Thứ Hai, 3 tháng 10, 2016

Biểu tượng giấc mơ trong thơ Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử

Biểu tượng giấc mơ trong 
thơ Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử
Cấu trúc văn bản nghệ thuật được kiến tạo một phần từ những chiêm bao, mộng mơ - tồn tại như một sự mã hóa  các giao tiếp nghệ thuật, một nguyên tắc cắt nghĩa hiện thực. Tiếp cận thơ Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử từ biểu tượng giấc mơ, chỉ ra chúng dưới những cất giấu tài tình của người nghệ sĩ như một trung tâm sáng tạo nghệ thuật, là một lối tiếp cận nhằm cắt nghĩa, lý giải sâu hơn thế giới nghệ thuật thơ, khắc họa một nét phong cách, bản chất sáng tạo của thi nhân.
1 - Thực tiễn của việc sáng tạo văn chương nói chung, Thơ mới nói riêng là sự xâm nhập, đào sâu vào thế giới nội tâm, vô thức, tiềm thức, khám phá những bí ẩn thẳm sâu trong bản chất đời sống tâm linh của con người. Nếu thơ ca trung đại được giải mã trong các hệ hình sáng tạo truyền thống như: sùng cổ, ước lệ, phi ngã, cách điệu hóa... thì Thơ mới xuất hiện trong một sáng tạo hoàn toàn mới mẻ, những ký hiệu mưu toan cất giấu những phản hiện thực, siêu thực... đầy lạ lẫm so với loại hình thơ truyền thống. Hiện thực đời sống và bản chất con người được đào sâu, tìm tòi, truy vấn và trở nên lấp lửng, mờ nhòe, mỗi sự sáng tạo trở thành một trốn thoát vào các mơ mộng nghệ thuật.
Thơ mới với sự bừng nở các cá tính sáng tạo và các hệ giá trị, đã được tìm hiểu và tiếp cận, lý giải, soi chiếu từ nhiều phương diện khác nhau. Trong đó một phương thức tiếp cận khả giải xem xét Thơ mới trong sự níu kéo giăng mắc từ huyền thoại dân tộc, từ những năng lượng đặc biệt nương mình trong vô thức người nghệ sĩ, là một cách tiếp cận thể hiện nhiều ưu trội. Những giá trị hằng hữu lặn sâu  vào vô thức tập thể - nơi cư trú của tồn tại nhân loại, của nguồn cơn sáng tạo nghệ thuật, luôn ám ảnh và vẫy gọi dò tìm về cõi hư huyền, giải mã các giấc mơ nghệ thuật trong Thơ mới.
Thông qua những chiêm mộng, mơ tưởng... của người nghệ sĩ, có thể phát hiện những tầng sâu của vô thức, những bí ẩn của các biểu tượng, nơi lưu giữ cất giấu những kinh nghiệm dân tộc qua không gian và thời gian. Ngược lại, những chiêm bao, mộng mơ nghệ thuật cũng góp phần kiến tạo cấu trúc văn bản, một sự mã hóa nghệ thuật - tồn tại như một sự giao tiếp nghệ thuật, một nguyên tắc cắt nghĩa hiện thực. Chính vì vậy, nhìn nhận tiếp cận Thơ mới nói chung, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử nói riêng từ biểu tượng giấc mơ, chỉ ra chúng dưới những cất giấu tài tình của người nghệ sĩ như một trung tâm sáng tạo nghệ thuật là một lối tiếp cận nhằm cắt nghĩa, lý giải có chiều sâu về sáng tác của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, khắc họa một nét phong cách, bản chất sáng tạo của thi nhân. “ Đi tới tận cùng của cái vô thức, cùng với nhà thơ, hãy tìm thấy lại những giấc mơ nguyên thủy” (G. Bachelard).
Giấc mơ được hiểu là chiêm mộng – theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới: “ biểu tượng của cuộc phiêu lưu cá thể được cất sâu vào trong tâm khảm đến nỗi nó vượt khỏi vòng cương tỏa của nguồn sáng tạo ra nó, chiêm mộng hiện ra với chúng ta như là biểu hiện bí mật nhất và trơ trẽn nhất của chính chúng ta” ([1]). Biểu tượng giấc mơ ở đây được quan tâm với tư cách một biểu tượng của văn học như là kết tinh của vô thức, tiềm thức, thể hiện bằng hành động tiềm thức và siêu nghiệm của con người trong ngôn ngữ đa nghĩa, là chất liệu đặc biệt chất chứa nhiều năng lực huyền dụ, vẫy gọi những tiếp cận, giải mã riêng.
Có nhiều quan điểm lý giải về giấc mơ. Theo S. Freud, tác phẩm văn học là một giấc mơ, một trò chơi, người nghệ sĩ kiến tạo một thế giới trong tưởng tượng, khác với hiện thực, mang tính ảo, người đọc tác phẩm tức đã tham gia vào cuộc chơi do người nghệ sĩ tạo ra, chấp nhận tính ảo của nó. Giấc mơ, theo Freud, là “niềm khao khát bị kẹt cứng trong cơ thể... chằng chịt với nhau và tụ lại trong vô thức... phải chăng tâm hồn đã nở bung nếu giấc mơ ban đêm không tạo một lối ra cho những dục vọng, ẩn ức” ([2]). Nếu Freud gắn giấc mơ với bản năng vô thức con người, mỗi ký tự nhà văn dùng là một ký hiệu của ham muốn, thì Jung coi giấc mơ là biểu hiện của trí tuệ tiềm thức. Tiềm thức chất chứa những năng lực quan sát siêu việt hơn ý thức bởi vì nhiều khủng hoảng đã qua không nằm trong ý thức của con người, tiềm thức sẽ thông báo cho chúng ta bằng giấc mơ, những điều mà ý thức không chạm tới được. Theo Jung giữa biểu tượng giấc mơ và vô thức tập thể có những quan hệ mật thiết. Những phát hiện về vô thức tập thể và những nguyên sơ tượng (archétype) của Jung đã lý giải khởi nguồn cho mọi xuất phát điểm của động cơ sáng tạo nghệ thuật đích thực.
Riêng Erich Fromm lại xác quyết rằng giấc mơ không phải là nơi hội tụ những phóng chiếu vô thức mang tính bản năng của con người như quan niệm của Freud, cũng không phải là sự hình tượng hóa những năng lượng tinh thần chủng tộc như Jung. Theo ông, giấc mơ là sản phẩm của hành vi con người “là hoạt động tâm lý trong trạng thái ngủ, là biểu hiện tâm linh ở mức độ thấp nhất nhưng cũng là biểu hiện chức năng (công năng) phong phú nhất và có giá trị nhất của nó (tâm linh)”([3])  Những phát hiện, thành quả nghiên cứu của y học, tâm lý học chuyên sâu đã mở ra cho nghiên cứu, phê bình văn học những tín niệm mới, mở lối vào các miền mơ tưởng nghệ thuật, lần dỡ các cấu trúc của tưởng tượng, sáng tạo của người nghệ sĩ, thậm chí phát hiện những ẩn số biểu tượng trong quá trình tiếp nhận, nằm ngoài ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ.
Thơ mới xuất hiện những năm 1930 của thế kỷ XX với một dáng vóc, diện mạo tân kỳ trong vầng sáng chói lòa của cuộc cách mạng thi ca. Thơ mới trong tiến trình thơ ca dân tộc tồn tại như một hằng hữu: giá trị văn học và tâm thức văn hóa. Vậy nên, thời đại Thơ mới  đã lùi vào quá khứ nhưng hệ thống biểu tượng – như một chất liệu nghệ thuật mới để kiến tạo hiện thực – vẫn sống động trong tác phẩm với nhiều mối quan hệ, luôn phát triển và vẫy gọi trí tưởng tượng và khả năng đồng sáng tạo của độc giả.
2-  Với Nguyễn Bính, chất liệu sáng tạo của thi nhân được dung hợp từ chất liệu văn hóa dân gian, hiện ra trong bóng dáng vừa truyền thống vừa hiện đại, được nhà thơ tháo dỡ, lắp ghép và cấu trúc lại nó, những môtíp có thể bị đánh tráo, đảo ngược, một số yếu tố có thể bị thay đổi, làm mới...vv. Trong phẩm tính đa đoan và ôm đồm của một nghệ sĩ, Nguyễn Bính cứ bày lên văn bản tất cả những hay, dở, tốt, xấu của tâm hồn mình “ta bày ta lên trình loài người”( Trần Minh Hải) với giọng trầm chân quê trong giàn giao hưởng đa thanh điệu của các nhà Thơ mới 1932- 1945.
Có thế thấy rằng từ khi ra khỏi bụng mẹ để bắt đầu cuộc hành trình - đời người nhiều gian nan, con người đã ý thức về chính mình như một thực thể tồn tại độc lập, khác biệt và cô đơn. Tiếng khóc chào đời là dấu hiệu của sự tự ý thức của con người trước thế giới đầy bất an mà nó sắp phải tự đối mặt. Đồng thời với sự tự ý thức về chính mình con người còn nhận thức được sự hữu hạn của kiếp người, sự bất lực của bản thân trước sự sống và cái chết, những nghịch lý giữa hiện thực và ước mơ… Sự thức tỉnh về nỗi cô đơn, sự khác biệt của mình nảy sinh cùng lúc với khát vọng về cái đẹp, về tình yêu và tự do. Để lấp đầy khoảng trống sâu thẳm trong tâm hồn, con người tìm cách xóa nhòa ranh giới giữa cá nhân với cộng đồng, giữa con người với thiên nhiên và thế giới bên ngoài bằng sự hợp nhất: Hợp nhất bằng tình yêu và sự sáng tạo, là thời điểm “tác giả và đối tượng trở thành một, con người hợp nhất mình với thế giới trong tiến trình của sáng tạo” ([4]).
Trong môi trường lịch sử, văn hóa xã hội 32- 45, Nguyễn Bính cũng như các nhà Thơ Mới lãng mạn là những cá nhân cô đơn mang “khát vọng được thành thực’’([5]). Ý thức cá nhân với nhu cầu tự khẳng định mình nảy sinh đồng  thời với nỗi cô đơn - cội nguồn của những nỗi niềm trong thơ Nguyễn Bính. Nhà thơ yêu nhiều nhưng “nhận chẳng bao nhiêu”, vì thế trong thơ ông, ta luôn cảm nhận được một nỗi thất tình tiềm ẩn. Đối với thi sĩ, tình yêu được xem như là một cứu cánh để vượt lên đau khổ, để hợp nhất và hóa giải nỗi cô đơn, sự bất lực, vô vọng của mình trước những điều muốn với thực tế không thể đáp ứng. Vì thế mộng bướm – giấc điệp trong thơ ông có khi là ảnh phản của những khao khát hợp nhất trong thực tại. Qua dậu tầm xuân thấy bướm nhiều/ Bướm vàng vàng quá, bướm yêu yêu…/ … Đêm qua mơ thấy hai con bướm/ Khép cánh tình chung ở giữa trời. (Hết bướm vàng).
Theo Nguyệt Hồ và Hoàng Tấn, bạn của Nguyễn Bính,‘‘nhà thơ là người dễ yêu’’, gặp người con gái nào “mắt sáng môi tươi” là yêu, là tương tư. Thậm chí tưởng tượng rằng họ yêu mình để làm thơ. Với Nguyễn Bính tình yêu có thể là những cảm nghiệm để tự khám phá bản thân, bởi con người là một bí ẩn đối với chính mình. Chỉ có tình yêu với khao khát khám phá thế giới tâm tưởng của nhau trong yêu thương, hiến dâng, cho, nhận đối với một người khác, con người mới tự tìm thấy mình, khám phá ra chính mình: Em ạ ! Ngày xưa vua nước bướm/ Kén nhân tài mở Điệp lang khoa/ Vua không lấy trạng vua thề thế/ Con bướm vàng tuyền đậu Thám hoa (Truyện cổ tích). Hành trình khám phá đó đã đưa thi sĩ về với truyện cổ tích với thế giới thần tiên. Giấc mơ đỗ trạng (đậu Thám hoa) lấy vợ là công chúa (Vua liền gọi gả con gái yêu) với một đám cưới xênh xang áo mão, hạnh phúc tràn đầy của thi sĩ đã được thỏa mãn. Những điều thực tế không thể có thì trong thơ có cả! Thế giới thơ của Nguyễn Bính là thế giới của cảm thức hoài vãng nên nó vừa nên thơ, bình lặng, yên ả, vừa mong manh bất ổn, rạn nứt… bởi bao giá trị đang lụi tàn dần trước bể dâu của cuộc đời. Ngôi trường huyện ngày xưa sẽ mất vẻ mộng mơ, hư ảo nếu thiếu vắng hình bóng của anh và em, thiếu sự quấn quít của cánh bướm: Lá sen vương vấn hương sen ngát/ Ấp ủ đôi ta chút nhụy hờ/ Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc/ Theo về tận cửa  mới tan mơ… (Trường huyện). Cái sự “tưởng” kia của lũ bướm cũng chính là sự tự mê hoặc, tự ấp ủ chính mình của Nguyễn Bính trong khát vọng hòa hợp của tình yêu - khát vọng lấp đầy sự cô đơn, trống rỗng trong mỗi bản thân con người. Mùi phấn vương trên lá sen cùng với hương sen cứ quấn quýt mãi bước chân của cô cậu học trò nhỏ, vương vấn mãi trong tâm hồn chàng thi sĩ vì chính hương sen ấy đã “ấp ủ đôi ta chút nhụy hờ”, ấp ủ những tình cảm e ấp thiêng liêng buổi ban đầu.
