Cả cái thị trấn Núi Nhạn quanh năm lấm
lem bụi đỏ này hầu như không ai không biết tới “Nhiên khùng”. Thị trấn
lấm lem bụi đỏ là vì vị thế địa lý nằm trên một vùng đất giáp với núi
non, chỉ một vài con đường cái lớn đất cấp phối đầy những ổ gà ổ voi,
mưa thì bùn đất lầy lội, nắng thì bụi bay mù mịt. Từ ngày chỉnh trang,
đường cũ mở rộng ra, đường mới ngổn ngang đất đá, tiến độ ì ạch kéo dài
từ năm này qua năm khác chưa xong, nên đã bụi bặm lại càng thêm bụi bặm.
Trong lúc dân thị trấn, mọi người chen
chúc nhau chường mặt ra phía đường cái, chi ít cũng là một con hẻm lớn ở
trung tâm thị trấn, anh Nhiên thì ngược lại, xin chuyển nhà từ thị trấn
vào dưới chân núi Nhạn. Đây là một khu đất hoang nằm ở ngoại ô thị trấn
trải dài dưới chân núi Nhạn uốn lượn theo dòng sông Yên. Và vì giữa khu
đất có một cái lô cốt từ thời chiến tranh còn lại nên khu đất hoang này
có tên gọi là đất lô cốt.
Chính quyền thị trấn Núi Nhạn thấy lâu
nay khu đất hoang này cây cỏ dại mọc um tùm, đã thành chỗ lưu niên cho
dân thị trấn đổ đủ các loại rác thải gây ô nhiễm môi trường, nên khi
tiếp nhận đơn xin khai hoang mở trang trại của anh Nhiên, ông chủ tịch
thị trấn cười tủm tỉm nói lầm thầm: “May đâu có thằng cha khùng này mà
xóa đi được cái điểm đen môi trường”. Vậy là cơ quan tài nguyên môi
trường cứ y theo bút phê đầy “thiện ý” của ông chủ tịch trong đơn, đã
cấp khu đất lô cốt cho anh Nhiên. Ngày đi nhận tấm bìa đỏ công nhận
quyền sử dụng đất về, anh Nhiên hả hê khoe với vợ cái “chiến công” tay
không bắt giặc của mình. Ai ngờ chị Tú vợ anh giậm chân kêu trời: “Trời
đất! ông khùng ơi là ông khùng, tưởng ông nói chơi chơi, ai ngờ ông làm
thiệt dắt vợ con vào cái hố rác trong hóc núi”.
Đấy là buổi chiều đang dần tối, nằm với
anh Nhiên trên nóc lô cốt ngắm trăng non chênh chếch xuyên qua vòm lá
thấp, tôi nghe anh kể lý do về sự ra đời của cái tên “Nhiên khùng”. Nói
rồi anh cười ha hả bảo: “Cái tay chủ tịch ngày ấy tưởng lầm thầm trong
miệng, tớ không nghe thấy gì à, tớ còn thừa biết ý chả mượn tay tớ để
xóa sổ cái núi rác ấy chứ. Nhưng miễn được việc mình mới là cái đích tới
cậu ạ”. Khoảnh khắc ấy, chả biết ngẫu hứng thế nào anh Nhiên lại véo
von đọc thơ như giễu cợt với chính mình: Bởi quen ăn nói lùng khùng/
Trăm năm xã hội không dùng được cha!
Mà kể ra cũng... không ai dùng được anh
Nhiên thật. Thời còn bao cấp, anh từng theo học ngành mỹ thuật. Nhưng từ
ngày ra trường anh chẳng xin được việc làm ở đâu, nên về quê lèng xèng
mấy công việc pa nô áp phích ở xã, và rồi lấy vợ sinh con không rời quê
nửa bước. Có người bảo là do lý lịch của anh không rõ ràng, có người lại
bảo anh có vẻ… thần kinh, chả biết đâu mà lần chuyện đám đông. Là người
cùng làng, nhưng tôi nhỏ cách xa anh Nhiên gần giáp tuổi, công việc tôi
lại ở phố quanh năm, cái khoảng cách ấy dường như để thêm khói sương
những câu chuyện kể về anh, để hình ảnh anh đối với tôi luôn là một
huyền thoại.
Lý ra chiều nay, xong cái đám chạp mả ở
nhà thờ tộc là tôi chạy xe thẳng một mạch về thành phố. Vậy rồi trong
khi ngồi ăn giỗ, chuyện thế nào lại dẫn tới cái đề tài “Nhiên khùng”.
