Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2020

Đường lên trời xa lắm

Đường lên trời xa lắm
Tôi - cậu học trò lớp 11 với chiếc xe đạp thồ cà tàng nhưng rắn chắc chở một cặp bình gas kềnh càng sau baga, sườn trước là túi đồ nghề lỉnh kỉnh đi bán bóng bay dạo. Chiếc xe kiếm cơm của tôi đậu ở ngã tư trung tâm thị trấn ngày thường vốn rất sầm uất. Bây giờ là sáng mồng một Tết Tân Dậu (1981), Tây nguyên nắng trong, gió hiu hiu se lạnh. Các cửa tiệm vẫn đóng cửa im ỉm, vài nhà bày mâm cúng trước sân, tiếng pháo đón chào năm mới râm ran khắp khu phố vắng vẻ. Xác pháo tả tơi vương vãi từ các vỉa hè được gió lôi ra lê  lết trôi giữa mặt đường cùng bụi bặm, mùi pháo nồng đến khó thở...
Tôi mở van bình gas bơm bóng rồi cột, treo lên một chùm lớn đủ hình thù, màu sắc như một bông hoa khổng lồ, kiêu hãnh giữa nắng xuân. Đây là thứ hấp dẫn nhất của đám con nít. Từ cửa sổ các căn lầu nhìn ra ngã tư, các thiên thần đã thấy điều kỳ diệu, quyến rũ. Chúng la oai oái hoặc reo hò hối mở cửa, rồi nắm tay người lớn lôi chạy đến xe bóng bay. Trong sáng mồng một Tết này, tôi là ông già Noel đáng yêu nhất của lũ trẻ. Có đến mấy chục đứa vây quanh hò hét: “Con lấy quả bóng to màu trắng”, “Con muốn con thỏ màu hồng”, “Con thích con cá màu xanh”, “Trái bầu màu vàng này của con”... tôi rút lia lịa từng cọng dây cước cột bong bóng trao cho các cô các cậu bé rồi nhận lại từng nắm tiền lẻ từ cha mẹ, anh chị chúng nhét vào cái túi xách đeo trước ngực. Chỉ một loáng, bảy tám chục cái bong bóng bán hết sạch. Lũ trẻ từ giã tôi với nét mặt hí hửng cầm “chiến lợi phẩm” reo hò chạy về nhà mình. Tôi lại hì hục pha một bình hơi mới để chờ đợi những cô bé, cậu bé “chưa có phần” hoặc những đứa mua rồi nhưng ham chơi nên bóng tuột dây bay mất hoặc bị nổ, bị xẹp... Tôi mở nắp một bên bình, đổ bột nhôm, sút và nước vào. Phản ứng hóa học sẽ làm bình nóng lên, chờ cỡ vài chục phút là đầy hơi, tha hồ bơm tiếp bong bóng...
Đối diện chỗ tôi đứng là căn phố ba lầu gắn bảng hiệu lớn “tiệm vàng Kim Thúy”, một người đàn ông dắt đứa bé gái chừng tám, chín tuổi đi nhanh về phía tôi. Ông chống nạnh hỏi:
- Bóng nào to nhất?
Tôi rút trong túi xách ra quả bóng đại xẹp lép bằng cỡ cuốn tập. Cô bé trắng trẻo có mái tóc xoăn hơi ngả màu vàng, mặc cái áo đầm xanh da trời có những chấm bi nhiều màu sắc rực rỡ, níu tay cầm bong bóng của tôi hỏi:
- Chú ơi, khi bơm lên nó to bằng chừng nào?
Tôi đưa hai tay thành vòng ôm trước ngực:
- Bằng hai người lớn nắm tay nhau...
Bé lè lưỡi thật dễ thương:
- Eo ôi ghê quá! Nó có kéo con bay lên luôn không?
Tôi lắc đầu cười, bé cũng cười khoe cái răng khểnh xinh xinh. Cô bé có đôi mắt nâu thật đẹp với lông mi dài chớp chớp, biết làm duyên khi nghênh mặt khoe cái nốt ruồi son dưới cằm. Ông bố hỏi con gái:
- Thư đâu?
Cô bé rút từ túi trước của áo đầm ra tờ giấy học trò xếp làm tư nói với tôi:
- Chú bơm cái bóng to này rồi cột lá thư của con gửi lên trời cho bà tiên...
Tôi nhìn ông bố - một cái gật đầu. Tôi đặt cuống bong bóng vào vòi bơm, cười hỏi cô bé:
- Gửi thư cho bà tiên để cầu xin điều gì?
- Con muốn làm... công chúa!
Van được mở, hơi chạy vào bong bóng kêu ro ro, trái bóng to dần lên, cô bé đứng cạnh bịt hai tai, nhăn mặt vì sợ bóng nổ. Khi bóng đầy hơi tôi cột vào cuống bóng ba cọng cước, lá thư được nối vào cuối sợi dây dài đó như cái đuôi cá ve vẩy. Tôi bày cho cô bé cách nắm dây cước để bóng khỏi bay. Ông bố trả tiền mua quả bóng xong, bảo:
- Nào, con hãy cầu nguyện điều ước rồi thả bóng...
Cô bé nhắm mắt, mấp máy môi rồi buông tay. Quả bóng to lớn, đỏ rực kéo theo cái đuôi có lá thư vọt thẳng lên trời. Cô bé và cả những đứa trẻ gần đó nhìn theo trái bóng phấn khích la hét. Trái bóng cứ bay lên, nhỏ dần... nhỏ dần thành một chấm đỏ dưới trời xanh, một lát thì mất hút. Cô bé sung sướng nắm tay ba hỏi:
- Chừng nào bà tiên nhận được thư hở ba?
Ông bố tóc xoăn trán hói, mặc áo khoác da, chân đi đôi Shapo dày cộp chắp tay sau lưng nhìn lên bầu trời xa xăm:
- Đường lên trời xa lắm...
Hai cái Tết tiếp theo, sáng mồng một năm nào cô bé đó cũng mua của tôi một quả bóng to nhất để thả ước mơ lên trời. Đến Tết thứ ba, thứ tư... cô bé lớn phổng lên, gặp tôi mỉm cười giơ tay chào mà không mua bong bóng nữa. Bây giờ đến lượt tôi mơ về chuyện cổ tích...
Tốt nghiệp đại học, đi làm vài năm, một chiều giáp Tết Nhâm Thân (1992), tôi đón xe khách từ Bảo Lộc lên Đà Lạt. Chiếc Karosa to lớn hơn năm chục ghế ngồi với bốn phía toàn kính sang trọng phóng từ hướng Sài Gòn lên còn dư đúng một chỗ. Tôi khoan khoái ngồi vào cái ghế êm ái, định bụng sẽ ngủ một giấc vì còn hơn hai tiếng nữa mới tới Đà Lạt. Vừa chợp mắt thiu thiu một lát thì xe dừng lại, mở mắt thấy gần chục người rồng rắn kéo nhau lên xe đứng dọc theo lối đi. Một bà cụ chít khăn mỏ quạ, cặp cái bị cói trong nách, do thấp bé không với được tay nắm trên trần nên khi xe vọt lên, bà ngã chúi vào cô gái phía trước. Màu bã trầu đỏ lòm cùng với nước miếng của bà lão đọng thành một bụm nhễu nhão trên vai áo trắng muốt của cô gái. Cô vùng xô bà lão ra hét lên kinh hoàng:
- Cái bà già này làm dơ áo của tôi rồi, hôi quá! Làm sao đi đám cưới!
Bà lão té chỏng vó xuống sàn, bao nhiêu cặp mắt nhìn cô gái bất bình, phẫn nộ. Cô vẫn trơ trơ, hống hách, thách thức. Tôi ngồi sát lối đi, vội đỡ bà cụ lên ngồi vào ghế của mình. Bây giờ thì tôi đứng đối diện với cô gái, cách nhau không quá một gang tay. Lúc nãy cô vừa lên xe tôi đã giật mình, giờ nhìn lại lần nữa càng tin mình không sai. Nước da trắng mượt mà, mái tóc xoăn hơi ngả màu vàng, nốt ruồi son dưới cái cằm đầy đặn và đặc biệt nhất là cái răng khểnh. Khi cô gào lên mắng bà cụ khốn khổ, chiếc răng vốn rất duyên đó bỗng dài ra, nhọn hoắt như răng nanh. Mặt cô và cả nốt ruồi son quý phái cũng đỏ ửng lên, bao nhiêu dữ dằn tràn hết ra, khuôn mặt xinh đẹp bỗng đanh đá đáng sợ... 
Anh lơ xe tới thu tiền nhóm khách mới lên. Bà cụ ngồi trong ghế của tôi bốc trong bị cói ra một nắm bạc lẻ nhàu nhĩ, anh lơ xe vuốt từng tờ bạc đếm một hồi rồi trả lại:
- Mới được một phần ba tiền vé thôi, đưa thêm đi cụ!
Bà cụ móm mém lắc đầu:
- Sáng giờ bà xin mấy người mới được chừng đó...
Cô gái mặt nhăn nhó, dùng khăn mùi xoa lau bã trầu trên áo rồi chỉ vào bà cụ nói với lơ xe:
- Anh bảo bà đứng lên, em trả gấp đôi tiền vé!
Anh lơ nắm tay bà cụ đỡ lên, tôi đưa tay chặn lại:
- Cứ để bà ngồi đó, tôi trả tiền cho bà!
Cô gái quay sang tôi với ánh nhìn thật kinh hãi, cất giọng mỉa mai:
- Muốn làm anh hùng à? Ở đây không phải sân khấu!
Tôi nhìn lại cô, vừa đau vừa tiếc. Khi nhận ra cô tôi đã rất mừng. Lúc đó bà già đi sau lưng cô giữa hai hàng ghế chật hẹp, lố nhố đầu người nên tôi không thấy. Tôi định bụng sẽ nhường chỗ ngồi cho cô rồi đứng cạnh rủ rỉ kể câu chuyện cô bé thả bóng bay để xin bà tiên được làm công chúa hơn mười năm trước. Khi xe đến Đà Lạt, sẽ  mời cô đi ăn tối, tâm sự với cô tình cảm tôi ấp ủ từ khi cô còn bé... Nhưng rồi cô đã làm tôi hụt hẫng, thất vọng! Cái gì đã biến một cô bé ngây thơ đáng yêu thành một cô gái phách lối, hỗn xược?
Tám năm sau cuộc tái ngộ đáng quên đó, tôi là phóng viên có chuyến công tác ra miền Trung. “Hai vợ chồng mang ma túy từ Lào về Quảng Ngãi bán thì bị phát hiện bắt giữ cùng tang vật là mấy trăm viên thuốc lắc”. Đó là thông tin về một vụ án mà công an Quảng Ngãi vừa phá được. Tôi sẽ viết vụ này lên báo để tuyên truyền công tác phòng chống tội phạm ma túy. Chiều hôm đó, tôi xin vào trại giam để tiếp xúc và chụp ảnh cặp vợ chồng gieo rắc tội lỗi này. Gã chồng được đưa ra trước với dáng cao, gầy, xanh xao, mái tóc bù xù, râu ria lởm chởm. Tôi yêu cầu cởi áo để chụp thân hình xăm vằn vện của hắn. Viên quản giáo đứng bên cạnh chép miệng:
- Thằng này là giang hồ thứ thiệt, tiền án tiền sự đầy mình. Mỗi lần vào tù hắn lại xăm ngày kỷ niệm; đếm xem ngày nào... một, hai, bốn lần vào tù rồi phải không mày?
Tên tội phạm giương đôi mắt đờ đẫn; mệt mỏi; gục gật đầu. Một lát hắn buột miệng:
- Thưa cán bộ, lần này em chưa được xăm...
- À! Vậy là đã năm lần... Nhưng ở đây đừng mơ chuyện xăm!
Chụp hình hắn xong tôi theo quản giáo xuống trại nữ. Cánh cửa sắt dày cui của phòng giam hé mở. Tim tôi đập thình thịch khi cái dáng cao cao, mái tóc xoăn dài trong đồng phục tù nhân hiện ra cùng nắng chiều loang lổ dưới tàn cổ thụ. Mặt nàng bạc phếch, cái nốt ruồi son dưới cằm lung linh như viên hồng ngọc trời phú. Chín mươi chín phần trăm đây là “cố nhân”, cái tôi cần tìm là chiếc răng khểnh. Tôi hít một hơi thật sâu trấn tĩnh. Nhưng giọng cất lên vẫn khàn khàn:
- Tên gì? Quê quán ở đâu?
Trong buồng giam với ngoài trời có khác biệt. Nàng ở lâu trong buồng giam nên chưa quen khi ra ngoài, mắt nàng nheo nheo trước ánh sáng và tai có phần nghễnh ngãng. Cô đại úy quản giáo trại nữ nhắc nhở:
- Phạm nhân trả lời cán bộ!
Hình như nàng quen và sợ giọng nói này nên giật mình, đứng thẳng người dõng dạc hô to:
- Tôi là Lê Kim Thúy, sinh năm 1972, quê quán Lâm Đồng, bị bắt về tội buôn ma túy...
Mặt đất nghiêng khi nàng mở miệng và khoe chiếc răng khểnh, tôi ù hai tai khi sực nhớ đến tấm bảng hiệu to, sơn chữ vàng rực trên nền xanh da trời: “Tiệm vàng Kim Thúy”... thì ra cha mẹ đã lấy tên nàng để đặt cho thương hiệu kinh doanh của mình. Họ phải yêu quý, tự hào về đứa con gái này lắm mới làm như vậy.
Tôi thấy xây xẩm như vừa trúng một cơn gió độc, mắt hoa nhòe nhoẹt và chân đứng không vững. Cố gắng lắm tôi mới đưa được máy ảnh lên bấm vài phát...
Tôi lảo đảo đến ngồi lên cái trụ thấp của hàng rào vườn rau, thấy lưng nàng với mái tóc xoăn phủ xuống khuất sau cánh cửa sắt và tiếng lách cách khi nữ quản giáo khóa buồng giam. Không đủ sức để làm tiếp công việc, tôi phải nhờ xe ôm đưa về khách sạn. Khi chỉ còn một mình với căn phòng, tôi úp mặt vào gối nấc từng cơn dài... Hình như tôi đã yêu nàng từ rất lâu, yêu rất nhiều đến mức không thể chịu nổi khi biết nàng đã có chồng và ra nông nỗi này. Người tôi đau quặn cứ như ngàn mũi kim đang chích khắp thân thể. Sực nhớ lời anh điều tra viên cung cấp tin vụ án trước khi tôi xuống trại giam:
“Cô ấy từng là hoa khôi trung học, con chủ tiệm vàng giàu có. Còn thằng này là tội phạm chuyên nghiệp mới đi tù về, trộm cướp ở đâu đó được ba lượng vàng. Cứ hai ngày nó mang vài chỉ vàng đến tiệm bán và khoe là bác sĩ đang đi chữa bệnh từ thiện cho trẻ em nghèo, bán vàng để mua thêm thuốc, quần áo, sách vở cho các em bất hạnh. Cô ấy tưởng thật nên mê mệt, bỏ nhà theo hắn đi làm từ thiện. Đến lúc hiểu ra thì đã muộn, bị dụ dỗ rồi nghiện ma túy nên phụ thuộc vào hắn...”.
Tôi làm báo được một thời gian thì giải nghệ chuyển sang kinh doanh bất động sản suốt mười mấy năm. Đầu năm 2014, tôi lên Đà Lạt để đàm phán mua lại một dự án. Công việc kéo dài suốt hai ngày căng thẳng, mệt mỏi cuối cùng cũng kết thúc bằng một bữa tiệc mừng thắng lợi của phía mua lẫn bán. Tiệc tàn đã hai mươi mốt giờ, tài xế lái chiếc Mercedes Maybach trị giá mười mấy tỷ đồng đến đón tôi và kế toán trưởng, trợ lý về khách sạn. Khi xe ngang qua khu Hòa Bình, chợt nảy ra ý muốn đi dạo một mình nên tôi bảo:
- Thả anh xuống đây, các chú về nghỉ trước đi, lát anh tự đón taxi về!
Tôi đi xuống thang lầu dạo quanh chợ đêm đông vui, định gọi về nhà thì sực nhớ vợ con đang đi du lịch nước ngoài.
Việc làm ăn xong xuôi tốt đẹp, tôi thấy mình xứng đáng được hưởng một đêm thanh thản. Đốt một điếu thuốc, tôi phà khói vào sương đêm như mưa bụi li ti dưới ánh đèn vàng vọt. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi mời:
- Chú mua giúp chị vài cái bánh đi!
Tôi quay lại, một khuôn mặt bừng sáng dưới ánh lửa hồng của cái bếp nướng bánh tráng. Đây là món ăn mới được sáng tác của Đà Lạt. Thịt bằm và các loại gia vị trộn lẫn vào nhau trét lên cái bánh tráng. Trứng được đánh loãng chan lên lớp thịt rồi cuộn cái bánh tráng lại bỏ lên bếp than hồng nướng. Lúc đầu học trò thích, dần hồi cả du khách đến Đà Lạt cũng mê. Mùi bánh tráng thơm ngào ngạt làm ấm cả tiết trời lạnh lẽo. Bà bán bánh tráng mặc áo măng tô lụng thụng dài quá gối. Trên đầu bà trùm cái khăn và đội thêm cái nón vải rộng vành. Đôi bàn tay thò ra từ hai ống tay áo với những ngón khẳng khiu, móng tay cụt lủn, xấu xí. Bà nhìn tôi bằng ánh mắt đầy hy vọng rồi nhoẻn miệng cười. Tôi giật mình với chiếc răng khểnh lộ ra nơi khóe miệng. Hạt nốt ruồi hồng héo hắt và như đang teo lại vẫn còn dưới cằm...
Tôi đã mừng rỡ vô cùng khi nhận ra nàng, dù nàng lam lũ và già đi nhanh quá. Không choáng váng hồi hộp hay đau đớn như lần vào trại giam gặp nàng. Lần này tôi nhận ra nàng với niềm vui khó tả cứ như gặp vận may lớn. Dù đang mặc bộ complet đặt may ở Paris và dưới chân là đôi giày bóng lộn kỷ niệm chuyến đi Ý, đồng hồ Thụy Sĩ hơn trăm ngàn đô la, tôi vẫn “vô tư giữa chợ” ngồi bệt xuống chiếc ghế thấp tẹt mà dân gian thường gọi là “cái đòn”, đối diện với nàng qua bếp lò cháy đỏ ấm cúng. Nàng ngượng khi thấy ông khách sang trọng nhìn chằm chằm, càng bất ngờ hơn khi tôi hỏi:
- Hồi nhỏ Thúy gọi anh bằng chú sao bây giờ xưng chị với anh?
Nàng tròn mắt nhìn người đàn ông xa lạ, lắp bắp:
- Ông... là... ai?
Có hai đứa bé lem luốc, rách rưới đến xin ăn, Thúy ân cần gói cho mỗi đứa một cái bánh nóng hổi. Cô còn tháo khăn trùm đầu lau mặt cho chúng. Hai đứa đi rồi, Thúy dưới  mắt tôi lúc này thật dịu dàng, quyến rũ. Trên chuyến xe đò hơn 20 năm trước, nếu Thúy nhân hậu, tử tế thế này có lẽ cuộc đời của tôi với nàng đã khác. Nghĩ đến đó tôi thở dài, hỏi Thúy:
- Thúy ra tù lâu chưa? Chồng con ra sao?
Thúy bụm mặt khóc sụt sùi:
- Con không có, chồng chết đã mấy năm, cha mẹ cũng chẳng còn để lo cho mình... May là lúc ở tù Thúy đã cai nghiện được.
Đưa tay áo quệt nước mắt, Thúy hỏi:
- Anh là công an... hồi đó bắt Thúy phải không?
Tôi nhìn Thúy, thấy thương xót đến lạ. Trong đầu nảy ra một ý, tôi vui hẳn lên nhìn Thúy cười cười:
- Anh không phải là công an... Anh được bà tiên cử xuống gặp Thúy!
- Bà tiên nào?
- Hơn ba mươi năm trước, Thúy viết thư cột vào cái bóng bay to gửi lên trời cho bà tiên nhớ không? Đường lên trời xa lắm nên nay thư mới tới...
Thúy phì cười ngượng ngùng:
- Sao anh biết chuyện hồi nhỏ của Thúy?
- Vì... anh đã rất mừng khi bán được quả bóng bay to nhất đó! Anh còn làm Thúy giận khi bênh bà cụ phun bã trầu ướt áo em, còn vào trại giam chụp hình em!
- Anh theo em cả đời? Để làm gì vậy?
- Để... bây giờ được báo cho Thúy biết một tin vui.
- Tin gì?
- Thúy sẽ có một căn hộ trả góp ở quận Bảy Sài Gòn và một công việc ổn định trong công ty bất động sản...
Thúy nhìn tôi sững sờ rồi mếu máo:
- Em đã khổ thế này rồi anh còn đem em ra đùa à?
Tôi đỡ Thúy đứng lên:
- Em cho hết xoong chảo, than củi, đồ đạc đi. Sáng mai anh đưa em về Sài Gòn. Chiều mai em sẽ có những gì anh hứa. Đường lên trời còn xa lắm, nhưng bay mãi cũng tới thôi em à...
14.1.2015
Lại Văn Long
NGUỒN:NHAVANTPHCM
Theo http://www.bichkhe.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lá bồ đề - Truyện ngắn của Lại Văn Long

Lá bồ đề - Truyện ngắn của Lại Văn Long Tháng 5 – 2012, sau 22 năm thụ án chung thân về tội giết người, hắn được đặc xá, trả tự do. Trướ...