Khung trời học trò trở nên đẹp đẽ hơn, lung linh hơn, đường về cũng thơ mộng hơn vì những thoáng rung động mỏng manh tha thiết đầu đời ấy. Không gian, thời gian cõi ngày xưa ấy được cách ly khỏi thực tại bằng sương khói của cõi mơ. Tất cả trở nên trong trẻo tinh khiết vì khung cảnh được tái hiện trong tâm tưởng nhà thơ, thuộc về “miền quá khứ”- miền của những điều đã mất, vĩnh viễn không bao giờ tìm lại được. Nó còn đẹp hơn bởi được điểm xuyết bằng những cánh bướm “Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc”. Sự “tưởng” ấy là của lũ bướm hay của chính thi nhân? Vì “tưởng” nên vừa là thực vừa là không thực, là một kiểu giấc mơ tỉnh – thức, và cũng “tưởng” nên cõi thật thành cõi mơ, cõi của những khao khát được thăng hoa từ những điều không thể đạt được trong thực tại. Những tháng ngày nhiều nhớ nhung tha thiết ấy có bóng dáng của “anh” và “em”, có hương sen vương phấn, có cánh bướm chấp chới và có cả những ngập ngừng không nói hết trong trái tim chàng thi sĩ đa tình. Cánh bướm cứ chập chờn từ cõi thực vào cõi mơ, chập chờn mãi cho đến khi buộc phải đối diện với sự thật, giấc mơ đã tan vỡ: “theo về tận cửa mới tan mơ”. Cánh bướm đã “tan mơ”, đã mất hút vào hư không, giờ chỉ còn anh với thực tại: Em đi phố huyện tiêu điều quá và một sự thật dù không muốn cũng đành phải chấp nhận là: Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi. Đó là quy luật chung của cuộc đời, mọi cái đã khác xưa, đã thay đổi theo thời gian. Phố huyện không còn em nên hoang vu heo hút, tiêu điều. Ngôi trường  ngày xưa giờ cũng đổi khác. Bóng dáng của những điều ấp ủ thưở còn là học trò lớp tuổi thơ giờ không còn cơ sở để tồn tại. Thi nhân nói về sự thay đổi của ngoại cảnh nhưng ngầm ẩn một điều khác, một sự kéo theo khác, đó là sự thay đổi trong tình cảm của con người. “Anh” và “em” giờ cũng đã khác xưa bao nhiêu, khác từ ngày “em đi” hay khác từ khi “trường huyện giờ xây kiểu khác rồi”? Chỉ biết rằng tất cả đã đổi thay dù tháng năm xưa còn đó, dù “đến hôm nay anh mới biết”. Cái biết ở đây không chỉ là biết bãi biển xưa giờ thành nương dâu (thương hải biến vi tang điền), mà còn là một sự thức nhận khác từ thẳm sâu trong tâm hồn, một sự “ sát na đốn ngộ” trong ngậm ngùi tiếc nuối rằng:  Tình ta như chuyện bướm xưa thôi.
Thi nhân phó thác mình cho tình yêu mà không cần đảm bảo với hy vọng rằng tình yêu mình cho đi sẽ tạo ra tình yêu trong người được yêu. Nỗi khắc khoải, tuyệt vọng trước những phù du hư ảo của cuộc đời, trước những khát vọng chưa bao giờ cùng tận: khát vọng về cái đẹp, tự do và tình yêu, tồn tại cùng với nỗi thất tình tiềm thức được Nguyễn Bính gởi cả vào trong giấc mộng bướm. Để rồi cứ thế những cánh bướm với đủ màu sắc trắng, vàng cứ chập chờn từ cuộc đời vào thơ Nguyễn Bính, từ luống cải vàng sang luống cải xanh: Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng/ Có con bướm trắng thường sang bên này (Người hàng xóm). Cánh bướm từ vô thức của giấc mơ sang ý thức: Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau? (Tương tư)
Ngày xưa vì chán cuộc đời nhỏ nhen ti tiện, chán con người phụ bạc vô tình, vô nghĩa, Trang Chu đã hóa bướm để ngao du sơn thủy. Đó là một cách lựa chọn. Nguyễn Bính cũng đã hóa thân mình vào cánh bướm mặc sức rong chơi, hút hết hồn hoa và trả lại cho đời phấn mỏng. Trong những đôi cánh mỏng manh dính nắng kia có cái đẹp của cuộc đời, nó chập chờn trong mộng như hóa thân của những mớ bảy mớ ba xanh đỏ tím vàng của áo tứ thân. Mặt khác cánh bướm lại mang vẻ sắc sắc không không của kiếp con người phù sinh hư ảo: một ngày thoát xác, tất cả đều nhẹ tênh và hồn phiêu du vào chốn mênh mông của cuộc đời :Hồn trinh còn ở trần gian/ Nhập vào bướm trắng mà sang bên này . Phải chăng tất cả những điều đó phù hợp với cốt cách nghệ sĩ “tang bồng hồ thỉ” của Nguyễn Bính? Cái con người lãng du “đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe” ấy suốt một đời lúc nào cũng khư khư giữ bên mình những lá thư tình nhòe nhoẹt nỗi buồn, nhưng chẳng khi nào có nổi một đêm tân hôn thật sự, cứ lang thang phiêu bạt, và cứ nhớ, cứ thương: Cành dâu cao, lá dâu cao/Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em. Cao, cao… Câu thơ gợi hình ảnh cô gái hái dâu vươn tay như hình bóng người vũ nữ trong điệu múa Ápxara. Bầu trời kia có xanh lắm không, có mênh mông lắm không mà đôi mắt người con gái xanh đen mênh mông đến thế. Cả bầu trời soi vào trong đó, và đôi mắt kia chắc phải thăm thẳm đến dường nào bóng bướm mới lênh đênh vào rồi lênh đênh mãi trong đó không tìm được lối ra. Đọc câu thơ chợt thấy lòng chùng lại, chợt thấy mình một chiều gió bụi kinh kỳ hóa thành cánh bướm mơ vườn dâu xưa… Có đôi khi cánh bướm lại là hình ảnh do Nguyễn Bính nhập thân vào để sang tình tự bên vườn người hàng xóm: Hết mưa bươm bướm có còn sang chơi... Có lúc lại là một hình bóng “Bướm hẹn về rồi bướm nói điêu”...
Biểu tượng giấc mơ có khi được sử dụng làm nhan đề cho tác phẩm, có khi tham gia vào cấu trúc tác phẩm, kiến tạo nhân vật trữ tình, diễn biến câu chuyện... Biểu tượng giấc mơ tồn tại như sự bù đắp cho những thiếu vắng, hẫng hụt của thực tại - đã từng xuất hiện nhiều trong thơ trung đại “ Lâm tuyền hữu ước na kham phụ/ Trần thổ đê đầu chỉ tự liên/ Hương lý tài qua như mộng đáo/ Can qua vị tức hạnh thân tuyền. (Suối rừng lỡ hẹn, phụ tình/ Cúi đầu đất bụi chỉ mình ta đau/ Làng quê trở gót chiêm bao/ Còn nguyên thân thế mặc dầu lửa binh..) (Nguyễn Trãi). Môtip giấc điệp cũng thường được sử dụng trong văn chương cổ, bướm biểu trưng cho khát vọng hòa hợp, quấn luyến vợ chồng. Trong Duyên lạ hoa quốc, cuộc nhân duyên của Chu Sinh và Mộng Trang là sự hòa hợp của hai con người có tiền kiếp là loài bướm, tên của hai nhân vật cũng gợi giấc mộng Trang Chu, Trang Chu mơ mình hóa bướm, bướm thành Trang Chu, thực - ảo lẫn lộn. Hành trình vào mơ là hành trình ngược về tiền kiếp, khám phá, giải mã thân phận. Bướm biểu trưng cho khát vọng hợp nhất nhưng cũng là minh chứng sinh động nhất cho sự mong manh hư ảo của cuộc đời.
Với Nguyễn Bính, mơ là một cứu cánh nhằm “rút khỏi thực tế không thõa mãn để đi vào thế giới tưởng tượng... những tác phẩm, những trải nghiệm nghệ thuật của ông là sự thõa mãn, tưởng tượng cái ham muốn vô thức giống như mộng, cũng như mộng, chúng có chung một tính cách là một thỏa hiệp, bởi chúng cũng phải tranh đấu, xung đột không che đậy với sức mạnh dồn nén” ([6]). Sự xuất hiện của giấc mơ hóa bướm trong thơ Nguyễn Bính có thể nói là một minh chứng cụ thể cho những ám ảnh vô thức về kiếp nghệ sĩ, về cảm thức con người trong tâm thức thi nhân. Cánh bướm cứ chập chờn mãi trong tâm trí của người đọc, chập chờn qua miền khói sương, để ngoái nhìn lại chỉ còn thăm thẳm, sắc sắc hương hương…
3 - Nếu Nguyễn Bính khởi nguồn cho những sáng tác lãng mạn thời kỳ đầu của Thơ mới thì Hàn Mặc Tử đã đặt chân lên địa hạt siêu thực. Với sự hội tụ nhiều yếu tố mới, nhiều luồng tư duy trong sự cất giấu khéo léo các biểu tượng qua các ký hiệu đứt gãy, mơ hồ, sáng tác của Hàn Mặc Tử là sự thừa nhận mặc nhiên đầy mê hoặc và khiêu khích của yếu tố văn hóa tâm linh, biểu tượng, không gian phi thực, hiện thực tượng trưng, sự tham dự của các yếu tố vô thức, tiềm thức, mặc cảm, phức cảm...vv. 
Đến Hàn Mặc Tử, biểu tượng giấc mơ vừa thực hiện sứ mệnh là thi liệu tham gia vào kiến tạo nội dung – là hiện thân của ý nghĩa tác phẩm, đồng thời là những viên gạch dựng xây nên hình thức của tác phẩm, con đường dẫn đến ý nghĩa thẳm sâu của tác phẩm văn học – tồn tại như một thủ pháp nghệ thuật thể hiện cái tôi bản ngã khát khao, ám ảnh của vô thức, tiềm thức. Nó tồn tại trong một mã lấp lửng của ngôn ngữ, các diễn ngôn về giấc mơ, người mơ... đều là một kiểu khám phá mới nào đó ở tính hữu hạn và khó có thể định danh, định tính. Bởi ở cấp độ định danh, biểu tượng giấc mơ có khi được dùng đặt tên cho một bài thơ : Mơ, Mơ hoa, Anh điên, Em điên, Hồn lìa khỏi xác, Hãy nhập hồn em... nhưng có khi dùng gọi tên một trạng thái: Ta thích ngồi mơ dưới bóng cây (Mơ); Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ (Đau thương); Dám ôm hồn cúc ở trong sương (Mơ hoa), trong đó: giấc mơ, hồn cúc, trời mơ, cảnh mơ... đều là những sợi dây neo mong manh vào hiện thực. Ở cấp độ cái biểu đạt và cái được biểu đạt, mọi cái đều mang tính võ đoán, vì vậy tạo nên sự bất tín, lưỡng nan giữa thực - ảo, mộng mơ. Đó là sự nhập nhằng nước đôi của ngôn ngữ vô thức, chạm đến tận cùng của sự thật hiện hữu- khao khát vượt thoát khỏi hiện thực từ đọng, ngột ngạt: “Huyền ảo khởi sự... những phút giây sáng láng như hôm nay, soi sáng linh hồn tôi và giải thoát cái “ta” của tôi ra khỏi sự giam cầm của xác thịt” (Chơi giữa mùa trăng).
Trong thơ Hàn Mặc Tử, biểu tượng giấc mơ xuất hiện như một cách trộn lẫn hiện thực, tạo ra một kiểu không gian trùng phức, nhằm bao hàm trong nó nhiều vật chứa của hiện hữu và tồn tại. Như trò chơi của mộng và thực trong tư duy tiểu thuyết mới đương đại - một cách phóng bút vung vãi các mảng màu trong tranh trừu tượng của các họa sĩ (Thoạt kỳ thủy-Nguyễn Bình Phương, Người sông mê – Châu Diên...). Giấc mơ mở ra một cõi mơ mộng: Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu/ Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ/ Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt... (Đau thương). Hiện thực khải thị chỉ là tầng hiện thực thứ nhất, duy lý, là cánh cửa mở vào thế giới tâm linh với những đắp đổi của cái hư ảo - siêu thực: Anh đứng cách xa hàng thế giới/ Lặng nhìn trong mộng miệng em cười. (Lưu luyến). Tôi vẫn còn đây hay ở đâu/ Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu/ Sao bông phượng nở trong màu huyết... (Những giọt lệ). Ngoài kia xuân đã thắm duyên chưa/ Trời ở trong đây chẳng có mùa (Nhớ thương), Ở đây sương khói mờ nhân ảnh (Đây thôn Vỹ Dạ). Cách xa hàng thế giới, ở trong đây, trời sâu, ở đây..., là cõi riêng của thi nhân, nơi đó chỉ có mình nhà thơ với thế giới riêng của mình, nơi mà chính Hàn Mặc Tử bảo “càng đi xa càng thấy lạnh”. Với giấc mơ, thi nhân đã tạo ra một kiểu không gian chỉ tuân theo logic nội tại của nó, không thể cắt nghĩa, lý giải hay chứng thực được mà tồn tại như một kiểu trùng phức, lấp lửng. Mơ và thực luôn đồng hiện tạo nên một vùng tâm thức riêng biệt trong sự tương hợp với cấu trúc bề sâu của ngôn ngữ và biểu tượng. Không gian tâm thức đó lặp đi lặp lại trong thi phẩm Hàn Mặc Tử như một mã đặc biệt đánh dấu một kiểu tư duy thơ mới mẻ, lấp lửng lưỡng nan, chạm đến bờ siêu thực. Giấc mơ trong thơ Hàn Mặc Tử là một kiểu thoát xác từ môtíp giấc mơ trong văn chương phương Đông. Đó là điển tích về mộng điệp, mộng yến, giấc đài dương, giấc hòe, giấc tiên, giấc xuân..., hoặc dòng văn học mộng ảo ở Trung Quốc như Liêu trai chí dị, Chẩm trung ký, Truyện Ghenjy (Nhật Bản). Tuy nhiên, khác với văn chương cổ dùng giấc mộng để phản ánh hiện thực hay mượn mộng mơ nghệ thuật để hóa giải thực tại và thân phận phũ phàng như trong thơ Nguyễn Bính, giấc mơ trong thơ Hàn Mặc Tử là chính hiện thực, là lối vào vũ trụ nội tâm sâu thẳm của thi nhân: Nhớ khi xưa ta là chim phượng hoàng/ Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất/... Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao. (Phan Thiết! Phan Thiết!). Chính vì vậy, không gian vũ trụ, không gian tâm thức xuất hiện dày đặc trong thơ Hàn Mặc Tử, tạo nên kiểu kết cấu Thực – Mơ – Thực và kiểu kết cấu lồng ghép các giấc mơ – bản thân thi phẩm là giấc mơ, là thế giới trong mơ, trong đó nhân vật trữ tình cũng đang trong trạng thái mơ. Từ cõi mơ ước đó thi nhân gởi gắm đến cuộc đời những thao thiết của chính mình. Mùa xuân chín, Đây thôn Vỹ Dạ... tiêu biểu cho kết cấu đó, vì vậy kiến giải giấc mơ là kiến giải hành trình thân phận từ những nghiệm suy về cuộc đời đến những đau đớn về phận người và  khắc khoải bi kịch thể xác không đồng hành cùng tinh thần. Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh thôn Vỹ được khúc xạ qua miền mơ mộng, nuối tiếc của thi nhân nên đẹp một cách lung linh, kỳ ảo. Vừa chớm khát khao, mong ước trở về chốn cũ vườn xưa đã phải đối diện với thực tại chia lìa phiêu tán. Không gian mộng mơ hư thực ở khổ thơ thứ hai thấm đẫm nỗi buồn, những câu hỏi: thuyền ai, có chở trăng về kịp tối nay?...hoang vu ngơ ngác, như một kiểu phóng chiếu nội giới lên đối tượng. Không gian mơ bị áp đặt bởi tâm trạng và ước vọng, đồng nhất với thế giới, mở ra một hiện thực khác, thực hơn thực tại được tri nhận: Mơ khách đường xa, khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra... là hiện thực của tâm trạng, của vô thức. Sắc trắng cùng sương khói của nỗi buồn tạo nên một thế giới khác lạ, như thực như hư. Trong cõi riêng, trong trạng thái mơ nên mọi thứ mờ nhòe, áo em trắng đến nỗi không thể khải thị tức không còn thực nữa rồi. Mọi cái đã ngoài tầm tay, xa ngái, vụt mất... như lá khô rời cành, như mùa đi.... Chính vì ngoài tầm níu kéo nên chới với, tuyệt vọng và hoài nghi: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/Ai biết tình ai có đậm đà? Ngoài kia là thôn Vỹ, là vườn trần, nơi cuộc sống đang mơn mởn, trong trẻo, thanh khiết, tinh khôi, còn "ở đây" là thế giới của Hàn Mặc Tử. Thế giới trong cái vòng tròn mà tác giả tự vạch ra để đứng vào trong đó. Vòng tròn của những giới hạn, giới hạn của kiếp người mong manh, của  tật bệnh, của bi kịch thể xác không đồng hành cùng tinh thần... Ở nơi đó thi nhân tự khách quan hóa mình thành một khách thể "Ai" đứng ngoài mình để nhìn nhận lại mình. Cô đơn, lạc lõng, kỳ oan như Tiểu Thanh, như Nguyễn Du... để chất vấn, để hoài vọng về một chút tình chân thực của người đời "Ai biết tình ai có đậm đà". Đại từ phiếm chỉ "ai" vừa rất chung nhưng cũng rất riêng, vừa gần gũi lại quá đỗi xa xôi, có thể là một Hoàng Cúc cụ thể nhưng cũng là muôn vạn con người trong cuộc đời này, là "thiên hạ hà nhân". Nguyễn Du ngày xưa cả một đời dành nước mắt khóc cho những người bạc mệnh - "Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều" (Tố Hữu) để rồi hoài vọng băn khoăn về một giọt lệ chân thực của người đời: Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?(Độc Tiểu Thanh ký- Nguyễn Du). Chàng thi sĩ họ Hàn cũng nỗi niềm ấy, mong ước ấy. Niềm khắc khoải rung lên trong câm lặng để rồi khép lại thành câu hỏi cho muôn đời, cho muôn người, cho những ai khao khát đồng cảm, đồng điệu.
Mùa xuân chín cũng có kết cấu mộng lồng mộng như vậy. Mơ mộng ở khổ đầu bài thơ là hiện thực khải thị, tri giác được, nhưng đến ngày mai… có kẻ…(Sóng cỏ xanh tươi rợn tới trời…/ Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi) thì hiện thực được đẩy xa hơn, mờ mịt nỗi buồn hơn, là hiện thực của tâm tưởng - Khách xa gặp lúc mùa xuân chín/ Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng/ Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang? (Mùa xuân chín). Màu trắng thường xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử và được dùng ở sắc độ cao nhất “trắng như tinh” (Chết rồi xiêm áo trắng như tinh) “trắng quá'' ,''sông trắng”. Ở “sông trắng nắng chang chang” thì cách kết hợp giữa ngữ nghĩa của từ và vần “ang” đã tạo sự âm vang mở ra một không gian rộng, tất cả nhòa đi trong màu chói chang của nắng, hình bóng người chị gánh thóc như gánh cả số phận mình nặng trĩu đi từ thực tế cuộc đời lẫn vào sắc trắng của thế giới u hoài trong tâm tưởng tác giả. Những u hoài về số phận con người, về cuộc đời...  Không gian đã chuyển dịch vào tầng sâu của vô thức, bao cô thôn nữ/ kẻ/ khách xa/ chị ấy... không thể phân biệt chủ thể và đối tượng, sự tráo ngôi, mờ nhòe, đồng nhất về không gian (huyền ảo và vô thức – tức thế giới khác, hiện thực khác và không gian tri nhận, khải thị của thi nhân), mở ra trong diễn ngôn những ký hiệu mở, tự thân mang nghĩa và sáng tạo nghĩa.
Cánh cửa giấc mơ đã mở ra nhiều không gian mới trong thơ Hàn Mặc Tử, thoát khỏi không gian hiện thực chật chội, tù đọng, mở ra cho nhân vật trữ tình nhiều chiều kích, tạo nên màu sắc mới mẻ, lạ lẫm cho ngôn từ và kết cấu thơ: Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu/ Não nề lòng viễn khách giữa trời mơ (Hãy nhập hồn em), Mơ trăng ta lượm tơ trăng rơi (Say trăng). Không gian đó mang khí hậu riêng, lãnh thổ riêng, có logic nội tại riêng do tư duy mộng mơ độc đáo của thi nhân. Nhân vật trữ tình hiện diện trong khát vọng hợp nhất tinh thần: Tôi đi trong ánh sương mờ/ Tìm con trăng lạc ngoài bờ bên kia (Chơi trên trăng). Hẹn tôi tảng sáng đi tìm mộng/ Mộng còn lưởng vưởng bến xa mơ (Một miệng trăng). Làm sao giết được người trong mộng (Lang thang). Anh nằm ngoài sự thực/ Em ngồi trong chiêm bao (Anh điên). Thế giới thơ Hàn MặcTử đầy ắp cõi mơ và sự thật khải lộ ở đây là: mơ mộng không chỉ là một trạng thái mà còn là một tượng trưng sâu thẳm về bản thể người trong khát vọng hợp nhất. Đó không chỉ là những đuổi bắt mộng mơ tình ái thông thường mà khẩn thiết hơn còn là vấn đề về bản thể con người. Một truy vấn bức thiết trong tinh thần bất tín nhận thức của con người hiện đại: tại sao càng đầy đủ tiện nghi, con người càng cô đơn, càng rơi vào mặc cảm bị tước đoạt... Vì vậy biểu tượng giấc mơ trong thơ Hàn Mặc Tử vừa hướng tới sự hợp nhất của tinh thần tối thượng, vừa tồn tại như một biểu tượng mà cùng với nó, sau nó mở ra một tư duy mới về thơ, về ngôn ngữ, mở ra một cảm thức mới về thế giới như là sự đồng vọng khát vọng sống của con người.
4- Với một thế giới thơ mộng mơ hư ảo, những mô típ, những ám ảnh…Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử  đã góp phần  không nhỏ trong dựng xây và khám phá thế giới tâm hồn bí ẩn của con người- khát vọng muôn đời của văn chương và nhân loại. Các nhà Thơ mới đã chuyển tải kết quả của cuộc sống tình cảm cộng đồng thông qua cảm xúc cá nhân. N. Frye cho rằng thơ trữ tình bằng mô hình riêng của mình, dung chứa những yếu tố tiên tri hiển linh, rốt cuộc là chính những giấc mơ. Jean Bellemin – Noel cũng cho rằng khám phá, lý giải biểu tượng trong đọc tác phẩm văn học cho phép “đồng thời vừa tặng cho văn bản một chiều kích khác, vừa quan sát được cách viết trong sự sinh thành và trong sự vận hành của nó”([7]). Điều đó khẳng định quan hệ chặt chẽ giữa giấc mơ và sáng tạo thi ca - là lĩnh vực trong đó sức mạnh toàn năng của các ý tưởng được thể hiện. Chính vì vậy biểu tượng giấc mơ gắn với quá trình thăng hoa sáng tạo của người nghệ sĩ, nhân vật mơ và nhân vật trong giấc mơ là những hóa thân của chủ thể sáng tạo, ở đó những năng lượng tinh thần vô thức chuyển từ mục tiêu thõa mãn bản năng sang mục tiêu thẩm mỹ, gởi vào đó sự đồng nhất giữa mơ mộng và cuộc sống, khẳng định một tố chất trong cá tính sáng tạo của mình ở tư duy mộng mơ và lý tưởng thẩm mỹ.
Những mộng mơ nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử nói riêng, trong Thơ mới nói chung đã mở ra những chiều kích khám phá mới về đời sống, về bản thể con người, như một cách tìm câu trả lời cho những truy vấn khẩn thiết muôn đời của nhân loại. Người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật - quá trình giải mã những truy vấn đó, thay vì tìm những câu trả lời cuối cùng lại mở ra muôn vàn ẩn số khác, mở rộng về phía chân trời những khám phá, những cánh cửa mở vào thế giới nghệ thuật của người nghệ sĩ. Những giấc mộng với khát vọng hợp nhất mãnh liệt là một cứu cánh nghệ thuật đưa thi phẩm của thi nhân đến cõi vĩnh cửu của cái đẹp và nghệ thuật. Thế giới mơ trong tỉnh thức của thi nhân luôn lấp lánh những khía cạnh ngữ nghĩa mới, vẫy gọi nhiều giải đáp trong tầm đón nhận hiện đại.
 Chú thích:
([1]) Jean Chevalier - Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng; tr 164
([2]) Stephan Zweig (1999) - Tiểu luận và bút ký chân dung - Dấu ấn những nền văn minh, những giờ rực sáng của nhân loại. NXB Văn hóa thông tin; tr 562
([3])  Erich Fromm, (2003), Ngôn ngữ bị lãng quên; NXB VHTT H;  tr 75
([4]) Erich Fromm, (2003) - Phân tâm học và tình yêu-NXB Văn hóa thông tin H, tr  205, Đỗ Lai Thúy (Biên soạn)
([5]) Hoài Thanh-Hoài Chân (1994) - Thi nhân Việt Nam - NXB Văn học H, tr 223.
([6]) Đỗ Lai Thúy (Biên soạn) (2004) - Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật - NXB Văn hóa thông tin H;  tr27
([7]) Jean Bellemin – Noel,  Phân tâm học và văn học, tr196 (Đỗ Lai Thúy (Biên soạn)(2004) - Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật - NXB Văn hóa thông tin H.)
Huế, 4/2012
Hoàng Thị Huế
Theo http://vietvan.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...