Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2018

Thấy mình... như sương 1

Thấy mình... như sương 1
Lời thì thầm...
Bạn thương mến,
Hôm nay là 21 ngày mất của bạn. Sau buổi họp mặt các bằng hữu để tưởng nhớ bạn, mình ngồi nghe lại các cuộn băng ghi âm những câu chuyện giữa chúng mình. Phần lớn là những câu chuyện văn chương. Giọng nói của bạn vẫn êm ấm như ngày nào... Trong lòng mình, niềm thương mến trào dâng và mình đem tập thơ Lê Triều Phương ra đọc. Bài thơ Như Sương chợt hiện ra. Nỗi nhớ bạn thiết tha và mình quyết tâm viết tập Bút Ký này.
Viết về bạn mình chỉ cốt ghi lại những gì bạn nghĩ và viết. Nhất là cách sống của bạn. Mình không có ý định viết lời nói đầu song nỗi niềm thương nhớ không nguôi nên mình đành trích nguyên bài bình thơ Như Sương của bạn:
Đọc Bài Như Sương
"Đây là một bài thơ tư tưởng trong khung cảnh của cuộc đời. Cảnh bình minh có sương lóng lánh trong lòng hoa. Nhìn vào giọt sương nhà thơ chợt thấy hình bóng mình. Sương và người cùng có một cảm giác như nhau:
Lòng hoa
đọng ngọc
lung linh
thõng tay
soi mặt
thấy mình
như sương.
Cả vũ trụ được thu vào trong giọt sương. Bình minh cũng là vũ trụ. Lòng thi nhân hòa cùng với cảnh bình minh. Đẹp và trong sáng, trẻ trung. Sương đọng trong lòng hoa, cuộc đời chứa trong bình minh.
Hai tiếng thõng tay gợi nhớ đến cảnh bức tranh thiền "Chăn Trâu". Đó là bức tranh "Thõng tay vào chợ". Sau bao nhiêu ngày không trâu, tìm trâu và được trâu, người thấy trâu ngộ ra rằng tất cả đều là vô thường vì là vô thường cho nên mới có được hành động thõng tay đi vào chợ.
Đây là trạng thái an lành trong tâm và bình thản trong hành động vì sau bao nhiêu khổ nhọc lo âu đi tìm trâu, quanh quẩn trong vòng tục lụy để rồi có một thái độ "thõng tay vào chợ" thật là an tịnh, hào hùng. Vào chợ là chấp nhận cuộc đời, sống cùng đời song không sợ cuộc đời khuấy rối..
Khi tay ta cầm lấy sợi dây thừng buộc trâu thì ta không thể cầm thêm được một vật nào khác và như vậy cuộc đời ta chỉ có vỏn vẹn sợi buộc trâu. Và khi ta đã thõng tay thì ta sẽ có khả năng vô tận cầm giữ bất cứ vật nào nếu ta muốn. Đó chính là ý nghĩa và khả tính của sự không bám víu (vô thủ trước). Xa hơn, khi tâm thức không bám víu hay không bị chi phối bởi tham, sân, si, chấp ngã, hay phiền não như vậy ta đạt đến được một tâm thức thanh tịnh.
Khi tâm thức thanh tịnh thì tự nhiên ta thấy rõ được bóng hình của ta và nhận chân được ta là ai.
Thái độ "thõng tay" không phải là thái độ đầu hàng cuộc đời, đầu hàng hoàn cảnh, đầu hàng số phận mà là chấp nhận lấy số phận để sống an vui để vươn lên trên số phận. Thõng tay không phải là buông xuôi theo số phận mà buông thả tất cả mọi ràng buộc của cuộc đời, mọi vướng bận của thế nhân, buông bỏ tất cả những vật chất tầm thường, bố thí mọi của cải trên trần thế với một tâm an lành. Khi ấy thi nhân mới soi mặt mình vào hạt sương đang long lanh dưới nắng mai, trong lòng hoa để được thấy rằng mình cùng sương là một. Sương nằm trong hoa dưới ánh triêu dương cũng như ta đang sống trong vũ trụ.
Nhìn giọt sương trong lòng hoa là do duyên sinh mà hiện diện để rồi sẽ tan biến đi trong vô thường. Như vậy thân xác ta rồi cũng như hạt sương kia bây giờ hiện hữu nhưng sau này lại vô thường. Có soi mặt nghĩa là có hành động, và có đối tượng. Từ đó mới có suy tư và nhận thức.
Thấy mình như sương là thấy mình trong suốt, thấy mình óng ánh dưới nắng bình minh và cũng nhận thức được thân mình cũng vô thường...
Lòng hoa đọng ngọc lung linh là thế giới hiện hữu của cảnh vật thiên nhiên. Sương đọng thành ngọc trong lòng hoa vì trước đây Lê Triều Phương đã có bài thơ:
Hơi nước vô hình
Đọng giọt sương trinh
Mặt trời vào ẩn
Hóa ngọc bình minh
(Hóa Ngọc)

Hạt sương là một vi phân của nước, do hơi nước ngưng thành. Sự luân lưu từ nước thành hơi bốc lên và ngưng tụ lại thành sương để rồi lại trở về với nước. Sự luân chuyển của hạt sương trong thiên nhiên chẳng khác chi một kiếp người, khiến cho tác giả nhận chân được sự vô thường. Một người có tâm thức vô thường nhìn thấy sự hòa đồng của vũ trụ trong một hình ảnh rất thơ, rất Đạo khiến cho chúng ta động tâm thức tỉnh: hãy để cho lòng an tịnh thì sẽ thấy mình... như sương".
Quách Giao
Nhập Vào Xuân
Sáng ngày mồng năm Tết năm Mậu Tý (thứ hai 11/2/2008) tôi được xem một chương trình văn hóa trên đài VHT 9. Đây là hình ảnh của một nữ nghệ sĩ ngưòi nước ngoài chuyên về thiết kế những ngôi vườn trong nhà và ngoài thiên nhiên. Công trình thiết kế rung động lòng tôi trong buổi đầu xuân. Cách trình bày và sự sáng tạo khiến tôi nhớ đến bạn tôi, người bạn mang trong tâm hồn nỗi khao khát đưa thiên nhiên vào cuộc sống và hướng tâm hồn vào hòa đồng với thiên nhiên. Người nghệ sĩ trong màn ảnh cũng giống như bạn tôi là đã trải qua một chứng bệnh nan y (chứng ung thư) mà bà đã vượt qua bệnh tật và trong một lần thiết kế bà đã đưa Phật giáo vào trong hệ thống trang hoàng. Cảnh quan của bà tuy có sự hiện diện của hình ảnh một đức Phật trầm tư song không dày đặc khói trầm tôn giáo mà phảng phất hương trầm thoảng trong những nét đẹp nghệ thuật trang trí đầy tính chất thiên nhiên. Người nữ nghệ sĩ này đã đưa những câu thơ vào khung cảnh vườn trên những nét đá lót đường chạy quanh vườn. Thật là thắm thiết biết bao khi tình người nghệ sĩ đã bộc lộ tài năng và tư tưởng qua các vật thể thiên nhiên. Xem xong, tôi thật sự xúc động và liền nhớ ngay đến bạn của tôi: Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Tâm có bút hiệu là Lê Triều Phương.
Anh trưởng thành trong một gia đình nông dân. Thừa hưởng được đức tính chất phát chân thực của cha và sự thông minh lanh lẹ của mẹ. Về bản chất, anh là một người Việt Nam chân chất, hiếu học thông minh và chứa chan tình cảm. Anh được ra nước ngoài du học song tâm hồn vẫn còn nặng tình nghĩa với quê hương. Môn học của anh thủơ trước rất ít người theo đuổi vì cho rằng không có tiền đồ. Ngày xưa đi du học cốt về nước có một địa vị quan trọng. Không nằm trong chính quyền thì phải có một địa vị ngoài xã hội như là bác sĩ, luật sư v.v... Anh đã chọn lấy lâm nghiệp. Học đã khổ cực mà khi về nước thì lại phải đi xa vào những nơi thưa vắng bóng người, sống cùng chung với cỏ cây rừng rú.
Trong cuộc đời du học, anh gặp ít may mắn nhưng nhiều điều buồn tủi. Có khi nổi bật lên như một ngôi sao sáng và cũng có lúc bị dìm xuống hố thẳm, trôi nổi như cánh bèo trên dòng lũ. Tất cả đều là những kinh nghiệm giúp anh trưởng thành và ngẩng cao đầu trong nếp sống của người trí thức Việt Nam nơi hải ngoại.
Bạn bè của anh thì nhiều song tâm đắc duy nhất chỉ có ba người: Trúc Như, Tùng Phong và Phong Hương. Trúc Như vừa là bạn vừa là anh rể. Trúc Như là người thân từ thuở còn là học sinh trung học và sau này là bạn "tháp tùng" cùng Triều Phương đi giảng dạy, hội nghị khắp nơi trên đất nước Việt Nam. Những ngày cuối cùng của Triều Phương, Trúc Như luôn luôn có mặt mặc dù vợ là chị của Triều Phương đang bị tai biến mạch máu não. Giờ phút lâm chung, Trúc Như là người vuốt mắt cho Triều Phương. Viết về người bạn thân Trúc Như có đoạn:
"Tư chất của Lê Triều Phương có thể tóm tắt qua mấy từ: hiền hòa, trung hiếu, thông minh, nhẫn nhục, quả cảm và vị tha.
Tất cả những ai đã sống với Lê đều yêu quý nhà thơ, nhà khoa học nầy.
Khi còn thời niên thiếu được mẹ chăm lo việc học tập chàng trở thành một học sinh thông minh gương mẫu."
Trong cuộc đời tình ái anh cũng sống đam mê như những chàng trai hào hoa khác song toàn là những chiếc pháo bông rực rỡ một giây phút rồi lại trở về với hư không. Chỉ còn một mối tình duy nhất còn lại vĩnh viễn với người vợ hiền sống đầy hy sinh và tận tụy. Cuối cuộc đời, anh mang một chứng bệnh nan y: ung thư ruột và gan.
Vì sống ở nước ngoài nên căn bệnh của anh được điều trị rất căn bản và đầy đủ. Song ngành Tây y vẫn phải bó tay trước bệnh ung thư. Đã từng được giải phẩu nhiều lần, dùng rất nhiều thuốc đặc trị song y khoa đành khoanh tay bất lực.
Bạn viết về Quách Tấn
Lê Triều Phương là học trò của nhà thơ Quách Tấn niên học 1955-56 tại trường Trung học tư thục Kim Yến. Triều Phương không những học ở trường mà còn học thêm tại tư gia vì anh quen thân với tôi cho nên anh và nhà thơ Trúc Như thường hay có mặt tại nhà tôi và thường được nghe ba tôi giảng dạy về thơ văn.
Tuy sau này du học ở nước ngoài, lòng anh vẫn luôn luôn nhớ về người thầy đáng yêu kính này. Anh có nhiều bài viết về thầy:
Về tình yêu thiên nhiên anh Lê Triều Phương đã đặt tâm hồn mình trong công việc đọc và viết về nhà thơ Quách Tấn, vị thầy mà bạn tôi rất mến yêu và tôn kính. Phương đã cảm nhận được trong thơ văn của thầy những tinh chất đậm về thiên nhiên và những gì mình nghiên cứu nhiều năm đều có trong suy tưởng của văn thơ Quách Tấn. Lê Triều Phương đã có nhiều bài viết về Quách Tấn và thiên nhiên.
Như bình một bài thơ của thầy:
Đà Lạt Đêm Sương
Bóng trăng lóng lánh mặt hồ êm
Thời khắc theo nhau lải rải chìm
Đứng tựa non sao bờ suối ngọc
Hồn say dìu dịu mộng êm êm.
Một làn sương bạc bổng từ mô
Lẻn cuốn vầng trăng cuốn mặt hồ
Cuốn cả non cao bờ suối ngọc
Người lơ lửng đứng giữa hư vô.
Trời đất tan ra thành thuỷ tinh
Một bàn tay ngọc đẫm hương trinh
Âm thầm mơn trớn bên đôi má
Hơi mát đê mê chạy khắp mình.
(Một Tấm Lòng, thơ Quách Tấn)
Anh viết: Với ba khổ thơ thi nhân đưa người đọc vào quá trình biến chuyển của không gian, thời gian và xúc cảm của kẻ thưởng ngoạn cảnh hồ dưới ánh trăng trong đêm sương. Thi nhân dẫn người đọc đi từ cảnh thực đầy màu sắc vào cõi mộng say say (khổ 1) rồi tiến vào thế giới mờ ảo mênh mang không còn gì để bám tựa, mộng cũng tan mà thực cũng tan, chỉ còn một bóng người giữa hư vô (khổ 2); Cuối cùng thi nhân kéo ta qua thế giới mộng - một màu trong suốt: con người thực, tận hưởng hạnh phúc của cõi thiên thai (khổ 3).
Mạch tứ về không gian, thời gian và cảm giác vận chuyển trong mạng lưới tương quan tương sinh, thực thực hư hư. Trong đó kẻ thưởng cảnh không một giây phút nào tan lẫn vào cái hư hư thực thực - nghĩa là thần trí luôn luôn tỉnh táo và thực tại.
Khách thưởng cảnh đã đi theo thời gian từng giây từng phút, từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, để hưởng thụ vẻ đẹp và mọi hiện tượng kỳ ảo của thiên nhiên. Giữa hư vô vẫn trụ được, vẫn nhận thức rằng mình "đứng". Khi đất Trời tan ra thành một khối trong suốt vẫn cảm nhận được tác động của hơi mát từ ngoài lên đôi má và khắp cơ thể.
Âm thầm mơn trớn bên đôi má
Hơi mát đê mê chạy khắp mình.
Toàn bài thơ toát ra vẻ đẹp diễm lệ, kỳ ảo và sự thưởng thức say mê tuyệt vời tới tâm trạng ngạc nhiên không có dấu vết cô đơn, lạnh lẽo.
Khổ thơ đầu dựng lên một không gian thanh tịnh tráng lệ: hồ và trăng đã trang điểm và làm tăng vẻ đẹp cho nhau:
Bóng trăng lóng lánh mặt hồ im
Chất trong và yên tĩnh của hồ đã quyến rũ trăng đến soi mình và xuống tắm. Ánh sáng làm cho khuôn trăng dưới nước và trên trời càng long lanh. Ngược lại ánh trăng long lanh đã làm cho mặt thoáng của hồ rỡ sáng, thơ mộng. Nhà thơ tận hưởng từng giây từng phút cảnh sắc kỳ diệu, mênh mông, thơ mộng ấy với cảm quan và tỉnh thức của mình. Vì vậy nhà thơ thấy được từng đơn vị thời gian đi qua. Nhà thơ đã níu thời gian chậm bước để mong kéo dài thời khắc hưởng thụ vẻ đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Và trong khung cảnh huyền ảo ấy, thời gian đã chiều theo ước muốn của thi nhân nên dừng lại và hiện thành một hữu thể có mắt có tình.
Thời khắc cũng không những chiều lòng thi nhân mà thôi, mà đã trở thành một "kẻ ngắm cảnh" để cùng thi nhân ngắm cảnh, trong cảnh ấy chính thi nhân lại trở thành một bóng hình thầm lặng đứng "tựa non sao" bên "bờ suối ngọc" say sưa chìm đắm trong "bóng trăng lóng lánh mặt hồ im". Thơ mộng làm sao! Sao trời như rơi xuống biến thành núi non cho thi nhân thoải mái tựa mình. Sông Ngân đã rời bỏ vũ trụ, tuôn thành dòng suối ngọc rung rinh ru mơ cho thi nhân.
Vẻ đẹp của đất trời tụ về quây quần chung quanh thi nhân, hoá hiện thành một cõi lung linh diễm huyền.
Đứng tựa non sao bờ suối ngọc
Từng thời lượng dừng lại không trôi nữa và đưa mình hoà vào cảnh sắc siêu ảo. Trời đất, con người hoà nhập vào nhau thành một cõi thơ mộng: xúc cảm, tâm tư đều chìm trong ngất ngây.
Thời khắc theo nhau lải rải chìm.
Trong cơn ngây ngất ấy bỗng hiện ra một làn sương bạc.
Một làn sương bạc bỗng từ mô...
Làn sương đến đột ngột trong lúc hồn say dìu dịu mộng êm êm: chưa kịp tỉnh, chưa kịp định hướng, chưa kịp nghĩ ngợi thì làn sương đã kín đáo cuốn cả đất trời một cách nhanh chóng - Cuốn vầng trăng, cuốn mặt hồ, cuốn cả non sao, cuốn bờ suối ngọc.
Vừa mới nhìn vào một đối tượng...thì chớp nhoáng đối tượng ấy đã bị cuốn đi mất!
Khi mọi đối tượng (ngoại cảnh) mất sạch hết không còn gì để nhìn để thấy, nhà thơ chợt thấy lại con người bằng cái nhìn tự nó (khổ 2).
Trạng từ "bỗng" (câu 1) và động từ "đứng" (câu 4)
Một làn sương bạc bỗng từ mô...
Người lơ lửng đứng giữa hư vô

tác động lẫn nhau cho thấy một hữu thể vừa thức tỉnh vừa trụ vững trước mọi biến dịch.
Sự tỉnh thức ấy đã giúp thi nhân cảm nhận ngay một cách trọn vẹn những hiện tượng đột biến của đất trời.
Trời đất tan ra thành thủy tinh
Ôi mọi vẻ đẹp mênh mông lai láng... Trăng long lanh, mặt hồ im, non sao, suối ngọc đã hoà tan thành một chất liệu nhất thể trong suốt uyên nguyên.
Nó như một làn tơ nhẹ dâng hiến tặng cho mình, hoàn toàn riêng cho mình... Thần tiên thú vị đến lịm người.
Hơi mát đê mê chạy khắp mình.
Thi nhân đứng một mình trước vũ trụ mênh mông song không thấy cô đơn, chơi vơi. Thi nhân đã để cho giác quan của mình chan hoà vào các hiện tượng đang chuyển đổi của đất trời, đồng thời giữ nguyên vẹn sự tỉnh thức của con người đang thưởng ngoạn.
Vẫn "đứng" tựa non sao, vẫn "đứng" giữa hư vô mà theo dõi cảm giác lan truyền lên "đôi má" và "chạy khắp mình".
Thật tuyệt vời! Con người thường mong được hoà nhập, trầm lắng vào thiên nhiên và suối nguồn của vạn vật. Ở Quách Tấn trong "Đà Lạt Đêm Sương", tất cả những vẻ đẹp diễm ảo lung linh trong suốt đã hội tụ vây quanh thi nhân.
Hai bên cùng nhìn ngắm nhau trong ánh mắt, con tim và tỉnh thức.
Vậy còn gì đâu để đặt vấn đề hoà điệu hay hoà nhập, đâu còn vấn đề tri thức "nhất nguyên" hay "nhị nguyên".
Lê Triều Phương (Trích Hương Thơ Quách Tấn)
* Nói Về Hoa
Bông hoa không có ngôn ngữ để tự nói về mình. Song hương sắc và dáng vẻ của nó đã truyền ra làn sóng giao cảm đến người nhận. Người nhận tuỳ theo tầng số cảm nhận riêng của mình mà cảm thụ, sinh ra sự yêu thích hoặc dửng dưng, không ghi nhận (vô ký) và tặng chúng tên, rồi họ, chủng loại v. v... Con người, tuỳ theo nơi sinh trưởng, châu lục và truyền thống tập tục đã cho chúng những ý nghĩa. Đặc biệt trong giới nghệ sĩ đã xem hoa như là tri kỷ, như là giai nhân đã làm tươi đẹp cho cuộc đời.
Nhà thơ Quách Tấn đã trân trọng đưa hoa vào thơ của ông, thi nhân đã ấp ủ tấm lòng yêu thương hoa chẳng những trong thơ mà còn trong văn nữa.
Trước tiên ông là một nhà thơ duy nhất đã dùng thơ để giới thiệu các loài hoa cùng với các em thiếu nhi trong một bài thơ tứ ngôn có nhan đề là Hoa Bốn Mùa. Mở đầu cho mùa Xuân là hoa Cẩm Nhung với sắc màu rực rỡ, rồi đến hoa Hồng Hạnh, hoa Thược Dược, hoa Đào, hoa Mẫu Đơn, hoa Lý, hoa Tường Vi, hoa Quỳ, hoa Hải Đường rồi đến hoa Lan, và ngày Xuân sắp tàn thì hoa Trà My chớm nở. Khi mùa Hè sang thì có ba loài hoa mang ba màu sắc: Hoa Lựu nhen lửa, Hoa Ngâu rắc vàng, hoa Lài trải ngọc, đón mùa Hè sang. Tuy nhiên có một loài hoa thanh cao nhất đã nở trong mùa Hè:
Dưới đầm sen mọc
Người quân tử ơi
Hương ngát phương Trời
Sắc hồng mặt nước
Gấm không bì được
Thương vợ chàng Ngâu
Hoa sen thường được ví với người quân tử vì:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhuỵ vàng
Nhuỵ vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
(Ca dao) 
Sen chẳng những thanh cao mà còn rực rỡ đến độ vợ chàng Ngưu lang, con vua Trời, phải ghen tức vì gấm của nàng dệt không đẹp bằng sắc hồng của hoa sen.
Rồi mùa Thu sang, hoa Lau trên đồi cao, bên dòng sông vắng đều trổ cờ lau màu bạc trắng. Hoa Lau tuy không sắc không hương song lại là một bông hoa đi liền với thuở ấu thơ của vị anh hùng Đinh Bộ Lĩnh, với sông Lô trường ca (lô là lau). Từ màu trắng bạt ngàn của hoa Lau đến hương hoa Sữa ngan ngát theo hương thoảng bay để làm cho lòng khách đắm say, để nhớ về một hồ Gươm Hà Nội. Mùa thu là mùa của sắc vàng trong cảnh lá vàng rơi rụng còn có một màu vàng nở trong sương: đó là vườn hoa Cúc:
Vàng ươm lác đác
Cành sương xao xác
Chồi cúc đơm hương
Nét Cúc tuy buồn
Lòng Cúc vẫn đượm
Nắng xuân không tưởng
Ngại gì lạnh thu.
Tả hoa Cúc đến như thế thì thật tuyệt diệu. Tại sao lòng Cúc vẫn đượm là vì bên cạnh hoa Cúc còn có một danh nhân đã từ quan về sống một cuộc đời đạm bạc thanh nhã bên cạnh vườn hoa Cúc . Đó là ông Bành Trạch. Tên thật là Đào Tiềm hiệu là Uyên Minh, là một cao sĩ đời Tấn, từ quan về quê sống một đời sống an nhàn. Vườn nhà trồng đầy Cúc, thường ngồi trước giậu tâm tình với Cúc. Trong bài Ẩm Tửu họ Đào có câu:
Thái cúc đông ly hạ
Du nhiên kiến Nam san
Nghĩa là:
Hái cúc dưới rào đông
Nam sơn nhìn thoải mái.
Rồi mùa Đông sang. Trong khi các loài hoa khác tàn rụng trong mưa gió mùa đông thì hoa Mai đã ươm nụ đón xuân và có nơi lại nở trong giá lạnh mùa đông. Mai là giống hoa cảm thụ khí dương trước nhất. Cho nên qua tiết Đông chí là nảy nụ đâm bông. Các thi nhân thường nói cùng nhau: Mai biết có xuân trong lúc tuyết sương đương thạnh và lúc trăm hoa còn đang sợ sương tuyết, Mai đã dám lộ diện chào xuân, bởi thế Mai bị kết tội là "tiết lộ xuân quang"
Duyên Mai còn nhắc đến câu chuyện chàng Triệu Sư Hùng nơi núi La Phù, trú đêm trong một quán vắng đã gặp được giai nhân cùng uống rượu nghe nhạc ngâm thơ và ngủ say khi tỉnh giấc thấy mình nằm ngủ Dưới gốc Mai đang nở thạnh trên cành có con chim xanh đang hót líu lo.
Và nhà thơ đã kết luận:
Hoa trong bốn mùa
Hoa Mai tuyệt phẩm
Trong các tập thơ đã và chưa xuất bản của nhà thơ có trên vài trăm bài thơ nói đến hoa, liên quan đến hoa. Ví dụ:
Trong Một Tấm Lòng:
Biển Hồ sen nở gió thơm tho (Qua Phú Yên tức cảnh)
Hoa cỏ vẽ vời tranh thuỷ mạc (Phong cảnh Đà Lạt)
Bên luống cúc già vầy bạn cũ (Túp lều tranh)
Và hai bài thơ Yêu Hoa và Vịnh Cây Hồng Mai ở Đà Lạt v.v...
Trong Mùa Cổ Điển:
Hương chập chờn bay khóm trúc đào (Gió Khuya)
Cành gió hương xao hoa tỷ muội (Chiều xuân)
Đưa nhẹ đêm theo cánh Hải đường (Đêm thu)
Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hương (Chiều xuân)
Lòng nương tiếng địch bến vi lô (Một buổi trưa mùa thu)
Đưa nhau nước biếc trổ phù dung
Rụng mấy mùa hoa bổng tái phùng (Đêm tái phùng)
Hoa dại vấn vương tình nẻo quạnh (Hồi cư)
Hiu hắt vườn quê một nhánh Mai (Vườn quê) v.v...
Trong Đọng Bóng Chiều:
Thược dược gíó bay màu túy vũ
Hải đường sương tỉnh giấc xuân tiêu (Xuân quạnh)
Tương tư một giấc mờ phương hướng
Đông mỏi rồi Tây khóm cúc quỳ (Mong đợi)
Sân hoa phay pháy mưa hoàng cúc (Đối cảnh)
Hoa đào duyên gởi theo dòng bích
Hương lạnh lùng trôi bóng cố nhân (Theo dòng)
Xưa tiết đào hoa mắt tiển người
Gặp người nay cũng tiết đào rơi
Bên hoa gượng nén lòng sau trước
Ngỡ cánh đào rơi giọt lệ rơi (Nén lòng)
Ba luống tường vi cánh nõn nà
Mai vàng một khóm mấy tầng hoa
Bao phen gói gém hương vườn cũ
Em mãi chưa về bạn ở xa (Hương vườn cũ)
Ngoài ra còn các bài Giếng cúc, Sân mận, Bên trúc, Bóng mơ, Lặng lẽ, Tỉnh tọa, Cảnh đâu v.v...
Trong Mộng Ngân Sơn:
Sông dồn hơi gió lạnh
Bờ hút bóng lau sưa (Chiều tiễn biệt)
Vội vàng xô gối dậy
Đầy thềm hoa tử kinh (Nhớ em)
Lưng tường chiều trải nắng
Tươi thắm màu ti gôn (Thái Bình)
Thấp thoáng ngoài sân mận
Mưa hoa dệt nắng hường (Dừng bút)
Phảng phất bờ trăng rạng
Hương Ưu đàm trổ bông (Thoáng hiện)
Vườn xưa muôn cách trở
Phảng phất mùi hoa cau (Mùi hoa cau)
Và rất nhiều bài như: Xuân về cố hương, Vườn hồng, Tựa ngõ, Chi Xiết, Giếng hương, Bóng chiều xưa, Hồ trưa, v.v...
Trong Giọt Trăng
Ao phù dung rụng thắm
Nước gợn vòng âm thanh (Bên ao)
Sân lài hoa nở trắng
Tiếng dế dịu dàng sương (Hoa nở trắng)
Nghiêng nghiêng giàn nắng hạ
Hoa mướp trải huỳnh kim (Màu trưa)
Sụt sùi hoa khế rụng
Đêm rựng ánh bình minh (Trong sương)
Hoa quỳnh sống nửa đêm
Hoa phù dung một tối (Mài còn)
Hoa đèn xanh án kệ
Hương thắm dặm hoàng Mai (Cài trúc )
Thương bướm bay tìm mộng
Hoa sứ vàng nở trưa (Sân trưa)
Và nhiều bài thơ khác như Lòng giếng thẳm, Nụ hương, Say nắng, Bên giàn mướp, Tình Hoa, Khuya vắng, Chốn ẩn...
Trong Trăng Hoàng Hôn
Mưa rồi Trời lại thêm trong
Dàn hoa thiên lý bướm ong dập dìu (Tạnh mưa)
Ngồi nhen bếp lửa sưởi hồng
Hoa thơm mấy nụ nở hồng trong sương (Nở hồng)
Canh chầy lòng biết gởi ai
Sân trăng nhìn cúc tháng hai ngậm ngùi (Cúc tháng hai)
Nâng lòng đón ánh tà huy
Vườn quê nghĩ khóm hoa quỳ mà thương (Hoa quỳ)
Hoa sâm đầy giếng nở hồng
Trời mai nắng sưởi giấc nồng song thu (Nửa tin)
Ao nhà một giấc ngủ say
Bình minh trở dậy thuyền đầy gió sen (Gió sen)
Chùa xa vừa tạnh giọt đồng
Tường vi nén lệ nở hồng bình minh (Vừa tạnh)
Đầy Trời lá rụng sương bay
Vườn quê một khóm Mai gầy nở hương (Vườn quê)
Hoa không ấm cật no lòng
Người trồng dâu lúa ta trồng hoa thơm
Khi đời ấm áo no cơm

Hái năm ba nhánh vào đơm lục bình 
(Trồng hoa)
Hoa trong thi phẩm của nhà thơ Quách Tấn hầu như mang tâm hồn và tình cảm của tác giả. Hoa đẹp và rực rỡ trong Một Tấm Lòng, Mùa Cổ điển, đằm thắm trong Đọng Bóng Chiều, Mông Ngân Sơn, Giọt Trăng và não nùng trong Trăng Hoàng Hôn. Trong các tập thơ chưa xuất bản lòng hoa cũng phơn phớt ánh hoàng hôn. Lúc trẻ hoa là bạn, khi về già hoa là tri âm để người thơ gởi gắm niềm tâm sự. Cho nên Quách Tấn thường nói đến hoa là nói đến tình cảm của mình. Thi sĩ đã xem thiên nhiên cây cỏ, hoa lá đều là những sinh vật đáng yêu trong cuộc sống thi văn của ông. Quan niệm về văn chương của ông đã bộc lộ rõ ràng trong bài thơ Trồng Hoa.
Trong các tác phẩm văn, Quách Tấn đã có nhiều chương tả về hoa trong Nước Non Bình Định, Xứ Trầm Hương. Bao giờ tác giả cũng đặt tâm hồn và tấm lòng của mình vào cảnh vật nên tác giả đã gợi cảm thành công cho người đọc. Trong các tập Thi thoại, nhiều chương dài đến gần 50 trang tác giả cũng đã đề cập đến các loài hoa trong thơ văn của các tiền nhân Trung quốc và Việt Nam. Các chương viết này gói trọn những tình ý của tác giả đối với thiên nhiên nhất là đối với các loài hoa.
Hoa cũng là biểu tượng, là sắc đẹp của nữ giới, về cái mong manh chóng tàn.
Về sắc đẹp thì hoa Thược dược đong đưa trước gió như mỹ nhân mặc xiêm hồng múa trước tiệc, hoa Hải đường như gương mặt người đẹp Dương quý phi vừa mới ngủ dậy Dưới mắt Đường Minh hoàng:
Thược dược gió bay màu tuý vũ
Hải đường sương tỉnh giấc xuân tiêu
Và:
Hoa quỳnh sống nửa đêm
Hoa phù dung một buổi
Nghìn trước nối nghìn sau
Mắt nhìn nhau một tối
(Mãi còn)
Đem so sánh cái đẹp của hoa quỳnh chỉ nở giữa đêm và hoa phù dung chỉ nở có một ban mai rồi rụng hồng trên sắc nước với ánh mắt nhìn nhau một tối. Ba cảnh đều đẹp, đều ngắn ngủi, đều mong manh. Nhưng nó mãi còn vì quý hiếm, vì cô đọng.  
Tùy theo màu sắc mà người đời tặng cho hoa nhiều biểu tượng khác nhau:
Màu đỏ được gắn liền với máu, với con tim, với tình cảm sôi động, nồng nàn:
Lưng tường chiều trải nắng
Tươi thắm màu ti gôn.

(Thái bình, Mộng Ngân Sơn)
Hoa ti gôn mang hình dạng trái tim và sắc màu hồng. Đó là hoa biểu tượng cho tình yêu cho sự nồng thắm cho sự tươi đẹp của thiên nhiên.
Màu vàng chỉ sự chói lọi, chỉ nét vương giả và theo đạo Lão thì đó là đó là biểu tượng của đời sống tinh thần cao cả tinh khiết. Dưới mắt nhà thơ Quách Tấn màu vàng của hoa cúc làm ấm áp tình mưa thu:
Sân hoa phay pháy mưa hoàng cúc
Thuyền cỏ hiu hiu gió Bích đầm.
làm dịu dàng cho buổi "Đưa nhau":
Nắng chiều nhuộm thắm ngàn mây
Lưng đồi hoa nở vàng tay ai về.
Màu trắng biểu tượng cho sự trinh trắng, tinh khiết;
Ao muống hoa thu nở trắng bờ
Lay màn sương sớm bướm lơ thơ
Một cảnh sáng mùa thu ở thôn quê vừa êm đềm vừa thơ mộng: hoa rau muống trắng trong sương với bướm và với cô thôn nữ.
Một buổi chiều hiu quạnh:
Sân lài hoa nở trắng
Tiếng dế dịu dàng sương
Ở đây hoa lài cũng nở trong sương song đã cùng với tiếng dế gây nên:
Man mác nghìn xưa đọng
Cành trăng đôi bóng hương.
Màu trắng trong thơ Quách Tấn không gợi đến sự chết chóc tang tóc như người thế nhân thường tưởng.
Màu trắng của hoa mận là màu trắng của tình bạn, màu trắng của sự đoàn viên của tình cố viên v.v...
Vườn mận hoa trải sương
Theo xuân về cố hương
Vào thời Romantic ở châu Âu, hoa màu xanh dương trở thành biểu tượng của sự "nhớ nhung sâu thẳm" (Tieek 1798), hoa toả ra màu sắc kỳ bí, làm cho giới văn nghệ sĩ say đắm mơ mộng và thúc đẩy họ đi dạo để thu nhận vào nội tâm hoà nhập vào màu sắc mơ mộng kỳ bí ấy (hoặc nói một cách khác hơn là để nội tâm hoà nhập vào màu sắc mơ mộng kỳ bí ấy).
Hoa màu xanh dương trở thành biểu tượng trung tâm của trường phái Romantic. Với màu xanh ấy, con người liên tưởng rằng sự "nhớ nhung vô biên" như màu Trời thẳm xanh vô tận, siêu vượt qua không gian không biên giới. Thời gian và không gian không còn hiện hữu nữa và tất cả mọi xa cách dầu ở chốn muôn trùng cũng đều hợp nhất.
Hoa xanh dương đã là biểu tượng của cái đẹp và sự hoà hợp và cũng là sự biểu tượng cuả sự lên đường tìm về sự giải toả nỗi nhớ nhung. Từ đó, nó cũng là biểu tượng của niềm hạnh phúc riêng tư, niềm hạnh phúc của cuộc sống.
Vì thời gian và không gian không còn hiện hữu trong tâm cảm các nhà Romantic, cho nên cái nhìn lui về quá khứ hoặc nhìn về tương lai đều đến cùng một lúc.
Trong thơ Quách Tấn không có màu xanh dương Romantic nhưng lại có màu xanh hoa đèn của sầu nhớ, của cô đơn...
Hoa đèn xanh án kệ
Hương thắm dặm hoàng mai.
Quách Tấn đã nâng hoa đèn từ một tĩnh vật lên một cấp bậc cao có tâm hồn có, hương sắc. Màu xanh của hoa đèn có thật, nó đã gây nhớ nhung cho tác giả và nó đã gây hương nhớ để nhà thơ nối nhịp với Mai vàng ở nơi xa xăm. Hình ảnh hoa đèn không còn là lãng mạn mà trở thành siêu thực, trở thành Nội tâm của người thơ.
Quách Tấn cũng như các nhà thơ phương Đông đều yêu thích hoa đều xem hoa như một người đẹp đáng yêu chìu. Tuy nhiên Quách Tấn cũng khác với nhiều nhà thơ Trung hoa là ngoài các hoa có danh như Thược dược, Hồng hạnh, Hải đường, Tường vi, Mai, Cúc v.v... Quách Tấn còn có rất nhiều hoa đồng quê trong thơ như hoa rau muống, hoa cà, hoa mướp, hoa dú dẻ, hoa sâm, hoa súng, hoa sim v.v... Hoa nào cũng đượm tình với nhà thơ cũng là một niềm thương cảnh mến.
Đối với hoa nhà thơ bao giờ cũng:
Thương hoa không nỡ hái
Hoa rụng lòng thêm thương
Vén cỏ chiêu hồn lại
Ngàn xanh hiu gió sương.
(Tình hoa)
Trong việc tặng hoa, cắm hoa để trang trí dần dà trở thành một nghệ thuật và cũng phát sinh ra trường phái khác nhau. Đặc biệt là lối cắm hoa Ikebana của Nhật đã trở thành một nghệ thuật tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ lan rộng khắp thế giới. Cơ bản của nghệ thuật này là sự hợp nhất hài hoà giữa Thiên (trời) Nhân (người) và Địa (đất) mà con người là trung tâm điểm. Tựu trung hoa mang biểu tượng đa dạng cho sự hòa hợp giữa trời, người và đất, cho vẽ đẹp, cho hy vọng, cho tình yêu, cho sự đắm say nồng nàn cho sự trinh bạch, trong trắng, cho sự trung thành, cho sự khiêm tốn, cho thiên đàng, cho sự chết. Trong các tập thi thoại của Quách Tấn viết về thơ, Quách Tấn cũng đã có nhiều bài viết về hoa có sự liên hệ với đất với trời và với con người.
Trong đạo Phật, hoa cũng là biểu tượng của vẻ đẹp, sự tinh khiết và sự giác ngộ như hoa Sen là một. Với hoa Sen, Quách Tấn đem chan hoà cùng với thiên nhiên để làm đẹp cho cuộc đời:
Chung lòng sen nở trắng
Con chàng hiu lưng xanh.
Ôi! Nhà thơ đã đặt một sinh vật nhỏ bé vào trong lòng hoa sen để kết hợp sự hài hòa của vũ trụ, sự bình đẳng giữa muôn loài.
Theo nhà thơ, hoa Sen không dành riêng cho một ai vì:
Ao nhà một giấc ngủ say
Bình minh trở dậy thuyền đầy gió sen
Hương sen có thể là ở trong ao nhà song cũng có thể là ở phương xa nhờ gió thổi về trong buổi sáng tinh sương. Nói đến Sen nhà thơ thường nhắc đến hương nhiều hơn sắc:
Duyên trần thơ đã mỏi
Hương thoảng gió liên trì.

Hương của hoa cũng kích thích khứu giác và tạo nhiều cảm nhận khác nhau. Từ dịu dàng, ngòn ngọt, đến gay gay, đăng đắng, đến nồng nàn khó chịu, ngạt thở (như hoa sửa đối với người dị ứng). Ngoài ra hương hoa đôi khi nhẹ nhàng phơi phới, thoang thoảng tình xưa . . .
Cho nên dù hoa có tàn, hương có nhạt Quách Tấn, người thơ yêu hoa vẫn một lòng với tình hoa:
Yêu hoa yêu cả một đời
Khi phong nhuỵ thắm khi cười gió đông
Khi trăng xế khi trăng lồng
Khi đà lợt phấn phai hồng càng yêu.
(Yêu hoa)
Lê Triều Phương 
(Trong Quách Tấn: Thiên Nhiên và quê hương)
* Hoa Dâng Tặng
Vợ chồng chúng tôi yêu hoa vì đó là một "kỳ quan" trong thiên nhiên. Chúng có màu sắc, hương và cấu trúc hình học đa dạng và hấp dẫn.
Chúng tôi ít chú ý đến biểu tượng sẳn có của hoa và nhiều khi khó khăn khi đi mua hoa để tặng. Thường thì mua một bó nhiều loại, nhiều màu, một bó hoa "trung tính". Chúng tôi bắt đầu tìm hiểu khi gặp một trường hợp tế nhị là tôi có một người bạn về nhà sau khi mổ ung thư có dạng di căn. Chúng tôi chọn mua một bó hoa lys màu trắng muốt tươi đẹp và đến thăm. Người vợ tỏ vẻ buồn bả ! Đối với bà, đó là một loại hoa "chúc người bệnh chóng qua bên kia thế giới". Anh bạn rất tế nhị, không trách cứ gì, chỉ bảo riêng người vợ đem hoa cắm ngoài nghĩa trang gần nhà. Sau đó vì nghĩ rằng chúng tôi không biết về biểu tượng và tập tục của hoa nên đã kể lại cảm nghĩ của mình cho chúng tôi nghe và khuyên nên học một số biểu tượng thông dụng của một vài loài hoa. Mỗi lần nghĩ đến loài hoa lys trắng tinh của bó hoa tặng bạn sau khi mổ ung thư trỡ về nhà, lòng chúng tôi luôn luôn áy náy "ân hận" dầu chủ tâm của chúng tôi là tốt. Loài hoa ấy đắt tiền vì rất hiếm, màu trắng làm cho chúng tôi cảm nhận được sự tinh khiết. Nhưng khi được giải thích là theo truyền thống thì loại hoa đó là một loài hoa chỉ dùng để dâng cho người chết mà ở trường hợp này là loại hoa "khai tử" cho một người bị bệnh đang lành.
Hy vọng, thất vọng, hạnh phúc, đau khổ, đoàn tụ, ly cách,...tất cả là những mặt mâu thuẫn của cuộc đời - cuộc đời vô tận, cuộc đời vô thường, cuộc đời an vui, cụôc đời hạnh phúc, cuộc đời đau khổ. Vậy hoa chẳng là một biểu tượng "vĩnh hằng" về mối quan hệ và kinh nghiệm của con người đó sao!
Chúng tôi yêu hoa, như đã nói, vì hoa là một kỳ quan của thiên nhiên, thường truyền cho chúng tôi những giao cảm đẹp. Chúng tôi trồng mươi loại hoa trong vườn, không nhất thiết là các loại hoa quý, ngoài 9 loại hồng có tên tuổi và màu sắc, dáng vẻ đặc biệt. Chúng tôi bắt chước nhà thơ Quách Tấn trồng hoa theo cảm hứng của mình, theo ý thích của mình:
Hoa không ấm cật no lòng
Người trồng dâu lúa ta trồng hoa thơm
Khi đời ấm cật no cơm
Hái năm ba nhánh vào đơm lục bình.
(Trồng hoa)
Năm 1977, năm sôi động nhất của cuộc đời, nhà thơ Quách Tấn đã có được một quan niệm mà sau đó hơn 30 năm sau xã hội mới thấu hiểu được là hoa cũng cần thiết như lúa và dâu.
Chúng tôi thường mua hoa chưng cúng trên bàn thờ. Sắc hoa đã toả ra nét đẹp tươi và ấm cúng. Bàn thờ trở nên sinh động. Tuy vậy chúng tôi vẫn không tránh khỏi phải nhìn hoa tàn tạ dần với thời gian. Chúng tôi rất muốn cắt hoa trồng trong vườn để trang trí phòng ốc. Vợ tôi thấy "tội nghiệp" làm sao ấy. Một thời gian dài chỉ mua hoa bán trong chậu đất nhỏ về chưng nơi bàn thờ. Chúng tôi vẫn nhớ đến cách chơi hoa Mai của nhà thơ Mùa Cổ Điển trong những ngày xuân. Cây Mai to lớn được trồng trong một chậu kiểng to lớn có đến vài người khiên. Hoa được để trước sân và khi đến mùa hoa nở thì khiên vào để nơi nhà dù (nhà khách trước hè) và làm một cái mùng to lớn giăng chống ong đến phá lúc ban ngày. Chậu Mai sống như một người thân mến vừa làm đẹp cho chủ nhà vừa hạnh phúc với vườn hoa trong ngôi nhà của thi nhân.
Trong một buổi sáng trời rất đẹp, vợ tôi chọn trong vườn những cánh hoa cúc, hoa lay dơn đẹp đẽ để cắt dâng lên bàn thờ Phật. Những nhánh hoa vừa cắt toát màu rực rỡ, tươi mát. Bổng nhiên tôi cảm nhận được sự chết của nhành hoa ngay lúc cắt và tàn tạ của hoa diễn ra trong từng giây, từng khắc. Những nhánh hoa cắm trên bàn thờ, dâng cúng Phật hay ông bà, không còn là một nhánh hoa bình thường sởn sơ tươi mát trong thiên nhiên nữa; chúng đã bị cắt lià ra khỏi gốc rể của sự sống, ra khỏi môi trường sống, khỏi "đất sống" của chúng. Nhành hoa cắt để cắm lên bàn thờ (hoặc để tặng) là một nhành hoa khác, mang một thuộc tính khác do chúng tôi gây ra "cắt" và "dâng cúng" là hai tính chất mới của hoa. Nó không còn là hoa sống nữa. Nó là một đối tượng của ý nghĩ và ước muốn của chúng tôi: ý muốn dâng lên cúng Phật, cúng thánh thần, cúng ông bà, cho những người đã khuất.
Hoa dâng cúng không còn là hoa cúc, hoa lay dơn hay bất cứ một loài hoa nào sống trong thiên nhiên, đơm nụ, nở hoa, toả hương sắc và dần dần tàn tạ trong thiên nhiên. Ngoài cái dáng vẻ, màu sắc bề ngoài, về tính cách sinh học trông dường như nguyên vẹn nhưng chúng đã chết trong thực chất.
Hoa dâng cúng, hoa tặng là hoa của tâm ý chúng tôi, nói lên sự thành kính, lòng cúng dường của chúng tôi. Cái hoa của "dục vọng", cái hoa dục vọng, mà đối với chúng tôi là chính đáng, song với hoa thì không chính đáng tử tế chút nào. Chắc chắn hoa trên cây rồi phải tàn song không phảỉ là lý do để bào chữa cho lý do "cắt đứt sự sống", "mạng sống" của hoa. Cũng bỡi chính vì lý lẽ ấy mà chúng tôi không mấy khi cắt hoa trong vườn để dùng vào một mục đích nào đó của chúng tôi, và dĩ nhiên chúng tôi rất hạnh phúc khi nhận một chậu hoa nhỏ dù rằng bó hoa mua cũng đem lại niềm vui trong mối quan tâm của người đem đến tặng.
Về mặt biểu trưng, tôi nghĩ về hương sắc và dáng vẻ của hoa là những biểu lộ ra ngoài cái sắc đẹp, sự hấp dẫn trong nội tại của hoa, trong "gen" của hoa, trong sự cống hiến với môi trường, với trời đất về những tinh hoa tàng ẩn bên trong của mình. Ngoài ra cũng để quyến rủ ong bướm chim chóc đến để "hưởng" và phụ giúp làm công việc thụ phấn, truyền giống, mở rộng môi trường phân tán vì sự tồn sinh của mình. Như vậy cái chủ quan của hoa và cái khách quan của ong bướm, chim chóc nằm trong một thể thống nhất cộng sinh toàn diện của tạo vật.
Nhưng hoa cắt, hoa mua để dâng cúng, để tặng để trang trí lại trở thành một biểu tượng, một nhịp cầu giữa con người với con người, giữa con người với trời Phật, thánh thần, hương linh người thân, ma quỷ... giữa những cảnh sống, thế giới sống khác biệt trong vòm vũ trụ mênh mông đầy bí ẩn này. Hoa là một nhịp cầu, một công cụ, một phương tiện tạo sự giao lưu gặp gỡ giữa con người với con người, giữa con người và sinh thể siêu nhiên, vô hình ( có hay không, đến nay nào có ai chứng minh được). Nhiều ít trong mối quan hệ hay ít nhất tạo được sự chuyển đổi của người dâng cúng, của người mang tặng với một mục tiêu tốt. Lúc đầu ngay khi người nhận cũng có một thái độ khác, dù sau đó có thể thay đổi hay không. Song chắc chắn người mang hoa dâng tặng đã có một tâm ý tự đổi thay (trong một kế hoạch dài hạn đổi thay). Người dâng tặng nhiều khi phải vượt qua cả chính mình.
Hoa dâng tặng không còn là hoa nữa mà là một phương tiện hành xữ. Có kết quả hay không và kết quả như thế nào phải cần có thời gian (ngắn dài hay tức khắc) Và kẻ cho cũng như người nhận đều bị đưa vào một cuộc trải nghiệm. Tốt xấu, được công nhận hay thất vọng đều là những trải nghiệm để thành kinh nghiệm của cuộc đời. Cuộc đời của người tặng hay kẻ được tặng - chứ không phải của hoa- vì trên thực chất, nó đã chết ngay khi bị cắt ra khỏi gốc lẻ tự nhiên. Hoa dâng tặng sẽ ra khỏi bàn tay của người dâng tặng ngay sau sát na, giây phút trao gởi. Nó không là hoa của tôi nữa mà nó đã trở thành hoa của người nhận nó. Tôi nghĩ đến những bó hoa của những người thân thiết nhất, những người bạn đã tặng tôi trong dịp tôi nằm bệnh viện để chờ mổ tim năm 1989. Tôi đã "vĩnh cửu hoá" những bó hoa được tặng bằng những bức vẽ "nháp"(ký họa) để mong một ngày nào đó vẽ lại bằng sơn dầu, sau khi học vẽ. Trong số ấy có mấy "bức vẽ" được giáo sư Wolfgang Knifge (lúc ấy là hiệu trưởng trường Đại học Gottingen) xin mang về. Một bức tôi vẽ để tặng vợ tôi. Đó là một kinh nghiệm đem lại nhiều vui tươi và hạnh phúc.
Vậy hoa chẳng phải là một biểu tượng"vĩnh hằng" về mối quan hệ và kinh nghiệm của con người đó sao!
Hoa tặng là hoa trong ý niệm. Nó chính là kẻ chuyển tải ý niệm và rời khỏi tay người tặng thì hoa là ý niệm. Mà ý niệm thì mang tính cách vĩnh hằng phi thời gian và không gian. Còn cái hoa "cúc" hoa "lay dơn" là cái hoa có sống có chết, cái hoa của phù du của vô thường.
Một tầng "lý luận" dông dài hơn nữa là tính cách tâm lý, nói đúng hơn là quá trình tâm lý giữa con người với con người (và từ một chiều từ con người đến Phật, Thánh, hương linh người thân, ma quỷ...) đã diễn ra giữa hai cực hoặc đa cực vừa tương thuận vừa đối nghịch, vừa hổ trợ xây dựng đến suy tàn chia ly trong đời thường. Và không chỉ nằm lại ở quá trình tâm lý mà còn là trong một quá trình "triết lý", "đạo học" nữa.
Về mặt tâm lý, có lẻ không mấy ai đặt mình vào hoàn cảnh và sự sống của nhánh hoa cùng đóa hoa. Tôi nghĩ không chỉ có động vật mà cây cỏ cũng có sự sống, có thọ mạng. Nhà thơ Quách Tấn đã có câu:
Nước mây hằng tự tại
Vàng đá chẳng vô tri
Hoa trải lòng tinh tiến
Chim ngừng cánh biệt ly
Trong bài thơ Mơ Đạo, cho chúng ta nhận thức được :sự sống là bình đẳng, tất cả đều là sinh vật. Trong một bài viết về một ngôi chùa danh tiếng nhà thơ cũng đã có ước vọng: đá chung quanh chùa cũng cúi đầu đảnh lễ.
Sự sống là bình đẳng. Và đã trải qua không biết bao nhiêu năm tháng, tôi không mấy khi ý thức về sự sống của các sinh vật khác so với sự sống của loài người. Đành rằng, và theo qui luật tự nhiên, là sự sống này phải nương tựa vào sự sống khác để tồn tại. Nương tựa trong ý nghĩa cọng sinh, hợp tác nhau để sống hoặc tiêu diệt nhau để sống (cá lớn nuốt cá bé), Nhưng cái thói quen ăn các loài động và thực vật để sống đã khiến cho tôi có sự dửng dưng trước sự "dứt mạch sống" của một nhánh hoặc một bông hoa vì mục đích "chính đáng" và thậm chí là "cao cả" của cá nhân tôi. Dửng dưng còn đỡ vì từ dửng dưng còn gợi lên một cảm giác nào đó. Nói cho đúng hơn, đó là sự vô tâm, sự không ghi nhận, về "sự sống khác" trong các loài không phải là loài người. Cái tâm lý này khiến cho con người hay đúng hơn là đa số con người không ghi nhận và biết đến sự sống khác. Chúng chỉ là những vật liệu, là hàng hoá, là phương tiện cho con người. Lịch sử có mặt của chúng trên hành tinh này trước con người hàng triệu, trăm triệu năm cũng không được ghi nhận. Mà không ghi nhận thì không có nhạy cảm nhất là nhạy cảm trong vấn đề tôn trọng và nhận biết giá trị đặc thù của sự sống, của từng sự sống.
Hành động làm tổn hại, làm diệt chủng chúng được xem là tự nhiên.
Vậy khi hình dung hoà hợp và thể nhập với thiên nhiên vào uyên nguyên vũ trụ là như thế nào? Một ý tưởng trống không, một ước mơ huyễn hoặc?
Có mối liên hệ nào huyền nhiệm hơn là diệt nhau để sinh tồn trên quả đất này? giữa cái toàn thể và cá thể, giữa cái chung và cái đặc thù? Cái gì là nhân tính? Nhân loại?
Sự dâng cúng hoặc trao tặng giữa người và người một nhánh hoa, một lẳng hoa, một đóa hoa là biểu tượng hướng đến, một biểu tượng dâng tặng cởi mở, tin cậy, công khai, một biểu tượng của niềm vui, hy vọng giữa hai bên. Song đoá hoa, nhánh hoa được cắt đi, được tặng trong ý nghĩa sâu sắc đó là sự chết, sự tàn tạ, sự huỷ diệt sự sống! Từ suy tư này mà tôi đã cảm nhận được tấm lòng của nhà thơ Quách Tùng Phong đối với hoa trong bài thơ Giọt Sương:
Tràn ánh bình minh vườn hồng rực rỡ
Giữa thiên nhiên hoa dâng hiến tấm lòng
Đưa tay hái tặng người vừa gặp gở
Trên nụ hồng bổng ứa giọt sương trong.
Chẳng lẽ tôi dâng tặng sự chết, sự tàn tạ được bao kỹ qua màu sắc thiên nhiên còn toả ra trong hoa? Ừ thì cũng được đi, cho hương linh những người đã chết thì dâng cúng hoa chết có sao đâu! Hoa phải chết mới được truyền sóng giao cảm cho người chết!
Hoa cắt, hoa mua là những loại đặc thù riêng biệt, không phải "hoa" bao gồm tất cả những loại hoa trong thiên nhiên. Cũng có thể lý luận rằng hoa cắt đi không còn là hoa nữa, không còn là đơn vị của loài hoa. Dù nó mất đi sự sống song nó đã trỡ thành một nhánh hoa, một đoá hoa khác bỡi vì vợ tôi hay tôi đã ngắm thật kỹ bao nhiêu hoa cùng giống loại để chọn ra những nhánh những đóa đẹp nhất, không giống như đồng loại khác, rồi cắt đi. Nó được cắt đi vì nó đã khác với đồng loại đứng cạnh rồi.
Nó lại nhận được một giá trị khác do tâm ý của chúng tôi phổ vào. Nó mang tính thiêng liêng khi dâng lên bàn thờ hoặc được phổ vào những tính cách khác vì lễ lạc giao tế. Nó là một công cụ, một món hàng, một phương tiện song lại không phải là một công cụ, một món hàng, một phương tiện vì nó đại diện cho chúng tôi, nó nói thay cho chúng tôi. Cái "ta" ở đây, trong "hoa" và "tôi" (cái ngã) đã chuyển đổi trong tương quan giữa con người, giữa người với trời và đất. Nơi đây tính "vô ngã" đã hiện ra trong lý nhân duyên sinh.. Nơi đây tính vô thường được biểu lộ, vì vô ngã là vô thường và ngược lại! Cá thể trong toàn thể, đồng nhất trong dị biệt.
Đoá hoa đức Phật Thích Ca đưa lên chỉ có ngài Ca Diếp giữa đại chúng là mỉm cười hiểu được. Sóng phát ra từ đức Phật chỉ được nhân toàn vẹn từ sự giao cảm trong cùng một tầng số.
Tất cả làm điều kiện cho nhau - sống và chết cũng như hai mặt của đồng tiền, của một chiếc mề đay. Và có lẻ vì vậy đức Phật vẫn thanh tịnh, mỉm cười với hoa cúng dường chăng? Sự sống chết có gì đáng sợ chăng? Tay nhúng bùn để lấy củ sen làm giống đâu có gì quảng ngại.
Nhà thơ Quách Tấn cũng đã mỉm cười:
Một mai ba tấc đất vùi
Trần gian để lại nụ cười cho hoa.
Lê Triều Phương 
(Trong Quách Tấn: Thiên Nhiên và quê hương)
Dịch kinh:
Năm 2005 bạn tôi bị bệnh nặng hành hạ suốt nửa năm dài và bạn đã có một kỷ niệm đầy cảm khái. Đó là việc hiệu đính tập Nhập Hạnh Bồ Tát. Sau đây là lời thưa của bạn:
"Tập Luận "Nhập Hạnh Bồ Tát" của Tôn giả Santideva, do cư sĩ Nguyên Hiển dịch sang Việt Ngữ năm 2005, theo thể kệ, đã đến tay tôi trong một hoàn cảnh đầy kỷ niệm. Năm 2005, chúng tôi bị một bệnh nặng hành hạ suốt nửa năm dài. Hằng ngày đau nhức vô cùng. Chúng tôi chưa đồng ý để bác sĩ mổ và kham nhẫn chịu đựng. Hàng ngày niệm Phật và thỉnh thoảng đọc phẩm Phổ Môn.
Một ngày nọ, năm người bạn từ phương xa đến thăm vì muốn "tiếp sức" cho chúng tôi. Lúc ấy chúng tôi đang nằm ở bệnh viện trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Các bạn phải trò chuyện cùng nhau nơi hành lang của bệnh viện. Cuối cùng chúng tôi gặp mặt nhau khoảng 15 phút rồi chia tay. Bạn Nguyên Định đã tặng và khuyên chúng tôi nên đọc tập Luận nói trên. Chúng tôi đọc lướt qua và thấy nội dung vô cùng ý nghĩa.
Một buổi tối, sau bữa ăn chiều, chúng tôi đọc lại tập Luận kỷ hơn. Bỗng dưng trong đầu chúng tôi vang lên âm thanh như dòng nhạc của những câu kệ trong phẩm Phổ Môn, ví dụ như:
Bi thế giới lôi chấn
Từ ý diệu đại vân
Chú cam lồ pháp vũ
Diệt trừ phiền não diệm
hoặc:
Diệu âm, Quán thế âm
Phạm âm, hải triều âm
Thắng bỉ thế gian âm
Thị cố tu thường niệm.
Lòng chúng tôi bỗng nổi lên cảm hứng chỉnh sửa ngay lại một số câu trong bản dịch của cư sĩ Nguyên Hiển, với ước muốn mình có riêng một bản Luận đọc nghe êm nhẹ hơn, dù không bằng những câu ví dụ trong phẩm Phổ Môn.
Chúng tôi vừa đọc vừa ghi chép cho đến khi cảm thấy buồn ngủ. Kim đồng hồ cho biết đã hơn 2 giờ khuya. Chúng tôi vô cùng kinh ngạc: Tại sao mình đã mất cảm giác đau nhức và mệt mỏi suốt 6 tiếng đồng hồ? Có gì linh thiêng và huyền nhiệm tỏa ra từ những dòng kệ "Nhập Hạnh Bồ Tát" chăng? Chúng tôi đi ra hành lan bệnh viện để kiểm lại thì giờ. Đồng hồ cho biết đã hơn 2 giờ khuya.
Hôm sau bạn Nguyên Châu, trong nhóm những người đã đến thăm chúng tôi, gọi điện thoại hỏi về bệnh tình. Chúng tôi thuật lại chuyện kỳ diệu đã trải qua trong đêm. Anh bạn liền kể ngay cho tôi biết lược sử của Tôn giả Santiveda và cho biết Phật tử Tây Tạng rất sùng kính Luận Nhập Hạnh Bồ Tát như Phật tử châu Á sùng kính phẩm Phổ Môn. Nhiều Phật tử đã cảm nhận sức mạnh thiêng liêng toát ra từ tập Luận.
Cuối cùng anh bạn đã khuyên chúng tôi nên cố gắng "đánh bóng" công trình Việt dịch của cư sĩ Nguyên Hiển vì điều này vừa giúp cho bản thân chúng tôi giảm được sự đau khổ của thân xác trong lúc đau bệnh và biết đâu bạn bè nhờ đó mà có một bản dịch dễ tụng hơn. Chúng tôi đã hứa sẽ theo đuổi việc đánh bóng ấy. Động cơ quan trọng nhất đã thúc đẩy việc làm của chúng tôi là anh Nguyên Hiển đã cho phép chúng tôi hiệu đính lại bản dịch của anh.
Những ngày hôm sau chúng tôi lần lượt nhận được 5 bản dịch khác do bạn bè gởi đến với lời khuyến khích làm công việc hiệu đính. Đó là bản Đức ngữ Eintritt in das Leben zur Erleuchtung do giáo sư Ernst Steinkellner chuyễn ngữ năm 1981, ba bản Việt ngữ gồm có: Bồ Tát Hạnh, do Thượng Tọa Thích Trí Siêu dịch năm 1990, Nhập Hạnh Bồ Tát do Ni Sư Thích Nữ Trí Hải dịch năm 1998 và Một tia chớp sáng trong đêm tối do đức Dalai Lama giảng giải và do Đoàn Phụng Mệnh dịch năm 1999 và bản Anh ngữ Engaging in Bodhísattva Behavior do ông Alexander Berzin dịch năm 2005. Sáu bản dịch rất công phu với những chú giải rõ ràng mà chúng tôi đọc được, đã soi sáng cho chúng tôi thấy được nội dung và ý nghĩa của con đường đi của các bậc Bồ Tát. Nơi đây, chúng tôi chân thành bày tỏ sự tri ân sâu sắc của chúng tôi đến tất cả vị dịch giả và giảng giải.
Hôm nay, sau gần một năm rưỡi, chúng tôi hoàn thành bản hiệu đính với tâm trạng khinh an, mặc dù vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Chúng tôi xin hồi hướng đến tất cả chúng sinh và cầu mong cho tất cả đều đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát.
Chúng tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến hiền nội và bằng hữu đã khuyến khích và hỗ trợ việc hiệu đính, hỗ trợ tìm tài liệu, đánh vi tính và sửa chữa lỗi chính tả.
(Gottingen, ngày 14.01.2007)"
Tháng 5 năm 2007 cuốn Nhập Hạnh Bồ Tát được nhà xuất bản Tôn Giáo ấn hành sau khi anh Lê Triều Phương về nước, trở về quê hương sống những ngày cuối đời.
Tập Nhập Hạnh Bồ Tát giúp chúng tôi, gia đình, bạn bè cùng chư vị sư tăng chùa An Linh dùng để tụng niệm cầu an cho bạn Lê Triều Phương suốt trong 9 đêm (mỗi đêm một chương) Lần đầu tiên trong đời tôi cùng với gia đình Lê Triều Phương đọc kinh cầu an. Trong những đêm nằm lắng nghe lời tụng tập Nhập Hạnh Bồ Tát bạn tôi đã cảm nhận được sự êm dịu khi cơn đau đang nổi cuồn trong thân thể. Và chính trong những giờ phút tràn ngập ân huệ của lời kinh này mà bạn tôi thầm nguyện rằng sẽ cố gắng thâu tóm lại cho ngắn đi lời kinh để có thể đọc gọn trong ba đêm mà không thiếu sót một chương nào của tập Kinh. Lời nguyện này bạn tôi đã thực hiện hoàn tất. Trên giường bệnh, mỗi khi cơn đau dịu xuống, bạn tôi lại cầm bút ghi những gì suy ngẫm về kinh Nhập Hạnh Bồ Tát. Sau đây là Lời thưa:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Năm 2005 nhờ đọc Luận và hiệu đính Nhập Hạnh Bồ Tát của Tôn Giả Tịch Thiên (Santiveda) mà chúng tôi thoát qua cơn đau khổ của bệnh ung thư vào thời kì chót. Sau một năm rưởi hiệu đính bản dịch của Nguyên Hiển, tập Nhập Hạnh Bồ Tát được ấn hành vào đầu năm 2007.
Cuối năm 2007 tôi lại lâm vào tình trạng nguy kịch. Nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, chúng tôi được nghe quí Thầy, người thân và bạn bè đã tụng kinh cầu an. Cơn dau đã được lời kinh làm im dịu và tâm hồn chúng tôi được thanh thản an lành. Nhưng vì lý do nào đã khiếnchúng tôi tóm lược Luận Nhập Hạnh Bồ Tát?
Lý do thứ nhất, bên cạnh sự cầu an, có lẽ Kinh Nhập Hạnh Bồ Tát đã tác động vào tôi như dòng nước Cam lồ tắm mát thân tôi. Sau mỗi lần cầu an như vậy, thân quyến và bạn bè chúng tôi đều nhận định và nhất trí rằng kinh Nhập Hạnh Bồ Tát đã vực tôi dậy sau hai lần đứng bên bờ sinh tử.
Nhân đây chúng tôi xin trân trọng cảm ơn chư tăng tại ba chùa sau đây:
Một là Thượng Tọa trụ trì Thích Đồng Đạo và Tăng sĩ chùa An Linh, Q.12 TP Hồ Chí Minh. Quí vị đã cầu an nhiều đợt, mỗi đợt nhiều ngày và có khi 9 đêm liền. Ngoài các kinh khác, cả Luận Nhập Hạnh Bồ Tát cũng được đọc tụng.
Hai sư ông Thích Viên Mãn và đệ tử Đại Đức Thích Chúc Minh Tại chùa Từ Tôn (Hòn Đỏ) Nha Trang và Thượng Tọa Thích Phước An, Nha Trang.
Ba là Đại Đức Thích Như Hoằng trụ trì chùa Sắc Tứ Thiên Tứ tại Hòn Đất, Ninh Hòa, Nha Trang. Ngoài việc cầu chư Phật và Bồ Tát, Đại Đức còn cầu Bồ Tát Thích Quảng Đức cứu độ chúng tôi. Hòn Đất là nơi ẩn tu của ba vị Thiền Sư đắc đạo.
Lý do thứ hai, ba khối u lớn dưới da bụng chúng tôi lần lượt tự hủy, dịch theo vết mổ gan cũ ra ngoài. Chúng tôi không còn uống thuốc chống đau với liều lượng ngày càng lớn nữa. Chúng tôi vẫn an nhiên chấp nhận không chóng thì chày, một trong năm khối u còn lại có thể kết liễu đời chúng tôi, mặc dù chúng đã teo nhỏ lại hơn xưa.
Mười chương trong Nhập Hạnh Bồ Tát đã tỏa rộng niềm bình an trong những đêm cầu an của bằng hữu. Chúng tôi thầm mong ước rằng nều Nhập Hạnh Bồ Tát gói trọn được ba giờ tụng niệm, mỗi lần trong vòng một giờ, thì lòng chúng tôi sẽ vô cùng hoan hỷ, an lạc khi nghe được lời kinh vang vọng và tâm tư thấm nhuần thêm một số lời dạy trong kinh. Và chúng tôi đã dốc tâm làm việc đó. Đây không phải là việc tu sửa mà chỉ là tóm gọn để tiện dụng.
Lý do thứ ba, trong thế giới hiện đại, thời gian sẽ vô cùng quí báu cho nên chúng tôi xin hồi hướng tập Nhập Hạnh Bồ Tátnày đến các bạn tuổi trẻ để các bạn tiết kiệm thời gian đi sâu vào thế giới tâm linh an lành của chúng ta.
Thạnh Lộc, 30-2-2008
Lê Triều Phương
Tập lược dịch "Nhập Hạnh Bồ Tát" được in năm 2008 do nhà xuất bản Tôn giáo ấn hành.
Chữa Bệnh Bằng Thuốc Nam
Trong tình thân thương họ hàng thân thuộc và bạn bè anh được rất nhiều nguồn tin tức đề cập đến các môn thuốc điều trị chứng nang y này. Anh vui vẻ chấp nhận dùng thử, chấp nhận làm một con bệnh được đem ra làm nghiệm chứng của các môn thuốc gia truyền và dân tộc .
Trước tiên là môn thuốc Nam có tên rất nôm na là "cây chó đẻ".
Link: http://www.vnexpress.net/
Cây này Trung quốc gọi là hy thiêm thảo (hy là lợn, thiêm là đắng cay, thảo loại cỏ) dịch ra tiếng Việt là cỏ đĩ, cứt lợn, chó đẻ v.v... phần nhiều dùng để trị phong thấp, bán thân bất toại v.v... Tuy nhiên có người đọc được trên báo có bài nói là liều thuốc chó đẻ có thể trị khỏi được ung thư bèn ra công nấu thuốc thành cao và phơi khô cây chó đẻ gởi đến để anh dùng chữa bệnh. Tuy là một nhà khoa học song anh vẫn vui vẻ thử nghiệm vì tình bạn, vì mong muồn gặp được một vị dược thần để chống chọi với bệnh tật hiểm nghèo của mình.
Lại có người bày cho môn thuốc uống trái sung (cũng do một bài đăng trên báo) anh cũng uống thử nghiệm và đành phải thôi ngang vì bị phản ứng sau khi uống lần đầu. Có môn thuốc tên "cây trúc mọi" được mang về thực nghiệm. Lại một phen bỏ dở. Khi được bày cho môn thuốc của cây Lô hội thì anh dùng được nhiều ngày. Ban đầu trị được chứng táo bón, giúp cho anh bình thường trong sinh hoạt tiêu hóa song sau một thời gian dài anh cũng phải tạm ngưng vì không hiệu nghiệm với chứng bệnh ung thư đường ruột.
Trước đó nhờ được người cháu gái tận tình tìm phương thuốc trị bênh tận ngoài Bắc và vị đông y này không cần bắt mạch xem bệnh mà cho luôn vài chục thang thuốc gọi là gia truyền để bệnh nhân điều trị. Càng uống bệnh càng gia tăng và đến độ chịu không nổi sự hành hạ nên anh quyết định chấm dứt điều trị bằng thuốc gia truyền.
Một người bạn nghe tin anh anh bị ung thư vội vàng mang lại nhà một chai thuốc do anh ta tự chế và đảm bảo là sẽ chữa trị rất hiệu nghiệm vì thuốc này chuyên trị bách bệnh. Thuốc rất đơn giản chỉ là hạt chuối chát cùng hạt cây chè (trà) ngâm với rượu. Thế mà uống để trị bách bệnh. Rất hiệu ngiệm vì chính ông ấy uống đã trị lành được chứng phong thấp của ông ấy. Từ hiệu nghiệm đó ông suy ra là thuốc có thể chữa trị được ung thư và bày cho anh uống để trắc nghiệm. Sau khi vị khách bán thuốc ra về anh đem cất đi vì không muốn làm con vật thí nghiệm môn thuốc suy diễn này nữa vì nếu có may mắn không chết thì ông thầy lang kia lại có dịp đem trường hợp của mình ra khoe về sự hiệu nghiệm của môn thuốc gia truyền của ông.
Nhiều bạn bè đến thăm đều mang theo một vài tên thuốc nghe được, đọc được trên các báo, phô tô lại hoặc mang luôn cả cuốn sách để dẫn chứng và khuyên nên uống thử xem ra sao vì biết đâu bệnh trúng được thuốc thì sao (duyên thầy phước chủ ấy mà). Rất trân trọng sự chiếu cố của các bạn anh ghi chép tất cả vào trong một cuốn sổ và vui vẻ nói đùa rằng nếu sau này lành được bệnh thì sẽ có một tư liệu dầy đủ về các phương thuốc và cách trị bệnh ung thư rẻ tiền và đơn giản và dự định sẽ xuất bản. Khi ấy thì sẽ có rất nhiều vị lương y có sẵn tư liệu đem ra chứng minh là môn thuốc gia truyền của mình đã cứu sống một vị giáo sư tiến sĩ mang bệnh ung thư mà nền y học phương tây đã chịu bó tay mà về nước được mình đem môn thuốc gia truyền ra ứng dụng chỉ có một vài tháng mà đã lành bệnh ít tốn kém và đã có in sách để cảm ơn. Hành động này thật tràn đầy tình cảm. Không có thái độ biết ơn nào đơn giản mà cao cả hơn.
Cuối cùng anh bạn tôi không chịu uống thuốc trị bệnh nữa mà lòng nhủ lòng là tự chữa bệnh cho mình theo môn thuốc: "Chung sống cùng nhau"
Anh nói riêng cùng tôi:
Mình có một quan niệm là nên để bệnh ung thư cùng sống với mình. Nếu mình cố tìm cách uống thuốc tiêu diệt nó thì lẽ dĩ nhiên là nó phải có phản ứng tự vệ để sinh tồn. Ban đầu nó có thể vì bị tấn công thình lình cho nên đành phải chịu lép vế mà thu tầm phát triển song khi đã quen với thuốc rồi thì nó lại biến chất để chống lại. Sự chống lại để sinh tồn sẽ gây cho mình phản ứng , gây ra sự đau khổ cho mình. Nếu cả hai đều nương vào nhau cùng chung sống hòa bình thì cơ thể của mình sẽ được cân bằng và sự đau khổ sẽ vơi đi.
Cho nên mình đêm nằm một mình, mình khe khẽ thì thầm cùng với căn bênh hiện đang phát triển trong bụng mình là cùng nhau thực hiện sự tương sinh cùng nhau. Tôi sẽ không dùng thuốc tấn công bạn và bạn cũng không phát triển để gây đau đớn cho tôi. Tôi còn sống được nhiều ngày thì bạn cũng sống được nhiều ngày trong cơ thể của tôi. Bạn hùng hổ tấn công tôi thì tôi cũng phải dùng thuốc để trấn áp bạn. Như vậy hai ta cùng chịu đau khổ như nhau thôi. Từ nay chúng ta sinh sống hòa hợp với nhau mà không cần đến ấn định ngày mai.
Lý luận và cách sống này mới nghe qua tôi hơi sửng sốt. Chưa bao giờ có một quan niệm cùng sống chung với bệnh tật bao giờ. Khoa học càng ngày càng phát triển thì sự tiêu diệt các mầm bệnh cũng như cơn bệnh lại càng quyết liệt để cứu sống con người. Riêng trường hợp của bạn tôi thì quan niệm này đã được thực hiện và có kết quả rất khả quan.
Bệnh nan y của bạn tôi đã đến giai đoạn cuối. Bác sĩ đã khuyên nên về sống cho thoải mái trong những ngày cuối cùng.
Dưới bóng cây Sa La
Ngôi vườn nhà của bạn tuy không rộng lớn song có được một khoảng sân rộng. Cây cỏ được bài trí đơn giản theo ý tưởng của bạn tôi. Trước đây bạn tôi đã sống nhiều năm trong môi trường sinh thái cho nên cuộc sống hôm nay vẫn giữ được phong thái của một nhà khoa học về môi trường. Yêu thiên nhiên tùy theo hoàn cảnh, tùy theo nếp sống địa phương nhưng có một riêng tư. Mỗi cây trồng đều mang một ý nghĩa, một kỷ niệm. Một hòn đá đơn sơ nằm nghiêng nghiêng bên bờ giậu là nơi để cho lùm cây nho tàu (cây mâm xôi) nở hoa, để con dế mèn đêm đêm cất tiếng gáy râm ran. Một dàn hoa mướp vàng, hoa nhiều hơn trái, có những ngọn nhánh ung dung bò dọc theo lưng tường đi hoang ra tận cổng. Tất cả như sống tự do hoang dã. Tuy nhiên sự phân phối các cây trồng đều tuân theo một sắp xếp rất khoa học.
Trước tiên là trồng một cây Sa La. Đây là một loài cây bên Ấn Độ đã từng che mát cho đức Phật ngồi nhập diệt. Vốn biết rằng mình sẽ không được chết nơi chôn nhau, nơi quê hương của cha mẹ là thôn Thuận Hòa, nơi có dòng sông Thuông, có vườn trầu phảng phất hương cay cay hòa cùng với hương cau, hương bưởi. Vì vậy cho nên bạn tôi có một mong muốn là được yên nghỉ dưới một tàn cây Sa la trồng trong vườn nhà. Khi cây Sa la được đem về trồng trong vườn, tôi đã từng hưởng được những cảm xúc rung động đầu tiên. Tôi đã có một bài viết về cây này, khi cây Sa la rụng lá.
Hôm nay cây Sa la này đã phát triển tươi tốt. Cuối năm Đinh Hợi vào thăm bạn, tôi lại được chứng kiến cây Sa la thay lá. Cảnh tượng thay lá không như năm trước mà lần này cây thay lá như các cây thường khác. Nghĩa là lá rụng và mầm non xuất hiện không có gì đột ngột. Vì vậy nên tôi quyết định ghi lại bài viết về cây Sa La thay lá lần đầu.
Nhìn Cây Sa La
Cây Sa La mà bạn tôi mới vừa mua về trồng trong sân vườn của ngôi nhà mới cất. Ngôi nhà xinh xắn và khoảnh vườn đủ rộng để trồng cỏ cây. Cây Sa La cao gần hai thước, khi đem về cành lá sum xuê sắc màu xanh thắm. Trồng được mươi hôm thì lá bắt đầu chớm ửng màu hồng nhạt. Vài hôm sau thì sắc chuyển sang màu đỏ thắm. Ngồi trên lan can tầng hai tôi say đắm nhìn sắc lá mà lòng tưởng chừng như vừa gặp gỡ màu lá bàng đỏ thắm trong mùa xuân về trên bãi biển Nha Trang. Trong khung cảnh hương xuân, cỏ cây nào cũng mang một màu xanh mươn mởn duy chỉ có dãy bàng ven theo con đường biển Nha Trang khoác một tấm áo màu vàng hồng đỏ thắm. Mùa xuân là mùa của lá bàng đổi sắc, mùa của sắc đỏ chung vui hội xuân với màu xanh của lá, màu vàng của mai, của cúc, của vạn thọ v.v... Màu đỏ thắm của lá bàng không bơ vơ lạc lõng mà đậm đà hương sắc của mùa xuân nơi xứ Trầm Hương. Trước màu xanh bao la của trời xuân, của biến thắm, màu đỏ của lá bàng như một chiếc áo dài đỏ rực phơ phất bên những chiếc áo dài đủ màu sắc trong một buổi tiệc mừng xuân. Nhìn màu đỏ của lá bàng trong dịp đầu năm người du khách hoặc địa phương vẫn cảm nhận được sự may mắn và hạnh phúc trong buổi hái lộc đầu xuân.
Cây Sa La trong vườn bạn tôi màu lá đang chuyển sang vàng. Lòng tôi chợt thoảng lên niềm lo lắng bâng quơ. Phải chăng cây không thay màu lá mà vì cây trồng không hợp với đất với thời gian nên lá đổi sắc trước khi rơi rụng để báo hiệu cho sự chết của cây. Tuy đã được người thợ vườn bán cây cho biết là cây sẽ thay là song lòng tôi vẫn không yên. Biết đâu chưa đến mùa thay lá, biết đâu cây Sa la không có duyên sống cùng với các cỏ cây khác trong khu vườn mới của bạn tôi. Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh cách đây trên hai nghìn năm cũng dưới một bóng cây Sa La đức Phật đã ngồi nhập diệt. Người bạn tôi không có ước muốn như đức Phật song có ước mong là hằng ngày được ngắm nhìn cành lá cây Sa La đậm màu xanh trong khu vườn tĩnh mịch của mình.
Hôm nay cây Sa La không rụng lá từng loạt mà lại rơi rụng từng chiếc một. Thỉnh thoảng lại rơi một chiếc. Lá không rụng xuống gốc mà lại bay đi xa, nhẹ nhàng như lửng lơ như lãng đãng của bước chân thời gian hiện thành màu vàng in dấu trên thảm cỏ xanh mịn màng. Thời gian qua của con người đọng lại sắc trắng trên mái tóc, song thời gian của những chiếc lá Sa La lại in hằn như lưu dấu vĩnh viển trên màu xanh của thảm cỏ non.Thảm cỏ xanh lặng lẽ đón nhận lá vàng Sa La dịu dàng và chậm rãi. Sắc vàng càng ngày càng thắm không gây cho lòng người cảm thấy sự tàn phai mà là sự nồng thắm của hy vọng, của một sự chuyển mùa tươi đẹp.
Lá Sa La rơi nhẹ nhàng từng chiếc, chầm chậm đều đều. Nhờ tuổi đã về già nên tôi có được sự kiên nhẫn ngồi xem lá rụng. Lá rụng không hề có sự báo trước. Đang nằm yên lặng trên cành bỗng nhiên lá chợt lìa cành. Cành cây không chao động, bóng cây không rung rinh. Cành lá chung quanh như vô tư hờ hững. Lòng tôi bổng nhiên xao động nhớ lại những ngày ấu thơ có những buổi trưa vàng trốn nhà đi xuống biển xem lá bàng rụng. Cứ mỗi lần có gió thổi thì màu lá bàng như rung rinh phát ra những tiếng khua rào rạt rồi ào ào cùng nhau rơi rụng xuống đường. Màu vàng, màu đỏ phơi phới tung bay khắp trời, trôi theo gió, chạy lang thang theo dọc con đường ven bờ bể. Lá bàng được bay chạy khắp nơi. Lá bàng có một sự rơi rụng tập thể, rụng theo từng cơn gió, khi thì ào ạt, khi thì đơn côi. Vào những buổi ban trưa đứng bóng, gió chỉ còn hiu hiu thì cảnh lá lìa cành lửng lơ và hiu quạnh.
Cây SaLa trong vườn của bạn tôi có nét rụng của lá những cành bàng trong buổi trưa tạnh gió. Trong bầu không khí quạnh hiu, giữa lòng bầu trời xanh thẳm, từng chiếc lá Sa La rơi rụng, một chiếc, một chiếc rồi một chiếc. Không một âm thanh rơi rụng mà chỉ có màu sắc vàng lung linh trong nắng. Màu sắc cử động thay cho tiếng vọng của âm thanh. Thuở trước mỗi khi đọc đến đoạn Lá bàng rụng trong tiểu thuyết Đôi Bạn của Nhất Linh âm thanh tiếng lá rụng để cho đôi chị em đi nhặt lá vàng cùng với nhịp tiết tấu ´´gió lại nổi lên´´, tôi đã xúc động vì âm thanh của lá rụng bàng bạc trong khắp câu chuyện.
Hôm nay đây tuy không còn nghe âm vang của lá rụng song lòng tôi lại tràn ngập màu sắc lung linh của lá vàng trong cái mênh mông của sắc nắng. Âm thanh đã biến thành màu sắc. Và trong tâm hồn tôi âm thanh và màu sắc hoà trộn cùng nhau trong hình ảnh lá vàng rụng.
Lá cây Sa La rụng từng chiếc một, đôi lúc cũng có song đôi, cặp ba. Song rất hiếm. Khi lá rụng, không có một hiện tượng nhỏ nào báo trước. Nhiều lúc, tưởng như chiếc lá này sắp rơi thì âm thầm và lặng lẽ chiếc lá kề bên lại nhẹ nhàng lìa cành. Sự ra đi của lá dường như giống với sự ra đi của con người. Đột ngột với người này và lặng lẽ với kẻ khác.
Mới buổi chiều hôm qua cành lá Sa La vẫn còn im lặng xanh trên vòm lá biếc, thế mà sáng hôm nay khi thức dậy ra ngồi nơi hiên nhà nhìn xuống, lòng tôi chợt xao xuyến vì trên cành lá cây SaLa không còn một chiếc lá nào. Mới hôm nào lá Sa La rụng từng chiếc rơi từng chiếc. Thời gian như vô tận. Nhưng đêm qua lá đã rụng sạch như giận dũi rời bỏ tôi không một chút luyến lưu.
Nhìn từng chiếc lá Sa La rơi trên thảm cỏ trước sân nhà bạn tôi, tôi cảm nhận được từng giây phút trôi qua không hờ hửng mà chứa đựng những giây phút mong chờ. Ý mong chờ chứa đọng trong từng giây nhìn ngắm từng chiếc lá nhẹ nhàng rơi. Thời gian trôi qua nhanh chậm tuỳ theo tâm lý người trong cuộc. Tôi đang ở trong trạng thái lơ lửng giữa dòng thời gian. Ngắm nhìn từng chiếc lá Sa La rơi rụng mà lòng luyến tiếc cho thân phận từng chiếc lá rơi mà cũng mong cho những chiếc lá này rơi mau vì tôi cũng biết rằng cây đang trong mùa thay lá. Lá rụng để mầm non lú dạng.
Cây Sa La rụng lá. Nụ lá Sa La chào đời. Mỗi giây phút cây Sa La đều đem đến cho tôi một chút hồi hộp, một chút chờ mong và phút giây hạnh phúc. Trong cuộc đời này còn có biết bao điều hạnh phúc tầm thường nhất đến với chúng ta trong những giờ phút tình cờ nhất. Nếu lòng chúng ta mở rộng thì sẽ đón nhận được bao điều hạnh phúc mà riêng ta ta sẽ cảm nhận được sự yêu đời yêu thiên nhiên không bao giờ hờ hửng với chúng ta.
Hằng năm cây Sa La thay lá một mùa. Mùa Đông lá trở vàng và rơi rụng. Nụ lá xanh non né nở để chào đón hương Xuân.
Bầu trời ban mai vẫn còn ẩn ánh nét ban đêm. Một vài ngôi sao còn lóng lánh, một giải mây trắng mỏng trôi chậm dưới chân trời. Dẫu biết rằng thế nào cây Sa La cũng phải rụng hết lá song sự ra đi vội vàng trong đêm khuya thanh vắng có chút gì làm tim tôi xao xuyến. Tôi thầm nghĩ, giá mà cây Sa La để nhín phần cho tôi một vài lá cuối cùng trong sáng nay thì sự buồn rầu của tôi sẽ vơi đi vì dù tôi biết rằng trên cõi đời này có những điều xảy ra không bao giờ tuân theo ý muốn của mình
Một tuần sau cũng vào một buổi sáng tinh sương tôi như thói quen ra hiên ngồi nhìn xuống vườn. Cây Sa La vẫn vươn các cành trơ trọi hằn nét lên bầu trời. Màu xanh của bầu trời chuyển dần sang hồng nhạt rồi hồng thắm. Mặt trời từ từ nhô lên sau làn mây trắng lãng đãng nơi chân trời. Bầu trời rực rỡ những tia hồng tươi nhuộm thắm cảnh vật.
Bổng nhiên, trước mắt tôi cây Sa La rực rỡ như đang trổ hoa. Trên đầu các ngọn cành những đốm hoa xanh đang lộ diện. Sau một phút giây sửng sốt, tôi nhận thấy rõ rệt hiện tượng nẩy sinh đang hiển hiện dưới ánh nắng ban mai. Trên các đầu ngọn cành Sa La đều điểm một nụ xanh. Toàn cây Sa La đều dày đặc nụ xanh. Đây không phải là nụ hoa mà lại là nụ lá. Trên tất cả ngọn cành, (không có nơi các nách cành), các nụ lá nhô cao đón nắng bình minh. Lúc này tôi mới hiểu rõ là lá Sa La chỉ mọc ở đầu ngọn cành chớ không mọc nơi nách cành.
Đây là buổi sáng đầu tiên lòng tôi hoàn toàn im dịu sau những giờ phút lo âu vì sợ cây Sa La chết.
Nụ lá Sa La mỗi ngày một sum thạnh. Nhìn toàn cảnh cây đơm nụ tôi có cảm giác như đang ngắm một cây mai trong mùa xuân. Tuy nhiên nơi cây mai, nụ lá nhỏ mà dài còn nụ hoa thì tròn và sung mãn. Khách rành chơi mai không bao giờ có sự nhầm lẫn giữa nụ lá và nụ hoa. Nhưng nơi cây Sa La thì nụ lá lại tròn trịa và sung mãn. Trong ánh nắng hồng của ban mai các nụ lá có màu xanh bích ngọc có hình dạng như một nụ hoa vươn thẳng lên bầu trời. Trong lúc này tôi như thưởng thức trọn vẹn cái đẹp của một vòm nụ hoa hàm tiếu. Mỗi ngày nụ lá mỗi lớn nhanh và để rồi một hôm chúng nở bùng. Lá cây Sa La hiện rõ trên nền trời như những chiếc lông chim kết lại thành chùm chen nhau trên các ngọn, đầu cành trông giống hệt như những chiếc cầu lông màu xanh bích. Gân lá lộ rõ trên từng chiếc lá và vì mọc nơi đầu ngọn cành nên trông các nụ lá như những con ong, con ve sầu khổng lồ bay về đậu chổng đầu trên cành Sa La. Tôi liên tưởng đến một bấy sinh vật đang vui đùa họp mặt trên những cành cây mụ mẫm. Hạnh phúc tự nhiên tràn đầy. Thiên nhiên có tình với ta biết là ngần nào.
(Thạnh Lộc ngày 23 tháng 4 năm 2007)
Mỗi lúc yên lành trong cơ thể, tinh thần cảm thấy vui tươi, bạn tôi lại ra ngồi dưới cây Sa la để tâm hồn trầm lắng và anh bạn đã vẽ lại cây Sala bằng bút chì màu. Những người ngoài cuộc chắc chắn sẽ không nhìn thấy những nét tình cảm và thân thiết trong bức tranh song nếu là người trong cuộc, người đã có những kỷ niệm bên nhau trong những ngày tháng ở ngôi biệt thự này thì màu xanh hoa lý trên bức tranh sẽ vô cùng thân thương và êm dịu trong lòng vô cùng. Có cảm thông được những tình cảm thanh thản trong lòng của bạn tôi trước bước đi chậm rãi của thời gian trên sắc lá của cây Sa la và sự lớn lên từng ngày của cây chúng ta mới thấy rõ được tình yêu thiên nhiên của anh bạn, thắm đậm như thế nào. Tôi tin rằng chỉ có một vài người là hiểu được tấm lòng của bạn tôi. Đó là chị Thanh Trúc, anh Trúc Như, bạn Phong Hương, và những người cháu trong nhà.
Dưới bóng cây Sa la bạn tôi đã viết Lời Giới Thiệu cho cuốn "Nguồn Đạo Trong Thơ Văn" của Quách Tấn do tôi sưu tầm và biên soạn, NXB Phương Đông ấn hành năm 2007:
Lời giới thiệu
"Ngày Phật đản năm Kỷ Dậu (1959) nhân có dịp tham dự một buổi lễ cúng dường tại chùa Phước Hải, nhà thơ Quách Tấn đã nguyện cùng Phật tổ dâng hiến cuộc đời thơ của mình để phụng sự chính pháp.
Trước đó, tuy sống rất gần với đạo Phật song người đến với chùa, với kinh như một nhà thơ đối với cảnh đẹp của đất trời. Thuở còn đi học tuy đã từng trú ngụ tại chùa, ăn nhờ tương chùa, nghe giảng kinh, đọc kinh song người chỉ có một niềm kính mộ mà chưa có ý tưởng quy y.
Sau khi bước chân vào trường đời cũng như trưòng thơ, người vẫn một niềm kính yêu đạo Phật và đã để lại trong văn thơ những nét bút dịu dàng thơ mộng, thoang thoảng hương trầm. Tuy nhiên, chỉ có hơi hương phảng phất mà thôi. Bởi vậy cho nên trong giới văn học không có ai lầm tưởng nhà thơ Quách Tấn là một nhà thơ của đạo Phật.
Trong thơ văn Quách Tấn, mùi trầm hương chỉ thỉnh thoảng xuất hiện trong những làn hương hoa, trong cảnh vật thiên nhiên tràn ngập giữa trời thơ.
Nhà thơ Quách Tấn đã đến với nguồn đạo bằng tâm hồn của một thi nhân ưa cái chân, cái đẹp. Không có một bài thơ nào mang nội dung như một bài thơ tải đạo của các vị thiền sư đời Lý Trần. Có thể nói người không dùng thơ để tải đạo mà trong thơ chỉ có hương để tải đạo. Thơ và đạo vẫn có một khoảng cách trong những tương quan giữa thơ và đạo.
Viết về Ảnh hưởng Phật giáo trong thơ, trong cuộc đời của hai nhà thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê, Quách Tấn đã chan hòa văn chươngvới tinh thần bằng hữu. Rút từ kinh nghiệm thực tiễn để giải thích nét đặc thù trong văn học: Thơ Hàn Mặc Tử cao đẹp không phải vì có một vài tư tưởng Phật giáo trong thơ mà vì Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lớn. Trong đời, Bích Khê luôn luôn tụng niệm kinh A Di Đà không phải để tìm ý thơ mà để làm hành trang cùng đi suốt cuộc đời. Quách Tấn viết về hai bạn liên quan đến Phật giáo trong niềm thân thương trìu mến như nói về mình. Nói để cho bạn đọc mà hiểu rõ, chớ không phải để khâm phục.
Trong các tác phẩm viết về Thi Thoại như Hương Vườn Cũ, Trong Vườn Hoa Thơ, Hưóng Phấn Nâng Hương, Những Bức Thư Thơ có những bài liên quan đến tư tưởng Phật giáo nhưng đó chỉ là những tương quan thuộc về văn thơ. Cho nên Quách Tấn chỉ gợi nhiều hơn là giải thích cặn kẽ. Chỉ riêng có bài Nga nga lưỡng nga nga là nội dung đi sâu vào tư tưởng Phật giáo. Tuy nhiên lời văn vẫn đượm đà, ý văn vẫn tươi sáng.
Nhà thơ có 5 giấc mộng tương quan đến ý niệm sống đối với cuộc đời. Nếu cuộc đời này là vô thường thì những giấc mộng kia có hay không cũng không quan hệ. Mỗi chúng ta đều có riêng những giấc mộng mà khi tỉnh giấc, lòng ta vẫn bàng hoàng luyến tiếc.
Và kết thúc tuyển tập là bài Hồi Ký Về Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Vị cao tăng này đối với nhà thơ vừa là thầy về đạo vừa là trò về thơ Đường. Đôi tri kỷ này đã có những buổi đàm đạo về đạo, về thơ trong một không gian đầy ấn tượng thơ văn và trong một thời gian hợp với lòng, với đời... Trong câu chuyện, một nhân vật khá lý thú được nhắc đến - Phạm Công Thiện - từ một nhà văn đến một nhà sư rồi đi sâu vào văn học Phật.
Trong phần phụ lục, Những Cảm Nghĩ Về Quách Tấn của các nhà văn tiền chiến cũng như hiện tại sẽ góp một phần làm rõ về Quách Tấn trong lãnh vực đạo Phật. Đồng thời Những bài bình về thơ Quách Tấn cũng giúp cho bạn đọc cảm nhận được đôi chút hương trầm.
Và để nối tiếp những giây phút hương trầm thoảng, một số bài thơ được trích trong Tuyển Tập Thơ Quách Tấn, hầu góp một phần nhỏ trong tập văn thơ có mùi Đạo này.
Khánh Hòa được nhà thơ Quách Tấn tôn vinh là Xứ Trầm Hương.
Có những đêm hương trầm thoảng về từ núi Chúa.
Mùi hương âm thầm lan tỏa ngát thơm trong bầu trời thanh vắng.
Với thơ văn Quách Tấn cũng vậy, chúng ta nhiều lúc gặp một ít hương trầm thoảng, mỗi khi tâm ta lắng đọng, để hòa nhập, để cùng với văn thơ nhẹ nhàng đi vào cõi trời trầm hương.
Và cuối cùng chúng ta ghi nhận tấm lòng của anh Quách Giao, con nhà thơ Quách Tấn, đã dày công sưu tập, gìn giữ và ấn hành những di cảo vănt hơ của thân phụ mình. Trong tập sách này, những áng hương trầm mà anh đã chọn kết hợp với các bài viết của các nhà văn bốn phương đã giúp chúng ta cảm nhận được hương Đạo Phật hiện hữu trong văn thơ Quách Tấn.
Thạnh Lộc ngày Phật Đản năm Đinh Hợi (Phật lịch 2551)
Lê Triều Phương
Ôn Lại Kỷ Niệm
Buổi sáng chúng tôi thường bắt ghế ra ngồi dưới bóng cây Sa la nói chuyện. Trong câu chuyện chúng tôi thường nhắc đến các kỷ niệm cùng nhau đi chơi xa. Tâm muốn nghe lại câu chuyện 5 chúng tôi cùng đi Hà Nội. Tôi đem tập nhật ký ghi lại khoảng thời gian này đọc cho Tâm nghe.
Điện thoại reo. Tiếng Hồng Châu như gần gũi: Tâm đã về Việt Nam. Châu báo tin để chuẩn bị cho một cuộc lên đường.
Ngày hôm sau lại nhận được thư của Tâm kèm theo với tấm thiệp mời hai vợ chồng mình đi du lịch Hà Nội. Giòng chữ của Tâm như một lời thúc dục lên đường. lại tiếp đến điện thoại reo vang và giọng của Tâm từ Hà Nội gọi về thân thương và tình cảm. Hai vợ chồng Tâm và Gái đợi chờ tại Hà Nội để cùng đi thăm các thắng cảnh ngoài Bắc...
Trước đó vẫn còn lưỡng lự. Cuối cùng cả hai mới quyết định đóng cửa hàng, gọi con gái về trông nhà và hai vợ chồng già đi hưởng "tuần trăng mật già".
Tin vào Phan Rang cho Hồng Châu hay quyết định cuối cùng. Bên đầu giây ở Phan Rang vang lên tiếng Hồng Châu cười thanh thoát.
Sáng 15/10/98 Châu đáp xe hỏa đến Nha Trang để cùng tôi đi chợ sắm sửa "phụ tùng" để chiều mai lên đường. Chiều 16 Hồng Châu cùng hai vợ chồng tôi lên ga đi tàu thống nhất. .
Như thuở còn là sinh viên, cả ba người lên đường vui vẻ. Chợt nhớ đến hai năm trước cũng vào giờ này chúng tôi ba người Triều Phương, Hồng Châu và tôi cùng nhau đi tham quan Huế.. Những kỷ niệm tuyệt vời của chuyến tham quan độ nào thấp thoáng hiện về ngoài cửa sổ chuyến tàu.. Một ánh đèn hiu hắt, khi ẩn khi hiện chập chờn trong bóng cây, những ánh đèn câu nhấp nhô trên sóng nước nơi Vũng Rô, bãi biển Đại Lãnh đìu hiu trong gió đêm đã nhắc lại trong lòng, đêm hôm đi xa thuở ấy.
Trưa hôm sau tàu vượt qua hầm đèo Hải Vân. Sóng biển muôn trùng, núi cao vòi vọi, khi ẩn khi hiện gợi nhớ đến người xa bạn cũ.
Lăng Cô đây rồi, một vùng làng bao viền bởi bãi cát trắng như đang nằm chờ đợi người tình. Những con thuyền bồng bềnh trên sóng nước làm xao lòng người lữ khách đang vọng trông... Những ngày còn là học sinh trung học hễ mỗi lần đi xe hỏa qua Lăng Cô, lòng tôi vẫn nuôi giữ một ước mơ có dịp nào đến Lăng Cô trong một đêm vắng để nằm nghe sóng nước rì rào, để được thấm vào trong hồn nỗi cô đơn ấm áp của một thôn ven biển đầy sóng nước tràn trề ân ái của thiên nhiên. Tuổi thơ nay đã trôi qua, ước mong dần dần chìm vào dĩ vãng. Hôm nay ước vọng xưa lại trở về trước mắt. Tôi chợt thoáng ý thơ:
Lăng Cô ơi, em là thơ là mộng
Anh cầu mong ghé lại sống một đêm
Nằm nghe sóng trôi vào hồn trẻ dại
Của thời gian tuổi trẻ mộng êm đềm
Một đêm đẹp mộng trăng sao còn mãi
Và bên em lòng sóng vỗ bờ êm
Lăng Cô ơi em là hoa là trái
Của con tàu trĩu nặng vạn con tim
Lăng Cô ơi một ngày nào trở lại
Nằm bên em nghe thầm thỉ nổi niềm
Lăng Cô ơi lòng ta yêu em mãi.

Tàu vào đến đất Thừa Thiên. Ngoài khung cửa tàu chợt hiện ra những khuôn viên nhỏ nhắn có hàng rào dâm bụt. có khóm tre vàng đơn lẻ. Một khung cảnh mà chỉ riêng Huế mới có mà thôi. Mà chỉ cần một trái tim yêu Huế mới nhận ra và cảm động ngay từ đầu. Một nét Huế trong màu xanh của lá, của cây của làng xóm nối liền hay cách khoảng nhau. Hương của Huế chỉ có lòng thương Huế mới cảm nhận được mà thôi.
Tôi đã có hai năm học ở Huế, hai năm sống trong lòng Huế, hai năm cảm nhận mình đã thuộc Huế tự khi nào rồi... Tự nhiên lòng tôi bỗng như gặp lại cố nhân... Tự nhiên lòng bỗng nghẹn ngào như thuở ngày nào chỉ xa cách Huế có ba tháng Hè rồi gặp lại Huế với tuổi trẻ đắm say. Tàu vào đến sân ga Huế. Tôi biết rõ là tôi không thể diễn tả rõ là hình bóng Huế hiện ra ở những nét đặc trưng nào nhưng tôi nhận thức được đây là ga Huế, ga của những niềm vui thuở còn là học sinh Tú tài còn là tuổi ủ mộng trong dáng chiều trên dòng sông Hương, trong tà áo dài bay trên cầu Trường Tiền khi đến giờ bãi học của trường Đồng Khánh.
Lòng chỉ đủ bâng khuâng khi tàu chạy chậm vào ga. Tôi nhô đầu ra nhìn hình bòng ga Huế như thuở nào, những người con gái Huế dịu dàng đi lại trên sân ga và những cụ bà bán đồ ăn vật dụng... Lòng bồi hồi như thấy lại hình bóng người yêu cũ mà người yêu tuy đã đi lấy chồng. Huế ơi, Huế vẫn là người tình cũ Huế vẫn đầy nghĩa ân tình trong tim ta mặc dù hôm nay những hình bóng ấy đã xa mờ.. Trên sân ga, không còn những gì là hình ảnh cũ song hương thương nhớ vẫn xao xuyến trong tim ta... Ngẫn ngơ nhìn Huế đã đổi thay song lòng vẫn hồi hộp như chờ mong một hình bóng.
Quỳnh Dung,
Tiếng khẽ gọi của trái tim thuở trước
Bóng Hương giang chiều tím dáng người xưa
Lòng tôi yêu mà chưa lời hẹn ước
Thoảng hương nồng trong gió nhẹ chiều mưa.
Kỷ niệm cũ đã trôi xa
Câu ca nghìn dặm vẫn còn dấu vết tương tư
Cái mất đi vẫn chứa chan hạnh phúc
Cái đẹp nhất của tấm lòng là sự nhớ mong.
Tàu rời ga hồi nào mà tôi không biết. Khi tàu đi qua cầu Bạch Hổ thì như có tiếng sóng ở trong lòng. Tiếng vọng của cầu sắt hay là tiếng vọng của tình xưa nghĩa cũ đây.
Từ đây tôi nhìn về cầu Trường Tiền thấp thoáng trong sương mờ. Cầu Trường Tiền nhìn xa mới thật quyến rũ: sóng nước dịu dàng, ngưòi xe qua lại trong im lặng và bầu trời cuồn cuộn mây bay.
Những năm trước tôi và các bạn ngồi trên bờ sông Hương nơi bờ Thương Bạc, trên bồn cỏ Vân Lâu nhìn những chiếc đò trôi trên dòng sông Hương lãng đãng sương chiều. Một ý thơ bỗng nhiên vụt đến:
Huế ơi anh trở lại
Trời mây bỗng mông lung
Lòng quằn hoa và trái
Hương kỷ niệm nở bùng
Vết hằn sâu mãi mãi
Dào dạt tình mênh mông
Huế ơi tình trở lại
Thắm thiết mãi tấm lòng
Nhịp cầu hong tà áo
Nắng Vĩ Dạ tươi hồng
Ngọn sóng nương nhẹ mái
Dòng Hương vẫn xanh dòng
Em ơi anh trở lại
Dù em nhớ hay không?
Nhịp cầu đơn chiếc bóng
Dòng sông vàng nhớ mong.
Con tàu đã đi xa, ngoái nhìn lại Huế mà chỉ còn thấy xóm làng cùng đồi núi. Núi đồi tròn trĩnh, hùng vĩ nhưng dịu dàng. Ôi ngày xưa chúa Nguyễn, người anh hùng đi lập nghiệp ở phương Nam đã chọn nơi đây làm thủ đô cho các triều đại sau cảnh trí vừa hùng vĩ vừa mộng mơ.
Tàu lại qua sông Bến Hải, kể từ thuở còn đi học đến khi tóc đã pha sương tôi vẫn chưa bao giờ trông thấy sông Bến Hải mặc dù được đọc, được nhắc đến không biết bao nhiêu lần. Bây giờ đây mắt nhìn tận mắt tuy trông giòng sông không có gì đặc biệt lắm song vì nó mang nhiều tính chất lịch sử nên lòng vẫn thấy nao nao. Cho nên dù con sông không to lớn song đầy tính sử thi thì lòng người dân không bao giờ quên lãng. Du khách đi trên tàu nếu không ai nhắc đến thì sẽ dửng dưng khi nhìn thấy con sông này cũng như bao nhiêu con sông khác trên khắp đất nước Việt Nam.
Sự vô tình này sẽ được thời gian xóa mờ để đến nỗi ta quên đi một dòng sông đã từng ghi lại dấu vết lịch sử, như xưa kia có sông Linh Giang còn gọi là sông Gianh đã phân chia ranh giới giữa hai nhà Trịnh, Nguyễn. Tôi có ý mong muốn rằng Tổng cục Du lịch nên chú ý đến tính cánh quảng bá các di tích lịch sử bằng cách cho phát hình nhiều lần trên truyền hình các phong cảnh này để đến khi du khách chợt đi qua nơi này đều có thể nhận biết được dù không một hướng dẫn viên nào nhắc đến.
Đến ga Đồng Hới thì đoàn tàu đợi tránh tàu. Tôi cùng Hồng Châu xuống tàu dạo chơi nơi sân ga. Mấy cây phượng vĩ mọc rải rác quanh sân ga vẫn còn đỏ rực màu hoa. Từng cánh hoa hồng nhỏ xuống mặt sân những giọt hoa hồng thơ mộng
Đây là quê hương của Mỹ Lệ, người em gái thân thương của chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm. Nhìn hàng cây phượng vĩ rụng hoa cuối mùa chúng tôi thấy nao nao trong lòng. Quảng Bình nắng và gió song chúng tôi vẫn thấy đậm đà vì nơi đây là quê hương của một người em gái đã can đảm đấu tranh để tiến lên trên con đường học vấn.
Tàu lại lên đường.
Qua khỏi Quảng Bình, một niềm vui và một không gian rộng lớn mở rộng đón chúng tôi: Đó là sông Nhật Lệ và ngọn núi Đâu Mâu.
Trong tập "Nhà Tây Sơn" ba tôi (Quách Tấn) và tôi có chú ý đặc biệt đến trận đánh cuối cùng của nhà Tây Sơn với nhà Nguyễn Gia Miêu. Đó là khi vua Quang Toản bị thất thủ kinh đô Huế phải kéo quân ra mặt Bắc. Từ Bắc, Quang Toản cùng Bùi Thị Xuân lại kéo quân vào Nam và đánh nhau cùng quân Gia Long tại Đâu Mâu bên bờ sông Nhật Lệ. Cuộc công đồn có Bùi Thị Xuân kéo quân theo đốc chiến. Chiến trận sắp thắng thì Quang Toản được tin thủy quân của mình bị đánh tan ở cửa sông Nhật Lệ nên phải rút quân và bỏ chạy. Trong đoạn này chúng tôi chỉ chú trọng đến thế hiểm trở của núi Đâu Mâu chớ không chú ý đến hình thế sông Nhật Lệ.
Khi tàu đến đầu sông Nhật Lệ thì nhờ có người kiểm soát vé trên xe nhắc nhở nên chúng tôi ngồi nhìn phong cảnh:
Sông có màu xanh thẫm, dòng chảy quanh co. Hai bên bờ phần nhiều là rừng núi hoang dã ít có đồng bằng,, cây rừng khi hiện khi khuất, khi dàn trải trên một vùng rộng lớn, khi bao quanh một dãy gò cao. Ven sông thường có bờ dâng cao đến trên 10 thước. Do đó địa thế thật hùng hiểm. Người trên bờ có thể bình tĩnh chống trả lại với các chiến thuyền dưới nước... Bờ dốc cao mà dòng nước lại chảy xiết cuồn cuộn sôi réo giữa dòng. Không những vào mùa mưa nước lớn mà khi mùa nước nhỏ dòng sông cũng khó mà lội qua được.
Sông chảy theo dọc đường sắt, khi ẩn khi hiện, khi như nép sát vào chân tàu khi vụt cách xa để như lao vào khe núi.
Núi hai bên dòng sông phần nhiều là núi có sắc màu đen. Cây trên núi tuy thấp song rất rậm rạp. Núi tuy đứng cách nhau song vẫn giữ được thế liên hoàn và cùng chạy song song theo dọc sông Nhật Lệ. Núi cũng giống như sông, chạy dọc theo thân tàu, khi thì trông rõ như mọc bên cạnh tàu, khi thì như hãi sợ chạy tránh rất xa và cũng như dòng sông bất chợt mất đi hẳn... Đôi lúc khuất dáng dòng sông thì các ngọn núi lại uy nghi dựa sát chân núi vào mạn tàu rôi để cho dòng sông vụt trở thành dải lụa uốn éo chạy dài theo đoàn tàu. Đôi lúc tàu chạy qua cầu bắt trên những con sông nhánh của dòng Nhật Lệ phát ra những tiếng ầm ầm như tiếng réo của dòng sông
Núi, sông như chạy đua cùng đoàn tàu. Sông băng mình chạy dài rồi mất hút giữa cỏ cây để cho núi tiếp sức chạy đua cùng đoàn tàu tăng tốc.
Sông Nhật Lệ cùng dãy núi Đâu Mâu gợi dậy trong tôi những trang sử hào hùng của cuối đời Tây Sơn. Đồng thời nó cũng gây cho tôi những ấn tượng và cảm giác khó quên về con sông Nhật Lệ Và ngọn Núi Đâu Mâu hùng vĩ này.
Tôi lại có ý so sánh sông Nhật Lệ với dòng Hương Giang như một nữ anh hùng với một mỹ nhân.
Nữ anh hùnh Nhật Lệ mang cái đẹp của một cô gái dậy thì rất xinh xắn mà lại rất mạnh mẽ, hùng dũng. Người con gái Nhật Lệ dầm mình trong nắng mưa, tần tảo trong thiên nhiên. Mỹ nữ Hương Giang như một tôn nữ phất phơ tà áo lụa đi trong trời sương bảng lảng.
Tôi rất mong ước có được một ngày nào đó được ngồi trên một con thuyền đi dọc theo sông Nhật Lệ để được từ trên dòng sông này từ xa ngắm nhìn ngọn núi Đâu Mâu. Nhìn tổng thể, tôi tin rằng phải là một quần thể núi Đâu Mâu để xứng danh cùng dĩa Nhật Lệ oai hùng.
Tình thơ không thể nào dửng dưng với dòng Nhật Lệ nên có thơ rằng:
Ta ngắm nhìn Nhật Lệ
Mà nao nức trong lòng
Nước sông xanh sắc núi
Dòng uốn khúc như rồng.
Hai bên núi dựng đứng
Từng hòn một kiêu hùng
Đá đen màu cổ kính.
Chạy dọc ven theo sông.
Sông đoanh lộn, trải dài
Bờ cao khí thế hiểm
Sông núi vai kề vai
Khi vờn khi ẩn hiện
Quảng Bình ơi xứ Quảng
Nhật Lệ với Đâu Mâu
Anh linh trời đất Quảng
Sông núi liền một màu.
Qua khỏi đất Quảng Bình thì tàu đi vào hoàng hôn. Hai bên hông tàu trời buông màu đen xuống rất chóng
Sáng sớm hôm sau tàu đến ga Hàng Cỏ. Đã nhiều lần trông thấy trên ti vi nên tôi không bỡ ngỡ vì ga không có gì đồ sộ nên không ghi được cái ngở ngàng của một người tỉnh lẻ được về thủ đô Hà Nội. Chúng tôi gặp hai vợ chồng Tâm tại nhà một người bạn cùng dạy với Tâm tại trường Đại học Hà Nội.
19/10/1998
Quách Giao
Tâm chăm chú nghe tôi đọc một cách thích thú, như sống lại những ngày vui, hưởng những cảnh đẹp mà Tâm chưa được tham dự. Chúng tôi hứa với nhau là khi nào Tâm lành bệnh thì chúng tôi lại cùng nhau đi du lịch và ngắm lại những cảnh đã đi qua và có lẽ không khi nào có trở lại. Để cảm ơn tôi đã đọc lại những bút ký ghi lại chuyến đi Hà Nội, Tâm vào trong nhà lấy đem ra một tập photocopie có tựa đề Bỏ Đi Cũng Uổng. Trang đầu tiên Tâm viết:
"Bỏ đi cũng uổng"
đó cũng là tựa của tập biên khảo về những giai thoại văn chương của các nhà thơ Viêt Nam nôỉ tiếng. Người viết là Quách Giao, con của thi sĩ Quách Tấn.
Quách Giao, theo thiển ý, là một nhà thơ có tầm vóc lớn; đến nay 1991, vẫn không ngừng sáng tác. Vì ít đưa sáng tác đăng tải nên rất ít người biết đến Quách Giao.
Tập "Bỏ đi cũng uổng" này là vài kỷ niệm nhỏ của những năm 1956- 1957 có liên hệ đến Quách Giao. Nếu tập này có lưu lạc đến tay vị nào lạ, xin vui lòng gởi lại Quách Giao hoặc con của Quách Giao (Q. Thanh Huân, Q. Tường Huân, Q. Nam Huân) số 12 đường Bến Chợ, Nha Trang, Việt Nam hoặc đến con của Phan Hồng Châu, tên Phan Linh Tuệ hiện ở tại Aut ralia Địa chỉ: 27 Bennett Ave Carramar 12163 NSU Autralia.
Trân trọng cảm tạ
Lê Văn Tâm
Trong tập gồm có 14 bức thư của Phan Hồng Châu từ Phan Thiết gởi cho Tâm và Giao và 36 bức thư của tôi gởi cho Tâm và Châu từ Quy Nhơn, Huế.
Tâm không đọc thư của tôi mà lại ngâm bài thơ tôi viết:
Yên Thắm
Đèo heo hút gió chiều sương bạc
Đất đỏ non trùng xanh quạnh hiu
Anh nằm gối đá nghìn thu ngủ
Đời trắng phù vân mộng ráng chiều.
Ngàn xưa đã đón anh về lại
Gạn bụi trần gian đắp nấm mồ
Hắt hiu rừng vắng mà yên thắm
Mắt khép sầu đau lệ mới khô.
Không tiếc thương gì mây dưới ấy
Lang thang ngày hẹp trắng màu tang
Trăng mùa chỉ nở lòng hoa dại
Sông lắng niềm đau tiễn xác vàng.
Ngậm đắng mà đi tìm tuổi xanh
Tháng năm gầy võ, mộng chưa thành
Đèo son trở lạnh vàng thân bướm
Chợp mắt nghìn thu về đón anh
Thân tằm lỡ lứa chưa tròn kén
Đành nghẹn tơ lòng trong quạnh hiu
Nằm nương sương rụng bờ Ngân Hán
Nghe gió rừng phong lá rụng nhiều.
Thắm yên riêng một trời thanh vắng
Duyên nối rừng xanh hoa nở hương
Bướm chim thơ dại mà âu yếm
Hồn rộng tao phùng gió bốn phương.

Thanh Minh 1957
Ngâm xong bài thơ Tâm 
đọc tiếp một lá thư của tôi:
Huế ngày 24 tháng 11 năm 1956
Tâm, Châu thân mến.
Gởi tất cả niềm thương về hai bạn trong đêm khuya gió lạnh và mưa nhiều.
Huế đang lên cơn ly biệt mà lòng mình lại vui vẻ vô cùng.
Nhớ về Nha Trang ngập tràn ánh sáng và nếu có mưa thì không tê tái như ở ngoài này.
Bài thơ họa của Tâm hay lắm. Mình khoái nhất câu: "Se sắt niềm thu lời sóng vỗ"
Câu này nó gợi cho mình nhớ lại duyên văn thơ của chúng mình bắt đầu bằng bài "Mưa Thu" của mình khi mình đọc cho nhau nghe trong một buổi trăng khuya nằm dài trên bãi bể Nha Trang:
Tôi yêu mưa mùa thu
Dịu dàng buông mái tóc
Yêu khi mùa tang tóc
Dâng lệ đắng lên môi
Yêu không nói lên lời
Nhưng là thương là nhớ
Mưa thu còn bỡ ngỡ
Đẹp nhè nhẹ tình ai
Yêu từ thuở ban mai
Một mùa thu nguyên phối
Mai sau dù bấc thổi
Thu bạt hướng chim trời
Nằng dù ráo lệ đời
Trong lòng mưa thu mãi.
Có lẽ mình đã nói nguyên nhân mình sáng tác bài này rồi. Thật là "se sắt niềm thu"
Ý của câu thơ trên của Tâm rất nhiều và rất rộng. Duy nhất chỉ có Tâm và mình là riêng cảm sâu đậm và chí tình. Chúng mình cảm thông văn thơ trong một không gian và thời tĩnh lặng gợi tình. Có lẻ đời đời chúng ta vĩnh viễn giữ trong lòng cảnh biển rộng mênh mông và màu xanh xao động dịu dàng theo nhịp sóng.
Trong một bài thơ mà cảm được một câu là đủ rồi phải không hai bạn.
Câu đầu mình đề nghị Tâm không nên dùng hai từ "nửa mảnh" vì chính hai từ "trăng vơi" đã gây trong lòng người đọc một rung cảm sâu xa, một ấn tượng chưa tròn của một mùa xa cách. Thế thì thêm "nửa mảnh" thì hơi dư ý. Vả lại chính từ "vơi" đã gây một ấn tượng cho lòng ta một cảm xúc không đo đếm được của một không gian hiu quạnh và một thời gian cô đơn. Tình chúng ta không nên đo lường chính xác như thế được v.v...
Nha Trang ngày 30/2/2008 
Quách Giao


Theo http://chimviet.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thơ có cần thiết cho đời sống? 10 Tháng Ba, 2023 Trong kỷ nguyên nghe nhìn, thơ đang có khoảng cách với đời sống. Độc giả thèm khát nh...