Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

Miền xanh thẳm 2

Miền xanh thẳm 2
17. Tôi đang mơ màng nghĩ, chợt có tiếng gọi:
- Thiện ơi! Em nghĩ gì mà ngồi thừ ra thế?
Giật mình ngước lên, tôi mừng rỡ nhận ra chị cả của tôi đang đứng trước đầu ngõ tươi cười nhìn tôi. Dưới chân chị là một túi xách căng phồng, miệng túi lộ ra mấy trái cam vàng tươi. Tôi chạy lại ôm chầm lấy chị. Chị vừa cười vừa xoa đầu tôi. Giọng chị chợt thảng thốt:
- Em ốm hay sao mà đầu nóng thế?
Tôi ấp úng chưa kịp trả lời thì chị đã nói tiếp, giọng lo lắng:
- Đúng là em sốt thật đây mà! Em bị mấy hôm rồi? Sao không viết thư báo cho chị biết? Thảo nào mấy hôm nay chị cứ thấy bồn chồn không yên. Mà sao ốm lại ra ngồi ngoài gió thế này?
Tôi không nói, cứ ôm ngang lưng chị, hai chị em dìu nhau vào nhà. Tự nhiên nước mắt tôi ứa ra. Tôi lén đưa tay dụi, không để chị trông thấy. Một nỗi tủi thân bỗng lan nhẹ trong tôi khiến người tôi run lên. Giống như một đứa trẻ côi cút ngóng chờ suốt bao ngày tháng, mãi bây giờ người mẹ bỏ đi xa mới trở về. Lâu nay tôi cứ phải sống cứng cỏi, một mình bươn chải, giờ tôi chợt nhận ra mình còn nhỏ bé, yếu ớt bao nhiêu! Nhưng tôi vội gạt nhanh những ý nghĩ ấy, không muốn chị tôi phải lo lắng nhiều về tôi. Tôi vui vẻ đi lấy nước cho chị uống trong lúc chị ngồi bổ cam, vừa bổ vừa kể chuyện nhà cho tôi nghe. Chị cho biết mới nhận được thư của anh Lượng tôi gửi từ Lào Cai về. Công việc làm đường sắt vất vả lắm nhưng anh tôi rất vui vì sống độc lập. Anh ít tuổi nhất nên được các anh chị cùng đơn vị quý mến, hết lòng giúp đỡ. Bố tôi cũng đã đi làm phiên dịch tiếng Pháp và tiếng Anh cho Cục chuyên gia. Chị tôi cũng sắp tốt nghiệp trường Sư phạm, sắp ra dạy học…
Nghe chị tôi nói chuyện với một giọng ấm áp, đầy tự tin, trong tiếng nói luôn ẩn giấu một nụ cười, tôi thấy lòng mình thanh thản hẳn. Mọi khúc mắc, bối rối của đời sống bỗng nhiên đều trở nên đơn giản và dễ giải quyết. Trong cái mớ bòng bong hỗn tạp của cuộc sống thường nhật, đối với nhiều người khác, nhìn vào dễ chán nản, rối trí vì không gỡ ra được, nhưng đối với chị tôi, chị luôn bình thản, lần ngay ra được đầu mối rồi cứ thế nhẩn nha tháo gỡ, mọi chuyện dần được giải quyết một cách ổn thỏa, nhẹ nhàng. Chính nhờ có cái bản lĩnh bẩm sinh trời cho ấy mà chị tôi đã vượt qua được không biết bao nhiêu khó khăn. Ngày còn kháng chiến chống Pháp, bố tôi theo đơn vị quân y nay đây mai đó khắp nhiều miền đồi núi Thái Nguyên, mẹ tôi mất sớm, năm chị em tôi rau cháo tự nuôi nhau. Lúc đó chị tôi chưa đầy mười sáu tuổi. Phải cai quản bốn đứa em sàn sàn tuổi nhau, đứa bé nhất là tôi lên chín tuổi. Chị xông xáo đi kiếm việc làm để mấy chị em kiếm sống. Nhận thóc của Nhà nước về xay giã lấy tấm, lấy cám và ít tiền công. Nhận đay về se sợi ngang sợi dọc cho người ta dệt bao tải… Suốt đêm ngày mấy chị em làm chăm chỉ dưới sự điều khiển nhịp nhàng của chị. Rồi còn vỡ đất trồng sắn, trồng rau, nuôi gà… Không chỉ giỏi trong việc chỉ bảo các em trong gia đình, chị còn là một cán bộ hiệu đoàn học sinh năng nổ, hết lòng vì công việc của lớp, của trường. Việc nặng nhọc thế nhưng lúc nào cũng thấy chị tươi cười. Gặp ai chị cũng vồn vã, xởi lởi. Cả trường, từ các thầy cô giáo đến bạn bè học sinh ai cũng yêu mến chị. Đối với các em, chị yêu thương một cách giản dị, lặng lẽ, đằm sâu, ít biểu lộ bề ngoài. Tính chị xuề xòa nhưng cũng rất nghiêm khắc. Chúng tôi coi chị là một người mẹ thực sự. Ngày bé, tôi vừa yêu chị như yêu mẹ, vừa ngưỡng mộ chị như một thần tượng. Chị bảo gì, tôi nhất nhất nghe theo. Tôi nhớ có một lần mấy chị em đang xay giã gạo thì có tiếng ầm ì của máy bay “Bà già” và nhiều tiếng reo hò. Thì ra chiếc máy bay Đacôta mà chúng tôi thường gọi là máy bay “Bà già” chậm rì rì đang lượn vòng trên đầu, thả ra cơ man là truyền đơn. Những tờ giấy đủ màu bay rợp trời. Bọn trẻ con bất chấp máy bay quần đảo trên trời, túa ra khắp cánh đồng để nhặt. Mấy anh em tôi cũng ùa chạy theo. Chị Trọng tôi la lên:
- Chúng nó tuyên truyền nhảm đấy. Nhặt hết rồi đốt ngay đi nhé. Cấm không đứa nào được đọc những trò nhảm nhí ấy!
Chúng tôi thi nhau nhặt. Từng xấp, từng xấp vứt đầy góc ruộng. Nhiều đứa tò mò lén đọc. Riêng tôi, nghiêm chỉnh nghe theo lời răn đe của chị cả, cương quyết không hề hé mắt nhìn. Tôi chạy khắp chốn, đuổi theo những tờ truyền đơn đủ màu đang phấp phới chao liệng rồi lại lúi húi nhặt hết tờ này đến tờ khác. Tôi cởi cả áo, đùm một bọc lớn ôm trước ngực, nhưng vẫn ngoan ngoãn nghe lời chị, không cần biết những gì in trên đó.
Cũng giống như sau này về Hà Nội, lúc đầu tôi chưa thuộc hết tên đường tên phố. Thỉnh thoảng chị tôi dẫn tôi đi chơi phố, lúc dạo bộ, lúc nhảy xe điện. Chiếc xe điện nửa vàng nửa đỏ rung chuông leng keng, ngất ngưởng lắc lư chạy trên đường ray như một anh chàng ngà ngà say vui tính. Cùng đi với chị em tôi còn có mấy đứa trẻ bên hàng xóm. Chị bảo cho chúng đi cùng cho vui, rồi chị sẽ “chiêu đãi” cả bọn món kem Cẩm Bình nổi tiếng. Ngồi trên tàu điện, chị thường thử trí nhớ của bọn trẻ bằng cách đố xem bên ngoài đang là phố gì. Chị bảo phải tự nhớ ra, cấm không được nhìn lên các biển ghi đường, các bảng hiệu. Bọn trẻ kia láu cá, liếc vội lên các biển hàng, ngay lập tức chúng trả lời đúng phóc. Tôi thừa biết trò ma mãnh lộ liễu của chúng, nhưng tôi dứt khoát không bắt chước. Tôi cố tự nhớ lấy qua các đặc điểm mà mình đã ghi nhận ở những lần đi trước. Ban đầu thấy tôi trả lời chậm hơn bọn bạn, chị chê tôi kém thông minh. Nhưng sau hiểu ra, chị xoa đầu tôi, khen là tôi trung thực. Chị bảo phải trung thực ngay từ những chuyện tưởng như là nhỏ nhặt…
Hỏi chuyện học hành, sinh hoạt của tôi được một lúc, chị bảo tôi quần áo có chiếc nào bị rách, đem ra cho chị vá. Tôi nói có mấy chỗ rách, tôi đã tự vá lấy rồi. Chị cười:
- Giỏi thế kia à? Đem cho chị xem nào!
Chị không sao nhịn được cười khi xem mấy miếng vá của tôi:
- Sao cậu lại vá chằng vá đụp xiêu vẹo thế này? Chẳng khác gì vá bao tải. Thôi, để chị tháo ra vá lại cho.
Chị tháo hết các miếng tôi vá, khéo léo vá lại đẹp hơn hẳn. Tiện thể, tôi nói với chị:
- Chị xuống gấu hai chiếc quần cho em luôn thể. Ngắn quá rồi, kéo mãi cũng vẫn cũn cỡn không thể che nổi đôi mắt cá chân. Đứng trên bảng trả bài, mấy đứa con gái cứ nhìn em mủm mỉm cười, ngượng chết đi được!
- Thế là cũng biết ngượng rồi cơ đấy? Em chị sắp thành người lớn rồi! - Chị vừa ghé răng cắn chỉ vừa nghiêng mặt nhìn tôi cười hóm hỉnh.
Vừa lúc đó, anh Nhu và thằng Bảo đi học về. Thấy chị tôi, anh Nhu đứng sững lại rồi la lớn:
- Ôi giời, Trọng! Trọng đấy à? Lên bao giờ thế? Lâu quá rồi chúng mình mới gặp lại. Thế nào, Trọng đã ra trường chưa?
Hai anh chị nắm tay nhau, lắc lia lịa, cười nói cuống quýt. Ngày còn kháng chiến, hai người học cùng một lớp, là bạn rất thân của nhau. Được mấy năm, anh Nhu ở lại trường học tiếp, còn chị tôi đi thanh niên xung phong, về tiếp quản Thủ đô rồi đi học Sư phạm trung cấp. Thằng Bảo ghé tai anh Nhu nói nhỏ điều gì. Anh Nhu bảo nó thôi cứ ở nhà, chuyện đó để anh lo. Thấy hai người úp úp mở mở, chị tôi đoán ra, cười nói:
- Lo chuyện cơm nước phải không? Khỏi cần em ạ, chị đã mua sẵn thức ăn đây rồi.
Anh Nhu khen chị tôi:
- Trọng tinh thật đấy. Bảo nó thấy Trọng lên, muốn đi kiếm vài con cá về thết khách. Nó là vua sát cá mà!
- Mình đã mua cả ký thịt kia rồi! Đủ cả bắp cải, xu hào, tha hồ mà nấu nướng. Xuống tàu, mình ghé qua chợ rồi mới về đây.
Anh Hoàng và thằng Nam cũng vừa về đến đầu ngõ. Hai anh em chưa kịp vào nhà thì anh Nhu đã nói với ra:
- Hoàng và Nam ra ngay ngoài ruộng gánh nước tưới cải giúp bà Muộn đi. Gắng xong sớm rồi về ăn cơm. Mời cả bà Muộn về ăn luôn thể. Hôm nay có khách quý, ta mở tiệc ăn mừng…
- Ai là khách quý thế? - Anh Hoàng hỏi vọng vào.
- Bí mật! Bí mật! - Anh Nhu tươi cười, nói lấp lửng.
Chị tôi vừa ló đầu ra, anh Hoàng đã chạy ào tới, kêu to:
- Trọng! Trời ơi, Trọng! Lên bao giờ?
Lại rối rít tít mù lên. Hai anh chị nắm tay nhau, nhảy tâng tâng như trẻ con khiến mấy đứa nhỏ chúng tôi cùng bật cười. Ước gì chúng tôi cũng có một tình bạn lâu dài, vô tư thắm thiết như thế…
18. Đêm đó, hai chị em nói chuyện với nhau rất khuya. Chuyện này chưa dứt, chuyện khác đã ùa đến. Nhưng nhiều nhất vẫn là những kỷ niệm về mẹ tôi. Có lẽ vì sắp đến ngày giỗ mẹ. Thấm thoắt thế mà mẹ tôi mất đã gần chục năm rồi. Mấy lần, trong lúc nói chuyện, chị tôi cứ băn khoăn là kỳ này được nghỉ có hai ba hôm, chỉ đủ thời gian lên thăm tôi mà không lên được Yên Thế thăm mộ mẹ. Gần mười năm nay mẹ vẫn nằm một mình giữa lưng chừng đồi cô quạnh. Ngày trước, dân tản cư đông đúc, họ hàng nhiều, mấy anh chị em tôi sống quây quần bên mẹ. Chiến tranh kết thúc, mọi người trở về lại thành phố, vùng quê trở nên vắng vẻ, một mình mẹ ở lại giữa đất lạnh, chỉ có gió đêm ngày ù ù thổi.
Mẹ mất khi tôi còn rất nhỏ. Những kỷ niệm về mẹ chỉ thấp thoáng ẩn hiện trong tôi, lúc đậm lúc nhạt, rất khó nắm bắt. Kỷ niệm xa xôi nhất mà tôi còn hình dung được về mẹ là buổi sáng cuối năm 1946 ấy, cái buổi sáng cuối cùng gia đình tôi còn ở thị xã Hải Dương. Hôm ấy là một ngày tạnh ráo. Trời có nắng không, tôi không nhớ rõ. Bây giờ, trong ký ức tôi, chỉ còn là một màu lục nhạt kỳ ảo bao trùm lên tất cả. Trong lãng đãng sương mù của quá khứ, tôi vẫn còn thấy hiện ra mấy chiếc xe tay do người kéo đậu một dãy dài trước nhà. Mấy anh chị em tôi ríu ran cười nói, hớn hở tranh nhau trèo lên mấy chiếc xe. Tôi ngồi lọt thỏm trong lòng mẹ, bên cạnh một chiếc vali đựng quần áo, tư trang của mẹ tôi. Mấy chiếc xe nối đuôi nhau ra khỏi thị xã. Lần đầu tiên được thấy cảnh đồng quê, mấy chị em tôi vui không sao kể xiết. Chúng tôi gọi nhau, chỉ trỏ, trầm trồ, đi tản cư mà vui vẻ, hớn hở như được đi chơi xa. Tưởng như chỉ đi vài hôm rồi lại trở về, không ngờ đó là lần cuối cùng chúng tôi rời quê hương để đi vào cuộc kháng chiến dài đằng đẵng chín năm. Sau này nghe kể lại, tôi được biết, bố mẹ tôi hoàn toàn không chuẩn bị gì cho chuyến đi xa này. Cứ ngỡ chỉ chạy ra khỏi thị xã tránh bom đạn vài hôm rồi về. Đồ đạc, của cải khóa cửa để đấy, chỉ mang theo mấy bộ quần áo, ít tiền chi dùng tạm vài hôm. Không ngờ đi là đi luôn, coi như mất trắng hết cả. Kháng chiến chín năm kết thúc, do cuộc sống xô đẩy, gia đình chúng tôi cũng không trở về quê cũ nữa, mà đi biền biệt, mấy chục năm sau cũng không có mấy khi được trở về.
Tiếp đến là một kỷ niệm khó quên khác. Không biết hôm ấy mẹ tôi dẫn ba anh em tôi đi đâu mà qua một cánh đồng rộng. Đang đi, chợt có máy bay “Bà già” vè vè trên đầu. Mẹ tôi cuống quýt đẩy ba chúng tôi chui vào một cái cống gạch ven đường. Mẹ ngồi chắn ngoài miệng cống. Ba anh em tôi rúc rích cười nói còn mẹ thì hoảng hốt lo sợ mãi cho đến khi chiếc máy bay mất hút phía cuối trời. Thật giống cái cảnh gà mẹ xòe cánh che chở cho bầy con khi có diều hâu chao liệng trên đầu…
Rồi những ngày tản cư nay đây mai đó… Mẹ tôi bị bệnh hậu sản ngày một nặng. Hình ảnh về mẹ nằm bất động trên giường. Người thường nằm nghiêng, chân co chân duỗi, im lìm, mỏi mòn. Mỗi khi anh em tôi đi học về hoặc rong chơi ở bên ngoài ùa chạy vào, mẹ tôi uể oải ngoái nhìn ra, trên gương mặt xanh xao thoáng bừng lên nụ cười lặng lẽ, héo hắt. Tiếng mẹ tôi nhỏ nhẹ nhắc chị giúp việc lo cơm nước cho chúng tôi. Thấy tôi ăn uống chểnh mảng, mẹ không hề gắt gỏng nặng lời mà cố gượng ngồi dậy, tự tay xúc cơm cho tôi ăn, ánh mắt người vui hẳn lên khi thấy tôi ăn ngon lành.
Mẹ tôi ốm đau thế mà thuốc thang lại rất hiếm. Trên bếp, lúc nào tôi cũng thấy một ấm đất nấu lá nhân trần, hương thơm mùi bạc hà. Sau này lớn lên tôi mới hiểu bệnh mẹ tôi làm sao mà khỏi được khi chỉ chữa bằng giống cây dại mọc rất nhiều dưới chân đồi, nơi đất ẩm, thứ cây có một chút tinh dầu thơm và có từng chuỗi hoa xanh phơn phớt tím. Một ông lang già người Tày cắt thuốc cho mẹ tôi. Nhà ông ở cách xa chừng mười cây số. Mỗi lần đến thăm bệnh, ông đi bộ mất gần trọn buổi sáng. Có lần ông bị đau chân không đi xa được, ông phải cưỡi con trâu đến thăm bệnh cho mẹ tôi. Con trâu mộng cứ lững thững, đủng đỉnh đưa ông đến rồi lại thủng thẳng đưa ông trở về…
Mẹ tôi mất vào một buổi sáng mùa đông. Tôi vẫn còn hình dung ra được khá rõ lúc mẹ tôi hấp hối. Trong căn nhà tranh vách đất của bà thím tôi mà lâu nay đã dành riêng cho mẹ tôi nằm dưỡng bệnh, dưới ánh sáng mờ mờ, mẹ tôi nằm trên giường, cánh màn đã được cuốn lên cao. Mẹ tôi gày guộc, nhỏ bé lún giữa mấy tấm chăn. Bà Thượng tôi, bố tôi, cô tôi, mấy anh chị em tôi và một số người trong họ vây quanh nơi đầu giường. Mẹ tôi khóc không ra tiếng, thỉnh thoảng ngực mẹ tôi khẽ rướn lên vì những cơn ho yếu ớt. Mẹ cứ khóc mãi, khóc lặng lẽ không ra tiếng, vẻ mặt nhăn nhúm khổ sở. Tiếng sụt sịt khóc rấm rứt của hai chị tôi, của mấy người lớn đứng phía sau. Tôi len lén nhìn mẹ tôi rồi sợ hãi ngước nhìn sang mọi người. Có lẽ lúc đó tôi còn nhỏ quá, chưa hình dung ra được thế nào là cái chết nên tôi cứ nép sát vào chị Ngà tôi, sợ sệt nhìn xung quanh chứ không khóc một tiếng. Thậm chí tôi còn tò mò dướn người lên để xem cho rõ khi bà Thượng tôi bỏ một hạt vàng nhỏ vào mồm mẹ tôi. Sau này tôi nghe nói làm như thế để mẹ có chút của nả mang theo khi đi sang thế giới bên kia… Mẹ tôi cứ khóc lặng lẽ như thế rất lâu. Bà Thượng tôi nói gì đó với mẹ tôi cũng rất lâu, như là căn dặn mẹ tôi điều gì. Chắc là những lời nhắn nhủ cuối cùng, những lời giã biệt cuối cùng, có điều gì nghiêm trọng lắm nên tôi thấy mọi người khóc nức lên, mỗi lúc một lớn hơn. Ở gian ngoài, cái Dung con cô tôi chẳng hiểu sao suốt cả tiếng đồng hồ rồi cứ khóc ngằn ngặt. Nó mới hơn hai tuổi, ngồi trên chiếc chõng tre, khóc đến tím tái cả mặt mày, không ai dỗ nổi. Có ai đó bế nó đi ra ngoài sân để cho mẹ tôi ra đi được thanh thản hơn. Tôi bỗng thấy người mẹ tôi dướn lên, một cơn ho dội lên, mặt mẹ lộ vẻ rất đau đớn. Bố tôi cúi xuống vuốt ngực cho mẹ tôi, rồi cứ thế mẹ tôi lịm dần. Tiếng khóc bỗng òa lên nức nở. Mọi người đổ xô vào vây quanh giường mẹ tôi. Hai chị tôi khóc thét lên, lao đến ôm chặt lấy mẹ tôi, lăn lộn. Tôi sợ hãi ngơ ngác nhìn mọi người, nhìn mẹ tôi và cũng òa khóc theo…
Đám tang của mẹ tôi rất đông. Vừa họ hàng, vừa dân làng Thễ, cả trăm người đưa mẹ tôi ra ngoài cánh đồng. Tôi bị ốm, không nhớ ai đó đã cõng tôi đi theo sau quan tài. Tiếng trống chốc chốc lại vang lên tiếng một, điểm nhịp cho tiếng kèn ai oán, buồn bã…
Sau ba năm, bốc mộ, hài cốt mẹ tôi được đưa về chôn ngay lưng chừng đồi, gần nhà ông bà Hai của tôi, nơi anh chị em tôi ở liền mấy năm trong thời kháng chiến. Một người bạn của bố tôi - bác Chiểu - biết xem địa lý, đất cát đã chọn giúp mảnh đất ấy. Đó là một khoảnh đất đẹp, xinh xắn, gần một cái ao và mấy gò đất nhỏ rải rác mọc nhiều sim mua, chè đồng và nổi bật lên là mấy cây sau sau khá lớn, thân trắng mốc, lá xẻ chân vịt, về cuối năm lá vàng rực. Trước đây anh em tôi thường ra đó đánh trận giả, đuổi bắt nhau tối ngày. Từ khi mộ mẹ tôi đặt ở đó, chúng tôi không dám làm ầm ĩ nơi mẹ tôi yên nghỉ, chỉ thỉnh thoảng ra thăm mộ, dọn cỏ cho sạch sẽ, quang đãng nơi mẹ tôi nằm. Và suốt từ những ngày xa xôi ấy, mẹ tôi đã ở lại đó vĩnh viễn…
Mẹ tôi sinh nở tám lần. Ba em sau tôi đều mất sớm, khi mới hai, ba tuổi. Tôi là thứ năm, cuối cùng thành con út. Mẹ tôi khóc rất nhiều trong lúc hấp hối, có lẽ chính vì thương đàn con còn quá nhỏ dại đã mất mẹ, không biết tương lai sẽ thế nào. Tôi là con út, nhỏ bé nhất, ốm yếu nhất trong mấy anh chị em, chắc mẹ tôi càng thương tôi nhiều hơn. Ngày còn sống, một lần bố tôi kể tên tôi là do chính mẹ tôi đặt cho. Thường thì tên các anh chị tôi do bố tôi đặt cho. Riêng tên tôi, mẹ tôi giành đặt lấy. Khi vào nhà hộ sinh thăm mẹ tôi, thấy mẹ tôi đã sinh con trai, bố tôi định đi làm giấy khai sinh thì mẹ tôi cười bảo đã nói bà đỡ làm rồi. Mẹ tôi rất yêu hoa, thích hoa hồng, đặc biệt là hoa quỳ, tức hoa hướng dương. Chắc mẹ mong mỏi con trai mẹ cũng giống như loài hoa ấy, lúc nào cũng hướng về phía mặt trời, hướng về phía ánh sáng, phía ngay thẳng, chính trực, phía của cái đẹp, hướng thiện…
19. Chị Trọng tôi về được ít lâu, chị thứ hai của tôi - chị Ngà - cũng lên thăm tôi. Chị mới đi biểu diễn ở nước ngoài về, thảnh thơi được vài ngày, tranh thủ lên với tôi. Chị thanh mảnh hơn chị Trọng, trắng trẻo, xinh xắn hơn. Hai chị tôi mỗi người một vẻ. Chị Trọng cứng cỏi, mạnh mẽ, mộc mạc chân chất, còn chị Ngà đằm thắm, mềm mại, tinh tế, tình cảm bộc lộ ra bên ngoài dịu dàng hơn. Ngày còn nhỏ đi học chị tôi rất thích múa hát. Chị nổi tiếng ở trường là xinh đẹp và hát hay. Năm 1953 lúc mà mấy chị em tôi sống cùng quẫn khó khăn nhất, nhân có đoàn Văn công quân đội do nhạc sĩ Đỗ Nhuận chỉ huy đi biểu diễn ngang qua, tuyển thêm diễn viên, chị tôi dự tuyển và được gia nhập Đoàn. Khi đó chị tôi chưa đầy mười lăm tuổi. Ít lâu sau chị tôi tham dự chiến dịch Điện Biên Phủ…
Quà chị tôi mang lên cho tôi là một bọc kẹo Nga, một tấm ảnh chị tôi nghiêng nón dưới tháp chuông điện Cremli và một chiếc áo bộ đội của chị tôi, loại áo “con gái” có hai hàng cúc phía trước. Khi đưa cho tôi chiếc áo, chị tôi cười xòa và dặn: “Áo này là áo con gái, chị mới được phát. Chị cứ để lại cho em, phòng khi hôm nào rét quá, em khoác thêm ở nhà cho ấm. Để rồi chị sẽ may cho em chiếc áo khác. Đừng có mặc đi ra ngoài họ cười cho đấy”. Tuy chị dặn thế, những ngày rét ngọt, tôi vẫn mặc cả khi đi học, không hề có mặc cảm là mặc áo của chị. Mấy bạn gái cùng lớp ban đầu còn đùa tôi thế này thế nọ, sau cũng thôi. Có lúc họ còn mượn tôi để chưng diện, mặc đi dự tiệc tùng nữa chứ!
Hai chị em tôi rủ nhau lên Yên Thế thăm mộ mẹ và thăm lại Bãi Trại, nơi mấy chị em tôi đã sống mấy năm trong những ngày tản cư. Cái tên Bãi Trại mộc mạc, hoang dã đã trở nên quá đỗi thân thiết đối với anh chị em tôi. Có thể coi đó là quê của chúng tôi vậy. Quê gốc gia đình tôi ở thị xã Hải Dương, nhưng mấy anh chị em tôi không sống ở Hải Dương nhiều, nhất là những ngày ở đó chúng tôi còn quá nhỏ, kỷ niệm còn nhớ được rất mờ nhạt. Sau này, mấy chục năm sống ở Hà Nội, là lúc chúng tôi đã lớn, đã đi làm, tối ngày tất bật lo công chuyện… Chính tuổi thơ ấu và niên thiếu của chúng tôi đã trôi qua ở Bãi Trại này. Những ngày gian nan vất vả nhưng cũng tràn đầy hạnh phúc. Hồi tưởng lại quá khứ, Bãi Trại vẫn in đậm nét nhất, để lại trong tôi những kỷ niệm đằm thắm nhất.
Đó là một vùng đồi thấp, đất khô cằn lẫn nhiều đá sỏi. Ngôi nhà năm gian tường trình mái rạ lợp dày của ông bà Hai tôi ở lưng chừng đồi (ông Hai tên thật là ông Ninh, là em ruột ông nội tôi. Ông bà nội tôi mất sớm, khi tôi chưa ra đời. Tôi chỉ biết mặt ông bà nội tôi qua ảnh cũ để lại. Những ngày tản cư, một thời gian dài tôi sống với ông bà Hai ở Bãi Trại, nơi ông bà tôi có mấy chục mẫu ruộng). Trước nhà là một khoảng sân đất nện rất rộng. Bên phải là dãy nhà kho, nhà bếp, nhà xay thóc giã gạo, ngoài cùng là chuồng trâu nuôi bốn, năm con trâu to lớn. Bên trái là một hàng giậu thấp ngăn cách với hàng xóm. Từ đây, cách chừng mươi thước lại có một ngôi nhà nhỏ, có vườn, có hàng tre bao quanh, chạy dài mãi, men theo chân đồi theo hình vòng cung rộng lớn. Mấy chục gia đình người tản cư từ dưới xuôi lên ở xen kẽ với dân bản địa. Phía sau nhà ông bà tôi là một con đường đất đỏ hoang sơ, xe trâu bò kéo thường qua lại năm thì mười hoạ nên cỏ mọc lan ra cả mặt đường lổn nhổn đá sỏi. Một cây đa lớn cằn cỗi, lá rất thưa, quanh gốc treo lủng liểng nhiều bình vôi nghe nói để yểm trừ ma quấy phá. Bên kia con đường là một bãi cỏ rộng, gần như bằng phẳng, giống một cái sân đá bóng lớn. Viền quanh bãi là những bụi dứa dại, bụi sim mua và rải rác một số ngôi nhà nhỏ gần như núp trong những vòm tre, vòm ổi xùm xoà. Có lẽ nhờ có bãi đất trống và những ngôi nhà nhỏ đó mà có tên Bãi Trại. Dưới chân bãi là một cánh đồng nhỏ, khấp khểnh ruộng cao, ruộng thấp, đất xấu, kéo dài đến chân tre làng Thễ,nơi có nhà ông bà Thơ, thím Minh mà mẹ tôi đã ở những ngày cuối đời và mất ở đó. Phía trước mặt nhà của ông bà Hai tôi đồi thoai thoải xuống dần. Dưới chân đồi là mấy gò đất nhỏ, có mảnh ao ở giữa. Ngoài gò và ao là một cánh đồng rất rộng, phần lớn là ruộng của ông bà Hai và ông bà Thượng tôi.Xa mãi cuối cánh đồng phía trái là dải đồi thấp có ngôi chùa Thễ thấp thoáng hiện ra sau những vòm cây quéo, cây đại cổ thụ.Phía trước mặt là ấp Bình Chương, ấp của ông bà Thượng tôi. Một ngôi nhà ngói có gác cao vượt lên giữa vệt xanh dài của những lũy tre làng. Bà Thượng tên thật là bà Thọ, chị ruột của ông nội tôi. Ông Thượng là quan tuần phủ Hưng Yên cuối cùng của thời trước. Ấp Bình Chương nghe nói đã có từ lâu, do một điền chủ khác tạo lập. Ông bà tôi mua lại vào cuối năm 1930. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông bà Thượng tôi bỏ Hà Nội, Hải Dương kéo theo hầu hết họ hàng nội ngoại đi tản cư lên đây. Trước đó mấy năm, khi ông bà Thượng còn ở Hà Nội thì ông bà Hai tôi đã ở trên ấp này rồi. Ông bà Hai làm quản lý, cai quản trang ấp cho anh chị. Mấy năm đầu kháng chiến, cơ quan quân y của bố tôi di chuyển luôn. Mỗi lần di chuyển, bố tôi mang theo mẹ tôi, anh Lượng và tôi cùng chị giúp việc. Còn ba anh chị đầu của tôi ở với ông bà Thượng. Về sau, mẹ tôi ốm nặng, phải về sống gần ông bà Hai, nhờ ông bà đỡ đần giúp. Ông bà sắp xếp cho mẹ tôi ở trong một gian nhà của ông bà Thơ trong làng Thễ. Ông bà Thơ là thông gia với ông bà. Thím Minh, con gái ông bà Thơ lấy chú Minh con trai cả của ông bà Hai.
Người hàng ngày lo việc cơm nước, thuốc thang, giặt giũ, chăm sóc trực tiếp cho mẹ tôi là chị Vận. Hiếm có một người giúp việc nào lại hiền lành, phúc hậu và tận tình như chị. Trong những ngày bệnh tình mẹ tôi nguy kịch nhất, chị Vận ngày đêm ở bên cạnh mẹ tôi, không nề hà bệnh tật lây nhiễm, hết lòng vì mẹ tôi, vì anh chị em tôi. Nhiều khi nhớ lại quá khứ, tôi cứ tự trách mình sao những ngày đó tôi sống vô tình thế, tôi không biết yêu quý chị hết lòng để đến bây giờ, khi tôi đã biết nghĩ trước sau, muốn đền ơn chị, muốn nói với chị những lời thân thiết thì chị đã không còn nữa…
Sau nhiều ngày lang bạt, nay đây mai đó ở nhiều nơi trong vùng đồi núi Bắc Giang, Thái Nguyên theo cơ quan của bố, cuối cùng anh Lượng và tôi cũng về Bãi Trại sống với ông bà Hai. Có lẽ đây là thời kỳ hai anh em tôi được sống thoải mái nhất, có nhiều kỷ niệm vô tư nhất, đúng với ý nghĩa tuổi thơ. Ông bà nội ngoại tôi đều mất sớm, chính ông bà Hai đã cho chúng tôi được hưởng tình cảm ông bà cháu thân thiết ruột thịt, để cho chúng tôi được biết thế nào là tình ông bà, một tình cảm bình dị nhưng thiêng liêng; nếu vì một lý do nào đó mà người ta không có diễm phúc được hưởng thì sẽ là một thiệt thòi to lớn biết chừng nào, lỗ hổng trong tình cảm gia đình, họ hàng, sẽ không có một thứ tình cảm nào khác bù đắp nổi. Ông bà Hai tôi yêu thương các con cháu nội ngoại đều như nhau. Ông bà lại xuề xòa dễ tính. Những lúc rảnh rỗi, ông thường nằm chơi với chúng tôi. Tôi rất khoái mỗi khi được ông cọ hàm ria mép đốm bạc dài và cứng của ông lên má, lên mũi mình. Ông hay sờ nắn cánh tay mảnh dẻ của tôi. Thấy tôi gầy yếu, ông xót xa: “Giá mà ông cắt được thịt ở đùi ông đắp vào cho cháu béo ra ông cũng sẵn sàng cắt ngay”. Cái Hiếu con cô Nhự, cháu ngoại của ông, thấy ông đặc biệt yêu tôi nên nó “ghen”, mấy lần đuổi theo tôi đòi đánh. Ông ôm cả tôi lẫn nó vào lòng cười dàn hòa. Ông cọ ria vào má nó, rồi lại cọ ria vào má tôi, cứ thế thật nhiều lần, không đứa nào hơn kém đứa nào, cuối cùng nó mới chịu.
Anh Lượng và tôi được sống rất thoải mái, không hề bị gò bó. Sáng sáng, chúng tôi đi học trên chùa Thễ. Các tượng Phật ngự trên cao, còn lũ trẻ chúng tôi ngồi học ngay dưới chân bệ thờ. Ngước nhìn lên bảng đen, chúng tôi gặp các ông Bụt Ốc đăm chiêu nhìn về cõi xa xăm… Buổi chiều, hai anh em tôi thường đi chăn trâu cùng thằng Điện. Ông bà không muốn chúng tôi đi chăn trâu kiếm củi như thằng Điện, nhưng cũng không ngăn cấm. Thằng Điện lớn hơn hai anh em tôi chừng một, hai tuổi, người đen nhẻm, tóc rễ tre cứng quèo, đỏ quạch vì dãi nắng. Hai chiếc răng bàn cuốc rất to, mỗi khi nó cười, có một nét gì đó rất hồn nhiên và dễ gần. Nó là cháu ông Lùa, thợ cày “lão nông tri điền” rất gắn bó của ông bà tôi. Điện ở chăn trâu cho ông bà tôi. Có hai anh em tôi phụ giúp, nó rất khoái. Ngày nào bọn tôi cũng rong trâu lên mạn chùa Thễ. Dưới chân đồi, nơi tiếp giáp với những vạt ruộng, đất luôn ẩm nên cỏ mọc tốt, sim ở đó quả cũng thường lớn hơn, mọng hơn. Thú vị nhất là được giẫm lên những đám mua đất sâm sấp nước. Mát vô cùng, êm vô cùng. Những ngày cuối năm lạnh giá, mấy đứa chúng tôi thường thả trâu dưới chân đồi rồi tìm đến mấy chỗ khuất gió, trải ổ đốt lửa sưởi, thường là mấy góc ruộng có bờ cao, đất khô nỏ. Chúng tôi moi đất làm thành một chiếc hầm hàm ếch, đi tha rơm rạ về trải khắp nền, nằm một lúc người ấm sực, ngại không muốn ra ngoài chăn trâu nữa. Đứa nằm, đứa ngồi vây quanh đống lửa. Có hôm thằng Điện còn liều mạng đi bới khoai trộm về nướng. Khoai chín thơm lừng, nóng hôi hổi, bửa ra chia nhau, vừa ăn vừa xuýt xoa vì nóng bỏng môi và vì ngon chưa từng thấy. Mặt đứa nào đứa nấy đỏ bừng bừng và nhọ nhem như bôi hề. Những hôm nắng ráo, chúng tôi dong trâu lên tận núi Đìa, non Đỏ cách xa chừng ba, bốn cây số. Đi hơi xa, mệt trâu nhưng chúng tôi lại khoái. Mỗi đứa một con trâu, đứa nằm ôm lấy lưng trâu, đứa ngồi ngất ngưởng trên mình trâu, nghêu ngao hát: “Quê em miền trung du. Đồng quê lúa xanh rờn…” hoặc “Về đây khi gió mùa thơm ngát, ôi lũ chim giang hồ…”. Bài nào mấy đứa cũng chỉ thuộc một hai câu, sau đó ư ử trong miệng, run rẩy như bị lạnh, tuy vậy cũng thấy lòng rưng rưng, lâng lâng thật sự.
Cỏ trên núi Đìa, non Đỏ xanh mơn mởn, phần vì đất tốt, phần vì ở xa, bọn trẻ chăn trâu ít bén mảng đến. Những cánh bãi gần, trâu bò ăn đi ăn lại cỏ mọc không kịp. Dong trâu lên núi Đìa, trâu tha hồ vơ cỏ, chỉ nửa buổi đã no căng bụng. Ruộng lúa lại ở xa, chúng tôi thả cho trâu ăn thoải mái, ít phải canh chừng, có thì giờ đi kiếm củi. Chỉ loáng sau, mỗi đứa đã kiếm được một bó to. Yên chí có củi đem về rồi, cả bọn mới quay ra đánh trận giả. Triền đồi rộng, những bụi sim, bụi mua, bụi chè đồng lúp xúp rải rác đây đó, địa hình lý tưởng cho hai phe tham chiến. Vừa đuổi bắt nhau, đánh úp nhau, vừa tiện tay hái những trái sim chín mọng, tím lịm cho vào mồm để tăng sức chiến đấu. Khi đã mệt bã người mới sực nhớ đến đàn trâu. Cũng may là chúng đã no phễnh bụng nên ngoan ngoãn nhẩn nha gặm cỏ, nhưng tít ở đằng kia.
Chúng tôi yên tâm lăn toài trên bãi cỏ, dang chân dang tay nằm ngửa mặt nhìn trời. Mắt đang lim dim nhìn những cụm mây nhẩn nha trôi chầm chậm giữa khoảng xanh, tôi chợt thấy lòng mình run rẩy nhè nhẹ khi ở đâu đó tít trên trời cao bỗng rót xuống từng chuỗi âm thanh trong ngần, thánh thót. Chim sơn ca đấy! Giữa đất trời bao la, thoáng đãng, tiếng hót của giống chim bé nhỏ ấy mới tuyệt vời làm sao! Tôi cố dõi tìm bóng chim nhưng không thấy - Mà tiếng vàng tiếng bạc vẫn cứ lảnh lót lúc xa lúc gần… Ước gì cứ được nằm mãi như thế, thảnh thơi thả hồn bay theo tiếng chim… Nhưng rồi cũng đến lúc phải về thôi. Cả bọn lại nghễu nghện trên lưng trâu cùng với bó củi nặng áp bên sườn. Trời đã về chiều. Chân trời hoàng hôn rực lên màu đu đủ chín. Đàn trâu đủng đỉnh nối đuôi nhau, chậm rãi bước. Tiếng hát nghêu ngao lại vang lên: “... Nhớ ai trên mấy đồi Yên Thế…”. Câu hát làm chúng tôi yêu quá. Vì chúng tôi đang sống ở Yên Thế mà! Cứ mỗi lúc hát đến câu ấy, đứa nào đứa nấy lại cố hát cho thật to, thậm chí có đứa như gào lên đầy hứng khởi. Một bài nữa cũng rất hợp cảnh buổi chiều như thế này, được chúng tôi thường xuyên vươn cổ ngân nga: “Chiều ơi! Lúc chiều về mọc ánh trăng tơ. Cho ngày mùa bài hát nên thơ, ới chiều!” “… Chiều ơi! Lúc chiều về rợp bóng nương khoai… ới chiều!”. Cái câu “ới chiều!” ở cuối bài sao mà quyến rũ chúng tôi đến thế! Sao mà hợp với chúng tôi đến thế! Chúng tôi cũng đang tha thiết gọi buổi chiều về, những buổi chiều quê thật bình yên…
NƯƠNG CHIỀU Nhạc PHẠM DUY Ca sĩ MAI HƯƠNG
Tôi yêu biết bao nhiêu cảnh miền trung du vào những ngày cuối thu. Trời đầy mây xám nhạt. Mây phẳng lỳ, không gian thoáng đãng trong suốt, mọi cảnh vật ở xa tít tắp cũng hiện lên rõ mồn một. Trời se se lạnh. Những ngọn đồi thoai thoải, ngọn nọ gối lên phần cuối của ngọn kia ưng ửng màu vàng chanh của lá, của cỏ đang dần cạn nhựa, se sắt lại. Cỏ lơ phơ càng hiện rõ những lối mòn lạo xạo son đỏ quanh co ẩn hiện trên triền đồi. Lối mòn giống như một người bạn nhỏ nghịch ngợm vui tính rủ rê bọn trẻ chúng tôi len lỏi vào giữa những bụi sim mua, những đám bòng bong, ràng ràng rậm rì, những cây khế rừng lúc lỉu những chùm quả chát chát chua chua, những cây mâm xôi chi chít quả đỏ chót ngọt lịm, những cây chua me dại quả tròn xoe, xanh trong như ngọc, mới ăn thì chát nhưng sau vị ngọt cứ đậm dần, thấm mãi nơi cổ họng. Trời đất hào phóng bày ra cơ man nào là hoa quả mời mọc, chiêu đãi chúng tôi, những đứa trẻ lăn lóc suốt ngày trên các bờ bãi…
Trên đường về thăm lại Bãi Trại, vừa đi chị em tôi vừa nhớ lại những chuyện cũ. Đường xa hơn ba chục cây số, phải đi bộ vì xe ô tô hàng rất hiếm. Lan man chuyện này sang chuyện khác, vui chân nên không thấy mỏi. Chị Ngà tôi vội giật tay tôi, mừng rỡ:
- Ơ kìa! Đã đến Cao Thượng rồi kìa! Vậy là hai chị em mình đã đi được hơn hai chục cây số rồi kia à?
Chị em tôi phấn chấn bước tiếp. Chỉ tay về phía bên phải, nơi có một rừng cây dẻ xanh đen, chị tôi bảo:
- Em có nhớ lần mấy chị em đi xem phim trong cánh rừng kia không?
Làm sao tôi có thể quên được những buổi xem phim nhớ đời ấy. Đó là vào khoảng cuối năm 1952, lần đầu tiên chúng tôi được xem phim kháng chiến. Chiếu ở trong rừng cách chỗ chúng tôi chừng mươi cây số. Sợ máy bay địch đến ném bom bắn phá nên tin có chiếu phim không được thông báo rộng. Bọn tôi lại ở xa nên càng khó biết chính xác. Chỉ nghe đồn là ở đó, ở đó tối nay có chiếu phim, thế là bọn tôi lũ lượt kéo nhau đi từ bốn, năm giờ chiều. Đi mà không chắc có được xem phim hay không. Cũng may phần lớn những lời đồn đều đúng. Ban đầu, người thưa thớt cũng phấp phỏng lo. Sau càng đi càng thấy người đông dần, thấy yên tâm hơn. Khi vào sâu trong rừng, thấy người đông vô kể, nghe tiếng máy nổ, trông thấy tấm phông trắng căng phồng giữa hai cột tre, vậy là mọi mệt nhọc, nhức mỏi tan biến hết. Cứ yên tâm mà xem phim vì đã có chòi canh máy bay ở bìa rừng. Hễ có tiếng bay ầm ì ở xa, kẻng sẽ vang lên, đèn đóm sẽ tắt phụt và mọi người sẽ xô nhau chạy. Có lần, mới xem được ít phút, kẻng đã vang lên hối hả. Mọi người chạy túa ra loạn xạ. Chẳng thấy máy bay đâu. Hóa ra người gác kẻng nghe lầm tiếng ì ầm ở đâu đó. Phim truyện đầu tiên tôi được xem trong đời là phim “Bí thư huyện ủy”, nói về một đơn vị du kích của Nga trong thời chiến tranh chống phát xít Đức. Có một tên Nga gian lọt vào hoạt động phá hoại. Câu chuyện đơn giản, phe ta phe địch quá lộ liễu, nhưng thời đó, đối với chúng tôi cũng đã là một bộ phim hay cực kỳ. Phim tài liệu chiếu kèm theo là phim “Việt Nam kháng chiến”, chiếu những cảnh xe đạp thồ gạo, thồ đạn ra mặt trận, những đoàn quân nườm nượp lên đường… Các phim đều còn thô sơ nhưng đã làm mê mẩn cả bọn chúng tôi. Suốt ngày chúng tôi bàn tán về các bộ phim. Có lúc tôi còn ao ước sau này lớn lên sẽ gia nhập đoàn chiếu bóng lưu động, làm việc gì cũng được, căng phông màn, chạy máy nổ, thuyết minh phim…, miễn là được đi đó đi đây, tha hồ xem phim tối ngày. Có lần nghe nói tối đó, ở địa điểm đó có chiếu phim. Bọn tôi náo nức kéo nhau đi từ ngang chiều. Đi hơn chục cây số, đến nơi hóa ra không phải. Nghe nói đang chiếu ở địa điểm khác. Không biết chính xác thực hư thế nào, đang cơn máu mê, lại hăng hái kéo nhau đi. Vừa đi vừa chạy cho nhanh. Đến khi tìm được đúng nơi đang chiếu phim thì cũng vừa lúc đang chiếu những cảnh cuối. Xem được vài ba phút, phim hết, đèn bật sáng. Mọi người nô nức kéo nhau ra về. Còn bọn tôi, cả lũ nằm lăn ra ngủ ngay tại trận, giữa bãi cỏ, giữa trời sương lạnh. Sáng hôm sau kéo nhau trở dậy, lại lông nhông đuổi nhau trên đường trở về…
20. Thím Minh đưa hai chị em tôi ra thăm mộ mẹ tôi. Thím bảo không có thím dẫn đường, hai chị em tôi sẽ bị lạc. Mấy gia đình trong làng Thễ đã chuyển nhà ra Bãi Trại, có nhà làm ngay trên nền cũ của ông bà tôi, bây giờ chị em tôi khó mà nhận ra. Quả như thế thật. Muốn xuống đến mộ mẹ tôi, phải đi qua sân nhà người ta, ngoắt ngoéo chui qua mấy lùm ổi, lùm nhãn… Mộ mẹ tôi cỏ mọc um tùm, thoạt trông không nhận ra được. Thím Minh phải rẽ cỏ, vung dao phạt mấy bụi lau, ngôi mộ mới lộ ra. Hai chị em tôi vạt sạch cỏ, đắp thêm đất rồi xắn từng vầng cỏ mới ấp lên mộ. Cây dại xung quanh cũng được phát quang. Chị tôi bày hoa quả ra đĩa, kính cẩn đặt lên mộ. Khói hương nghi ngút. Chúng tôi đứng lặng bên mộ mẹ khấn nguyện, rồi cùng ngồi bên mộ. Thím Minh rì rầm nói chuyện với chị tôi. Thím bảo thỉnh thoảng đêm nằm vẫn mơ thấy mẹ tôi về thăm nhà. Mẹ tôi thường đứng ở đầu hồi, một tay vịn cột, vừa nói chuyện vừa nhìn thím đổ cám cho lợn ăn. Mấy hôm vừa rồi mẹ tôi cũng về, khoe với thím là sắp có người lên thăm…
Thím kể tự nhiên, y như mẹ tôi vẫn còn sống chứ chưa hề mất. Suốt đời ở nông thôn, con người thím mộc mạc, hình như thím có khả năng giao hòa với thiên nhiên hoang dã. Thím bảo có lần đi cắt cỏ về muộn, trời nhập nhoạng tối mà thím còn ở giữa cánh đồng. Vội hối hả quảy gánh cỏ về. Phía trước chợt hiện ra một người đàn ông áo quần trắng toát bước thấp bước cao chập chờn. Người đàn ông ấy cứ lôi đầu gánh cỏ, dẫn thím đi lên phía núi xa, xa mãi. Thím phải van vỉ: “Thôi ông ơi, ông tha cho tôi. Chồng tôi chết sớm, tôi còn một đàn con dại…”. Người đàn ông biến mất và thím mới quay được về làng. Thím quê chính tại làng Thễ, là vợ của chú Minh, con trai ông bà Hai tôi. Lấy nhau được mấy năm, chú Minh thm gia kháng chiến, sau bị bệnh gan, mất sớm. Thím mới ngoài hai mươi, nhưng ở vậy nuôi đàn con dại. Kháng chiến kết thúc, mọi người về xuôi hết. Thím Minh ở lại quê. Nhờ có thím mà mộ mẹ tôi hàng năm, trước Tết mấy ngày vẫn có người thăm viếng, hương khói. Thím là mối dây liên hệ cuối cùng để chúng tôi có chỗ qua lại mỗi khi về thăm mộ mẹ.
Ngồi bên mộ mẹ, tôi đưa mắt nhìn bao quát xung quanh. Cánh đồng dưới chân tôi đã gặt xong, rải rác còn nhiều mớ rạ chưa kịp mang về. Tôi biết chắc chắn dưới những mớ rạ còn xâm xấp nước đó, khe khẽ lật lên thế nào cũng vớ được vài ba chú ếch mũm mĩm béo trắng nằm ệp dưới lõm đất lốt chân người. Ngày trước, tôi cũng đã từng bắt được nhiều chú dưới những mớ rạ đó. Còn ở giữa ruộng khô kia, những cọng cỏ năn đã mọc cao chừng hơn gang tay. Cỏ năn giống như hành lá nhưng đặc ruột, thuôn nhỏ hơn. Cứ tỉ mẩn lấy chiếc que khẽ khàng bươi từng chút đất, bắt đầu từ nơi mầm cỏ nhú, lần theo một chiếc rễ đen như sợi len nhỏ. Đào từ từ, nhẹ nhàng thôi kẻo sợi rễ đứt. Cứ lần theo sợi rễ, chừng hơn gang tay, có khi hai gang, cuối cùng sẽ bắt gặp nơi cuối rễ một củ năn đen sẫm, bằng đầu ngón tay út, có khi bằng một hạt sen. Nếu nóng lòng muốn ăn ngay thì gạt hết đất, dùng móng tay cạo hết lớp vỏ đen ngoài, sẽ lộ ra một cục nhân trăng trắng, trong trong, bỏ vào mồm khẽ nhai sẽ ngấm dần vị bùi bùi, thơm mát thật dễ chịu. Hết củ này lại lần theo củ khác, như một cuộc trốn tìm, đuổi bắt thú vị. Chán củ năn rồi, lại quay ra câu cồng cộng. Trên khắp mặt ruộng khô, giữa những chân rạ đã xén cụt, để ý nhìn sẽ thấy cơ man những lỗ nhỏ, một hạt đỗ xanh có thể đậy kín miệng lỗ. Đó là những chiếc tổ của cồng cộng, một loài sâu nhỏ xíu bằng đầu que tăm, dài chừng nửa đốt ngón tay, trắng muốt, đầu là một chấm đen nhánh. Bọn trẻ chúng tôi câu cồng cộng cho vui, biểu diễn trò khéo léo, chứ không có một ích lợi gì. Cả bọn, có đứa nằm toài ra ruộng, có đứa ngồi xổm, cúi sát mặt xuống đất theo dõi động tĩnh của con vật, miệng ê a câu đồng dao: “Cồng cộng mày lên ăn mạ…”. Rút một cọng cỏ non hoặc mạ non nhè nhẹ cắm xuống tổ cồng cộng, chăm chú nín thở quan sát. Hễ thấy cọng mạ khẽ lay động, chắc chắn cồng cộng có nhà. Chờ cho cọng mạ lay mạnh hơn chút nữa, bất thần giật thật mạnh cọng mạ theo chiều thẳng đứng, lập tức chú cồng cộng ngờ nghệch nằm tênh hênh trên đất, cuống quýt giãy giụa. Nếu không khéo tay, vội vàng giật nghiêng, cồng cộng sẽ vướng lại trong tổ, không tài nào câu được. Chỉ đơn giản vậy thôi nhưng trò câu cồng cộng đã từng làm say mê một thời tuổi thơ tôi. Bây giờ tất cả vẫn còn nguyên vẹn trước mắt tôi kia, ở ngay dưới chân tôi, ngay trước mặt tôi, đủ cả: cả những chú ếch mũm mĩm béo trắng nấp dưới những mớ rạ ẩm, cả những tổ cồng cộng, cả những mầm củ năn xanh rờn và còn biết bao trò chơi thơ dại khác nữa, gần gụi quá nhưng sao mà xa cách quá; tưởng như với tay là có thể nắm bắt, vậy mà cứ xa lơ xa lắc, chẳng thể nào vươn tới được. Tuổi ấu thơ đã xa rồi, không bao giờ tôi còn được hưởng lại những ngày đầu tiên ấy nữa. Những ngày ấy cứ xa vời, xanh thẳm, hun hút bay về phương trời phía sau, tôi cố ngoái lại, cố nắm bắt mà không sao níu giữ lại được…
Tôi chìm vào trong kỷ niệm. Mẹ tôi đang dẫn mấy chị em tôi đi trên cánh đồng vào một buổi chiều. Hôm ấy đi đâu nhỉ? Tôi không còn nhớ nữa. Chỉ nhớ là một buổi chiều rất đẹp, chuồn chuồn bay rợp trời. Những con chuồn chuồn ớt đỏ cháy, những con chuồn chuồn ngô vàng ươm, những con chuồn chuồn chúa xám đen với những chiếc cánh mỏng tang, trong suốt, trong suốt… bay cuống quýt như đang mải mê tìm kiếm một vật gì. Chúng tôi chạy đuổi bắt chuồn chuồn, hai tay dang ra chộp lia chộp lịa, miệng la hét inh ỏi: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa. Bay cao thì nắng bay vừa thâm thì râm…”. Hôm ấy lũ chuồn chuồn chắc là bay ở tầm vừa nên chúng tôi đã có một buổi chiều đẹp lạ lùng. Mấy mẹ con đi lẫn vào giữa đám chuồn chuồn lấp lánh màu ngũ sắc như đi trong giấc mơ…
Bỗng chị tôi lay nhẹ bờ vai làm tôi bừng tỉnh lại. Chị tôi nói nhỏ:
- Hương sắp tàn hết rồi. Em khấn mẹ đi rồi chuẩn bị về.
Chị em tôi vừa lẩm nhẩm được mấy câu, cả bó chân hương bỗng cháy bùng lên. Thím Minh nói to:
- Thế là mẹ các cháu chứng giám cho lòng thành của chị em mày rồi đấy. Trời im gió thế mà hương đốt cháy đùng đùng. Mẹ các cháu thiêng thật!
Đi ngang qua nền nhà cũ của ông bà tôi, chúng tôi dừng lại, lòng trĩu buồn. Ở đây đã từng sống bao người thân yêu của chúng tôi. Đã từng trải qua những năm tháng ấu thơ của chúng tôi với biết bao kỷ niệm vui buồn. Góc kia là chỗ chúng tôi xay lúa giã gạo. Chỗ kia là nhà bếp. Chỗ kia nữa là chuồng trâu, tôi và anh Lượng thường trèo lên ngồi vắt vẻo trên các dóng ngang, ra rả học bài giữa tiếng thở phì phò và tiếng đánh sừng vào các dóng cột kêu lộc cộc của bầy trâu. Ở nơi chuồng trâu ấy, về sau tôi có trồng một cây mướp, sai quả vô cùng. Cây mướp vươn dài ra cả trăm mét, bò lan trên bờ rào, đeo lủng lẳng cơ man là quả. Giống mướp hương quả không lớn, thon dài, màu xanh non, thơm phảng phất. Hết lứa quả này tiếp đến lứa quả khác, ăn mãi không hết. Các cây mướp khác sống có mùa, cuối mùa cây tàn lụi. Riêng cây mướp của tôi, có lẽ nhờ đất chuồng trâu cũ, cây sống đến hết mấy mùa mới hết lộc… Chính chỗ này đây là giường chúng tôi nằm. Nơi đó, lần đầu tiên trong đời tôi được nghe bác Chiểu kể chuyện Tam Quốc. Bác Chiểu là bạn của bố tôi. Tính bác hiền lành, tốt bụng và hình như hơi không được bình thường. Nhân một chuyến đi công tác, bác ghé qua thăm chúng tôi. Bác kể chuyện “rừng thiêng nước độc” trên mạn ngược, kể về những danh lam thắng cảnh bác đã từng qua. Bác khen nức nở cảnh Đèo Voi mà tôi không nhớ rõ ở mạn nào. Chỉ nhớ nhất hai câu mở đầu bài thơ bác làm mà bác vừa gật gù vừa ngâm nga vẻ đầy tâm đắc: “Xinh thay cảnh Đèo Voi. Trượt chân thì mạng toi…”. Ngay từ lúc ấy tôi cũng đã thầm có ý kiến là thơ bác có lẽ không thật hay lắm. Nhưng tài kể chuyện Tam Quốc của bác thì tôi phải công nhận chưa ai kể hay đến vậy. Lần đầu tiên trong đời, những anh hùng hảo hán Trung Hoa đến với chúng tôi, làm mê say anh em tôi, là qua bác. Những “Kết nghĩa vườn đào”, “Tam cố thảo lư”, “Hoa Dung tiểu lộ”, những Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi, Gia Cát Lượng, Triệu Tử Long… hiển hiện ra trước mắt chúng tôi rõ mồn một, lừng lững in hằn vào ký ức tuổi thơ tôi, suốt đời không thể nào quên. Mấy đêm liền bác kể cho chúng tôi nghe bằng một giọng chậm rãi, nhẩn nha rủ rỉ nhưng đầy ma lực. Anh em tôi chăm chú nghe như muốn nuốt từng lời, say sưa, mê mẩn. Thỉnh thoảng bác ngừng lại uống nước hoặc hút thuốc lào. Chúng tôi sốt ruột chờ đợi, cảm thấy sao mà lâu đến thế! Bác nhờ đi châm đóm hoặc rót thêm nước, mấy đứa đưa đẩy nhau, không ai chịu rời khỏi giường vì sợ trong lúc mình vắng mặt, bác kể tiếp thì mất nghe. Thằng Cảnh hàng xóm sang nghe ké, buồn tiểu quá cũng không dám đi, cứ há hốc mồm ngồi nghe đến lúc ướt đũng quần, bị phát hiện, đuổi mãi cũng không chịu về…
Một con gà mái đen lùn tịt đang túc tục túc tục dẫn đàn con như những nắm bông vàng óng và đen như nhung đi ngang qua. Vẻ mặt chị tôi tươi hẳn lên. Chị chỉ đàn gà, hỏi tôi:
- Em còn nhớ con gà quạ tha của em không?
Sao tôi có thể quên được! Hôm ấy anh Lượng, thằng Điện và tôi đang chăn trâu ở chân đồi chùa Thễ, chúng tôi đang đốt lửa sưởi, rạ ẩm, khói bay mù mịt cay sè cả mắt. Chợt một con diều hâu ở đâu bay đến, cứ lượn lờ trên đầu chúng tôi. Nó lượn những vòng rất rộng, sau vòng bay thu hẹp dần, di chuyển về phía cuối cánh đồng. Anh Lượng đưa tay lên ngang trán, chăm chú theo dõi, giọng anh hồi hộp:
- Nó phát hiện ra con mồi rồi! Nó đang chuẩn bị lao xuống…
Tôi và thằng Điện bỏ dở cả củ khoai nướng, vùng đứng dậy dõi theo. Cả ba chúng tôi cùng nhảy quanh đống lửa, vừa vung tay múa chân vừa gân cổ giật giọng hát: “Tí hâu! Mày lượn! Cho tròn! Sáng mai! Tao gả! Gà con! Cho mày! Tí hâu! Mày lượn…”. Chỉ có mỗi câu đồng dao dân dã ấy thôi mà chúng tôi cứ hát đi hát lại, mắt vẫn không rời đốm đen đang rình rập trên trời. Hát đến nóng rực cả người, khát khô cả cổ. Tiếng anh Lượng ré lên:
- Nó quắp được con mồi rồi!
Chúng tôi càng gào lên tưởng vỡ lồng ngực: “Tí hâu! Mày lượn! Cho tròn! Sáng mai…”. Tôi thấy rõ con diều hâu lao bổ xuống rồi lập tức vút lên ngay lên, dưới bụng nó có thêm một vật gì lủng lẳng. Chắc là con gà. Diều hâu xoãi cánh lao về phía chúng tôi. Mấy đứa càng la lối dữ tợn hơn. Cứ “Tí hâu mày lượn..” mà gào. Có lẽ con diều hâu nghe chúng tôi la hét, hoảng sợ quá nên khi băng qua đầu chúng tôi được một đoạn, nó để rơi con mồi. Cả ba chúng tôi cùng reo lên đắc thắng rồi ùa chạy đến chỗ con mồi rơi. Con diều hâu gan lỳ còn cố lao xuống định giành lại con mồi nhưng chúng tôi nhanh hơn, đông hơn, la lối om sòm hơn, cuối cùng nó phải nuốt hận bay đi. Đó là một con gà giò đen tuyền, bê bết máu, bị thương nặng nhưng vẫn còn sống. Tôi không còn biết sợ hãi là gì, chạy đến chộp lấy con gà đang đập cánh giãy giụa. Anh Lượng và thằng Điện cười tít mắt, vây quanh tôi xem con gà bị thương nặng nhẹ ra sao. Lưng nó, hai đùi nó, cổ nó, chỗ nào cũng sây sát, máu me. Nặng nhất là ở mạn sườn bên phải, thịt nát bấy, chắc là do móng vuốt của con diều hâu quắp vào. Anh Lượng và thằng Điện ở lại chăn trâu. Tôi bưng con gà chạy về nhà, lo tìm bông băng, thuốc đỏ bôi cho nó. Ở nhà, ai cũng ái ngại nhìn con gà, không tin là nó còn sống nổi. Mọi người bảo tôi chờ nó chết rồi đem chôn nó đi, chữa chạy làm gì cho mất công. Tôi nhất định chữa cho nó. Tôi bôi thuốc đỏ thật đẫm. Tôi lại xin được mấy viên suynphamít, cạo thành bột, rắc đều lên các vết thương. Vết thương khô dần, lành lặn dần. Chừng hơn một tuần sau thì con gà khỏi hẳn. Thịt nó liền lại, lông mọc dày thêm. Tôi đi bắt cào cào, châu chấu cho nó ăn. Tôi lén xúc trộm gạo, cơm nguội nhồi cho nó ăn căng diều. Nó lớn lên trông thấy, trổ mã đẹp ra từng ngày. Tôi lấy đoạn dây đồng, uốn cho nó một chiếc vòng xinh xắn đeo ở chân bên phải. Ban đầu nó thấy vướng víu, cứ lấy mỏ cố gỡ ra nhưng không được, sau quen dần. Tôi luyện cho nó quen với riêng tôi bằng cách đi đâu về, bao giờ tôi cũng đem quà cho nó. Lúc một xâu châu chấu được xâu chuỗi bằng một ngọn cỏ may, lúc mấy con tép mại… Dần dần nó bén hơi tôi, tôi đi đâu nó cũng lẵng nhẵng theo sau, có lúc đến phát bực. Đi đâu về, tôi chỉ cần gõ thanh tre vào cột nhà “cốc cốc” vài tiếng là nó chạy về liền. Quần nâu của tôi bám đầy cỏ may, nó đến bên, mổ cho kỳ hết, hạt nào hạt mẩy nó ăn, hạt nào lép nó nhả ra. Tôi ôm lấy nó, nựng yêu nó, nó rung cổ phát ra những tiếng cục cục nho nhỏ rất nũng nịu. Chỉ mình tôi là nó quấn quýt như thế. Những người khác không bao giờ bắt được nó.
Có tung thóc nhử cho nó ăn, nó cũng chỉ mon men ở vòng ngoài, vừa rón rén mổ thóc vừa canh chừng, hễ có gì đó hơi khác là nó ù té chạy. Nó rất mắn đẻ. Mỗi lần đẻ hơn hai chục trứng. Ngưng vài hôm lại đẻ tiếp đợt mới. Có một dạo tôi bỗng thấy tự nhiên nó có vẻ xa cách tôi. Mỗi lần đi học về, lấy thanh tre gõ cột đến mỏi tay cũng không thấy tăm hơi nó. Tôi tưởng nó dần quên tôi. Ai dè, hôm tôi đi mót thóc rụng ngoài ruộng về vừa lên tiếng “ cúc- cúc- cúc “ gọi cả đàn về khao cho chúng một chầu thì tôi bỗng sững người trước hiện tượng lạ lùng: con mái đen của tôi hãnh diện dẫn theo một bầy gà hơn chục con mới nở. Con vàng óng như tơ, con đen huyền như nhung, con nửa đen nửa vàng… Trông con gà mẹ có hao gầy hơn trước, bộ lông có xơ xác hơn, nhưng dáng đi thì bệ vệ, ung dung kiêu hãnh, ra dáng bà mẹ của một bầy con đẹp như tiên! Thì ra lâu nay nó đẻ đợt nào, tôi lấy trứng của nó đợt ấy, không cho nó ấp. Nó phải làm ổ, đẻ lén trong lùm dứa dại sau nhà rồi lặng lẽ nằm ấp. Bây giờ nó mới đem bầy con về trình diện với tôi…
Đàn gà hiện tại dẫn nhau ra kiếm ăn quanh cây rơm đầu nhà lại làm tôi liên tưởng đến những cây rơm trong quá khứ. Cũng chính chỗ cây rơm bây giờ, ngày trước là một cây rơm lớn hơn nhiều. Anh Lượng, thằng Điện và tôi hay quần nhau chí chạp ở đó. Chúng tôi rút rơm làm thành ổ, vật nhau chán chê rồi chơi trốn tìm. Khi đã mệt bã người, cả bọn mới chịu lún mình sâu vào chân cây rơm nằm khểnh tán dóc. Chẳng biết anh Lượng nghe ai kể từ lúc nào mà có nhiều chuyện hấp dẫn đến thế. Nhắc đến bất cứ chuyện gì anh đều có thể kể ngay một chuyện liên quan đến điều vừa nhắc đến. Chẳng hạn nói đến chuyện con chuột, anh liền kể chuyện chuột ăn vụng mỡ như thế nào… Dù mỡ nước có đóng vào chai nút kín, chuột vẫn có thể ăn vụng được. Nó gặm nút chai cho bật ra, sau đó ngoáy đuôi vào lọ mỡ cho mỡ dính đuôi, nó liếm sạch trơn rồi lại ngoáy đuôi vào lọ mỡ tiếp… Nó ăn trộm trứng mới tài. Một con ôm lấy quả trứng, nằm chổng vó để con khác cắn đuôi lôi về hang… Thằng Điện cừa nhắc chuyện đi hái nấm, anh Lượng liền kể vào rừng, muốn hái nấm, điều trước tiên là phải tóm ngay được mấy chú nấm canh gác rừng. Bởi vì những rừng có nhiều nấm mọc đều có những chiếc nấm được phân công canh gác ở cửa rừng như thế. Thường thì bọn nấm ngủ mê, ngủ mệt suốt ngày ở trong rừng. Chỉ có mấy chú nấm gác rừng là thức canh. Người đi hái nấm, nếu không biết điều đó, không tóm được ngay những chú nấm canh gác thì đừng hòng kiếm được một cây nấm nào. Họ vừa bước đến cửa rừng, những chú nấm canh gác lập tức báo động, la lối om sòm (tất nhiên là bằng thứ ngôn ngữ của loài nấm), thế là cả một rừng nấm trốn biệt, không còn lấy một mống. Người đi hái nấm chỉ có mà khóc dở mếu dở, về tay không. Nếu nhanh tay tóm gọn được bọn nấm gác cửa rừng ngay từ phút đầu thì tha hồ mà nhặt nấm. Bởi vì chúng vẫn còn không hay biết gì, ngủ li bì lăn lóc suốt đêm ngày mà! Chẳng biết điều lạ lùng ấy anh Lượng nghe ai kể và chuyện đó có đúng không nhưng cả tôi và thằng Điện đều thấy thú vị, cứ muốn nghe kể tiếp. Những câu chuyện linh tinh lang tang, đầu cua tai nheo được rì rầm kể suốt cả buổi tối trong đống rơm luôn hấp dẫn chúng tôi. Nhiều buổi tối, mấy đứa ngủ quên cho đến sáng, mãi đến khi lũ gà đi kiếm ăn nháo nhác, te tái cục tác ầm lên khi thấy lũ trẻ tranh mất chỗ của chúng, bọn tôi mới lồm cồm bò dậy, rũ rơm đứng lên. Ngày đó, do lăn lê bò toài suốt ngày trong rơm rạ, trong cây cỏ nên người tôi luôn có những con bọ đỏ bé xíu như những hạt cát rúc vào rốn, vào nách gây ngứa ngáy, buồn buồn, cái bệnh cố hữu của những đứa trẻ dân dã…
Còn biết bao kỷ niệm của Bãi Trại. Nhìn vào bất kỳ đâu, bất kỳ vật gì, từ gốc cây bụi cỏ đến gò đất, mảnh ao, đâu đâu tôi cũng thấy hiện lên những kỷ niệm của quá khứ.
Trời nhập nhoạng sắp tối, thím Minh trải chiếc chiếu ra giữa khoảng sân gạch. Chị Ngà tôi bưng mâm ra đặt chính giữa. Mấy đứa cháu nội của thím tranh nhau ngồi cạnh chị em tôi. Mùi thức ăn xào nấu thơm lừng. Chị tôi vừa xới được một bát cơm thì một con bướm nâu mỗi cánh to bằng nửa bàn tay ở đâu bỗng bay đến, chấp chới lượn vòng trên đầu mọi người. Thím Minh vui vẻ nói lớn:
- Bà ấy về đấy! Mẹ các cháu về đấy! Thím đã bảo mà! Mẹ các cháu thiêng lắm…
Cả nhà cùng ngửng lên, lặng lẽ, trang nghiêm dõi theo cánh bướm. Con bướm lượn qua lượn lại mấy vòng nữa rồi bay xa dần, lẫn vào trong bóng tối trước sự sững sờ vừa nuối tiếc, vừa thoáng sợ hãi của mọi người.
21. Suốt cả ngày hôm sau, hai chị em tôi đi thăm mấy gia đình quen biết quanh Bãi Trại. Những ngày kháng chiến chống Pháp, dân dưới xuôi tản cư lên đây đông đúc thế, nhà cửa san sát, vậy mà bây giờ vắng hoe. Mọi người đã kéo nhau về quê hết. Còn lại bây giờ chỉ toàn là dân gốc gác ở đây đã nhiều đời. Đường đi lối lại ngày xưa quang quẻ, sáng sủa, nay cỏ mọc tràn lan, chỉ còn là ngững lối mòn. Cây cỏ rậm rạp, tre pheo xơ xác. Đặc biệt là nhìn đâu chị em tôi cũng thấy mọi thứ đều nhỏ lại. Cánh đồng trước mặt kia, ngày trước trông rộng thế, xa thế, sao bây giờ trông quá gần, không lấy gì làm rộng lắm. Cây đa sau nhà ngày xưa cao thế, to thế, bây giờ chỉ là một cây đa rất bình thường. Bãi Trại ngày xưa rộng bao la, cỏ xanh mượt mỡ màng, chạy từ đầu bãi đến cuối bãi phát mệt, nay áng chừng chỉ khoảng hơn trăm bước chân, nhỏ bé đến không ngờ... Có lẽ ngày xưa còn bé, tất cả đều được nhìn qua đôi mắt trẻ thơ, tầm nhìn còn hạn hẹp, lại qua một lăng kính mơ mộng, huyền hoặc. Nay chị em tôi đã lớn thêm nhiều, đã đi qua thêm biết bao nhiêu vùng đất rộng lớn, to đẹp, đôi mắt đã từng trải. Nhưng dù thế nào chăng nữa, mảnh đất nhỏ bé mang tên Bãi Trại đang trải ra trước mặt hai chị em tôi đây, mãi mãi vẫn là mảnh đất thân thương, ruột thịt, nơi anh chị em tôi coi như quê hương thứ hai của mình. Gọi là quê hương thứ hai nhưng thực ra mảnh đất Bãi Trại này gần gũi, gắn bó với chúng tôi còn hơn cả Hải Dương quê chính. Gần suốt cả thời thơ ấu và niên thiếu chúng tôi đã sống ở đây. Hơn nữa, bây giờ mẹ tôi lại nằm lại đây vĩnh viễn…
Ông phó Đá đã mất từ lâu. Ngày xưa ông làm phó lý, tính rất hiền lành. Người ông thấp đậm, da đỏ au. Ông có tài chơi đàn bầu, nhiều người biết tiếng. Có những đêm khuya lắm, tiếng đàn của ông vẫn nỉ non thật buồn, hình như ông có niềm tâm sự sâu kín gì đó không dễ nói ra, đành gửi gắm, nhờ tiếng đàn nói hộ. Vườn nhà ông nay xơ xác, nhưng mấy cây ổi góc vườn vẫn còn. Ngày trước, mấy đứa nhỏ chúng tôi thường chui vào hái trộm ổi của ông. Con chó mực nhà ông rất dữ. Chúng tôi phải bày mưu: thằng Cảnh giả bộ lởn vởn đi qua đi lại phía cổng chính để thu hút con Mực về phía đó. Mấy đứa chúng tôi thừa cơ chui rào ở phía sau. Con Mực cứ sủa ầm ĩ ngoài cổng, còn chúng tôi yên chí hái ổi, rúc rích cười với nhau, vừa nhai ổi rau ráu vừa chê con Mực khờ khạo. Ông phó Đá không hẹp hòi gì, trái lại còn rất hào phóng với chúng tôi. Thỉnh thoảng thấy chúng tôi kéo nhau đi bẫy chim ngang qua, ông gọi vào cho cả một rổ con đầy ổi. Nhưng chẳng hiểu sao, chúng tôi vẫn thấy những trái ổi hái được bằng cách đánh lừa con Mực vẫn thơm đậm hơn nhiều…
Ông phó Mịch cắt tóc cũng đi về đâu không biết. Suốt những năm tháng ấu thơ, mái tóc chúng tôi đều do ông cắt. Cả một vùng Bãi Trại chỉ có mình ông là thợ cạo. Đồ nghề của ông đựng gọn trong một chiếc hòm con, một chiếc gương, một tấm khăn choàng màu cháo lòng cũ kỹ, một chiếc ghế đẩu cho khách ngồi. Vậy mà ông vẫn trương tấm biển tự kẻ lấy treo đầu hiên: “Cắt tóc Thủ Đô”. Suốt cả thời gian ngồi cho ông cắt tóc, tôi chỉ thấp thỏm chờ đến lúc gần cuối, ông bóp bầu hơi cao su, xì xì phun thứ nước không mùi lên mái tóc, lấy lược chải đi chải lại rồi đưa kéo lên một cách trang trọng cắt từng nhát kêu “cách cách… sựt sựt” nghe rất vui tai và cảm thấy thú vị vô cùng.
Chị em tôi đi ngang qua mấy thửa ruộng cao trồng khoai lang để đến thăm mộ ông bà Thơ, bố mẹ thím Minh. Ông bà là những người rất tốt, đã yêu thương đùm bọc gia đình tôi nhiều. Những ngày mẹ tôi ốm nặng, ông bà đã dành riêng cả một gian nhà rộng cho mẹ tôi tĩnh dưỡng, không nề hà bệnh tật lây nhiễm. Ông rất hiền lành, người gày sắt nhỏ bé, da nâu sậm, đầu hói, da mặt nhăn nheo đầy những vết hằn sâu khắc khổ. Ông rất ít nói, giọng nói trầm buồn. Ông nghiện thuốc lào nặng, suốt cả buổi tối chỉ ngồi hút thuốc lào rồi ho sặc sụa. Dứt cơn ho tưởng như xé phổi, ông lại tiếp tục hút. Ông yêu các con cháu bằng một tình yêu lặng lẽ, mộc mạc. Thấy các cháu thích câu cá, ông lẳng lặng ra mấy bụi hóp ven ao, chọn những cây đẹp nhất chặt về uốn, chuốt đến bóng lưỡng rồi cười tủm tỉm đưa cho các cháu, không nói thêm một tiếng. Ông làm diều, làm lồng chim chiều theo ý các cháu cũng bằng những cử chỉ như thế.
Tôi nhớ mãi cái lần tôi về thăm mộ mẹ tôi, nhân thể ghé qua thăm ông bà. Lúc đó ông bà đang thời kỳ khốn khó nhất. Cải cách ruộng đất, ông bà bị quy oan là địa chủ. Nhà cửa trong làng bị tịch thu hết, ông bà phải ra ở giữa cánh đồng, dựng tạm một căn nhà nhỏ không lớn hơn chiếc lều vịt bao nhiêu. Tôi cứ quanh quẩn hết đứng lại ngồi bên cạnh mộ mẹ tôi suốt từ trưa đến gần tối mới dám lẻn đến thăm ông bà vì sợ người làng trông thấy. Có người ở xa đến, làng xóm biết sẽ phiền cho ông bà. Vừa trông thấy tôi, ông ôm chầm ngay lấy rồi cứ thế lặng lẽ khóc không ra tiếng. Ông thì thào hỏi tôi: “Cháu đến đây có ai thấy không?”, tôi nói không, ông vẫn chưa yên tâm, lom khom bước ra ngoài sợ hãi nhìn bao quát khắp lượt. Rồi dưới ngọn đèn dầu tù mù, ông lúi húi nấu cháo gà cho tôi ăn. Con gà bé tý, chưa mọc đủ lông cánh duy nhất còn sống sót. Vừa moi ruột gà, ông vừa phân bua: “Cháu ăn tạm con gà nhép này vậy. Có mấy con, bị toi chết hết cả, còn mỗi mình nó. Chắc thịt còn tanh lắm”. Không còn gạo, ông lấy trong gầm chõng ra mấy cái chai. Tôi ngỡ ông tìm nước mắm hay muối gì đó nhưng không phải. Đó là mấy chai đựng hạt đỗ giống. Mỗi chai, dốc ra được chừng một nắm, nào đỗ xanh, đỗ đen, đỗ tương… Tôi vội giữ tay ông lại, can: “Để lại mà gieo ông à!”. Mồm ông méo xệch. Những nếp nhăn khắc khổ chằng chịt trên trán, trên mặt càng nhăn nhúm lại. Ông cố nuốt nước mắt: “Để ông nấu cho cháu ăn. Mấy khi cháu về đây với ông. Nhà chẳng còn một hột gạo nào… Biết đến bao giờ ông cháu mới lại được gặp nhau? Mà lần sau cháu về, chắc gì ông còn sống?”. Và quả nhiên, hơn một chục năm sau ông mất trong nỗi khốn khổ cùng cực. Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi được gặp ông.
Ngược hẳn với ông, bà Thơ lại ăn to nói lớn. Dáng bà cao ráo, trắng trẻo. Có lẽ ngày trẻ bà là một cô thôn nữ có nhan sắc. Về già, bà vẫn còn giữ được những nét sang cả. Bà thường mặc váy sồi đen dài, yếm lụa tơ tằm màu ngà. Bà yêu con cháu một cách nồng nhiệt, cư xử với mọi người một cách vồn vã, xởi lởi. Nhưng bà nổi tiếng là người có tài chửi nhau. Ai nói gì động chạm đến bà, con gà con qué lạc đâu mất, đứa nào chọc ghẹo cháu bà… bà đều chửi té tát. Chửi có bài bản, có vần điệu lên bổng xuống trầm. Nhiều khi bà vừa xắn váy quai cồng vừa nhảy chồm chồm, hai tay xỉa xói về phía trước y hệt mấy con ngỗng cái vươn những chiếc cần cổ dài ngoẵng xỉa xói nhau. Bọn tôi đứng nhìn bà chửi, ôm bụng cười thế là bà cũng bật cười, đuổi theo chúng tôi cười xòa. Mỗi lần chửi xong, bà lại cười nói vui vẻ, cứ như là chưa hề xảy ra chuyện vừa rồi.
Tính và có phần nhẹ dạ, ruột để ngoài da vì thế hàng xóm cũng không lấy đó làm điều, vẫn rất quý bà, vui vẻ chào hỏi mỗi khi gặp bà. Bà mất một cách đột ngột, dễ dàng, trong lúc đang chửi nhau. Hôm ấy, chẳng biết có ai đó nói động gì đến cháu trai bà, chỉ là trách cứ một việc nhỏ thôi, nghi thằng bé dắt trâu ngang qua ruộng, để quơ mất mấy dây khoai lang của họ. Chưa rõ thực hư thế nào, vừa nghe nói động đến đứa cháu, bà đã ra bờ dậu chửi ầm lên. Đang đến lúc cao trào, câu chửi bắt đầu có vần có điệu, bà bỗng chới với rồi ngã vật ra góc sân. Có lẽ máu hỏa đã bốc lên ngùn ngụt làm bà đứt mạch máu não. Ai cũng thương bà, thấy tội nghiệp cho bà. Cả làng đều đi đưa đám. Nghe nói hiếm có một đám ma nào đông như thế…
Đối với chị em tôi, ông bà Thơ rất yêu chiều. Trong những ngày khó khăn nhất, chúng tôi đã được ông bà và thím Minh yêu thương và đùm bọc rất nhiều. Về vật chất ông bà cũng không dư dả gì, không giúp đỡ gì bao nhiêu cho chị em tôi. Nhưng về tình thương thì tấm lòng của ông bà, của thím Minh thật chan chứa. Nghĩ về Bãi Trại, nghĩ về làng Thễ, không thể nào chị em tôi không nghĩ đến những người thân yêu đã trở nên ruột thịt ấy.
 Chị Ngà kêu mỏi chân. Hai chị em dừng lại, tìm một đám cỏ sạch để ngồi nghỉ. Cỏ may ghim chi chít trên hai ống quần của chị em tôi. Giá con gà mái đen ngày xưa bỗng hiện về nhỉ… Kỷ niệm tuổi thơ lại bàng bạc hiện về: chúng tôi đang sống giữa một không gian tràn ngập kỷ niệm. Nhìn đâu cũng thấy quá khứ. Quanh chúng tôi, những cây ké hoa vàng mọc rải rác. Giống cây này nhỏ bé, cao nhất cũng chỉ ngang bắp chân, có đặc điểm cây nhỏ nhưng có dáng rất cổ thụ. Thân cũng xù xì, nổi u, nổi bướu, dáng cũng xùm xoà la đà chẳng khác bao nhiêu với những gốc đa trăm tuổi. Tôi và anh Lượng hay lượm những hòn sỏi cuội nhẵn thín, những cục đá sỏi xù xì góc cạnh xếp thành những toà lâu đài nhỏ xíu ẩn dưới những vòm ké hoa vàng ấy. Chúng tôi đi bắt dế, bắt tổ ong ruồi về nuôi trong các toà lâu đài. Anh em tôi có thể nằm toài trên cỏ hàng giờ để ngắm nghía, sửa sang, phá đi xây lại cho đến khi thật mãn nguyện.
Rồi lại còn những thân cây sau sau thân trắng mốc, lá xẻ chân vịt kia nữa. Lá của nó vò nát có mùi thơm bạc hà dịu nhẹ. Những con sâu cước nổi gai xanh gai vàng trông hơi sợ nhưng thật ra rất hiền lành thường ăn lá sau sau, cho chúng tôi những sợi cước bền chắc để câu cá. Anh Lượng và tôi thường trèo lên cây, chọn mấy cành chĩa ngang chắc chắn trên cao, gác thêm lên mấy cây que làm thành một chòi canh, một chỗ nửa nằm nửa ngồi lý tưởng. Mỗi anh em tôi chiếm riêng cho mình một cây như thế. Có khi anh em tôi ở trên cây cả mấy tiếng đồng hồ, lúc mơ mộng ngắm mây trời, lúc tán dóc nói vống từ cây nọ sang cây kia, có lúc còn thó mấy cục đường phèn của bà tôi đem ra đấy nhấm nháp từng chút xíu một, cảm thấy sao mà ngọt, mà thơm đến thế. Gió trời lồng lộng, bóng lá râm mát xanh như ngọc, không gian thoảng hương bạc hà toả ra từ lá, từ nhựa cây óng vàng nhiều lần ru anh em tôi ngủ ngon lành trên lưng chừng cây mãi cho đến lúc có ai đó gọi mới chịu về.
Xa xa, về phía tay phải, dòng sông Máng hiện ra hiền hòa. Là một con sông đào nhỏ bé không có tên, chỉ được gọi nôm na là sông Máng nhưng đối với tôi, đó là con sông thân thiết nhất, gắn bó nhất so với tất cả mọi con sông trên đời. Sông nhỏ đến nỗi hai người đi trên hai bờ đê, nói chuyện với nhau không cần lên cao giọng vẫn nghe rõ. Vậy mà nó đã là dòng sông thân thiết trong tuổi ấu thơ của tôi. Chúng tôi đã lăn lê bò toài trên triền đê của nó. Chơi đánh trận giả quanh những lùm dứa dại dưới chân đê. Nằm thảnh thơi trên mình trâu, con trâu vừa gặm cỏ roàn roạt vừa thung dung chở bọn tôi đi rong trên triền đê thoai thoải. Ngược lên phía trên chừng ba, bốn cây số là ngôi trường nhỏ bé ngay gần bờ sông, đã có một thời gian ngắn anh em tôi học lớp một, lớp hai ở đó. Chính ở nơi này có một kỷ niệm tưởng như là một trò đùa của một người thầy hình như hơi không được bình thường nhưng đã để lại trong chúng tôi những ấn tượng vào loại mạnh mẽ, sâu sắc nhất, nổi bật hẳn lên giữa biết bao kỷ niệm bình thường khác. Thầy giáo tên gì, tôi không nhớ nữa. Người thầy cao gầy, còn vẻ mặt như thế nào tôi cũng không hình dung ra được rõ ràng. Vừa là do thời gian đã qua cả nửa thế kỷ, vừa là do ngày còn bé xíu tôi vốn nhút nhát, cũng giống như bao cậu học trò bé xíu nhút nhát khác có mấy khi dám nhìn tường tận mặt thầy. Trong buổi học, thầy kể về Trần Hưng Đạo đánh tan quân nhà Nguyên trên sông Bạch Đằng. Thầy dạy chúng tôi bài hát về dòng sông huyền thoại ấy: “Trên sông Bạch Đằng. Quân Nam ầm reo…”. Tuy còn nhỏ xíu nhưng cả lớp chúng tôi vừa hát vừa gào lên thỏa sức, tràn ngập lòng tự hào vì truyền thống cha ông: “Đây Bạch Đằng Giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, giống anh hùng Nam Bắc Trung. Trên trời xanh muôn sắc đua chen bóng ô. Dưới đáy dòng nước ánh sáng vẩn vơ nhấp nhô…”. Lòng đầy náo nức, hừng hực khí thế quật khởi, chúng tôi ào ào ùa chạy ra khỏi lớp. Thầy cho phép chúng tôi xô nhau nhảy xuống lòng sông đã cạn nước chỉ còn ngang bắp chân, thi nhau hò hét, té nước vào nhau loạn xạ. Mình mẩy đứa nào đứa nấy ướt đầm đìa nhưng vẻ mặt thì rạng ngời. Chúng tôi tưởng như mình đang là những chiến binh nhà Trần của mấy trăm năm về trước, vừa ào lên như vũ bão thét vang: “Sát Thát! Sát Thát!” vừa gào đến vỡ ngực: “Trên sông Bạch Đằng. Quân Nam ầm reo…”. Sau trận thủy chiến lừng danh ấy, chúng tôi không bao giờ được gặp lại thầy giáo nữa. Sau này nghe kể lại, tôi mới biết là thầy bị khiển trách và thuyên chuyển đi nơi khác. Vậy mà đối với lũ nhỏ chúng tôi, trong suốt cả cuộc đời, có lẽ đó lại là một buổi học lý thú nhất, để lại những ấn tượng đậm đà nhất về hình ảnh người thầy và nhà trường…
Đưa mắt lướt một vòng qua con đê, dần quay về bên trái, chị em tôi bắt gặp nóc nhô cao lên của ngôi nhà gác ấp Bình Chương của ông bà Thượng tôi. Ngôi nhà với mái ngói đỏ ngả vàng cam vượt hẳn lên trên rặng tre nửa vàng nửa xanh xùm xòa. Ở đó đã từng sống cả một đại gia đình chúng tôi. Có biết bao kỷ niệm đẹp đẽ đã từng qua đi ở đó. Những buổi tối cả nhà quây quần, vang lên những chuỗi cười bất tận. Anh Hiệu, anh thứ ba của tôi, sau chị Trọng và chị Ngà, có nhiều năng khiếu văn thơ. Anh rất thông minh, học giỏi, hồi đó anh hay làm những bài thơ vui kể lại những chuyện xảy ra quanh mình. Bất cứ chuyện gì, bất cứ cảnh sắc nào, anh cũng có thể đưa được vào những vần thơ giản dị và hóm hỉnh của mình. Chính nhờ những vần thơ đó mà bây giờ, sau gần năm mươi năm, anh em tôi vẫn có thể hình dung ra rất rõ những câu chuyện cũ, mà nếu không có thơ anh ghi lại thì không thể nào hình dung ra nổi. Những vần thơ vui, còn rất non nớt nhưng lại thật cụ thể, sinh động. Cả nửa thế kỷ đã qua rồi, nhưng qua những vần thơ vui của anh làm lúc tám, chín tuổi, một buổi tối vui bất tận ở ấp Bình Chương vẫn hiện lên rõ mồn một: “Hôm nay bà Bá đã lên. Cả nhà vui vẻ huyên thuyên chuyện trò.Người nói nhỏ, kẻ nói to. Sáu người to lớn nằm co trên giường. Bỗng nhiên giường gãy lạ thường. Đánh đùng một cái bên tường tung ra. Cô Mai, cậu Lượng đó à? Cô Thế, cô Lệ cùng bà Đốc Khang. Cô Bảy dưới bếp vội vàng. Chạy lên ôm lấy cô nàng Chi Mai. Chú Minh thì bị ở tai. Thành ra nằm ở giường ngoài mà đau…”.
Chẳng là hôm ấy bà Bá, chị ruột của ông nội tôi từ dưới Hải Dương mới lên. Cả nhà quây quần vui vẻ. Đang rôm rả chuyện trò, bỗng chiếc giường gãy chân vì người nằm, người ngồi quá nặng… Bài thơ mang tính chất nhật ký này, anh Hiệu cùng với bố tôi “ứng khẩu” ngay tại chỗ. Người được nhắc đến đầu tiên trong bài thơ là bà Bá của tôi. Bà tên thật là Phúc, chị cả của mấy ông bà họ nội tôi, theo thứ tự tên chữ: Phúc, Thọ, Khang, Ninh. Bà không lấy chồng, suốt đời chịu ở vậy để trông nom, cai quản giúp cho cơ nghiệp của em gái bà là Thượng. Tôi chưa thấy ai thuộc truyện Kiều và đặc biệt là vận những câu Kiều vào mọi mặt của đời sống thường nhật một cách tài tình như bà. Bất cứ chuyện gì, dù lớn hay nhỏ, bà cũng vận mấy câu Kiều vào được, vận tức thì, chính xác, dung dị như vốn sự việc đòi hỏi phải được diễn đạt như thế chứ không thể khác. Không biết vì lý do gì, trong hàng các cháu, tôi được bà yêu quý nhất. Bà thường ôm tôi vào lòng xuýt xoa: “Cháu nõn của bà!”. Những ngày còn một, hai tuổi, có một thời gian dài tôi được sống với bà, có một người vú nuôi ngày ngày bế ẵm, chăm sóc tôi. Còn bé quá, tôi không nhớ được gì nhiều về những ngày xa lơ xa lắc đó…
Cũng ở ấp Bình Chương, còn một chuyện làm tôi khó quên. Hôm ấy, cả nhà đang quây quần ăn sáng. Bà Thượng tôi từ buồng trong đi ra, giọng buồn buồn lo lắng nói với ông Thượng tôi: “Ông ạ. Tự nhiên tôi thấy lo quá. Đêm qua tôi nằm mộng thấy thằng Hy nó về. Đầu nó quấn băng trắng, máu me đầm đìa hết cả. Nó cứ ôm đầu kêu: “Mẹ ơi, con đau đầu quá!”. Không biết là điềm gì? Liệu nó có làm sao không ông?”. Ông Thượng tôi cười, gạt đi: “Bà chỉ khéo nghĩ vẩn vơ! Không có chuyện gì đâu! Lâu không có tin tức nó, bà mong nhiều nên nằm mộng đó thôi!”. Nhưng kỳ lạ làm sao! Khoảng một tuần sau, có tin dữ từ Hưng Yên đưa lên: Bác Hy tôi đã tử trận! Ông bà tôi tính lại, bác tôi hy sinh vào đúng cái ngày bà tôi nằm mơ thấy bác ôm đầu trở về. Tin tức cho biết bác tôi đã chỉ huy tiểu đoàn của mình chống trả một cách vô cùng oanh liệt một lực lượng thiện chiến của địch. Quân địch quá đông, gồm lính ngụy và rất đông lính Âu Phi trang bị cực mạnh. Lực lượng quá chênh lệch, quân ta chiến đấu rất ngoan cường, nhưng cuối cùng phải vừa đánh vừa rút. Bác Hy tôi là tiểu đoàn trưởng, cùng với một tiểu đội nòng cốt, cố thủ đánh trả quyết liệt. Các chiến sĩ hy sinh gần hết. Bọn Tây đen rạch mặt ào lên định bắt sống bác tôi. Đạn hết, không để chịu sa vào tay giặc, còn viên đạn cuối cùng, bác tôi đã giơ súng lên ngang đầu, bóp cò tự sát. Cái chết lẫm liệt đó đã lan truyền đi khắp các chiến trường. Nơi bác tôi ngã xuống thuộc huyện Văn Giang, Hưng Yên năm 1948 ấy, tên xã được mang tên bác tôi: Lê Tôn Hy..
Tôi đang miên man suy nghĩ, chợt chị Ngà nắm tay tôi khẽ lắc:
- Lát nữa chị em mình vào làng thăm anh chị Trí em nhé. Ngày mẹ còn sống, anh Trí quý mẹ và chị em mình lắm đấy. Chính anh là người phụ trách thiếu nhi đầu tiên kể từ khi chị em mình bắt đầu biết đi sinh hoạt thiếu nhi thời kháng chiến chống Pháp đấy em ạ. Mấy lần đi sinh hoạt về khuya, chị em mình bị mẹ la, anh Trí phải xin cho đấy. Hôm mẹ mất, em bị ốm, chính anh Trí là người cõng em đưa mẹ ra đồng. Cho đến bây giờ, nghe thím Minh nói, anh vẫn sống vất vả lắm.
Hai chị em tôi bùi ngùi nhớ lại những kỷ niệm cũ. Bãi Trại, làng Thễ, ấp Bình Chương, Yên Thế… Câu hát cũ lại vang lên trong tâm trí tôi “Nhớ ai trên mấy đồi Yên Thế…”. Bây giờ tất cả chỉ còn là dĩ vãng…
22. Đang trong giờ học, cả lớp đang chăm chú nghe cô Kim giảng toán, chợt trời bỗng tối hẳn lại. Gió từ đâu bỗng ào ào thổi về, vít cong những ngọn tre, rồi cứ thế mà lay lắc hành hạ chúng. Những ngọn tre rũ rượi bị gió quần đảo, lúc ngả rạp xuống, lúc bị giật ngược trở lại, vật vã, lử lả… Gió chỉ ngừng quay cuồng khi mưa bắt đầu rơi. Ban đầu mưa còn thưa thớt, lộp bộp ít giọt, sau nặng hạt dần và cuối cùng ào ạt, xối xả, đất trời mù trắng hơi nước. Tiếng mưa à à, đều đều, có một cái gì đó thật trang trọng. Xa xa, lục bục tiếng sấm, rồi tiếng sấm di chuyển tới gần, nổ vang rền ngay trên đỉnh đầu.
Thằng Bảo huých khuỷu tay vào sườn tôi, hí hửng nói khe khẽ:
- Mưa mới đấy! Chốc nữa về, tha hồ bắt cá rạch nước lên bờ!
- Cá rạch nước là cá gì? - Tôi ngớ ngẩn hỏi.
Thằng Bảo làm ra vẻ bí mật, cười thích thú:
- Chốc nữa mày sẽ biết!
Nó cười to quá khiến cô Kim để ý. Cô nhắc:
- Bảo! Không được nói chuyện. Làm bài đi!
Bảo lè lưỡi, rụt cổ, nháy mắt với tôi rồi mới cắm cúi làm bài tiếp.
Kẻng vừa vang lên, nó đã nhét vội sách vở vào cặp, nhấp nhổm chờ lớp trưởng Đoàn Thao hô “nghiêm!” chào cô giáo xong là ù té chạy. Nó bảo tôi phải thật nhanh chân không bọn chúng nó bắt hết mất. Chưa biết cá mú thế nào, chỉ mới chứng kiến bộ dạng nôn nóng của nó, tôi đã thấy có vẻ hấp dẫn. Cô Kim vừa ra khỏi lớp, thằng Bảo vội kéo tay tôi chạy theo nó.
Có ra ngoài đường mới thấy cơn mưa vừa rồi lớn đến thế nào. Nhìn xung quanh đều lênh láng nước. Cả cánh đồng ven thị xã trắng xóa nước ngập, chỉ đây đó nhô lên ít thửa ruộng cao, loáng thoáng màu xanh lơ phơ của cỏ. Nước ngập mặt ruộng, tràn lên cả đường cái. Con đường đất đỏ róc rách nước chảy. Bảo nhảy từ vũng nước này sang vũng nước khác, giậm chân cho nước bắn tung tóe. Quần áo nó ướt sũng. Mắt nó sáng lên, giơ tay chỉ xuống mặt đường:
- Thấy chưa? Thấy chưa? Tao đã bảo mà! Cá nhiều quá đi mày ơi!
Khắp mặt đường lấp lánh ánh bạc. Những con cá rô ron đang rạch nước lách mình bơi đi. Nước trên mặt đường xâm xấp, chúng mắc cạn, cứ ngoắt đuôi, uốn mình lách lên phía trước. Những tia nước nhỏ xíu bắn lên cùng với tiếng nước roàn roạt, roàn roạt. Nhìn những con cá rô nhỏ bằng ngón tay, có con bằng hạt bưởi, lườn vàng nhạt ánh xanh, vây và xương còn mềm, khi nằm gọn trong lòng tay tôi, chúng rúc rúc chỉ buồn buồn chứ chưa thấy đau, tôi thương chúng quá. Tôi cúi xuống bắt một cách chểnh mảng. Nhiều lần, tôi gạt chúng trở lại ruộng, cho chúng vui vẻ cuốn theo đàn. Bảo vẫn nhảy choi choi trên đường, liên tiếp tóm hết con này đến con khác. Nó chỉ cho tôi cách xâu cá bằng cọng cỏ may, mỗi cọng cỏ xâu được cả chục con. Khi thấy mình được mấy chục xâu rồi mà tôi mới chỉ có vài xâu, nó chê:
- Sao mày dở quá vậy? Bắt cá loại này dễ ợt mà!
Tôi chỉ cười trừ không thanh minh. Tôi vẫn tiếp tục gỡ những chú cá ngờ nghệch vướng trong cỏ, thả lại xuống dòng mương. Thấy Bảo vẫn hăng hái quá, còn vừa tóm cá vừa nghêu ngao hát nữa, tôi gàn nó:
- Thôi Bảo ạ. Bắt thế nhiều quá rồi. Cá nhóc con này, ăn chẳng bõ!
Bảo trợn mắt:
- Mày ngu quá trời ngu! Cá rô là ngon nhất hạng! Về rán giòn, Trời cũng phải mê! Rồi mày xem!
Tôi thoái thác không bắt nữa bằng cách nói mình thấy gây gấy khó chịu. Mà đúng như thế thật. Quần áo tôi ướt rườn rượt, người ớn lạnh, hai cánh tay nổi da gà. Bảo đành phải bỏ cuộc. Vừa ra về, nó vừa ngoái lại nhìn con đường xâm xấp nước vẫn lấp lánh ánh bạc, vẻ tiếc nuối. Nó bảo tôi:
- Tối nay lại đi bắt ếch nữa nhé! Mưa này, ếch ra nhiều phải biết!
Chưa tối mà thằng Bảo đã rối rít chuẩn bị đủ thứ: nào giỏ, nào đuốc, nào áo mưa… Vừa đập giập mấy khúc nứa để làm đuốc, nó vừa nghếch mặt hỏi tôi:
- Hồi ở Yên Thế, cũng là nông thôn, mà sao mày lại không biết đi bắt ếch đêm nhỉ?
- Dạo đó mình còn nhỏ, ông bà mình cấm không cho dầm mưa nhiều. Ban ngày, chăn trâu kiếm củi thì tha hồ thoải mái, còn đêm hôm mưa gió trốn đi chơi khó lắm.
- Vậy thì tối nay tao sẽ cho mày biết thế nào là đi bắt ếch đêm mưa!
Nó cười khà khà, ra cái điều ta đây sành sỏi lắm.
Về tối, trời lại bắt đầu lắc rắc mưa. Bảo gật gù:
- Đúng là Trời phù hộ mình! Thời tiết này, bọn ếch chỉ có chết!
Cứ tưởng chỉ mình bọn tôi biết thời cơ đi chộp ếch. Vừa ra khỏi nhà, đã thấy khắp cánh đồng chấp chới ánh lửa. Đồng cao đồng thấp, đâu đâu cũng lập lòe ánh đuốc. Bảo vừa chạy gằn vừa hối thúc tôi:
 - Nhanh chân lên mày ơi! Chúng nó bắt hết mất. Láo thật! Chúng nó láo thật!
Tôi bật cười vì câu trách vô lý của Bảo. Mình đi bắt. Người ta cũng đi bắt. Đường ai nấy đi, sao lại bảo người ta láo? Bảo vẫn bước thấp bước cao, lội bì bõm trong nước, miệng lẩm bẩm bực bội. Nó bỗng lộn trở lại, níu áo tôi cùng theo:
- Đi, ta lên cánh đồng màu, ngon ăn hơn mày ạ! Bọn chúng nó ngu, ra giữa đồng nước ngập, chỉ có mà ăn cám!
Được mấy bước, nó lại bảo tôi:
- Dụi bớt bó đuốc của mày đi, khỏi lãng phí. Đề phòng “đánh” lâu dài. Mà mày để ý nhá! Kẻo đạp phải rắn là toi đời! Rắn thấy ánh lửa, thường “theo đóm ăn tàn” mà!
Nghe nó nói, tôi thấy chờn chợn, bước đi không được mạnh dạn như trước. Nhận ra điều đó, nó trấn an tôi:
- Nói vậy để mày đề phòng thôi chứ rắn ở đâu ra mà nhiều đến thế! Năm thì mười họa mới gặp bọn nó thôi, mày đừng lo!
Nó lại cười hì hì, đế thêm:
- Có lão mỗ đây, mày lo gì!
Nó nói cũng phải. Có nó, tôi thấy yên lòng vô cùng. Thấp thoáng phía trước đã thấy lờ mờ hiện ra mấy dải bờ cao màu nâu non, được ánh đuốc láng lên một lớp ánh vàng. Tiếng ếch nhái cùng vô vàn tiếng côn trùng khác râm ran khắp cánh đồng. Tiếng ọc ọc, ộp ộp, oạc oạc, ẹc ẹc… thi nhau tấu lên hòa quyện vào nhau tạo nên thứ âm thanh rạo rực đặc biệt của đồng quê vào đêm. Giữa những âm thanh đều đều, triền miên ấy, thỉnh thoảng lại nổi bật lên tiếng “ộp ộp” trầm đục nhưng rất vang, đầy uy lực. Bảo giật tay tôi, thì thào:
- Một lão ếch cụ, mày thấy không? Phải to bằng hai bàn tay úp chứ không ít! Mày cầm đuốc soi để tao tìm kiếm lão!
Tôi giơ cao nắm đuốc, lửa phừng phừng cháy, soi rõ cả một vùng rộng. Những luống khoai lang, khoai sọ vun cao, rãnh lõng bõng nước, sáng loang loáng. Ba bốn cặp ếch cõng nhau ngồi trên các luống khoai, giương những đôi mắt tròn xoe nhìn ánh lửa. Chúng như bị ánh sáng thôi miên, cứ ngây ra nhìn, không động cựa. Bảo lò dò vòng ra phía sau, rón rén đến bên, chúng vẫn không hay biết. Mấy cặp ếch bị Bảo tóm gọn một cách êm ru. Dưới ánh lửa, đây đó ánh lên những đốm sáng lấp lánh của những đôi mắt ếch. Hai đứa tôi cứ bì bõm lội hết thửa ruộng này sang thửa ruộng khác, mê mải tìm kiếm những con ếch ngờ nghệch. Bó đuốc sắp tàn, tôi châm bó khác đốt tiếp, lòng thầm phục thằng Bảo dày dạn kinh nghiệm. Nếu ban nãy không dụi bớt một bó thì giờ này chắc phải bỏ dở ra về… Càng về khuya, tiếng ếch nhái càng rộ lên, càng vang xa. Thấy Bảo chõm ếch quá dễ dàng, tôi cũng hăng hái, nói Bảo soi đuốc cho tôi bắt. Lúc đầu, tôi vừa hồi hộp vừa lúng túng, bắt hụt mấy lần. Sau bình tĩnh hơn, tôi đã nhắm cặp nào là tóm gọn cặp ấy, Bảo cũng phải khen là tôi tiến bộ nhanh. Khi đuốc gần tàn, tôi nói Bảo ra về, nó cứ nấn ná không chịu. Bắt đang ham, bỏ về nó tiếc.
Thấy Bảo bắt được nhiều quá, bỗng nhiên tôi thấy buồn buồn, thương cho lũ ếch. Tội nghiệp chúng nó. Vì thế, cứ thấy Bảo lò dò sắp sửa tóm được một con nào đấy, tôi lại cố ý dậm mạnh chân hoặc búng một viên đất nhỏ đánh động cho con ếch nhảy thoát. Mấy lần như thế, thằng Bảo phát hiện ra, nó la toáng lên:
- Mày có bị khùng không đấy? Để yên cho tao bắt!
- Bắt được nhiều rồi. Thôi đi mày ạ. Tao thấy tội nghiệp cho chúng nó… - Tôi mủi lòng, nói nhỏ.
- Trời ơi! Tội với chả nghiệp! Mày mềm yếu thế sau này đời mày sẽ khổ, tao nói trước cho mày biết! Thôi, cứng rắn lên! - Nó lên giọng kẻ cả rồi lại ngoác miệng ra cười.
Tôi chỉ ra xung quanh cho nó thấy mọi người cũng đã về nhiều rồi. Chỉ còn đây đó rải rác vài đốm sáng. Nói mãi, Bảo mới chịu ra về, nhưng mồm vẫn lẩm bẩm hậm hực. Hai giỏ ếch trĩu nặng, xệ xuống bên hông hai đứa. Bọn ếch đạp loạn xạ, càng làm cho giỏ có vẻ nặng hơn. Dây buộc giỏ quàng qua eo bụng, mỗi lúc bọn ếch quẫy đạp, càng xiết chặt lại làm tôi đau nhói. Lội ì oạp trên những bờ ruộng ngập nước đem lại cho tôi cảm giác thú vị vô cùng. Tôi cảm thấy mình thực sự cứng cáp, sức mình cũng dẻo dai chẳng kém gì thằng Bảo. Tôi đang lan man nghĩ ngợi thì Bảo hỏi to:
- Mày thích ăn kiểu gì? Kho, rán giòn hay nấu canh măng?
- Món gì cũng được. Nhưng ăn sao hết hai giỏ đầy? Hay mang sang biếu cô Kim mấy xâu Bảo ạ.
- Mày nói chí phải! Tao cũng đang định thế. Đúng là chí lớn trong thiên hạ thường gặp nhau! - Bảo cười khanh khách, tự thưởng cho câu nói hóm hỉnh của mình. Rồi nó nói tiếp - Nhưng trước hết về bắt thằng Nam thịt ếch, đặt nồi cháo, lót dạ một chầu cho ấm bụng cái đã. Tao đói run người lên đây này! Cháo ếch là tuyệt lắm đấy mày nhá! Bổ nhất hạng!
Tôi lại cười thầm. Sợ nó tự ái nên không dám cười to. Cái gì nó cũng bổ nhất hạng! Cháo cá bổ nhất hạng. Nước cơm bổ nhất hạng. Giờ lại đến cháo ếch! Tôi chưa nghe ai nói nấu cháo ếch bao giờ.
Đêm chắc cũng đã khuya lắm. Trời tạnh mưa từ lâu. Bầu trời đen thẫm, lộ ra những vì sao sáng long lanh. Đây đó, mấy đám mây đứt chân nối nhau trôi bồng bềnh. Mây này, mưa đổ xuống ào ào bất cứ lúc nào. Hai đứa tôi nhanh chân chạy về, băng qua mấy thửa ruộng ngập nước. Gần đến nhà thì đuốc tắt. Cứ tưởng phải lần mò đi một cách khó khăn, không ngờ đuốc tắt, đường lại có vẻ dễ đi hơn. Cả không gian bàng bạc một thứ ánh sáng mờ mờ xanh dịu. Những đám mây nổi rõ hơn, trắng hơn. Tiếng côn trùng vẫn râm ran, rỉ rả, âm vang rất xa. Ánh đèn phía trước dâng lên, hạ xuống, như ra hiệu mời gọi. Tiếng anh Nhu hỏi to:
- Thằng Bảo, thằng Thiện đó hả?
- Vâng, bọn em thắng lớn trở về đây! - Bảo phởn chí, gào lên.
- Thắng, thắng cái gì? Về nhanh lên! - Tiếng anh Nhu bực dọc.
Bảo huých vai tôi:
- Chết rồi! Anh Nhu bực mình rồi!
Chúng tôi len lén đi đến bên anh Nhu. Giọng anh vẫn trách móc:
- Tưởng đi một lúc rồi về chứ ai cho hai đứa đi suốt đêm như thế?
Không đứa nào dám hó hé, chỉ lẳng lặng cởi dây đeo giỏ, đặt nhẹ xuống cạnh bậu cửa. Hình như anh Nhu cũng cảm thấy mủi lòng khi thấy hai đứa tôi ướt lướt thướt nên giọng anh có dịu đi:
- Thôi, đi rửa ráy chân tay rồi thay quần áo đi. Mai đứa nào mà lăn ra ốm, anh kỷ luật thẳng cánh, đừng có trách đấy nhá!
Thấy không khí đã bớt căng thẳng, thằng Bảo lại tí tởn:
- Nhiều ếch lắm anh ạ. Con nào con nấy béo mầm. Ngày mai em lại đi nữa…
Anh Nhu cốc vào đầu nó:
- Đấy! Đấy! Lại chứng nào tật nấy! Mới nói xong đã lại đi nữa, đi nữa!
- Em quên, hì hì, em quên! - Bảo cười xí xóa.
Anh Nhu quát lên nhưng giọng đầy âu yếm:
- Thôi, rửa ráy chân tay đi, khuya lắm rồi! Trông kìa, bùn đất lấm lem, trông có khác gì thằng hề không?
Anh cười. Được thể, thằng Bảo cũng cười phá lên. Nó cố rặn ra mà cười, cố tình cợt nhả. Thấy anh Nhu vui vẻ, thế là nó tía lia cái miệng, kể lại toàn bộ chuyến bắt ếch. Trong câu chuyện, chỉ có mình tôi biết là nó có phóng đại lên khá nhiều. Nhưng thôi, tha cho nó. Những chuyện nó phóng đại, chỉ cốt để cho câu chuyện thêm ly kỳ hấp dẫn, hoàn toàn vô hại, có thể chấp nhận được. Tôi mủm mỉm nghĩ như thế…
23. Thấm thoát thế mà đã hết năm học, đến kỳ nghỉ hè. Tôi nói với anh Nhu cho tôi về thăm nhà ít ngày rồi sẽ lên đi làm công trường nhà máy xay với anh. Trường Phổ thông lao động của thầy Tín cũng nghỉ hè, các học viên về hết, việc phụ bếp của tôi cũng tạm ngưng.
Tôi về nhà, mọi người đi vắng cả, chỉ có bố tôi đang đứng vặt lông gà. Tôi ngỡ ngàng nhìn bố tôi. Bố tôi lấy sợi dây thừng buộc cổ con gà, treo lên xà ngang, để con gà lủng lẳng ngang tầm tay rồi cứ thế bố tôi đứng vặt lông. Tôi ngạc nhiên hỏi bố tôi:
- Cậu làm gì thế? Sao cậu lại vặt lông gà kiểu đó?
Bố tôi cười lúng túng:
- Con gà nó bị rù. Cụ Trưởng Nhung sang chơi, bảo phải thịt ngay kẻo nó chết phí hoài. Cả nhà đi vắng cả, chẳng biết làm thịt thế nào, tôi cứ vặt lông trước…
Tôi kêu lên:
- Trời ơi! Trước khi vặt lông thì cậu phải cắt tiết đã chứ! Phải đun nước sôi, nhúng gà vào rồi mới vặt…
Bố tôi cười hiền lành:
- Nào tôi có thịt gà bao giờ đâu mà biết!
- Cô con đâu hở cậu? - Vừa cởi sợi dây thừng ra khỏi cổ con gà, tôi vừa hỏi sang chuyện khác.
- Bà ấy xuống cậu Nhã ăn giỗ. Mấy đứa nhỏ cũng xuống đó. Anh Hiệu đi học cả ngày, tối mới về. Thế anh được nghỉ hè rồi à?
- Vâng. Con bắt đầu được nghỉ từ hôm qua. Con định xin phép cậu cho con nghỉ ở nhà mấy hôm thôi, rồi con lại đi làm ở nhà máy xay với các anh trên đó.
Bố tôi ngạc nhiên:
- Con còn ít tuổi, đã có nghề nghiệp gì đâu mà đi làm nhà máy xay?
Tôi giải thích cho bố tôi rõ:
- Không phải đi làm công nhân nhà máy đâu cậu ạ. Nhà máy mới bắt đầu xây dựng. Bọn con chỉ làm tạp vụ thôi. Nghĩa là đi chở vôi cát, xi măng, nguyên vật liệu…
- Nhưng việc ấy còn nặng nhọc hơn là làm công nhân chính thức…
Bố tôi định nói gì thêm nữa nhưng rồi ngập ngừng không nói. Tôi biết tâm trạng khó nói của bố tôi. Từ lâu, tôi rất hiểu là bố tôi rất thương tôi, rất áy náy, day dứt khi thấy tôi vất vả làm thêm để lấy tiền ăn học. Thực lòng, bố tôi không muốn tôi phải vất vả như thế, nhưng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn quá, bố tôi không đủ sức cáng đáng, đành chấp nhận để tôi đi làm thêm. Vả lại, bố tôi cũng biết tính tự lập cao của tôi. Ngay từ bé, tôi luôn tự mình làm lấy mọi việc, rất ít khi dựa dẫm vào người khác.
Tôi ngồi, cằm tỳ trên đầu gối, vừa nhúng gà vào chậu nước nóng, vặt lông, tôi vừa nghĩ lan man về bố tôi. Ngày xưa, bố tôi là con nhà giàu. Ông bà nội tôi làm đại lý rượu, có mấy cửa hàng ở thị xã Bắc Ninh, Bắc Giang, Đáp Cầu, Thị Cầu… Bố tôi được ăn học đầy đủ, chu đáo, đã có bằng tú tài thời Pháp. Tiếng Pháp và tiếng Anh bố tôi rất giỏi. Tôi đã được trông thấy tận mắt những tập bài làm tiếng Pháp, tiếng Anh của bố tôi, bài nào cũng được 20 điểm trên 20 với lời phê: “Très bien”. Thời trẻ, bố tôi nuôi nhiều khát vọng. Sau khi sinh con đầu lòng là chị Trọng tôi, bố tôi đã bỏ vào Sài Gòn, chờ ngày sang Pháp. Ông bà nội tôi muốn bố tôi ở nhà để quản lý cơ nghiệp vì bố tôi là con một. Nhưng bố tôi không muốn đi theo con đường làm ăn buôn bán mà muốn đi du học ở nước ngoài. Bố tôi có nhiều xu hướng thiên về văn chương, xã hội. Qua một số sách vở còn lưu giữ lại được của bố tôi, tôi biết bố tôi rất ham mê văn chương và có làm một số bài thơ. Bố tôi rất am tường văn học Pháp. Ông đọc tất cả qua nguyên bản. Ngày còn nhỏ xíu, tôi đã từng nghe bố tôi ca tụng Victor Hugo, Bandắc, Môpatxăng, Phơlôbe, Stăngđan… Bố tôi thuộc làu các bài thơ của Satôbriăng, Lamactin, Apôline… Trong lúc bố tôi đang ở nhờ nhà người bạn bên Khánh Hội, chờ ngày lên tàu đi Pháp thì nhận được điện tín báo tin ông nội tôi ốm nặng, gia đình gọi bố tôi về. Thế là mộng du học đành bỏ dở. Bố tôi trở thành người chủ chính trong gia đình, lo cai quản sản nghiệp. Cũng nhờ đó, mấy anh chị em tôi mới tiếp tục ra đời, cứ một năm một hoặc ba năm đôi, đến tôi là thứ năm. Sau tôi còn ba em nữa nhưng đều mất sớm, tôi trở thành con út.
Trong đời sống, bố tôi không phải là người tháo vát, biết lo liệu. Mấy lần chung vốn làm ăn nghe nói đều bị người ta lừa gạt. Cho đến cuối đời, sau bao nhiêu biến đổi của thời cuộc, bao nhiêu gian truân của đời sống, hầu như tính cách “con nhà giàu” trong bố tôi vẫn không hề thay đổi. Bố tôi vẫn chưa hề biết nấu một nồi cơm, chưa hề biết làm một món ăn, ngay cả kho một nồi thịt hay luộc một nồi rau đơn giản. Để bù lại những khiếm khuyết về cuộc sống thường nhật ấy, bố tôi vẫn ung dung giữa mọi người nhờ lòng tốt, sự hồn nhiên vô tư, quan hệ quảng giao với mọi người. Ở bất kỳ nơi đâu, bố tôi cũng có nhiều bạn bè. Những ngày gia đình tôi còn sung túc, tôi nhớ không hôm nào là nhà tôi không có khách. Người ở chơi một vài hôm, có người ở chơi cả tháng trời. Bố tôi có rất nhiều con nuôi. Có lần bố tôi bảo, suốt trong Nam ngoài Bắc, đâu đâu bố tôi cũng có người quen thân. Sau này lớn lên, tôi muốn đi đâu, bố tôi chỉ cần viết mấy chữ, vậy là tôi tha hồ tung tẩy, có người đưa kẻ đón, không bao giờ lo đói. Anh chị em tôi thừa hưởng được ở bố tôi có lẽ gia tài lớn nhất là tấm lòng yêu quý đối với mọi người. Hầu như cả đời bố tôi không hề thù ghét ai, không hề nói xấu ai. Đối với bất cứ ai, bố tôi đều quý mến, giúp được gì cho họ, bố tôi đều sẵn lòng giúp hết mình. Ai cũng yêu quý bố tôi. Bố tôi ở đâu là có tiếng cười ở đó. Đặc biệt trong gia tộc, bố tôi là mối liên kết giữa mọi người. Ngay từ những ngày còn trẻ, những ngày mà cả xã hội còn đang bị cuốn hút vào những lối sống mới, tất cả hướng về cuộc sống tập thể, ít quan tâm đến cuộc sống cá nhân, gia đình, bố tôi vẫn luôn chăm lo đến chuyện họ hàng, huyết thống, đến mồ mả, đất cát. Không phải không có người trong họ hàng cười khẩy, cho là bố tôi sống không thực tế, người sống còn khốn khổ khốn nạn lo chưa nổi mà bố tôi rỗi hơi đi lo chuyện người chết. Sau này, khi về già, bố tôi phàn nàn với tôi:“Họ hàng mình chẳng ai quan tâm gì đến mồ mả ông bà cả. Các cô, các chú tân tiến quá mà! Có nhiều ngôi mộ nằm rải rác khắp nơi, có ngôi nằm trong nghĩa trang giờ cũng mất dấu cả rồi, nhưng cũng vẫn còn may. Nhiều ngôi, qua cuộc đời bể dâu, ngày trước ở trong nghĩa trang, nay thành ở sát lối đi, ở trong sân, trong vườn nhà người ta. Tôi bây giờ già rồi nhưng vẫn còn nhớ được vị trí của những ngôi mộ đó. Muốn đi gom góp lại xương cốt vung vãi khắp nơi đem vào nghĩa trang mà không có điều kiện. Mấy lần tôi đã ngỏ ý với các cô, các chú trong họ, nếu mọi người bận công, bận việc lo phấn đấu để thành ông nọ bà kia thì hãy chịu khó bớt chút ít tiền gom góp lại cho tôi có tiền tàu xe đi tìm mộ các ông bà. Nhưng chẳng ai quan tâm đến điều tôi nói. Ai cũng cho là tôi lẩm cẩm, hấp hơi, lo những chuyện không đâu. Tôi chỉ sợ đến lúc tôi chết đi thì chẳng còn ai biết bia mộ ông bà ở đâu…”. Điều bố tôi lo lắng, canh cánh bên lòng ấy cuối cùng là sự thật. Bố tôi mất, hàng chục ngôi mộ cũng mất theo. Sợi dây cuối cùng nối liền hiện tại với quá khứ, nối liền người sống với người chết - là bố tôi - đã đứt đột ngột. Rất nhiều mộ ông bà tổ tiên trở thành những ngôi mộ vô chủ, mãi mãi con cháu không thể nào kiếm tìm lại được…
Chính là bằng những việc làm hàng ngày nhiều khi tưởng là bình thường, không thực tế như những câu chuyện về mồ mả đất cát, về chuyện họ hàng, về bạn bè chòm xóm, những tình cảm khoan hòa của bố tôi dành cho tất cả mọi người… đã nuôi dưỡng trong anh chị em tôi cái gọi là lòng tốt, tính vị tha, lòng nhân ái, sự khoan dung. Tóm lại chúng tôi đã thừa hưởng ở bố tôi một tình cảm cốt lõi vào bậc nhất của nhân cách con người, đó là tấm lòng nhân hậu, khoan hòa…
Trong những ngày nghỉ hè đầu tiên ở Hà Nội lần ấy, có một việc để lại ấn tượng mạnh mẽ trong tôi là: tôi đã tìm được quyển “Thời thơ ấu” của Mácxim Gorki, nhưng là bản tiếng Pháp. Tôi theo anh Hiệu tôi vào Thư viện Quốc gia. Tôi không có thẻ, anh tôi phải nài nỉ mãi, ông thường trực mới cho tôi vào xem ké. Trong khi tra cứu danh mục M. Gorki, tôi mừng rỡ phát hiện ra quyển sách trên. Trình độ tiếng Pháp của tôi lúc đó còn rất bập bõm, phần học được ở trường ngày còn nhỏ, phần do bố tôi dạy. Biết là đọc không nổi nhưng tôi vẫn cứ nói anh Hiệu mượn cho tôi xem. Không đọc được thì tôi nhìn ngắm cho thỏa. Ấn tượng về bộ phim tôi đã xem vẫn vô cùng đậm nét trong tâm trí tôi.
Tôi cứ ngồi ngắm nghía cuốn sách, lật hết trang này sang trang khác, tức đến phát khóc khi biết là trong đó có bao điều kỳ diệu mà mình không tài nào đọc được. Tôi nói anh tôi dịch cho tôi nghe một vài đoạn. Xung quanh, người ngồi trầm tư đọc sách, người cắm cúi viết, anh tôi chỉ khẽ dịch cho vừa đủ nghe. Ngay lập tức tôi bị choáng ngợp trước cảnh chuyến tàu thuỷ chầm chậm trôi trên sông Vonga, đưa bà cháu Gorki về Nigiơni Nôvôgơrôt, mà phải hơn mười năm sau tôi mới được đọc một cách trọn vẹn qua bản dịch tiếng Việt:
“Bốn mươi năm về trước, tàu thủy chạy rất chậm, chúng tôi phải đi khá lâu mới tới Nigiơni. Tôi còn nhớ rất rõ những ngày đầu tiên vô cùng đẹp đẽ ấy.
Trời rất đẹp, suốt từ sáng đến tối, tôi với bà tôi đứng trên boong tàu dưới bầu trời trong sáng, giữa đôi bờ sông Vonga được mùa thu thêu lên một màu vàng óng, trông như hai dải lụa. Con tàu màu gạch tươi đi ngược dòng sông, bánh lái uể oải khuấy động mặt nước xanh sẫm. Con tàu kéo theo ở đầu sợi dây cáp dài một chiếc xà lan xám trông giống như con bọ đất. Mặt trời lững lờ di chuyển trên sông Vonga; cảnh vật xung quanh đổi mới từng giờ từng phút. Những ngọn đồi xanh giống như những nếp gấp lộng lẫy trên bộ y phục sang trọng của mặt đất; hai bên bờ sông, các thành phố và làng mạc nom xa xa như những chiếc bánh; thỉnh thoảng có chiếc lá thu vàng bập bềnh trên mặt nước.
- Cháu nhìn xem, đẹp chưa kìa! - Chốc chốc bà tôi lại nhắc đi nhắc lại và đi từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia. Bà tôi rạng rỡ hẳn lên, đôi mắt mở to vì vui sướng…”(1)
Tôi như mê đi vì những cảnh sắc lung linh trong tác phẩm. Tôi nài nỉ anh tôi dịch thêm cho nghe một vài đoạn nữa, nhưng trình độ tiếng Pháp của anh tôi lúc ấy cũng có hạn. Anh tôi lại đang ôn thi cuối năm, bài vở ngập đầu. Tôi quyết định sẽ nán lại Hà Nội thêm ít ngày để làm một việc ít ai ngờ. Ngày ngày tôi ra thư viện, cắm cúi chép quyển Thời thơ ấu bằng tiếng Pháp ấy. Với trình độ tiếng Pháp còn quá non kém, tôi cứ phải vừa nhìn từng chữ vừa chép lại một cách chật vật. Ban đầu, suốt cả một buổi sáng, tôi chỉ chép được bốn năm trang. Nhìn tôi chép, anh tôi vừa ngạc nhiên vừa ái ngại. Anh động viên tôi chép tiếp và chạy đi mua cho tôi chiếc bánh mỳ kẹp chả để tôi vừa gặm bánh vừa chép, đỡ phải về nhà ăn trưa mất thời gian. Tôi xin phép bố và cô tôi cho tôi ở lỳ trong thư viện từ sáng sớm đến khuya mới về. Tôi chép đến ê ẩm cả mình mẩy, mấy ngón tay tê dại, nhăn nhúm. Khoảng gần ba tuần lễ, tôi thở phào nhẹ nhõm nhìn thấy quyển vở kín đặc thứ chữ tôi chỉ hiểu bập bõm, loáng thoáng. Tôi nhờ bố tôi dịch cho tôi nghe.
Bố tôi rất vui vì tôi vừa làm được một “kỳ công”: chép gần ba trăm trang sách bằng tiếng Pháp, tôi phải dò dẫm đánh vần từng chữ. Phần nữa, bố tôi còn vui vì lâu lắm bố tôi mới được dịp sử dụng đúng sở trường ngoại ngữ của mình. Bố tôi dịch thẳng sang tiếng Việt hầu như không hề ngắc ngứ, cứ như đọc từ bản tiếng Việt ra vậy. Giọng bố tôi xúc động hứng khởi, có lúc vỡ ra, sang sảng khác hẳn mọi ngày. Tôi như bị bố thôi miên, cứ nửa nằm nửa ngồi bên cạnh bố tôi, chăm chú nhìn vào miệng bố tôi, vui buồn theo từng sự việc diễn ra trong tác phẩm. Suốt đêm tôi không sao ngủ được. Chưa có một cuốn sách nào cuốn hút tôi như thế. Tôi đã đọc khá nhiều những cuốn tự truyện, trong đó có rất nhiều cuốn rất nổi tiếng, của những nhân vật nổi tiếng nhưng chưa có cuốn nào làm tôi cảm động như cuốn này. Cuộc đời của những nhân vật nổi tiếng kia nhiều khi vương giả quá, cậu ấm cô chiêu quá, rất xa lạ với tôi. Còn ở đây, cậu bé Aliôsa lấm lem bụi đất này sao mà gần gũi, sao mà thân thiết. Aliôsa lừng lững hiện ra trước mắt tôi với một tính cách thật mạnh mẽ, với một tấm lòng chứa chan yêu thương nhưng cũng tỏ ra rất quyết liệt căm ghét cái xấu, không khoan nhượng trước những sự tha hoá của con người.
Càng nghĩ, lòng tôi càng cồn cào, muốn được lao nhanh vào cuộc sống. Giá mà tôi không bị ràng buộc bởi gia đình nhỉ. Tôi sẽ đi lang thang khắp đó đây kiếm sống. Nếu cần, tôi có thể làm phu khuân vác, tôi có thể đạp xích lô, tôi cũng có thể đi làm thuê, làm mướn, làm bất cứ việc gì, miễn là được đi, được sống một cách mạnh mẽ, hết lòng để có được một vốn sống phong phú, một tầm hiểu biết rộng và cuối cùng để viết được một cái gì…
Tiếng những con tàu ở ngoài ga Hàng Cỏ hú gọi nhau liên tục, sao mà khẩn thiết, sao mà giục giã làm lòng tôi càng nôn nao, bồn chồn. Tôi sẽ để lại mấy quyển vở chép tay cuốn Thời thơ ấu này ở nhà, nhờ bố tôi thỉnh thoảng rỗi thì dịch giúp tôi. Ngày mai tôi sẽ lên lại Bắc Giang. Tôi sẽ đi làm ở công trường nhà máy xay. Không chỉ để có tiền ăn học mà với mục tiêu còn cao hơn nhiều: Tôi sẽ được cống hiến một phần sức lực nhỏ bé của mình vào công việc xây dựng lại đất nước. Tôi sẽ có dịp tích luỹ thêm vốn sống, để sau này, biết đâu tôi sẽ viết được một cái gì đó… Nhưng thôi, “cái gì đó” còn xa vời vợi, còn mơ hồ lắm, tôi không dám nghĩ đến nhiều. Hãy cứ biết là sống, sống một cách đầy đủ, với tất cả lòng mê say, khao khát vươn tới… Tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.
24. Trước khi nghỉ hè ít lâu, anh Nhu đã liên hệ xin được cho cả mấy anh em làm phụ động ở công trường nhà máy xay. Họ hứa sẽ nhận cả mấy anh em khi năm học vừa chấm dứt. Việc nhà máy xay xát gạo được khởi công xây dựng là cả một sự kiện to lớn của thị xã lúc bấy giờ. Trước mắt bọn học sinh chúng tôi, đó là một biểu tượng đẹp đẽ của công cuộc kiến thiết lại đất nước. Những tin tức về việc hoàn thành tuyến đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, Hà Nội - Lào Cai, về khu gang thép Thái Nguyên tương lai, về mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng… làm cho bọn trẻ chúng tôi vô cùng náo nức. Ngay trong lòng thị xã Bắc Giang nhỏ bé này, một nhà máy xay lớn nhất tỉnh lần đầu tiên được xây dựng, làm sao chúng tôi không tự hào! Mấy tháng nay, ô tô chở xi măng, sắt thép, các nguyên vật liệu xây dựng chạy rầm rầm trên đường phố. Hầu hết các con đường trong thị xã đều chưa được trải nhựa, chỉ mới là những con đường cấp phối, đất đỏ bụi mù. Nhiều người lớn than vãn ô tô tải chạy ngày đêm, các cửa hàng cửa hiệu rung chuyển, bụi đỏ bám đầy nhà cửa, đường xá thì vương vãi đầy đất đá, cây cối ven đường phủ một lớp bụi dày, mỗi khi mưa xuống, người đi đường ai nấy đều đi nhớp nhúa vì nước trên cây rỏ xuống đỏ như máu. Nhưng đối với cách nhìn lãng mạn của bọn trẻ chúng tôi, tất cả những nỗi phiền toái ấy chính là biểu hiện của một vùng đất đang hồi sinh, công cuộc xây dựng lại đất nước đang được tiến hành một cách rầm rộ, khẩn trương. Việc anh em tôi đi làm ở công trường, chúng tôi ý thức được một cách đầy tự hào, đó chính là chúng tôi đang góp một phần sức mình vào công cuộc xây dựng lớn lao của đất nước. Câu nói nổi tiếng của cậu bé Aliôsa một lần nữa lại vang lên trong tâm trí tôi: “Vào đời! Vào đời để hiến cho đời tất cả những gì tốt đẹp và nhân đạo của tâm hồn, trí óc ta!”.
Khi tôi ở Hà Nội lên, anh Nhu, anh Hoàng đã đi làm được một tháng. Thằng Nam, gia đình không đến nỗi khó khăn lắm nên nó về quê nghỉ. Thằng Bảo cũng vậy. Nhưng tôi làm được khoảng một tuần, thằng Bảo cũng mò lên đi làm cùng với anh em tôi. Nó bảo nó rất nhớ tôi, xa tôi nó buồn không chịu nổi. Tôi biết nó nói thực lòng. Tình cảm của nó dành cho tôi khá đặc biệt, có một chút gì yếu đuối như con gái. Bề ngoài, nhiều khi nó có vẻ hơi ồn ào, bộc lộ tình cảm ra ngoài hơi thái quá, nhưng chìm sâu bên trong là một tấm lòng đôn hậu, rất chân tình và sâu sắc.
Suốt cả ngày anh em tôi ở công trường. Chúng tôi làm đủ mọi việc tạp vụ. Từ khiêng vác xi măng, đẩy xe cút kít chở vôi vữa, dọn dẹp mặt bằng, chuyển gỗ ván lên các tầng trên cao cho thợ làm giàn giáo… Anh Nhu thay mặt cả nhóm, mỗi buổi sáng nhận công việc do Ban chỉ huy công trường giao, rồi phân công nhau làm. Những việc gì nặng, khó làm, anh Nhu và anh Hoàng đảm nhiệm. Tôi và thằng Bảo luôn được làm những việc nhẹ và đơn giản hơn. Buổi trưa, mấy anh em nghỉ tạm trong lán của công trường. Cơm đã nấu sẵn từ sáng tinh mơ ở nhà, mỗi anh em đã ăn lót dạ một bát trước khi đi làm, còn bao nhiêu để trưa ăn. Thức ăn thường xuyên là muối vừng, rau muống luộc. Cuối tuần được lĩnh tiền công, hôm nào được nhiều một chút, anh Nhu hào phóng nói anh Hoàng ra chợ mua mấy lạng sườn về băm nhỏ, rang muối thật mặn, cho vào lọ ăn “bồi dưỡng” thêm. Buổi trưa nắng ngột ngạt, chúng tôi chan cơm bằng nước gạo rang của công trường, cảm thấy dễ chịu vô cùng. Anh Nhu động viên cả bọn: “Chịu khó ăn kham khổ một chút để dành tiền cho năm học mới. Năm tới, bọn anh vào lớp mười, lớp cuối cấp, phải thi tốt nghiệp rồi thi đại học, căng thẳng lắm. Tranh thủ làm mấy tháng hè để có tiền dự trữ cho cả năm. Vào học là không đi làm thêm như mọi năm nữa. Để dồn thời gian vào học thi…”
Cả ngày lăn lóc trên công trường, tối về mấy anh em mệt bã bời. Nhờ đã trải qua những ngày chở nguyên vật liệu ngoài sông Thương trước đây nên tôi cũng đã quen với nắng gió. Nhưng trước đây làm thuê ở ngoài, công việc không bó buộc, mấy anh em cứ nhẩn nha làm, lúc nào mệt thì nghỉ. Còn bây giờ đi làm công trường, khối lượng công việc được khoán hẳn hoi, cụ thể không lơ mơ, tùy tiện được. Anh em tôi phải làm việc căng thẳng hơn nhiều. Hai vai tôi đỏ nhừ vì khiêng vác nặng, hơi chạm tay vào cũng rùng mình ớn lạnh. Đã có lúc tôi định bỏ cuộc, nói anh Nhu tìm cho tôi một việc gì đó nhẹ nhàng hơn, nhưng sau thấy mọi người đều mệt nhọc như mình chứ có ai mình đồng da sắt đặc biệt gì đâu, sao mình nỡ bỏ mọi người để tìm sự an nhàn… Với những lời tự nhủ thầm ấy, tôi vượt qua được từng ngày một cách thật vất vả. Cứ xong được một ngày, tôi lại thấy vui hơn một chút, tự thấy mình đã cứng cỏi hơn một chút. Từng nấc, từng nấc, tôi vượt dần từng nấc khó khăn để rồi cuối cùng thấy mình cũng vẫn theo kịp được mọi người. Công việc dần dần quen. Cái mệt mỏi cũng dần trở thành bình thường. Hai vai tôi đã chai cứng, đỏ sậm lại. Vừa gánh, tôi vừa chạy băng băng, mặt mũi cũng không còn nhăn nhó như trước nữa. Nhiều lúc trông thấy tôi đang vác cây gỗ nặng dẻo chân chạy, anh Nhu cười động viên: “Paven! Paven! Cố lên, Paven!”. Ý anh muốn khen tôi là có ý chí như Paven Coocxaghin đấy!
Rồi một hôm xảy ra một chuyện, sau này nghĩ lại nhiều khi tôi vẫn thấy rùng mình.
Hôm ấy, chúng tôi phải chuyển môt đống gỗ ván cốp pha lên tầng ba, qua giàn giáo bao quanh khu nhà chính. Giàn giáo được làm bằng những cây tre chằng buộc nối kết vào với nhau, suốt từ mặt đất cao lên mãi tầng ba, bốn. Đường lên là những tấm ván xếp liền nhau, tấm nọ tiếp tấm kia, mỗi khi bước lên, ván rung rinh, nhún nhảy. Hai bên thành là những dóng tre nối tiếp nhau, coi như tay vịn của một chiếc cầu thang dài. Bắt đầu vào việc, anh Nhu đã vừa gãi đầu gãi tai, lắc đầu nhăn nhó:
- Chà! Mang hết được đống cốp pha này lên tầng ba cũng mướt mồ hôi đây! Việc này nặng, để anh và anh Hoàng lo. Thiện và Bảo xúc hết đống cát kia, chuyển vào sau nhà kho. Dùng xe cút kít chở cho nhanh.
Tôi và Bảo vào việc ngay tắp lự. Nhìn đống ván cốp pha cao chềnh ềnh, tôi thầm nhủ gắng chuyển cát cho nhanh, còn thì giờ sẽ khiêng ván phụ thêm với hai anh chứ để hai anh làm, biết bao giờ mới xong?
Anh Nhu và anh Hoàng, mỗi anh vác một tấm ván dài chừng ba mét, rộng hơn hai mươi phân. Ván ướt khá nặng, làm hai anh phải khom người, so vai rụt cổ, vừa đi vừa chạy gằn. Bắt đầu đi trên giàn giáo, hai anh dò dẫm từng bước thận trọng.
Xúc cát xong, Bảo chạy đi uống nước, còn tôi chờ cho anh Nhu vác thêm một tấm ván mới. Khi anh bắt đầu dò dẫm bước lên giàn giáo thì tôi cũng cúi xuống, ghé vai vác một tấm ngắn hơn, hẹp hơn chút ít. Tôi phải chờ anh vác đi một đoạn rồi mới bắt đầu làm vì không muốn để anh biết. Anh mà trông thấy tôi vác cốp pha, đời nào anh cho làm! Ban đầu, lúc còn vác đi trên mặt đất, tôi thấy không đến nỗi nặng lắm. Nhưng đến khi bước trên giàn giáo được một đoạn, tôi nhận ngay ra là mình đã quá bạo gan. Ván lát đường bập bềnh, nhún nhảy mỗi lúc một khó đi. Đường đi lại hẹp, ngoắt qua ngoắt lại gấp khúc cứ cao lên dần. Lên đến tầng một, hé mắt nhìn xuống đã thấy xa vời vợi. Tôi cảm thấy hơi chóng mặt. Dừng lại một chút, tôi hít một hơi thật dài, cố lấy lại bình tĩnh, bước tiếp. Tôi dò dẫm từng bước. Ván dưới chân tôi vẫn dập dình, võng xuống trồi lên theo từng nhịp chân. Đôi khi ván dập dình quá, tôi phải tạm đứng lại cho bớt đung đưa rồi mới bước tiếp. Trên vai tôi, tấm ván càng lúc càng nặng, cạnh ván siết vào cổ, vào xương quai xanh buốt rát. Tôi vẫn cố ì ạch đi lên. Có một lúc tôi bất chợt nhìn xuống phía dưới, thấy lạnh người vì choáng ngợp. Xa hun hút. Loáng thoáng thấy bóng người đi lại nhỏ xíu, như của một thế giới nào. Tôi bặm môi, gò lưng nâng tấm ván, bước đi như một quán tính. Mắt tôi bỗng hoa lên. Tôi muốn đặt tấm ván xuống để nghỉ lấy lại hơi sức, nhưng không biết đặt vào đâu. Đang chênh vênh trên cao, đường ván hẹp, hai bên là khoảng không trống rỗng, mặc dù có hàng dóng tre làm tay vịn nhưng trông quá sơ sài, mỏng manh. Nửa muốn đi tiếp, nửa muốn dừng lại, tôi bối rối quá. Tấm ván dưới chân tôi tiếp tục võng xuống vì tôi đứng tại chỗ đã hơi lâu. Nếu đứng lâu thêm, rất có thể tấm ván sẽ gãy đôi. Tôi gắng hết sức, cố bước tiếp. Một ý nghĩ thoáng đến với tôi: Hay là buông tấm ván, để mặc cho nó rơi xuống? Như thế thì nguy hiểm quá. Dưới kia có bao nhiêu người đang làm việc. Một tấm ván từ trên tầng hai rơi xuống sẽ xảy ra tai nạn khủng khiếp… Nghĩ vậy, tôi đành mím môi mím lợi bước tiếp. Mồ hôi túa ra ướt đẫm lưng áo. Mắt tôi cay sè vì mồ hôi từ trán ròng ròng chảy xuống. Chợt đầu tấm ván trên tay tôi va vào cọc tre. Chỉ va nhẹ thôi, nhưng tấm ván dài cứ đung đưa mỗi lúc một mạnh, giống như quả lắc đồng hồ, chỉ cần một cú hích nhẹ, theo quán tính, quả lắc cứ văng xa ra mãi. Người tôi chao đảo, chỉ một chút xíu nữa là tôi lộn cổ lao xuống. May mắn sao, tay trái tôi túm ngay được dóng tre thẳng đứng và có ai đó ôm chặt lấy tôi, nhấc tấm ván khỏi bên vai đã tê dại của tôi. Tôi ngửa cổ ra sau, mở to mắt xem ai đang ôm ngang lưng tôi. Thì ra là anh Nhu. Tôi bật khóc nức lên. Lúc này tôi mới thấy sợ. Nếu không có anh kịp thời níu tôi lại, chắc tôi đã lao xuống dưới kia rồi. Mà như thế, cầm chắc trăm phần trăm cái chết. Anh Nhu bình tĩnh bảo tôi:
- Em ngồi xuống nghỉ đi. Ôm chặt lấy cột tre kẻo ngã. Chờ anh vác tấm ván này lên tầng ba rồi quay xuống ngay.
Nghe lời anh, tôi ngồi xệp ngay xuống, quắp hai chân vào chiếc cột, hai tay tôi cũng ôm cứng lấy nó. Tôi run hết cả người lên khi cúi nhìn xuống dưới kia, mấy người đang xúm lại, ngước nhìn lên chỉ trỏ, bàn tán chuyện gì đó. Nếu tấm ván rơi xuống… Nếu tôi lộn cổ lao xuống… Càng nghĩ tôi càng sợ. Cố ghìm nhưng không được, tôi bật khóc dấm dứt. Sau khi đặt tấm ván xuống, anh Nhu tất bật chạy đến bên tôi. Anh thận trọng dìu tôi lên tầng ba, vừa đi anh vừa an ủi động viên tôi bằng một giọng nhỏ nhẹ. Nhưng khi vừa lên đến tầng ba, tôi vừa bước vào tấm sàn bê tông, thì anh đẩy tôi ngồi phịch xuống sàn rồi cứ thế, một tay anh túm lấy vai tôi, một tay anh phát tới tấp vào mông tôi. Anh la lên dữ tợn:
- Làm sao mày liều mạng thế hả? Ai cho mày làm việc nguy hiểm đó? Đã nói rồi mà không chịu nghe!
Tôi khóc nức lên. Đau thì ít mà tủi thân thì nhiều. Anh Nhu yêu tôi thế, giờ cũng đánh tôi. Nhưng liền ngay sau đó, tôi cũng tự nhận ra anh đánh tôi không phải vì ghét bỏ mà chính vì anh quá thương tôi, quá lo lắng cho tôi. Phát vào mông tôi một chặp xong, anh cũng ngồi phịch xuống cạnh tôi, mặt thừ ra, bần thần. Một lúc sau, anh đứng dậy đi ra. Khi quay trở lại, anh đưa tôi một ca nước. Giọng anh đã dịu đi:
- Uống nước đi, rồi nằm xuống đó mà nghỉ!
Tôi sợ sệt ngước nhìn anh, đón lấy ca nước.
- Em liều quá là liều! - Anh nói, như để thanh minh cử chỉ nóng giận ban nãy của mình. - Nếu anh không đến kịp thì đã xảy ra chuyện gì, có trời mà biết! Khi lên đến đây, anh quay xuống vác tiếp thì chợt nhìn thấy em đang đi lên. Anh tá hỏa tam tinh, không còn hồn vía nào nữa. Ván chênh vênh giữa trời, em lại đang vác lặc lè. Anh định kêu lên bắt em dừng lại nhưng không dám, sợ em giật mình, chới với lao xuống thì nguy. Ở dưới kia, mọi người trông thấy em cũng đều phát hoảng. Họ cũng không dám lên tiếng. Anh phải dò dẫm từng bước thật êm nhẹ, nhích lại dần về phía em. Không muốn cho em biết vì sợ em luống cuống mất bình tĩnh. Đến khi đầu tấm ván va vào cọc, đung đưa qua lại, anh muốn vỡ tim. Chỉ một chút xíu nữa thì em trượt chân ngã nhào. Cũng may là có Trời Phật che chở, em lại túm ngay được chiếc dóng tre. Anh cũng đã xuống đến rất gần em. Nhắm một cách thật chính xác, anh lao đến ôm ngay lưng em ép chặt vào cọc tre, ghé vai đỡ tấm ván. Thật không còn hồn vía nào nữa. Mọi người ở dưới kia nhảy lên reo hò vì anh em mình đã thoát nạn. Ai cũng không thể ngờ được là cả hai đã thoát chết trong gang tấc.
Tôi đưa cánh tay lên gạt mồ hôi ngang mặt. Vừa lúc đó thằng Bảo và anh Hoàng cũng lao vào. Tiếng Bảo the thé:
- Cứ tưởng mày toi mạng trăm phần trăm rồi chứ! Ở dưới kia nhìn lên, thấy mày chung chiêng giữa trời, tao thót cả tim, tái cả mặt. Mày liều quá trời liều!
Tôi chẳng biết nói gì, cứ đành ngồi chịu trận nghe mọi người mắng mỏ. Đang nghĩ không biết cuộc trách cứ này bao giờ mới kết thúc, thì may quá, anh Nhu lôi tay tôi bảo đứng dậy:
- Thôi, hai đứa xuống trước đi! Vào lán mà nghỉ. Bọn anh làm nốt mấy việc rồi đi ăn cơm.
Tôi bước ra giàn giáo. Lúc này tôi càng thấy sợ. Nhìn xuống chóng cả mặt. Cứ xa hun hút. Trên cao, gió thổi ù ù, tưởng có thể bay cả người. Sao lúc đó tôi lại táo gan thế nhỉ? Nhưng thôi, bây giờ mọi việc đều đã qua. Tôi vẫn được sống giữa mọi người. Hàng ngày tôi vẫn được chia sẻ mọi buồn vui với anh Nhu, anh Hoàng, thằng Bảo…, những người đã trở nên thân thiết, quá đỗi thân thiết đối với tôi.
25. Tôi và thằng Bảo đang đẩy xe cút kít chở sỏi đã rửa sạch để trộn bê tông thì nghe tiếng gọi:
- Thiện ơi! Thiện! Có tin vui đặc biệt đây này!
Thằng Tụng đang hớt hơ hớt hải chạy tới. Nó ôm chầm lấy tôi làm tôi lạng tay lái, chiếc xe cút kít nghiêng sang một bên, chực đổ. Tôi ghì tay lái, gắng hết sức giữ cho xe thăng bằng trở lại. Giọng Tụng vẫn hào hển:
- Thơ của mày được đăng rồi Thiện ạ. In rất trang trọng trong một quyển sách đẹp lắm.
Tôi biết chắc chắn là nó nói không đúng nên rất dửng dưng, tiếp tục đẩy xe sỏi đi tới. Tụng tròn xoe mắt:
- Sao? Mày ốm hay sao mà ỉu xìu thế? Tao chạy bở hơi tai đến đây báo tin vui cho mày biết mà mày cứ hờ hờ hững hững, phí cả công của tao.
Tụng vừa chạy gằn theo tôi vừa cằn nhằn trách cứ. Tôi vẫn gạt đi:
- Không có chuyện đó đâu! Mày nghe ai nói lăng nhăng?
- Sao lại lăng nhăng? Chứng cứ rõ ràng, tao tận mắt trông thấy mà! Thầy Luyến đang có trong tay quyển ấy. Thầy khoe với các thầy cô giáo. Lúc đó tao cũng có mặt. Tao xin phép thầy cho xem nhờ. Bài thơ của mày có nhan đề “Tin về”, dưới đề tên “Trần Hồng Thiện, học sinh Bắc Giang” rõ ràng. Đúng không?
Nghe Tụng nói rành mạch, rõ ràng, tôi bắt đầu thấy hoài nghi. Đúng là bài thơ ấy tôi viết thật, nhưng tôi có gửi đi đâu đâu? Tôi chỉ dán lên báo tường của lớp nhân số đặc biệt về đấu tranh thống nhất nước nhà. Hai năm sau khi ký hiệp định đình chiến, đáng lẽ phải có hiệp thương tiến tới tổng tuyển cử trong cả nước nhưng đối phương đã phá bỏ. Cả nước sôi sục trong những cuộc mít tinh, biểu tình đấu tranh đòi thống nhất đất nước. Tôi làm một bài thơ về đề tài đó. Chỉ “đăng” trên báo liếp của lớp thôi chứ tôi có gửi đi đâu mà bảo được in trong một quyển sách?
Tụng nhắc đi nhắc lại làm cho tôi cũng bán tín bán nghi. Nó còn đoan chắc là thầy Luyến đang có trong tay quyển sách đó mà! Tôi bắt đầu thấy sốt ruột, chỉ mong mau chóng tan tầm, “liều mạng” đến hỏi thầy Luyến xem thực hư thế nào.
Thì ra đúng là bài thơ của tôi được đăng thật. Thầy Luyến cười bảo tôi là thầy đã gửi bài báo liếp của tôi đi. Thầy cũng không thật tin là bài thơ sẽ được đăng nên giấu không cho tôi biết để tôi đỡ thất vọng nếu có chuyện gì trục trặc. Tôi thầm cảm ơn thầy. Cầm quyển sách trong tay mà tôi cứ thấy mình như đang bay lơ lửng. Tôi chỉ xem hơi lâu bài thơ của mình một chút rồi gấp sách lại, làm ra bộ không quan tâm lắm. Kỳ thực, lòng tôi nôn nao, bồn chồn, chỉ muốn xem đi xem lại cho thỏa. Đúng là bài thơ tôi viết đấy ư? Bài thơ lần đầu tiên được in trong đời? Tôi muốn mượn thầy giáo quyển sách về khoe với anh Nhu, anh Hoàng, thằng Bảo nhưng không dám.
Từ hôm ấy, thỉnh thoảng lúc nào rảnh rỗi, tôi lại chạy ra hiệu sách. Cho đến lúc bấy giờ, cả thị xã mới chỉ có một “Hiệu sách nhân dân” vách đất, mái lợp lá gồi, ba gian hai chái. Quyển sách dày, tôi không có đủ tiền mua. Thầy Luyến gửi thơ của tôi cho một tờ báo lớn. Chắc để phục vụ phong trào đấu tranh đòi hiệp thương thống nhất đất nước, người ta đã tập hợp các bài thơ đăng trên báo in lại thành sách, bài thơ của tôi mới được lọt vào quyển sách dày cộp đó. Không mua được sách, tôi đành mượn cô bán sách trong chốc lát, chỉ cốt nhìn bài thơ của mình, nhìn đi nhìn lại không chán mắt. Khi trả lại, tôi vẫn thèm thuồng nhìn quyển sách trên tay cô. Vài ba lần hỏi mượn, cô bán sách còn vui vẻ. Đến lần thứ tư, thứ năm, cô bắt đầu khó chịu. Buộc lòng phải chiều ý khách hàng, cô miễn cưỡng lấy quyển sách trong tủ kính ra, dằn mạnh xuống mặt kính. Tôi biết đã làm phiền cô, nhưng không kìm lòng mình được, đành “mặt trơ trán bóng” muối mặt liều hỏi mượn một hai lần nữa cho đến khi cô bán sách phải gắt lên tôi mới không dám hỏi mượn nữa. Tôi cứ mon men lại gần tủ kính, bần thần nhìn cuốn sách, đờ đẫn như người mất hồn. Thỉnh thoảng có một vài người khách đến hỏi mua quyển này quyển nọ, tôi đến bên, nói nhỏ: “ Quyển Gửi miền Nam kia hay lắm, bác mua đi!”. Người khách nói cô bán hàng cho mượn quyển đó, thế là tôi sán lại xem ké. Tất nhiên là tôi chỉ chăm chăm nhìn vào bài thơ của tôi thôi. Tôi nhớ chính xác số trang để ngay lập tức có thể giở đúng trang có bài thơ của mình, đỡ làm mất thời giờ của khách hàng cho tôi xem ké. Cứ như thế, tôi còn xem nhờ được chừng mươi lần nữa. Tôi tự nhủ kỳ này lĩnh lương, thế nào tôi cũng xin anh Nhu cho tôi mua một cuốn để giữ làm kỷ niệm. Nhưng thật buồn. Hôm tôi hí hửng mang tiền ra mua thì sách đã bán hết. Tôi tiếc hậm tiếc hụi, tiếc đến muốn bật khóc. Nhưng tôi cố kìm không để ứa nước mắt. Tôi sẽ cố gắng viết. Vậy là ít nhiều đã có kết quả…
Bài thơ đầu tiên của tôi được in, tôi cảm động đã đành. Thằng Tụng cũng hớn hở ra mặt. Hai hôm liền, đi học về, nó kéo bằng được tôi về nhà nó ăn cơm. Chỉ có hai đứa ăn, vì nhà đã ăn rồi. Nó lấy ra đủ thứ. Nào bánh dày, bánh giò, nào chả quế, giò lụa. Nó bảo đừng ăn cơm, hai đứa cứ ăn vã giò chả cho sướng miệng, gọi là để liên hoan mừng thành công đầu tiên của tôi. Chưa hết miếng này, nó đã gắp cho tôi miếng khác, ép tôi ăn đến không kịp thở. Vừa ăn, Tụng vừa bàn chuyện hai đứa sẽ quyết tâm ra một tờ báo viết tay, “phát hành” hàng tuần. Nó bàn bạc một cách sôi nổi. Điều đó hiếm thấy ở nó. Tính Tụng điềm đạm, trầm tĩnh, ít nói. Hôm nay nó hào hứng như thế là hiếm thấy lắm, chứng tỏ trong lòng nó nôn nao đến mức nào. Trong số bạn thân của tôi, chỉ duy nhất có Tụng là có cùng đam mê viết lách. Thằng Bảo thân đến thế nhưng tuyệt nhiên không bao giờ đả động đến chuyện sáng tác. Nó rất yêu văn học, nhưng viết lách thì không hề.
Ăn uống no căng xong, hai thằng lại kéo nhau ra bờ sông Thương ngồi. Nước loang loáng mặt sông, nhấp nhánh ngàn vạn đốm sáng nhảy nhót. Tụng quay lại chuyện ra báo. Lấy tên là gì bây giờ? Hai thằng đưa ra cả chục tên, nào Văn, Văn học, Sáng tác đầu tay, Cây bút trẻ…, tên nào cũng ghê gớm cả, cũng mang những khát vọng to lớn không giấu giếm. Nhưng vẫn thấy chưa ưng ý. Cuối cùng, tôi chợt nhớ đến bộ phim “Thời thơ ấu” đã từng làm mê mẩn cả hai đứa chúng tôi. Tôi ngồi bật dậy:
- Sao không đặt tên là “Vào đời!”? Muốn viết văn được thì phải lăn vào đời sống. Chúng mình chẳng đang hăm hở muốn vào đời là gì?
Tụng cười rạng rỡ:
- Đúng đấy! Lấy tên “Vào đời” được đấy! Thế nhé, tờ báo của chúng mình sẽ có tên là “Vào đời”!
Ngay ngày hôm sau, hai đứa tôi hăm hở bắt tay vào chuẩn bị cho số đầu tiên. Tụng lấy tên là Hà Bắc, làm “chủ nhiệm”. Tôi làm “chủ bút”. Ngoài bài của hai đứa làm nòng cốt, chúng tôi còn vận động một số bạn bè yêu thích văn chương viết bài, như thằng Tuấn Thanh, thằng Việt Hồng… Ngay cả thằng Bảo, tôi cũng ép nó viết cho kỳ được. Tôi gợi ý cho nó viết những câu chuyện về quê hương nó. Tôi tự nguyện làm mọi việc thay nó như nấu cơm, quét dọn nhà cửa… để cho nó cố viết lấy vài trang. Cuối cùng nó cũng viết được mấy mẩu chuyện ngắn rất hóm hỉnh. Một mình tôi cắm cúi chép lại bài vở của bạn bè mất khá nhiều thời gian. Mỗi tuần ra một số. Một số viết đặc mười hai trang giấy tập khổ lớn, đâu phải ít. Ra được bốn số thì bắt đầu cạn bài. Thêm nữa, một mình tôi chép không xuể. Bài vở ở lớp nhiều. Tôi bắt đầu chểnh mảng chuyện học hành. Đành phải tạm đóng cửa “Tòa soạn” một thời gian. Nhưng qua sự việc này, cả tôi và Tụng đều nhận ra vốn sống của chúng tôi còn quá mỏng, việc rèn luyện về văn chương của chúng tôi còn quá sơ sài. Chúng tôi tự thấy còn phải cố gắng thêm rất nhiều nữa mới mong viết được một cái gì đó ra hồn.
Ít lâu sau đó, một hôm tôi nhận được giấy báo ra bưu điện nhận bưu phẩm. Vừa ngạc nhiên vừa phấp phỏng đoán già đoán non không biết ai gửi? Gửi cái gì? Hóa ra là tập bản thảo “Gia đình thân yêu” tôi đã liều lĩnh nhờ nhà văn Tô Hoài đọc giùm cách đây mấy tháng. Giờ ông trả lại với một lá thư dài góp ý. Tôi ngốn ngấu đọc những lời nhận xét thẳng thắn và rất chân tình của ông. Bản thảo của tôi viết về chính những chuyện của anh em tôi, về anh Nhu, anh Hoàng, thằng Bảo… Nhà văn Tô Hoài khen tôi viết khá sinh động, có nhiều nhận xét tinh nhưng tôi viết còn “thật thà” quá, còn lan man thấy gì viết nấy, chưa thật chọn lọc những chi tiết gây ấn tượng. Bản thảo còn non, chưa dùng được nhưng ông khuyên tôi nên tiếp tục viết. Ông tin là tôi sẽ viết được. Tôi nhớ mãi câu nhận xét của ông: “Văn anh sẵn sàng một không khí trong sáng lắm…”. Cả đêm tôi thao thức không ngủ được. Thỉnh thoảng tôi lại ngồi dậy, châm đèn đọc lại lá thư. Hồi mới nghỉ hè về Hà Nội thăm nhà, đắn đo mãi, cuối cùng tôi đã “liều mạng” mang bản thảo “Gia đình thân yêu” lâu nay tôi vẫn dấm dúi viết đến Hội nhà văn mà một hôm tôi qua đường Nguyễn Du, vô tình tôi trông thấy tấm bảng đá có khắc tên. Tôi không biết gửi bản thảo cho ai. Tôi nghĩ cứ liều đến đấy, gửi cho bất kỳ một ai đó mà tôi gặp. Những người ở trong ngôi nhà đó chắc chắn đều phải là những nhà văn rồi.
Tôi ra khỏi nhà từ sáng sớm. Quần áo gọn gàng, tề chỉnh như mình sắp sửa đi đến một chốn linh thiêng, được gặp gỡ những con người siêu phàm. Đến nơi, nhìn qua cổng sắt, tôi thấy mấy người đang đứng nói chuyện với nhau ở ngoài sân. Tôi ngại không dám vào. Cứ đi quanh đi quẩn, hết ra hồ Thiền Quang lại quay về mấy lượt, đám người nói chuyện vẫn chưa dứt. Tôi ra ngồi bên hồ thêm một lúc lâu nữa. Đến khi ngoài sân vắng lặng không còn ai, cổng đóng kín, mấy lần định bấm chuông, tự nhiên tôi lại thấy sợ. Lần lữa mãi, cuối cùng tôi kiễng chân, với tay bấm chuông. Có người ở trong nhà đi ra. Tôi bỗng cảm thấy sợ hãi, một nỗi sợ hãi vô cớ. Tôi bước nhanh sang bên kia đường, lảng đi. Tôi định bỏ về, hôm khác có đủ dũng khí hơn sẽ quay lại. Được một quãng, tiếc công đi, tôi quay trở lại. Vận dụng hết lòng dũng cảm, tôi với tay bấm chuông. Người trong nhà lại đi ra. Nỗi sợ lại giục tôi bỏ chạy. Tôi đi lang thang rất lâu dưới hàng cây sữa già nua bên hồ Thiền Quang. Hơn nửa tiếng đồng hồ sau, tôi quyết định lần này phải dũng cảm đến cùng. Tôi kiễng chân bấm chuông. Người trong nhà đi ra. Tôi nén nỗi hồi hộp đứng chờ. Nhưng khi người đó vừa hé mở cổng, không đủ can đảm nữa, tôi vùng bỏ chạy. Tiếng gắt gọi giật tôi lại:
- Cậu bé kia, đứng lại!
Sợ quá, tôi đứng chôn chân tại chỗ. Tiếng người kia vẫn gay gắt:
- Sao nghịch tai quái thế, hả? Bấm chuông rồi bỏ chạy. Mấy lần rồi? Làm mất hết thời giờ của người ta!
Người đó bước nhanh đến bên tôi. Theo bản năng, tôi nhắm chặt mắt, đầu né nghiêng sang bên, sẵn sàng chờ một cú bạt tai nảy lửa. Nhưng chuyện đó không xảy ra. Hình như thấy bộ dạng tôi quá sợ hãi, con người cũng không có vẻ gì là tai quái nghịch ngợm, người đó nắm lấy tay tôi, giọng có phần dịu xuống:
- Sao em lại làm thế? Thiếu gì trò giải trí mà em phải nghịch ngợm…
- Cháu không nghịch… - Tôi ấp úng thanh minh, mặt vẫn cúi gằm xuống đất. - Cháu muốn đến gửi… bản thảo…
Để chứng minh, tôi đưa tập bản thảo cho người đó, vẫn không dám ngước nhìn ông ta. Tôi chỉ loáng thoáng nhận ra ông không còn trẻ, người tầm thước chứ không cao lớn, giọng nói nhỏ nhẹ. Người đó dẫn tôi vào trong nhà, bảo tôi ngồi xuống ghế, rót nước cho tôi uống. Tôi vẫn chưa hết xấu hổ, mặt vẫn cúi xuống nhìn đôi bàn tay của mình, lúng túng vặn vọ. Người đó hỏi tôi nhiều lắm. Nhà ở đâu? Đang học lớp mấy? Có đọc nhiều sách không? Có tập viết nhiều không?... Tôi lí nhí trả lời nhát gừng. Người đó khuyên tôi trước mắt phải tập trung vào học cho tốt, phải chịu khó quan sát, phải chú ý đến các chi tiết… Ông hứa sẽ đọc kỹ “tác phẩm” của tôi rồi sẽ trả lời chu đáo. Tôi bỗng thấy lo sợ quá. Mình thật là liều lĩnh. Càng nghe người đó nói, tôi càng thấy mình dại dột, đã nghĩ về chuyện viết văn một cách quá đơn giản, dễ dàng. Tôi muốn xin lại tập bản thảo quá nhưng không dám nói. Đọc những trang viết non nớt của tôi, chắc ông ấy sẽ cười chê lắm đây. Biết thế tôi đừng gửi… Nhưng muộn mất rồi. Tập bản thảo để ngay trên bàn, cách tôi có vài gang tay, nhưng đã trở nên xa vời vợi, tôi không còn níu giữ lại được nữa. Mồ hôi rịn thành giọt lăn xuống làm mắt cay xè tôi cũng không dám đưa tay lên lau. Tôi cũng không biết bao lâu sau thì người đàn ông dặn tôi lời cuối cùng:
- Thôi, em cứ yên tâm về đi. Tôi sẽ viết thư trao đổi kỹ với em sau. Em có ghi địa chỉ của em rồi, phải không? Tôi là Tô Hoài.
Tôi giật mình. Khắp người râm ran một cảm giác khó tả, vừa vui sướng vừa sợ hãi. Cho đến lúc ấy tôi mới biết người nói chuyện với tôi là nhà văn Tô Hoài. Ông tiễn tôi ra cổng, tôi vẫn không dám ngước lên nhìn ông. Khi cánh cổng khép lại, tôi mới như hoàn hồn. Bước đi lâng lâng, tôi hớn hở dạo quanh hồ Thiền Quang một lần nữa. Nhìn thấy bất kỳ ai đang đi trên đường, tôi cũng muốn reo lên với họ: “Tôi vừa được gặp nhà văn Tô Hoài đấy! Người đã viết Dế Mèn phiêu lưu ký, Võ sĩ Bọ Ngựa, Cỏ dại, Truyện Tây Bắc… Một nhà văn nổi tiếng mà tôi từng ngưỡng mộ từ lâu…”. Càng nghĩ tôi càng thấy mình quá bạo phổi, dám đến nơi làm việc của các nhà văn, dám đưa cho họ xem những trang viết non dại của mình. Đối với tôi ngày ấy, các nhà văn là những thần tượng cao vời vợi, văn chương là một cái gì hết sức thiêng liêng cao quý. Tuổi nhỏ mà!
Lúc mang bản thảo đi gửi, tôi giấu không cho ai biết, sợ mọi người cười chê cái ước vọng ngông cuồng của mình. Nhưng lúc về, quá vui sướng, xúc động vì buổi gặp gỡ với một nhà văn có tiếng, tôi đã cố nén giấu mà không được. Tôi khoe với anh Hiệu tôi. Anh có vẻ ngạc nhiên, không thật tin là tôi đã dám liều lĩnh như thế. Sự nghi ngờ của anh càng tăng lên khi tôi không trả lời được câu hỏi:
- Thế ông Tô Hoài dáng người thế nào?
- Em cũng không nhớ chính xác… - Tôi lúng túng trả lời.
- Ông ấy có để râu không?
- Em cũng không biết…
- Da ông ấy trắng trẻo hay ngăm đen?
- Em… em…
- Ông ấy có một đặc điểm gì, em phải nhận ra chứ?
- Em cũng không nhớ…
- Thế thì cậu “phịa” rồi, đúng không? Làm gì có chuyện gặp ông ấy mà lại chẳng nhớ một chi tiết nào?
Tôi ức đến đỏ cả mặt vì lòng thành thực của mình bị nghi ngờ. Tôi chỉ biết lúng túng:
- Em nói thật mà! Em đã được gặp ông ấy, nhưng suốt buổi, em không dám ngửng lên nhìn, cứ cúi gằm mặt nghe ông ấy nói chuyện, giảng giải, căn dặn.
Và bây giờ thì nhà văn đã viết thư trả lời tôi. Tôi bồn chồn đọc lại bức thư. Cái câu: “Văn anh sẵn sàng một không khí trong sáng lắm…” cứ lay động mãi trong tôi, khuyến khích tôi đừng nản lòng. Tôi sẽ giữ mãi bức thư này, như một kỷ niệm sâu sắc của đời mình…
26. Người thầy giáo đầu tiên mà tôi phải chịu ơn đã khuyến khích tôi đi vào con đường văn học, đã vun đắp cho khả năng viết văn của tôi được nảy nở, phát triển - đó là thầy Luyến. Không chỉ đối với riêng tôi, mà cả lớp, ai cũng yêu quý thầy, được thầy truyền cho lòng yêu quý văn học và vẻ đẹp của ngôn ngữ nước nhà. Những bài giảng văn của thầy bao giờ cũng sinh động, đem lại cho chúng tôi biết bao hiểu biết và đặc biệt chúng tôi cảm thụ được vẻ đẹp lung linh của tiếng Việt, thấy tâm hồn mình giàu có hơn, phong phú hơn, tinh tế hơn. Hầu như sau tiết giảng nào, thầy cũng đọc cho cả lớp nghe thêm một truyện ngắn hay nào đấy, một chùm thơ hay nào đấy mà thầy mới tìm đọc được trong sách, báo. Thầy xuýt xoa khen một chi tiết đặc sắc, một từ ngữ đặt đúng chỗ, một đoạn văn hay, một hình ảnh đẹp… Thầy hay lấy bài luận của tôi ra đọc trước lớp, lấy ra những hình ảnh, những câu chữ mà thầy cho là được và cả những khiếm khuyết cần rút kinh nghiệm để tránh. Đôi khi thầy khen tôi hơi quá làm tôi thấy ngượng trước bạn bè. Nhưng dù sao tôi cũng biết ơn thầy. Chính những tình cảm yêu quý thầy dành cho tôi đã khuyến khích, động viên tôi rất nhiều.
Quê thầy ở xã Đào Quán. Một hôm thầy rủ tôi về thăm quê thầy. Thầy sẽ đèo xe đạp đưa tôi cùng về. Ban đầu tôi hơi ngại, chần chừ chưa dám nhận lời. Thầy là thầy giáo. Tôi là học trò yêu của thầy. Dù sao vẫn có một khoảng cách làm tôi phải e dè. Thầy nói mấy lần, cuối cùng tôi nhận lời. Vì yêu quý thầy và còn vì một lý do khác nữa. Vào khoảng năm 1948, gia đình tôi trên đường đi tản cư, có dừng lại ở Đào Quán một thời gian. Lúc ấy tôi còn nhỏ quá, khoảng năm, sáu tuổi nên bây giờ hình dung lại, mọi việc cứ chập chờn mờ ảo không thật rõ ràng, rất khó nắm bắt, rất khó định hình lại được. Chỉ một câu chuyện mà tôi còn nhớ rõ nhất là hôm ấy hai chị em tôi đang làm thịt vịt ở góc sân, gần bờ giếng. Tôi ngồi hai tay bó gối gần hai chị, tò mò xem thịt vịt. Chợt có tiếng súng nổ rất gần. Tiếp theo là tiếng hò la, tiếng kẻng báo động dồn dập. Mấy người chạy ngang qua ngõ, kêu to: “Giặc đến! Giặc đến! Chạy mau lên! Giặc đến làng bên rồi!”. Mọi người hốt hoảng vơ vội lấy một thứ của nả gì đó, kéo nhau chạy. Thấy hai chị ù té chạy, bỏ lại con vịt đang làm dở, tôi cũng cuống quýt chạy theo. Nghĩ thế nào, tôi chợt quay ngoắt lại, túm lấy đôi chân vịt, vội vàng chạy tiếp. Tiếng í ới gọi nhau loạn xạ, tiếng kêu khóc ầm ĩ, xen lẫn tiếng kẻng, tiếng trống hối hả, tiếng đạn nổ chát chúa. Người trong các ngõ xóm túa ra đông nghẹt ở mấy thửa ruộng đầu làng. Người ùa ra chen lấn với người chạy vào, gồng gánh, bìu ríu nhau, tiếng khóc như ri. Tôi cứ bám riết lấy các anh chị tôi, theo mọi người chạy ra cánh đồng. Người ngoài cánh đồng lại xô nhau chạy vào trong làng, nơi chúng tôi vừa ở đó lao ra, cứ rối rít tít mù chạy quanh chạy quẩn trong lúc tiếng trống, tiếng kẻng vẫn hối thúc giục giã và tiếng súng vẫn rộ lên từng tràng dài. Chợt có tiếng ai đó thét lên:
- Trời ơi! Thằng bé kia bị thương rồi!
- Máu chảy ra đầm đìa kìa!
- Băng bó lại cho nó ngay đi!
- Khổ thân thằng bé! Máu lênh láng thế kia!
Mọi người đổ xô chạy về phía tôi. Tôi vẫn cắm cúi chạy, không biết là người ta đang nói về mình. Thì ra mọi người tưởng tôi bị trúng đạn. Khi nhận ra con vịt đang thịt dở lủng lẳng trên tay tôi, chiếc đầu vịt liên tục va vào bắp chân tôi, máu vịt bê bết trên đùi, trên chân tôi, mọi người mới vỡ lẽ và cười rộ lên vui vẻ. Tôi xấu hổ, bẽn lẽn nhìn đám đông đang lăn ra cười. Tiếng súng lại rộ lên đùng đoàng, mọi người lại chạy túa ra hỗn loạn…
Một hình ảnh thứ hai mà tôi còn hình dung ra được khá rõ là ngọn đồi nhà cụ Quỹ. Ngọn đồi khá cao, hầu như chỉ có cỏ mọc êm mượt chứ không có một loại cây gì khác. Gần dưới chân đồi, cụ Quỹ dựng một ngôi nhà mái rạ, các vách tường còn trống huơ trống hoác, hình như còn đang làm dở. Nền nhà đất nện còn mới, màu vàng cam tươi. Cụ Quỹ đã già, để râu dài, cười móm mém phúc hậu. Gia đình tôi cùng mấy gia đình nữa vừa tản cư đến, cụ Quỹ cho ở nhờ hầu như hết cả gian nhà. Cụ còn tức cảnh làm thơ, sang sảng đọc cho mọi người nghe. Hơn năm chục năm đã qua mà tôi vẫn còn nhớ được hai câu: “Hôm nay tân tạo mới vừa xong. Đồng bào yêu quý đến chơi đông”. Các gia đình đang trên đường chạy giặc, chỉ ghé qua ở nhờ nhà cụ ít ngày, chắc không có ý định ở lâu nên mọi đồ đạc, hòm xiểng, quang gánh, chăn chiếu ngổn ngang, mỗi góc nhà là một gia đình. Bố mẹ, anh chị em tôi được chia một góc. Có lẽ nền đất còn ẩm nên mọi người trải rơm làm nệm, phủ chiếu lên. Một buổi sáng, chị Trọng tôi cuốn chiếu đem phơi chợt kêu thét lên vì một con rắn cạp nong khoanh đen khoanh vàng nằm khoanh tròn giữa ổ. Ai nấy đều hú vía, suốt đêm nằm trên nó mà sao không xảy ra chuyện gì. Con rắn lờ đờ như ốm dở. Nó bị bệnh gì chăng? Đi tản cư mà bọn trẻ con chúng tôi vui như hội. Con cái các gia đình vốn xa lạ được dịp làm quen với nhau, rủ nhau đi chơi các trò trốn tìm, bịt mắt bắt dê hoặc kéo nhau lên đỉnh đồi sau nhà rồi cứ thế dang tay giả làm máy bay, lao vun vút xuống dưới chân đồi không còn biết sợ là gì. Mấy lần bọn nhỏ chúng tôi chia hai phe đánh trận giả. Tôi bé nhất, tất nhiên chỉ quanh quẩn bên hai anh, thấy hai anh làm gì thì làm theo. Có lúc phe anh em tôi thắng, tha hồ hò hét, tha hồ khoa chân múa tay, diễu võ giương oai. Còn những lúc bị bên địch bao vây, lâm vào “tình thế hiểm nghèo”, mấy anh em tôi ra sức gào lên khản giọng, kêu gọi hai chị tôi ra ứng cứu. Hai nữ tướng Trưng Trắc - Trưng Nhị lập tức xuất hiện. Vừa trông thấy hai chị tôi hăng hái xông lên, hai tay khua khoắng mấy cành củi khô, quân Đông Hán lập tức tháo chạy tán loạn…
Một ấn tượng suốt đời tôi không thể nào quên được, đó là cái buổi sáng thần tiên bố tôi dẫn năm chị em tôi đến thăm cây dã nổi tiếng ở làng Tiên Lục. Cây cổ thụ khổng lồ có lẽ to lớn vào bậc nhất nước mình. Hơn năm chục năm qua rồi, không biết bây giờ gặp lại, dưới con mắt của một người đã đứng tuổi, cây dã cổ thụ ấy còn uy nghi, bề thế, sừng sững và đầy vẻ linh thiêng kỳ bí như ngày xưa tôi hằng nghĩ nữa không? Còn khi ấy, trong đôi mắt thơ ngây trong veo của một cậu bé năm, sáu tuổi như tôi, cây dã cổ thụ hiện ra lẫm liệt như một vị thần. Chúng tôi rón rén bước lại gần cây, thành kính ngước nhìn lên vòm cây bao la tỏa rộng, khe khẽ thì thầm nói chuyện với nhau về cây dã lớn chưa bao giờ từng thấy, xuýt xoa, trầm trồ trước vẻ đẹp gần như không có thực của cái cây kỳ lạ. Năm chị em tôi cùng dang tay nhưng không ôm xuể thân cây xù xì, cuồn cuộn như những cơ bắp khỏe khoắn, mạnh mẽ. Các nhánh cành phụ còn lớn hơn cả những thân cây bình thường, lan tỏa ra bốn phía, được phủ lên bằng những vòm lá xanh rười rượi, tỏa bóng mát xanh dịu huyền hoặc xuống phía dưới. Không gian tràn ngập hương thơm của lá non có mùi bạc hà nhè nhẹ. Sau những phút đầu tiên mới tiếp xúc có phần sợ sệt, ngỡ ngàng, dần dần chị em tôi mạnh dạn lên, thân mật làm quen với cây. Hóa ra, cao to lực lưỡng ngang trời thế nhưng thật ra cây dã rất hiền. Cây tỏa bóng xanh mát che chở cho chúng tôi. Cây bao bọc lấy chúng tôi bằng hương thơm lan tỏa khắp vùng. Cứ mỗi đợt gió lướt qua, những vòm lá xào xạc tương như mưa lớn sầm sập kéo đến làm cho chúng tôi thoáng lo sợ nhưng rồi cây an ủi ngay chúng tôi bằng cách thả xuống ngàn vạn những chiếc lá tròn chấp chới bay liệng. Có những chiếc đỏ thắm như những trái hồng. Có những chiếc vàng chanh như những trái táo. Chị em tôi hò reo đuổi theo nhau, những bàn tay trắng hồng xòe ra tóm bắt những trái hồng trái táo và cả những chiếc lá non mà chúng tôi tưởng tượng là những con bướm xanh màu cốm đang rập rờn trước mắt. Cây cứ rì rào xào xạc mãi tưởng như không bao giờ dứt thứ âm thanh muôn đời của gió, của lá. Thật đúng là một ngày thần tiên. Trong suốt cả cuộc đời dài dằng dặc, chỉ những ai hạnh phúc lắm mới may mắn có được một, hai buổi sáng kỳ diệu như thế.
Ngược dòng thời gian, lần trở về quá khứ xa hun hút, tôi lại thấy những hình ảnh thời thơ ấu ẩn hiện trong đám sương mù ký ức. Đó là cảnh cả đại gia đình chúng tôi kéo nhau đi tản cư, từ Hải Dương cứ ngược dần lên phía Bắc. Tất cả đều đi bộ. Người gánh gồng, người khiêng vác, người dắt díu nhau, tay bồng tay bế. Những con đường bị đào bới ngổn ngang, những hố ngang hố dọc, ngoắt ngoéo chữ chi càng làm cho con đường dài hơn, đi lâu hơn. Có lúc tôi lon ton chạy theo người lớn. Có lúc anh em tôi vui sướng đuổi bắt nhau qua các hầm hố. Có lúc tôi được ai đó cõng đỡ một đoạn. Có lúc lại còn được ngồi toòng teng trong thúng quang treo, đầu bên kia là chăn chiếu, quần áo, thuê người gánh cả chục cây số. Những ngọn đồi bát úp san sát hiện ra hai bên đường. Những con trâu con bò nhẩn nha gặm cỏ ven đê… Cái gì cũng xa lạ, cũng mới mẻ đối với chị em tôi. Bao nhiêu vất vả, lo toan, người lớn gánh chịu hết. Còn bọn nhỏ chúng tôi, những ngày đầu tản cư ấy, tất cả chỉ là vui vẻ, hớn hở, là những ngày vui bất tận…
27. Vào năm học mới được ít lâu, một tin sét đánh đến với chúng tôi: bố anh Nhu bị mất đột ngột. Cùng với tin buồn đó là một quyết định quan trọng đã làm đảo lộn nhiều dự kiến của anh em tôi, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của chúng tôi sau này. Đó là việc anh Nhu sẽ không sống cùng chúng tôi nữa. Anh phải về quê ở Gia Lương sống với mẹ. Anh chỉ có một người chị thì đã đi lấy chồng ở khác huyện từ mấy năm trước. Bố anh mất, còn lại mình mẹ anh ở nhà. Mẹ anh lại bị liệt nửa người đã hơn một năm nay. Anh phải về quê chăm sóc mẹ và trông nom nhà cửa, vườn tược. Anh nói sẽ cố gắng đi học tiếp, thế nào cũng phải vào được đại học. Quê anh cũng mới mở thêm trường cấp ba.
Anh Nhu về chịu tang mấy ngày. Anh nói sẽ còn lên lại, lo giấy tờ, chuyển học bạ, ở thêm với chúng tôi ít bữa rồi mới về hẳn. Vắng anh, chúng tôi sống chểnh mảng, tạm bợ. Đôi lúc tôi ngơ ngác như người mất hồn. Chúng tôi sắp mất đi một người anh cả, một con chim đầu đàn, linh hồn chính của nhóm anh em chúng tôi.
Khi lên trở lại, anh Nhu gầy guộc. Chỉ có mấy ngày mà trông thấy anh như người vừa qua một trận ốm nặng. Anh tất tả lo các thủ tục để chuyển trường. Anh còn đi xin việc cho tôi. Hở ra phút nào rảnh rỗi, anh dọn dẹp nhà cửa, trát lại vách nhà bếp bị mưa xói một mảng trống hoác. Anh đóng cho bà cụ Muộn chiếc chạn bát mới. Ai cũng khen anh khéo tay. Anh cười, bảo đã có ý định đóng chạn bát, chiếc giá sách và một chiếc bàn tre dài để mấy anh em ngồi học cho đỡ phải nằm phủ phục xuống giường, nhưng bận bịu quá không có thời gian. Giờ được nghỉ học vài hôm thì lại sắp phải xa mọi người.
Nghe anh nói đến câu “sắp phải xa mọi người”, tự nhiên tôi thấy nghèn nghẹn nơi cổ. Tôi biết từ nay tôi sẽ cô đơn lắm. Sẽ không còn có cơ hội để anh em tôi sống chung với nhau một lần thứ hai nữa đâu. Sở dĩ tôi nghĩ thế vì trước đây mấy năm, lúc còn đang kháng chiến, anh em tôi đã chia tay nhau một lần rồi. Lần đó, tôi cứ tưởng sẽ mãi mãi chẳng bao giờ được gặp lại anh. Không ngờ sau hòa bình, tôi lại lên Bắc Giang và được sống cùng anh. Lần xa nhau này chắc không còn cơ may như thế nữa. Tôi nhớ mãi, lần chia tay ấy anh ngồi nói chuyện với tôi rất lâu trên ngọn đồi Bãi Trại. Anh choàng tay ngang vai tôi, giọng thủ thỉ. Anh tặng tôi chiếc khăn mùi soa còn mới nguyên, của rất hiếm thời đó. Anh nói mẹ anh mới gửi từ trong vùng tạm chiến ra cho anh. Với ý nghĩ còn rất trẻ con của một đứa trẻ học lớp ba lúc đó, tôi đã trải chiếc khăn lên mặt bàn, vuốt phẳng phiu và lấy chiếc bút bi (mà hồi đó mới xuất hiện, rất quý hiếm, được gọi là bút “Nguyên tử”) viết rất nắn nót, chữ rất to, kín hết cả mặt khăn những dòng chữ: “Mãi mãi không bao giờ quên anh Nhu”. Tôi lấy giấy bóng bọc kín chiếc khăn, cất vào cặp sách, giữ làm kỷ niệm chứ không đem ra dùng. Mấy tháng sau, cô tôi không biết những ý nghĩ riêng tư ấy của tôi, tưởng là khăn mùi soa bình thường, đem ra giặt trắng phau. Tôi cắn chặt môi để khỏi bật ra tiếng khóc. Cố kìm nén nhưng nước mắt vẫn cứ trào ra. Tôi bỏ cơm, lang thang suốt cả một buổi chiều…
Lần này thì anh Nhu cũng lại ngồi bên tôi trên bờ đê quai trước nhà. Chiều đang dần xuống. Tiếng chuông nhà thờ trong thị xã gióng giả, ngân nga, được gió truyền lan đến chỗ chúng tôi, lúc thật rõ, lúc lại xa mơ hồ. Vẫn quàng tay qua vai tôi, giọng anh buồn buồn:
- Phải xa em và các bạn ở đây, anh buồn lắm. Nhưng biết làm sao được? Cực chẳng đã em ạ. Em ở lại, nhớ giữ gìn sức khỏe. Mọi điều anh rất yên tâm về em. Chỉ lo sức khỏe em không được tốt. Mọi việc anh đã bàn bạc kỹ với anh Hoàng rồi. Anh Hoàng rất tốt, rất quý thương em. Em cứ coi anh Hoàng như anh. Có gì, em cứ hỏi ý kiến anh Hoàng. Từ nay mấy anh em thôi không nhận làm những việc nặng nữa. Anh đã gặp mấy bác bên công trường nhà máy xay, xin được cho em chân dạy bổ túc văn hóa cho các cô chú công nhân. Dạy lớp hai, lớp ba thôi. Một tuần học ba buổi tối, không đến nỗi vất vả lắm, vừa sức với em. Em thu xếp, ngay từ tuần tới sẽ khai giảng. Em thấy như vậy có được không?
Tôi chỉ gật đầu chứ không nói. Mở miệng ra, tôi sẽ khóc mất. Anh Nhu lại nói tiếp:
- Chăn màn, mấy thứ vật dụng của anh, anh để lại cho em dùng. Bộ tông đơ, dao kéo cắt tóc, để anh Hoàng thỉnh thoảng đi vào các xóm kiếm thêm ít nhiều phụ vào tiền ăn. Còn hơn bốn trăm đồng, quỹ chung của mấy anh em dành dụm được qua mấy tháng hè, anh cũng giao cho anh Hoàng giữ để chi dùng đến hết năm học. Chịu khó chi tiêu tằn tiện thì cũng không lo lắm đâu. Bắt đầu từ tháng sau, nhà trường sẽ cấp cho em hai phần ba học bổng, được mười hai đồng mỗi tháng. Cô Kim mới nói cho anh biết chiều qua. Vậy cũng đỡ lắm. Em đừng gắng sức quá, nhỡ đau ốm thì khổ.
Anh còn tâm sự với tôi nhiều nữa - Về chuyện học hành của tôi - Chuyện gia đình tôi ở Hà Nội - Nhất là chuyện ham muốn viết văn tôi đang ấp ủ. Anh đưa cho tôi một gói nhỏ bọc kín giấy báo mà anh mang theo từ nãy. Anh bảo tôi giữ làm kỷ niệm. Tôi thận trọng mở ra từ từ. Thì ra quyển “Gửi miền Nam”. Anh nói hôm vừa rồi về chịu tang, lúc lên qua thị xã Bắc Ninh, rẽ qua hiệu sách, tình cờ anh mua được. Tôi mừng quá. Cuốn sách mà tôi đã tiếc hậm tiếc hụi vì không mua được…
- Thiện này, dù thế nào em cũng không được bỏ học nhé - Ngừng một lúc lâu, chợt anh lên tiếng - Nhà có túng đến mấy, cũng gắng kiếm thêm việc, vừa học vừa làm em ạ. Thời gian qua, anh em mình vất vả thế, nhưng em vẫn học rất tốt, được bầu là học sinh gương mẫu của toàn trường, được tỉnh khen, anh rất mừng và tự hào về em. Em cố gắng thêm nữa nhé. Chị Trọng em cũng sắp ra trường đi dạy học rồi. Chị Ngà rồi đây cũng phải có lương bổng chứ, chẳng lẽ cứ chế độ năm đồng phụ cấp mỗi tháng mãi à? Anh Hiệu chắc cũng được học bổng. Anh Lượng trên công trường đường sắt Lào Cai giờ đây chắc cũng bắt đầu ổn định… Dứt khoát em phải học cho hết đại học. Có khả năng như em, rẽ ngang uổng lắm.
Anh kéo tôi, cả hai anh em cùng nằm xuống triền đê. Đưa hai tay lên gối đầu, mắt đăm chiêu nhìn lên bầu trời đã long lanh mấy ngôi sao, anh tha thiết nói với tôi:
- Anh phải nói đi nói lại với em điều đó vì anh biết sắp tới anh không còn dịp nói chuyện với em nhiều nữa. Sẽ còn không ít khó khăn đến với em. Thêm nữa, em cũng đã mấy lần có ý đinh rẽ ngang để sớm đi vào cuộc sống. Anh rất hiểu tâm tư của em. Em là một cậu bé sống có lý tưởng. Em muốn sớm được cống hiến. Muốn sớm được lăn vào đời, hy vọng sẽ đi theo con đường văn học… Nhưng dù sao em vẫn còn nhỏ quá. Nhiệm vụ chính của em bây giờ là phải học, học cho thật giỏi. Muốn viết văn, ngoài vốn sống, điều rất quan trọng là phải có kiến thức rộng em ạ…
Nấn ná ở thêm với chúng tôi hai, ba hôm nữa rồi anh Nhu về quê. Chúng tôi bàn nhau sẽ làm một bữa cơm thật thịnh soạn để anh em ăn với nhau một bữa cuối cùng trước khi chia tay. Định sẽ ra chợ mua nhiều thứ, đủ cả thịt cá, những món ăn mà mấy anh em đều thích nhưng anh Nhu nhất định không chịu. Anh bảo chỉ cần mua một món gì đó gọi là có chút mỡ màng, để có cớ mà ngồi nhâm nhi với nhau thôi. Cả mấy tháng nay chưa được một bữa thịt nào cho ra hồn, mấy anh em đều nhất trí mua hẳn cả hai ký thịt lợn về nấu canh cà chua, chỉ một món đó thôi, cái món tủ của mấy anh em. Anh Hoàng và thằng Nam được phân công đi chợ mua hai ký thịt, một rổ cà chua, một bó hành, một chai nước mắm và cả chục cây xà lách, rau thơm. Sẽ nấu duy nhất một nồi canh thịt. Cơm cũng sẽ không độn khoai nữa mà ăn cơm trắng đến no căng, vỡ bụng thì thôi. Hồi đó nhiều vùng đang bị đói. Chúng tôi ăn độn khoai, độn sắn liên miên.
Sáng hôm sau anh Nhu phải ra tàu sớm. Khoảng 6 giờ tàu chạy. Làm sao cơm nước phải xong xuôi trước 5 giờ. Thịt mua về, anh Hoàng thái sẵn, cho vào nồi đảo qua loa để sáng mai chỉ việc đổ nước, đổ cà chua, hành vào là xong. Đang kỳ hạn hán nặng, giếng các nhà hầu như cạn gần đến đáy, các gia đình dùng riêng một cách dè sẻn. Duy nhất chỉ còn một cái giếng lớn ở đầu xóm là còn kha khá nước. Suốt ngày, trong xóm không người này thì người kia ra múc nước, cái giếng chung lúc nào cũng ồn ã tiếng eo xèo, cãi vã. Cho đến mấy hôm nay thì ngay cả cái giếng lớn nhất, sâu nhất xóm ấy cũng gần như cạn kiệt. Tôi và thằng Bảo được phân công lo chuyện nước nôi phục vụ bữa liên hoan sáng ngày mai. Để lấy được nước trong, hai đứa tôi quyết định khoảng hai, ba giờ đêm sẽ trở dậy, ra giếng vét nước. Gọi là vét vì nước mạch chảy ri rỉ, mãi mới đọng thành vũng ở đáy giếng. Phải trèo xuống đó, lấy bát nhôm vét từng chút một vào thùng rồi kéo lên. Trời tối đen tối đặc đến nhức mắt. Thằng Bảo vác chiếc thang đã mượn được từ hồi chiều, còn tôi quảy đôi thùng ra giếng, vừa đi vừa ngáp vì ngái ngủ. Thả chiếc thang xuống, vừa thận trọng bước lùi từng nấc, Bảo vừa dặn tôi:
- Mày cẩn thận nhá! Khi kéo thùng lên phải thật chắc tay. Không khéo thùng rơi xuống thì toi mạng tao!
Tôi ròng thùng xuống cho Bảo vét nước đổ vào. Tiếng bát nhôm cào vào đáy giếng quèn quẹt, trong đêm tối yên tĩnh càng vang lên rõ mồn một. Bảo vừa vét nước vừa ư ử hát, chẳng bài nào ra bài nào. Có lẽ nó rên lên như thế cho đỡ lạnh. Một lúc lâu sau, tôi đã kéo được hai thùng nước đầy. Cho đến lúc đó tôi mới hết run. Thùng nước đầy, kéo từ đáy giếng lên, nặng lắm chứ! Tôi mím môi, cố giữ sợi dây thừng thật chắc, nhỡ sẩy tay mà rơi xuống, thằng Bảo đang ngồi thu lu dưới đó thì gay. Tôi nhẹ cả người khi mọi chuyên trôi qua êm thấm. Nước đã kéo lên rồi, vẫn chưa thấy Bảo lên. Tôi sốt ruột gọi. Bảo rúc rích cười gì đó ở dưới đó. Khi lên, người nó ướt rườn rượt, quần áo sũng sĩnh nước. Nó cười hì hì:“Nước mát quá mày ạ. Tao tranh thủ tắm một cái”, nhưng liền sau đó, nó đã kêu trời:“Chết cha! Tóc tao ướt nhẹp toàn bùn. Cả người nữa này, nhớp nháp khó chịu quá! Thôi, sáng mai tiễn anh Nhu lên tàu xong, hai thằng mình ra sông Thương vùng vẫy một chầu cho thỏa nhá!”. Trời tối như bưng, tôi chỉ biết nó ướt hết chứ không trông rõ mặt mũi nó lem nhem thế nào.
Nước gánh về, phải để lâu cho bùn đất lắng dần, trong lại. Anh Nhu, anh Hoàng, thằng Nam cũng đã trở dậy. Mấy anh em lục cục nổi lửa nấu cơm. Rơm cháy đùng đùng hắt bóng mấy anh em lên vách bếp, chập chờn lúc to, lúc nhỏ. Bà cụ Muộn cũng trở dậy, đưa cho anh Nhu một gói xôi lạc. Bà cụ bảo để anh mang đi ăn đường, đỡ phải vào hàng quán tốn tiền. Mọi người cười nói vui vẻ, cứ như là không có chuyện sắp phải chia tay nhau. Riêng tôi trâm ngâm, ngồi ở góc xa bếp lửa nhất. Anh Nhu vẫn đang còn ngồi ở trước mặt tôi kia mà tôi đã cảm thấy rất buồn. Chắc nhận ra sự cô độc của tôi, anh Nhu đến ngồi bên cạnh. Anh vui vẻ nói chuyện này chuyện khác, cố ý hỏi để cho tôi trả lời, cố ý pha trò để mọi người cùng cười. Nhưng sao tôi vẫn không thể nào cười lên được.
Nồi canh sôi sùng sục. Mùi thịt, mùi hành thơm lừng. Mấy con thạch sùng lấp ló sau mấy cột tre, mấy tấm phên nứa. Có bao giờ thấy cảnh đó đâu! Chắc là lâu lắm chúng mới được ngửi thứ mùi béo ngậy hấp dẫn như thế.
Khi cơm canh vừa chín, lửa rơm tàn lụi thì cũng vừa tang tảng sáng. Nhìn ra bên ngoài, một thứ ánh sáng phớt xanh đã lờ mờ hiện ra. Anh Nhu đem chiếc nong lớn đặt giữa sân. Nam cầm đèn bão soi cho Bảo lấy bát đũa bày la liệt lên nong rồi lại quay vào giơ cao đèn soi cho anh Nhu và anh Hoàng khệ nệ bưng nồi canh to tú hụ ra đặt ở chính giữa nong. Tôi lúi húi đi tìm mấy chiếc ghế thấp cho mọi người ngồi. Nồi canh bốc hơi nghi ngút, toả mùi thơm ngầy ngậy“điếc cả mũi” như thằng Bảo trầm trồ với vẻ mặt tươi hơn hớn. Cả thằng Nam cũng hớn hở ra mặt. Chưa ai ăn cơm vội. Mỗi người húp trước một bát canh nóng bỏng lưỡi, màu cà chua và váng mỡ nổi sao vàng ngậy. Canh được múc ra một âu lớn dành để phần biếu bà cụ Muộn. Còn bao nhiêu, mấy anh em bảo nhau phải ăn cho kỳ hết. An Hoàng mồ hôi, mồ kê nhễ nhại, mặt bừng bừng hoan hỉ, múc ra một bát đầy thịt để bên cạnh cho mọi người dễ ăn. Trời sáng dần. Anh đèn bão nhợt nhạt dần, nhường chỗ cho ánh sáng thật của trời. Mấy anh em xì xụp húp mãi vẫn chưa hết được một bát, mặt ai nấy đều đỏ lựng, đầm đìa mồ hôi. Chưa bao giờ được ăn một bữa ngon như thế. Vì canh nóng, húp hơi lâu, mãi cũng chưa hết bát canh khai vị để bước vào bữa cơm chính thức còn hứa hẹn ngon lành, hấp dẫn hơn nhiều. Chợt thằng Bảo kêu ré lên:
- Chết cha rồi, con cóc!
Mọi người còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì thì Bảo đã nhăn nhó gắp trong bát thịt ra một con cóc bụng trắng hếu, giơ lên cho mọi người xem. Con cóc to bằng nửa nắm tay, bụng tròn trắng bóc, cặp chân lòng thòng, đã bị luộc chín trong nồi canh. Thằng Nam dằn bát xuống nong, đưa hai tay chẹn ngang cổ, lúi húi chạy ra sau nhà nôn oẹ ầm ĩ. Anh Nhu, anh Hoàng cũng buông bát đũa, ngơ ngác thắc mắc sao lại có chuyện lạ lùng như vậy. Thằng Bảo thì vẫn cười cợt, tiếp tục giơ cao con cóc, cười nghiêng ngả. Tôi đoán ngay ra nguyên nhân sự việc. Có lẽ con cóc ở dưới đáy giếng đã nhảy vào thùng nước từ lúc tôi và thằng Bảo đi vét nước, trời tối mù tối mịt chúng tôi không trông thấy. Rồi nó được trút từ thùng nước vào nồi canh. Lửa rơm nhập nhoạng cũng không ai phát hiện ra nó. Thế là mất toi cả nồi canh thịt cả năm trời mới được nếm mùi. Không ai dám ăn canh tiếp nữa. Anh Hoàng vào bếp, lấy ra một chai nước mắm. Cũng may, còn gần nửa chai. Mấy anh em rưới nước mắm ăn, cũng thấy ngon chán, vì có phải bao giờ cũng được ăn cơm trắng, rưới nước mắm đâu?
Chúng tôi ăn vội để còn tiễn anh Nhu ra ga cho kịp tàu. Tất cả mọi thứ quần áo, sách vở của anh Nhu lèn chặt trong một chiếc ba lô bộ đội cũ. Cả gia tài của anh chỉ có thế. Tôi tranh lấy việc khoác chiếc ba lô cho anh. Mấy anh em tôi đã ra đến đầu ngõ, anh Nhu vẫn còn nấn ná bên bà cụ Muộn. Bà cụ khóc không ra tiếng, cứ nắm chặt hai bàn tay anh Nhu lắc lắc mãi. Tôi không muốn nhìn lâu cảnh ấy, sợ mình cũng không kìm được nước mắt.
Ra đến ga, tàu trên Lạng Sơn đã về, đang đón thêm khách. Mấy anh em túm tụm lại với nhau trên sân ga. Anh Nhu định quàng đỡ ba lô cho tôi nhưng tôi không chịu. Tôi muốn được giữ lâu thêm chút nữa những gì của anh. Anh dặn anh Hoàng cho anh gửi lời chào các thầy cô giáo và bạn bè lần cuối, mặc dù mấy hôm vừa rồi anh đã đi chào khắp lượt, không sót một người nào. Anh nhắc Bảo đừng quá mê mẩn chuyện cá mú mà xao nhãng việc học. Anh bảo thằng Nam nên sống cởi mở hơn, gắn bó hơn với mấy anh em trong nhóm. Còn tôi, anh không căn dặn gì thêm. Suốt thời gian chờ lên tàu, anh luôn đứng bên tôi, đặt tay lên vai tôi thân thiết. Tôi biết, anh cũng rất buồn phải xa tôi và chính anh cũng biết tôi sẽ đơn độc biết bao nhiêu khi không có anh ở bên.
Con tàu rú lên những hồi còi lảnh lói. Chiếc đầu tàu phì hơi nước trắng xoá, phủ lấp mù mịt cả một khúc thân tàu. Các bánh xe to lớn xình xịch chuyển động. Anh Nhu ôm chặt lấy tôi, áp đầu tôi vào ngực anh. Anh Hoàng, thằng Bảo, thằng Nam cùng xúm lại ôm choàng lấy anh Nhu và tôi. Không kìm được, tôi bật khóc nức lên. Anh Nhu gượng cười, giọng vỡ ra: “Đừng khóc! Đừng khóc, em! Rồi anh sẽ viết thư! Thế nào cũng có lúc anh lên thăm bọn em. Nín đi, đừng khóc!”. Anh nói thế nhưng người tôi vẫn rung lên thổn thức và khi ngước lên nhìn anh, tôi cũng thấy nước mắt anh giàn giụa. Con tàu chầm chậm chuyển bánh trong tiếng còi hối hả. Chúng tôi cùng chạy bám theo thành toa, vừa chạy vừa dìu đẩy anh Nhu leo lên bậc lên xuống. Tôi vẫn ngoắc ba lô trên vai, quên không đưa cho anh Nhu. Bối rối quá, anh Nhu cũng không nhớ đến chiếc ba lô, cứ đứng ở cửa toa vẫy tay chào chúng tôi, nói những gì không ai nghe rõ. Tàu đã bắt đầu tăng tốc, chạy nhanh dần, tôi mới chợt nhớ ra, kêu ầm lên. Anh Hoàng giằng lấy ba lô, lao thật nhanh, chới với mấy lần anh mới lẳng được nó lên tàu, nhờ mấy hành khách chuyền tiếp cho anh Nhu. Con tàu thét lên những tiếng chói lói. Lòng tôi cũng nhói lên, có cái gì như đang tan nát. Con tàu như thấu hiểu tâm trạng của tôi, liên tục thét lên vừa hối hả, vừa da diết. Tôi cảm thấy ruột gan mình như bị rút ngược lên đến kiệt cùng, cùng với tiếng còi tàu nhức nhối đến xé lòng…
Nguồn: Trần Hoài Dương Truyện chọn lọc. Triệu Xuân sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu. NXB Văn học, 2006.
 Sài Gòn, tháng Sáu đến tháng Mười Một, 1999.
Trần Hoài Dương
Theo https://trieuxuan.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Lá bồ đề – Truyện ngắn của Lại Văn Long 2 Tháng Ba, 2023 Tháng 5 – 2012, sau 22 năm thụ án chung thân về tội giết người, hắn được đặc...