Lại sôi nổi gần như choán chỗ hết mọi câu chuyện khác. Ai cũng bảo: “Cái
khùng của anh Nhiên là của quý, của hiếm”. Rồi lại còn quy đổi thành
tiền “Bạc tỷ cũng không mua nổi cái khùng ấy”. Tay chủ tịch thị trấn nay
đã về hưu, vốn người có họ hàng cháu ngoại của tộc họ tôi, thì vừa vồn
vã nói về cái trang trại bạc tỷ của anh Nhiên, vừa tỏ ra chút ơn ban
phát: “Chưa tính tới hoa lợi cây trái, tính sơ sơ cái giàn bông lý dài
cả cây số bên sông Yên, cứ mỗi buổi sáng sớm dân buôn rau sạch ở ngoài
phố vào hái cân, bà Tú vợ ông Nhiên đã thu mấy triệu bạc tráng miệng
rồi. Không có tui thì “Nhiên khùng” làm chi có cơ ngơi đồ sộ như bây
giờ”.
Trong nhiều lời bàn bạc vào ra sôi nổi
về cái trang trại ở khu đất lô cốt của vợ chồng anh Nhiên chị Tú, chỉ
có bác Giáo Khâm trưởng tộc của tôi là không mảy may động tới bạc tiền.
Bác ngồi rung đùi nghe đám con cháu đoán già đoán non, tiếng to tiếng
nhỏ về nguồn thu nhập kinh tế của anh Nhiên chị Tú, chợt bác nâng tách
rượu lên, hớp một ngụm, khà một tiếng rõ to rồi khẽ khàng đọc câu thơ
như nói giữa trời không; Sơ khai du mục tầm phương thảo. Mọi con mắt ngơ
ngác hướng về bác chả hiểu bác nói điều gì. Cho mãi đến khi tiệc giỗ
xong rồi, bác mới kéo tôi ngồi vào chiếu trà bày trên nền gạch hoa trước
hàng hiên tự đường, giọng khàn khàn bác hỏi tôi: “Nghe nói cháu làm nhà
báo hử, tức là người có chữ chứ gì, vậy cháu hiểu câu thơ bác đọc vừa
rồi là ý bác muốn nói gì đây?”. Tôi nhỏ nhẹ “dạ dạ”, vừa bưng ấm trà sẵn
từ bao giờ rót vào từng ly, vừa thơ mơ trả lời: “Dạ, ý bác muốn nói anh
Nhiên là kẻ du mục đi tìm cỏ thơm ở chân núi Nhạn (chứ làm kinh tế chỉ
là việc phụ)”. Nghe tôi diễn dịch ứng vào trường hợp anh Nhiên, bác
trưởng tộc cười ha hả như kiểu hát bộ, rồi ông vỗ vỗ vào vai tôi khen
lấy khen để: “Giỏi, giỏi, thằng này giỏi. Tầm phương thảo - đi tìm cỏ
thơm, đấy mới là cái lý do thằng Nhiên chọn lựa đất dưới chân núi Nhạn
mà tìm về cháu ạ!”. Giọng bác Giáo Khâm đều đều như dẫn tôi vào thăm
thẳm cổ tích...
“Thời đánh Tây năm xưa quân đội Pháp xây
dựng cái lô cốt đôi to tướng dưới chân núi Nhạn, nằm bên bờ sông Yên.
Đây là vị trí quan trọng, một mặt canh giữ con đường bộ dẫn lên đồn Tây
trên núi Nhạn, mặt khác để kiểm soát con đường thủy là sông Yên, đoạn
chảy qua chân núi. Qua đến thời chế độ Sài Gòn, cái lô cốt này biến
thành một lao xá, tức là nhà tù, nơi giam giữ người tham gia kháng chiến
bị bắt. Trong số những tù nhân năm ấy có cô Kiều Thị Phúc, con gái của
làng mình...”. Nghe đến đây tôi hỏi chen vào: “Là cô Phúc mẹ của anh
Nhiên phải không bác?”. “Ừ, mẹ của thằng Nhiên đấy”. Bác Giáo Khâm đưa
ly trà lên uống một hơi cạn ly, rồi kể tiếp. “Hồi đó Phúc là một nữ sinh
xinh đẹp của trường trung học ở thị trấn. Người ta đoán chừng cô ấy bị
bắt chẳng phải vì hoạt động bí mật bị lộ, mà vì cô... quá đẹp. Mấy cha
nội cảnh sát ở quận đeo đuổi tán tỉnh Phúc mãi không được nên chơi trò
hèn cài bẫy bỏ truyền đơn vào trong cặp sách của Phúc, rồi bày trò khám
xét phát hiện, bắt Phúc vào giam ở nhà lao. Từ đấy số phận lại đưa đẩy
cô qua một con đường run rủi khác. Những năm tháng trong nhà tù, nghe
đâu Phúc đã cảm hóa và yêu viên trung sĩ trông coi lính gác nhà lao.
Tình yêu thầm kín của họ đã không che giấu được viên sĩ quan chỉ huy
trại giam. Vậy là tay trung sĩ bị đày ra một đơn vị tác chiến, và rồi
sau đó mất tích luôn trong một chiến trận nào đó. Số phận của Phúc cũng
đầy bất trắc. Niềm hy vọng cuối cùng tình yêu của Phúc là đứa con lớn
trông thấy từng ngày trong bụng cô. Cho đến một ngày Phúc sinh nở trong
nhà tù. Một nơi đầy bóng tối như thế mà ơn trời, thằng bé trai kháu
khỉnh khôi ngô.
Cho đến một ngày thằng bé độ sáu tháng tuổi, Phúc đã tìm cách gửi con về quê cho người chị ruột nuôi dưỡng, còn cô nuôi ý nghĩ quyết vượt ngục. Nhà giam nằm trên miệng vực dòng sông Yên. Quy chế cho các tù nhân là ngày hai lần, sáng sớm và chiều tối được xuống sông làm vệ sinh, giặt giũ tắm rửa. Một chiều tối Phúc lấy cớ làm vệ sinh lâu hơn, kéo dài thời gian chờ tối hẳn sẽ vượt sông Yên. Lựa chọn này Phúc đã tính toán khả năng của mình, từ thời đi học cô đã từng đoạt giải bơi lội của trường. Nhưng có một điều Phúc không lường hết được, đoạn sông chảy qua chân núi Nhạn nước vừa sâu vừa có nhiều xoáy nước chảy ngầm hung tợn. Đêm ấy vượt sông, Phúc đã bị dòng nước xoáy cuốn chìm không làm sao bơi qua được tới bờ bên kia. Con sông định mệnh đã vĩnh viễn ngăn đường Phúc trở về với đứa con trai côi cút của mình”.
Cho đến một ngày thằng bé độ sáu tháng tuổi, Phúc đã tìm cách gửi con về quê cho người chị ruột nuôi dưỡng, còn cô nuôi ý nghĩ quyết vượt ngục. Nhà giam nằm trên miệng vực dòng sông Yên. Quy chế cho các tù nhân là ngày hai lần, sáng sớm và chiều tối được xuống sông làm vệ sinh, giặt giũ tắm rửa. Một chiều tối Phúc lấy cớ làm vệ sinh lâu hơn, kéo dài thời gian chờ tối hẳn sẽ vượt sông Yên. Lựa chọn này Phúc đã tính toán khả năng của mình, từ thời đi học cô đã từng đoạt giải bơi lội của trường. Nhưng có một điều Phúc không lường hết được, đoạn sông chảy qua chân núi Nhạn nước vừa sâu vừa có nhiều xoáy nước chảy ngầm hung tợn. Đêm ấy vượt sông, Phúc đã bị dòng nước xoáy cuốn chìm không làm sao bơi qua được tới bờ bên kia. Con sông định mệnh đã vĩnh viễn ngăn đường Phúc trở về với đứa con trai côi cút của mình”.
Kể tới đây mắt bác Giáo Khâm đỏ rưng rưng, mắt tôi cũng cay xè.
Bỏ xe máy đầu cổng ngõ, tôi lang thang
bước vào trang trại của anh Nhiên. Chừng như nghe tiếng xe máy ngoài đầu
ngõ, anh trong nhà bước ra xem chừng. Gặp tôi, anh hơi chững lại, ngạc
nhiên nhìn giây lát rồi mới gọi tên: “Ui trời đất... cậu Hoàng, cậu từ
đâu mà rơi xuống giữa giờ này?”. Hỏi rồi không đợi tôi kịp trả lời, anh
Nhiên xúc động cầm tay tôi giật giật bảo: “Hiếm có khi Hoàng đến mà mẹ
con Tú lại về ngoại vắng nhà, nhưng chẳng sao, trang trại gà vịt không
thiếu thứ gì”.Tôi nói với anh: “Đã ăn tiệc giỗ ở nhà thờ tộc suốt từ
trưa cho đến chiều, bụng dạ đâu mà chứa gà vịt nữa”. Đứng nhìn một lượt
khắp trang trại, đập vào mắt tôi không phải các giống loài cây quả xanh
ngát mênh mông, mà là cái hoa viên phía trước cái lô cốt. Hoa viên được
tỉa tót bố trí vòng theo hình xoắn ốc, cứ mỗi vòng là một màu hoa, cho
đến tâm điểm là một pho tượng đá tạc hình một người con gái ôm cặp sách
trước ngực. Vòng xoắn dưới chân tượng đá là những cây hoa quỳ xứ Phật,
lá có hình rẻ quạt, hoa nở tím ngan ngát đưa mùi hương chanh. Nhìn đằng
sau hoa viên tôi phát hiện cái lô cốt thấp lè tè, trông như một ngôi cổ
mộ chìm khuất phía sau pho tượng. “Hơn nửa thế kỷ rồi, bao trận lụt lớn
đã bồi lấp mất cái lô cốt chỉ còn cái nóc nhỏ nhô lên”. Nói rồi anh kéo
tay tôi bước lên nóc lô cốt. Chả ai bảo ai, chúng tôi cùng nằm xuống
ngửa mặt nhìn trời. Vầng trăng non khuyết nhọn ngược màu mây chìm dần về
phía thượng nguồn. Gió từ sông Yên lao xao dào dạt thổi qua vườn đồi rì
rào một thứ âm thanh như tiếng của ai đó đang về!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét