suối. Còn Trạc nghĩa là gì đây?

Tự điển Thiều Chửu: Trạc, bộ Thủy có hai nghĩa: 1. rửa, giặt; 2. sáng sủa, mập mạp. Núi trọc không cây cũng gọi là “trạc“.

Trạc Tuyền của chúng ta chắc chắn phải là Suối Giặt, Suối Rửa Lông Mày. Nhất định Trạc Tuyền không có dính dáng xa gần đến cái gọi là núi trọc không có cây cỏ. Ni cô Trạc Tuyền tu hành ở Quan Âm Các mắt sáng, môi hồng, miệng đa tình – chỉ có mái tóc nhung mềm thơm ngát hương tiên là ni cô tạm thời không có. Nhưng theo thông lệ của tự nhiên và thiên nhiên thì cái gì đang mượt mà mà cắt xén nó đi thì khi nó mọc lại nó xanh um hung hãn lắm. Mái tóc của ni cô Trạc Tuyền cũng vậy. Năm ấy ni cô mới ngoài hai mươi cái xuân xanh.

Ni cô ra khỏi Vườn Thúy năm ni cô mười tám tuổi. Hai ba niên chi đó ni cô ăn cơm trọ ở cư xá đại học Tú Bà – hiệu trưởng Mã Giám Sinh, giám thị thầy Sở Khanh – ni cô gặp Thúc Kỳ Tâm. Ni cô sống ân ái mặn nồng, thả dàn, đến nơi đến chốn với Thúc Kỳ Tâm trong khoảng hơn một niên. Thúc Kỳ Tâm đến ngày phải về Vô Tích nộp thuế công dân với Hoạn Thư vợ lớn. Thế rồi ni cô bị bọn Khuyển Ưng Khuyển Phệ bắt cóc đem về Vô Tích. Ni cô bị Hoạn Thư hành bắt làm nô tì. Sau cùng Hoạn Thư cũng thả cho ni cô ra chùa tu. Đến chùa ta thấy:

Nâu sòng từ trở màu thiền

Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu

Thông số có vẻ mơ hồ: “Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu” là bao nhiêu thời gian? Đã mấy mùa thu trăng soi trên mái chùa hương phấn ấy? Chắc dzậy. Cứ cho là dzậy đi thì ta đi đến thực tế là kỹ nữ Thúy Kiều, nay là ni cô Trạc Tuyền, đã ăn chay, tụng kinh, gõ mõ, thắp đèn, đốt nhang, chép kinh ở Quan Âm Các chùa ta đến ít nhất là ba năm trời…

Ba năm trời nàng ở chùa mà thiếu chủ Thúc Kỳ Tâm hào hoa phong nhã đa tình không sao lần mò vượt tường chùa vào thăm ni cô được một lần! Tôi thường cay cú kết tội những anh cai tù cộng sản ác ôn nhưng thực ra nếu so với Hoạn Thư, mấy ảnh dường như cũng có thể được giảm khinh đôi phần.

Nhưng ở đây tôi không muốn nói đến tính tàn ác dã man của những người đàn bà ghen tuông trên cái cõi đời này. Tôi không muốn bênh vực Hoạn Thư. Tôi lại càng không muốn chạy tội cho chế độ lao tù cộng sản. Tôi chỉ muốn nhắc bạn đọc thân mến nhớ đến chi tiết: Ni cô Trạc Tuyền đã tu hành ở Quan Âm Các chùa ta một khoảng thời gian ít nhất là ba niên.

Đây là những gì chúng ta được biết về thời gian ba niên lá bối, phướn mây của ni cô Trạc Tuyền:

Nàng từ lánh gót vườn hoa

Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng

Nhân duyên đâu lại còn mong

Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.

Phật tiền thảm lấp, sầu vùi

Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.

Khéo thay giọt nước cành dương

Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.

Thiện tai! Thiện tai!

Lành thay! Lành thay!

Nam Mô Ngã Phật Đại Từ Đại Bi Đại Giác!

Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát!

Đạo pháp nhiệm mầu đã đến với ni cô Trạc Tuyền. Nàng đã tự cắt đứt được những cái gọi là “tình là dây oan” làm cho nàng đau khổ. Nàng chẳng còn tha thiết gì với cái gọi là tình yêu nhân thế, nàng đã chôn đêm lạnh, rồi những đêm lạnh rời đi nhường chỗ cho những đêm nóng… trên sàn xi măng phòng mười ô-ten Chí Hòa thành Hồ, Công Tử Hà Đông nằm hiu hiu tưởng nhớ hình ảnh những nàng Kiều Thu ngàn năm tròn tuổi nguyệt trên cõi đời này. Ôi! Những nàng Kiều Thu lò lửa lòng của nàng nào cũng phừng phừng lửa đỏ. Nước Cành Dương có nhiều như nước biển Đông cộng luôn cả nước vùi, đã lãnh quên những sầu thảm của nàng…

Giọt nước từ cành dương liễu của Quan Thế Âm Bồ Tát đã tưới tắt ngúm lò lửa lòng của Thúy Kiều Trạc Tuyền. Tưới tắt dứt khoát, trọn vẹn, tắt đến không còn gì có thể tắt hơn được nữa. Khéo thay! Hay thay! Tuyệt vời thay! Giọt nước Cành Dương của Phật Bà chữa bệnh ái tình hữu hiệu kinh người…

Người đọc Kiều đa số ngây thơ, đến đây thường tin chắc là như thế Thúy Kiều đã thoát kiếp đoạn trường. Nàng đã thành ni cô và tu hành tốt. Ni cô đã lạnh lẽo dửng dưng lửng lơ con cá vàng với cuộc tình. Lửa lòng ni cô đã tắt từ lâu, nay trong lòng ni cô chỉ còn năm bảy đống tro tàn lạnh ngắt…

Nhưng… Cũng lạ kỳ thay… Cái lò lửa lòng đã bị nước Cành Dương tưới tắt ngấm từ bao giờ ấy nó lại bùng lên một cách khủng khiếp ngay khi ni cô vừa nhìn thấy Thúc Kỳ Tâm mắt trước mắt sau lấm lét lẻn vào chùa. Lửa lòng ni cô nó không tái bốc ở đâu xa xôi, nó phừng lên ở ngay trước bàn thờ Phật, ở ngay cái nơi ni cô đã đào sâu chôn chặt, đã tưới mấy chục thùng phuy nước cho nó tắt ngấm.

Than ôi! Cái gọi là Lửa Lòng thật đáng sợ vô cùng! Sự tích ni cô Trạc Tuyền lửa lòng đã tắt lại phừng lên càng chứng minh cho ta thấy tính nguy hiểm ghê gớm của nó. Rõ ràng nó đã tắt ngúm rồi. Cả nước thấy nó tắt queo rồi. Vậy mà nó lại bùng lên, dữ dội, oai hùng, hiên ngang, bất chấp tất cả. Không những nó không bị nước Cành Dương tưới tắt. – nước Cành Dương Cam Lồ hiệu nghiệm là thế mà còn không tưới tắt được nó, trên cái cõi đời này từ ngàn xưa đến ngàn sau sẽ chẳng bao giờ có một thứ nước nào có thể làm tắt được nó – dường như nó còn đốt cháy queo cả cành dương liễu.

Những đêm nóng đến thay những đêm lạnh, rồi những đêm lạnh rời đi nhường chỗ cho những đêm nóng… trên sàn xi măng phòng mười ô-ten Chí Hòa thành Hồ, Công Tử Hà Đông nằm hiu hiu tưởng nhớ hình ảnh những nàng Kiều Thu ngàn năm tròn tuổi nguyệt trên cõi đời này. Ôi! Những nàng Kiều Thu lò lửa lòng của nàng nào cũng phừng phừng lửa đỏ. Nước Cành Dương có nhiều như nước biển Đông cộng luôn cả nước biển Tây các nàng cũng săng-phú…

Bèn có bài thơ vịnh lửa lòng của ni cô Trạc Tuyền:

Lửa lòng em đốt cháy queo

Pháp danh em đổi Trạc Tuyền

Áo xanh em trở màu thiền cà sa.

Em từ lánh gót vườn hoa

Em gần rừng tía, em xa bụi hồng.

Nhân duyên em chẳng còn mong

Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.

Phật tiền thảm lấp, sầu vùi

Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương

Khèo thay giọt nước Cành Dương

Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần gian

Mái nhà họ Thúc vừa sang

Giọt châu tầm tã đượm tràng cà sa:

“Rõ ràng thực lứa đôi ta

“Làm ra con ở, chủ nhà… được sao?

“Em liều mấy giọt máu đào

“Để cho chúng nó trông vào, biết tay

“Sợ gì cao chạy, xa bay

“Ái ân ta có ngần này thôi ư?”

Cùng nhau kể lể sau xưa

Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.

Phật tiền thảm khuấy, sầu khơi

Tiêu pho thủ tự, tàn nồi tâm hương.

Thương thay giọt nước cành dương,

Lửa lòng em đốt mọi đường cháy queo.

Tố Như trong Truyện Kiều dùng rất nhiều đảo ngữ.

Tôi thấy thi sĩ làm thơ có nhiều câu rất Tây – cho đến năm nay – những năm 1995, những người viết văn, làm thơ sau ông đến hai trăm năm, chưa thấy ai dùng cách đảo ngữ lạ như thi sĩ, đừng nói gì đến chuyện dùng ngôn ngữ lạ kỳ hơn thi sĩ.

Đảo ngữ – đem những tiếng ở sau đặt lên trước – thường là sai văn phạm thông thường. Như:

Lửa lòng tưới tắt mọi đường tràn duyên…

“Lửa lòng” là chủ từ của câu này. Nhưng “lửa lòng” chỉ đốt cháy, “lửa lòng” làm sao tưới tắt được? Ta phải đem ý câu trên liền xuống với câu này:

Khéo thay giọt nước cành dương

Lửa lòng tưới tắt mọi trần duyên.

Khéo thay giọt nước cành dương đã tưới tắt lửa lòng ở mọi đường trần duyên của ni cô Trạc Tuyền.

Một đảo ngữ khác.

Tam Hợp đạo cô tiết lộ cuộc đời ái tình và sự nghiệp của Thúy Kiều với Giác Duyên:

Thửa công đức ấy ai bằng

Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.

Không phải cái “túc khiên” của nàng rửa mà là Thúy Kiều đã rửa cái “túc khiên” của nàng sạch lắm rồi.

Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Câu đảo ngữ này có thể làm cho ta tưởng lầm: Ông trời lắm chuyện, ổng quen cái thói đánh ghen như đàn bà… Nhưng mà hổng phải dzậy. Ta phải đảo lại thứ tự những tiếng trong câu này như vầy: Ông trời ổng quen thói đánh ghen những người đàn bà đẹp.

Khi ông bà Vương Viên Ngoại cùng hai gia đình Khim Trọng – Thúy Vân, Vương Quan – Chung thị Mẹt – hai cậu chuyên ăn chơi bây giờ đã đỗ cử nhân, đuọc trào đình trang trọng trách tri phủ, tổng đốc – đến gặp Thúy Kiều ở căn nhà nghỉ mát bên sông Tiền Đường:

Tưởng bây giờ là bao giờ

Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao

Giọt châu thánh thót quyện bào

Mừng mừng tủi tủi biết bao nhiêu tình.

Huyên già dưới gối gieo mình

Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi

- Từ con lưu lạc quê người

Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm…

“Huyên già” là danh từ huê mỹ, điển tích để gọi bố già Vương Ông. Cứ như câu trên thì “Vương Ông quì dưới gối ai đó”. Lại đảo ngữ rắc rối tơ. Trong khi không phải “huyên già gieo mình dưới gối…” mà là Thúy Kiều gieo mình dưới gối bố già.

Truyện Kiều có nhiều bản. Theo cái gọi là Bản Kinh thì câu trên là:

Gieo mình dưới gối huyên đình

Câu của Bản Kinh đúng hơn, đỡ rắc rối không cần thiết. Mà cũng hay ra rít. Cần gì cứ phải đảo ngữ. Dùng câu như câu trong Bản Kinh vừa kể còn tránh được hai vần “mình, mình” trùng nhau:

Gieo mình dưới gối huyên đình

Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi.

Đoạn “tái hồi Kim Trọng” là đoạn vá víu cho cái gọi là “hậu” nên nó đầy những mâu thuẫn, vô duyên.

Xin kể một chi tiết “danh bất chính mà ngôn bất thuận”. Đó là khi vãi Giác Duyên được giới thiệu những người lập đàn tràng bên sông Tiền Đường tế vong hồn Vương Thúy Kiều:

Này chồng, này mẹ, này cha

Này là em ruột, này là em dâu…

“Này chồng” đây là chồng nào? Kim Trọng Công Tử Bắc Kinh Mất Con Chị Dí Con Em Con Chị Nó Đi Con Dì Nó Thế Hoa Thơm Đánh Cả Cụm chưa bao giờ là “chồng” của Thúy Kiều. Không thể giới thiệu Kim Trọng là chồng Thúy Kiều được, giới thiệu như vậy là bậy bạ, cà chớn nhập nhàng. Kim Trọng là chồng của Thúy Vân. Phải giới thiệu Kim Trọng là “em rể” mới đúng hệ thống. Ta thấy có giới thiệu “em dâu” tức là có giới thiệu vợ Vương Quan. Vậy thì tại sao lại phe lờ không giới thiệu chồng của Thúy Vân, tại sao không nói gì đến con rể mà lại trang trọng giới thiệu con dâu? Tự nhiên phang một anh “này chồng” ngang phè không giống ai…

Hai câu:

Này chồng, này mẹ, này cha

Này là em ruột, này là em dâu

đúng ra phải là:

Này em, này mẹ, này cha

Này là em rể, này là em dâu.

Năm 1950 tôi từ bên kia dòng sông Đuống trở về Hà Nội, lại ngày ngày cắp sách đến mái trường Văn Lang. Lúc này trường Văn Lang đặt cái gọi là cơ sở trong hai căn nhà tư đường Phạm Phú Thứ – giữa đường Thành và Hàng Da – tôi được học thầy Nghiêm Toản về Việt văn.

Một buổi giảng Kiều, thầy nói: “Trong Kiều có một câu dở nhất. Đó là câu Bộ hành một lũ theo liền một khi… Câu tả cảnh gia đình Vương Viên Ngoại bầu đoàn thê tử, dâu, rể, cháu chắt theo vãi Giác Duyên đi gặp Thúy Kiều”.

Đúng như thầy nhận xét, tôi thấy câu “Bộ hành một lũ…” dở thật. Có thể nói đây là câu dở nhất trong Truyện Kiều.

TUYỆT TÀI HOA…

T

uyệt tài hoa, Tố Như ơi

Thơ tình lại điểm những lời tiên tri…

Ta thường dịch danh từ prophet là “tiên tri”. Theo sự ngu si của tôi, tôi cho việc dùng tiếng “tiên tri” theo nghĩa phophet không đúng lắm. Tôi thấy “tiên ngôn” đúng hơn.

Trong Kinh Thánh Thiên Chúa giáo, có nhiều ông Prophet phom phom nói trước cho người đời biết những chuyện sắp xảy đến. Theo những vị dịch Kinh Thánh đầu tiên những năm 1910 – 1920 ở thành phố cảng Tourane tức Đà Nẵng – trong số những vị này có ông Phan Khôi – phophet được dịch là “nhà tiên tri”. Thực ra những ông này không “tiên tri” bất cứ chuyện gì hết. Các ông chỉ nói ra những gì Thiên Chúa mượn miệng các ông để nói với người đời. Vậy thì các ông là những người “nói trước” hơn là những người “biết trước”.

Các ông Prophet nói trước những chuyện mấy ông hoàn toàn không biết. Còn Tố Như Nguyễn Du, khi viết Kiều, đã nói cho chúng ta biết trước một số việc sẽ xảy đến. Tố Như hoàn toàn biết trước tất cả những chuyện ông nói trước trong Kiều.

Thi sĩ chỉ dùng một vài hình ảnh mơ hồ, thoáng qua, vài tiếng tả cảnh, tả tình mới nghe qua dường như chẳng có gì quan trọng để báo trước cho chúng ta biết tương lai, hậu vận của những việc vừa xảy ra. Chẳng hạn như khi Thúy Kiều – Kim Trọng vừa mới trao đổi được với nhau vài câu qua tường đất thì đã vội vàng “chấm dứt chương trình của ban Tùng Lâm” vì có người lao xao đến. Đây là bốn tiếng thi sĩ nói trước với ta về cuộc tình ấy: … lá rụng, hoa rơi…

Than ôi, vừa mới tình tự mà lá đã rụng, hoa đã rơi… Không những hoa lá chỉ rơi rụng mà thôi, hoa lá còn rơi rụng hết sức vội vàng, hấp tấp nữa. Cuộc tình lá rụng, hoa rơi ấy làm sao mà khá được. Vì vậy nên có thơ rằng:

Tiên ngôn

Một lời vừa gắn tất giao

Mái sau dường đã lao xao tiếng người

Vội vàng lá rụng, hoa rơi…

Tuyệt tài hoa, Tố Như ơi

Thơ tình lại điểm những lời tiên tri.

Cứ theo hoa lá mà suy

Cuộc tình thôi có ra gì mai sau!

Tố Như còn tiên ngôn cho chúng ta biết cuộc chia tay giữa Thúc Kỳ Tâm và Vương Thúy Kiều – khi Thúc Kỳ Tâm lên xe về Vô Tích với Hoạn Thư – là một cuộc chia tay một đi không trở lại. Dù hai đương sự có thề thốt, hẹn hò đoàn tụ ái ân ra rít đến chừng nào đi nữa, cuộc tình của họ cũng đến đó là đi một đường tàu suốt. Kính mời những người yêu nhau trên cõi đời này đọc bài thơ vịnh dưới đây sẽ thấy Tố Như tiên ngôn:

Lôi thôi

Sông Tần một giải xanh xanh

Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan

Cầm tay dài ngắn thở than

Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời.

Tuyệt tài hoa, Tố Như ơi

Thơ tình lại điểm những lời tiên tri.

Lôi thôi nào có ra chi,

Dương Quan tây xuất còn gì cố nhân!

Một đi là hết ái ân

Lôi thôi cho lắm cũng ngần ấy thôi

Lôi thôi kẻ ngược người xuôi

Lôi thôi lại muốn nối lời nước non.

Lôi thôi sông cạn đá mòn

Con tằm đến thác vẫn còn lôi thôi!

Tuyệt tài hoa. Tố Như ơi

Tiên tri ngay cả trong lời yêu đương

Sông Tần mở lối đoạn trường

Đã lôi thôi lại mấy đường Dương Quan…

Em yêu ơi, Tố Như nói trước với chúng ta khi ở tại phi trường Dương Quan em lên phi cơ bay sang phía tây em không còn là người tình của anh nữa. Thi sĩ đã dùng điển Tây xuất Dương Quan vô cố nhân để nói cho chúng ta biết trước. Đúng quá phải không em? Cuộc chia ly hẹn ngày tái ngộ mà toàn những tiếng đứt đoạn như là “lôi thôi, chia phôi, thở than, hợp tan, nghẹn lời, Dương Quan, ngược xuôi…” thì làm sao mà khá được!

Tuyệt tài hoa. Tố Như ơi

Tố Như tiên ngôn thần sầu quỉ khốc. Khi Thúc Kỳ Tâm lên đường về Vô Tích “báo cáo tổng kết” với Hoạn Thư, ta thấy những lời tiên ngôn này khi chàng chia tay tạm biệt với Thúy Kiều:

Tiễn đưa một chén quan hà

Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.

Sông Tần một giải xanh xanh

Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan…

Tại sao đã “liễu” lại còn “Dương Quan”? “Dương Quan gợi ta nhớ đến:

Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu

Tây xuất Dương quan vô cố nhân…

Đấy là ẩn ý của Tố Như muốn ta biết: Thúc Kỳ Tâm một đi là mất Thúy Kiều. “Tây xuất Dương quan vô cố nhân” mà lỵ!

Còn “liễu” gợi ta nhớ đến “liễu Chương Đài”.

Khi về hỏi liễu Chương Đài

Cành xuân đã bẽ cho người chuyền tay…

Anh Hàn Hũ đời Đường có chị vợ lẽ tên là Liễu thị – Truyện Thúy Kiều do Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu khảo ghi rõ là “vợ lẽ” – Hàn Hũ đi làm quan xa để Liễu thị ở Chương Đài trong thành Trường An. Hàn Hũ không viết thư cho vợ cả, toàn viết cho vợ bé Liễu thị, gọi nàng là Chương Đài Liễu.

Truyện tình Chương Đài Liễu được ghi trong bộ Tình Sử. Thơ Hàn Hũ gửi cho Liễu Thị có câu hỏi loại “tiên ngôn”:

Chương Đài Liễu…

Tích nhật thanh thanh kim tại phủ?

Giả ưng phan chiết tha nhân thủ?

Liễu Chương Đài

Ngày xưa xanh xanh nay còn đó không?

Hay là tay người khác đã bẻ mất rồi?

Anh đàn ông xa nhà mà viết thư về hỏi vợ bé một câu xanh rờn: “Em thơm hơn múi mít chín… Em còn không hay cho thằng khác… dzồi?” thì mất em là cái chắc!

Quả nhiên về sau loạn ly, giặc đến, Liễu thị bị tướng giặc đưa đi di tản ra nước ngoài mất tích.

Tố Như đưa “liễu” vào đoạn tả Kỳ Tâm chia tay Thúy Kiều có ý cho ta biết trước: Kỳ Tâm đi là múi mít Thúy Kiều về tay người khác.

Với những bằng chứng vừa kể, ta có thể kết luận Tố Như tiên ngôn thật tuyệt với, tuyệt tài hoa.

Bài học luân lý còm ta rút được ở “Liễu Chương Đài” là: Đừng có đi, đừng có dzìa đâu hết. Đừng xa nhau, xa nhau là dễ mất nhau lắm lắm.

Muốn không mất phải luôn luôn nhớ lời dặn của ông cha:

- Vật bất ly thân.

- Cẩn tắc vô áy náy.

Tiên ngôn

Khi Thúy Kiều lập tòa án mặt trận xử tội các can phạm đã làm hại đời nàng. Tố Như báo trước cho ta biết nàng sẽ không trừng phạt trả thù được Hoạn Thư qua hành động:

Thoắt trông nàng đã chào thưa

-Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?

Nói theo ngôn ngữ những năm 1940, 1950, 1960 ở các thành phố Hà Nội, Sài Gòn, khi vừa thấy Hoạn Thư bị cai tù giải đến, chánh án Vương Thúy Kiều đã vội vàng đứng lên chào hỏi:

-Thưa cô… Cô mà cũng phải đến đây ư? Thầy có được mạnh không ạ?

hay:

- Thưa mợ… Hồi này cậu mợ mạnh không?

Tố Như luôn luôn diễn tả Từ Hải trình diễn thật rình rang. Sai mười anh tướng đi đón vợ, chưa là vua mà đã dùng thể nữ, xe thì phượng liễn, loan nghi, tức là cờ phướn linh đình. Vợ tới nơi thì “kéo cờ lũy, phát súng thành…” Bố Cu Từ lập tòa cho vợ đền ơn, trả oán cũng dàn dựng linh tinh:

Quân trung gươm lớn, giáo dài

Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi.

Sẵn sàng tề chỉnh, uy nghi

Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân…

Làm ký gì mà dàn cả cà-nông ra đầy sân tòa án rườm dzậy, cha nội? Chưa hết, sau khi bà chánh án đền ân cho người cũ Thúc Kỳ Tâm, bà vãi bụi đời Giác Duyên; ta lại thấy tòa án trình diễn một màn đe dọa cực kỳ nữa khi bà chánh án cho gọi đến chánh phạm Hoạn Thư:

Dưới cờ gươm tuốt nắp ra

Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư

Gươm tuốt nắp ra để chém ngay nữ can phạm. Nhưng… tẽn tò, bà chánh án vội vàng nhấc chỗ để ngồi lên khỏi ghế để “chào thưa”:

- Thưa mợ…

Trong nhiều đoạn Tố Như tiên ngôn cho ta biết những sự việc sắp xảy ra. Thi sĩ nói trước cho ta biết quân đội Từ Hải sẽ bại trận thê thảm qua hai câu:

Ba quân chỉ ngọn cờ đào

Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri.

Tức là mất hút một đạo quân. Đạo quân thứ ba đi đâu mất? Hỏi tức là trả lời.

TỪ HẢI CHẾT ĐỨNG

K

hi Từ Hải chết đứng, Thúy Kiều khóc:

Khóc rằng: “Trí dũng có thừa

Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này…”

Thúy Kiều cho Từ Hài là người có hai đức tính “trí” và “dũng”. Ta không biết Tố Như có cho Từ Hải hai đức tính ấy hay không.. Chỉ biết từ ngày Thúy Kiều gọi Từ Hải là “người đàn ông trí, dũng có thừa”, những người đọc Kiều dường như chẳng mấy ai thắc mắc gì đến cái gọi là “trí, dũng” của Từ Hải.

Tôi thấy Từ Hải chỉ có dũng mà không có trí. Cho họ Từ có dũng cũng đã là gượng ép. Từ Hải, với tư cách tướng quân, từng xưng vương, dù chỉ là tiểu vương, đã không dũng ở việc chưa đánh đã đầu hàng dù biết hàng thần lơ láo, sẽ bị khinh thị. Quan Vân Trường vì hoàn cảnh bắt buộc phải đầu hàng, nhưng sau đó đã anh dũng lấy lại được danh hiệu dũng tướng; Từ Hải ngược lại, đầu hàng và chết đứng luôn.

Không phải là mạt tướng cũng chẳng được là triều thần, Công tử Hà Đông đã từng đầu hàng Việt Cộng. Những đêm dài lắm, sâu lắm thao thức trong lầu Bát giác Chí Hòa thành Hồ, Công tử Hà Đông làm bài thơ vịnh Từ Hải:

Khóc rằng: “Trí dũng có thừa

Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này”.

Dũng thôi, có trí nào vay?

Năm năm trời biển, một ngày chết oan.

Bờ sông, bãi cát bàn hoàn

Có nghe mồ lạnh cung đàn phu nhân?

Ấy ai tàn cuộc phong trần?

Ấy ai vân cẩu, xoay vần những ai?

Quân trung gươm lớn, giáo dài

Đội torng thị tập, cơ ngoài song phi

Sẵn sàng, tề chỉnh, uy nghi

Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân

Phù vân… Chỉ là phù vân

Bá vương, hào kiệt, hàng thần… chiêm bao!

Mắt xanh, mặt ngọc, má đào

Râu hùm, hàm én đi vào hư vô

Ấy ai gây dựng cơ đồ

Ấy ai bể Sở, sông Ngô tung hoành.

Ấy ai nấm đất bên gành

Rầu rầu ngọn cỏ nửa xanh, nửa vàng!

Ca-nông nổ rung chuyển mặt đất, hê-li-cốp bay rợp trời quân khu, các binh chủng trang bị võ khí tối tân nhất, đang đánh đâu thắng đấy như chẻ trúc, đập ngói; quân ta sẵn sàng, tề chỉnh, uy nghi… Vậy mà tự nhiên ký giấy đi đầu hàng! Trí dũng ở chỗ nào? Vương tướng gì mà kỳ cục kỳ cào đến cái nước ấy? Tướng mà trí dũng cù lần như vậy thì chết đứng là cái chắc. Không những chỉ chết đứng mà thôi, còn chết không nhắm được mắt.

Bố cu Từ bị Tố Như diễn tỏa cho trở thành lố bịch qua việc ảnh dàn dựng cuộc đón tiếp vợ hết sức linh đình để rồi đầu hàng trống lơi, cờ rũ, súng tịt hết sức bôi bác. Chỉ đón vợ thôi mà tướng quân cho kéo quốc kỳ, cho nổ đại bác ầm ầm:

Kéo cờ lũy, phát súng thành

Từ công lên ngựa thân nghinh cửa ngoài.

Đúng là oai như hạch. Chỉ để đón nàng về dinh thôi mà Tướng quân cho mở cả một chiến dịch dữ dội mùa hè đỏ lửa hết sức đao to búa lớn:

Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương

Ngất trời sát khí mơ màng

Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.

Tướng quân huy động đủ cả năm bunh chủng Hải, Lục, Không, Thiết giáp, Công binh luôn cả Gia binh. Linh đình tốn hao huyết lệ của nhân dân như vậy chưa đủ, Tướng quân còn sai cả chư tướng đi đón vợ. Không những chỉ sai một tướng, người còn sai đến mười tướng:

Hai bên mười vị tướng quân

Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.

Tôi từng thắc mắc về chuyện tại sao quân đội Từ Hải đang chiến thắng lại thảm hại nhanh chóng đến như thế. Chi tiết mười anh tướng lãnh quân vụ đi đón phu nhân trước sân phải quì gối, đặt gươm, cởi giáp, khấu đầu đến như thế làm cho tôi biết tại sao quân Từ thua, tại sao Từ Hải chết đứng, tại sao Thúy Kiều phải nhắm mắt nhảy xuống sông Tiền Đường…

Một lần nữa thiên tài Tố Như lại tiên ngôn cho chúng ta thấy: Cái quân đội có những tướng hèn ngu đến như thế tất nhiên là thứ quân đội không ra gì, trước sau gì cái quân đội ấy cũng đầu hàng. Anh tướng đón vợ rình rang như Từ Hải tất nhiên là anh tướng đánh trận không khá, thứ tướng quân ấy chết đứng là đúng thôi…

Than ôi! Đời xửa đời xưa có những người lòn trôn rồi trở thành đại tướng. Lại có những người nếm phân rồi phục quốc…

Nhưng đó là chuyện đời xửa đời xưa…

Đời nay ta chỉ thấy những người làm tướng rồi lòn trôn. Và những người nếm phân rồi ngậm miệng…

Kể ra Từ Hải cũng còn một điểm khá hơn nhiều người. Đó là điểm Từ Hải chết đứng.

THÚY KIỀU TRẢ THÙ

Q

uá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao…

Đó là hình ảnh của Mã Giám Sinh. Hình ảnh ấy em đã biết, dù em chỉ đọc Kiều ở những đoạn tả tình, tả cảnh mà em thích. Vì vậy, anh không cần diễn tả thêm nữa về hình ảnh của Mã Giám Sinh cùng giới thiệu với em về y. Ở đây anh chỉ viết cho em những gì về Kiều mà anh nghĩ rằng trước anh chưa có ai viết và em chưa từng bao giờ đọc.

Em đã thấy Thúy Kiều, khi trở thành lệnh bà ở Hàng Châu, trả thù Hoạn Thư: Thúy Kiều tuy tha chết cho Hoạn Thư nhưng cũng đánh cho thị một trận nhừ tử dở sống dở chết. Tú Bà thì bị trói tròn như khúc gỗ, tẩm dầu vong kín mít từ đầu đến chân, dựng ngược đầu xuống đất, làm cây đuốc sống, đốt cho đến chết. Và đây là cảnh Mã Giám Sinh, tức Mã Quy, tức Mã Bất Tiến, bị lệnh bà trừng phạt:

“Mã Giám sinh bị kẹp chân tay vào mấy cây gỗ, căng thẳng ra. Quân sĩ dùng dao nhọn khoét da, moi những đầu gân của họ Mã ra. Rồi họ cho móc câu vào móc gân làm cho thân thể họ Mã lúc đầu co rúm lại, cho đến lúc những sợi gân bị đứt thì xác họ Mã rã rời ra từng mảnh. Phu nhân sai quan mang xác Mã Giám sinh vứt xuống biển cho cá ăn.”

Bây giờ em coi đoạn phim video Thúy Kiều trả thù bọn Sở Khanh, Bạc Hà, Bạc Hạnh:

“Cũng giống như Tú Bà, Sở Khanh bị trói tròn như khúc gỗ. Sở Khanh cũng bị tẩm dầu thông và keo vỏ gai kín mít nhưng không bị đốt như Tú Bà mà bị để nằm đó cho chết dần. Dầu thông và keo vỏ gai làm cho thân xác Sở Khanh một lúc sau trở thành một cây máu thịt đỏ lòm, bầy nhầy. Sở Khanh còn thoi thóp nhưng chưa chết hẳn. Quân sĩ lấy nước vôi tưới lên, da thịt đẫm máu của Sở Khanh nổi lên những bong bóng nổ lốp bốp. Một lúc sau nữa thì toàn hân Sở Khanh chỉ còn là một đống máu mủ khủng khiép.

“Bạc Bà bị chặt đầu, đem thủ cấp treo ngoài viên môn. Bạc Hạnh bị trói lại như khúc cây rồi bị cưa từ chân dần lên đến ngực. Thân xác Bạc Hạnh bị cưa rời ra thành cả trăm mảnh. Sau đó phu nhân truyền đem thịt Bạc Hạnh trộn vào cỏ cho ngựa ăn”.

Những đoạn văn trên trích trong tiểu thuyết chữ Hán Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Trong truyện thơ Kiều, Nguyễn Du bỏ đi những chi tiết ghê rợn này.

Em yêu ơi… Đành rằng những tên gây nên tội thì phải đền tội. Và anh cũng chủ trương rằng cần phải trị tội những tên làm bậy để cho những tên khác thấy thế mà kinh hãi, mà bới đi sự làm bậy, nhất là để cho những tên nắm được quyền hành một thời lấy đó làm gương. Nhưng anh chỉ chủ trương trên lý thuyết là phải trị tội chúng như vậy thôi, đến lúc thấy chúng bị hành tội thì anh lại không thể nhẫn tâm. Thố tử hồ bi… Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ. Loài vật còn biết thương yêu nhau, thương xót nhau… Có nhiều lúc anh thấy xấu hổ vì loài người có nhiều tên – không phải là tất cả – không bằng được loài vật. Đó là những lúc anh thấy những kẻ reo hò, nhảy múa, ca hát trên xiềng xích và trên cái chết của người khác.

Em yêu của anh ơi… Nếu em là Thúy Kiều và nếu anh có thể khuyên can được em, khi em phán quyết trả thù bọn làm hại em bằng những hình phạt ghê rợn đến như thế, anh đã khuyên em đừng, em không nên… Đã đành là bọn Hoạn Thư, Tú Bà, Mã Giám sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh có tội với em, chúng đã làm em đau khổ, chúng đã hành hạ cả tinh thần lẫn thể xác em và bây giờ khi em đã lên bà, em có quyền giết chúng, em cũng chẳng nên. Anh không khuyên em bỏ qua hay tha bổng chúng, em chỉ nên căng nọc chúng ra, đánh cho mỗi tên một trận què lê lết rồi cho chúng sống nốt những ngày tàn, cho chúng thấm đòn. Như tên Mã Giám sinh chẳng hạn. Nếu em để cho y sống, y còn mần ăn gì được nữa. Năm y đến mua em với giá 400 cây vàng ở Bắc Kinh, em mười tám tuổi còn y quá niên trạc ngoại tứ tuần tức là y đã ngoài bốn mươi tuổi rồi. Bây giờ là mười năm sau, khi em trở thành phu nhân, em hai mươi bảy, hai mười tám cái xuân xanh mướt thì y đã năm mươi mấy tuổi. Vốn là một gã phong tình đã quen… tuy ngoài năm mươi tuổi nhưng quen nghề phong tình, rất có thể là tên Mã Quy, Mã Bất Tiến đó vẫn còn có thể mần được những trò phong tình, em chỉ nên trừng trị y vào đúng cái chỗ y đã dùng nó để phạm tội với em. Bắt nó để lên phiến đá, cho quân lấy cái chày giã cua, hay lấy cái dùi trống cũng được, dần cho nó vài chục cái. Không cần nhiều, chỉ cần độ ba chục cái thôi là nó buốt lên tới óc, xương sống nó rã rời, bao nhiêu khớp xương, đầu gân của nó lỏng lẻo hết. Nó còn sống ngày nào là dư ngày ấy thôi. Nó sẽ lử khử lừ khừ rũ riệt cho đến ngày nó chết. Hai tên Sở Khanh, Bạc Hạnh cũng bị trị tội y như Mã Giám sinh. Em có thể gia giảm cho hai tên này đôi chút vì chúng là những tên xếp hàng sau họ Mã. Trong cái hàng dài những tên nham nhở can tội xâm phạm và dày vò cái “ngàn vàng” của em, Hồ Tôn Hiến là tên sau chót.

Nói đến cái “ngàn vàng” của em, anh muốn nhắc để em nhớ rằng vào cái thời em đang tròn tuổi nguyệt, trần ai chưa lấm được thơ ngây, tức là vào cái thời gọi là “Gia Tĩnh triều Minh, bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng” – năm 1555 sau Thiên Chúa – cái gọi là “ngàn vàng” của em nó có giá ghê lắm.

Cò kè bớt một thêm hai

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Mã Giám sinh nó mua cái “ngàn vàng” của em với giá bốn trăm lạng. Nhưng tới đây thì có sự không minh bạch; đó là bốn trăm lạng vàng hay bốn trăm lạng bạc? Nếu bốn trăm lạng vàng thì đó là giá cao còn nếu là bốn trăm lạng bạc thì giá trị cũng chẳng còn có mấy đâu. Cứ theo như bản tiều thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân mà anh đang tra cứu đây thì đó là “bốn trăm lạng bạc” nhưng trong những bản Thơ Kiều của Nguyễn Du, tức là của ta, thì gần như tất cả các bản đều in là “Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm“, tức là “hơn bốn trăm lạng vàng”. Thôi thì chúng ta cứ coi đó là vàng đi. Cho nó hách, Có phải đóng thuết giờ nào đâu mà sợ.

Em yêu ơi… Nếu cái đó mà trị giá tới bốn trăm cây vàng thì quả thực cao quá là cao. Nhất là so với thời giá bi giờ. Hiện nay cái đó chỉ là 100 đô, tức là chỉ có “vàng ngoài hai chỉ” thôi. Có đắt lắm, có thơm lắm, nó cũng chỉ đến 500 đô, tức là “vàng ngoài một cây” là cùng.

Về trường hợp “xâm phạm Ngọc Long Cung” của em thì anh thấy Mã Giám sinh có thể được hưởng sự giảm khinh. Bởi vì gã bị bắt buộc phải làm việc ấy. Gã nói gã mua em về làm vợ bé thì khi làm xong mọi thủ tục mua bán, cưới xin, khi đưa em bình yên về đến ôten thì gã phải làm thôi. Không có lý phải chờ tới khi đưa em về tới Lâm Tri gã mới làm. Nếu gã không làm ngay việc đó ở Bắc Kinh, em sẽ có lý do vững chắc như cua gạch để nghi rằng gã mua em về để dùng em vào việc gì khác chứ không phải là dùng em với tư cách vợ bé của gã. Đây là bằng chứng:

Vả đây đường xá xá xôi

Mà ta bất động nữa người sinh nghi.

Đó là lời trong Thơ Kiều. Còn đây là ý nghĩ của Mã Giám sinh trong truyện: Hiện nay mình chưa ra khỏi kinh thành. Đã đón nàng về đây rồi nếu mình chẳng thành vợ chồng với nàng, sợ nàng về kể lại với cha mẹ nàng thì lôi thôi to. Chi bằng ta hãy… Rồi khi về đến hành viện, sẽ dùng cách trang điểm lại thì nói vẫn còn y nguyên, tiền mở hộp vẫn mấy trăm lạng vàng, có mất đi đâu đồng nào. Vậy thì tại sao ta lại chẳng đi nước trước. Nếu mụ Tú có biết thì ta cũng chỉ mất công quì gối một buổi là xong…

Em yêu ơi, anh thấy gần như tất cả – không, không phải gần như tất cả mà là “tất cả” – những tên đàn ông quanh quẩn bên cái chỗ để ngồi của Thúy Kiều đều là những tên nếu không ngu si, hèn nhát thì cũng tham lam, đểu giả, tàn nhẫn. Kim Trọng thì “hoa thơm đánh cả cụm, yêu con chị dị luôn con em” – yêu cái kiểu như Kim Trọng thì tên đàn ông hạng bét nào ở cõi đời này chẳng yêu được – miệng thì rêu rao nhất định phải đi tìm Thúy Kiều cho bằng được mới thôi, dù là phải “dấn mình trong áng can qua, vào sinh ra tử” nhưng vẫn cứ ở nhà ôm đít Thúy Vân hưởng lạc thú cơm nhà, quà vợ… Thúc Kỳ Tâm sợ vợ đến cái độ làm cho những anh sợ vợ nhất nhì cõi đời này cũng phải lắc đầu. Hồ Tôn Hiến dâm đãng và tàn nhẫn, ti tiện nữa: Lão nhờ Thúy Kiều một phần mà được thành công, nhưng khi thành công rồi lão có thèm thuồng “cho anh một tí…” cũng được đi, song thay vì thỏa mãn mọi mặt rồi lão chỉ có việc cấp cho nàng cái vé xe đò, cho xe jeep đưa nàng ra bến xe để nàng về Bắc Kinh đoàn tụ gia đình, lão cũng không làm. Thay vì làm cái việc dễ làm đến như thế, lão lại muối mặt già giao nàng cho một anh Thổ quan vô danh để anh này muốn làm gì nàng thì làm. Đến cả Từ Hải là kẻ được tô son, vẽ phấn nhất cũng chỉ là một anh dũng phu không hơn không kém. Những câu như “Hơn đời trí dũng, nghiêng trời uy linh” và “Khóc rằng: Trí dũng có thừa…” đều là những câu ca tụng Từ Hải quá đáng và không đúng. Cái cảnh Từ Hải sai những “mười vị tướng quân…” đi đón Thúy Kiều – không thấy nói rõ là chuẩn tướng, thiếu tướng, trung tướng hay đại tướng… Chỉ biết một điều chắc như bắp là những anh tướng chịu đi đón phu nhân kính cẩn như vầy thì khi đánh nhau phải vô cùng anh dũng – Mười vị tướng quân mang giáp binh, tức là xe tăng, thiết vận xa, rồi cung nga, thể nữ lóc nhóc một đống, rồi phượng liễn, loan nghi, tức là cờ quạt, y phục, thêu hình chim phượng, chim loan. Khi phu nhân đi thì dựng cờ, nổi trống, đội kèn đồng bu-dzích quân nhạc đi trước, xe Mercedes nạm vàng chở phu nhân đi sau: “Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau“. Gác-đờ-co bảo vệ yếu nhân chạy đầy đường. Khi vợ đến thì “Kéo cờ lũy, phát súng thành. Từ công cưỡi ngựa thân chinh cửa ngoài…” tức là kéo quốc kỳ lên, nổ 21 phát đại bác để… đón vợ. Chỉ cần xem cái cảnh Từ Hải đón vợ lố bịch, rởm đời như thế thì bất cứ ai có óc phán đoán nhỏ bằng đầu que tăm xỉa răng cũng có thể biết rằng lúc đánh nhau, Từ Hải sẽ loạng quạng đến như thế nào và việc Từ Hải chết đứng là việc dễ hiểu thôi.

Nhưng hèn hạ đến như Mã Giám sinh thì là hèn hạ nhất đời. Trong số ba tên ma cô khai thác thể xác thơm hơn múi mít của Thúy Kiều để kiếm ăn thì Mã Giám sinh là tên hàn hạ nhất. Khi đến Bắc Kinh mua Kiều, Mã Giám sinh ngoại tứ tuần. Tú Bà lúc đó chắc phải ngoại ngũ tuần. Tức là Tú Bà hơn Mã Giám sinh khoảng mười tuổi. Và mụ đối xử với tên chồng em như đối xử với con mụ vậy. Gã phạm tội là mụ bắt gã quì gối. Y như là bà mẹ xử phạt thằng con hư phá. Và gã hoan hỉ chịu sự trừng phạt ấy, vì gã đã tính trước:

Mụ già hoặc có điều gì

Liều công mất một buổi quì là xong

Tất nhiên là tay chuyên viên tổ chức hành lạc như Tú Bà sẽ biết ngay những việc Mã Giám sinh làm với người thiếu nữ gã có nhiệm vụ mang tiền đi mua về. Và khi mụ biết, cơn tam bành của mụ sẽ ầm ầm nổi lên. Mã Giám sinh biết rõ chuyện ấy hơn ai hết nhưng gã vẫn cứ làm. Với kinh nghiệm sống, gã ước lượng trước hình phạt mà gã phải chịu: chỉ liều công mất một buổi quì gối. Nhưng cứ xét theo tội trạng của họ Mã thì đúng ra gã chỉ phải chịu có một buổi quì là xong hay là phải nhiều hơn? Bởi vì:

Kể từ đêm ở trú phường

Đến Lâm Tri một tháng trường mới thôi.

Lý do: đường xá xa xôi,

Mà ta bất động nữa người sinh nghi.

Mụ già hoặc có điều gì

Liều công ba chục buổi quì mới xong.

Mã Giám sinh vốn là một gã phong tình, gã đã động được Kiều một lần là gã sẽ động mãi. Đường gã đưa nàng đi từ Bắc Kinh về Lâm Tri mất đúng một tháng. Ngày đi, đêm vào ô-ten, vững đến như ông Liễu Hạ Huệ cũng phải động, nói gì đến gã phong tình chuyên nghiệp như Mã Giám sinh! Đằng nào thì gã cũng phạm tội rồi, một lần hay ba bốn, năm bảy chục lần thì cũng dzậy thôi.

Công tử Hà Đông bèn tại ngục vịnh Mã Giám sinh:

Hỏi tên? Rằng: Mã Giám sinh

Hỏi quê? Quê ở huyện Lâm Thanh.

Mua đồ xài thử, anh vừa bụng,

Bán thịt ăn gân, mụ bực mình.

Em có lấy vua, mần thủ tướng,

Cũng nhớ thằng xưa nó phá trinh.

Mười lăm năm ấy bao anh sướng,

Đều xếp hàng sau Mã Giám sinh.

Bây giờ đến lượt tên hèn hạ thứ hai trong Kiều là Sở Khanh. Anh bực bội khi thấy Nguyễn Du lạm phát danh từ “thư hương”. Sau khi tả anh con nhà buôn “Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương“, Nguyễn Du lại cho một con người thông minh như Thúy Kiều khi vừa nhìn thấy Sở Khanh đã “nghĩ rằng cũng mạch thư hương“. Hình dạng của họ Sở cũng được diễn tả đại khái như hình dạng họ Mã: “Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng” đồng nghĩa với “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao“.

Em yêu ơi, như anh đã viết: bọn đàn ông nói chung bị bôi gio trát trấu trong truyện Kiều, những nhà thi sĩ chân chính cũng bị bôi bác vì trong Truyện Kiều có hai anh làm thơ: Thúc Kỳ Tâm con nhà buôn và Sở Khanh ma cô. Kể ra về mặt mần thơ Cóc thì Sở Khanh còn hơn công tử bột Kim Trọng những năm bảy thành, vì Kim Trọng không mần thơ được, phải nhờ Kiều đề thơ vào bức tranh gọi là “tranh tùng” song chắc là nó thuộc loại tranh sơn thủy hữu tình mà em vẫn thấy bày bán ở vỉa hè Nguyễn Huệ thời em còn chiều thứ bẩy, sáng chủ nhật trời trong dạo gót sen trên đại lộ này. Khi Kiều từ chối không chịu đi khách, Tú Bà đưa nàng ra ở vi-la Ngưng Bích để chuẩn bị đưa nàng vào xiếc, đập tan ý chí đề kháng của nàng, Kiều lên lầu nhìn ra và nàng chỉ nhìn thấy quanh nàng toàn những cảnh buồn:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu!

Buồn trông nội cỏ dàu dàu

Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi…

Lúc ấy Kiều thấy “Chung quanh những nước non người. Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu“. Chắc rằng nàng có ngâm mấy bài thơ ấy lên nên Sở Khanh nằm vùng ở vi-la bên cạnh mới nghe tiếng và do đó gã mới mần thơ họa lại để tán tỉnh nàng. Bởi khi Kiều “Ngậm ngùi rủ bức rèm châu” (thì) “cách tường (nàng) nghe có tiếng đâu họa vần“. Và đây là bài thơ của Sở Khanh ma cạo. Cũng đường luật như ai chứ bộ:

Lâu ngoại thùy gia thanh mấn ca

Tràng ngâm thanh cách bích đào hoa.

Sầu sâm bút đế đê ngưng yếu,

Oán hướng phong tiền khiếu khổ ta.

Viễn tiếp phương hương sân điệp phấn,

Vi thông u ý hỷ song sa.

Khanh tu liên ngã đa tài nghệ,

Ngã khước liên khanh vị phá qua.

Dịch nghĩa:

Nàng xuân nữ đẹp có mái tóc xanh ở lầu kia là người nhà ai?

Nghe tiếng nàng ngâm thơ ở bên bức tường hoa đào.

Nỗi sầu buồn ngưng đọng ở cây viết,

Niềm oán hận kêu than ở ngọn gió.

Hương thơm từ xa bay tới làm say con bướm,

Mừng khi thấy rằng qua tấm màn cửa ta hiểu nỗi lòng thầm kín của nhau.

Em nên yêu ta vì ta có nhiều tài nghệ,

Ta yêu em vì em đẹp như trái dưa non.

Tài hoa đến như Bạch Cư Dị mà cũng chỉ dám tự giới thiệu một cách hết sức khiêm tốn: “Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân. Tương phùng hà tất tằng tương thức: Ta và em cùng là người luân lạc ở chân trời này. Đôi ta gặp nhau, thương nhau cần gì phải quen biết nhau từ trước. Em đàn hay quá. Anh rất chịu em đàn. Em hãy vì anh đàn thêm vài khúc nữa. Anh sẽ vì em làm bài Tỳ Bà Hành. Để cho đời sau bọn chúng nó khi đọc bài Hành ghi lại cuộc gặp gỡ của đôi ta ở bến Tầm Dương này, chúng nó sẽ một là mần thơ, hai là sẽ ngượng mà nghỉ mần thơ luôn“. Tài hoa như Chu Mạnh Trinh khi tuyên ngôn tình yêu với Thúy Kiều cũng chỉ nhận mình là người đa tình – đa tình thì ai cũng có thể tự nhận được, chỉ cần chờ đợi sứ cố xảy ra để biết kẻ tự nhận đó có đa tình thật hay lại như cậu Đỗ Mục tự bào chữa cho tội bạc tình của cậu bằng câu: “Đa tình khước tự tổng vô tình: Đa tình nhiều lúc giống vô tình“…

Khác với Bạch Cư Dị và Chu Mạnh Trinh, ma cô Sở Khanh ngang nhiên tự nhận gã là kẻ có nhiều tài nghệ và dụ dỗ Kiều: “Em nên yêu anh vì anh có nhiều tài”… Cứ kể ra thì Sở Khanh cũng có nhiều tài thật, dù đó chỉ là những tài vặt, song tài vặt cũng là tài. Có nhiều tên đàn ông chỉ cần có một cái tài vặt thôi là đủ thành công với đời, Sở Khanh có tới ba bốn cái tài vặt. Trước hết là tài sử dụng kế đà đao, hai là tài quất ngựa truy phong – câu này về sau trở thành một thành ngữ diễn tả việc thỏa mãn rồi là chàng cho nàng rơi cái rụp – tài trở mặt và tài làm thơ. Thơ mà ví người đẹp với “trái dưa non mơn mởn” thì ngon lành nhất rồi. Ba tiếng “vị phá qua” trong thơ của thi sĩ Sở Khanh theo như sự hiểu biết về tiếng Hán ăn đong của anh thì đó là quả dưa non hoặc quả dưa chưa chín, chưa bị nứt. Ví von đến như vậy thì cũng chỉ có những thi sĩ chân chính nhất cõi đời này mới có thể ví được. Công tử Hà Đông bèn có thơ vịnh:

Sở Khanh

Chải chuốt hình dong, mịn áo khăn,

Ăn chơi xuống dốc hóa chơi ăn.

Đà đao nghe mụ, hai tay lật,

Tích Việt lừa em, miệng một lằn.

Ba mươi sáu chước, chuồn là nhất,

Chín mười năm ấy, nợ còn căm.

Truy phong sẵn ngựa sao không quất?

Một nhát bà cho, hết đội khăn.

Em yêu dấu,

Nhân chuyện Sở Khanh, anh vừa nhắc đến Chu Mạnh Trinh, một người làm thơ vịnh Kiều trước anh tới gần đúng 100 năm. Nhân đây anh kể em nghe sơ qua về lịch sử những vụ làm thơ vịnh Kiều ở nước ta kể từ ngày Nguyễn Du viết xong Truyện Kiều.

Theo số tài liệu ít ỏi mà anh có được trong Hoàng Hạc Lâu Ông Tạ của anh thì Nguyễn Du mất tại Huế ngày 16 tháng 9 năm 1820. Cũng vào năm 1820, Truyện Kiều của Nguyễn Du được in thành sách. Trong bản Truyện Kiều in năm 1820 có bài tựa của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân. Kể từ đó những bài bình Kiều, luận Kiều và thơ Vịnh Kiều liên tiếp ra đời. Nhưng đó là công trình của những cá nhân riêng lẻ. Đại hội bình luận vịnh Kiều có tính cách quốc gia đầu tiên là do vua Minh Mạng tổ chức năm 1830. Nhà vua cùng các quan văn cùng làm thơ vịnh Kiều và những thi phẩm này sau đó được in thành một tập gọi là Thanh Tâm Tài Tử cổ kim minh lương đề vịnh tập biên. Năm 1871, vua Tự Đức tổ chức cuộc làm thơ vịnh Kiều lần thứ hai. Năm 1905, Tổng đốc Hưng Yên tổ chức cuộc thi thơ vịnh Kiều. Em yêu ơi, anh không nhớ tên ông Tổng đốc này là Từ Đạm hay Lê Hoan. Nếu giờ anh ngừng viết để tìm chi tiết này thì chưa biết đến bao giờ anh mới viết xong được cho em bài này. Vậy thì em cứ xính xái cho qua, em chỉ cần biết rằng đó là cuộc thi thơ do Tổng đốc Hưng Yên tổ chức năm 1905 và Chu Mạnh Trịnh là người chiếm giải nhất cuộc thi này. Đây là bài thơ Chu Mạnh Trinh vịnh:

Sở Khanh

Những tưởng chim lồng chắp cánh bay,

Họa khi vận rủi có hồi may.

Làng nho người cũng coi ra vẻ,

Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay.

Hai chữ tin hồng trao gác nguyệt,

Một roi vó ký tếch đường mây.

Mẫu đơn vùi dập cơn mưa gió,

Cái nợ yên hoa khéo đọa đày.

Anh thấy hai câu “Làng nho người cũng coi ra vẻ; Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay” là hai câu diễn tả Sở Khanh tuyệt cú mèo. Nghe nói rằng trong ban giám khảo cuộc thi thơ Vịnh Kiều Hưng Yên 1905 có Nguyễn Khuyến. Và Nguyễn Khuyến với Chu Mạnh Trinh không ưa nhau. Hai ông này cùng đỗ tiến sĩ, cùng làm quan to, cùng yêu văn nghệ và cùng mần thơ. Hai ông chỉ không làm quan cùng thời với nhau. Khi Chu Mạnh Trinh đang hiển đạt thì Nguyễn Khuyến đã già, đã về hưu. Giám khảo Nguyễn Khuyến có phê vào bài Vịnh Sở Khanh của Chu Mạnh Trinh hai câu:

Rằng hay thì thật là hay

Nho đối với xỏ lão này không ưa.

Nguyễn Khuyến không ưa việc Chu Mạnh Trinh dùng hai tiếng “bợm xỏ” đối với “làng nho”. Hai vị tiền bối này tài hoa ngang nhau, mỗi người một vẻ, chẳng ông nào kém ông nào. Song cứ như chuyện này thì anh thấy Nguyễn Khuyến có vẻ quá đáng. Ông ta tự cho cái giới gọi là “làng nho” của ông là thập phần cao quí, đối với “bợm xỏ” là làm mất giá trị của “làng nho”, dù đó chỉ là lời ví von để làm nổi bật hình ảnh một gã đàn ông có hình dung nho nhã nhưng tâm địa lại hết sức lưu manh, đểu cáng. Song Nho cũng có nhiều thứ Nho. Có Đại Nho, Hiển Nho, Đạt Nho và cũng có Tiểu Nho, Ẩn Nho, Hàn Nho. Có Ngu Nho, Hủ Nho và cả Khuyển Nho nữa. Có nho chùm, nho rời, ngọt, nho chua, nho xanh, nho tây, nho ta… Cứ khăng khăng cho rằng đã là nho thì chỉ có nho thơm chứ không có nho thối là thái độ thỉn cận và xuẩn ngốc. Nếu muốn người đời cho giới của mình là cao quí thì hãy sống cao quí. Đỏ mặt tía tai, sùi bọt mép khi có người khác nói chạm đến giới mình rồi thù hằn, tìm cách hãm hại người ta… là việc làm của bọn ngu muội. Bọn ngu muội ấy sẽ là tai họa cho xã hội khi chúng nắm được quyền hành.

Em hãy nghe một thi sĩ khác làm thơ vịnh Sở Khanh trước năm nay – 1992, năm anh viết gửi em những dòng này – tới 60 năm. Thi sĩ ấy là Tản Đà:

Xỏ lá ai bằng cậu Sở Khanh,

Kiếm ăn lại ở đám lầu xanh.

Mảnh tiên “Trích Việt” vừa khô mực,

Vó ngựa “Truy Phong” đã phụ tình.

Thôi với thanh lâu người một hội,

Chẳng qua hồng phấn nợ ba sinh.

Ba mươi lạng bạc đời Gia Tĩnh,

Để mãi ngàn thu tiếng Sở Khanh.

Tản Đà còn xuất bản quyển Vương Thúy Kiều do ông chú giải. Đây là đoạn thi sĩ nói riêng với Vương Thúy Kiều trong bài tựa:

Ôi em Kiều ơi,

Mười lăm năm trời!

Quan trải, tướng giặc trải, ba que xỏ lá trải, bán buôn Mường Mán trải,

Bể trần chìm nổi, kiếp hồng nhan nặng nợ thế ru mà,

Cũng không nên trách lẫn trời xa, oán lẫn trăng già

Phải biết chữ tài chữ sắc là cái độc trong mình và là đồ chơi cho người ta….

Em thấy đấy: chẳng phải anh là người đầu tiên gọi Thúy Kiều là em. Nếu anh có nét gì khác những vị tiền bối vịnh Kiều trước anh thì đó chỉ là: tất cả mọi người đều “tại gia vịnh Kiều” còn anh thì “tại ngục…”

TRĂM NĂM THỀ ĐẾN BAO GIỜ…

T

ruyện Kiều là tác phẩm có nhiều cuộc thề thốt nhất. Không phải tất cả nhưng gần như tuyệt đại đa số nhân vật trong Kiều cứ mở miệng ra là y như rằng thế, nguyền, cam kết, hứa hẹn.

Nhưng Truyện Kiều cũng là truyện tình trong đó những người thề ít giữ được lời thề nhất. Có thể nói tất cả những nhân vật thề ước trong Kiều đều, nếu không phản bội, cũng không giữ được lời thề.

Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúc Kỳ Tâm, ba nhân vật chính, thề thốt thật nhiều. Mỗi lần họ thề là họ lấy thời gian “trăm năm”:

Rằng: “Trăm năm cũng từ đây

Của tin gọi một chút này làm ghi.

Tiên thề cùng thảo một trương

Tóc mây một món, dao vàng chia đôi.

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng, một lời song song.

Tóc tơ căn dặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

Đã nguyền hai chữ đồng tâm

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.

Đấy là những lời cô cậu Thúy Kiều - Kim Trọng thề thốt mí nhau. Toàn đao to búa lớn: Trăm năm cưa, năm bảy năm hổng thèm đâu…

Cậu Thúc Kỳ Tâm sợ vợ vô đọich võ lâm cũng cứ mở miệng ra là nói đến “trăm năm”. Thề nguyền đến như Công tử Vô Tích Chạp Phô kiêm thi sĩ Kim Chỉ, Giải Rút đúng là thề vung xích chó:

Trăm năm tính cuộc vuông tròn

Phải dò cho đến ngọn nguồn, lạch sông.

Nhưng khi cậu thấp cơ, thua trí đàn bà; vợ lớn của cậu bắt cóc vợ bé của cậu đem về nhà hành hạ, cậu chỉ biết khóc hận, cười đau nhưng cậu vưỡn cứ hung hăng con bọ xít:

Quản chi lên thác, xuống ghềnh

Cũng toan sống thác với tình cho xong.

Nhưng mà:

Tông đường chút lửa cam lòng

Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.

Cậu rất muốn bỏ hết để đi với em đến những nơi cuối bãi đầu ghềnh, sơn cùng thủy tận. Nhưng cậu chỉ muốn cái mồm thôi, cậu hổng đi. Lý do cậu đưa ra để hổng đi mí em là một lý do yếu xìu:

- Tại vì anh chưa có con để nối dõi nên anh hổng thể nào đi mí em được!

Lạ nhẩy! Anh hổng đi mí em vì anh chưa có con trai nối dõi? Dzậy thì đi mí em anh hổng có con được hay sao? Tại sao anh cứ nhất định phải có con mí Hoạn Thư mới được? Con Hoạn Thư đẻ ra mới là con anh, còn con em đẻ ra hổng phải con anh sao? Hoạn Thư nó về làm vợ anh đã lâu rồi, ít nhất anh cũng đã vất vả với nó năm mùa lá rụng. Mà nó vẫn chưa có con tức là còn lâu nó mới có con. Còn em đây phới phới hơn nó nhiều. Bộ em không đẻ được con cho anh nối dõi tông đường hay sao? Đừng có nói dzậy! Muốn em hổng đẻ thì hơi khó chứ muốn em đẻ thì dễ ợt!

Thi sĩ tạp hóa Thúc Kỳ Tâm ngoài cái tật sợ vợ, còn thuộc loại những anh chồng mà ông cha ta gọi là có hành động “bỏ vợ còn mó… tay theo”. Cậu bảo ni cô bỏ chùa trốn đi cho mau, cho xa:

Liệu mà xa chạy, cao bay

Ái ân ta có ngần này mà thôi.

Nhưng cậu vưỡn cứ hy vọng một ngày đẹp trời, cậu và nàng sẽ lại được đoàn tụ gia đình trong vòng trầy trật:

Bây giờ kẻ ngược, người xuôi

Biết bao giờ lại nối lời nước non.

Cậu còn nói lời cuối “Anh yêu em mãi mãi”:

Dẫu rằng sông cạn, đá mòn

Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ

Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng tình anh yêu em vưỡn còn mãi mãi. Đến lúc anh ngáp ngáp, anh vưỡn còn yêu em.

Anh yêu em nhưng bỏ vợ để đi mí em thì anh hổng đi. Thúc Kỳ Tâm chưa được là “nhà buôn”, cậu chỉ là “con nhà buôn”. Cậu ăn chơi vung vít nhờ tiền của anh bố ký cóp. Suốt đời cậu chẳng kiếm ra được một đồng xu teng. Cậu chuyên khuân tiền nhà đi ăn chơi. Cậu là thứ phá gia chi tử chân chính. May cho ông già Thúc Ông ba phải chưa đến số sập tiệm, ông chỉ mới vắng mặt ở cửa tiệm Lâm Tri có nửa năm, ông mà láng cháng vắng mặt thêm nửa năm nữa là bao nhiêu vốn liếng sẽ tiêu tán thoòng…

Thúy Kiều thề sẽ đợi chờ Kim Trọng suốt đời. Nhưng chỉ mới ba tháng sau ngày Kim công tử về Liêu Dương áp tải quan tài, nàng đã:

Thề hoa chưa ráo chén vàng

Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Ôi Kim lang… Hỡi Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Thúy Kiều không giữ được lời thề vì nàng là nạn nhân của tai họa xảy đến với gia đình nàng, nàng là phụ nữ, nàng bị động. Bọn đàn ông thề và phụ thề trong Kiều mới là bọn đáng ghét. Thúc Kỳ Tâm ba hoa:

Đường xa chớ ngại Ngô, Lào

Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.

Nhưng khi vợ lớn cậu ra tay, hạ độc chiêu, cậu chỉ biết than dài:

Thấp cơ thua trí đàn bà

Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời.

Kim Trọng ngoài việc là chưởng môn Hoa Thơm Đánh Cả Cụm, còn là một chuyên viên “mồm miệng đỡ chân tay”. Khi từ Liêu Dương trở lại vườn Thúy, thấy Thúy Kiều đã lên xe bông về nhà chồng, cậu lăn đùng ngã ngửa, cậu giẫy đành đạch như đỉa phải vôi. Cứ nghe cậu trình diễn nhiều màn thảm thiết làm người ta tưởng cậu chết đến nơi:

Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa

Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai.

Đau đòi đạn, ngất đòi thôi

Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê.

Cậu hung hăng thề - lại thề - loạn cào cào:

Bao nhiêu của, mấy ngày đàng

Còn tôi, tôi quyết gặp nàng mới thôi.

Thế rồi cậu về sửa sang chốn vườn hoa - vườn Lãm Thúy, nơi cậu mượn điều du học hỏi thuê - cậu rước ông bà viên ngoại đến ở cùng nhà. Cũng kỳ. Cậu lấy tư cách chi mà chiêu đãi, phục vụ ông bà Vương Viên Ngoại quá cỡ thợ mộc đến thế? Ông bà Vương sau chuyến đi tù về hết nhẵn tiền bạc, nên sẵn sàng chịu ơn một anh chàng chẳng có họ hàng, dây mơ rễ muống chi hết là chuyện thường tình. Chỉ có điều hơi phiền là ông bà về ở chung mí anh thì em Thúy Vân nó cũng theo về ở chung, ra vô đụng chạm. Anh ruột cũng hổng phải nốt. Khó ăn, khó nói. Chi bằng con chị nó đi, con dì nó thế. Mà công tử thì đúng là sắp chết đến nơi, sắp chết đến nỗi trên cái cõi đời này hổng còn ai có thể sắp chết hơn được nữa:

Sinh càng thảm thiết, khát khao

Như nung gan sắt, như bào lòng son.

Ruột tằm ngày một héo don

Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve.

Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê

Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao…

Công tử khóc ghê quá, Công tử khóc đến ra máu ở mắt. Người đời thường chỉ ho ra máu, ít thấy ai khóc ra máu như Công tử.

Phải cứu mạng Kim công tử khẩn cấp. Khóc ra máu như thế, lúc tỉnh lúc mê như thế, Công tử ra nghĩa địa đến nơi rồi. Công tử ngoẻo củ tỉ là cái chắc! Điều kỳ diệu xảy ra - chuyện thuộc loại khó tin nhưng có thật - ông bà Vương Viên Ngoại không phải là lang thuốc nhưng lại bốc thuốc điều trị cứu mạng Công tử rất mát tay. Ông già Vương trông lù khù thế mà hốt thuốc cao tay hơn cả Hoa Đà, Biển Thước.

Vương lang băm chỉ bốc có một thang thuốc thôi, nhưng là thang tiên dược, thần dược. Công lực của thang thuốc thần hiệu không biết đến thế nào là cùng. Kim bệnh nhân đang mê sảng, khóc ra máu, mắt trợn trắng, miệng ngáp ngáp, mấy ngón tay đã bắt chuồn chuồn, nằm thẳng cẳng ngay đơ cán cuốc… Nhưng chỉ cần thang tiên-thánh-thần-nhân-dược này đưa đến là kẻ sắp vào quan tài nhỏm ngay dậy đi hớt tóc, cạo râu, tắm, lên bộ com-lê ca-la-hoách, leo xe bông đến nhà thờ cho cha làm phép cưới, cặp tay ôm eo ếch cô dâu cùng uống ly rượu hôn phối ở nhà hàng rồi về ô-ten động phòng hoa chúc như máy…

Vương Viên Ngoại đã bốc thang thuốc thần sầu quỉ khốc nhân kinh ấy cứu mạng Kim công tử. Đừng có mê tín thuốc tây, thuốc ta mới là số dzách! Không phải tìm kiếm đâu xa, cái gọi là thuốc cải tử hoàn sinh ấy thường có sẵn ngay trong nhà hay ở gần nhà. Anh nào có phúc là anh ấy gặp thuốc. Kim công tử số chưa đến ngày hui nhị tì nên đã may mắn được gặp thang thuốc đó. Đang sắp chết cậu tươi lại, tỉnh ra, đầu óc sáng như gương tàu, cậu hết còn mê sảng, cậu dùng thuốc dài dài mỗi ngày và cậu học đâu nhớ đấy, học một biết mười. Sau khi có thuốc được mấy niên, cậu đi thi bèn đỗ tiến sĩ.

Bi giờ Kim công tử không còn sắp chết nữa. Đôi khi công tử cũng thoáng nhớ thương Thúy Kiều:

Nỗi nàng nhớ đến bao giờ

Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng.

Công tử được cái hơn người là:

Khi ăn ở, lúc ra vào

Càng vui duyên mới, càng dào tình xưa.

Điều này có nghĩa là cậu càng dzui mí Thúy Vân chừng nào thì cậu lại càng nhớ thương Thúy Kiều chừng ấy. Chung tình đến như cậu mới thiệt là chung tình.

Công tử thề nhất quyết phải được gặp lại Thúy Kiều dù phải tốn bao nhiêu tiền của, mất mấy ngày đàng. Nhưng ta thấy công cuộc tìm kiếm người mất tích trong khi thi hành công vụ của cậu có vẻ hơi lửng lơ con cá vàng theo kiểu làm cho có:

Đinh ninh mài lệ, chép thư

Cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe

Biết bao công mượn của thuê…

Công thì cậu mượn người khác làm. Tiền cậu bỏ ra thuê người khác thế, cậu ở nhà cậu phục thuốc mỗi ngày. Dường như Tố Như, người từng ca tụng Kim công tử với những lời hết xẩy: “Thông minh tài mạo tót vời. Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa” và “Văn chương nét đất, thông minh tính trời” đến những đoạn về sau cũng có ý phê phán thái độ tìm kiếm bôi bác và “hoa thơm đánh cả cụm” của đương sự. Ta thấy ẩn ý của Tố Như trong hai câu:

Cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe

Biết bao công mượn, của thuê…

Tìm kiếm, tìm gấp, tìm kỹ, tìm ra, tìm dzô, tìm về, tìm đi, tìm vợ, tìm hiểu, tìm chỗ, tìm vết… v… tìm gì cũng được nhưng “tìm tõi” nghe mới bôi bác làm sao! Đã “tìm tõi” lại còn “nhắn nhe”… Nhắn tin, nhắn miệng, nhắn nhủ, nhắn gì cũng được nhưng “nhắn nhe” nghe hổng được chút nào!

Việc dượng Kim Trọng lấy dì Thúy Vân không có gì xấu hay đáng chê trách hết. Không những không phải là việc xấu, việc đáng chê trách mà còn là việc làm thông thường của tất cả những ông anh rể quí trên cõi đời này. Những ông anh rể này không những chỉ thương yêu vợ mình mà còn thương yêu luôn cả hằm bà lằng những cô em vợ. Nhưng khi đã “vui duyên mới” rồi thì cậu không nên trình diễn những màn “dào tình xưa” nữa. Nhất là cậu đừng có mở miệng nói những câu đao to búa lớn:

Bình bồng còn chút xa xôi

Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an.

Rắp mong treo ấn, từ quan

Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng pha.

Giấn mình trong áng can qua

Vào sinh, ra tử họa là thấy nhau.

Cậu dọa treo ấn từ quan nhưng cậu hổng có làm thật, còn lâu cậu mới từ quan, treo ấn. Còn chuyện giấn mình trong áng can qua thì cậu giấn mồm thôi. Sức mấy cậu chịu liều mạng công tử bột vào sinh ra tử tìm Kiều.

Cậu mặt trơ trán bóng chạy tội bằng mấy câu:

Nghĩ điều trời thẳm vực sâu

Bóng chim, tăm cá biết đâu mà tìm.

Những là nấn ná đợi tin,

Nắng mưa đã biết mấy phen đổi dời.

Chèng đéc ơi! Nấn ná là năm bữa nửa tháng, một hai niên…. Nấn ná những đến mười lăm mùa lá rụng thì còn gì là tuổi xuân của con nhà người ta nữa? Sốt sắng bảo lãnh thì chỉ năm năm là đoàn tụ với nhau rồi. Nấn ná đến mười lăm niên mới chi vé máy bay cho em sang thì “còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi”…

Thiên hạ nặng lời thề thốt, hễ mở miệng ra là “trăm năm”: Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Rằng trăm năm cũng từ đây. Trăm năm tính cuộc vuông tròn… Không những xài vung xích chó chữ “trăm năm”, người ta còn khiêng cả “ngàn năm” vào cuộc tình của người ta nữa: Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ…

Nhưng chỉ số thời gian của những nhân vật Kiều không phải là “trăm năm” mà dài lắm chỉ vài năm, ngắn là nửa năm. Thời gian “nửa năm” được dùng thật nhiều trong Kiều:

Nửa năm hơi tiếng vừa quen

Sân ngô, cành bích đã chen lá vàng

Giậu thu vừa nẩy giò sương

Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.

Kỳ Tâm đến với Thúy Kiều ờ lầu Ngưng Bích những ngày đầu xuân, đưa nàng ra khỏi vòng khai thác của Tú Bà vào mùa hạ. Bây giờ là mùa thu, Thúc ông được tin cấp báo anh con bốc trời ăn chơi phá của quá cỡ thợ mộc vừa lấy cô vợ chơi bời, bèn hỏa tốc phóng xế về Lâm Tri phá đám:

“Nửa năm hơi tiếng vừa quen” là nửa năm đầu tiên trong Kiều.

Thúy Kiều xuống giá cùng với thời gian. Mã Giám sinh mua nàng với giá bốn trăm lạng. Thúc Kỳ Tâm chuộc nàng với khoảng ba trăm lạng. Đến Từ Hải thì giá nàng chỉ còn khoảng trên dưới hai trăm. Nhưng thời gian Từ Hải sống chung với nàng thì vẫn thế, vẫn chỉ là “nửa năm”:

Nửa năm hương lửa đang nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Kỳ Tâm - Kiều nửa năm. Từ Hải - Kiều sáu tháng. Thời gian của cậu Kim Trọng mới thật ly kỳ. Khi tạm biệt Kiều để về Liêu Dương hộ tang ông chú lắm chuyện bày đặt đã không có con lại lăn đùng ra chết ở nơi xứ lạ quê người bắt anh cháu đưa đón, Công tử đau khổ hẹn nàng:

Ngoài nghìn dặn, chốc ba đông

Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy.

Gìn vàng giữ ngọc cho hay

Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.

Ta thấy rõ ràng Công tử nói: “Anh phải xa em đến ba mùa đông. Em chịu khó giữ nguyên chờ anh trở lại…” Nhưng sau đó ta lại thấy:

Từ ngày muôn dặm phù tang

Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà

Vội sang vườn Thúy dò là…

Như vậy là đáng lý phải xa cây mít vườn Thúy đến ba niên, Công tử chỉ làm công việc phù tang qua quít - tiếng Tây bồi gọi là “qua loa rơ măng” - trong có sáu tháng là phú lỉnh trở về vườn Thúy. Kể ra công tử làm như dzậy cũng đúng thôi. Hộ tang gì mà đến những ba niên? Quá ư lãng phí thời giờ vô ích. Đến cái năm Gia Tĩnh triều Minh ấy, xã hội Ba Tàu đã tiến bộ văn minh rồi. Nam nữ không còn bị kềm kẹp trong những phong tục cổ hũ di truyền từ đời những ông Khổng Khâu, Mạnh Kha mới cưới vợ. Qua tác phẩm Kim Vân Kiều, ta thấy trai gái đời Gia Tĩnh triều Minh không còn tuân thủ cái luật gọi là “nam nữ thụ thụ bất thân” nữa. Kim Trọng - Thúy Kiều đã công khai gặp nhau ở nghĩa địa. Thời gian lúc ấy là buổi chiều tà tà bóng ngả về tây nhưng chiều tà cũng vưỡn là thanh thiên bạch nhật. Trinh nữ Thúy Kiều còn văn minh hiện đại hơn rất nhiều em trinh nữ Mít thời nay - những năm cuối cùng của thế kỷ hai mươi trần ai khoai củ - với việc nửa đêm nàng chui hàng rào sang vi-la Kim Trọng tự tình, thế thốt, ký hợp đồng hai chiều, cắt tóc, uống rượu, mần thơ, gảy đàn, lả lơi, xiêu xiêu v.v…

Nếu cứ theo đúng luật pháp cư tang do những ông nho chùm đời xửa đời xưa để lại thì lôi thôi, rắc rối đến cái độ người ta chẳng còn mần ăn chi được. Bố mẹ chết là anh con phải cư tang ba niên. Cư tang như thế nào? Phải sống như thế nào khi cư tang? Kể sơ thôi cũng thấy rợn tóc gáy, ớn cả da gà lẫn da vịt:

Phải làm nhà lá che phên cạnh mộ bố mẹ, phải ăn ngáo ở đầy liền tù tì trong ba niên. Trong ba niên ấy không được ăn thịt, uống rượu, cười cợt; không được đàn ca hát xướng - tất nhiên cư tang mà xem video, nghe CD là không được. Không được cả tắm, rửa mặt, gội đầu, đánh răng súc miệng trong ba niên. Xin nhắc lại: ba niên. Nặng nhất, tàn ác nhất, đau thương nhất là trong ba niên cư tang dài đằng đẵng hơn ba mươi thế kỷ ấy, anh con cư tang không được gần vợ lớn, vợ bé lẫn tình nhân. Nếu trong ba niên cư tang mà anh nào vô phúc làm vợ lớn, vợ bé có chửa là cuộc đời đi vào chu kỳ đen hơn mõm chó mực. Phạm cái tội bất hiếu tày trời này, can phạm sẽ bị dư luận chê bai. Nếu là thư ờng dân thì bị quan cai trị địa phương bắt nộp phạt. Nếu là quan lại tại chức mà phạm tội sẽ bị các ông Ngự sử đàn hặc, tâu lên nhà vua; đang là thái thú, thứ sử, tư mã, có thể bị giáng xuống chức chấp kích lang mặc áo dấu, đi chân đất, vác kích, súng hỏa mai, đứng ghếch cửa….

Nhưng… như đã nói, may quá, đó là chuyện đời xưa. Bỉ nhất thời, thử nhất thời… Đời ấy khác, đời này khác. Bộ hình luật cư tang ác ôn côn đồ ấy đã bị thủ tiêu nhẵn thín, còn chăng là trong những trang sách sử mốc thếch chẳng ai thèm đọc; có đọc, có viết lại thì cũng chỉ với mục đích nhắc cho nhau nhớ thời đại chúng ta con người đã sung sướng lắm rồi. Ít nhất những anh con chí hiếu đã có thể để tang, thương nhớ bố mẹ trong trái tim, cư tang suốt đời chứ không còn giới hạn ba niên ngắn ngủi nữa. Thực ra bọn đàn ông hèn nhát đã không có can đảm tự cởi bỏ những gông cùm, xiềng xích cư tang nếu không có những người đàn bà đứng sau lưng thúc đẩy họ. Những người phụ nữ đã dũng cảm quyết liệt phản đối cái luật ép buộc chồng, tình nhân của họ ba niên không được rửa mặt, gội đầu, xem xi-nê…

Sự kiện rõ ràng, không cãi bàn chi được là Kim Trọng đáng lẽ phải hộ tang xa ngàn dặm đến ba niên - như chính lời cậu nói - chỉ hộ tang có nửa năm là dzọt lẹ trở về Vườn Thúy.

Thời gian trong Kiều thực tế là mười lăm năm:

Mười lăm năm, tám cuộc tình

Bốn tên chết bởi cô mình oan gia…

Tuy người ta luôn miệng nói đến “trăm năm” nhưng trước sau, dài ngắn chỉ là mười lăm năm thôi. Trong mười lăm năm ấy có ba cái “nửa năm”:

Nửa năm hơi tiếng vừa quen

Sân ngô, cành bích đã chen lá vàng

Nửa năm hương lửa đang nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phư ơng.

Từ ngày muôn dặm phù tang

Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.

Công tử Hà Đông tại ngục Chí Hòa vịnh Kiều, tính thời gian thiên hạ nói: “trăm năm” nhưng yêu nhau không dài quá năm năm: Thúy Kiều - Kỳ Tâm hai niên. Thúy Kiều - Từ Hải năm niên. Thiên hạ nói thì nhiều xong yêu chẳng bao nhiêu. Cảm khái, Công tử bèn mần thơ:

Mấy thu trăng đến chùa này

Mấy thu em ở, một ngày em đi.

Tình đi, người cũng từ ly

Vàng phai, đá nát còn gì nữa đâu.

Mấy thu trăng đứng trên đầu,

Mấy thu tơ đã phai màu vàng tơ.

Trăm năm thề đến bao giờ

Mấy thu người đã hững hờ chia tay.

THỀ SAO THÌ LẠI CỨ SAO…

N

hững nhân vật phụ trong Kiều cũng thề nguyền vung tán tàn. Cả ba anh Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh đều sẵn sàng thề nguyền và thề thật nặng. Đây là lời Mã Giám Sinh thề với ông bà Vương Viên Ngoại: “Nếu Mã Quy đem lòng phụ bạc lệnh ái thì thân này sẽ bị đao kiếm băm vằm ra muôn mảnh…”

Đây là lời thề của Sở Khanh: “Nếu ta phụ bạc nàng hay để cho nàng bị khổ nhục thì thân ta sẽ bị muôn ngàn sâu bọ đục khoét tơi bời…”

Và đây là lời thề của Bạc Hạnh: “Nếu tôi phụ bạc Vương Thúy Kiều tôi sẽ chết dưới một ngàn mũi đao…”

Tố Như chỉ tả sơ sơ cuộc ân đền, oán trả của Vương phu nhân chánh án tự phong:

Lệnh quân truyền xuống nội đao

Thề sao thì lại cứ sao gia hình.

Máu rơi, thịt nát tan tành

Ai ai trông thấy hồn kinh, phách rời.

Mơ hồ thôi. Nhưng nếu đọc tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử, ta thấy cuộc trả thù cực kỳ rùng rợn. Dưới đây là đoạn trích trong tác phẩm Truyện Kiều đối chiếu, bản dịch tiếng Việt của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, sách do nhà Văn Hóa - phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa Việt Nam Cộng Hòa xuất bản năm 1971:

Một hôm Thúy Kiều kể những chuyện ân oán đến với nàng ở thành Lâm tri, Từ Minh Công nói:

- Ta sẽ cho năm vạn tinh binh đến quét sạch cái thành đó để trả thù cho phu nhân.

Thúy Kiều vội thưa:

- Chỉ có mấy tên Mã Bất Tiến, Tú Bà, Sở Khanh có tội mà thôi. Xin Đại vương ra lệnh cho tướng sĩ nhất thiết không được làm hại ai khác.

Từ Minh Sơn sai kiện tướng Sử Chiêu lãnh việc tế tác, mang một tiểu đội biệt kích giả làm thường dân vào thành Lâm Tri do thám. Đội biệt kích này phục sẵn quanh nhà Tú Bà, chở đại binh đến là ập vào bắt sống bọn tội phạm đem về xử. Sai Đại tướng Hạ Báo lãnh một đạo quân đến huyện Vô Tích bắt Hoạn Thư và bà mẹ là Kế Thị, bắt bọn gia nhân Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển và hai tên Bạc Hạnh, Bạc Bà, vãi Giác Duyên ở Chiêu Ẩm am, bà quản gia nhà họ Hoạn thương xót Hoa Nô lén cho bông băng, cho thuốc, được lệnh quân mời đến như thượng khách.

Ngày tổng khởi binh tiến đánh Lâm tri, Từ Hải dành cho Thúy Kiều chủ tọa việc trọng đại là thệ sư. Truyện tả:

“Vương phu nhân đứng trên đàn rót rượu thệ sư, tướng sĩ nhất tề quì gối. Phu nhân khấn:

- Trời thẳm, đất dày xét cho lòng tôi. Núi cao, sông dài xin biết dạ này. Tôi là Vương Thúy Kiều, không may cha bị vu oan, phải bán mình chuộc tội, gặp phải bọn Mã Bất Tiến, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thị, Kế Thị, Bạc Hạnh, Bạc Bà bày mưu hãm hại. Nay nhờ uy linh Từ công, cất quân báo thù. Trước xin cáo với trời, đất, thần minh; sau xin xuất phát. Toàn thể ba quân chớ ngại cần lao, hãy vì ta mà phấn khích…

Hồi trống hiệu nổi lên, đội binh sĩ cầm cờ màu làm hô lớn:

- Giải bọn phạm nhân Vô Tích vào tòa.

Hạ Báo dẫn Hoạn Thư, Kế Thị, Khuyển, Ưng, Bạc Bà, Bạc Hạnh vào quì dưới sân.

Vương phu nhân chánh án tuyên bố tội trạng:

- Mụ Bạc đẩy người vào cạm bẫy, tên Bạc Hạnh bán người lương thiện vào nhà bất lương. Chặt đầu mụ Bạc nêu lên ngọn cây, tên Bạc Hạnh sẽ chịu tội theo đúng lời thề của mi. Mi sẽ bị đao kiếm băm vằm nát thân thể, lấy thịt đem cho ngựa ăn.

Đao phủ dạ ran, lập tức lôi Bạc Bà ra chặt đầu. Bạc Hạnh bị bó chiếu tròn như bó củi, ngoài quấn dây thừng thật chặt. Đao phủ dùng cưa cưa Bạc Hạnh từ chân lên đầu thành hơn một trăm đoạn. Xong, đem thịt Bạc Hạnh trộn với cỏ cho ngựa ăn.

Kế đó gọi đến phạm nhân Hoạn Thư.

Hoạn Thư gục đầu trên sân lạy van:

- Xin phu nhân tha mạng cho con đàn bà hèn hạ này…

Vương phu nhân nói:

- Hoạn tiểu thư… Ta cũng phải nhận chị là người nhiều mưu chước và có gan chịu đựng. Nhưng ở đời người ta đối xử với nhau còn có chút tình. Nay chị gặp lại ta nhất định không thể sống được.

Hoạn Thư khấu đầu lia lịa:

- Tội của tiện thiếp thật đáng muôn chết. Chỉ xin phu nhân nhớ lại giùm. Khi phu nhân viết tờ cung trạng tiện thiếp cũng động lòng thương xót, tiện thiếp đã để phu nhân ra viết kinh, niệm Phật ở Quan Âm Các. Rồi khi phu nhân bỏ đi, tiện thiếp không cho đuổi theo. Qua những việc làm ấy, chắc phu nhân cũng thấy trong lòng tiện thiếp vẫn kính yêu phu nhân chỉ vì chuyện chẳng đặng đừng xui tiện thiếp gây nên tội lỗi.

Vương phu nhân suy nghĩ rồi phán:

- Ta chỉ muốn lột da chị, ăn thịt chị để tiêu mối hận của ta. Nhưng chị nói cũng đúng. Nay ta tha chết cho chị vì khi ta đi chị đã không đuổi theo. Nhưng còn tội sống thì chị phải chịu.

Phu nhân lại nói:

- Những tên nào sang Lâm Tri bắt cóc ta? Khai thực đi. Những tên đó sẽ gành bớt một phần tội lỗi cho chị.

Hoạn Thư cúi đầu thưa:

- Tiện thiếp sai hai gia nhân Hoạn Khuyển, Hoạn Ưng sang Lâm Tri. Nhưng chúng chỉ là bọn thi hành mưu kế. Người chủ mưu là tiện thiếp. Chúng chỉ làm theo lệnh tiện thiếp. Nếu bắt chúng gánh tội thay thì tiện thiếp không nỡ.

Phu nhân khen:

- Khá lắm. Đến lúc này chị còn dám nhận hết cứu oán vào một mình chị ư?

Phu nhân truyền đao phủ đem hai tên Ưng, Khuyển ra chém đầu để cảnh cáo bọn hào nô, làm tiền án răn đe không cho bọn nô bộc hung hãn cậy thế nhà chủ, theo lệnh chủ, làm hại người khác.

Phu nhân truyền đánh Kế Thị - tức Hoạn bà, mẹ Hoạn Thư, vợ cố Tể tướng - ba mươi roi. Hoạn bà bị nọc cổ ra bắt nằm sấp. Hoạn Thư ôm chầm lấy mẹ xin chịu đòn thay. Mụ quản gia, người có ơn nghĩa với phu nhân năm xưa khi phu nhân là Hoạn nô, cũng quì xuống xin:

- Kính thưa lệnh bà, tội của bà chủ tôi thật không thể tha thứ. Tôi là tôi tớ của chủ tôi, xin được chết thay cho chủ.

Phu nhân phán:

- Vì bà quản gia, ta tha cho mụ Hoạn. Bà lãnh mụ đi khuất mắt ta.

Mụ quản gia tạ ơn, rồi vựa Hoạn bà ra ngoài tòa. Hoạn bà tuổi đã ngoài sáu bó, lại là một vị nhất phẩm phu nhân, cả đời không bao giờ bị cực khổ đến thân, nay bị bắt từ huyện Vô Tích giải đến Lâm Tri, chịu bao nhiêu khổ sở, lại thấy cảnh chém đầu, cưa thân người quá đỗi ghê gớm nên tuy được tha vẫn đứng tim chết ngay. Mụ quản gia đành ngồi canh thi thể bà chủ.

Phu nhân truyền lệnh cho bọn cung nữ trị tội Hoạn Thư bằng cách lột trần, treo lên, đánh một trăm roi.

Cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo quần, chỉ để một cái khố. Tóc Hoạn Thư bị buộc lên cây xà ngang, hai tay, hai chân bị buộc dây kéo dang ra. Hai cung nữ khỏe mạnh cầm roi ngựa. Một em đứng trước, một em đứng sau, cứ thế quất roi lên trước mặt, sau lưng Hoạn Thư.

Hoạn Thư như con đỉa bị bỏ trong thùng vôi, như con lươn trong nồi nước nóng, quằn quại, rên la. Toàn thân trước sau chẳng còn miếng da nào lành lặn.

Cung nữ báo cáo đã đánh can phạm đủ một trăm roi, phu nhân truyền lệnh đưa can phạm ra cho chồng nhận lãnh.

Cung nữ cởi tóc Hoạn Thư, lôi ra ngoài giao cho Thúc Kỳ Tâm. Thúc Kỳ Tâm thấy Hoạn Thư toàn thân rách nát, chỉ còn thoi thóp thở, bèn cảm khái mà than rằng:

- Em ơi, cái thông minh sắc sảo của em nó làm em rước tai họa vào thân. Tự em cầm dao cắt thịt em đấy.

…..

Cai tù giải bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh vào tòa.

Phu nhân ngồi trên cao hỏi xuống:

- Tú Bà, mi có biết ta là ai không?

Tú Bà quì mọp:

- Thưa lệnh bà, tôi không được biết.

Phu nhân thét:

- Ngóc đầu lên nhìn xem ta là ai…

Cai tù túm tóc Tú Bà kéo giật ra đằng sau. Tú Bà nhìn lên mới nhận ra lệnh bà là Vương Thúy Kiều:

- Xin lệnh bà tha cho…

Phu nhân cười lạnh:

- Lúc này mi còn mơ tưởng đến chuyện sống ư? Lời mi thề với ta năm xưa mi quên rồi sao?

Lệnh bà truyền:

- Lôi con mụ này ra, lấy dầu nhựa tông đun sôi tẩm lên người nó, dựng ngược đầu nó xuống đất, chân chổng lên trời, châm lửa đốt như ngọn đèn trời đúng như lời nó thề ngày trước.

Mã Bất Tiến - tức Mã Giám Sinh, tội nhân đứng đầu bảng can phạm Lâm Tri - bị kẹp chân tay vào những mảnh gỗ, căng thẳng, bị đao phủ dùng dao rạch da, moi gân ra cắt cho toàn thân rã rời đúng với lời gã thề.

Trong sân tòa án còn một vạc dầu thông trộn vỏ cây gai nấu sôi sùng sục, một vạc nước lạnh. Sở Khanh bị lôi đến giữa hai cái vạc này, bị lột quần áo, trói quì vào cây cột. Một cai tù múc dầu thông sôi tưới lên người Sở Khanh, một cai tù múc nước lạnh tưới theo.

Tú Bà bị quấn thành cây sáp lớn, Mã Giám Sinh bị căng xác, Sở Khanh trần truồng bị trói như con heo chờ đợi nước sôi cạo lông.

Vương phu nhân ban lệnh:

- Hành hình…

Lửa được châm vào cây sáp Tú Bà.

Mã Giám Sinh bị khoét thịt, đao phủ dùng lưỡi câu móc gân ra cắt. Xác Mã Quy bị quăng ra biển cho cá nóc ăn.

Sở Khanh bị tưới dầu nhựa thông sôi rồi tưới nước lạnh, thân thể biến thành cây thịt bầy nhầy máu mủ. Quân sĩ bóc miếng vỏ gai trên đầu gã xem gã còn sống hay đã chết, óc gã nhoe nhoét chảy ra ngoài…

Trạc Tuyền em có…

Bọn bất lương ác ôn chúng nó hại đời em, chúng nó làm hại đời em, chúng nó làm em đau khổ, em trả thù chúng nó khi em lên bà cũng được đi. Nhưng em trả thù mà em hành hạ chúng khủng khiếp đến như thế cũng là quá đáng đấy.

Vương Thúy Kiều tài sắc, trinh nữ, đa tình, đàn địch, thơ phú… bị lường gạt, bị gã lưu manh dân đãng hạ cấp phá trinh bị bắt làm gái chơi không phải là một lần mà những hai lần. Kiều bị bắt cóc, bị đánh đến tóe máu, phải tự tử đến những hai lần - một lần dao đâm cổ, một lần nhảy sông. Bị bắt làm con hầu, đày tớ, Vương Thúy Kiều có quyền trả thù nhưng làm cho kẻ thù phải đau đớn quá chừng thì cũng không nên, huống chi là ni cô Trạc Tuyền.

Ni cô cũng hai lần ở chùa gõ mõ tụng kinh. Một chùa Quan Âm các, một chùa Chiêu Ẩm am. Không những chỉ ở chùa đốt nhang đèn, gõ mõ, tụng kinh, ni cô còn chép kinh nữa. Ni cô tu ba niên ở Quan Âm các, ít nhất cũng một niên ở Chiêu Ẩm am. Bốn mùa lá rụng chứ có ít ỏi gì đâu. Tốn biết bao nhiêu nhang đèn. Nghe nói ni cô thông tuệ khác thường chắc ni cô phải thấm nhuần ít nhiều giáo lý từ bi hỉ xả nhiệm màu của đạo pháp. Cũng nghe nói ni cô đã được giọt nước cành dương tưới tắt hết mọi lửa lòng. Vậy mà sao ni cô lại hành hạ người ta tàn ác quá đến như thế?

Thịt da ai cũng là người

Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.

Khi chưa dzô cửa thiền, ni cô đã biết chân lý ấy. Người khác hành hạ, tra tấn ni cô làm ni cô đau đớn, ni cô cũng hành hạ, tra tấn người khác làm cho họ đau đớn thể xác hơn ni cô gấp bội. Vậy thì oan trái làm sao mà giải được? Ni cô phải đánh đàn cho nó nghe, chuốc rượu cho nó uống, phục vụ nó trong giường, rồi ni cô nhảy sông tự trầm là đáng lắm…

Sợ thay cho Thúy Kiều! Nợ máu kiếp này em không trả, em phải trả kiếp sau. Công tử Hà Đông bùi ngùi nghĩ đến chuyện phải chi lúc lệnh bà đang hung hăng con bọ xít hành hạ bọn Mã, Tú, Sở, Bạc… Công tử gọi nàng một tiếng:

-Trạc Tuyền!

Biết đâu nàng lại chẳng “hoắc nhiên đại ngộ” mà tha chết cho bọn tội nhân, nhờ vậy nàng thoát được cái gọi là nợ máu, tiền oan, túc trái. Biết đâu đấy? Kinh điển ghi chép chuyện có nhiều sư ông tu hành cả đời không biết mùi thịt đàn bà, da con gái ra nàm thao nhưng vưỡn cứ u mê mờ mịt. Bỗng một hôm sư ông quét vườn sau chùa, cây chổi quét mảnh sành văng vào gốc trúc, phát ra một tiếng “keng”. Thế là sư ông “hoắc nhiên đại ngộ” và sau đó nghiễm nhiên trở thành bồ tát.

Chuyện có thật mới được ghi vào kinh điển để lại cho đời sau chứ. Phải tin. Không tin là báng bổ. Vậy thì chỉ một tiếng mảnh chai văng dzô gốc tre và một tiếng “keng” thôi, sư ông kiếp tu hành nặng như đá đeo còn “hoắc nhiên đại ngộ”, huống chi cả một tiếng kêu thảng thốt:

-Trạc Tuyền!

Tiếc thay, Công tử Hà Đông đã không kêu lên được tiếng ấy cho nàng tỉnh ngộ. Rất có thể lúc ấy Công tử đang tá hỏa tam tinh, tối tăm mặt mũi, tay chân lập cập, đầu gối lỏng le lỏng lét, ngồi chồm hổm bên cạnh thân xác nát bét của em Hoạn Thư…

Điều biết chắc là đã không có ai gọi lớn tiếng “Trạc Tuyền” bên tai Chánh án Vương Thúy Kiều. Vì không ai gọi nên không có tiếng gọi, vì không có tiếng gọi thiêng nên Vương Thúy Kiều Trạc Tuyền đã không có cơ duyên “hoắc nhiên đại ngộ” mà quên hết oán thù, tha bổng tất cả các can phạm. Nếu nàng làm thế nàng đã không phải nhắm mắt nhảy xuống sông Tiền Đường.

Oán còn kết, oán chưa thôi

Trạc Tuyền, em có bồi hồi không em?

Em giết oan hai gia nô Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển - họ Hoạn ban đặc ân cho hai gia nô trung thành, đắc lực được mang họ Hoạn - em không thể lấy lý do “giết chúng để làm cho bọn gia nô những nhà quyền quí khác kinh sợ”. Em không thể ngang nhiên dùng sinh mạng của người khác vào việc thực hiện những ý muốn riêng của em. Em đã hành hạ quá tàn ác bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Bạc Hạnh, Bạc Bà… Những nạn nhân của em oán hận em. Em luân hồi trở lại nhân gian, bọn nạn nhân của em cũng luân hồi trở lại nhân gian như em vậy. Chúng đi khắp chân trời góc biển tìm em. Bi giờ, Trạc Tuyền… anh chắc em đã hiểu tại sao kiếp nào em cũng đoạn trường…

Ai ơi chớ có dại mà thề…

Sự kiện những anh Mã, Sở, Bạc… thề thốt vung xích chó rồi lãnh búa thê thảm, rùng rợn vì những lời thề độc ấy làm cho Công tử Hà Đông kinh sợ đến tắt ngúm đốm lửa lòng le lói.

Bài học luân lý giáo khoa thư lớp đồng ấu rút ra được từ những anh Mã, Sở, Bạc lẻo mép, miệng lưỡi dẻo quẹo chuyên môn thề thốt nặng lời là: Đừng có bao giờ thề. Nhất là đừng có dại mà thề với đàn bà, kể cả đàn bà đẹp vừa vừa với đàn bà đẹp ghê gớm…

Thề độc mà gặp giờ thiêng thì thân bại danh liệt, cuộc đời ái tình và sự nghiệp của mình chỉ từ chết ngoắc ngoải đến chết quằn quại chứ không thể nào khá được.

Nếu bắt buộc phải thề thì ta nên thề những câu vô thưởng vô phạt như vầy: Anh mà nói dối em thì anh làm con chó cả đời nằm dưới chân giường em…

Thề như vậy may ra còn được nàng để sống, đôi khi được nàng vuốt ve, nàng cho ăn bơ ăn sữa, nàng mang đi tắm…

Đừng có dại mà thề: Anh mà nói dối em thì máy bay nó cán anh. Đừng có thề như thế. Có ngày máy bay nó cán cho dẹp lép như cái bánh tráng!

SÓNG TÌNH EM ĐÃ…

N

gười đời quen bốc thơm, nâng bi Vương Thúy Kiều. Đây là thói quen a dua của đám đông. Nhưng yêu thương Kiều là một chuyện, đề cao những cái hay thì cũng phải xét đến những cái dở của Thúy Kiều. Đừng có nhắm mắt hếch mũi hít lấy hít để: Bất cứ ký gì của em cũng thơm ơi là thơm!

Những anh văn nô Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nồng nhiệt đề cao Thúy Kiều, nhắm mắt ca tụng Thúy Kiều hăng tiết vịt hơn những anh dzăng sỡi tư bản rất nhiều. Những năm u ám ở thành Hồ tôi từng đọc những dòng văn Xuân Diệu viết: “Với hành động nửa đêm sang nhà Kim Trọng tự tình, Thúy Kiều đã hiên ngang dẫm đạp lên lễ giáo phong kiến…” Đại ý cái câu ca tụng hăng say dì sư cụ ấy là vậy. Tất nhiên câu tôi vừa kể đây không nhất thiết là nguyên văn trong bài ca tụng Thúy Kiều của Xuân Diệu. Dường như đương sự còn tưởng tượng: “… Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường… trong đêm trăng ấy là những bước chân đạp lên mặt bọn đạo đức phong kiến…”

Tôi không thấy bực bội mà chỉ thấy buồn cười. Khỉ nắm! Nâng thì cũng nâng vừa phải thôi. Nâng quá người được nâng cũng khó chịu đấy. Ca tụng Thúy Kiều ký gì cũng được nhưng việc em nửa đêm chui lỗ chó sang nhà con trai tự tình thì hổng có thể nào ca ngợi được. Lễ giáo đời nào cũng vậy thôi. Lễ giáo thì không thể chia lễ giáo phong kiến, lễ giáo tư sản, lễ giáo vô sản. Lời khuyên, luật cấm con gái còn trinh cho thằng đàn ông - dù có yêu thằng ấy đến đâu chăng nữa - làm tình vung xích chó trên thân xác mình chính là để bảo vệ quyền lợi của người con gái. Bảo vệ quyền lợi chứ sao lại không? Giữ cho người con gái khỏi khổ sở, khỏi làm hại chính mình… có chi là xấu? “Nó chơi no nó bỏ tro vào“, đấy là lời vàng ngọc của các bà mẹ Bắc kỳ ngày xưa vẫn ra rả nói ngày đêm sáng tối vào lỗ tai những cô con gái.

Đúng vậy, thưa quí vị. Năm nay mái tóc không còn xanh nữa, tôi thấy lời khuyên ấy chí lý. Dù hung hăng con bọ xít đến mấy đi nữa, ta cũng không thể tán thành được việc Thúy Kiều nửa đêm mò sang nhà Kim Trọng. Đọc những lời ngớ ngẩn ca tụng việc làm này của Thúy Kiều, tôi vẫn cười tủm tỉm thầm hỏi những anh nâng bi:

- Anh tán thành việc vợ người ta, con gái người ta nửa đêm trèo tường, chui lỗ chó sang nhà đàn ông tự tình? Đây là vợ người, con người. Nhưng nếu vợ anh, con anh nửa đêm cũng trèo tường, chui lỗ chó sang nhà thằng phong tình bên cạnh, anh nghĩ sao?

Tất nhiên là anh sẽ thượng thổ, hạ tả, anh tối tăm mặt mũi, anh hộc ra mấy búng máu tươi, anh lăn đùng, ngã ngửa, anh giẫy đành đạch là cái chắc!

Người con gái khi về nhà chồng - chẳng còn ký gì sất - chỉ còn mối tình mang theo. Miệng chồng em gắn trên môi, Hình anh mắt ấy sáng ngời còn ghi… thơ mộng ra rít. Nhưng “người con gái mang theo mối tình về nhà chồng” ấy là vợ người ta, hổng phải vợ tui. Vợ tui về mí tui mà mang theo hình ảnh thằng đàn ông khác, khi nàng để tui hun mà nàng tưởng thằng khốn nạn đó hun nàng thì tui buồn lắm, tui hổng có chịu đâu!

Nam đáo nữ phòng năm tắc đạo

Nữ đáo nam phòng nữ tắc dâm.

Quân tử Tàu đã có nhận xét ấy từ ngàn xưa, ít nhất là hai ngàn năm nay rồi. Nhưng cho đến bi giờ, thời gian chúng sinh hí hửng và sầu buồn lê gót vào cái gọi là “đệ tam thiên niên kỷ”, đã có ai chứng minh được nhận xét đó là sai?

Gã con trai mò vào phòng ngủ người con gái không phải là “dzô coi chơi cho biết” mà chỉ là với mục đích lấy cắp, lấy trộm. Có thể lấy trộm nhiều thứ. Cứ gì cứ phải lấy tiền, nữ trang mới là lấy trộm! Còn chị con gái tự ý dấn thân vào phòng thằng đàn ông thì… y thị mò dzô làm chi trẻ con lên ba nó cũng dư biết.

Thúy Kiều lẳng lơ quá chời. Vừa gặp Kim Trọng ở nghĩa trang Bắc Việt, nàng đã mơ tưởng ái tình đến nơi đến chốn. Khi vờ vẫn để cho cành kim thoa mắc trên cành cây cho Cộng Tử Bột chuyên ve gái nghĩa địa vớ được và đi tìm, khi Công Tử Bột thò đầu lên ở bên kia tường đất, Thúy Kiều đã đứng lại tiếp chuyện ngay thay vì hổ thẹn quay về như tuyệt đại đa số những nàng trinh nữ khác. Vào thời Công Tử Hà Đông còn bé, mới lớn - đích xác là những năm 1940 của thế kỷ này - kể cả những năm 50, những nàng thiếu nữ Việt Nam chính cống vẫn đỏ mặt, líu lưỡi không nói năng gì được khi bất ngờ có thanh niên chặn lại thả lời ong bướm giữa đường. Thiếu nữ Việt Nam ta đàng hoàng như vậy chứ, đâu có…

Không những chỉ ái tình qua tường đất mà thôi, Thúy Kiều còn hung hãn chui rào sang nhà Kim Trọng. Đã sang buổi chiều, chưa đã; chín giờ tối khi trăng lên nửa trời nàng lại bổn cũ soạn lại, phăng phăng sang với Kim Trọng lần thứ hai. Lần này thì nàng mần nhiều trò với Kim Trọng: thề thốt, ký hợp đồng, cắt tóc, uống rượu, đàn địch…

Công Tử Bột Kim Trọng đêm ấy làm nhiều việc có làm cũng được mà không làm cũng chẳng sao. Nhưng cậu lại không làm cái việc cần làm nhất mí Kiều. Như Công Tử Hà Đông lỡ chuyến xe đò bay USIS ngày ba mươi tháng tư 1975, phải cầm vé chờ standby đến hai mươi năm trời; Công Tử Bắc Kinh không mau tay mần cái việc cần mần ngay đó đã phải chờ đến mười lăm năm sau mới được lên chuyến tàu vét.

Vì sự cay đắng ấy, Công Tử Hà Đông rút từ bài học “Kim Trọng lần khân” công thức luân lý giáo khoa thư lớp Đồng Ấu:

Trời cho thì phải vồ ngay

Để dành, để sọt có ngày xót xa.

Cuộc tự tình Thúy Kiều - Kim Trọng ở trong vườn Lãm Thúy có nhiều chi tiết mâu thuẫn, không hợp lý. Thúy Kiều dấn thân đến, làm đủ thứ việc nhưng đến việc chính thì nàng lại ẹo ẹo: “Em chã… em chã…” Ngược đời và lố bịch nhất là chính nàng lại đi nói những lời lễ nghi quân cách khuyên Kim Trọng không nên mần tới. Kỳ dzậy! Bất cứ người đàn bà, con gái nào trên cõi đời này cũng có thể nói ra những lời như lời ông Khổng Tử và của ông Khổng Tử, nhưng Thúy Kiều trong đêm hôm đó thì không thể. Chính nàng khêu gợi Kim Trọng, nàng tự ý đưa đến tận mồm Kim Trọng rồi cũng chính nàng lại duỗi ra: “Đừng… Hổng nên làm tới… Đến đây thôi… Hổng tiếc đâu, nhưng mà… để dành…”

Những đêm tại ngục ở thành Hồ, Công Tử Hà Đông nằm tình tang mần thơ hỏi Thúy Kiều:

Tấm yêu

Hoa thương càng tỏ thức hồng

Đầu mày, cuối mắt càng nồng tấm yêu…

Tấm yêu là tấm yêu kiều

Tấm yêu em phủ lụa điều, em mang

Tấm yêu em giá ngàn vàng

Sao em lại để bày hàng coi không?

Hoa hương em tỏ thức hồng

Đầu mày, cuối mắt em nồng tấm yêu

Sóng tình em đã xiêu xiêu

Em trong âu yếm có chiều lả lơi

Chính em, em lấy làm chơi

Gài cho em nói những lời ba hoa

Ấy là ngôn ngữ người ta

Thầy Nhan, cụ Khổng phải là em đâu?

Đang xi-nê, giở tuồng Tàu

Ngang ngang tức muốn phát rầu Tố Như!

Lả Lơi

Sóng tình dường đã xiêu xiêu

Xem trong âu yếm có chiều lả lơi…

Lả lơi thì lả cả đôi

Cả đôi cùng lả, cùng lơi mới là

Lả lơi, lơi lả đôi ta

Đôi ta cùng lả mới là lả lơi.

Lả lơi đang lả cả đôi

Bỗng dưng em nói những lời linh tinh:

“Đã cho vào bực bố kinh

Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu”

Vẩn vương toàn chuyện đâu đâu

Đem ông Khổng Tử chặn cầu ái ân.

Xét tình lý, thấy phân vân

Nghe sao nằng nặng, tần ngần chẳng ra.

Đang âu yếm, nói ba hoa

Ấy là Kiều Thúy hay là Khổng Khâu?

Nam Mô Bồ Tát Thị Mầu…

Vương Quan làm tri huyện, Kim Trọng tri phủ - những chức vụ tri huyện, tri phủ này về tay hai cậu này thì, chẳng cần là thầy bói, ta cũng biết cái gọi là hậu vận của năm Gia Tĩnh triều Minh ấy nó đen hơn mõm con chó mực. Khi hai cậu đưa vợ con, ông già bà lão đi đến địa phương trị nhậm qua sông Tiền Đường ghé lại lập đàn giải oan cho Thúy Kiều, tình cờ gặp vãi Giác Duyên bánh xe lãnh tử đi qua tò mò ghé vào…

Do đó mà Kim Trọng gặp lại Thúy Kiều: chuyện đó biết rồi… khổ lắm… nói mãi… Khi cho Mercedes đến chùa tạm bên sông đón Thúy Kiều về phủ đường, Kim Trọng được thành hôn với Thúy Kiều. Cô dâu chú rể cùng nhau làm tất cả những nghi thức hôn nhân chuẩn bị tốt đẹp cho việc làm tối hậu của vợ chồng: giao bái, tức là chàng và nàng mặc áo thụng vái lẫn nhau, mời nhau uống rượu, bâng khuâng, ngậm ngùi, duyên mới, tình xưa, sen ngó, đào tơ, mười lăm năm ấy bi giờ đêm nay, tình duyên, hợp tan, bi hoan, trăng sao, đèn nến, má đào, môi thắm, tình nhân lại gặp tình nhân, hoa xưa, ong cũ, tình chung… hằm bà lằng xíu oắt đủ thứ. Gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm, chanh linh tinh không món nào thiếu…

Vô lý và phi lý, bất hợp lý, phản lý, loạn lý, bí lý, nhảm lý nhất là đến lúc đưa nhau vào đến giường rồi, đã ngả đâu lên gối rồi, cô dâu đa tình, khêu gợi quá chời quá đất lại nói: “Giẽ ra cho thiếp, bi giờ thiếp tu…”

Tôi dám nói quyết, tôi dám cá một đô ăn một triệu đô trên cái cõi đời này không có cô dâu nào đến cái lúc ấy còn nói một câu như thế. Cũng trên cái cõi đời này nhất định không có chú rể nào đến cái lúc ấy còn chịu nghe cô dâu nói như thế là xoay chiều đổi sang chủ nghĩa khác, có lập tràng khác hẳn. Thế rồi đôi vợ chông chay tịnh, không hề chung chăn chung gối mí nhau - nói gần nói xa chẳng qua nói thật - đôi vợ chồng có cưới hỏi, động phòng đàng hoàng nhưng đêm đêm không hề mần tình mí nhau, cứ chung sống một nhà, cứ rượu chè, đàn địch, cứ ngày xem hoa nở, đêm chờ trăng lên, cứ ra vô đụng chạm nhau mà vẫn hổng có gì mí nhau sao?

Khi chén rượu, khi cuộc cờ

Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.

Ba sinh đã phỉ mười nguyền

Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.

Xin lỗi. Liên hệ đàn ông, đàn bà mật thiết chẳng bao giờ là tình bạn cả. Nhưng thôi. Ta trở lại với cái gọi là “mười nguyền” được gán cho Kim Trọng. Kim Trọng được hưởng đủ “mười nguyền” ư? Chín thôi. Cái “nguyền” nặng ký nhất, quí nhất, cần được nhât thì Kim Trọng lại phèo.
Vì vậy nên có thơ rằng:
Mười nguyền
Mặt nào ăn bớt nhau đây
Mười nguyền mà có ngần này thôi ư?
Đã cho chén rượu, cuộc cờ
Cho xem hoa nở, cho chờ trăng lên.
Mười nguyền cho đã chín nguyền
Thúy Kiều nào phải Trạc Tuyền mà không!
Xá gì một chiếc gối bông
Xá gì nửa mảnh khăn hồng chẳng cho?
Sao em khéo vẽ bày trò
Cái trinh em cứ mần to tày đình.
Ráng trinh… ờ cũng rằng trinh
Cái trinh đã vậy, cái tình thì sao?`
Thôi em đừng nói tào lao
Đào nguyên có chịu cho vào hay không?
Là vông thì hẳn là vông
Nửa vông nửa lá ngô đồng… ngứa tay.
Cầm, kỳ, thi, tửu kiểu này
Lửa rơm anh đố cô mày chẳng cho.
Nam-mô Bồ-tát Thị Mầu
Sao em trong ngọc, trắng ngà
Dày dày em đúc một tòa thiên nhiên
Đào hoa trong bấy nhiêu niên
Mà em ăn nói nghe phiền lắm thay
Mới ba mươi tuổi trao tay
Tu gì được cái tuổi này mà tu?
Em đòi em khép phòng thu
Đêm thu gió lạnh nó cù em mở ngay.
Hay gì chuyện đó mà hay
Em tu không khéo có ngày em hỏang chưa.
Tu mà uống rượu, đánh cờ
Tu xem hoa nở, tu chờ trăng lên.
Em tu cho phỉ mười nguyền
Cho tình em đượm, cho duyên em nồng.
Tu mà làm lễ tơ hồng
Tu mà hoa chúc, động phòng sánh đôi.
Tu mà dìu dặt chén mồi
Bâng khuâng kinh cũ, bồi hồi kệ xưa.
Em tu từ sen ngó, đào tơ
Mười lăm năm em tu đã bi giờ em lại tu…
ầu… ơ… ví dầu…
Cá lóc thì nầu canh chua
Em đi ở chùa, ai đẻ con anh?
Em tu em độ chúng sanh
Em ăn thịt mỡ, dưa hành ở đâu?
Em tu mà tóc đầy đầu
Nam Mô Bồ Tát Thị Mầu… em tu!
Tu vào, tu ra…
Trồng trầu thì phải khai mương
Tu sao cho vẹn mọi đường thì tu.
Tu thì khóa cửa phòng thu
Lằng nhằng nửa tục, nửa tu thêm phiền.
Lửa lòng em đốt nhân duyên
Thì thôi đừng có Trạc Tuyền sang ngang.
Tu hành cấm kỵ hở hang
Sắc không em cứ bày hàng em chơi.
Màu thiền cho má em tươi
Mùi thiền cho miệng em cười thêm xinh.
Nam mô khóe mắt em tình
A di đá Phật… cô mình như hoa.
Trăm năm trong cõi người ta
Tu là cội phúc, tình là dây oan.
Dây oan em giữ cho ngoan,
Đào hoa em chớ phàn nàn làm chi.
Dở dang nào có hay gì
Đã yêu yêu trót qua thì thì thôi.
Dở yêu tội chỉ một đời
Dở tu tội mấy đời người đó em.
Kệ kinh em thuộc lem nhem
Lam nham lá bối, lèm nhèm phướn mây.
Yêu nhà em tội đã đầy
Yêu chùa em mắc tội này bằng ba…
Chém cha cái số đào hoa
Tu vào thì ít, tu ra thì nhiều.
EM BỎ CHÙA NÀY
P
hù vân… chỉ là phù vân
Yêu thì yêu cũng có ngần ấy thôi…
Tất cả những cuộc tình của Thúy Kiều đều dang dở, đứt đoạn, đau khổ nhiều hơn sung sướng; tai họa, oan khiên nhiều hơn hạnh phúc, hoan lạc. Và tất cả những lời thề thốt sống chết mí nhau, không bao giờ bỏ nhau, chờ nhau mãi mãi đều chỉ là những lời thề thốt vẩn vương mà những người thề nguyền vẫn nhớ nhưng không giữ được.
Tóc tơ căn dặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây, cuối trời.
Cùng nhau trót đã nặng lời
Dẫu thay mái tóc dám rời lòng tơ.
Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai…
Mái tóc không thay, mái tóc em còn nguyên mái tóc ngây thơ ngày ấy, chỉ có cái khác là giờ đây mái tóc phu nhân mượt mà hơn, ta gặp lại nhau giữa phố đông “Em đi ríu rít bên chồng bên con” … Anh cũng chẳng khá gì hơn em. Anh cũng…
Tuyệt đại đa số những cuộc tình đầu đều không đi đến nơi đến chốn. Rất hiếm thấy những người yêu nhau tình đầu trở thành tình vợ chồng chung sống, yêu thương, gắn bó mí nhau suốt đời. Cũng có. Nhưng thật ít…
Nâu sòng từ trở màu thiền
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.
Ngày em bận áo cà sa đóng vai ni cô tị nạn ái tình ở Quan Âm Các, trăng thu đến trên sân chùa những hai ba lần, tức là hai ba mùa thu, hai ba niên. Khi em đi trăng thu vẫn trở lại sân chùa nhưng không còn em ở đấy nữa… Trên sàn xi măng phòng mười khu ED Lầu Bát Giác Chí Hòa, anh tưởng tượng anh đến sân chùa đứng cô đơn dưới ánh trăng thu…
Anh tưởng nhớ hình ảnh ni cô đa tình mắt sáng, môi hồng nay không biết đang cho tên đàn ông đẻ bọc điều, tu mười kiếp nào hưởng vòng tay ấm. Anh nhớ em và anh mần thơ:
Em bỏ chùa này
Vàng trăng trăng nhuộm vàng ngâu
Vàng hoa hoa ở trên lầu Quan Âm
Vàng tâm tâm nguyện hương tâm
Vàng mây mây gửi nghìn tầm gió bay.
Mấy thu trăng đến chùa này
Mấy thu em ở, một ngày em đi.
Tình đi, người cũng từ ly
Vàng phai, đá nát còn gì nữa đâu.
Mấy thu trăng đứng trên đầu
Mấy thu tơ đã phai màu vàng tơ.
Trăm năm thề đến bao giờ
Mấy thu người đã hững hờ chia tay.
Vàng hây thì cả gió may
Ái ân em có ngần này mà thôi.
Vàng trôi, vàng ngược, vàng xuôi
Còn bao giờ nữa nối lời nước non.
Vàng tan, sông cạn, đá mòn
Con tằm chưa thác có còn vương tơ?
Vàng sương, vàng nắng, vàng mưa
Vàng son phấn cũ, hương thừa ở đâu?
Vàng hương hương tắt trên lầu
Vàng kinh trang giấy nhuộm màu thời gian.
Vàng phong thu nhuốm quan san
Vàng lan lan ở trong màn chờ ai?
Vàng anh anh tiếc em hoài
Vàng ngàn sao nỡ em ngoài mấy trăm?
Vàng rơi ngọc lấm, cát lầm
Vàng e gió bắt, mưa cầm, vàng bay…
Vàng gìn, ngọc giữ cho hay
Vàng sông rồi cũng một ngày vàng gieo.
Vàng trăng trời đất vàng theo
Vàng hoa vàng cả cánh bèo truân chuyên.
Vàng nung, ngọc nấu trần duyên.
Vàng sôi vàng đến Trạc Tuyền vàng đi.
Vàng sen nương náu qua thì
Vàng phai, đá nát còn gì trao tay…
Ngàn năm trăng vẽ nét mày
Ngàn năm em bỏ chùa này em đi.
Em ơi… Suốt một đời anh, anh vưỡn nhiều lần đặt câu hỏi: “Tại sao đá nát mà vàng lại phai? Tại sao cõi đời này lại có những cuộc tình tan vỡ, những người thề nguyền ra rít không giữ, hay không giữ được, lời thề? Tại sao những người yêu nhau ra rít lại nhiều người – rất nhiều người – không sống chung vợ chồng được mí nhau đã đời trí mạng?” Nhiều đêm theo thức trên căn gác nhỏ ở cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ, thành Hồ xã hội chủ nghĩa, anh nhớ em, anh buồn, anh sầu muộn hỏi Người Hai Trăm Năm Trước:
- Tại sao đá nát mà vàng lại phai? Tại sao những người đàn bà đẹp lại thường gặp những chuyện đời không ra gì? Tại sao chúng ta lại cứ đợi khi những người đàn bà đẹp đã hai năm mươi, xuôi sáu tấm, đi một đường tàu suốt ra nghĩa địa khiêu vũ với Bá tước Dracula rồi ta mới yêu thương, ca tụng, hôn hít tàn y, nâng niu di vật các nàng để lại, mới công kênh các nàng lên bàn thờ? Tại sao ta không yêu thương, hôn hít các nàng ngay khi các nàng còn sống?
Nhiều lắm. Anh hỏi nhiều câu và chẳng có ai thèm trả lời anh. Nhưng hôm nay ngồi yên bình ở vùng đất Virginia Có Cây Trăn Thức Có Hoa Bốn Mùa Có Cổ Thụ Có Sơn Hồ – Virginia đất của những người yêu – viết lại những bài thơ Anh Vịnh Em những đêm anh trả nợ tù đày trong Khám Lớn Chí Hòa bảy tám năm trước, anh tin, anh biết trong số những người đọc những dòng này có em. Anh biết em sẽ cảm động, em nhìn thấy tình yêu của anh chan hòa, bàng bạc, man mác trên những trang này…
Anh có chỉ trích em vài chuyện. Như việc nửa đêm em phom phom chui rào sang nhà Kim Trọng, như việc em lả lơi khêu gợi rồi em lại đẩy ra, em nói cứ như ông Khổng Tử, như việc em có cái tật cứ đưa cái trinh của em dí vào mặt mọi người, như việc em chi vàng, chi đô cho mụ Giác Duyên mà em quên không đền ơn anh tri phủ Lâm Tri, như việc em cứ ẹo ẹo đòi đi tu phí phạm của trời…
Đó là tại vì anh yêu em quá, anh muốn em thật mười phân vẹn mười, muốn em toàn bích. Anh nhấn mạnh, anh nhắc lại lần nữa: anh chỉ trích em, anh bực dọc em chính là vì anh quá yêu em…
Tim anh đau nhói như có mũi dùi nhọn xuyên qua khi anh thấy em phải bán mình…
Dáng buồn như liễu, điệu gầy mai
Đắn đo cân sắc lại cân tài
Ép cung cầm nguyệt dăm ba bản
Quạt thơ đòi vận bốn năm bài.
Mua ngọc Lan Kiều, thương ngọc mãi
Bán người kim ốc, tiếc người hoài.
Cò kè bớt một hêm hai lại
Thương ơi… em có bốn trăm ngoài.
Tóc thề em chấm ngang vai
Em vẫn Kiều Thu tròn tuổi nguyệt
Trần ai nào lấm được thơ ngây…
Trên những trang Kiều em hiển linh, em sống, em trẻ, em đẹp mãi. Chuyện ly kỳ tuyệt vời là ngàn năm món tóc thề chấm ngang vai em sẽ cứ chấm ngang vai em mãi mãi…
Mai sau dầu có bao giờ…
Mai sau – trăm năm, hai trăm năm, một nghìn năm – sẽ có những người đến cõi đời này sau anh yêu em, thấy em hiển linh, thấy em vẫn trẻ, tóc thề em vẫn chấm ngang vai… Trong khi đó thì anh đã đi khỏi cõi đời này xa lắm. Hôm nay còn nói với em được, anh nói với em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Tóct hề đã chấm ngang vai
Nào lời non nước, nào lời sắt son…
Tóc thề em chấm vai thon
Đời còn non nước em còn tóc tơ.
Tóc hề em tự ngàn xưa
Ngang vai cho đến bây giờ ngang vai.
Ngày xuân em hãy còn dài
Trăm năm giấc ngủ u hoài là ta.
Ngàn năm em vẫn như hoa,
Vàng son em vẫn nguyên là vàng son.
Trăm năm trọn cuộc vuông tròn
Xương mòn đáy mộ ta còn xót xa.
Ngàn sau ai đọc thơ ta
Thương em biết có như là ta thương?
Đẹp thay chút nghĩa âm dương
Chẳng lìa ngó ý cũng vương tơ lòng.
Duyên ta ta kết thơ hồng
Trăm năm tạc một chữ Đồng là ta.
Tài hoa ta gặp tài hoa
Yêu em sau nữa biết là những ai?
Ngày xuân em hãy còn dài.
Tóc thề em chấm ngang vai
Này lời non nước, này lời sắt son.
Dẫu rằng sông cạn, đá mòn
Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ.
Yêu em biết đến bao giờ!
Ngó ý, tơ lòng
Xót thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng…
Đừng nói gì đến trăm năm sau, chỉ năm chục năm nữa thôi nếu trên cái cõi đời này còn lâu lâu có buổi học tiếng Việt hiếm hoi, èo uột, gầy ốm, vàng vọt, xương xẩu, u ám nào đó, giả như có em nữ sinh nào đó thơm hơn múi mít hỏi: “Thưa thầy, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng nghĩa là gì?” Dám chắc một triệu anh thầy bị hỏi câu đó thì có đủ một triệu anh dùng miệng lưỡi trả lời quanh co, lấp liếm, đánh lạc đề, những anh sử dụng miệng lưỡi không khéo thì tịt mít.
Mùa hè những năm 1940 cuộc sống của gia đình tôi nói riêng, cuộc sống của nhân dân Bắc kỳ nói chung, chưa bị điêu tàn, bị ảnh hưởng nhiều vì trận Thế chiến thứ hai, mẹ tôi thường mua hoa sen về nhà ướp trà cho thầy tôi.
Ông bố tôi chỉ là một thư lại chứ chưa được là quan lại, dù là tiểu quan lại. Ông là Thông phán dinh Tổng đốc Hà Đông. Ông không có những thú chơi văn minh Tây phương như nhảy đầm, uống sâm-banh, cà phê, đánh te-nít, chơi cá ngựa, mà-chược, ông chỉ có mấy cái thú rất chân chỉ hạt bột như uống trà tàu mỗi buổi trưa trước giờ đi làm, thỉnh thoảng vác cây súng săn đi bắn chim gáy mùa lúa chín ở cánh đồng những làng quanh thị xã.
Mẹ tôi mua hoa sen về lấy nhị ướp một ít trà tàu cho bố tôi. Không nhiều. Mỗi mùa chỉ chừng hai gánh hoa sen. Trời nóng, nhà sạch, những cánh hoa sen đầy trên sàn. Buổi trưa tôi ở trần nằm ngủ trên những cánh sen…
Anh em tôi lấy những gương sen cuộc chỉ vào cuống, giơ cao thả cho rơi xuống. Thời tôi còn trẻ, đồ chơi trẻ con thật ít có. Những cành sen xanh được anh em tôi bẻ ra, trong lòng những cành sen này có những sợi tơ trắng. Tuy cành đã bị bẻ đứt ra từng đoạn nhưng những đoạn này vẫn còn dính vào nhau nhờ những sợi tơ…
Đấy là “dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng…” Hình tượng diễn tả tuyệt vời. Đôi người yêu nhau đã xa nhau, cuộc tình của họ đã đứt ngang rồi nhưng họ vẫn thương nhớ nhau…
Đấy là “ngó ý…”
Mai sau dù có bao giờ…
Em vẫn ở đây…
Hạc vàng bay mất từ xưa
Kiều em em vẫn bây giờ ở đây
Ở đây trang giấy thơm này
Tìm em thì vẫn đêm ngày có em.
Như tơ em mướt, em mềm
Như hoa em nổi, em chìm nước mây.
Sầu em lửa đốt Mái Tây
Thương em Ngưng Bích những ngày khóa xuân.
Quê em em dõi Mây Tần
Tình em em rọi trắng ngần xưa sau.
Tội em em tụng kinh cầu
Nghiệp em em đến Hàng Châu một mình!
Lửa hương em lỡ ba sinh
Nhân duyên em lỡ cuộc tình nhân gian.
Oan em nước mất, nhà tan
Oán em dạ yến cung đàn tử qui.
Hạc vàng Lầu Hạc vàng đi
Thương em khăn gấm, quạt quì ở đây.
Ở đây trang giấy thơm này
Tìm em thì vẫn đêm ngày có em.
Có em da mịn, tóc mềm
Tiếng em tha thiết, mắt em mơ màng…
Bởi lòng tạc đá, ghi vàng
Yêu nàng nên vẫn có nàng ở đây.
Đêm trong ngục nghe Kiều đàn
Một cung gió thảm, mưa sầu
Đàn em rỏ máu mười đầu ngón tay.
Em ơi… bạc mệnh khúc này
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
Cung cầm em lựa ngày xưa
Vỡ tim người đến bao giờ, em ơi?
Lệ ai chan chứa hơn người?
Máu ai hòa tiếng đàn rơi trên mồ?
Em đàn dây vũ, dây vô
Lệ ta chìm một thành Hồ thương nhau.
Đàn em gió thảm, mưa sầu
Hồn ta rỏ máu từ đầu đến chân.
Mày em trăng vẫn in ngần
Phấn thừa, hương cũ bội phần xót xa.
Em ơi… những lứa tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh.
Đôi ta tình lại gặp tình
Nên em ngục tối hiển linh em đàn.
Vàng phai, đá nát nhân gian
Tỉnh mê nghe tiếng em đàn càng đau.
Hồn ta gió thảm, mưa sầu
Đàn em rỏ máu mười đầu ngón tay.
Em ơi… tuyệt diệu khúc này
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ
Cung cầm em lựa ngày xưa
Vì ta cho đến bao giờ vì ta?
Đàn em gió táp mưa sa
Thiên sơn đá lở, Hằng hà cát rơi.
Đàn em xao động đất trời
Cung thương, cung nhớ, cung người, cung ta.
Đàn em rung chuyển ta bà
Tiếng gần gang tấc, tiếng xa ngàn trùng.
Em đàn từ thủy sang chung
Tiếng tan, tiếng hợp, tiếng cùng, tiếng chia.
Nghe đàn ta tỉnh, ta mê?
Như đi, như ở, như về, như ra.
Đàn em quằn quại hồn ta
Yêu mà lệ rớt, thương mà máu rây.
Ta nghe đàn ở kiếp này
Hay từ muôn kiếp những ngày xa khơi?
Kiếp nào ta, kiếp nào người?
Sao nhiều tiếng khóc, tiếng cười lắm thay?
Kiếp nào dở, kiếp nào hay?
Kiếp nào ta đã, kiếp này lại ta?
Kiếp nào bướm, kiếp nào hoa
Ta là hồ điệp, ta là Trang Châu?
Kiếp nào vui, kiếp nào sầu?
Ta là Tư Mã phượng cầu Văn Quân.
Kiếp nào xa, kiếp nào gần?
Thang lan em tẩm thơm ngần thiên nhiên.
Kiếp nào nhớ, kiếp nào quên?
Đào Nguyên em nguyện, ta nguyền Thiên Thai.
Kiếp nào đúng, kiếp nào sai?
Mái Tây ta lỡ em hoài ngàn năm.
Kiếp nào oán, kiếp nào căm?
Cỏ xanh dưới mộ em nằm tuyết sương.
Kiếp nào tiếc, kiếp nào thương?
Nhớ nhau dạ vũ Nghê Thường tìm nhau.
Kiếp nào trước, kiếp nào sau?
Kiếp nào tử biệt, kiếp nào sinh ly.
Kiếp nào đến, kiếp nào đi?
Kiếp nào khăn gấm, quạt quỳ trao tay.
Kiếp nào trả, kiếp nào vay?
Kiếp nào yêu để kiếp này nhớ thương.

2/6/2016
Hoàng Hải Thủy
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt

Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là con trưởng của Hiếu Vũ đế...