Hoa bên trời
Đã lâu tôi không hề nhắc đến
hoa, và tôi cảm nhận tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt
một quảng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong
manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có
nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cái hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn
nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.
Trước hết tôi phải nói về những
bông hoa phù dung, mà tôi đã gặp bên một đường đồi ở Đà Lạt trước ngày tôi bỏ
phố lên rừng. Thú thật là từ trước đến nay, tôi không ngờ là có một loài hoa
oái ăm đến thế: màu trắng buổi sáng, thì tưởng như không có vật gì ở trên đời
trắng hơn, màu hồng vào buổi trưa thì quyến rũ như màu má giai nhân và màu tím
vào buổi chiều luôn luôn khiến ta đau xót, như một niềm thương tiếc khôn nguôi.
Cứ ba màu như thế nối tiếp nhau, và trải qua chỉ trong một ngày. Hoa phù dung
biểu lộ với tôi lòng ham thích cuộc sống của nó, mặt khác, hình như nó đã phải
sống hụt một đời hoa. Thậm chí, có khi ngồi buồn, tôi nghĩ rằng trong thế giới
này nếu có một vật gì có vận tốc nhanh nhất thì vật ấy chính là cuộc đời của
hoa phù dung. Thấy đóa hoa trắng muốt từ vườn nhà ai đổ nghiêng ra bên đường
quá đẹp, tôi muốn hái về làm quà tặng cho cô bạn gái, nhưng chợt nhớ ra tôi còn
bận chút việc ở phố, bèn tự nhủ đợi lúc đi phố về hẳn hái. Trưa hôm ấy, tôi gặp
việc bất ngờ không trở về lối vườn cũ như đã hẹn. Mãi đến lúc chiều xế, tôi mới
trở lại, với quyết tâm hái cho được bông hoa trắng gặp bên đường hồi sáng về tặng
cô bạn gái nhân ngày sinh nhật. Nào ngờ tìm mãi, chỉ thấy một bông hoa tím bầm
héo rũ trên cành, tôi cứ nghĩ là mình đã gặp một bông hoa khác.
Sau này tôi mới hay rằng chính nó là bông hoa trắng hồi sáng, và nó mang tên là hoa phù dung, tôi lại thấy một cảm giác rờn rợn như đối với một số phận đầy bi thảm. Như thể rằng nó không là một loài thực vật, mà là một thiếu nữ. Một thứ hoa khác mà tôi không thể không nhắc đến mỗi lần nói về hoa, là hoa ngũ sắc. Nó như một thứ quà tặng mà thiên nhiên dành cho tuổi thơ của tôi, hay nói cách khác, chính là nhờ hoa ngũ sắc mà tuổi thơ đầy ràng buộc trong sự nghiêm khắc của cha tôi, tôi vẫn cảm thấy tuổi nhỏ của tôi có đôi phần hoang dại. Hoa ngũ sắc mọc hoang bên đường đi, mỗi đóa hoa chỉ lớn bằng đồng xu, với những cánh hoa nhỏ xíu có năm màu đỏ, gạch, vàng, trắng, xanh; trái kết thành chùm khi chín màu đen sẫm, có vị ngọt. Tôi có cái thú mỗi khi đi học về, thường tha thẩn bên những trái chín hoặc hút chất mật ngọt cuối những cánh hoa. Trước khi lên rừng, hình ảnh thân yêu của thành phố hiện ra đầy tâm trí tôi. Lúc tôi thong thả bước qua cầu Trường Tiền là hình ảnh của những bông hoa ngũ sắc, mọc hồn nhiên trên nền đổ nát của những cung điện hoang phế. Chúng sặc sỡ bên đường như một bầy trẻ con đang ríu rít chào tôi. Trong một nỗi lưu luyến như tuồng không phải đối với những bông hoa, tôi thì thầm với những bông ngũ sắc: "Tạm biệt nhé! Tạm biệt tuổi thơ của ta!"
Sau này tôi mới hay rằng chính nó là bông hoa trắng hồi sáng, và nó mang tên là hoa phù dung, tôi lại thấy một cảm giác rờn rợn như đối với một số phận đầy bi thảm. Như thể rằng nó không là một loài thực vật, mà là một thiếu nữ. Một thứ hoa khác mà tôi không thể không nhắc đến mỗi lần nói về hoa, là hoa ngũ sắc. Nó như một thứ quà tặng mà thiên nhiên dành cho tuổi thơ của tôi, hay nói cách khác, chính là nhờ hoa ngũ sắc mà tuổi thơ đầy ràng buộc trong sự nghiêm khắc của cha tôi, tôi vẫn cảm thấy tuổi nhỏ của tôi có đôi phần hoang dại. Hoa ngũ sắc mọc hoang bên đường đi, mỗi đóa hoa chỉ lớn bằng đồng xu, với những cánh hoa nhỏ xíu có năm màu đỏ, gạch, vàng, trắng, xanh; trái kết thành chùm khi chín màu đen sẫm, có vị ngọt. Tôi có cái thú mỗi khi đi học về, thường tha thẩn bên những trái chín hoặc hút chất mật ngọt cuối những cánh hoa. Trước khi lên rừng, hình ảnh thân yêu của thành phố hiện ra đầy tâm trí tôi. Lúc tôi thong thả bước qua cầu Trường Tiền là hình ảnh của những bông hoa ngũ sắc, mọc hồn nhiên trên nền đổ nát của những cung điện hoang phế. Chúng sặc sỡ bên đường như một bầy trẻ con đang ríu rít chào tôi. Trong một nỗi lưu luyến như tuồng không phải đối với những bông hoa, tôi thì thầm với những bông ngũ sắc: "Tạm biệt nhé! Tạm biệt tuổi thơ của ta!"
Hai loài hoa trên tuy không
thuộc về thế giới khói lửa nhưng chúng đã giữ một vai trò quan trọng trong tâm
hồn tôi, và thường xuyên có mặt giữa những tổ hợp hoa đã cấu trúc nên thế giới
tình cảm của tôi trong chiến tranh, vả lại tôi cũng e rằng tôi không còn dịp
nào khác để nói về chúng.
Thời kỳ ở rừng, sáu tháng đầu,
tôi vẫn được hưởng tiêu chuẩn "khách mời" của thành phố Huế. Có một
đêm tôi theo cơ quan một địa điểm xa khỏi nơi đóng trụ sở để đề phòng địch mở
cuộc càn quét. Địa điểm ấy là một cánh rừng thưa thuộc vùng giáp ranh, mặt đất
phẳng khá rộng và mọc đầy một giống hoa địa lan lạ, trước nay tôi chưa hề thấy.
Hoa gồm có một cọng dài, trên đầu nở hai tầng hoa màu khác nhau: tầng trên các
cánh hoa màu trắng, tầng dưới màu vàng cháy. Em trai tôi đi hái chừng 5 cọng
hoa cắm vào một ống giang có đuôi được vạt nhọn để cắm xuống đất, mang đến đặt
cạnh võng tôi. Đó là bình hoa đầu tiên em tôi tặng tôi ở Trường Sơn, khi tôi đi
xa chiếc bàn viết "mộng dưới hoa" của tôi ở thành phố. Sáng hôm sau,
tôi thức dậy trong tiếng chim rừng và tiếng suối reo. Tôi xiết bao ngạc nhiên
khi thấy cành địa lan gần tôi đã thay đổi màu từ bao giờ. Màu vàng cháy phía dưới
đã dâng cao lên ngọn và tầng hoa trắng phía trên bị thu hẹp lại. Nhìn thật kỹ,
tôi chợ phát hiện rằng cành lan mà lúc đầu tôi tưởng rằng có hai màu khác nhau,
hóa ra chỉ có một màu trắng và khi càng về già, những cánh hoa trắng đều ngả
sang màu vàng cháy. Tôi cảm ơn em trai tôi đã mang tặng tôi chút dư vang thân
thiết của thành phố trong những ngày tôi đi "đánh bạn với lau lách" ở
rừng Trường Sơn. Tôi còn phải sống nhiều năm với tình bạn ấy và sau này tôi
nghiệm ra rằng đấy là những năm tháng mang tất cả ý nghĩa của cuộc đời tôi. Những
năm tháng ấy giống như ý niệm hạt nhân của nguyên tử, mang toàn bộ trọng lượng
của đời tôi và nếu như loại trừ những tháng năm ấy ra khỏi đời mình thì mọi biến
cố còn lại của tôi sau này sẽ trở nên hụt hẫng mất trọng lượng như những vật thể
ở ngoài không gian.
Tôi xin nói tiếp về một loài
hoa khác.
Một hôm, tôi đi lạc vào một
cánh rừng rộng đầy những cây mây song. Tôi nằm áp mặt xuống đất, dòm nghiêng dưới
chân những bụi mây, cố tìm dấu vết của những con heo rừng thường ẩn nấp trong
đó. Ở một bụi cây, tôi tình cờ phát hiện một loại cây chi mà lá phiến tròn cuống
dài trông như bụi rau má; biết đâu nếu quả là rau má thì tốt quá; những năm này
chúng tôi đang đói. Tôi nhổ một bụi cây nhỏ và lùi ra khỏi gốc mây, mân mê nhìn
kỹ. Dưới chân những cuống lá, có một đàm hoa vàng chói; hình như những chiếc lá
cố tình vươn lên cáo để giấu kín hoa. A, đúng là hoa Păng xê, nhưng ở đây hoa
không có màu tím than mà trở nên vàng chói; tuy nhiên trông nó vẫn tinh khiết
và cao sang lạ lùng. Hoa Păng xê có tên trong danh sách những loài hoa quý mà
những người yêu nhau thường tặng cho nhau để thay lời nhắn nhủ: "đừng để
ai biết chúng mình yêu nhau". Ở giai đoạn bắt đầu, người ta thường có thói
quen giấu kín người khác về tình yếu của mình; có lẽ vì vậy mà người ta gọi tâm
hồn con người là một "khu vườn bí mật". Nhiều cô gái ở thành phố vẫn
thích ghim một biểu tượng hoa Păng xê trước ngực áo; để hé mở một chút về
"khu vườn bí mật" của mình, như vậy, trông lại càng quyến rũ. Tôi nhớ
họa sĩ Đinh Cường có vẽ tặng tôi bức sơn dầu "Bản giao hưởng bỏ dở"
trong đó vẽ một hoa Păng xê đặt trên một chiếc dương cầm với chiếc ghế ngồi bỏ
trống. Có một dạo tôi rất mê hoa Păng xê. Cô em gái của tôi bèn nhổ trộm cây
hoa ấy trong vườn hoa của bà hiệu trưởng định mang về tặng tôi. Chẳng may sự việc
bị phát giác và cô bé tội nghiệp suýt bị đưa ra tòa án về tội ăn cắp. Hoa Păng
xê đã để lại một kỉ niệm cay đắng như thế trong tâm hồn tôi, nên tôi chợt vui mừng
vô kể khi gặp lại nó giữa chốn hoang vu này. Dù nó không phải màu tím nhưng tôi
cứ tin rằng nó là hoa Păng xê thứ thiệt; biết đâu hoa Păng xê cũng có một màu
khác, giống như kỉ niệm có nhiều màu. Tôi nghĩ rằng thứ hoa thường thấy đều là
hoa trang trí nội thất, trong khi Păng xê lại là hoa trang trí tâm hồn, tôi yêu
hoa Păng xê vì nó là dấu hiệu của nội tâm thầm kín, nó mang trả cho tôi những
ngày rong chơi tha hồ khi còn ở thành phố. Tôi tình cờ phát hiện ra nó ở một
cánh rừng hoang dại mà tôi chỉ đi qua có một lần, đưa nó ra ánh sáng từ một mặt
đất ẩm ướt, dưới chân tối mờ và gai góc của một bụi mây song. Tôi ao ước một
ngày chấm dứt chiến cuộc để tôi đi lang thang trên những nẻo đường rụng đầy lá
vàng tươi, hoặc ngẩn ngơ đứng nhìn dòng sông mượt mà trôi đi với những con đò
áo trắng, và tôi sẽ hoàn toàn hạnh phúc trong thành phố của tôi, với một biểu
tượng của hoa Păng xê trên ngực. Mặt khác, tôi biết rằng tôi còn phải đánh bạn
với lau lách trong nhiều năm; vật mà tôi luôn có bên mình, chính là khẩu súng,
không phải là hoa, và còn lâu mới đến hoa Păng xê. Và đến bao giờ thì những bạn
bè tri kỉ của tôi hiện ở phố biết được rằng chính tôi đã khám phá ra một loài
hoa Păng xê màu vàng từ trong lòng một cánh rừng Trường Sơn? Ngày đó, thì chắc
tôi đã già. Lau lách trên núi cũng già. Nhưng hoa Păng xê thì mãi mãi vẫn giữ
riêng một điều gì thầm kín.
Chiến tranh càng kéo dài, những
khách chiến quân thành phố càng bị đẩy dần lên cao trên Trường Sơn; ở đó là rừng
già và hoa dại càng trở nên hiếm hoi. Thỉnh thoảng, tôi lại gặp một cây tùng độc
lập, với những con đại bàng viễn du ghé lại ăn trái tùng, hoặc những đêm ngủ rừng,
thức giấc tôi nghe cả tiếng đười ươi hú...Tôi rất ít gặp hoa nhưng âm thầm
trong lòng, tôi vẫn nhớ chúng. Cơ quan di chuyển nhiều nơi, tôi vẫn lích kích
mang theo ba lô một mảnh gỗ mộc có bám mấy sợi rễ phong lan, đem về treo lủng lẳng
ở chỗ làm việc. Cái giống Phong lan thật đời, sống không cần đất và nước, thường
thì trông xấu xí, cục mịch và im lìm đến độ tưởng rằng nó đã chết. Nhưng cứ đến
mùa thì nó lại bất ngờ ra hoa, hoa đẹp và kỳ lạ không thể tưởng. Cành phong lan
của tôi cũng thế. Một mùa xuân, nó đã nở cho tôi hai giò hoa đầy những hoa vàng
với những chấm tím. Chính nhờ có nó mà tôi biết rằng mùa xuân đã về, vì theo
thói quen, tôi làm việc không hề nhìn đến quyển lịch. Nó khiêm tốn và kiên cố
như một chân lý, cứ đúng lúc lại xuất hiện.Những lần công tác, tôi thường mang
theo dòng sông Hương chảy trên rừng. Lần ấy có Khoa cùng đi với tôi. Chúng tôi
cùng đi dọc theo bờ sông Hương đúc bằng một dãi đá liền xa đến mút mắt, lô nhô
những hòn đá nhoi cao hơn như hình những nhà sư ngồi thiền định bên sông, cạnh
những ục nước mà khi thủy triều rút xuống, còn để lại ít nước và những con cá
sao chạy loăng quoăng từ ục này sang ục khác. Trình thường đi công tác ghé qua
đây, dùng súng AK bắn thẳng vào những ục đá lớn để vớt những con cá sao nổi lềnh
lềnh đem về nấu canh với lá giang. Ở những ục đá nhỏ hơn mà nước sông đã kịp
khô đi trong ngày, tôi tìm thấy một cây gì không biết, lớn bằng que tăm với ba
sợi rễ bám vào mặt đá, mỗi cây nhỏ xíu ấy đều đội một đóa hoa nhỏ và đỏ thắm
trên đầu. Nhìn kỹ nhiều bông hoa chung quanh, tôi hiểu ra mỗi cây này chỉ sống
và nở hoa trong một ngày rồi chết, cả hoa và cây đều cùng chết một lần. Tôi chỉ
Khoa xem hiện tượng ấy, nói với Khoa rằng cây hoa này giống như con người sống
để dâng hiến cho cuộc đời một trái tim đỏ thắm rồi im lặng chết. Hãy học bài học
của bông hoa này, sống để hoàn thành hành động dâng hiến trái tim mình cho Tổ
quốc, một lần thôi. Khoa chia tay tôi lội qua sông một mình, chiếc gùi mang nặng
trên lưng. Tôi nhìn theo Khoa cho đến lúc cái bóng nhỏ của Khoa lần khuất trong
rừng già, thầm nghĩ rằng đã hết những ngày vui vẻ trên nương rẫy, chuyến về
vùng sâu lần này của Khoa là hành động nở hoa của cây cỏ dại.
Ở một quãng nào đó của sông
Hương trên rừng, chúng tôi đi len lỏi trong vài tiếng đồng hồ liền giữa một
loài cây dại có lá và hoa rất đẹp: lá thon thả hình con mắt lá răm, mặt lá bóng
láng phản chiếu ánh mặt trời và hoa có năm cánh xòe ra, màu hồng thắm đẹp và
nhiều giống như hoa phượng. Chúng tôi quen gọi là cây rì rì, tên Cà tu của nó
là Arui, cũng thường dùng để đặt cho những cô gái. Cây rì rì mọc sát bờ nước và
thường lan ra ôm choàng kín những vầng đá giữa dòng sông. Lần ấy chúng tôi đi
công tác về ngang qua bãi rì rì bên sông, bèn dừng lại tắm sông. Tôi bơi ra xa,
níu cho kì được một cây rì rì đứng an nhiên trên một tảng đá giữa lòng sông. Giữa
lúc ấy thì trực thăng Mỹ chợt đến. Tôi chẳng biết chạy đi đâu bèn đứng yên, cầm
một cành hoa rì rì đỏ che trên đầu. Bạn bè tôi đều lo cho tôi, nhưng chỉ thấy
tôi vẫn tiếp tục cười nói với họ, với cành hoa đỏ trên tay. Trực thăng đi qua,
khẩu đại liên ở cửa máy bay chỉ cách đầu tôi một quãng ngắn. Nhưng hình như tên
xạ thủ súng máy chăm chú nhìn vào ven sông nên chẳng nhìn thấy tôi đứng dưới
máy bay. Máy bay đi qua, tôi đứng ngật ngưỡng trên tảng đá, nhìn bao quát cả tầm
mắt một dãy bờ sông, hoa rì rì nở thắm cả dặm dài, giống như hoa phượng trên những
đường phố. Ít ai ngờ rằng trong chiến tranh, có một lần tôi đã sững sờ đứng ngắm
những bông hoa dại này.
Tôi không thể nào không nhắc
đến loài hoa núi ấy mà KanLen đã hái tặng tôi lúc chia tay. Thú thật rằng đến
bây giờ tôi vẫn không biết tên nó là gì và có lẽ cả KanLen cũng không biết tên;
mãi mãi nó là một bông hoa rừng vô danh. Nó lớn bằng một đóa hoa hồng, có nhiều
cánh, màu xanh hồ thủy (suốt một thời gian dài ở Huế tôi chưa hề gặp một loài
hoa có màu xanh cả, ngoại trừ những bông hoa cỏ, màu xanh da trời). KanLen đã
hái nó từ một bụi bờ nào đó đưa cho tôi và nói bằng giọng huyền thoại: "Một
nghìn năm hoa này mới nở một lần".
Cuối ngày làm việc, tôi ra
thung lũng chuyện trò cùng KonLài. Như thường lệ, ông cùng cô con gái KenLen của
ông ngồi chơi trong một chiếc nốn rộng bên bờ suối Tà Lơng của thôn A Dài. Bãi
cỏ ở nơi đây rộng ngút ngàng, chạy dài suốt thung lũng, thỉnh thoảng điểm những
cây ổi đầy những trái chín. Ông KonLài có vẻ là một nhà bảo vệ văn hóa Kà Tu bằng
cách đi đâu cũng lăn theo một chiếc nón thay thế giường chiếu, và dùng một chiếc
ống voọc nặn bằng đất sét nung với cái đuôi mây dài và đánh lửa bằng đá. Ông có
một bộ dụng cụ đánh lửa rất đặc biệt. Ông dùng một lưỡi dao nặng bằng sắt quẹt
mạnh vào một hòn đá, tia lửa bắn vào một nhúm bùi nhùi kèm theo; tiếp theo, ông
thổi mạnh vào nhúm bùi nhùi làm lửa bùng lên thành ngọn cháy lan sang một đoạn
dây thừng làm bằng sợi đoác ngâm bùn và châm thuốc bằng sời dây thừng ấy.
KanLen hôm nay diện một áo sơ mi màu đen có hoa văn trắng, và một chiếc váy màu
xanh; ý chừng hai cha con sang dự hội làng ở thôn A Dài này. Trông cô thật trẻ
trung và đầy sức sống. Tôi thì theo cơ quan sang nhận một tấm rẫy cũ do đồng
bào ở thôn A Dài tặng. Ngồi nói chuyện gẫu với già KonLài một chốc, KanLen đưa
mắt ra hiệu bảo tôi vào rừng. Chúng tôi đến một bãi cỏ rộng với nền đá ẩm mọc đầy
một loài hoa cỏ dại, gần giống như hoa tường lan ở Huế; màu trắng ngà và có sáu
cánh. Bãi đất này chúng tôi rất thích ngồi chơi với nhau mỗi lần có việc rẫy phải
qua A Dài. Tôi vừa được cơ quan gọi về làm hết mọi việc thay thế cho anh em
trong tòa soạn triển khai xuống đồng bằng phát động phong trào nhân dịp địch
đang hoang mang sau chiến dịch Nam Lào. Trước mắt tôi đám hoa cỏ trắng líu ríu
trong gió núi, gợi cho tôi những bông hoa ngũ sắc ngày xưa. Tôi dối KanLen rằng
tôi sắp phải về vùng sâu công tác và phải xa nàng ít lâu. KanLen rơm rớm nước mắt
vì sợ tôi sẽ chết. Thời buổi ấy vùng sâu đầy ắp bọn bình định nông thôn. KaLen
bảo tôi giọng thật tội nghiệp:
- Nếu anh hy sinh, em sẽ
dành cho anh một loài hoa khác để cắm trên mộ liệt sĩ hoặc một mô đất nào đó ở
nghĩa trang xã. Còn nếu anh vẫn sống, lại đi yêu người khác thì em cầu nguyện
cho những bông hoa trắng này chết đi, và em sẽ chẳng bao giờ trở lại đây nữa.
Huế ngày 28/12/2004
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét