Nguyên tượng người nữ Âu Cơ
1- Hình ảnh Người Nữ và thân phận làm người trong Kinh Sách
thánh hiền:
Những Kinh Sách khai nguồn các nền văn hóa hay còn gọi là các
bản văn có giá trị văn hiến không phải là những chuyện huyền hoặc
nói đến thế giới thần thánh hoặc là những ý niệm thô sơ về nguồn gốc vũ
trụ, bản thể sự vật. Nhưng chúng là sự biểu hiện những trực giác nền tảng về lý
lịch con người hay còn gọi ý nghĩa của nhân tính.
Trong khuôn khổ đặc loại của ưu tư duy nhất nầy của văn hóa,
hình ảnh người phụ nữ không phải luôn được diễn tả như là hình ảnh duy nhất để
gợi lên ý nghĩa nhân tính nầy. Nhưng xuyên qua một số Kinh Sách của các nền
văn hóa lớn trên thế giới còn tồn tại, việc nêu lên hình ảnh người nữ để gợi
lên thân phận làm người rất phổ biến.
Chúng ta có một ‘Nữ Oa đội đá vá trời’ trong
huyền thoại người Trung hoa, một Nữ Oa tượng trưng cho phận làm người điền rồ
và lầm lạc bên cạnh Phục Hy tượng trưng cho thận phận ‘luôn quay về’ gắn
bó với Sự Thật, sự Toàn Hảo nguyên sơ của nhân tính.
Trong văn hóa Phật Giáo và Hy Lạp, do trùng hợp về tài liệu lịch
sử hay phát xuất từ một bài học văn hóa chung có tính cách tượng trưng, chúng
ta có hai khuôn mặt Người Nữ trái nghịch. Kinh sách ghi người cha của
Đức Tất Đạt Đa là Shuddhodana (Tịnh Phạn, có nghĩa là của ăn tinh khiết) và người
mẹ của Ngài lại là Mahâ-Mâyâ, có nghĩa là Đại ảo ảnh. Trái lại, trong truyền thống
văn hóa Tây phương, người cha của Socrate lại là một nhà điêu khắc biến người sống
thành tượng đá vô hồn, và người mẹ của ông lại là một bà nữ hộ sinh, đưa sự sống
nguyên sơ từ bụng mẹ ra chốn trần gian.
Hai khuôn mặt người nữ quan trọng và thiết yếu hơn cả trong
Kinh Thánh Kitô giáo là Evà và Maria. Evà, người mẹ đầu của của nhân loại đưa
con người đến sự chết của nhân tính khi đề nghị lấy thước đo sự vật mà đo lường
lý lịch thiêng liêng cao cả của con người. Maria, người mẹ thứ hai sinh lại con
người mới, con người được cứu độ, khi Người Nữ ấy sinh ra Đức Giêsu Kitô, Con
Người Toàn Vẹn được tác thành bởi Sức Mạnh Yêu Thương (Thánh Thần) hoặc mối
tương giao giữa Con Người với Thiên Chúa...
Trở lại với nền văn hóa Việt Nam, ngoài Âu Cơ, chúng ta còn
có hình ảnh Người Nữ đã đi vào Đại Ký Ức dân tộc, đó là hình ảnh của
Kiều trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du. Kiều mang hai thân phận:
Một Kiều hồng nhan đi tìm cứu thoát qua muôn ngàn phương thế của Tài, nhưng vô
vọng. Và một Kiều của Mệnh lắng nghe được lời bên kia của Đạm Tiên và được
Giác Duyên cứu độ khi đã chết đi hoàn toàn con người cũ của mình.
Cũng như những hình ảnh Người Nữ mà chúng ta vừa
thoáng nhận ra trong các Kinh Sách và truyền thống văn hóa nhân loại, Âu Cơ là
một nguyên tượng, một người mẹ nguyên sơ được truyền thống văn hóa Việt Nam tôn
vinh là mẫu mực diễn tả thân phận con người. Thật thế, Âu Cơ không những
là một hình ảnh thần thoại ghi sâu trong Đại Ký Ức dân tộc, nhưng, cũng như những
hình ảnh người nữ có giá trị nguyên tượng trong các Kinh Sách các nền văn hóa,
người nữ Âu Cơ là nhân vật chính trong một bản văn phải được xem là ‘Sách
Sáng Thế’ của nền văn hóa Việt Nam.
Người Nữ Âu Cơ trong bản văn văn hiến Hồng Bàng Thị
Theo Vũ Quỳnh, người đã hiệu chính [1] cuốn Lĩnh
Nam Chích Quái, thì những câu chuyện huyền thoại có tính cách văn hiến (những nội
dung có tính cách thi ca thiết định nền tảng văn hóa và làm cương thường cho đạo
làm người) đã phát sinh từ nơi sâu kín nguyên sơ của tâm hồn con người, được cảm
ứng và truyền tụng từ các thế hệ xa xưa.
Nhưng cũng như các Kinh Sách của các nền văn hóa, bản văn nói
đến Người Nữ Âu Cơ có tác giả (Vũ Quỳnh), có ghi dấu tích năm tháng
được viết ra (năm 1492) và được xếp đặt lại cho có hệ thống trong chương đầu,
chương nền tảng và cô động các nội nội dung của một cuốn sách với một tựa đề rất
ý nghĩa Hồng Bàng Thị.
Từ âm hưởng của tựa đề nầy, người đọc có được một chìa khóa,
một hướng dẫn để đi vào chính nội dung thiết yếu, nếu không nói là duy nhất, mà
tác giả muốn truyền đạt.
Hồng là to lớn; Bàng là bao phủ, phổ
quát; Thị là họ, là cộng đồng con người.
Hồng Bàng Thị, các tác giả thường quen dịch là Họ Hồng
Bàng và được hiểu chung chung là câu chuyện huyền thoại khai nguyên của dân tộc
Việt Nam. Nhưng ý nghĩa toát ra từ tựa đề chương nầy vượt qua nội dung có tính
cách ký sự, lịch sử hay một lãnh vực nào đó của môn nhân chủng học hoặc dân tộc học.
Tựa đề muốn nói đến một Họ, hay một Dân [2] được gợi
lên như là hình ảnh của nhân loại nói chung, vượt lên trên các loài sinh vật
khác. Với hai tĩnh từ Hồng và Bàng đi kèm, tựa đề Hồng
Bàng Thị vừa muốn tiếp cận ý nghĩa về nhân tính vượt lên trên những giới hạn
thời gian không gian, và hẳn nhiên vượt qua những hạn định của tình tự dân tộc
mà thôi, mặc dù tình tự nầy rất cao cả. Tựa đề nầy đưa nội dung bản văn vào vấn
nạn duy nhất mà các thánh nhân trong các nền văn hóa đề cập: vấn nạn
về ý nghĩa nhân tính và đạo lý hoàn thành nhân tính xuất phát từ trực giác ý
nghĩa đó. Các bậc thánh hiền trong nhân loại được chân nhận là thánh hiền,
không phải vì họ là tác giả tìm ra căn nguồn nào đó của một bộ tộc, một thời đại
riêng của họ, nhưng họ đã giúp con người của mọi thời đại, mọi dân tộc nhận ra
ý nghĩa nhân tính con người. Và lời giáo huấn của họ được ghi lại và phổ biến
như là Kinh Sách, như là những bản văn văn hiến cũng chỉ vì đã cảm ứng được nội
dung duy nhất, nhưng phổ quát nầy.
Bản văn chương một cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, tựa đề Hồng
Bàng Thị không dài quá ba trang giấy khổ nhỏ [3], được viết
theo thể văn song song đối nghịch (parallélisme antinomique) mà chúng ta thường
đọc thấy trong các bản văn thi ca cổ xưa, đặc biệt trong các Kinh Sách văn hóa
Hy lạp [4]. Lối văn thi
ca được sáng tác theo lối song song đối nghịch nầy không phải là một qui ước
văn chương thường tình, nhưng nó gắn liền với nội dung thiết yếu của bản văn.
Nó gợi lên hai yếu tố hay hai chiều kích cấu tạo nên thân thế con người,
hai chiều kích Đất Trời. Nhưng điểm kỳ lạ hơn nữa là gắn liền với trực giác về
thân thế nguyên sơ đó, còn có trực giác về khả năng căn nguyên nơi nhân tính,
khả năng lãng quên và đánh mất thân thế của mình để giản lược Trời vào Đất [5]. Từ hai trực
giác căn nguyên nầy, hé lộ nơi nhân tính một cuộc chiến kỳ lạ, cuộc chiến
làm người, cuộc chiến vượt lên trên mọi đối kháng ngày đêm, nam nữ, đẹp xấu,
đúng-sai... nơi đổi thay của cuộc sống tự nhiên hoặc tùy thuộc phán đoán
con người:
Cuộc chiến giữa hình ảnh người thủa xưa (Cổ) luôn ở
trong Đạo và hình ảnh người trước mắt (Kim) đang xa Đạo trong sách Đạo Đức Kinh của
Lão học.
Cuộc chiến giữa quân tử và tiểu nhân trong kinh sách Nho học.
Cuộc chiến giữa Khổ và Dục trong tư tưởng Phật học.
Cuộc chiến giữa Người Nữ Maria và Con Rắn, Evà trong Kinh
Thánh.
Cuộc chiến giữa hai thân phận đối nghịch của Prométhée:
một Prométhée ban ngày, con Đất (Γαΐα) tự nhận là Công Lý (Θέμις) và một
Prométhée ẩn kín con của Công Lý (Θέμις) trong Thi Kịch Prométhée bị trói của
thi hào Eschyle. Cuộc chiến của Oedipe: một Oedipe giết cha ẩn kín Laios và lấy
chính mẹ Đất Jocaste để tự làm nên mình, và một Oedipe cảm nhận đau khổ nơi vết
thương căn nguyên ở chân mà Cha Laios đã ghi khắc để khắc khoải tìm về lý lịch
thật của mình, trong Thi Kịch Oedipe-Vua của thi hào Sophocle...
Nói tóm là cuộc chiến thần thánh (πόλεμος[6], άπόλεμος όδε
γ´ό πόλεμος [7]) mà nhà tư tưởng
thi ca Héraclite gọi là Đạo lý (ήθος) hoặc còn gọi là là nét thần linh [8] của nhân
tính.
Chính từ trực giác căn nguyên về nhân tính gắn liền với hai
chiều kích Đất Trời, về nguy cơ giản lược phẩm giá thần linh của con người vào
khả năng đo Đất, từ lời kêu gọi con người dám chấp nhận thách đố làm người
khi đi vào Khôn Ngoan, tức là dấn thân vào cuộc chiến Đạo lý vượt lên trên mọi
cuộc chiến, mọi đối kháng mà khả năng con người có thể tưởng tượng ra được,
mà Hồng Bàng Thị là một Kinh Sách làm Cương Thường cho cuộc sống cá
nhân và cộng đồng, một bản văn văn hiến, nên cạnh những kinh sách nền tảng xây
dựng nên các nền văn hóa.
2- Người Nữ Âu Cơ, nhân vật chính của bản văn Hồng Bàng Thị
Nhưng bản văn Hồng Bàng Thị do Vũ Quỳnh hiệu chính,
những trực giác căn nguyên về nhân tính và cuộc chiến làm người sẽ
do nhân vật tượng trưng nào cưu mang?
Bản văn Hồng Bàng Thị có một cấu trúc rất mạch lạc[9] giúp cho
người đọc dễ dàng nhận ra tiến trình xuất hiện các trực giác căn nguyên về ý
nghĩa nhân tính:
Phần đầu đặc biệt nói đến Lạc Long Quân và chưa nhắc đến
Âu Cơ: Phần nói đến thủa nguyên sơ của con người, một nhân loại mẫu mực,
hưởng cảnh thái hòa bên trên, bên ngoài trần thế, một cảnh Vườn Ê Đen theo ngôn
ngữ thi ca của Thánh Kinh. Hai chiều kích làm nên nhân tính được tượng trung
qua Kinh-Dương-Vương (Thuần-Dương = Trời) và Long Nữ (Thuần Âm = Đất). Con người
luôn ở trong hạnh phúc an vui (Sùng Lãm). Tuy Trời luôn ẩn kín (qua sự vắng mặt
không lý do) của Kinh Dương Vương, nhưng Trời luôn gần con người qua
Lạc long Quân, tượng trưng cho ba giá trị tuyệt đối hay ba sức mạnh (Đức)
phát sinh từ Trời Vô Danh: Mỹ (Lạc), Chân (Long) và Thiện (Quân). Tuy đó là những
giá trị siêu nhiên (qua một Lạc Long Quân thường cư ngụ nơi Thủy Phủ xa xôi, ẩn
kín), nhưng theo như bản văn, thì: «Dân lúc nào có việc cần thời kêu
Lạc Long Quân, ‘Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng ta’, thì Lạc Long Quân lập
tức đến ngay, uy nghi cảm ứng không ai có thể trắc lượng được». Nhân
loại ở đây được nói đến qua chữ Dân và chúng ta, lúc mà cái
tôi đóng kín, tự tôn, tự mãn chưa xuất hiện.
Phần chính của câu truyện bắt đầu với sự xuất hiện của Người
Nữ Âu Cơ và sẽ kết thúc với vai trò của Âu Cơ. Hình ảnh tượng trưng của
Người Nữ ở đây ăn khớp với thân phận con người trong thực tại, ngôn ngữ triết học
ngày nay gọi là hiện sinh của con người (Da-Sein). Tương ứng với con
người ngoài Vườn Ê Đen, Âu Cơ không còn là hình ảnh tinh tuyền ban sơ của
nhân tính, nhưng là mẫu mực của bất cứ ai đang làm người, những con người bằng
xương bằng thịt đang mang lấy trong mình hai lý lịch thật và giã luôn tranh chấp
nhau: một Âu Cơ bị Đế Lai kềm chế và một Âu Cơ gắn bó với Lạc Long Quân [10].
Và phần cuối chuyện Hồng Bàng Thị là phần dụng,
hay áp dụng mẫu mực của hiện sinh trong sinh hoạt con người và trong lịch sử.
3- Những trực giác về nhân tính qua nguyên tượng Người
Nữ Âu Cơ
Nhiều người ngạc nhiên tại sao một câu chuyên xem ra đi ngược
lại với luân lý thường tình như chuyện Họ Hồng Bàng mà lại được xem
là một bản văn có giá trị văn hóa: Âu Cơ là gái hai chồng - Đế Lai và Lạc Long Quân? Khi đã có con với chồng thứ hai là Lạc Long Quân, Âu Cơ còn mơ tưởng đời chồng
trước lúc chồng mới đi vắng? Một người phụ nữ như thế tại sao dân chúng tôn
vinh là Thánh Mẫu và một nhà nho như Vũ Quỳnh lại tôn vinh là Bà Mẹ làm Cương
Thường cho cuộc sống?
Nhưng, nếu lấy khuôn thước của các định luật khoa học, các tập
tục và ngay cả những qui thức luân lý xã hội mà thôi để thẩm định và giải minh
một bản Kinh Sách có giá trị văn hiến thì hẳn bản văn Hồng Bàng Thị (cũng
như truyện Kiều của Nguyễn Du sau nầy) đáng làm cho nhiều người Việt chúng ta
hoài nghi và thất vọng. Trước khi đưa ra những biện minh hay giải thích dựa
trên những tiền kiến khoa học hay luân lý, có lẽ nên đọc lại ý định của Vũ-Quỳnh
là tác giả đã hiệu chính bản văn để có được một hướng dẫn trung thực. Trong Lời
Tựa cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, mà Hồng Bàng Thị là chương đầu, Vũ
Quỳnh nói rõ rằng những nội dung chất chứa trong bản văn là Cương Thường soi
sáng và làm mẫu mực cho mọi hệ thống suy tư, và phép tắc điều hành cuộc sống cá
nhân và xã hội (luân lý), và từ những Cương Thường nầy, mọi sự được đối chiếu để
được đánh giá. Cương Thường nầy ghi khắc trong tâm hồn con người, nghĩa là vượt
lên những định chuẩn liên quan đến thời gian không gian, ý thức hệ hay chế độ
chính trị hay tổ chức tôn giáo ... Nói cách khác là không tùy thuộc vào
những phán đoán hiểu biết và đo lường sự vật bên ngoài làm đối tượng cho các bộ
môn khoa học. Như thế, nếu lấy quy luật khoa học thiên nhiên hay khoa học nhân
văn mà phán đoán Cương Thường ẩn dấu đằng sau các tượng trưng thi ca
thì đó là một lối minh giải tự căn là mâu thuẫn. Thật thế, tâm thức người
Việt không ai ngớ ngẩn tin là có một người nữ sinh ra trăm trứng xét về mặt lịch
sử cũng như về khoa học tự nhiên. Không ai ngớ ngẩn để tin là có tiên, có rồng
như những thực tại trong không gian thời gian để rồi từ những thực tại đó để ra
một giống người và làm nên một thị tộc. Và trong quá khứ cũng như sau nầy,
không người Việt nào vín vào Mẹ Âu Cơ hai chồng để biện minh cho định chế hôn
nhân hoặc nếp sống gia đình của mình. Nhưng nơi tâm tư của người Việt, Hồng
Bàng Thị luôn được trân trọng, ôm ấp như một Đại Ký Ức, một Ánh sáng dẫn
đường nhắc nhỡ hồn thiêng ’linh ưu vạn vật’, mà họ tiên cảm là ngôn
ngữ dùng để gọi tên sự vật bên ngoài sẽ bất cập.
Khi đọc lại bản văn Hồng Bàng Thị và đối chiếu với
các Kinh Sách các nền văn hóa nhân loại, chúng tôi tự hỏi phải chăng hồn
thiêng linh ưu vạn vật ấy chính là nhân tính siêu nhiên và ẩn
dấu của con người. Và phải chăng vì đã trực giác được hồn thiêng linh
ưu vạn vật ấy Hồng Bàng Thị đúng là một Bản Văn Văn Hiến.
3-1. Nhân tính được trực giác và diễn tả như mối tương giao
Khi đối chiếu bản văn Hồng Bàng Thị với các Kinh
Sách văn hóa nhân loại, không những chúng ta nhận ra nội dung thiết yếu của bản
văn không muốn gợi lên một điều gì khác ngoài ý nghĩa nhân tính, nhưng nhân
tính được trực giác và diễn tả như một mối tương giao.
Các bản văn triết học hay khoa học luôn nêu lên câu hỏi tiên
khởi như thế nầy trước khi đi vào việc nghiên cứu và trình bày nội dung chúng
hướng đến: cái đó là cái gì? Cái đó hoặc cái gì (Trời
là gì? Cái bàn là gì? Người là gì?) mà triết học và khoa học nêu lên hàm
ngụ rằng đối vật nêu lên trong câu hỏi (để đợi câu trả lời) là một thực tại
riêng biệt. Nó tương quan với những cái khác nó qua sự phủ định là nó không phải
là những cái khác nó. Nói cách khác, nó phải luôn là nó và khác với những gì
khác nó để thiết định được lý lịch của một vật: nó là một tự thân (le soi).
Đối vật đó không những yên ổn trong vị thế hay lý lịch riêng của mình, mà còn
phải tách biệt với các đối vật khác: đó là nguyên lý căn nguyên giúp trí khôn
con người biết hoặc đo lường chính xác. Công trình nghiên cứu của Platon
vào giai đoạn thứ hai của ông (còn gọi là giai đoạn xây dựng nền móng triết học)
đặc biệt qua các tác phẩm Le Théétète, Le Parménide, Le Sophiste định
hình nguyên lý này. Nó được truyền thống triết học gọi là nguyên lý đồng nhất (le principe
d’identité ou le soi). Và từ nguyên lý căn nguyên ấy, có các nguyên lý không
mâu thuẩn (principe de non-contradiction), nguyên lý triệt tam (principe du
tiers-exclu). Song song với việc khám phá các nguyên lý và bản chất sự vật (substance,
quiddité) như thế, triết học mặc nhiên thiết định lý lịch con người nơi khả
năng am tường bản chất các đối vật trước mắt và chế ngự được chúng. Con người
trở thành chủ thể trong một thế giới gồm những cái gì (như Trời, Đất,
Người) mà nó có thể tiên liệu như là những đối vật mà mình có thể đo luờng.
Tương quan giữa mỗi cái gì với chính mình nó, và tương quan giữa trí
khôn con người với một đối vật (= cái gì, quid, cela, quoi,
what), hai bên ăn khớp với nhau: tương quan đó gọi là luật tự nhiên và luật trí
khôn hiểu biết, hoặc còn gọi một tên chung là lý lẽ tự nhiên (λόγος, raison).
Như thế, đằng sau câu hỏi cái đó là cái gì? kỳ thực đã có một tương quan
làm nền tảng xây dựng lý lịch của một cái gì ta nêu lên, và cũng làm nền tảng
cho nhận thức con người, tương quan đó gọi là lý.
Nhưng lối suy tư lấy nguyên lý đồng nhất, nguyên lý giúp cho
con người hiểu biết sự vật, để tìm biết lý lịch con người, không những là xa lạ
đối với các Kinh Sách của các thánh hiền của các nền văn hóa, mà còn được nêu
lên như một tội nguyên tổ [11] dẫn
đưa con con người đến mê lầm. Thật thế, Kinh Sách của các ngài hé lộ cho
thấy khai nguyên tư tưởng là trực giác về một Tương Giao, một Lý vượt
lên nguyên lý điều hành vũ trụ và lý lẽ của trí khôn. Phát xuất từ trực giác
căn nguyên về Tương Giao kỳ lạ nầy, sứ điệp văn hóa của các thánh hiền
là việc làm chứng về một lý lịch của con người linh ưu vạn vật, vượt
lên trên mọi sự vật trong vũ trụ.
Tương Giao kỳ bí đó nhà tư tưởng thi ca Héraclite gọi
là Λόγος: Λόγος (Lý, Tương Giao) thường hằng, con người không khả năng am
tường [12].
Nói cách khác Tương Giao căn nguyên làm nên nhân tính con người vượt
lên tương quan (lý lẽ) giúp con người đo lường sự vật. Có hai điểm chính cần
nêu lên trong câu nói nầy của Héraclite. Trước hết, Tương Giao (Λόγος) mà
thi hào nầy muốn làm chứng chỉ nói đến thân phận con người mà thôi, nghĩa là
không nhằm nói đến qui luật vũ trụ. Thứ đến, không những hai tương quan hàm ngụ
trong câu nói Héraclite, - một bên tương quan liên quan đến luật vũ trụ
ăn khớp với trí khôn đo lường sự vật, và một bên là Tương Giao làm nên lý lịch ẩn
kín của nhân tính -, hai bên hoàn toàn khác biệt nhau, nhưng nơi hiện sinh kỳ lạ
của con người chúng lại có nguy cơ tranh chấp, tranh giành nhau (Πόλεμος). Sự
thể xảy ra như thế vì đôi đàng đều giành vị thế đặc loại của mình để định vị
nhân tính. Và Đạo Lý (ήθος) chính là nét thần thánh dành cho con người khi
con người dám tham gia cuộc chiến kỳ lạ này: Cuộc Chiến là cha của tất cả (fg.
53: Πόλεμος πόντων μέν πατήρ έστι) và Đạo
lý là tính thần linh của con người (fg. 119: ήθος άνθρώπῳ δαίμων).
Đương thời với Héraclite, hai nhà Thi Kịch Hy Lạp, Eschyle và
Sophocle, cũng dùng thành ngữ Tương Giao (hôn nhân) để nói đến nhân
tính. Trong bi kịch Prométhée bị trói, Eschyle đã nói đến hai hình
thái nhân tính. Khi Thần Zeus ban đêm vì lửa yêu thương đến với nàng
trinh nữ có tên là Iô, thì hôn nhân (Λέχος, Γάμος)[13] Thần-Người
làm nên một nhân tính mới và làm chết đi nhân tính cũ.
Còn Sophocle, trong bi kịch Oedipe-Vua, cũng dùng lại
chữ hôn nhân (Γάμος) [14] này: một bên là hôn nhân Laios ẩn kín và Mẹ Jocaste làm nên một Oedipe đau thương
nhưng chân thật; bên kia là hôn nhân quái dị (άγαμος γάμος) [15] giữa
người thông thái Oedipe làm vua chế ngự vũ trụ và Jocaste vốn là Mẹ nay bị thoái hóa thành Vợ
dưới uy quyền mình, và từ hôn nhân quái dị nầy sản sinh vô số thế hệ con
người vô đạo. Hôn nhân quái dị mà Sophocle gợi lên tượng trưng cho
nguy cơ dùng quyền uy hiểu biết của Vua-thông thái Oedipe để đo lý lịch
con người, đồng thời che khuất Tương Giao căn nguyên giữa Oedipe với Cha ẩn kín
Laios là Tương Giao làm nên nhân tính thật.
Trong Kinh Thánh, Tân Ước cũng như Cựu Ước, mặc khải về Nhân
Tính luôn qui về hai Tương Giao nền tảng: Yêu Thiên Chúa và Yêu Con Người. Hai
tương giao ấy là ΛόγοςCăn Nguyên làm nên Nhân Tính toàn mãn nơi Đức
Giêsu-Kitô...
Đọc lại thật kỷ các chương đầu cuốn Lĩnh Nam Chích Quái,
nhất là chương Hồng Bàng Thị, ta cũng nhận ra lối diễn tả nhân tính qua hai
hình thái tương quan đối nghịch, một bên là tương giao Âu Cơ - Đế Lai, và bên
kia là tương giao Âu Cơ - Lạc Long Quân.
3-2. Âu Cơ bị làm vợ Đế Lai: nghiệp lầm lạc của con người
Trước khi đi vào việc diễn tả trực giác về thân phận con người
được kết dệt bởi hai tương giao hoặc hai chiều kích Đất-Trời, tác giả
chương Hồng Bàng Thị đã tận dụng rất nhiều hình ảnh thi ca, những âm
hưởng về ý nghĩa phát xuất từ ngôn ngữ truyền thống văn hóa trong vùng Đông Nam
Á, để giúp người đọc nhận ra hai khuôn mặt của Âu Cơ: Âu Cơ - Đế Lai và Âu
Cơ - Lạc Long Quân.
Câu truyện bắt đầu bằng việc xuất hiện ánh sáng soi đường (Minh)
nền tảng (Đế) qua hình ảnh Đế Minh. Ánh sáng (Đế Minh) nầy phát ra từ xa xưa (cháu
ba đời) của sự sống, từ lửa căn nguyên (Đế Viêm) của sự sống muôn loài (Thần Nông).
Ánh sáng khởi nguyên ấy soi đường cho thấy trật tự vũ trụ, trong ngoài, trên dưới,
ngày đêm qua hình ảnh người con là Đế Nghi.
Nhưng tiếp đó, Ánh Sáng Đế Minh đi về Nam, nơi có một
Mặt Trời khác và gặp một Tiên Nữ (Vụ Tiên), một Người Nữ (Vụ) vượt
trên trần thế, trinh nguyên, vô tội (Tiên). Tương quan nguyên sơ nầy làm
nên Lộc Tục (Lộc = Ơn Trời; và Tục = là cuộc sống của
người).
Chiều kích Đất nguyên sơ: Đế Minh đặt Đế Nghi làm vua
Phương Bắc: Đế Nghi là ánh sáng và sự sống của Đất, liên quan đến
thiên nhiên, trật tự vũ trụ và cũng là khả năng của lý trí và sự sống thể lý của
con người, của tương giao hàng ngang. Đế Nghi làm vua Phương Bắc, một vị
trí địa lý thường được dùng để gợi lên sức mạnh bên ngoài, của trí khôn am tường
mọi sự và chế ngự thiên nhiên.
Chiều Kích Trời nguyên sơ: Đế Minh đặt Lộc-Tục làm
Kinh Dương Vương ở Phương Nam: là Vua hướng về tương giao hàng dọc, hướng
về Trời (Kinh) và liên quan đến Ánh sáng Mặt Trời Phương Nam (Dương).
Đến đây bản văn chuyển từ thủa ban sơ nơi nhân tính hài hòa Đất Trời, Chiều
kích Đất nguyên sơ - Chiều Kích Trời nguyên sơ, để đi vào giai
đoạn mô tả thân phận con người.
Chiều kích Trời trong hiện sinh: Kinh Dương Vương (không
biết đi đâu, vượt thời gian không gian, luôn ẩn dấu) lại xuống Thủy Phủ và
gặp Người Nữ được chúc phúc, được đưa từ thân phận bò sát (rắn) lên hàng rồng là
dấu tích của Trời (Long Nữ) và sinh ra Con Người cao quý và xinh đẹp (Sùng Lãm).
Sùng Lãm là hiện thân của Lộc-Tục nguyên sơ mặc khải qua ba giá trị tuyệt đối
Chân Thiện Mỹ dẫn lồi bước đi cho con người nhận ra phẩm giá và lý lịch của
mình: Lạc Long Quân: Lạc (Mỹ) = hạnh phúc, Long (Chân) = thần
thánh, chân thật tuyệt đối đến từ Trời; Quân (Thiện) = sự tốt
lành trong việc chu toàn nhân tính. Nhưng Trời trong vị thế Lạc Long Quân để đến
với con người, thì cũng là Trời siêu vượt trên cái nhìn và thước đo của Đất. Để
diễn tả tư thế rất gần và rất xa của Lạc Long Quân nơi thân phận con người, bản
văn ở đoạn nầy diễn tả như sau:
Lạc Long Quân thay Cha trị nước, còn Kinh Dương Vương thì
không biết đi đâu. Lạc Long Quân dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quần thần
tôn ty, có luân thường về phụ tử phu phụ; hoặc có lúc về Thủy Phủ nhưng
trăm họ vẫn yên ổn. Dân lúc nào có việc cần thời kêu Lạc Long Quân: - Bố
đi dằng nào, không đến mà cứu chúng ta- thì Lạc Long Quân lập tức đến
ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trắc lượng được.
Chiều kích Đất che lấp chiều kích Trời trong hiện sinh:
Đế Lai bỏ vị thế Phương Bắc dành cho mình và dùng quyền uy Phương Bắc của mình
để chiếm đoạt cảnh vực Phương Nam.
Câu truyện Hồng Bàng Thị được viết rất tinh tế về sự
chiếm đoạt hay lầm lẫn căn nguyên nầy của hiện sinh. Đế Lai là tượng
trưng cho khả năng đo lường và hưởng dụng sự vật đã không bằng lòng với vị thế
dành riêng cho mình ở Phương Bắc, nhưng dùng khả năng nầy để phiêu lưu vào
Phương Nam là Nhà của chiều kích linh ư vạn vật của nhân
tính.
Hiện sinh tự căn đã mang khả năng hay nguy cơ lạm dụng quyền
uy nầy. Đất đã giành Trời để đánh mất sự sống phát sinh từ Ánh Sáng Mặt Trời
Phương Nam. Nhân tính bị biến thành dị dạng vì hiện sinh đã hạ bệ nguồn
sự sống nơi nỗi nhớ căn nguyên về lý lịch ần kín và linh thiêng (Đế Lai sực nhớ
đến chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần gặp tiên nữ) xuống vùng đất Phương
Bắc và đồng hóa với dục vọng muốn đo lường và hưởng dụng sự vật để định nghĩa lại
nhân tính.
Sự sai lạc căn nguyên này của hiện sinh không nằm ở việc nhân
tính có một tương giao Đất, một Đế Nghi có khả năng lý trí để gọi tên và cai quản mọi vật trong
vũ trụ. Nhưng sai lầm căn nguyên hoặc tội nguyên tổ của hiện sinh là
lấy thước Đo Đất (connaissance géométrique) nầy để đặt câu hỏi và định
nghĩa nhân tính. Nói cách khác sai lầm căn nguyên là đồng hóa triệt để nhân
tính thành một vật thể nào đó bất kỳ để đo lường theo mẫu mực của thuớc đo Đất
qua câu hỏi con người là cái gì?
Có ai khờ khạo có thể hỏi cha mình, mẹ mình là cái gì, để
rồi tiếp cận lý lịch cha mẹ và thiết lập các mối tương giao làm người trong
khuôn khổ của câu hỏi đó. Thế nhưng không phải qua bao thế hệ người ta không
nêu lên câu hỏi Thiên Chúa là cái gì? Thần Thánh là cái gì? Con
người là cái gì? để xây dựng những bộ môn thần học, nhân học hay sao?
Đó không phải là một trong những dấu tích của hiện sinh đang chìm đắp trong lầm
lạc hay sao?
Thủa nguyên sơ khi Đất ở vị thế Đất, Trời ở vị thế Trời, nay chỉ
còn là dấu tích nơi hiện sinh. Trong thực tại làm người của bất cứ ai, chúng ta
đã mặc lấy số phận sai lạc căn nguyên nầy, như Nguyễn Du trong truyện Kiều đã
viết trong phần kết luận: Đã mang lấy nghiệp vào thân. Và nghiệp sai
lạc căn nguyên đó thi hào Sophocle gọi là một hôn nhân dị dạng (τὸν ἄγαμονγάμον),
một tương quan Đất Người muốn ngồi vào thế độc tôn để đánh đổ và che lấp tương
quan Trời Người. Đây là một sự quá lạm (Ὕβρις) [16] làm
nên nhà độc tài hiểu biết Oedipe. Bản văn Hồng Bàng Thị diễn
tả sự quá lạm đó qua mối tương quan Âu Cơ - Đế Lai.
Bản văn nói cô động về tương quan nầy qua một số đặc tính như
sau:
Lợi dụng Lạc Long Quân vắng mặt (vì cư ngụ ở Thủy Phủ),
chiếm cứ nước Nam: Nước nay không Vua
Lưu lạc khắp nơi tìm của ngon vật lạ, say mê phiêu lưu quên
trở về Phương Bắc.
Những chỉ dẫn cô động đó mô tả những nét đặc loại của Âu Cơ
hoặc hình ảnh nguyên sơ của hiện sinh dưới sự khống chế của tương quan độc
tôn Đất Người: hiện sinh thất thần.
Từ ngữ thất thần hoặc vô thần (άθεος, athée)
mà ngày nay thường dùng để nói đến tình trạng không tin vào sự hiện hữu của
Thiên Chúa, Thần Linh... khác với nội dung mà các bản văn cổ dùng đến. Một
trong những dấu tích, có thể là xưa nhất, trong các bản văn cổ Hy Lạp liên quan
đến thành ngữ nầy là đoạn thơ 1356-1365 trong thi kịch Oedipe - Vua của
thi hào Sophocle (- 496/ - 406):
Oeidpe: Đáng ra tôi đâu phải là kẻ giết Cha tôi và trước
mắt của mọi người trần tôi dâu phải là chồng của người sinh ra tôi!
Thế mà hôm nay, tôi là kẻ thất thần - Νΰν δ´άθεος μέν
είμ´-, con của những nguồn gốc vô đạo, (là kẻ) có những người
con với chính người mẹ sinh ra mình! Nếu có một nghiệp khốn nặng nề hơn cả
trong các nghiệp, thí đó chính là nghiệp của Oedipe (= người độc tài thông
thái làm chủ thành Thèbes)!
Vô thần hay quên lảng lý lịch linh ư vạn vật của
con người, hoặc mất đi hơi thở (Esprit) làm nên sự sống linh thiêng của nhân
tính ... không nệ ở việc không tôn vinh thần tượng nầy khác, không tin ma
tin quỉ theo trí tưởng tượng của mình. Nhà độc tài thông thái Oedipe cũng sai
người đi thỉnh ý Vua Trời Phoebos, cũng nhân danh Phoebos để thực hiện quyền uy
của mình. Dân thành Thèbes dưới ánh sáng soi đường và quyền uy của nhà độc
tài thông thái ấy cũng có nhiều đền thờ tôn vinh Trời Đất, nhiều thầy cả, tăng
ni lo tế tự và thực thi khổ hạnh... Nhưng con người Oedipe đó vô thần (άθεος athée)
vì nó đã dựa vào cái nhìn của mắt trần, vào khả năng lý trí đo lường sự vật,
vào sở thích của mình để tuyệt đối hóa giấc mơ nhất thời thành Thần. Kỳ cùng đằng
sau các hình tượng quỉ thần được tôn vinh theo sở thích con người, chỉ còn lại
Cái Tôi, một mình biến tất cả Trời Đất Thần thành những đối vật tùy
nghi sử dụng đáp ứng trí tưởng tượng và ước mơ làm lớn Cái Tôi của mình. Tương
Giao kỳ bí Trời Người, Người Người, Tương Giao nối kết Kẻ Khác và những kẻ khác
với mình, Tương Giao làm nên Thần Lực nơi nhân tính bị thoái hóa thành tương
giao chủ thể - đối vật của chiều kích đo Đất (géo-mètre). Đó là ý nghĩa thành
ngữ vô thần nơi Oedipe kẻ giết Người Cha ẩn kín, đánh mất Tương Giao Trời Người,
để rồi thay Cha làm lại một nhân tính dựa trên tài năng hiểu biết của con người.
Bản văn Hồng Bàng Thị diễn tả nghiệp sát thần hay sự chuyển nỗi Nhớ Tương
Giao kỳ bí giữa Đế Minh và Tiên Nữ, Tương Giao Trời Người làm nên lý lịch
nhân tính thành Dục (= ước muốn ta tự làm nên ta) qua hai đoạn
văn đi liền với nhau:
Vế đầu: (Đế lai) sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế Minh
nam tuần gặp tiên nữ.
Chuyển thành vế tiếp: Đế Lai chu-lưu khắp thiên hạ, trải
xem tất cả tình thế, trông thấy kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú, tê tượng, đồi
mồi, kim ngân, châu ngọc (…). Đế Lai ái mộ quá quên cả ngày về.
Đế Lai là hình ảnh của Dục căn nguyên nầy, là nghiệp
chướng đang khống chế Âu Cơ. Âu Cơ ấy là nguyên tượng của thân phận lầm lạc của
hiện sinh: Vốn Lạc Long Quân là ẩn kín (vắng mặt), Đế Lai đã biến nét linh
thiêng ẩn kín nầy thành hư vô, y như nhà thông thái Oedipe đã giết Cha. Lạc Long
Quân bị xóa hết dấu tích, vương đạo không còn (Nước không Vua). Nỗi Nhớ nhân
tính linh thiêng nay bị biến thái thành đam mê mọi sự vật làm lớn
thêm cái Tôi một mình của Đế Lai. Con đường đi dong dài đó sẽ như bánh xe quay
vô tận không thể ngưng lại được (quên cả ngày về).
Thân phận con người tự căn luôn có thể bị sai lạc, luôn gặp
nguy cơ đánh mất nhân tính của mình qua hình ảnh nguyên tượng Âu Cơ bị Đế Lai
khống chế, là một giáo huấn chung của các Kinh Sách nền tảng cho các nền văn
hóa: Lão học gọi là Vi, nghiệp chướng của việc làm nên nhân tín giả tạo; nhà
bi triết Hy Lạp gọi là Mẹ Gaia (Đất) tự cho mình Mẹ Thémis (Công Lý) để sinh ra
một Prométhée thủy tổ của Tέχνη (Tài hay là Vi); Sách Sáng
Thế của Do Thái Giáo và Kitô Giáo diễn tả qua hình ảnh Mẹ Evà, Người Nữ đã nghe
theo lời con rắn, bò ngang trên đất và ăn đất, để biết về ý nghĩa của
nhân tính, đồng thời đánh mất Thần Lực Thiên Chúa gửi đến để nối Kết Trời với
Người. Âu Cơ vợ Đế Lai, Người Nữ Evà đó là Đại Ảo Ảnh (Mahà-Mâyâ), là nghiệp lầm
lạc, là tội nguyên sơ của thân phận con người.
Trong thân phận bị Đế Lai khống chế, bản văn viết rằng:
Nhân dân nước Nam khổ về sự phiền nhiểu, không yên ổn như
xưa, đêm ngày đợi Long Quân.
Dân Nam khổ vì Mẹ Âu Cơ bị ở lại hành-tại một mình. Nơi
vùng đất thất thần do Đế Lai khống chế, không thể có tương giao
giữa người và người, giữa Đế Lai và Âu Cơ. Tương giao người và người không còn,
vì tương giao giữa người với Lạc Long Quân là nguồn cho mọi tương giao khác đã
bị xóa mất. Chính vì thế, trong nỗi cô đơn vì mất đi các mối tương giao làm nên
nhân tính của mình, nhân dân nhớ đến Ngày Xưa, Ngày Long Quân ở với
con người: Nhân dân nước Nam (...) không yên ổn như xưa, đêm ngày đợi Long
Quân.
3-3. Âu Cơ được nâng lên làm vợ Lạc Long Quân: Tương giao nền
tảng và linh thiêng làm nên nhân tính
Gắn liền với nghiệp ăn Đất để sống và đo Đất để
định nghĩa nhân tính của mình dưới sự khống chế của Dục - ta chỉ muốn ta -
qua hình ảnh Đế Lai, truyện Hồng Bàng Thị còn trình bày một Mẹ Âu Cơ,
nguyên tượng của lý lịch chân thực của con người. Nguyên tượng nhân tính đó là
tương giao nguyên sơ giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân.
Bản văn viết rằng:
Lạc Long Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu Cơ ở một mình,
dung mạo đẹp lạ lùng, yêu quá, mới hóa ra một chàng nhi lang phong thư mỹ lệ, tả
hữu thị tùng đông đảo, tiếng đàn ca vang đến hành tại. Âu Cơ trông thấy mà lòng
cũng ưng theo; Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang.
Đoạn văn nầy có thể xem là Kinh Sáng Thế của văn hiến Việt Nam.
Ở đây tác giả không nói đến việc sáng tạo con người như một sự sinh đẻ nào đó dựa
trên các phạm trù thời gian của vũ trụ bên ngoài, dựa trên nguyên tắc nhân-quả
của thước đo Đất. Nhưng Hồng Bàng Thị đã ghi lại một khởi nguyên trong ánh sáng
của chiều kích văn hóa dựa trên trực giác về nhân tính vượt thời gian không
gian của vũ trụ và hiểu biết con người. Khởi nguyên ấy phát sinh từ một mối
tương giao giữa đôi bên: giữa Âu-Cơ và Lạc Long Quân, giữa Trời và Người.
Nhà văn hóa của Hy Lạp Héraclite gọi mối tương giao kỳ bí đó
là Λόγος, tương giao thần thánh vượt lên trên tất cả các tương giao làm
nên thước đo Đất nơi trí khôn hiểu biết của con người. Còn Eschyle trong bi kịch Prométhée
bị trói thì mô tả khai nguyên nhân loại mới trong Công Lý là mối tương
duyên kỳ diệu giữa nàng trinh nữ Iô và Thần Zeus bên trên
tài trí con người:
Iô: Nỗi rúng động thần thánh ập xuống trên tôi, xóa đi
hình thái lúc trước của tôi. Đêm đêm những giấc mộng viếng thăm phòng the trinh
trắng của tôi, và thì thầm khuyên: Hỡi người trinh nữ diễm phúc, tại sao ở một
mình, khi nàng có thể có được một người chồng cao quý vô song? Thần Zeus đã
nóng lòng đắm đuối yêu nàng, Ngài muốn cùng nàng hợp hoan: nàng chớ nên từ chối
hôn nhân nầy của Zeus ... [17]
Cũng như thân phận của trinh nữ Iô, Âu Cơ không chủ động
đi bước trước để tìm Lạc Long Quân, nhưng Zeus, và đây là Lạc Long Quân đã đến
bất ngờ (bỗng nhiên, trong đêm) để xóa đi nhân tính cô đơn không tương
giao với ai cả nơi con người cũ, và mời gọi con người đi vào giao ước mới.
Cuộc hôn nhân đó khai sinh ra nhân loại của Công Lý (Thémis), của Lạc Long Quân
(Chân Thiện Mỹ). Từ nay, nhân loại là linh ư vạn vật vì đuợc nâng lên
để cư ngụ ở Núi Long Trang (Vùng đất trời của Rồng, của Trời).
Mối tương giao linh thiêng đó không những làm nên Đất mới(Núi
Long Trang) mà đưa con người vài Thời mới : Một Năm chung sống
với Lạc Long Quân. Tương giao thần thánh nầy khai sinh một nhân loại linh
ư vạn vật liên kết với nhau trong một bọc chung. Bọc đó không gì khác là sức
mạnh phát xuất từ mối tương giao căn nguyên giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân, giữa
Trời và Người.
Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trứng
(..) hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai;
nàng đem về nuôi nấng, không phải cho ăn, cho bú mà tự nhiên trường đại, trí
dũng song toàn, ai cũng úy phục, bảo nhau đó là những anh em phi thường.
Nhân loại nay không còn là những thực tại cô đơn, những cái
gì riêng rẽ, một hình ảnh trừu tượng do trí tưởng tượng con người dự phóng; nói
theo ngôn ngữ triết học ngày nay, nhân loại không còn là một ý niệm về con
người do trí khôn con người tưởng tượng ra (= một loại được định nghĩa dựa
trên một thuyết nhân bản của các ý thức hệ), nhưng là những anh em phi thường,
được khai sinh và nuôi sống bởi mối tương giao với Trời, với một Kẻ Khác vượt
lên trên mọi thước đo của Đất. Và trong sức sống của mối tương giao mới nầy,
nhân loại linh ư vạn vật (không phải cho ăn, cho bú mà tự nhiên trường
đại) được nuôi sống bằng những tương giao liên kết một trăm người, một trăm anh
em cùng chung một bọc.
(Hai tương giao Trời với Người và Người với Người làm nên
nhân tính linh thiêng, là ý nghĩa thâm sâu của chữ nhân ( 仁 ) của nhân-đạo, và của chữ vương ( 王 ) của vương-đạo, trong ngữ nghĩa văn hóa của Trung Hoa,
đặc biệt trong Nho học. Và đó cũng là thần lực nuôi sống con người, thường gọi
là Đức Ái, trong giáo huấn của Kitô Giáo)
Sau khi trình bày chiều kích thần thánh của con người qua mối
tương giao Lạc Long Quân và Âu Cơ, bản văn Hồng Bàng Thị nói rằng Đế Lai rút về
Phương Bắc, tượng trưng cho vùng Đất không có ánh mặt Trời sự sống nơi Phương
Nam của Lạc Long Quân. Song song với việc rút lui nầy, tác giả dùng một hình ảnh
tượng trưng khác để nói đến sự chấm dứt uy quyền của tương giao Đất Người đang
muốn thay tương giao Trời Người để định nghĩa nhân tính:
Đế Lai trở về Bắc, lại truyền ngôi cho Đế Du, cùng với
Hoàng Đế đánh nhau ở Bản Tuyền không hơn nên tử trận; Dòng họ Thần Nông bèn mất.
Thần Nông rút lui dưới uy lực của Hoàng Đế ở Bản Tuyền: Bản Tuyền là nguồn suối hay nguồn sống căn nguyên. Thần Nông là sự
sống tự nhiên của muôn loài, trong đó có sự sống tự nhiên của con người. Nhưng
dừng lại Thần Nông (Đất) để định vị nhân tính đó là sự sa đọa căn nguyên mà các
Kinh Sách của các nền văn hóa cảnh giác (Xem hình ảnh con rắn ăn đất, bò dưới đất
trong sách Sáng Thế của Thánh Kinh; hình ảnh Prométhée nhận lầm Gaia Đất làm
Mẹ Thémis Công Lý trong tư tưởng Eschyle qua tác phẩm Prométhée bị trói...). Hoàng Đế là nền Đế màu vàng Hoàng, màu của Trung Cung, của
Tâm, của cung Thổ, nơi Vua ở; và Vua (Vương 王 - của vương đạo) trong âm hưởng thi ca ở đây là biểu tượng cho sự nối kết Trời với Người
và Người với Người.
3-4. Âu Cơ là nguyên tượng của cuộc chiến vinh quang hoàn
thành nhân tính
Sự chiến thắng của tương giao Trời-Người trên tương giao Đất Người
đã lóe lên như một văn hiến, một trực giác chân lý nền tảng.
Nhưng trực giác về chiến thắng cuối cùng và toàn mãn đó đã là
một Đại Ký Ức và còn là Một Lời Hứa nơi thực tại con người.
Thực tại con người ấy sẽ được hé lộ trong phần kế tiếp của bản văn Hồng Bàng Thị.
Ở phần nầy, thực tại con người được mô tả như là cuộc chiến
giữa hai thân phận (hai khả thể) đối nghịch và loại trừ nhau, một bên là tương
giao với Đế Lai, một bên là tương giao với Lạc Long Quân. Thực tại mà sau nầy
Nguyễn Du trong truyện Kiều gọi là:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài và chữ Mệnh khéo là ghét nhau.
Thực tại đang giao tranh nầy là nghiệp làm người có thân, là
thân phận của bất cứ người nào trong bất cứ giây phút nào và bất cứ ở đâu. Nhà
tư tưởng Hy Lạp Héraclite gọi thực tại nầy là một cuộc giao tranh thần thánh ((πόλεμος ) [18] làm
nên Đạo Nghĩa, còn Eschyle gọi là Cuộc Chiến Kỳ Diệu (άπόλεμος όδε γ´ό πόλεμος)[19] vượt
lên sức lực tự nhiên của con người.
Trong thực tại con người, Thần luôn khuất mặt, không ai từng thấy và
cũng không ai là chủ của Thần (Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ). Mang trong mình
thân phận bị Đế Lai khống chế, Mẹ con Âu Cơ lại nhớ Phương Bắc tăm tối:
Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc
Quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh
trân ngự quan tái.
Hoàng Đế là Tâm sâu kín, là sức mạnh của hai mối tương giao
Trời Người và Người Người luôn ghi khắc nơi con người như một dấu tích không thể
xóa, một Đại Ký Ức và Lời Hứa, lên tiếng nói trấn ngự sự thèm muốn, tơ tưởng thế
giới Phương Bắc của Đế Lai. Hoàng Đế đây đúng là dấu tích mà Sách Sáng Thế gọi
là dấu tích không thể xóa Thiên Chúa đã ghi trên Ca-in [20],
là vết thương của Oedipe được Người Cha căn nguyên Laios khắc lại ở chân để con
người lưu lạc Oedipe có thể nhận ra lý lịch thật của mình và dừng bước mê lầm.
Từ nơi Tâm sâu kín ấy, con người thoáng nhận ra sự mê hoặc của
Phương Bắc để nhớ đến Long Quân là Thần vô phương, Thần khuất mặt:
Mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân – Bố ở
phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ.
Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp mẹ con ở Tương Dạ.
Lạc Long Quân từng cùng hoan hỹ với Âu Cơ nơi Núi Long
Trang Thủa Ấy, Lạc Long Quân trong Thời Toàn Mãn, Lạc Long Quân ấy
cũng là Long Quân gặp Âu Cơ nơi Tương Dạ trong thực tại con người. Tương Dạ ấy
là Đêm (Dạ) gặp gỡ (Tương) Trời Người trong tâm hồn sâu kín của mỗi con người linh
ư vạn vật.
Âu Cơ, nguyên tượng của nhân tính, Người Nữ ấy là Mẹ căn
nguyên làm nên nguồn cảm hứng và đại mẫu mực, là Cương Thường hay văn hiến cho
cuộc sống làm người của mọi người, bất cứ là ai ở đâu và trong bất cứ thời đại
nào. Người Mẹ ấy cư ngụ với mỗi người trên dương thế, với mọi người mà năm mươi
người con trai còn lại ở Phong Châu là một biểu tượng:
Âu Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu.
Chú thích:
Chú thích:
[1] Xem VŨ QUỲNH, Lĩnh Nam Chích Quái, Lê Hữu Mục chuyển
bản gốc từ hán văn qua quốc văn. Trong Lời Tựa vào niên hiệu Hồng Đức
năm thứ hai mươi ba (1492) lúc cho phổ biến cuốn sách nầy, Vũ Quỳnh viết: «Than ơi!
Lĩnh Nam có nhiều kỳ trọng, các truyện làm ra không cần phải chạm vào đá, khắc vào ván mà rõ ràng ở lòng người, bia truyền ở miệng người, ông già,
con trẻ thảy đều thông-suốt, đem lòng ái mộ, khuyên răn nhau, thời việc có hệ ở
cương thường, quan ở phong tục, há có phải ít bổ ích đâu?»
[5] Trực giác về tội nguyên tổ hoặc khả năng lầm lạc căn
nguyên nơi nhân tính như trong Kinh Thánh - sách Sáng Thế - đã gợi lên.
[7] cf. ESCHYLE, Prométhée bị trói, câu thơ 90: Một cuộc
chiến ngoại hạng vượt lên trên sức lực con người: (άπόλεμος όδε γ´ό
πόλεμος).
[9] Về cấu trúc và việc minh giải bản văn Hồng Bàng Thị, xin
đọc NGUYỄN ĐĂNG TRÚC, Văn hiến, nền tảng của minh triết, xb Định
Hướng, năm 1996, Reichstett, France, chương III.
[10] Với âm hưởng văn hóa thi ca của tên gọi Âu Cơ: Âu (Angst,
Angoisse) gợi lên ngữ nghĩa khắc khoải, nỗi nhớ căn nguyên hướng về
Xa Lạ, nỗi nhớ được Thánh Ausgustinô gọi là Cor Inquietum, Tâm hồn khắc
khoải; Cơ (Sorg, Souci) gợi lên ý nghĩa tài trí đo lường, tâm
tư bận bịu tìm kiếm việc nầy việc khác (busy, business).
[11] Từ ngữ tượng trưng trong tư tưởng Kitô giáo để nói đến khả
năng sai lầm căn nguyên nơi nhân tính, mà câu chuyện con rắn ăn
đất và đo đất (St. 3,13) đã đề nghị cho thủy rổ Evà làm nên con người
hiểu biết mọi sự ngang với Trời và xóa bỏ tương quan với Trời (St. 3,
4).
[12] Trong cuốn Rhétorique Г 5, 1047 b, Aristote ghi rằng
Héraclicte đã viết câu nầy để mở đầu Sách của ông: Logos thường hằng không
bao giờ con người am tường được [(τοῦ δὲ) λόγου τοῦδ᾽ ἐόντος (ἀεὶ) ἀξύνετοι
γίγνονται ἄνθρωποι.]
[15] cf. SOPHOCLE, Œdipe -Vua, v. 121: Kronos (Thời Xưa ấy)
thấu suốt tất cả, va øbất chấp ý ngươi, đã tố giác hôn nhân quái dị (ἄγαμον γάμον) nơi
ngươi- Ἐφηῦρέ ς´ ἄκονθ´ ὁ πάνθ´ ὁρῶν χρόνος·
δικάζει τὸν ἄγαμον γάμον πάλαι τεκνοῦντα καὶτεκνούμενον - ».
Nguyễn Đăng Trúc













Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét