Thứ Tư, 30 tháng 6, 2021

Ý thức mới trong văn nghệ và triết học 2

Ý thức mới trong văn nghệ và triết học 2

Chương ba 
Nghĩ về ý nghĩa của Phật giáo Thiền tông qua vài suy luận triết học Heidegger (tiếp theo)
6. 
Bởi vì muốn tránh sự đồng hóa nông cạn, chúng ta mới nói Thiền tông chống cái này, chống cái kia. Sự thực thì chữ “chống” này cũng nguy hiểm và dễ gây ngộ nhận. 
Thiền là Giải thoát, là Ngộ: như thế Thiền chống lại những vọng tưởng mà người đời thường nuôi dưỡng trong tâm trí họ. 
Những “biến kế sở chấp” (vikalpa) tựu trung là: 
1. Luân lý học 
2. Chủ nghĩa nhân bản 
3. Luân lý 
4. Bảng giá trị 
Người đời thường hay viện dẫn mê tín vào bốn vọng tưởng trên; thường khi họ lấy những vọng tưởng ấy làm tiêu chuẩn cho mọi hành động; họ xem những vọng tưởng ấy như là những chân lý bất di dịch, những sự thực tối thượng. 
Ở Tây phương, triết gia đầu tiên đã nhận thấy rõ những tai hại của những vọng tưởng trên là Nietzsche: Nietzsche đã can đảm quét sạch những tín điều về bốn vọng tưởng trên; đến Nietzsche chẳng những Thượng đế đã chết, mà chủ nghĩa nhân bản cũng chết theo và sau đó ngã quỵ tất cả thành trì của bảng giá trị cũ, của Luận lý học, của Luân lý. Sau khi Nietzsche mất rồi thì ngày nay, chúng ta thấy Heidegger đang làm tiếp sự nghiệp của Nietzsche. 
Mặc dù là một triết gia, nhưng Heidegger đã đi về con đường của Thiền, khi Heidegger nhận ra những vọng tưởng trên. 
Thiền đả phá Luận lý học, bởi vì Luận lý học chỉ là một lề lối suy tư có hạn định, không thể đưa đến giải thoát, không thể đưa đến Ngộ; một người còn mê ngủ thì dù họ có lý luận đến tuyệt vời đi nữa thì lý luận ấy cũng chỉ là lý luận trong mộng. 
Thiền đả phá chủ nghĩa nhân bản, bởi vì chính chủ nghĩa nhân bản đã là phi nhân bản rồi, sở dĩ phi nhân bản là vì bị ràng buộc trong chủ nghĩa. Nhân bản đúng nghĩa là nhân bản thì không có chủ nghĩa; còn chủ nghĩa là còn nô lệ vào chủ nghĩa ấy, thế mà vẫn chưa giải thoát được. Thiền không là Nhân bản, mà là “Phật bản”. 
Thiền đả phá Luân lý vì con người cũng dễ tàn nhẫn một cách có khoa học, khi họ được Luân lý bảo vệ họ; Luân lý là một cái cớ để người ta cầu an; Luân lý xuất phát từ lòng yếu đuối nhu nhược của con người; Thiền vượt lên trên Thiện và Ác. Đại bi (Mahakaruna) cũng đồng nghĩa với Đại trí (Mahaprajna). 
Thiền đả phá bảng giá trị, vì Thiền cho rằng xem đức Phật là một giá trị tối thượng, tức là đã hạ thấp Phật tính, vì đã đánh giá đức Phật; dù xem đức Phật là một giá trị tối thượng vẫn là đánh giá đức Phật; vì giá trị tối thượng cũng vẫn là giá trị, chúng ta chưa giác ngộ, chúng ta không quyền đánh giá một người đã giác ngộ; đánh giá là một hành động phạm thượng. Bởi thế, không nên xem đức Phật là một giá trị tối thượng, mà phải xem đức Phật như là khả năng vô biên mà chúng ta có thể thực hiện trong đời này, mà thuật ngữ Phật giáo gọi là “Phật tính”. 
Sở dĩ tôi phải xác định thêm những dòng trên là vì tôi muốn tránh những điều ngộ nhận có thể xảy ra khi tôi nói rằng Thiền tông chống Luân lý, chống chủ nghĩa nhân bản, không xem đức Phật là giá trị tối thượng, vân vân. Sự xác định ở trên rất cần thiết, vì dễ có người nông nổi không đặt những nhận định vào văn mạch của toàn bài, rồi hiểu sai chủ ý thì rất đáng buồn. 
7. 
Bây giờ, tôi xin bàn về những ngộ nhận chung quanh Thiền tông. Viết về Thiền tông, hành động “viết về” ấy đã là một ngộ nhận to lớn rồi. Và chính bài này cũng đã vướng vào những ngộ nhận. Nhưng sở dĩ bài này dám nói về những ngộ nhận của người khác chung quanh Thiền tông là vì ít ra bài này cũng ý thức rằng mình đã ngộ nhận trước tiên. Và đi từ nhận thức căn bản này: mình có ngộ nhận, mình mới có thể biết những người khác ngộ nhận, vì tất cả đều nằm chung trong một hoàn cảnh giới hạn. 
Tôi chưa giác ngộ, mặc dù tri thức của tôi bảo rằng tôi chưa giác ngộ, nhưng tiềm thức tôi không nhận thế; nếu tiềm thức của tôi cũng đồng ý thực sự với ý thức tôi rằng tôi chưa giác ngộ thì lúc bấy giờ chính sự đồng ý giữ ý thức và tiềm thức ấy là sự giác ngộ rồi; nói một cách khác, nếu thực sự toàn diện con người tôi đồng ý rằng tôi chưa giác ngộ thì ngay lúc ấy, trong lúc ấy, trong chớp nhoáng ấy, tôi đã vụt giác ngộ rồi! Giác ngộ rằng chưa giác ngộ, tức đã là giác ngộ. 
Tôi vừa nói câu này như một con vẹt, nếu câu nói này đi đôi với toàn diện con người tôi thì tôi đã giác ngộ. 
Thiền không có nghĩa là tham thiền, mặc dù Thiền là bởi chữ Zen mà Zen bởi chữ dhyana; nhưng đến Huệ Năng thì Thiền không có nghĩa là dhyana, mà Thiền đồng nghĩa với Trí Bát Nhã, hay nói một cách khác dhyana đổi ra Prajna. Vậy Thiền đồng nghĩa là Giác ngộ. Nói tóm lại Thiền chính là Ngộ mà người Nhật gọi là Satori. 
Điều ngộ nhận to lớn nhất mà hiện nay tôi thấy rất nhiều vị học giả thường vướng là họ hiểu sai chữ Thiền trong nghĩa Thiền tông là Thiền trong nghĩa tham thiền hay toạ thiền, mặc dù Thiền tông cũng có tham thiền và toạ thiền, nhưng chính sự tham thiền và toạ thiền ấy không phải là tất cả nội dung của Thiền tông. Thiền trong nghĩa Thiền tông không phải chỉ là Thiền trong khi toạ thiền hay tham thiền mà trong bất cứ hành động nào thì cũng có thể được cả, và người ta có thể Thiền thực sự mà không cần tham hay toạ. Càng tham thiền hay tọa thiền lại càng xa Thiền, nhưng mượn cớ này để lười biếng không tham thiền hay toạ thiền thì lại là cuồng thiền. 
Bây giờ, để dễ thảo luận, tôi xin nêu ra một nguyên tắc, mà nếu mọi người chấp nhận nguyên tắc này thì mới có thể thảo luận được. Nguyên tắc đầu tiên là: 
Thiền có nghĩa là Ngộ. 
Ngộ ở đây có nghĩa là Giác Ngộ, tức là kinh nghiệm tuyệt đối mà chỉ có đức Phật là thí dụ cụ thể nhứt mà ta đã thấy trong lịch sử nhân loại. 
Nguyên tắc thứ nhất này rất quan trọng, vì chính nguyên tắc này sẽ làm tiêu chuẩn để chặn đứng tất cả mọi cuộc tranh luận bí lối và tất cả những lạm dụng nguy hiểm. Từ nguyên tắc thứ nhất này, chúng ta có thể đi đến mọi nhận thức sau đây: 
- Thiền là Ngộ, ai cũng có quyền nói về Thiền, viết về Thiền, bênh vực Thiền, chỉ trích Thiền, tranh luận về Thiền; muốn làm gì thì làm, nhưng luôn luôn cần phải tự hỏi rằng: “mình có ngộ hay không?”; nếu mình tự nhận rằng chưa Ngộ thì khi viết hay nói về Thiền thì phải đứng trên quan niệm “chưa ngộ”; còn nếu tự nhận rằng mình đã “Ngộ” thì lấy gì làm tiêu chuẩn để biết rằng mình “Ngộ”; bởi vì “Ngộ” làm gì có tiêu chuẩn và ai cũng hiểu rằng “Ngộ” mà biết rằng mình “Ngộ” thì chưa phải là “Ngộ”; vậy “không Ngộ” là Ngộ ư? Nói như thế cũng không đúng. Chỉ có cách giải quyết duy nhất là muốn biết mình “Ngộ” hay không, thì cứ đợi đến “Ngộ” rồi sẽ biết. 
Tóm tắt lại từ nguyên tắc thứ nhất: Thiền là Ngộ. 
Ta đi đến nhận thức này: 
- Chúng ta, tôi, anh, ông, chưa được Ngộ. Từ nhận thức này, chúng ta ý thức được thẩm quyền và giới hạn của chúng ta; 
- Vì chưa được Ngộ, nên muốn nói về Thiền, chúng ta phải nhớ đứng trên vị trí “chưa Ngộ”. Từ ý thức trên, chúng ta đi đến những nhận xét này; 
- Vì đứng trên vị trí “chưa Ngộ” thì dù có bỏ suốt đời để nghiên cứu Thiền thì Thiền ấy cũng vẫn là “Thiền chưa Ngộ”. 
Nếu “chưa Ngộ” mà muốn nói về Thiền thì phải nói như thế nào? Thì phải nói đến những gì là “chưa Ngộ” của chính mình; nếu mình thành thật thao thức đau khổ chấp nhận tất cả những gì “chưa Ngộ” trong con người mình thì lúc ấy là lúc “Ngộ” dễ vụt đến trong nháy mắt, bởi vì “chưa Ngộ” được thực sự hoàn toàn ý thức là “chưa Ngộ” thì đã là “Ngộ” rồi. 
Bây giờ xin vào đề. 
Trước hết, tôi xin phê bình tất cả những tác phẩm của D.T. Suzuki về Thiền tông. 
Nhận xét đầu tiên là tôi thấy ngay trọn vẹn sự nghiệp D.T. Suzuki về Thiền tông là một cái dao hai lưỡi, biết dùng thì có lợi, nhưng vung tay thì tới đại nguy hiểm. 
Tất cả những quyển sách của Suzuki chỉ có giá trị là khi Suzuki viết về Thiền mà đứng trên vị trí “chưa Ngộ” và nhất là, ý thức rằng mình “chưa Ngộ”. 
Tôi xin kết luận ngay rằng D. T. Suzuki là một học giả thông minh, rất uyên bác về Thiền tông, có thể nói là uyên bác nhất thế giới, nhưng tôi phải nói ngay rằng tất cả những quyển sách của D. T. Suzuki đều hoàn toàn vô giá trị, vì D.T. Suzuki đã viết về Thiền mà viết với giọng điệu đầy thẩm quyền như chính D. T. Suzuki đã “Ngộ” rồi! D. T. Suzuki “chưa Ngộ” mà khi viết về Thiền, ông đã dùng ngôn ngữ của người đứng trên vị trí “Ngộ”. Thực ra “Ngộ” làm gì có vị trí. 
Bởi thế, đọc trọn vẹn sự nghiệp của D. T. Suzuki, tôi chỉ thấy ông lặp đi lặp lại và càng ngày tư tưởng ông càng cạn đi, để rồi đọng lại thành khuôn thước và hệ thống. 
Ngộ nhận lớn nhất mà D. T. Suzuki đã phạm là khi ông tự đặt ra câu hỏi sau đây: 
Thiền là gì? [1] 
D. T. Suzuki viết bằng Anh ngữ là: 
- What is Zen? 
Khi hỏi một câu hỏi như vậy thì đã là thiển cận rồi, vì hỏi như thế thì ít nhất cũng tự nhận mình đã “Ngộ” rồi; nhưng chính vì D.T. Suzuki chưa Ngộ, nên câu hỏi trên mới tố cáo cho ta thấy những điều này: 
- Khi đặt câu hỏi thì trong câu hỏi ấy đã giới hạn câu trả lời; 
- Khi đặt câu hỏi thì câu trả lời đã tiềm tàng có trước câu hỏi. 
Như vậy khi đặt câu “Thiền là gì?” (What is Zen?) thì đã tự ý định trước là “Thiền là một cái gì” (Zen is something; vì What có nghĩa là something). Mà nếu cho rằng: “Thiền là một cái gì” thì đã đánh giá Thiền và lôi Thiền xuống ngang hàng một đồ vật (What tức là chỉ cho vật mà thực ngữ của Heidegger gọi là: “Vorhandensein”). Bây giờ không cần nói đến chữ “gì” (What), mà chỉ cần nói đến chữ “là” là đủ kết luận về một điều sai lầm của Suzuki; “là” (Is tức là to be) là xác nhận một hữu thể, một bản chất, một thể chất, một đặc chất. 
Khi ta nói: 
- Thiền là. 
- Zen is. 
Tức là ta đã nhận rằng mình đã “Ngộ” rồi, vì có “Ngộ” thì mới được bản chất, thể chất, thực chất của Thiền; biết như thế mới nói là “là”. 
Nếu chúng ta chưa “Ngộ”, thì chúng ta không thể nói: 
- Thiền là. 
Mà cũng không thể nói: 
- Thiền không là. 
Bởi vì nếu nói là “không là” thì ít nhất cũng đã biết trước cái “là”, tức là chỉ có thể xác nhận là sau khi đã phủ nhận, mà chỉ có thể phủ nhận là sau khi đã xác nhận; đằng này chúng ta không biết gì cả, chúng ta “chưa Ngộ” thì dù có phủ nhận hay xác nhận cũng đều là vô minh. 
Như thế, trong câu hỏi: “Thiền tông là gì?” chúng ta đã thấy người đặt lên câu hỏi ấy là một người hoặc nếu không ngu xuẩn thì cũng tự nhận mình đã “Ngộ” rồi, nhưng thực ra nếu “Ngộ” rồi thì cần gì phải đặt câu hỏi ngu xuẩn như vậy? 
Từ những nhận thức trên, bây giờ ta thấy những đường lối mở ra như sau; 
- Nói về Thiền cho đúng sự thực thì phải “Ngộ” chẳng hạn như lục tổ Huệ Năng và những vị thiền sư đời Đường, đời Tống. 
- Nói về Thiền cho đứng đắn, mà đang lúc mình chưa “Ngộ” thì phải ý thức giới hạn mình và chỉ có thể được quyền đứng trên phương diện, vị trí lập trường của một sử gia, một người chép sử, một người ghi lại kinh nghiệm quá khứ. 
Trong một cuộc tranh luận giữa Hồ Thích và D. T. Suzuki, chúng ta thấy cả hai đều rơi vào sai lầm [2]. Hồ Thích đứng trên lập trường của sử gia, nhưng Hồ Thích lại hiểu sai vai trò lịch sử, khi Hồ Thích cho rằng có thể dùng phương pháp sừ học để hiểu Thiền. Hồ Thích đã sai lầm rất lớn; Thiền là kinh nghiệm giác ngộ; lịch sử không phải là kinh nghiệm; lịch sử chỉ là ghi chép kinh nghiệm; Hồ Thích đã sai lầm vì đã cho rằng đứng trên vị trí “chưa giác ngộ” có thể hiểu được Ngộ; còn Suzuki đã đúng khi cho rằng “chưa Ngộ” thì không thể nào hiểu “Ngộ” được, nhưng khi nói câu ấy, Suzuki đã ngụ ý rằng mình đã “Ngộ”. 
Tất cả những kinh sách của Thiền tông như Pháp bảo đàn kinh, Vô môn quan, Lăng già sư tư ký, Tín tâm minh, Truyền đăng lục, vân vân,… đều nói lên ngôn ngữ của những con người đã “Ngộ” rồi. Và chính ngôn ngữ ấy là ngôn ngữ của Thiền. 
Chẳng hạn như dở quyển Vô quan môn ta đọc thấy những câu sau đây của Thiền sư Vô Môn: Phùng Phật sát Phật, phùng tổ sát tổ. 
“Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ”. 
Thiền sư Vô Môn nói câu trên, dùng ngôn ngữ mạnh bạo trên là lúc thiền sư đã “Ngộ” rồi; còn nếu bất cứ người thứ hai nào mà lặp lại câu trên, đang lúc mình “chưa Ngộ” thì câu trên trở thành rất nguy hiểm và tai hại: nó biến thành cái cớ để người ta tự bào chữa hành động ngu xuẩn của mình; nó là cái cớ để người ta ngạo mạn kiêu căng; nó là cái cớ để người ta phá hoại tôn giáo, phá hoại truyền thống, không phải phá hoại để giải thoát, mà phá hoại vì ngu si mê muội, vì dại dột; phá hoại như thế có nghĩa là tự sát. 
Chúng ta chỉ có quyền lặp lại câu nói của thiền sư Vô Môn với ý thức rằng mình chưa Ngộ và câu nói ấy là câu nói của một người đã chứng “Ngộ”; chúng ta chỉ có quyền lặp lại câu nói trên sau khi chúng ta biết rằng đó chỉ là một lối nói để phá chấp đến triệt để; còn chấp “Phật” tức là chưa thành Phật, còn chấp tổ nghĩa là thành tổ: giết Phật ở đây không có nghĩa là giết Phật, mà có nghĩa là giết ông “Phật” mà ta đã chấp trong trí ta. 
Bi kịch lớn lao nhất ở đời là mỗi khi vĩ nhân xuất hiện và sau khi vĩ nhân ấy đã nói lên một lời nào thì những kẻ hạ nhân cũng bắt chước nói lại lời ấy; và mặc dù lời ấy cũng gồm bấy nhiêu chữ, nhưng những chữ ấy không còn là những chữ của vĩ nhân nữa; chẳng hạn vĩ nhân nói “sát Phật” thì hạ nhân cũng bắt chước mà nói “sát Phật”; nhưng đau đớn biết bao là câu lặp lại bỗng trở thành thuốc độc và đưa con người đến chỗ tự sát. 
Nietzsche đã hiểu bi kịch trên: chúng ta thấy biết bao nhiêu lần Nietzsche đã để cho Zarathustra cảnh cáo mối tai hại ấy trong quyển Ainsi parlait Zarathustra. 
Heidegger cũng hiểu ý của Nietzsche, nên trong quyển Qu’appelle - t-on-penser?, Heidegger có viết: “Trước kia đó là tiếng kêu la của Nietzsche, mà ngày nay tiếng kêu la ấy đã trở thành câu chuyện ba hoa của thiên hạ”. 
Chẳng hạn, chúng ta thấy Nietzsche kêu: “Thượng đế đã chết”. Đó là tiếng kêu la thống thiết của Nietzsche để báo tin một kỷ nguyên mới. Ngày nay, thường khi, trong những phòng cà phê hay giảng đường đại học, chúng ta nghe người ta say sưa nói: “Thượng đế đã chết”; họ nói ba hoa như vậy, và họ vẫn tiếp tay duy trì thế giới cũ và cản lối làm chướng ngại vật không cho kỷ nguyên mới mở màn. Thế là “siêu nhân” của Nietzsche đã chết theo sau đó, do những đầu miệng của kẻ hạ nhân. 
Thế là Nietzsche cũng chết luôn, như Malraux đã có lần nói như vậy. 
Về Suzuki tôi xin tóm lại: Thiền của Suzuki không phải là Thiền của Vô Môn quan, của Pháp bảo đàn kinh, của Truyền đăng lục, vân vân; nghĩa là Thiền của Suzuki là Thiền về Thiền, cũng như Luận lý học là tư tưởng về tư tưởng - la pensée sur la pensée theo kiểu nói của Heidegger. Đó chỉ là một lối suy tư đặc biệt - une façon particulière de penser - một lối suy tư đặc biệt như Thiền của Suzuki cũng là một lối Thiền đặc biệt - une façon particulière de méditer, de “Zenifier”! 
Những quyển Vô Môn quan, Pháp bảo đàn kinh, vân vân; là nói lại Thiền của Thiền của vị sư đã “Ngộ”. 
Vô Môn quan, Pháp bảo đàn kinh, vân vân, không phải Thiền mà chỉ nói về Thiền. 
Như vậy Suzuki đã nói về cái “nói về” ấy; còn những kẻ nào tôn sùng Suzuki và tham khảo sách của Suzuki (như Alan Watts, Christmas Humphreys, Hubert Benoit, Blyth, Sohuku Ogata, Chang Chen Chi, vân vân) thì những kẻ ấy lại nói về “cái nói về cái nói về” dịch ra tiếng Pháp cho dễ hiểu là: la pensée sur la pensée sur la pensée… Như thế là vô minh quá lắm rồi. 
8. 
Trong một câu chuyện giữa người A và người B; người A nói rằng: “Tôi thích cái này, tôi ghét cái kia”. 
Anh B vụt trả lời: “Anh nói rằng anh có nghiên cứu Thiền nhưng tại sao anh lại nói rằng anh thích cái này, ghét cái kia? Thiền đâu có ghét, đâu có thích!”. 
9. Trong câu chuyện trên, chúng ta thấy anh A chưa ngộ và anh A hồn nhiên nói năng tự nhiên thành thật như một kẻ chưa ngộ; còn anh B thì chưa ngộ mà lại chỉ trích anh A; và khi chỉ trích như vậy thì tỏ ý mình đã hiểu Thiền, đã ngộ Thiền; sự thực thì anh B chưa ngộ; chẳng những thế anh còn vướng vào tội ngạo mạn ngu si vì anh B đã học lỏm được trong một quyển sách nào đó rằng “thích và ghét không phải là Thiền”; câu nói là câu nói của một thiền sư đã Ngộ; anh B chưa Ngộ mà lặp lại một câu của người Ngộ, và như thế tự cho mình cao hơn anh A, nghĩa là tự cho mình ngộ hơn người chưa ngộ! Ôi bi kịch! Chân lý mà bị lặp lại thì đã biến thành tà thuyết! 
10. 
Anh X nói chuyện với anh Y; anh Y tỏ cho anh X biết rằng anh Y đều tham Thiền vào mỗi buổi sáng. Anh X cật vấn anh Y: “Thiền tông làm gì có tham thiền, chỉ có đốn ngộ thôi, đâu có chuyện lau bụi, anh không nhớ chuyện Thần Tú và Huệ Năng sao”? 
11. 
Qua câu chuyện trên, ta thấy anh X lặp lại một câu nói của kẻ ngộ, anh X chưa giác ngộ thì anh làm gì hơn Thần Tú mà lại có ý xem nhẹ Thần Tú? Có người được “Ngộ” mới xem nhẹ người chưa giác ngộ thôi, nhưng thực ra, người đã “Ngộ” thực rồi thì không bao giờ xem nhẹ kẻ “chưa ngộ”. 
12. 
Về những quyển sách của Suzuki, chúng ta thấy những quyển sách ấy chỉ có giá trị quí báu về phương diện sử học; còn nếu Suzuki muốn đứng về phương diện giải thích kinh nghiệm Thiền thì Suzuki đã thất bại ngay từ căn bản và đứng trên phương diện này, thì những quyển sách của Suzuki chẳng có giá trị gì, mà lại rất nguy hiểm. 
13. 
Dùng thuật ngữ triết học của Heidegger thì sách của Suzuki chỉ có giá trị về mặt ontique nhưng hoàn toàn không có giá trị về mặt ontologique (thực ra Zen vượt lên trên cả ontologique!). 
14. 
Erich Fromm và Richard de Martino trong quyển Zen Buddhism and Psychoanalysis (George Allen and Unwin Ltd. London, 1960) dã đem cho Phân tâm học mà giải thích Thiền và đem Thiền vào khai sáng Phân tâm học; quyển sách này rất giá trị, nhưng chỉ giá trị về mặt ontique! 
Hubert Benolt trong quyển La Doctrine Suprême selon la pensée Zen (Editions du Vieux Colombier, Paris, 1960) và quyển Lâcher Prise (Editions du Vieux Colombier, Paris, 1954) đã lấy tâm lý học để tìm ra phương pháp trị liệu tâm bệnh theo Thiền: hai quyển sách này cũng rất giá trị và thông minh, nhưng cũng chỉ giá trị ở mặt ontique! 
15. 
R.H. Blyth đã viết quyển Zen in English Literature and Oriental classics (The Hukuseido Press Tokyo, 1942) để khám phá tư tưởng Thiền trong những tác phẩm văn chương ở Anh và ở thế giới (như Wordsworth, R.L.Stevenson, Shakespeare, Cervantes, vân vân). 
R. H. Blyth đã phạm một lỗi lầm lớn nhất là đồng hoá tất cả mọi sự. 
R. H. Blyth không có một ý thức nào về ý nghĩa học (Sémantique theo nghĩa của S.L. Hayakawa trong quyển Language in Thought and Action). 
Cũng một chữ giống nhau, nhưng ý nghĩa của nó đã thay đổi theo từng người và từng hoàn cảnh; chẳng hạn như chữ A, nếu thiền sư nói A, Shakespeare cũng nói A, tôi cũng nói A, anh cũng nói A; thì tất cả đều là A, nhưng mỗi chữ A này đều khác nhau. 
Thiền sư nói A để giải thoát những kẻ chưa ngộ; Shakespeare nói A để đưa lên một thái độ sống của nhân vật; tôi nói A để cho một thí dụ về ý nghĩa học; anh nói A vì anh nói để tập đánh vần, vân vân. 
R. H. Blyth đã đem chữ A của thiền sư ra so sánh với chữ A của Shakespeare, rồi kết luận là chữ A của Shakespeare là giống chữ A của Thiền (vì cũng đều là chữ A mà!!!), rồi kết luận rằng ông đã khám phá ra Thiền trong Shakespeare, rồi viết một cuốn sách thật dày đặt tên là Thiền trong văn học Anh (Zen in English Literature) Và người nhẹ dạ đọc qua quyển sách ấy liền tin theo R. H. Blyth để rồi chẳng biết “Thiền là cái quái gì” mà nhìn ở đâu cũng là Thiền, mà thực sự nói một cách tuyệt đối thì ở đâu cũng là Thiền, nếu vậy thì cần gì phải xác định là “Thiền trong văn học Anh” vì Thiền ở khắp mọi nơi, vậy thì ta cũng có thể viết về những đề tài như “Thiền trong cách bế em” “Thiền trong việc thi cử” “Thiền trong máy phát thanh”, vân vân. 
Cứ theo điệu đó thì sẽ đi đến chỗ cuồng Thiền. 
Ai mà không biết chữ A của Shakespeare là nói lên thái độ sống của một nhân vật trong vở kịch, tức là chữ A ấy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng; còn chữ A của thiền sư là xuất phát từ kinh nghiệm giác ngộ. 
R. H. Blyth đã đồng hóa chữ A của Shakespeare với chữ A của thiền sư, đồng hoá một cách vô thức và một cách ngu xuẩn. R.H. Blyth đã đồng hóa trí tưởng tượng với kinh nghiệm xác thực của đời sống! 
Sở dĩ tôi phải đem R. H. Blyth ra đây để phê bình nặng lời như trên là vì tôi thấy đã có nhiều vị học giả giáo sư đại học đã vô tình đề cao R. H. Blyth, mà không ý thức được sự tai hại nguy hiểm do R. H. Blyth gây ra. 
16. 
Quyển sách tệ nhất về Thiền mà tôi đã đọc là quyển Essais sur le Bouddhisme en général et sur le Zen en particulier của R. Linssen (dịch ra Anh văn là Living Zen); R. Linssen chỉ lấy tư tưởng của Suzuki, tiêu hóa một cách hời hợt nông cạn thiếu sót, không thông minh. 
Một người tiêu hoá thông minh là Alan W. Watts trong quyển The Way of Zen, nhưng quyển này vẫn chỉ giá trị ở mặt ontique! Sohaku Ogata lại càng tệ nhất, ông là một thiền sư khi mà viết quyển Zen for the West (Rider, London 1959); ông chỉ trích dẫn lại những ý tưởng của Suzuki và nô lệ Suzuki quá nặng. 
Christmas Humphreys viết quyển Zen Buddhism (George Allen and Unwin, London 1916) và quyển Zen Comes West (George Allen and Ugwic, London 1960), cũng chỉ nằm trong vòng cương toả của Suzuki. 
17. 
Giáo sư Rokusaburo Nieda, khoa trưởng phân khoa triết lý về tôn giáo tại đại học đường Waseda ở Nhật bản, đã vướng vào một lỗi lầm nặng nề nhất khi ông thuyết trình tại Hội nghị Quốc tế về lịch sử tôn giáo tại Marburg an der Lahn ở Đức vào năm 1960); bài thuyết trình của ông nhan đề là “Nothing of Zen in Comparison with Christian Eschatology and Nothing in European Philosophy”; bài này có đăng lại trong tạp chí Asian Culture July-Dec, 1960, vol II No. 3-4. Rokusaburo Nieda đã lầm lỗi nặng nề như sau: 
1. Hiểu sai chữ “Không” của Thiền (Zen) theo điệu “không” trong “không có”. 
2. Hiểu sai câu “bất lập văn tự” hay “ly văn tự” bằng cách chấp vào chữ “bất” và chữ “ly” ấy, nghĩa là hiểu theo điệu phủ nhận và chấp nhận; 
3. Không hiểu chữ “Dasein” với “Das Seiende” một lầm lẫn quá nặng nề mà bất cứ người nào đã đọc triết lý Heidegger cũng không thể tha thứ được; 
4. Thiền là Ngộ, Heidegger đứng trên vị trí “chưa Ngộ” mà viết triết lý; Rokusaburo Nieda “chưa Ngộ” mà leo lên chỗ “Ngộ” của Heidegger, rồi lại đem so sánh chữ “Không” của Ngộ với chữ “Không” của người chưa ngộ. Chữ “Không” của Heidegger còn nằm trong tri thức, còn nằm trong tính luận (ontoiogique); còn chữ “Không” của Thiền, tức là Sunyata của Tam luận tông, là đồng nghĩa với Tri Bát Nhã (Prajna) với giải thoát, chữ “Không” của Thiền là không hóa (néantiser) cả chữ “Không” tột đỉnh, kể cả “Nichts” của Heidegger. Chỉ khi nào chữ “không” (Nichts) bị phá tan đến vỡ tung mất đi thì “Sunyata” mới xuất hiện lên làm việc giải thoát toàn diện. 
Để chấm dứt, tôi xin có những nhận xét sau đây: 
1. Thiền là Ngộ; Ngộ là giải thoát; 
2. Chưa giải thoát mà nói về giải thoát thì chỉ có thể đứng trên lập trường sử học với ý thức rằng mình là kẻ chưa giải thoát; 
3. Lặp lại lời nói của các thiền sư đã giác ngộ, đang khi mình chưa giác ngộ thì chính sự lặp lại ấy đã làm lời nói ấy trở nên vô nghĩa và rất nguy hiểm, đồng thời chặn đứng lại sự giải thoát của chính mình. 
4. Đọc sách của Suzuki để hiểu tư tưởng của Suzuki; đọc Alan Watts để hiểu tư tưởng của Alan Watts; đọc Christmas Humphreys để hiểu tư tưởng của Christmas Humphreys; chứ đọc Suzuki, Alan Watts, Christmas Humphreys để hiểu tư tưởng Thiền là một điều sai lầm to lớn, là lầm ngón tay chỉ ngón tay chỉ ngón tay chỉ ngón tay với mặt trăng; lầm ngón tay chỉ mặt trăng đã là nguy hiểm; lầm ngón tay chỉ ngón tay chỉ mặt trăng lại nguy hiểm gấp đôi; lầm ngón tay chỉ ngón tay chỉ ngón tay, vân vân lại càng nguy hiểm vạn lần. 
5. Thiền là giải thoát; chúng ta được quyền đem Thiền so sánh với bất cứ tư tưởng triết lý nào ở thế giới cũng được, nhưng khi so sánh phải nên nhớ Thiền là Thiền, còn tư tưởng triết lý nào dù cao siêu đến đâu nữa cũng còn nằm trong sự trói buộc của lý trí; dù là chủ nghĩa phi lý vẫn bị trói buộc bởi chữ “phi”. 
Sau cùng phải thêm rằng, kẻ viết bài này “chưa Ngộ” và bài này được viết ra trong vị trí “chưa Ngộ” ấy. Hiểu giới hạn mình như thế, phải chăng cũng là thấy được đường đi rồi? 
Hiểu Zen có nghĩa là lao vào đêm tối, bước đi trong đêm tối, không có đường, không thể thấy đường nào nữa. Cứ lủi đầu đi vào hố thẳm mà không mong đợi Giác Ngộ! Vứt bỏ luôn cả Zen! Xô ngã mọi con cờ, ném luôn cả ván cờ, đứng dậy, phủi tay và bước ra ngoài đường, ngó lên trời, ngó xuống đất, bước đi và gặp ai cũng cười, không muốn cười thì mở mắt ra nhìn thấy cái chết đang lang thang trên tất cả những hình dáng của mọi sự, rồi tự coi mình như một xác chết đang di động, cái xác chết ấy lại biết uống, biết ăn và biết đói. Và BIẾT YÊU nữa! Yêu, yêu, yêu, cái giống gì cũng yêu. Chết và yêu, yêu và chết, lúc nào cũng yêu chết, lúc nào cũng chết yêu. Vừa yêu vừa chết, tất cả phép lạ, tất cả phép lạ ở đấy!. 
Chú thích:
[1] Xem quyển Zen and Japanese Culture của D.T. Suzuki trang 3-18 Routledge and Kegan Paul, London, 1959. Hoặc quyển Introduction to Zen Buddhism của D.T. Suzuki, trang 38 - 47 (Routledge and company, London, 1949). Hoặc bộ Essays in Zen Buddhism của D.T. Suzuki, cuốn 1, 2, 3 (Rider and company, London, 1949, 1950, 1953). Hoặc quyển Zen for the West của Sohaku Ogata, trang 11- 20 (Rider and company, London, 1959). Hoặc quyển The Practice of Zen của Chang Chen Chi, trang 120-124 (Harber and Brothers, New York, 1959). Hoặc quyển Zen Buddhism của Christmas Humphreys. (George Allen and Unwin, Ltd, London 1960). 
[2] Xem chương “Zen: A Reply to Dr Hu Shih” trong quyển Studies in Zen của D.T. Suzuki, trang 129 - 164 (Rider, London, 1959). 
Chương tư 
Ý thức bất diệt - Biểu tượng cuộc đời trong tiểu thuyết Ivo Andric 1. 
Năm 1961, nhà văn Nam Tư Ivo Andric được giải thưởng Nobel về quyển Cầu trên sông Drina. Ông gọi tiểu thuyết của ông là “Chronique” (biên niên sử), bởi vì Cầu trên sông Drina bao gồm trên ba trăm năm lịch sử Nam Tư. 
Tôi không nghĩ rằng tôi đang đọc lịch sử. Tôi lại có cảm tưởng man mác rằng mình là một hồn ma; vì quá lưu luyến với cõi trần, nên trên ba trăm năm vẫn hiện về lảng vảng trên cầu Drina để theo dõi những đau thương của cuộc đời. 
Càng lớn tuổi tôi càng thấy mình là một con ma giữa đời sống cô hồn này. Mỗi người là một con ma trong tương lai. Nhưng tương lai là gì? Nghĩa địa. Khi thấy mình là ma thì đồng thời cũng thấy mình là Phật, vì chỉ có Phật mới là kẻ duy nhất biết rằng mọi sự đều trở thành ma, nhưng khi vừa biết được như thế thì tất cả bóng ma đều tan mất. 
Thế hệ này rồi đến thế hệ khác, lớp lớp người, lớp lớp sóng, bao nhiêu sương gió, mưa to bão loạn, khói lửa ngút trời: dòng sông Drina cuồng loạn, dòng sông Drina thanh bình. Cát bụi. Hương thời gian thổi qua heo hắt. Cầu Drina vẫn lạnh lùng bắc ngang dòng đời vô tận. 
Thành phố Visegrad ở ngay bên cầu Drina. Từ mấy thế kỷ, cuộc đời lặng lẽ của dân cư thành phố đã bắt rễ ngay giữa cầu. Vận mạng dân cư thành phố và vận mạng chiếc cầu dính liền chặt chẽ với nhau đến nỗi người ta không thể nào nghĩ rời ra được [1]. Phần quan trọng nhất trên cầu Drina là kapia, sân thượng ở giữa cầu. 
Tất cả những biến cố lớn nhỏ đều xảy ra tại kapia. Nơi đây, những đêm trăng thanh gió mát, ta thấy bao nhiêu người lô nhô, lố nhố, trò chuyện, nô đùa sung sướng; hết thế hệ này rồi tới thế hệ khác, bao nhiêu lớp người kế tiếp nhau đều lần lượt trải qua chặng đời của họ nơi giữa cầu. Cũng có lúc cầu Drina hoàn toàn vắng lạnh hoang vu; thỉnh thoảng một vài cơn gió vèo qua trên mặt đất khô khan và ánh trăng ma quái chiếu rọi vào những đầu người ứ máu treo lắc lư giữa sân cầu. Đó là những thời tao loạn biến động ở biên thùy. Một vài người lính đi qua lại trên cầu; không khí nặng nề vây trùm cả thành phố. Rồi mọi sự đen tối cũng đều qua hết. Tất cả đen tối đều phải đi qua. Cả ánh sáng cũng đi qua. Chỉ có người mù mới hiểu thế nào là đêm tối. Khi hiểu như vậy, thì đêm khuya mười hai giờ sẽ trở thành đêm giao thoa của ánh trăng và bình minh. 
Cầu Drina lại sống bình thản như xưa; cũng từng ấy người nhỏ lớn, từng ấy câu chuyện vui buồn, từng ấy bi kịch và hài kịch của đời tiếp diễn không ngừng từ mấy trăm năm. Cuộc đời dân cư thành phố đã trôi chảy phát triển trên cầu và tại kapia. Người ta luôn luôn nghe những tiếng “trên cầu” trong tất cả những câu chuyện về biến cố gia đình, công cộng hay riêng tư. Những bước chân chập chững đầu tiên của tuổi thơ và những trò chơi ban đầu của tuổi trẻ đều xảy ra trên cầu Drina (trang 15). Tất cả mọi sự, như đám ma, đám cưới, tình yêu, sự thương lượng, buôn bán, giải hoà, gây cãi, tranh luận, họp mặt, hẹn hò và chờ đợi đều xảy ra nơi sân thượng giữa cầu. 
Đời sống là cuộc nổi loạn nơi “sân thượng giữa cầu” và cái chết là dòng sông trôi chảy không ngừng “tự trời cao đổ xuống”. 
Dân cư ở Visegrad mang nặng dòng máu nghệ sĩ, họ là những người thích trầm tư mặc tưởng, mơ mộng xa vời, phóng túng chơi vơi, triền miên, thanh thản với đời sống bên trong, tận hưởng thú đời, dễ dãi và xem thường tiền bạc. Người ta kể chuyện một tên cướp nọ, trước khi bỏ nghề vì quá già yếu, đã dặn một môn đệ như vầy: “Lúc nào anh định ẩn núp để đánh cướp và anh thấy thằng nào khùng khùng đi ngựa, chân thòng vắt ngang đằng trước yên, tay đánh trống, miệng hát ầm lên, anh đừng đánh cướp nó, mất công vô ích. Hãy để cho nó đi. Nó là dân ở thành Visegrad. Nó chẳng có tiền bạc gì cả, bởi vì tiền bạc chẳng bao giờ bám hạng người ấy” (trang 21). 
Dân Visegrad thích ngồi giữa cầu vào lúc bình minh, hoàng hôn hoặc chiều tối để ngắm muôn triệu ngàn sao trên vòm trời hay ngồi dựa tay vào thành cầu, ngắm nhìn những luồng ánh sáng lung linh trên những triền núi và trông những đám mây chơi vơi. Họ là những thi sĩ không làm thơ, những con người nghệ sĩ sống mông lung trong mộng tưởng triền miên. Người ta nói rằng chính sân thượng kapia ấy đã ảnh hưởng đến vận mạng thành phố và đến cả tính tình bâng quơ của dân cư thành phố. 
Lịch sử của cầu Drina cũng là lịch sử đời sống thành phố và đời sống dân cư ở đó. 
Mehmed Pasna, đại nhân của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, đã có công xây cất cầu Drina. Ngày trước, những vùng lệ thuộc đế quốc Thổ đều phải chịu lệ hiến máu. Quân lính Thổ đi lùng kiếm khắp nơi để bắt những trẻ con đẹp trai khoẻ mạnh - từ mười tuổi đến mười lăm tuổi. Những đứa trẻ này được nuôi nấng đàng hoàng ở Thổ Nhĩ Kỳ để trở thành dân Thổ và sống phụng sự đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Một buổi sáng lờ mờ vào năm 1516, một đứa trẻ thông minh khoảng mười tuổi bị quân lính Thổ bắt đem về Stamboul, lúc đến dòng Drina, đứa bé ấy bỗng nhiên rưng rưng cảm thấy nhói đau trong lòng, nơi đây đã cô đọng tất cả nỗi tuyệt vọng và bất lực khôn cùng của con người, từ đây, đứa bé ấy phải lìa bỏ quê hương vĩnh viễn, theo một lối sống mới, mang tên mới và quên luôn gốc rễ của mình. 
“Trở thành người lớn” và “trưởng thành” vẫn luôn luôn có nghĩa là phải chịu cảnh “quên luôn gốc rễ của mình”. Thảm kịch của con người hiện nay là mất rễ. Vũ trụ vốn không có rễ, phải sống cùng độ với sự mất gốc rễ này thì mới có thể ngó thẳng vào sự khủng khiếp ghê sợ của kiếp người: chỉ có sự sợ hãi mới giải thoát khỏi sự sợ hãi. Đi tìm lại gốc rễ là muốn nằm lại trong lòng mẹ. Tự tử. Về sau, đứa bé ấy trở thành một vị anh hùng tài ba thống đốc và thượng thư trứ danh, tên là Mehmed Pasha Sokolli, người đã mở mang bờ cõi Thổ Nhĩ Kỳ và tạo nhiều huân công oanh liệt; Mehmed Pasha đã quên nguồn gốc ông, nhưng một hôm, bỗng nhiên những vết tích chua xót của tuổi thơ trở về ám ảnh ông một cách đau đớn mãnh liệt và ông cho xây chiếc cầu to lớn ngang qua dòng sông Drina để nối liền miền Bosnie và phương Đông, nối liền nơi ông chào đời và nơi ông thành người. 
Phải làm sập đổ tất cả nhịp cầu trong đời mình. Đừng mong muốn bắc cầu lại, hãy để sự ngăn cách được là ngăn cách. Chịu đựng sự phân ly, yêu thương sự phân ly. Muốn bắt lại một nhịp cầu là muốn tìm lại khói nhà xưa, tìm lại cái gì đã bay lên và bay mất. Sau bao lần trở ngại khó khăn, cầu Drina được cất xong vào năm 1571 và ít lâu sau, Mehmed Pasha chết; nhưng từ đó cầu Drina vẫn sống vĩnh cửu với thời gian, Qua những biến thiên phát triển nhanh chóng của thế hệ loài người, cầu Drina vẫn không ngừng thay đổi như dòng nước chảy dưới cầu (trang 71). 
Cái gì rồi cũng thay đổi. Chỉ có một cái không bao giờ thay đổi, đó là cái chết. 
Trên ba trăm năm trời, bao nhiêu thiên tai, bao nhiêu hiểm họa xảy ra… Bao lần chiến tranh, tàn sát, biến động, nổi loạn, dịch, lụt… chẳng hạn trận đại thủy tai vào hạ bán thế kỷ mười chín (chương V), trận nổi loạn ở Serbie vào đầu thế kỷ mười chín (chương VI), bệnh dịch vào giữa thế kỷ mười chín (chương VII), cuộc nổi dậy ở Serbie vào cuối thế kỷ mười chín (chương IX), quân đội Áo chiếm Bosnie vào năm 1878 (chương IX, X, XI, XIII, XIV, XVI, XVII, và XVIII), những chiến thắng của dân Serbes (chương XVIII), đại công Franz Ferdinand bị ám sát (chương XXII)… 
Tất cả những biến cố trên đã lay chuyển tơi bời đời sống thành phố; vai trò cầu Drina nhiều lúc phải thay đổi hoàn toàn; sinh hoạt trên cầu cũng thế và cầu cũng bị chiến tranh tàn phá nhiều; thế mà sau bao lần dâu biển, cầu Drina vẫn không thay đổi qua những năm, qua những thế kỷ hoặc qua những khúc quanh đau đớn nhất trong những biến cố loài người… (trang 101). 
2. 
Bên dòng sông Drina và nhất là nơi sân thượng giữa cầu, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, từng lớp người lặng lẽ đi vào cuộc đời rồi lại chết đi, để từng lớp người khác tiếp tục bước tới và chẳng bao lâu lại biến mất đi, để từng lớp người khác nữa… Cứ thế, cuộc đời vẫn miên man trôi chảy không ngừng như dòng suối ngầu bọt giữa ven rừng: suối vẫn chảy, luôn luôn mới nhưng luôn luôn vẫn là một dòng suối cũ. Những người ấy xuất hiện trên cõi đời như những bóng nắng mùa thu. Họ sống một thời gian ở cõi trần, mang nhiều hy sinh tha thiết với đời, chịu đựng nhiều đau khổ, rồi chết đi nhẹ nhàng như làn khói mỏng bâng quơ… Họ chết nhưng họ bất diệt. 
Họ là Ilinka (người thiếu phụ điên và đau khổ), Radisav (vị anh hùng lẫm liệt bỏ mình vì lý tưởng), Arif Beg (người quản đốc việc xây cất cầu). Dauthodja Mutavelic (người quản thủ nhà trọ bên cầu), Jelisije (cụ già ái quốc), Mile (người nhà quê ngây ngô), Salko Corkan (con người cầu bơ cầu bất, lãng tử), Fata (giai nhân mệnh bạc), Alihodja Mutevelic (con nhà danh gia vọng tộc), Pop Nicola (giáo trưởng), Mula Ibrahim (quí tộc), Shemsibeg Brankovic (con người cứng đầu bướng bỉnh), Milan Glasicanin (người đánh bạc), Gregor Fedun (anh lính trẻ tuổi si tình), Lotte (cô quản lý lữ quán), Nikola Glasicanin (chàng thanh niên ái quốc nghèo khổ), Vlado Maric (người thợ trẻ nghèo), Fehim Bahtijarevic (người sinh viên trầm lặng), Pavle Ranpovic (bác thương gia lạc lõng), Corka (cô giáo non trẻ) và Jamak (lão đưa đò quái dị). 
Họ sống không lâu ở cõi đời nhưng họ đã để lại trong tâm tưởng tôi những hình ảnh rực ngời nhất của con người, nhất là Ilinka và Jamak, hai kiếp sống tầm thường nhất trong những kiếp sống trên, thế mà không hiểu vì sao tôi cứ bị hai hình bóng tầm thường ấy ám ảnh theo đuổi tôi một cách lạ lùng nhất; tôi thấy rõ nét mặt kỳ dị của Jamak và nghe tiếng than khóc ảo não của Ilinka trong tiềm thức, nhất là vào những đêm tối có trăng. Phải chăng Jamak và Ilinka là những hình ảnh trung thực nhất của con người. Con người sinh để khổ rồi chết. Phải chăng chính sự đau khổ đó làm con người trở nên một con vật cao quý nhất, tốt đẹp nhất? Con người bất diệt bởi vì con người đau khổ. Những lời nói của Faulkner (trong lúc nhận giải thưởng Nobel vào khoảng mười năm trước Ivo Andric) mà đến hôm nay vẫn còn văng vẳng bên tai tôi: “Con người bất diệt bởi vì con người có một linh hồn, một tâm hồn dễ trắc ẩn động lòng, biết hy sinh và chịu đựng đau khổ” [2]. Trên đường đời luân lạc, tôi đã từng gặp biết bao nhiêu cụ già lái đò, tóc bạc trắng phơ, cô đơn chiếc bóng, không gia đình, không con không cái, ngày ngày hiu quạnh đưa khách sang sông.
Tôi đã nghĩ gì? Trên những vỉa hè đầu phố, tôi đã từng gặp biết bao nhiêu người đàn bà điên khùng ngơ ngác, bơ vơ, lạc lõng lang thang giữa người đời như con chó ghẻ? Tôi đã nghĩ gì? Jamak sống vào thời cầu Drina chưa được xây cất. Thuở ấy, chỉ có Jamak chèo đò đưa khách sang sông. Jamak là một cụ già lầm lì trông rất dễ sợ. Chiến tranh đã tàn phá tâm hồn cụ và cụ trở nên bơ phờ lạnh lùng trước cuộc sống. Con người lầm lì ấy đã tung hoành ngang dọc trong mấy trận địa, mang nhiều thương tích và nhiều tiếng tăm, để rồi vào buổi hoàng hôn của đời mình trở về lặng lẽ âm thầm trên dòng Drina. Cụ không bao giờ cười và cũng không bao giờ nói chuyện với khách sang sông; mỗi lần trả tiền đò người ta cứ ném tiền xuống khoang thuyền và cụ vẫn lạnh lùng chẳng bao giờ quan tâm đến. Nét mặt trông hung dữ, nhưng tính tình cương trực ngay thẳng. Những lúc mực nước sông lên cao hay trời kéo mây, cụ kéo đò vào nghỉ và lúc bấy giờ, dòng sông Drina trở thành đại dương bao la vì không ai có thể qua sông được nữa; có kêu gọi cách gì đi nữa; Jamak cũng không bao giờ trả lời. Tiếng người gọi đò ơi ới chan hòa với tiếng mưa rơi phũ phàng, rồi biến mất giữa dòng sông. Cuộc sống lặng lẽ của cụ lái đò cô đơn và kỳ quặc ấy khiến ta bàng hoàng nghĩ ngợi. Những gì đau thương chua xót của đời đã hằn vết ray rứt trong lòng cụ để rồi lúc tóc bạc trắng phơ cụ trở về sống âm thầm bên dòng Drina: 
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi 
Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân 
Hình ảnh Jamak nhắc lại hình ảnh của một người lái đò khác tên là Vasudeva, trong truyện Siddharta của Hermann Hesse (Nobel 1946). 
Jamak và Vasudeva là hai người lái đò lạ thường kỳ bí nhứt trong văn chương nhân loại, mà có lẽ suốt đời tôi không bao giờ quên được. 
Trong truyện Cầu trên sông Drina, ngoài Jamak, ta cũng không thể quên Ilinka xuất hiện vào lúc cầu Drina bắt đầu được xây cất. Nàng là một người đầy tớ nghèo khổ, khùng khùng điên điên, thế rồi bỗng nhiên nàng có thai và nàng cũng không hề nói đến tên người đã gây đau khổ cho nàng (hay là nàng cũng không biết ai). Nàng sinh đôi trong một chuồng ngựa nào đó; hai đứa hài nhi đều chết; người ta chôn hai đứa con nàng trong một vườn mận. Vài ngày sau, Ilinka ngồi dậy và đi tìm kiếm hai đứa con nàng; nàng bơ phờ đi tìm khắp nơi trong làng hoặc lai vãng bên bờ sông. Người ta cố giải thích rằng con nàng đã chết, nhưng Ilinka nhứt định không tin. Từ đó, ngày nào người ta cũng gặp nàng đi thất tha thất thểu khắp nơi. Một thời gian sau, vào mùa đông lạnh buốt, nàng biệt tăm mất dạng luôn. Người thiếu phụ điên khùng đau khổ ấy là hình ảnh trọn vẹn đẹp đẽ nhất của người đàn bà. Ngoài Jamak và Ilinka, đáng nhớ nhất là Fata, Gregor Fedun, Radisav, Jelisije, Dauthodja Mutavelic, Alihodja Mutavelic, Nikola Glasicanin, Salko Clirkan, Lotte... 
Họ đều là những tâm hồn cao quý, sống trung thành với quả tim của họ, họ thà chết chứ không bao giờ tự đánh lừa hay là để kẻ khác đánh lừa mình, chẳng hạn Gregor Fedun, một anh lính trẻ tuổi gác trên kapia của cầu Drina, đã tha thiết yêu đắm một cô gái đi đường; đang lúc chàng ngây thơ dâng trọn tâm hồn mình, chàng có ngờ đâu chàng đã bị cô gái kia đánh lừa để âm mưu tìm đường tẩu thoát cho một tên cướp ghê gớm; chàng đã lỡ yêu say đắm, đến khi mọi sự đổ vỡ, chàng không thể nào sống được vì chàng đã lỡ yêu say đắm, đến khi mọi sự đổ vỡ, chàng không thể nào sống được, vì chàng đã để kẻ khác đánh lừa chàng một cách thảm thương và chàng đã tự kết thúc đời chàng. Đó là sự kết liễu của một kẻ đã tự đánh lừa và để kẻ khác đánh lừa mình (trang 167). 
Hãy để cho người khác đánh lừa mình. Còn sợ tự đánh lừa hay còn sợ người khác đánh lừa mình thì vẫn còn nô lệ vào sự ngu đần của bản ngã. Cứ ngu dại, cứ khờ khệch, cứ để cho mọi người đánh lừa mình, đó là sức mạnh vô hình của hố thẳm. 
Hình ảnh Fata cũng đẹp đẽ vô cùng. Cha nàng bắt nàng lấy một người chồng mà nàng không yêu. Nàng vâng lời cha để giữ trọn đạo con, nhưng đồng thời nàng cũng vâng lời quả tim nàng để giữ trọn đạo sống khi đám rước dâu đi đến giữa sân cầu, Fata đã nhảy xuống dòng sông Drina để tìm nơi chốn nào mà tất cả mọi sự đều tự do, vô tận, vô danh và im lặng (trang 109). 
Chúng ta không thể nào quên được Radisav, vị anh hùng bất khuất, người đã hy sinh hơi thở của mình để tranh đấu chống lại tàn bạo. Radisav đã bị hành hình ngay trên cầu; chàng chết, nhưng bất diệt như một tượng đá ngàn năm vẫn còn đó (trang 55). 
Radisav, Fanta, Gregor Rebun đều ở trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng cả ba giống nhau là đều tìm sự sống trong cõi chết; khi cuộc đời không còn đáp trả lại những tiếng gọi đau thương của lòng họ; họ đã bỏ đi để tìm miền hoa thơm cỏ biếc của một chân trời khác. 
Jelisije thoáng hiện trên cầu Drina như một du khách ở trần gian, một bóng phù du trong một thế giới phù du (trang 85) Jelisije là một cụ già có hình dáng của một tiên ông, suốt ngày bềnh bồng lang thang trên những nẻo đường, hết đi hành hương nơi này rồi đến nơi nọ, cuộc đời cụ như một bóng mây phiêu diêu. Vì lòng khí khái và ái quốc, cụ đã bị hành hình trên cầu cùng với người nhà quê ngây thơ vô tội, tên là Mile.
Dauthodja Mutavelic, Alihodja Mutavelic, Nikola Glasicanin, Lotte, Salko Corkan đều là những con người biết sống trọn vẹn với đời họ, cứng đầu cứng cổ, trầm lặng, chịu đựng đau khổ, đầy lòng hy sinh nhân ái, tha thiết vời người, thành thật với lòng họ. 
Dauthodja Mutavelic đã nói lên ý nghĩa chung của họ: “Vận mạng chúng tôi trên mặt đất này là đấu tranh chống lại sự suy đồi, sự chết và sự phân tán; dù sự chiến đấu có hoàn toàn hoài công đi nữa, con người cũng phải chịu đựng kiên nhẫn trong sự chiến đấu này” (trang 73). 
Sự suy đồi, sự chết và sự phân tán là những điều bí mật của đời sống. Không chiến đấu chống lại sự bí mật. Không giải quyết sự bí mật. Chấp nhận sự bí mật và sống với sự bí mật mà không cần tìm hiểu. Bổn phận của tôi. 

3. 
Ivo Andric đã dựng lại hình ảnh của cầu Drina trên ba trăm trang giấy. Ông muốn nói gì? Phải chăng cầu Drina là biểu tượng của cuộc đời? Trải qua bao nhiêu tang thương biến đổi, trải qua bao nhiêu bi hài kịch của con người, dòng đời cứ trôi chảy mênh mang và bất diệt. Sau bao lần thủy tai, sau bao lần chiến tranh khói lửa, cầu Drina vẫn trường tồn với thời gian (trang 70, 71, trang 80, 81, trang 93, trang 101, trang 142 – 143, trang 214, trang 223, trang 234, trang 289, trang 307…) 
Không có gì trường tồn với thời gian. Thời gian chỉ là thời gian vì thời gian vẫn đi qua. Chỉ có giây phút hiện tại là thời gian duy nhất, sự trường tồn duy nhất, để vừa sống vừa chết, vừa yêu vừa thương, vừa cảm tạ vừa sáng tạo. Sự trường tồn là ảo tưởng. Chỉ có sự trường tồn duy nhất là khói thuốc. Và một đôi mắt nào đó của người yêu bắt gặp đôi mắt mình trong một thoáng nhìn lướt qua. 
Phải chăng ý nghĩa của tác phẩm Cầu trên sông Drina nằm gọn trong câu văn sau đây: “Cuộc đời là một sự huyền diệu khó hiểu, mặc dù bị phá hủy tàn hại không ngừng, cuộc đời vẫn trường tồn như chiếc Cầu trên sông Drina” (trang 81). 
Quyển truyện chấm dứt lúc Alihodja từ giã cuộc đời và lúc cầu Drina bị chiến tranh phá hủy thế mà người đọc không cảm thấy thất vọng và lại mang đầy hy vọng triền miên như Alihodja (lúc thở hơi cuối cùng, Alihodja vẫn còn tin tưởng mãnh liệt vào cuộc đời). Tôi cảm thấy lo lắng lúc thấy cầu Drina bị chiến tranh phá hủy, đọc xong quyển truyện rồi, tôi băn khoăn tự hỏi không biết ngày hôm nay cầu Drina ấy có còn trường tồn ở Nam Tư hay không? Lần dở lại những trang giới thiệu của dịch giả Lovett F. Edwards, tôi vui sướng biết bao được biết rằng: “Du khách đến Nam Tư vẫn còn có thể nhìn thấy chiếc cầu trên sông Drina” (trang 7). 
Khi tôi không còn sợ hãi thì chiếc cầu sông Drina vẫn còn đó: Chỉ một thoáng sợ hãi lướt nhẹ qua tim thì một triệu chiếc cầu Drina cũng tan ngay lập tức. 
Dù có bị phá hủy, cầu Drina vẫn bất diệt. Ivo Andric đã dựng lên biểu tượng trọn vẹn của cuộc đời. 
Sự bất diệt chỉ có ý nghĩa khi nào mình sợ chết. Không sợ chết thì cái chết trở thành chiếc cầu đưa mình qua một miền đầy hoa phong lữ thảo và nắng mới. 
Một chiếc cầu và một dòng sông. Chỉ có bấy nhiêu thôi cũng gây nhiều nghĩ ngợi.
Chú thích: 
[1] Ivo Andric, Na Drina Cuprija, nhà xuất bản Prosveta Belgrade, 1949. Bản dịch Anh văn: The Bridge on the Drina, dịch giả Lovett F. Edwards, nhà xuất bản Mac Millan, New York 1059, 21. 
[2] He is immortal… because he has a soul, a spirit capable of compassion and sacrifice and endurance (Faulkner’s address accepting the 1949 Nobel Prize for literature). 
Chương năm 
Ý thức sinh tồn - Đêm ngày và William Saroyan hay là con người lang thang trong đời sống 
Tặng Thanh Tuệ, người bạn khó quên với nụ cười dễ nhớ Chương này được viết ra trong giai đoạn thơ mộng nhất của tôi ở Đà Lạt cách đây đúng mười năm, tức là năm 1960. Dạo đó, tôi dạy sinh ngữ ở trường Việt Anh tại Đà Lạt, tôi ở trọ dưới hầm nhà của một biệt thự số 14 đường Yagut. Phòng tôi nhỏ hẹp, nhưng có một cánh cửa lớn mở ra, khu vườn đầy hoa hồng và bướm. Tối đến, có những con bướm nhỏ bay lạc vào phòng tôi (bây giờ, không biết những con bướm ấy ở đâu? Chắc chúng đã chết từ lâu và chỉ còn tôi ở lại với những gian phòng đóng cửa). Những buổi sáng sớm, tôi nằm ngó ra vườn đầy sương mù và thấy rằng mình đang sống thơ mộng, yêu đời, mênh mang, lòng tôi lúc ấy cất lên tiếng hát ngọt ngào như tiếng chim vừa mới thức dậy trong vườn. Ngày này kéo đi đến ngày khác, tôi sống từ cơn mộng này đến cơn mộng khác. Mộng mị tuôn chảy đêm ngày trong gian phòng rộng cửa mở ra đón tiếng chim và cánh bướm. Đôi khi có vài con ong say mật bay lảo đảo vào phòng tôi. Cánh cửa sổ phòng tôi không phải vẫn mở luôn luôn, vì tôi vẫn đi vắng gần như thường xuyên. Sau những giờ dạy là tôi đi lang thang suốt đêm khắp mọi đường phố Đà lạt. Cả ban ngày tôi vẫn bước đi khắp đồi núi Đà lạt, cả những ngày mưa, tôi cũng đi trong mưa và dường như không thấy ướt. 
Có một đêm tôi đã đi suốt đêm như vậy, tôi đi đê mê trong đêm tối như đi vào trong câu chuyện thần thoại của trẻ em. Và lúc sáng trở về nhà, tôi đã ngồi viết một mạch trọn cả chương này. 
Viết xong tôi nằm ngất mê man trên giường. Lúc tôi thức giấc thì Đà Lạt đã về chiều và mưa đập mạnh vào cửa sổ. Tôi vội đứng dậy, choàng áo, đi xông ra ngoài mưa. Đi suốt đêm nữa. Nước mưa ngọt một mùi vị chỉ nếm được trong tiền kiếp. 
P.C.T 
1. Đêm 
Tĩnh mịch im lặng chó sủa tiếng ho buồn buồn của một người đàn ông tất cả đều tĩnh mịch im lặng thiên thu dế kêu nhỏ nhẹ nặng nề mộng mị chó sủa từng hồi từ hoàng hôn Đà Lạt đêm nay trời không làm mưa đêm nay Đà Lạt âm u tĩnh mịch ngày tận cùng của nhân loại sự im lặng thánh kinh của buổi khai thiên lập địa bầu trời nhiều sao hay không tôi khóc nức nở bởi vì khắp nơi đều toàn là sự mù quáng ngộ nhận hiểu lầm thực là lạ lùng. It was this other thing this incredible blindness everywhere I cried bitterly phải thế không William Saroyan người trẻ tuổi gan dạ trên cái đu bay và người con trai sung sướng là tôi thường thức suốt đêm để hỏi mình là ai và để suốt đời hưởng được một chút thanh bình trong trái tim tôi muốn đi tu vì sợ ở đời sẽ mau trở thành người điên bởi vì cuộc đời quá tươi đẹp và nụ cười của sự chết trên đôi mắt tôi and the smile of death in my eyes Saroyan đã gọi thế trong chuyện Aspirin is a Member of the NRA bởi vì tôi là người bị bịnh thần kinh quá nặng cho nên đêm nay tôi thường nhắc lại tên Saroyan như tên quá khứ để mà thấy rằng cuộc đời đáng sống và để nhớ lại những kỷ niệm xa xôi sẽ làm thuyên giảm bệnh thần kinh như những viên thuốc Névrovitamine 4 hay như nhưng bản nhạc buồn của Chopin của những nhạc sĩ tôi không biết tên và thường lắng nghe đau khổ trong những quán về khuya những lúc chán đời vì cuộc đời quá tươi đẹp và bởi vì William Saroyan là nhà văn Mỹ từ chối giải thưởng Pulitzer và viết văn nhẹ nhàng hay gợi lại những kỷ niệm nồng nàn xa xôi Saroyan thường cười cái chết và nghĩ rằng thực sự tuyệt đối không có gì để nói there was absolutely nothing to say trong truyện The Earth Day Night Self và Saroyan viết văn bàng bạc khơi khơi trên đời chứ không có giọng điệu bệnh hoạn thần kinh neurasthénie psychasthénie hypochondrie dépression schizophrenie et caetare như Hemingway John Dos Passos Faulkner James Joyce và Dosto và Kafka và Leonid Andreyev bởi thế đêm nay không ngủ được nằm tráo trở trên giường thao thức trong đêm tối không thắp đèn vì tôi ghét ánh sáng tôi thích ngồi trong bóng tối đen và nhớ và the light I disliked so I used to sit in the darkness remembering nhớ gì chỉ nhớ lại William Saroyan nhớ Saroyan có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm của chính mình tôi tự hỏi tại sao ngày xưa tôi chỉ ưa thích những điều giản dị và thanh bình và bình lặng và những gia đình We went in for the simple things peace anh quiet and families thế mà loài người không bao giờ để tôi yên và trời ơi sao ở đời lại quá nhiều ngộ nhận bi thương để cho James Dean phải đi bơ vơ lạnh lẽo trên quãng đường vắng vẻ loáng nước mưa và để cho Rimbaud phải du côn đau đớn đi tìm những gì miên viễn ở mấy bến Phi – châu hiu quạnh và để cho Van Gogh bàng hoàng đi ăn mày một ánh lửa mơ hồ ở mặt trời thiêu đốt và để cho Blaise Cendrars phải đau lòng cầu nguyện van xin Thượng đế hãy xót thương những gái giang hồ vào ngày lễ Phục sinh thế rồi Blaise Cendrars từ trần ngày 21 tháng giêng 1961 và trần gian mật một con chim én vàng một con chim én không làm thành mùa xuân như anh đã nói nhưng mùa xuân là cái gì tôi không cần mùa xuân ấy vì cuộc đời chỉ cần có một con chim én thôi và thực ra tôi ghét lý luận lôi thôi và ghét lý trí phân minh cho nên hồi chiều này tôi đã xé trọn 911 trang Histoire de la Philosophie occidentale của Bertrand Russell dù tôi rất yêu Bertrand Russell song tôi rất bực bội mà được Bertrand Russell cho biết rằng William James đã mắng chửi Santayana một cách tồi tệ và Santayana cũng ghét William James vô cùng, tôi lấy làm lạ tại sao những triết gia thường ghét nhau như thế, bởi vậy tôi ghét triết học vì triết học chỉ dạy tôi một điều là ghét triết học tôi ghét triết học cũng như con gái của Luther nói rằng ai không yêu rượu không yêu đàn bà con gái và không yêu bài hát thì vẫn là thằng điên dại suốt đời Wer nicht liebt Wein Weib und Gesang, bleibt ein Narr sein Leben lang tôi chỉ yêu bài hát bài ca âm nhạc chứ không hề muốn yêu con gái vì thế tôi sung sướng làm thằng điên dại suốt đời tôi ghét con gái cũng như tôi ghét Thượng đế cũng như một đứa học trò trốn học ghét thầy cũng như một đứa con hoang đàng bỏ nhà mà đi và ghét cha mình và tôi ghét Thượng đế đến nỗi không bao giờ thích sống trên thiên đàng và muốn sống đời đời dưới hỏa ngục để nhìn xem lửa thiêu đốt muôn triệu người triệu triệu triệu triệu người để mà có thể đo được sức tàn nhẫn của Thượng đế và tôi muốn làm quỷ Lucifer để có thể chửi rủa Thượng đế cho hả giận còn nếu Thượng đế không muốn cho tôi làm quỷ thì tôi xin được làm người và đệ một cái đơn xin phép được sống sometime soon I must write an Application for Permission to Live như The Daring Young Man on the Flying Trapeze của William Saroyan và bỗng nhiên tôi nhớ đến hình ảnh đau buồn của một người làm vườn nghèo khổ khum num chắp tay thưa ông chủ nhà rằng xin lạy ông vui lòng cho con nghỉ làm vườn một ngày thôi vì nhà con mới lên Đà Lạt chưa quen lạnh nên đã bị đau phổi con phải nghỉ việc để chạy tiền đi bác sĩ xin ông cho con lạy ông thương hại con không hiểu sao chuyện ấy xảy ra hồi chiều này thế mà tối nay giữa đêm khuya tịch mịch tôi sực nhớ lại có lẽ sẽ nhớ mãi suốt đời cũng như tôi sẽ nhớ mãi thiên thu nét mặt lặng buồn của một người ăn mày bơ vơ đứng giữa ngã ba phố chợ giữa bao nhiêu người bình thản chen chúc vui cười ca tụng cuộc đời tươi đẹp trong khóe mắt đau thương và tôi thương người làm vườn người ăn mày bơ vơ cũng như tôi thương người Ba-lan hay người Do Thái hay người Mỹ Da đen hay người cha già Phi châu quê mùa lum khum đưa tiễn con trai qua Mỹ du học như tôi đã thấy trong tạp chí Life là một tờ báo tôi ghét cũng như tôi ghét Paris Match và Time và Reader’s Digest và cử chỉ điệu bộ của André Malraux không hiểu tại sao ban đêm tôi thường hay khóc lặng lẽ trong đêm tối chắc là tôi cảm thấy đời mình quá cô độc và cuộc đời hết lối cảm thông toàn là ngộ nhận và đôi lúc tôi mỉm cười vì nghĩ rằng chính mình cũng là hiện thân của ngộ nhận không hiểu sao ban đêm tôi thường khóc có lẽ vì quá cô độc bơ vơ giữa vũ trụ lặng lờ người sẽ bảo tôi như đứa con nít khóc trong giường vì mẹ đi vắng ư thực đúng đôi lúc như đêm nay vì quá khổ cho nên tôi tự an ủi tôi bằng cách tự nhủ như vầy con ơi hãy ngủ đi con tôi bắt chước giọng nồng nàn của một người mẹ và khi tự nói tôi tưởng tượng đó là những lời của một người mẹ hiền lành trên đời đang nhìn tôi khổ và ôm tôi vào lòng mà nói như thế con ơi hãy ngủ đi con tôi cười rồi tôi khóc bởi vì tôi nhớ đến người mẹ trần gian của tôi mỗi lần ngày xưa khi còn nhỏ mà được mẹ tôi gọi tôi là con thì tôi sung sướng vô cùng nhưng ít khi mẹ tôi gọi thế thường thì bị gọi là mầy tôi đau khổ tủi lòng nhưng tôi rất thương mẹ tôi và cha tôi cũng thế ít nói suốt ngày không nói với con một lời hình như cha mẹ tôi không bao giờ sống được một ngày hạnh phúc mặc dù ngày trước đời sống vật chất của gia đình quá thừa thãi thế mà mỗi lần cha mẹ tôi lôi thôi ồn ào với nhau thì mấy anh em chúng tôi là những đứa nhỏ bé bỏng phải xúm lại khóc lóc và quì lạy van xin cha mẹ đừng ghét thù nhau từ đó từ những ngày như vậy tôi bắt đầu biết thế nào là đau khổ từ đó trở đi khi lớn lên bơ vơ bước vào cuộc đời tôi thường bi quan chán đời dù tóc hãy còn quá xanh và tôi thường rụt rè nhút nhát tôi đã đi tìm khắp nơi để tìm thử coi ai có nét mặt mà không mang sự đau khổ nhưng tôi không gặp mà tôi nhớ đến William Saroyan như nhớ đến dòng sông nào tê tái trong giấc mộng đời I could see the pain in the faces everybody I looked everywhere for one face that was not the mask of pained life but I did not find such a face tiếng khóc nức nở của trẻ con và trong tiếng khóc của trẻ con ta thấy tình huynh đệ của loài người and the way they cry there you have the brotherhood of man tiếng chuông linh quang hay linh sơn và tiếng trẻ con khóc xa xa trong đêm tối tiếng chuông nhà thờ có lẽ khoảng năm sáu giờ sáng rồi suốt đêm không ngủ Van Gogh khi tôi đau khổ tôi cố gắng cười và mỗi lúc khi muốn điên lên vì quá đau khổ tôi nhớ trong lust for life và tôi thấy Van Gogh và savoir souffrir sans se plaindre biết khổ mà không than thở tiếng chó sủa vài tiếng chim kêu Chaplin đang khóc và cuộc đời ôi cuộc đời ngõ hẹp buồn bã hương thời gian màu sắc một đêm và những con chim hải âu trên mái nhà của Anne Frank và em bé bán bánh mì rao buồn trên đường cái trời sáng rồi hay sao nét mặt trầm tư của Albert Schweitzer và Einstein viết về Gandhi và đôi mắt của Kafka không có gì để nói there was nothing to say không có gì để nói giọng hát tiếng hát tha thướt của Connie Francis của Dalida của Françoise Hardy mai này tôi chết đi hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta Federico Garcia Lorca mai nầy tôi chết đi xin hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta trời ơi não nùng cuộc đời ho lao ngôi sao bạc mệnh căm căm cuối trời một người con trai cô đơn đau khổ trời bắt đầu sáng chim kêu tiếng chân ai khua động trên sàn gỗ ôi cuộc đời O swift moment of life it ended the earth is again now ôi cuộc đời ôi khoảnh khắc nhanh chóng của cuộc đời và chấm dứt và trần gian mặt đất bây giờ trở lại. 
2. Ngày 
Quờ quạng bật đèn lấy nước rửa mặt, suốt đêm không ngủ, nước mát rượi, lạnh và trong, nước của Trời, nước của Đà Lạt thiên thu hay là của William Saroyan (nước của Going Home), mùi vị, hương vị ngọt dịu dàng của nước khiến tôi ngạc nhiên lạ lùng, lúc tôi uống nước, trời, sao mà tuyệt diệu, tôi cảm thấy dòng nước mát tung tóe thể chất tôi, làm mát dịu thoải mái con người tôi The sweet rich taste of the water amazed him, and as he drank he thought, God, this is splendid. He could fell the cool water splashing into his being refreshing and cooling him (W. Saroyan Going home). Tôi sung sướng, hơi thở trở nên nhẹ nhàng đôi mắt mơn trớn nhìn vào kiếng soi mắt. Rất không đẹp trai. Very unhandsome. Tôi mỉm cười hát khẽ La vie en rose, Green Field và A many splendoured thing; buổi sáng sắp trở về, tôi choàng áo vào người; Đà Lạt sáng tinh sương lạnh lắm; mở ngăn tủ ra còn lại năm đồng, lấy hết bỏ vào túi áo và bước ra ngoài đường phố. Đường Yagut còn ngủ trong tĩnh mịch thần tiên của buổi sáng tinh mơ, sương mai còn loáng thoáng đâu đây, gió thổi mạnh mơ hồ; tôi hát khẽ trên đường phố chim bay là đà khắp nơi, chim từ đâu sao bay ra nhiều quá; những con chim lí nhí như những cô gái hồn nhiên bước ra trường lúc tan học, tôi mỉm cười khi nghĩ ra một lối so sánh đa tình như vậy; tại sao buổi sáng nào gà cũng gáy sung sướng triền miên và bây giờ mấy con chó cũng không còn sủa nữa, nửa đường Yagut loáng nước, đêm vừa qua không mưa, có lẽ đây là nước ở trong mấy căn nhà đổ ra hay là người ta rửa xe vào lúc đêm, có lẽ thế. Một đàn chim vụt bay ra, không biết từ đâu… những đôi cánh mảnh khảnh khua động trên khúc đường loáng nước. Dế kêu trong đám cỏ ướt sương. Tôi nhìn những hòn sỏi đá nhỏ hao mòn lác đác trên mặt đường hoang vắng. Phân bò rải rác dọc theo bờ. Những đường phố Sài Gòn không bao giờ được như vậy, tôi tự nghĩ và cười sung sướng; buổi sáng xám, lạnh, không vui, một buổi sáng cho nguồn sinh lực bên trong, thực là một buổi sáng tuyệt vời. It was really a splendid morning: gray, cold and cheerless, a morning for inward vigor (Saroyan, The daring young man…) Gà gáy trong trẻo hơn, vài ba con chó lạnh lùng sủa lên đôi tiếng, vài ba tiếng guốc khua lẻ tẻ trên mặt đường, bốn năm con ngỗng vừa chạy vừa kêu vang rền trong mấy bụi cây, tôi ca khẽ những bài hát ngày xưa và ngước nhìn những con chim bay đi, rồi quay về dưới mái nhà rêu bám ở đường Hoàng Diệu. Tôi đã đi đường Hoàng Diệu có cả trăm lần mà mãi đến sáng nay tôi mới thấy một ngôi nhà kia có một cây bưởi xanh, ôi con người vô tình, mấy chục trái bưởi đung đưa nhí nhảnh trên những cành lá ướt át (vì hơi đêm), trái tươi tròn, những cái vú căng sữa của những người mẹ hiền. Vài ba người vừa mới thức giấc, mặt hãy còn ngây ngủ, đứng nhìn bâng quơ ra ngoài đường, một bà cụ gánh hàng đang bước nhanh trước mặt tôi, cuối đường hai ba người xách giỏ thì thào, đi chợ, hai người đàn ông đăm chiêu chạy xe đạp chầm chậm; mộng mị ban đêm còn lảng vảng chập chờn trước đôi mắt kia; bây giờ tôi đang đi ngay giữa thị thành, giữa những người đang sống. (He was now walking in the city itself, among living men (Wiliam Saroyan, The daring young man…). Một bầy chim đang bay qua mái nhà. Một con chó thiu thiu ngủ (suốt đêm đã thức nhiều nên mệt), nằm dài, lừ đừ, vài ba con chim hồn nhiên bay xuống đậu ngay trước mặt, nhưng chó vẫn nằm im lặng. Hai cậu học trò nhỏ bé đi học sớm, trên tay mỗi cậu là mấy đóa hoa tươi, có lẽ mới hái ở dọc đường. Ôi tuổi xanh đã mất. Tôi dừng lại bên cầu Hải Thượng. Hơi sáng bay thoảng vào người tôi. Tôi hít nồng nàn vào phổi. Nhìn xuống dòng nước chảy dưới cầu. Toàn là rác dơ bẩn và hôi. Trong đống rác lềnh bềnh ở dưới chân cầu, tôi sửng sốt nhận ra một đám hoa lục bình xanh: vài đóa hoa tím nở trên ấy và vài cánh bướm trắng chập chờn. Rác. Lục bình trong rác. Hoa trong lục bình. Bướm trong hoa. Tôi mỉm cười ca hát sung sướng trong tâm hồn. Một buổi sáng huy hoàng. Tôi thở nhịp nhàng. Từng đàn chim bay chập chùng trên mái nhà xưa cũ rồi bay trên những ngọn cây cao. Gió thổi nhẹ qua những lá cỏ xanh non. Mùa này mưa bắt đầu trở về và cỏ xanh lạ lùng. Khói nhà ai đun lên tận trời. Những điệu nhạc xa xôi của Chopin trở về bàng bạc trong tâm tưởng. 
Anh hãy đàn cho tôi nghe bản nhạc Tristesse của Chopin và bản Paloma, anh đàn đi anh. Tôi thích hai bản này nhất. Thằng này mơ mộng quá, còn nhỏ quá mà thích tình tứ mộng mơ rồi, tao biết tại sao mày thích hai bản này. Gió thổi nhẹ một chiếc lá rơi xuống đất. Trông anh như thằng ngáo. Nhìn nét mặt ngơ ngác. Đi đường phố nào anh cũng tần ngần. Nhìn bộ tịch anh người ta có thể đoán anh mới đến Đà Lạt lần đầu tiên. Gặp cái gì anh cũng nhìn hết, anh chưa đến Đà Lạt bao giờ sao? Vâng đây là lần đầu tiên tôi đến Đà Lạt. Anh sao khó tính quá, anh hãy để tôi nhìn Đà Lạt chứ sao? Đà Lạt đẹp quá vậy anh? Anh trông tôi đứng lại, nhìn đằng trước cũng đẹp, nhìn bên phải cũng đẹp, nhìn bên trái cũng đẹp, nhìn lên trời cũng đẹp mà nhìn dưới đất cũng đẹp, anh nhìn xem: mấy con bướm trắng bay thơ mộng quá, tôi thương mấy con kiến kia quá, anh ơi. Tôi tự tính lại thì ngạc nhiên thấy mình đã sống ở Đà Lạt khá lâu, mấy con bướm và mấy con kiến (mà tôi gặp hồi đến Đà Lạt lần đầu tiên) chắc đến ngày hôm nay chúng nó đã chết rồi. Con người tôi ngày trước bây giờ không còn nữa, con người hồn nhiên ấy cũng chết theo dòng đời. Đôi mắt tôi ngày nay không còn là đôi mắt ngày xưa, của lần đầu tiên đến Đà Lạt. Tôi là một kẻ khác, không phải là tôi nữa. Tôi đã chết lâu rồi. Nghĩ lại mấy năm tôi sống ở Đà Lạt, tôi mới thấy rằng tôi sống như một cái xác không hồn, lãnh đạm, thờ ơ, lạnh lẽo, khó khăn, bơ phờ, mất mát, chết giữa ngày tháng tịch mịch; mỗi sáng mỗi chiều cũng bấy nhiêu cử động, ăn uống, đi dạy, ngủ, ăn, dạy, ngủ, ăn, dạy, đi, về, ngủ, thức, ăn, dạy, đi, về, đi, đi, về, đi rồi về, cũng bấy nhiêu cử động lặp đi lặp lại, ngày nào cũng như ngày nấy, cũng bấy nhiêu cử động máy móc, cũng bấy nhiêu sáng, chiều, tối trở đi, trở lại, trở đi, trở lại, bao nhiêu lần tôi đi lang thang giữa phố chợ mà không biết mình là ai, bao nhiêu lần tôi đi giữa đường phố mà đôi mắt kia không nhìn thấy gì cả, đôi mắt thao láo như đôi mắt của một người chết. Buổi sáng hôm nay bỗng nhiên tôi cảm thấy sống lại; con người tôi của ngày đầu tiên đến Đà Lạt bỗng nhiên trở về nhập lại cái xác không hồn này, tôi lắng nghe hơi thở của tôi dịu dàng trong thể xác, tôi lắng nghe điệu nhạc triền miên của thuở hoa niên xanh mộng trở về thướt tha trong lòng tôi, tôi lắng nghe tiếng lá rơi nhẹ trên mặt đất tôi trố mắt nhìn từng sự vật, tôi có cảm giác như đã mù từ lâu rồi và bỗng nhiên hôm nay mắt được sáng lại; tôi phân biệt từng đợt màu xanh khác nhau trong từng chiếc lá, tôi đứng lại để lặng nhìn một con kiến bé nhỏ đang bò lên lá cỏ; tôi ngửi được hương vị nồng nàn của không khí, mùi thoảng của lá khô, hương thơm của khói, của cây non, của một đóa hoa héo trong bụi cây bên đường; mấy năm nay, tôi đã đi trên đường này biết bao lần nhưng nào có thấy, nghe, ngửi, cảm gì đâu, thế mà hôm nay, cũng trên con đường này, đột nhiên tôi ý thức rằng mình đang thở nhịp nhàng, rằng bao nhiêu sự vật xinh đẹp lạ lùng đang thở quanh tôi. Tôi có cảm giác lạ lùng mới lạ của một đêm ngủ miên man trong một ngàn năm rồi bỗng thức dậy và mắt sửng sốt nhìn tất cả hình ảnh huyền diệu vây phủ chung quanh mình. Tất cả sự vật chung quanh đều xuất hiện ra lần đầu tiên trước đôi mắt tôi. Thực là huy hoàng tuyệt vời. I walked into town, into the streets where we had put up our building, and suddenly I saw them for this first time, suddenly I was really seeing them and they were splendid (W. Saroyan, And Man). Tôi chỉ đứng lại trên cỏ và lắng nghe mình thở; chỉ thở thôi và sung sướng rồi, now it was a pleasure even to breath (Saroyan, Going Home). Thế rồi tôi giựt mình khi nghe tôi cười vang lên giữa đường phố; tôi cười tất cả những điều thảm thương ở trần gian, sự ngộ nhận khắp nơi, sự xung đột đời đời, sự hung dữ tàn ác, những điều đó làm con người trở nên một con vật nham hiểm, tôi cười sự chết, he was laughing at all the pathetic things in the world, the misunderstandings everywhere, the everlasting conflict, the cruelty, the things that made man a malignant thing… (Saroyan, Laughter). The worst that can happen to any of us, I used to laugh, is death. (Saroyan, Aspirin is a Member of NRA). Tôi cúi xuống hái một lá nhỏ, lặng lẽ nhìn và hôn vào lá ấy. Một người đi đường ngơ ngác ngó lại. Tôi cười. Tôi cảm thấy thương yêu tất cả nhân loại, yêu cả kẻ thù, yêu cả những điều tôi ghét, yêu hết mọi sự vật ở trần gian này. Tôi bước đi. Người ấy ngó theo. Năm sáu con chim én tung bay lên trời. Ý nghĩa trọn vẹn hiện ra; hình ảnh trọn vẹn của trần gian và của con người xuất hiện huy hoàng trước đôi mắt rực ngời của tôi. Ôi trần gian mặt đất này đẹp biết bao. The earth was so lovely (Saroyan, The Earth, Day, Night, Self). Chỉ sống thôi thì thực là vinh quang biết bao. How glorious it is to be alive, to be still living (Saroyan, My self upon the earth). Tôi yêu và thờ phượng cuộc đời… Tôi tin rằng tôi sống… Thoáng giây này sẽ không bao giờ bị xóa nhòa; nó vượt thời gian, I love and worship life… I believe that I live … and the living of this moment can never be effaced. It is beyond time (Saroyan, My self upon the earth). Tôi là tôi, je suis moi, vũ trụ là vũ trụ, trần gian này là trần gian, cuộc đời là cuộc đời, con người là con người. Tôi đang đi đây, ngày nay, năm này tại thành phố Đà Lạt; tôi biết rằng rồi đây tôi sẽ chết, bởi thế hôm nay tôi sống. Chết là một thực tại, bởi thế sống cũng là một thực tại. Chết không thể nào tránh được, cũng giống như sống cũng không thể nào tránh được. In order not to be a fool, you must believe that as much as death is inevitable life is inevitable (Saroyan). Sự huy hoàng tuyệt vời của Sống. Hãy để con người đi và nói và nghĩ và ngủ và mơ và thức và lại đi và lại nói và lại di động và sống. The splendor of the mere fact of his being alive… Let him walk and talk and think and sleep and dream and awaken and walk again and move and be ALIVE (Saroyan, A cold day). Hãy sống. Đừng chết nữa. Tôi đã chết. Rất nhiều người đã chết. Hầu hết nhân loại hiện nay đang chết. Hãy sống. Hãy ca tụng tình huynh đệ của những sự vật sống, the brotherhood of things alive (Saroyan). Sống là tuyệt đối là trọn vẹn, vĩnh cửu, thiên thu. Sống là chân lý. Nhớ là sống, cười là sống, không hấp tấp vội vã là sống, you are in a hurry but I am not: I shall witness your disintegration (Saroyan, Aspirin is a Member of the NRA). Ngủ là sống, It is only sleep that we my know that we live (Saroyan, The daring young man…). Yêu thương là sống, đau khổ là sống, trung thành với chính mình là sống, I want him to be himself (Saroyan, Myself upon the earth). Luật lệ, phép tắc, quy chế, truyền thống, ngôn ngữ, triết học, lý trí không phải là sống. All my life I have laughed at rules and mocked traditions, styles and mannerisms… I do not believe in philosophies (Saroyan, Myself…). Sự thù ghét, sợ hãi, sự ham quyền lực không phải là sống, những chủng tộc, những chính quyền không phải là sống. I do not believe in races, I do not believe in governments (Saroyan, Seventy thousand Assyrians). Những nhà đạo đức, luân lý, những kẻ hèn nhát và những hiền nhân, thánh nhân, hiền triết không phải là sống. I love to make small explosions with the infated bags of moralists cowards, and wise men (Saroyan, Myself upon…). Tất cả những ngôn ngữ hợp lại là sống, hay không có ngôn ngữ nào cả là sống, sự im lặng là sống, We see the universe through the language we know, we do not see it through all languages or though no language at all through silence. If I want to do anything, I want to speak a more universal language (Saroyan, Seventy thousand Assyrians). Trái tim của con người là sống, the heart of man, the unwritten part of man that which is eternal and common to all races (Saroyan, Seventy thousand…). Mâu thuẫn, nghịch lý là sống, Every life is a contradiction… I believe in the right of man to contradict himself (Saroyan, Myself upon….). Hình ảnh trọn vẹn, hình ảnh của sự trọn vẹn là sống. 
Chương trình kế hoạch của tôi là SỐNG vô hạn định, It is my plan to stay ALIVE indefinitely (Saroyan, Fight your own war). 
Đà Lạt có nhiều chim hơn bất cứ nơi nào ở Việt Nam. Tôi vừa đi vừa lắng nghe tiếng chim kêu. Tôi cười miên man và nhìn mấy chiếc lá đung đưa trên những cành cây gầy yếu. Tại sao anh trông gầy yếu xanh xao như vậy? Bởi vì mấy tháng nay tôi bị bịnh mất ngủ, tối nào tôi cũng nằm trằn trọc suốt đêm, nằm ngó trần nhà chứ không làm gì cả. Suốt đêm, tôi nằm trong bóng tối, không dám nghĩ gì cả, nhiều khi tôi cười sặc sụa lúc khuya khoắt hoặc tôi lấy tay đập mạnh vào giường. Tôi không hiểu tại sao tôi làm như vậy; có những đêm, tôi tự hỏi tôi là ai, tại sao lại nằm nơi cái giường này, tôi giựt mình toát mồ hôi ra; sáng thức dậy tôi cử động ăn nói vô ý thức vắng mặt, đi đứng bơ phờ, đầu óc mệt mỏi, chán chường không thích, không thèm gì cả, không ham, không ghét gì cả; tôi sống xa lạ chơi với tất cả mọi người, - tôi không biết đi đâu, không biết thuộc về đâu; tôi là ai, là ai, thân xác này thuộc về ai, mười ngón tay của ai, của tôi; tôi là gì, tôi không biết, tôi không gì cả; tôi không biết gì cả; anh đừng hỏi tôi tại sao tôi gầy yếu, anh đừng hỏi, xin đừng hỏi, tôi là ai, tôi chết, tôi sống, gầy yếu, mạnh khỏe, trắng, đen, không, có, sống, chết, tôi không biết, xin đừng hỏi, tôi không hiểu gì cả, tôi hét đây, tôi la đây, tôi không hiểu gì cả, anh có nghe không? Thuở ấy tôi đã chết và tôi không biết rằng mình chết, tôi chạy loanh quanh trốn tránh hư vô: tôi đã trốn tránh đủ cách, đủ đường, đủ lối mà càng trốn tránh hư vô tôi càng gặp hư vô và tôi chết; không hiểu sao bỗng nhiên sáng nay tôi thấy mình sống lại và sống là một bí mật, là sự huyền nhiệm, chân lý là đã đi trong sự chết để rồi mới thấy lại sự sống. Tôi không thể cắt nghĩa được và thực ra, tuyệt đối không có gì để nói cả, there was absolutely nothing to say (Saroyan, The earth, day, night, self). Hôm nay, tôi biết rằng tôi sống, tôi thở. Chỉ có thế thôi. Sống là Chân lý. Tìm chân lý là tìm sống. Sống là thiêng liêng, ngoài ra trên đời chẳng có gì thiêng liêng cả, there was no sacred thing in the world (Saroyan, Seventeen). Sống là gì? Tôi không hiểu. Đó là chân lý. Tôi không thể kể nói gì cả. Mỗi người phải tự tìm lấy chân lý cho chính mình. Chân lý ấy không ở trên trời mà lại ở tại trần gian này, tại mặt đất này. I cannot tell anyone. Everyone must see for himself. Everyone must seek the truth for himself (Saroyan, And man). Tôi sống cuộc đời tôi. Anh sống cuộc đời anh. Chị sống cuộc đời chị. Tôi thở cho tôi; tôi không thể nào thở hộ cho ai được. Tôi hoàn toàn vô trách nhiệm; tôi chỉ có trách nhiệm đối với riêng tôi; cũng như anh có trách nhiệm đối với anh. Tôi không có kẻ thù. Nếu có kẻ thù chăng thì chính tôi mới là kẻ thù của tôi. Chính tôi tự cứu lấy tôi; chỉ những nỗ lực của chính tôi mới cứu được tôi; tôi không trung thành với bất cứ một ý niệm hoặc một danh từ trừu tượng nào; tôi phản bội với tất cả; đôi khi tôi cũng phản bội với chính tôi; tôi chỉ trung thành với hơi thở nhịp nhàng của tôi và của con người. Ở đời không có tốt và không có xấu không có giả , chỉ có chết và sống mà thôi; thực ra thì chỉ có sống bởi vì chết chỉ là một hình thức triền miên của sống và sống và chết chỉ là một; sau cùng chỉ có hơi thở là duy nhất, thiên thu, bất diệt, vĩnh cửu, tuyệt đối, trọn vẹn. 
Hai ba chiếc lá rơi xuống, tôi đứng lại nhìn rồi lại tiếp tục bước đi. Mây trắng bàng bạc đầy trời. Chim én tung bay đầy trời. Mây trắng, chim én, lá rơi, ôi cuộc đời! Đà Lạt đẹp. Trần gian đẹp. Ôi cuộc đời! 
Mặc dù trần gian này đầy đau khổ, nhưng trần gian này vẫn luôn luôn là một trần gian tươi đẹp. Nếu sự đau khổ không còn ở trần gian này thì trần gian không còn tươi đẹp nữa. Thế giới này phải được thoát thai trong sự đau khổ để làm trần gian này trở thành một toàn thể (une totalité). Trần gian này, cuộc đời này, sự sống này là một cái gì trọn vẹn mà chúng ta không bao giờ nhìn thấy đủ hết tầm vóc. Bất cứ một hệ thống triết lý nào, bất cứ một ý thức hệ nào, bất cứ một chính trị nào cũng thất bại. Con người muốn nhìn thấy rõ sự thật, sự trọn vẹn của cuộc đời, của trần gian, của con người mình thì phải đánh đổ phá hủy tất cả những gì hiện nay mình yêu quý hoặc mình ghét; con người ấy phải là con người chỉ sống trong hiện tại, không quá khứ, không tương lai, không truyền thống, không đất đứng, không một mái nhà để che đầu. Con người ấy tự lột cả áo quần, đứng trần truồng và nhìn sự trần truồng của trần gian, của cuộc đời. Con người ấy phải là một đám mây trắng lênh đênh trên trời, bềnh bồng trong sự sống không vô hạn, bay trên những ti tiện và cao siêu của nhân thế. Bay trên tất cả những chiều hướng xung khắc đối chọi nhau của cuộc đời. Đám mây trắng phiêu bạt ấy không thuộc về một bầu trời nào, không thuộc về một lũng đồi nào, không thuộc một giải đất nào, không thuộc về một đại dương nào; đám mây trắng ấy không thuộc về riêng một cái gì và đám mây trắng ấy thuộc về tất cả. Con người hãy ngước nhìn mây trắng, con người không cần phải thuộc về đâu cả, không cần phải thuộc một nhóm nào, một đảng phái nào, một tôn giáo nào hoặc một chủ nghĩa nào. Con người không cần phải nhập Đảng cộng sản hay đi theo tư bản mới có thể sống được. Con người không cần phải đi nhà thờ hoặc đi chùa mới thở được. Không cần phải đứng dưới một lá cờ nào mới có thể sống. Trái lại phải tránh tất cả những thứ ấy. Hơi thở là hơi thở; có những thứ ấy hay không hơi thở vẫn là hơi thở. Dù sao tôi vẫn tin rằng tất cả mọi sự đều được tạo ra để trần gian này được thở. Người ta sinh ra để thở. Người ta sinh ra để hạnh phúc. Bởi vì người ta không muốn thở, không muốn hạnh phúc cho nên người ta chết và không hạnh phúc. Tôi xin mãnh liệt rằng tôi đang sống và tôi muốn sống. Tôi không đòi hỏi những kẻ khác phải tự hy sinh để thực hiện đức tin của tôi. Tôi không cần người khác phải trung thành, phải kính trọng tôi. Tôi chỉ ước rằng những kẻ khác cũng muốn sống trọn vẹn như vậy. Tôi là một người có đức tin. Tôi tin nơi tôi. Tôi tin nơi con người et ma foi est dans l’ homme. Tôi tin nơi quả tim của con người. Quả tim ấy ngừng, tôi sẽ không còn thở nữa, chỉ có thế thôi. Tôi ước mong thế giới này sẽ tiêu tan ra từng mảnh và nhân loại sẽ bị tiêu diệt hết đi để còn sót lại hai người thôi; hai người ấy sẽ sinh con đẻ cái, tạo ra những con người mới, những con người thực sự, yêu thương nhau, lắng nghe hơi thở nồng nàn và được kết hợp nhau bằng nhịp điệu du dương của con tim chớ không phải bằng giai cấp, tôn giáo, tổ quốc, nòi giống, nghề nghiệp, chính trị, nhân sinh quan hay ý thức hệ. Dù sao tôi vẫn tin rằng nhân loại vẫn không đến nỗi phải đáng chịu tiêu diệt như vậy bởi vì tôi vẫn tin nơi con người; nói như Anne Frank, tôi vẫn tin nơi lòng tốt bẩm sinh của con người (omdat ik nog steeds aan de innerlijke goedhied van de mens geloof) It is the heart of man that I am trying to imply in this work… Man has great dignity, do not imagine that he has not (W. Saroyan, Seventy Thousand Assyrians). Tôi tôn thờ một tổ quốc: con người, nghĩa là trần gian và tất cả những người ở trần gian. Tổ quốc con người hiện nay đang đổ vỡ điêu đứng nhưng rồi đây tất cả mọi điêu đứng tan thương sẽ qua hết. Tôi phải giết con người tôi hiện nay để mà có thể sống lại giữa đất ngước loài người. Con người của tôi hiện nay là con người giả dối, hèn nhát, không dám trung thành với chính mình mà chỉ trung thành với những khuôn thước mẫu mực của người, không dám ăn, không dám nói, không dám đi đứng, di động và không dám thở. Tôi phải giết tôi để tìm lại tôi. Tôi chúc anh tìm lại anh. 
Đường này là đường Phạm Phú Thứ? Nhiều cây lá lắm. Lá thông khô đưa ra một hương vị ngày xưa. Hoa đỏ từng chùm trong bụi cây xanh. Hai ba chiếc lá rơi xuống, tôi đứng lại nhìn rồi tiếp tục bước đi. Mây trắng bàng bạc đầy trời. Chim én tung bay đầy trời. Mây trắng, chim én, lá rơi, ôi cuộc đời! Đà Lạt đẹp. Trần gian đẹp. Ôi cuộc đời! 
Cuộc đời lạ lùng biết bao. Mỗi cuộc đời là một sự mâu thuẫn, một chân lý mới, một phép lạ mới. Every life is a contradiction, a new truth, a new miracle (W. Saroyan, My self upon the earth). Tôi phải bỏ tất cả tư tưởng và lăn mình vào cuộc sống. Cuộc đời đầy mâu thuẫn. Đây không phải là bi kịch; chỉ bi kịch là khi người ta sợ mâu thuẫn, chân lý là sự bí mật, đầu tiên là Trời, tiếng Trời, ngoài tất cả mọi vật mà vượt lên trên, không có không gian và không thời gian, rồi hư vô, sự trống rỗng im lặng rộng hơn trí óc của con người, trừu tượng và đích xác và thực sự và mất mát, bản thể trong sự trống rỗng, rồi lại đích xác và với sức nặng và sự cứng cỏi và hình thể, hoả và chất lỏng và rồi đi bách bộ qua những vườn nho. The truth was the secret, god first, the word, the word god, out of all things and beyond, spaceless and timeless, then the void, the silent emptiness, vaster than any mortal mind could conceive, abstract and precise and real and lost, the substance in the emptiness, again precise and with weight and solidity and form, fire and fluid, and then, walking through the vinegards. (W. Saroyan, And man). 
Thế giới của tôi sống hiện nay là một thế giới hoàn toàn phi lý, không luật lệ, đầy mâu thuẫn, con người hiện nay cảm thấy bơ vơ lạc lõng, mất gốc. Hư vô phủ đầy trời. Ngày xưa tôi thường chạy trốn như vô, tìm nguôi khuây trong sự giả dối tạm bợ, tìm lãng quên bằng trăm vạn lối. Tôi đã chạy trốn và tôi đã thất bại. Hôm nay, tôi đã biến thành con người mới. Tôi không trốn hư vô nữa. Tôi không than thở nữa. Tôi không tìm về mái nhà xưa nữa. Tôi không còn đau khổ vì mình phải bị mất gốc và mất đất đứng giữa cuộc đời. Tôi sung sướng bơi lội trong hư vô. Tôi hoàn toàn cảm thấy thoải mái trong hư vô và không cảm thấy hãi hùng nữa mà lại cảm thấy tuyệt diệu thanh thoát. Hư vô không phải là bi kịch; chỉ bi kịch là người ta không muốn bơi lội trong Hư vô, khi người ta buông xuôi để cho dòng nước Hư vô cuốn trôi đến chết, khi người ta không cố gắng nhô lên mà thở, khi người ta không chịu học bơi lội. Đây là chân lý. Chân lý thường giản dị như thế. 
Muốn bơi được trong Hư vô mà không bị chìm, tôi phải làm những điều giản dị như sau: trước hết tôi phải cởi bỏ tất cả quần áo giầy dép nặng nề, tôi lột truồng ra để cho được nhẹ người; công việc này cũng khá khó khăn và hơi kỳ cục vì hiển nhiên người ta sẽ gọi tôi là một thằng điên. Nhưng có hề gì. Thà làm thằng điên để được sống hơn là làm thông thái thánh nhân để bị chìm mà chết. Trước hết tôi cởi bỏ công ước ra ngoài thân thể tôi. Công ước (convention) là một bộ phần quần áo nặng nề nhất có thể làm tôi bơi lội không được; công ước là kiến thức, ngôn ngữ, dấu hiệu, luật lệ, luân lý, đạo đức, nhãn hiệu, số đếm, vai trò, nghệ thuật, vân vân. Nói tóm lại, tất cả những quy ước do loài người đặt ra để tiện giao thiệp với nhau. Tôi gọi những thứ ấy là công ước bởi vì đó là một sự ký kết đồng ý giữa xã hội này đối với xã hội khác. Tôi lột bỏ những thứ ấy bởi vì những thứ ấy đã thất bại trong việc giúp tôi làm nhẹ nhàng thân thể tôi trong giòng nước Hư vô. Tất cả những gì thuộc về công ước để có thể nhìn được hình ảnh trọn vẹn của vũ trụ và của đời tôi; tôi không thể nào dùng những danh từ trừu tượng để diễn tả thực tại cụ thể. Dù muốn dù không, khi lớn lên, con người phải sống trong giả tạo, sống trong những lề lối công thức đã có sẵn. Khi tôi bắt đầu có trí khôn, tôi phải đi học và đi học có nghĩa là học cách chấp nhận những luật lệ công ước của xã hội; nếu tôi biết chấp nhận thâu thái những thứ đó thì tôi sẽ trở thành phần tử kiên cố của xã hội, một người công dân tốt và gương mẫu. Còn trái lại thì tôi sẽ trở thành một con người bị bỏ rơi, mất đất đứng, sống ngoài vòng xã hội, một persona non grata. Khi ra đời sống với con người, tôi phải làm hoà với công ước và nếu tôi không thể làm hoà được thì sẽ có sự giao tranh mãnh liệt giữa công ước xã hội với lòng khát sống phong phú của tôi, khi sự giao tranh ấy trở nên quá phũ phàng, tôi rất dễ trở thành một người điên, một người tội lỗi, một kẻ giết người, một tu sĩ, một người tự tử hoặc một kẻ biết sống trọn vẹn với đời mình. Chỉ có hai đường như trên, một đường thông thường của thế nhân chứa nhiều thành công, hứa hẹn nhiều hạnh phúc và một đường bất thường của một số ít người chứa nhiều thất bại cay đắng, hứa hẹn đầy nguy hiểm giông tố. Tôi tha thiết muốn sống thực sự với tôi, tôi muốn giữ gìn bản ngã tôi, but I have said that I want to preserve my identity (W. Saroyan, My self upon…) bởi thế tôi xin chọn con đường thứ hai. Anh sẽ bảo rằng tôi cực đoan bởi vì người ta không thể nào sống được nếu ở đời không có công ước giả tạo như thế, dù muốn hay không khi lớn lên tự nhiên con người đã biết nói rồi, người ta không thể nào tự mình muốn câm được. Tôi cũng có nghĩ như anh, nhưng thực ra chính công ước tự nó không có gì xấu, chỉ có thái độ của người ta hiện nay đối với những công ước ấy mới là nguy hiểm; người ta đã vô tình quên đi vai trò của những công ước ấy và tự đồng hóa sức sống mênh mang của mình với những ý niệm chết cứng, khô khan trừu tượng. Khi tôi nghĩ rằng phải lột bỏ tất cả thứ gì thuộc công thức không có nghĩa là tôi phải cởi tất cả quần áo ra, cởi bỏ kiến thức, giáo dục, ngôn ngữ, tư tưởng vân vân. Tôi có thể ăn mặc sang trọng, thắt cà vạt, quần áo chải chuốt, ăn nói trưởng giả, làm công công chức, ở nhà lầu, đi xe huê kỳ; nhưng mà tôi vẫn có thể tự hào là một người chống công ước mãnh liệt nhất, bởi vì chính những cái cà vạt kia, những chiếc xe huê kỳ kia, những nhà lầu kia thực sự chẳng có gì xấu cả, chỉ nguy hiểm là thái độ của tôi đối với những thứ ấy. Tôi xin lặp lại một sự thật đơn sơ; ở đời chẳng có gì là xấu và chẳng có gì là tốt; chỉ có lối nhìn của ta mới nguy hiểm thôi, ta nghĩ rằng có tốt, ta nghĩ rằng nó xấu, chỉ có thế thôi. Ta nên xem những thứ công ước ấy chỉ là phương tiện tiện lợi nhất và đừng để những thứ ấy dùng lại ta. “Con người trọn vẹn nhất ở trần gian này là những đứa hài nhi. Những đứa hài nhi chưa bị học nói bất cứ một ngôn ngữ nào mới là nòi giống duy nhất của trái đất này, nòi giống con người thực sự; tất cả những gì còn lại đều là giả dối, hư ngụy như văn minh, hờn ghét, sợ hãi, ham quyền lực, vân vân… khi lớn lên con người học tiếng và chữ của một ngôn ngữ và xem nhìn vũ trụ qua ngôn ngữ ấy”. Babies who have not yet been taught to speak any language are the only race of earth, the race of man: all the rest is pretense, what we call civilization, hatred, fear, desire for strength… we grow up and we learn the words of a language and we see the universe through the language we know (Saroyan, Seventy thousand assyrians). Tuy thế hiển nhiên là ta không thể nào là hài nhi mãi mãi ta phải lớn và cũng như ông cha của ta, ta phải chấp nhận những giả tạo công ước đã có sắn từ bao nghìn năm. Bi kịch không phải là chấp nhận những thứ ấy. Bi kịch là ta đã lãng quên vai trò giới hạn của những thứ ấy và đồng hoá những–tên-để-gọi-sự-vật với sự vật. 
Tôi nhìn mây trắng trên vòm trời xanh và tiếp tục bước đi trên vệ đường, đến gần thư viện Đà Lạt, tôi đứng lại và bước qua bãi cỏ bên kia, nhìn sang thung lũng và những ngọn đồi bé nhỏ. Mùa này cỏ xanh lạ lùng và thơm. Tôi không muốn nghĩ ngợi gì nữa, vì mỗi khi nghĩ thì người ta luôn luôn quên thở. Tôi sinh ra không phải để nghĩ. Tôi sinh ra để thở. Một cơn gió rào rạt vi vu thoảng qua người tôi. Mát lạnh. Vài tà áo màu bay xa xôi trong rừng thông bên kia. Một con chim non đậu. Và nhìn tôi. Tôi nhìn lại chan chứa rồi lại tiếp tục bước đi nhè nhẹ. Tôi nhìn thấy nét mặt của Thượng đế trong một đóa hoa capucine ở một bụi lá bên đường. Tôi tiếp tục đi chậm rãi. Bước đến nhà thờ Đà Lạt tôi đứng lại nhìn mấy cây thông rồi bước vào nhà thờ, quì xuống làm dấu thánh giá rồi thì thầm: “Xin Chúa và Đức Mẹ, không hiểu tại sao con không bao giờ chịu tin có Chúa và Đức Mẹ”. Nói nho nhỏ như thằng khờ, rồi tôi lại ngồi trên ghế và khoanh tay nhìn thánh giá ở đằng xa, rồi bỗng nhiên đôi mắt tôi hướng về những luồng nắng vàng từ ngoài đưa vào khung cửa kính của nhà thờ. Tôi sung sướng nhìn nắng vàng và quên cả Chúa. Thế rồi tôi bước ra nhà thờ, cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng hơn, tôi bước đi xuống đường bờ hồ. Một cơn gió thoảng bâng quơ. Hàng cây anh đào không hoa. Xuân đã xa rồi. 
Tôi sống trong giây phút thiên thu bất diệt. Giờ đây tôi thấy tôi có thể làm bất cứ chuyện gì trên đời này. Tôi đang sống trọn vẹn với tôi. Tôi không còn đau khổ nữa. Tôi đã chấp nhận đau khổ “Không có sự đổ vỡ nào mà vô phương cứu chữa. Tất cả ý nghĩa cuộc đời đều nằm trong chữ đau khổ” (Aucun désastre n’est irrémédiable. Tout le sens de la vie est contenu dans le mot souffrance.) (Henry Miller, Assassinez l’ assassin). Chính sự đau khổ đã làm cuộc đời có ý nghĩa và sống. Tôi không còn than van oán trách nữa. Tôi cười. Tôi thường nghĩ đến sự đau đớn và sau cùng tôi chỉ biết cười. I used to think about the pain and in the end all I could do was laugh (Saroyan). Sống là thiêng liêng. Đau khổ cũng thiêng liêng. Không có sự đau khổ, tôi không thể nào đi vào bên trong cuộc đời và không thể nào hiểu được những bí mật của đời người; không có sự đau khổ tôi sẽ nằm triền miên trong sự khô khan của cuộc đời tẻ nhạt. Sự đau khổ làm phong phú tâm hồn tôi. Biết đau khổ mà không than mới là chân lý của đời. Savoir souffrir sans se plaindre. Tôi càng bị đau khổ nhiều chừng nào, tôi càng phải cảm tạ trời đất nhiều chừng ấy. Giữa cuộc đời tôi phải đứng bơ vơ với một trái tim rỉ máu. Tôi phải lặn hụp lầy lội trong sự đau khổ. Con người duy nhất thuộc về trần gian này là con người mà thượng đế không bao giờ giết được. Sự đau khổ chỉ giết những kẻ yếu đuối và những kẻ không đáng sống. Tôi đang trôi miên man trong đại dương của Hư vô. Tôi không sợ và không trốn sự đau khổ. Tôi không trốn Hư vô. Tôi thênh thang đi về những phương trời miên viễn để tìm xa lạ. Il s’agit d’arriver l’inconnu par le dérèglement de tous les sens, les souffrances sont énormes mais il faut être fort (Arthur Rimbaud). Cuộc đời đẹp. Giây phút này thiên thu và tôi đang thở khoan khoái. 
Le vierge, le vivace et le bel aujourd’hui. 
Tôi yêu cuộc đời không phải chỉ vì cuộc đời đẹp. Tôi là một tình nhân say đắm. Tôi yêu cả những nét xấu xa nhất của cuộc đời. Những gì xấu xa ấy, đối với tôi vẫn duyên dáng và đẹp đẽ. Tôi biết rằng ngày mai tôi chết nhưng có hề gì, bởi vì cuộc đời tôi là vĩnh cửu thiên thu; cuộc đời tôi hơi thở tôi vẫn không bao giờ chấm dứt; mỗi một kinh nghiệm chỉ là sự thai nghén ra một kinh nghiệm khác. Ngay đến cái chết cũng thế. 
Sau cùng đây là đạo sống: 
Hãy cố gắng tập thở cho nồng nàn, khi ăn cho ra ăn, khi ngủ thì cho ra ngủ, hết sức cố gắng trọn vẹn và khi cười, cứ cười ầm lên, và khi giận cứ giận điên lên. Cố gắng sống. Chẳng bao lâu anh sẽ chết. 
Try to learn to breathe deeply, really taste food when you eat, and when you sleep, really to sleep. Try as much as possible to be WHOLLY ALIVE, with all your might, and when you laugh, laugh like hell, and when you get angry, get good and angry. Try to be ALIVE. You will be dead soon enough. (William Saroyan) 
Hai ba chiếc lá rơi xuống, tôi đứng lại nhìn rồi tiếp tục bước đi. Mây trắng bàng bạc đầy trời. Chim én tung bay. Mây trắng, chim én, lá rơi, ôi cuộc đời! Đà Lạt đẹp. Trần gian đẹp. Ôi cuộc đời! Gió lạnh thổi vi vu. Mưa bắt đầu rơi. Điệu Fantaisies impromptu của Chopin từ xa xưa đưa lại theo nhịp mưa trên đường vắng. Mưa trở nên nặng hột. Nước mưa càng ướt lạnh cả người tôi. Tôi mỉm cười sung sướng. Ngày trước mỗi lần đi đường bị mưa bất chợt, tôi thường vội vã chạy đi tìm chỗ trú mưa. Hôm nay, tôi không làm thế nữa. Tôi thản nhiên vui sướng đi dưới cơn mưa phũ phàng của cuộc đời. 
Trên con đường hoang vắng, một bóng người bước lặng lẽ dưới mưa. 

Viết thêm về Saroyan 
Tôi bao giờ cho đến bây giờ, đối với tôi, Saroyan vẫn là một hiện tượng đáng yêu quý. Nhiều lần, tôi đã chán Saroyan, tôi thấy ông chỉ lặp đi lặp lại bao nhiêu chuyện, cũng như nhiều lần tôi nói tôi đã chán Krishnamurti, tôi thấy ông cũng chỉ lặp đi lặp lại có bao nhiêu lời, cũng như nhiều lần tôi đã chán Hermann Hesse, tôi cũng thấy Hesse chỉ lặp đi lặp lại có bao nhiêu chuyện, cũng như tôi đã chán D.T. Suzuki, tôi chỉ thấy D.T. Suzuki lặp đi lặp lại có bao nhiêu việc. 
Nhưng tại sao tôi chưa chán kinh Phật, vì tất cả kinh điển Phật giáo cũng đều chỉ lặp đi lặp lại nói tới nói lui nói lên nói xuống nói ngang nói ngược nói thuận nói nghịch cũng trong mấy điều duy nhất? Ngày nào tôi đã chán hết mọi kinh Phật thì chắc chắn ngày đó tôi đã thành Phật! Tại sao tôi chưa muốn thành Phật mặc dù tôi có thể là Phật bất cứ lúc nào? Tại sao tôi triển hạn? Tại vì thành Phật không quan trọng bằng không thành Phật. Không chịu thành Phật, đó là khả năng tối thượng để thành Phật mà tôi muốn san sẻ với tất cả con người trên mặt đất. 
Có một buổi chiều nổi cơn điên, tôi chạy hối hả tại thư viện của trường đại học Columbia ở Nữu Ước để mượn toàn thể tác phẩm của Saroyan để đọc lại, từ trường đại học Columbia, hai tay ôm hai chồng sách, tôi thả bộ lừ đừ trở về phòng tôi ở khu phố Riverside Drive gần con sông Hudson, gió thổi lạnh vì trời sắp đổ tuyết, tôi bước đi lểnh khểnh như chàng say rượu, mặc dù buổi chiều ấy, tôi không uống một giọt rượu nào cả. Cả thành phố New York đã ám sát tôi, một “thiên tài hạng nặng” từ Việt Nam gửi đến, tôi, một đứa con trai của một nước nghèo nhất thế giới, một nước ngang tàng nhất thế giới. Tôi cao có một thước sáu mươi phân, thế mà tôi có cảm tưởng hai chân của tôi đang đạp lên đầu của cái cao ốc cao nhất nước Mỹ, Empire State Building! 
Tôi, một người con trai của một đất nước quê mùa thất học nhiều nhất ở thế giới, đã nắm trọn cả văn hóaá Mỹ quốc trong mười ngón chân. Tôi thừa biết rõ rằng một ngày nào gần đây trong tương lai gần đây, nếu tôi còn sống, nhất định tôi sẽ chinh phục cai trị Mỹ quốc với năm ngón tay phải của tôi; tôi sẽ viết những quyển sách ký đi bằng chữ Anh và xô đẩy toàn thể Mỹ quốc vào trong hố thẳm! 
Lòng tôi đầy căm thù, thù hận mặc dù tôi thừa biết rằng chỉ có trái tim nguyên vẹn của tôi mới có sức chuyển hóa thế giới tan nát này thành một tòa sen vĩ đại! 
Tôi căm thù Mỹ quốc nhưng tôi sẵn sàng khoan dung tha thứ tội lỗi của Mỹ quốc: vì Mỹ quốc cũng tạo ra được những đứa con hoang đàng vĩ đại như Thoreau, Emerson, Whitman, Henry Miller, Faulkner, Wolfe, Robinson Jeffers, E.E. Cummings, Kenneth Patchen, Saroyan, Salinger, Tennessee Wiliams, Carson Mc Culler. Leswis Mumford, và ad infinitum! 
Mấy ngày trước đó, tôi đã nhận thư mời của viện Giáo Dục Quốc tế ở New York, tức là Institute of International Education (I.I.E): viện này cử tôi làm đại diện sinh viên ngoại quốc để dự buổi tiếp tân do đại sứ Arthur Golberg khoản đãi; trong một thoáng căm hờn bốc đồng, tôi đã viết thư cho Viện Giáo Dục Quốc tế ấy rằng “tôi là thiên tài vĩ đại của nước Việt Nam gửi đến, tôi không tham dự buổi tiếp tân nào hết, tôi đã chán ngấy Mỹ quốc, vì thấy Mỹ quốc chỉ là trống rỗng, hoàn toàn trống rỗng. (utterly empty, awfully, dreadfully empty). 
Có lẽ nhờ thiên thần hộ vệ, bức thư ấy được gửi đi rồi, thế mà tính mạng tôi vẫn an toàn. 
Không ai ám sát tôi, vì chắc họ cho tôi là một thằng điên, điên, điên, điên. 
Chỉ có những thằng điên mới cứu vớt thế giới này khỏi điên loạn. Saroyan, buổi chiều hoang trống ở Nữu Ước dạo ấy, tôi đã đóng kín cửa phòng, đóng kín cửa sổ, bật đèn lên, cởi truồng ra, nằm soải người ra để đọc Saroyan và tôi khóc như đứa con nít. 
Sức nóng của tình người đã thổi vào phòng tôi buổi chiều hoang vắng ấy. Tôi thương hết tất cả, tất cả. Tôi thương con gà, con bò, con cá, con chó, con kiến; tôi thương trái đất, trái cây, trái vú; tôi thương dân Mỹ, dân Nga, dân Tàu, dân Pháp, dân da đen, da đỏ, dân Tây, dân Thổ, dân nghèo, dân giàu. 
Saroyan còn khổ, còn đau, còn bị chà đạp gấp trăm lần tôi; Saroyan nghèo đói, cô độc, điên gan, ngu dại, ngây thơ, lung tung, bất thường gấp trăm lần tôi. Saroyan viết văn thơ mộng gấp trăm lần tôi: Saroyan thông minh tế nhị, nhạy cảm gấp trăm lần tôi. 
“Trong gang tấc lại gấp mười quan san.” 
Câu thơ ấy của Nguyễn Du đã trở về ám ảnh tôi giữa một chiều thu lạnh giữa Nữu Ước. 
Tại sao tôi phải căm thù bọn nổi loạn? Buổi chiều hôm ấy, trên các thành phố hoang vu ở Mỹ quốc, ít nhất cũng có hàng trăm triệu người cũng cô độc, cũng tàn tạ, cũng gẫy đổ tan nát như tôi. Họ cũng không biết phải làm gì cho đời họ, họ cũng bắt buộc phải sống, phải hiện lên một lần cô liêu ở trái đất buồn thảm này để rồi chết đi trong đôi mắt khép kín của kiếp người. 
Cuộc đời cần tình yêu của tôi, trái tim trong sạch của tôi hơn là cần hận thù chua xót. 
Hận thù quá dễ. Chán đời quá dễ. Yêu thương mới khó, yêu đời mới khó. 
Hãy đứng dậy đạp mạnh hai chân xuống đất, đưa hai tay lên trời, khom xuống và vùng dậy và cười lên một tiếng cười ầm ầm như sấm sét. 
A ha! aha, aha, aha aha aha aha, tôi yêu đời, tôi yêu hết, yêu, yêu, thương, thương… Aha aha aha aha aha aha… 
Nữu Ước, ngày 8 tháng 10 năm 1965, William Saroyan thương mến. 
Tôi, Phạm Công Thiện, có cha có mẹ, có tim có phổi, còn hai chân đi được, xin gửi đến anh một bức thư không gửi. 
Tôi biết hiện giờ phút này anh đang yêu đời và anh đang nói chuyện với tôi, mặc dù anh không biết tôi là ai và anh cũng không thấy mặt mày tôi lần nào cả. 
Tôi sướng hơn anh, vì tôi đã nhìn thấy mặt mày anh cả trăm lần, thấy hình anh đăng trong báo, đằng sau bìa sách: tôi biết mọi sự rất rõ về anh, về đời anh, về những ý tưởng trong đầu anh, về vợ con anh, về cha mẹ, ông nội ông ngoại của anh, về tuổi thơ tuổi trẻ của anh, về quê hương bạn bè của anh, tôi biết rõ rằng anh uống mấy tách cà phê mỗi ngày, anh ăn ngủ làm sao, anh đi chơi gái thế nào, thánh thiện thế nào, dâm đãng thế nào, vui buồn thế nào. 
Còn anh thì anh chẳng biết gì về tôi cả, thế là có nghĩa anh đã biết hết về tôi rồi đó: anh biết rõ tôi hơn là tôi biết anh, anh biết rõ tôi hơn cha mẹ anh em tôi, hơn cả bạn bè gọi là “thân thiết” của tôi, anh biết rõ tôi hơn cả chính tôi tự biết tôi, nhưng điều huyền diệu lạ lùng là anh không gặp tôi lần nào cả, anh cũng chẳng biết tên tôi là gì cả, nhưng giờ phút này tôi biết rằng đang có hai dòng sóng điện kỳ dị đang xẹt xẹt trong không khí, một dòng đỏ và một dòng vàng, làn sóng điện của tôi có màu vàng đang xẹt xẹt với dòng sóng điện màu đỏ của anh. Tôi với anh đang nói chuyện nhau trong không khí xẹt lửa. 
Tôi biết rằng anh không còn sống được bao năm nữa, nhiều nhất là hai chục năm hay ba chục năm nữa; lúc chết anh hãy đầu thai làm thằng con trai của tôi và tôi sẽ dạy anh (con trai của tôi) đọc lại tất cả những chuyện anh viết lúc anh đầu thai ở Mỹ quốc. Lúc ấy, tôi sẽ nói với anh như vầy: 
“Này con, kiếp trước con đã viết những chuyện lạ lùng như thế, chỉ có tuổi thơ mới hiểu con nói gì, còn người lớn thì họ cho con điên và sống như đứa con nít; kiếp này, cha sẽ dạy con làm người lớn vì người lớn cũng thơ mộng như con nít; kiếp này, con phải sống như người lớn, lấy vợ, sinh con để cái và làm việc đứng đắn để nuôi sống con của con cho đàng hoàng, rồi cha sẽ chết và sẽ đầu thai làm con trai của con và lúc ấy con phải dạy cha (tức con trai của con và cháu của cha), con phải dạy cha cho ra hồn, phải sống như con nít, phải biết ăn ở dơ dáy, đánh lộn, trèo cây, kéo đuôi con chó; kiếp trước, cha đã lỡ làm cha của con và cha đã bỏ mất tuổi thơ của cha, cha đã sống như ông già lúc mới 9 – 10 tuổi thôi, kiếp này, con phải dạy cha sống lại cho đàng hoàng, con đừng bắt cha đi học, đừng bắt cha phải ăn nói lễ độ khả kính, cực cha lắm con ơi! Nhưng riêng đối với con, cha khuyên con hãy làm người lớn cho ra hồn, rồi bỏ quách hết mọi sự, lủi mất vào đồi non núi lá nào đó, ngồi tham thiền nhập định, thỉnh thoảng nhớ đọc Tâm Kinh để cứu vớt mấy trăm ngàn ức tỷ con ma đang khổ bơ vơ đang chờ con tế độ… Mỗi khi con giận, thù ghét bất cứ người nào thì con phải nhớ rằng kẻ ấy vừa là người ma cũng vừa là ma-sẽ thành, bất cứ người nào cũng sẽ là con ma trong tương lai, vậy thì con hãy đọc Tâm Kinh và hô lớn đại thần chú để giúp đỡ họ sang sông. Kiếp trước, con là một đạo sĩ ở Tây Tạng, nhưng vì con đã tỏ ra khinh khỉnh với hạng văn nghệ sĩ, cho nên kiếp vừa qua con đã đầu thai làm Saroyan và con phải viết văn lung tung, nhưng kiếp này, con đã làm con của cha thì con phải trở lại con đường đạo sĩ của con, mỗi ngày, cứ ngồi tham thiền nhập định và khi nào buồn lắm thì hãy phóng làm điện đỏ lên mây và cha sẽ rẩy lên làm sóng điện vàng để ca cười múa hát với con…” 
“Thôi, cha cũng đã nói nhiều với con rồi, cha đã xúc phạm đến cõi vô hình, bây giờ cha tập im lặng, không khéo thì cha lại bị đầu thai làm cháu, làm chắt của đứa con của con nữa thì tội cha lắm.” 
Anh Saroyan thân mến, 
Nằm dài trên giường nệm trắng toát, tôi nghe tiếng xe điện subway chạy rầm rộ lên tiềm thức. Nếu anh đã bắt được làn sóng điện của tôi thì sẽ hẹn gặp lại anh vào kiếp sau. 
Chào thân mến. 
Phạm Công Thiện 
(Chép lại từ Nhật ký không ghi chép xong ngày 1-8-1970) 
Chương sáu 
Ý thức thể hiện - Phác hoạ về Somerset Maugham hay là con người hoạch định mẫu sống 
1. 
Đi vào tác phẩm của Somerset Maugham là đi vào cuộc đời, miên man lạc vào thế giới tạp sắc của tâm hồn con người, là khơi dậy trong ta một niềm phẫn nộ, một lòng trắc ẩn, một mối hoài nghi xao xuyến, một thoáng nhìn chan chứa đối với thân phận mong manh của con người. Đi vào tác phẩm của Somerset Maugham là soi kính để thấy hình bóng của mình, là tự vấn, là tra gạn ý nghĩa của vận mệnh mình, là đi tìm ý thức thể hiện để hoạch định mẫu sống. Chẳng những thế, đi vào tác phẩm của Somerset Maugham còn là thâm thiết đi vào ngã tư của trần gian, là hít mạnh hương vị nồng đượm của mười phương trời thanh sắc, của Thái bình dương “chóng thay đổi và bất thường như lòng người” (The trembling of a leaf), của đảo Tahiti “khả ái như một trinh nữ tuyệt trần lãng phí một cách duyên dáng sức mê hoặc và vẻ diễm kiều của mình” (The Moon and Sixpence), của những đêm Á châu huyền ảo, vạn lý trường thành sương phủ thoang thoảng mùi vị nha phiến và hương trà Khổng Trang (On a Chinese Screen), của miền thị tứ Trung Hoa ngột ngạt dưới sự tiêu diệt tàn nhẫn của bệnh dịch “như người ta bị những bàn tay của một kẻ điên bóp cổ” đang lúc đó “màu xanh lơ của bầu trời vẫn trong suốt như cõi lòng của một đứa trẻ ngây thơ” (The Painted Veil) của những dấu chân người trong nẻo rừng huyền hoặc ở Mã Lai (Ah King), của một nội địa Ấn Độ nhiệm màu thoang thoảng “mùi vị Đông phương vừa chát vừa thơm” (The Razor's Edge). 
2. 
Somerset Maugham đã để lại đời những nhân vật đáng ghi nhớ nhất: 
1. Nhân vật Larry Darrell của quyển tiểu thuyết The Razor's Edge. 
2. Nhân vật Mayhew của truyện ngắn “Mayhew” trong quyển Cosmopolitans; 
3. Nhân vật Strickland của quyển tiểu thuyết The Moon and Sixpence. 
4. Nhân vật Edward Barnard trong quyển The Fall of Edward Barnard. 
Tất cả những nhân vật trên đều là những tâm hồn nghệ sĩ; họ làm cuộc đời họ trở thành một bài thơ tuyệt vời; Larry Darrell là hình ảnh lý tưởng của mọi người thanh niên thời đại, con người nghệ sĩ lang thang khao khát đi tìm Tuyệt Đối trên những phương trời xa lạ, từ Âu châu đến Ấn độ; Mayhew và Larry Darrell đều từ bỏ nước Mỹ để sống vô danh trên những đất trời miên viễn để thực hiện những mộng đời miên man của họ; Strickland và Edward Barnard khước từ nền văn minh Tây phương để trở về sống hồn nhiên trên hải đảo Thái bình dương. 
Chúng ta có thể quên hết tất cả những tác phẩm của Maugham và chỉ nhớ nhân vật Larry Darrell thôi cũng là đủ lắm rồi. Mỗi thanh niên đều ngạc nhiên thấy Larry Darrell là chính hình bóng của mình, một hình bóng thân yêu của Mộng đời bất tận. 
Larry Darrell đi vào tâm hồn mình như là một chất rượu mạnh; Larry Darrell là hình ảnh nên thơ nhất của con người nghệ sĩ giang hồ, của lãng tử lang thang, của những giấc mộng đẹp nhất ở trần gian này. 
Somerset Maugham đã tạo ra Larry Darrell bằng chữ bằng lời; nhưng Larry Darrell đã nhập thể, trở thành con người bằng da bằng thịt: Larry Darrell trở thành thần tượng của thế hệ thanh niên ngày nay. Hơn thế nữa, Larry Darrell đã trở thành chính hơi thở của mọi người trai trẻ ở thời đại này. Mỗi người thanh niên hiện nay phải xem quyển The Razor's Edge của Somerset Maugham là Thánh kinh của thế hệ mình và nên tôn thờ Larry Darrell như là đấng Cứu Thế của thời đại điêu đứng này. 
Chú thích: 
Nói đến tác phẩm của Somerset Maugham người ta thường ca tụng Philip Carey trong quyển Of Human Bondage (Servitude Humaine), nhưng thực ra Philip Carey không đáng được ca tụng; Philip Carey chỉ đáng thương hại và chẳng có gì đáng nói. Philip Carey chỉ là một hình ảnh thanh niên nhu nhược, yếu đuối, vướng bệnh thương thân trách phận (“self-pity”) và tầm thường khờ khệch, lăng nhăng, không dám vươn lên những bầu trời phiêu lãng của Hư vô và Tuyệt Vọng. 
Viết thêm về Somerset Maugham 
Somerset Maugham là tác giả văn chương đầu tiên tôi đọc trong đời; lúc bé nhỏ khoảng 9 - 10 tuổi gì đó, tôi chỉ đọc loại sách văn chương con nít, những quyển sách của Contesse de Ségur, Trilby, Swift, Ed. de Amicis, vân vân (tôi mong rằng lúc nào tôi già được khoảng 80 tuổi thì tôi sẽ viết về những tác giả của tuổi thơ tôi với những dòng tuyệt đối cao siêu nhất). Tác giả văn chương người lớn đầu tiên tôi đọc vào khoảng 10-15 tuổi chính là Somerset Maugham; quyển sách đầu tiên ấy là quyển Of Human Bondage dày khoảng 700 trang. Dạo ấy, tôi còn sống với cha mẹ tôi ở Mỹ Tho, tôi còn nhớ nằm dài trên ghế sofa và đọc trọn quyển sách dày 700 trang từ 6 giờ chiều cho đến 9 giờ sáng trọn đêm không hề ngủ quên một giây! Ôi cái tuổi 15, cái tuổi 16! Cái tuổi yêu đương rạo rực, khát khao lãng mạn, chứa đựng tất cả những phiêu lưu vĩ đại sau này của trọn đời người… 
Từ 15 tuổi cho mãi đến 18 tuổi, tôi đọc bao nhiêu sách của Maugham, truyện ngắn, truyện dài, cảo luận, kịch. Tôi nhớ dạo ấy thư viện Anh British Council còn ở đường Nguyễn Huệ, suốt ngày tôi cứ ngồi ở đó đọc tất cả những quyển sách của Somerset Maugham. Năm 18 tuổi, tôi có viết một loạt bài về Maugham đăng trong tạp chí Bách Khoa, nhưng vì tòa soạn Bách Khoa chỉ cho đăng có một lần thôi và bỏ dở dang (có ý cho rằng tôi viết dòng lê thê quá), tôi nổi giận bỏ luôn ý định viết hẳn một quyển sách về Maugham. (Dạo nhỏ tuổi ấy, tôi thường thích viết bài đăng trong Bách Khoa, nhưng tôi vẫn thường nổi giận và bị cụt hứng thường xuyên vì tòa soạn Bách Khoa có cái tật kỳ quái là hay cắt bỏ bài viết của tôi, chẳng hạn tôi viết 20 trang thì họ cắt lại chỉ còn 5 trang là nhiều!) 
Chừng khoảng 19 tuổi gì đó, tôi bỏ đọc Maugham, vì lúc ấy, tôi cảm thấy Maugham là một văn sĩ hạng bét, ông chỉ kể chuyện và tôi thì đã chán tất cả những truyện kể; tâm hồn tuổi trẻ tôi khao khát những lương thực khó tiêu khác, tôi xô đẩy Maugham vào loại tác giả viết cho những người chưa trưởng thành! Rồi từ 19 tuổi đến bây giờ, khoảng 10 năm, tôi đã quên Maugham như quên một câu truyện cổ tích bỏ rơi trong kẹt cửa. 
Bây giờ tôi gần 30 tuổi, tôi mới khám phá lại rằng thích Somerset Maugham đã ảnh hưởng tôi nhiều nhất vào chính thời gian tôi bỏ quên ông ta! Vì trong khoảng 10 năm gần đây, bây giờ nhìn lại, tôi thấy mình đã sống y hệt như những nhân vật của Somerset Maugham! Ngay đến cái tật kỳ quái của tôi, cái tật hay nghi ngờ rằng tất cả đàn bà con gái đều là kẻ ngoại tình, chính cái tật này đã được (bị) di truyền từ những tác phẩm của Somerset Maugham! Ô, tôi đã tìm ra thủ phạm (ân nhân) rồi! 
Bây giờ tôi coi nhân vật Larry trong quyển The Razor's Edge như anh chàng nghệ sĩ làm trò con nít (như cái việc lang thang, nghệ sĩ, tìm đạo, vân vân), nhưng lúc 18 tuổi, đối với tôi, Larry là một cái gì phóng hiện ra để nói lên mười năm sau tuổi trẻ tôi. Trong khoảng mười năm gần đây, giống như Larry trong The Razor's Edge (Le Fil du Rasoir), tôi cũng bày đặt lãng mạn lung tung, cũng lang thang, nghệ sĩ, tìm đạo, ôi đủ chuyện nhảm nhí buồn cười. Hiện tại, tôi đã chấm dứt những chuyện lung tung ấy và tôi đang bắt đầu mở một chu kỳ khác cho mười năm sắp tới; và trong chu kỳ tới, tôi quyết định sống lung tung, sẽ lang thang tới nơi tới chốn gấp triệu lần lúc trước. Nghĩa là tôi sắp đẩy tất cả cái chất nghệ sĩ trong tôi cho nổ vỡ tan hoang, một cơn nổ vỡ tan hoang trong sự Im Lặng, trong một ngàn nỗi im lặng trên tận đỉnh Hy mã lạp sơn. … Tôi xin đánh mật hiệu bằng ba dấu chấm (…) cho mười năm sắp tới… 
Phạm Công Thiện 
Sài Gòn, ngày 12-8-1970 
Chương bảy 
Ý thức siêu thực - Tình yêu trong thơ Apollinaire hay là sự đồng nhất giữa Thơ và Tình 
Tặng thi sĩ Ninh Chữ và xin cảm ơn một ngày ở Đà Lạt. 
1. Apollinaire là người dân của thế giới, ta không biết gọi chàng là người nước nào; mẹ chàng là người Ba Lan, cha chàng là Ý đại lợi, trước kia quốc tịch chàng là Nga, sau chàng đổi lại quốc tịch Pháp, chàng sinh tại La Mã, học ở Monaco và Pháp, sinh sống ở Đức, giang hồ luân lạc khắp Âu châu, yêu một cô gái Anh, sau chàng trở về sống ở đất Pháp, làm thơ đăng tạp chí Đức, tham dự chủ động vào tất cả những phong trào văn nghệ mỹ thuật ở Âu châu vào đầu thế kỷ; cũng như Blaise Cendrars chàng là lãng tử, lấy tất cả vũ trụ làm quê hương. 
Apollinaire sinh tại Rome vào ngày 26 tháng 8 năm 1880: tên thực của chàng là Guillaume - Albert - Wladimir-Alexandre-Apollinaire- Kostrowitzky, thông minh ngay từ nhỏ, học lớp nào ở ban trung học cũng đều lãnh rất nhiều phần thưởng ưu hạng; mới 17 tuổi, chàng đã là thi sĩ, thuở nhỏ ngoan đạo lắm, nhưng sau bỏ đạo, tuy còn nhỏ tuổi, chàng đọc rất nhiều sách và bỏ học lúc chưa đầy hai mươi tuổi, bước vào đời sống văn nghệ, rồi năm hai mươi tuổi yêu một cô gái Do Thái, tên là Linda, làm thơ dâng tặng nàng, nhưng lòng nàng (cũng như lòng của nhiều cô gái) không khác gì chiếc lá khoai “đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu); còn trái lại lòng chàng (cũng như lòng của tất cả chàng trai) thì như biển sóng còn “chứa muôn con nước ngàn con sông dài”, Apollinaire thất tình, sang Đức làm thầy dạy chữ Pháp trong một gia đình quí phái, rồi lại yêu một cô gái người Anh cũng làm việc ở đó và chàng lại thất tình, rong chơi phiêu lãng mấy nước Âu châu, trở về làm việc ở Paris, cô đơn đau khổ, tham gia đời sống văn nghệ, kết bạn tâm giao chí thiết cùng Picasso và Max Jacob, sống đời nghệ sĩ lang thang, la cà những quán cà phê cùng bạn bè văn nghệ, lòng vẫn hướng về cô gái người Anh thuở ấy (tên là Annie Playden) nhưng chàng đành tuyệt vọng và suốt đời là một kẻ thất tình; năm 1907, chàng gặp Marie Laurencin, hai người yêu nhau say đắm, nhưng sau này cũng chẳng đi đến đâu, nàng lấy chồng vào năm 1914; ít lâu sau, Apollinaire tự ý xin nhập ngũ, chàng thi sĩ quan nhân ấy gặp lại nàng Louise de Coligny Châtilion (tức là Lou trong những bài thơ của chàng) và chàng say mê nàng; thi sĩ vốn đa tình, trong một chuyến xe lửa, chàng gặp một cô gái khác tên là Madeleine Pages, chàng cũng say mê luôn; năm 1916, chàng bị một mảnh tạc đạn đâm thủng vào đầu, chàng bị thương, rồi băng đầu trở về Paris lay lắt sống đời nghệ sĩ trong mấy quán cà phê văn nghệ và Apollinaire chết vào ngày 9 tháng 11 năm 1918; chàng chết lúc mới 38 tuổi, cuộc đời chàng bị cắt đứt lưng chừng nhưng chàng vẫn trở thành mặt trời sáng rực trong vũ trụ thi ca hiện đại. 
2. 
Apollinaire trông to lớn; tướng người hiên ngang, nhưng nét mặt buồn buồn, nhất là đôi mắt, đôi mắt đau khổ mơ mơ màng màng. 
Jean Cocteau nói rằng Apollinaire có con mắt tròn tròn của con chim hoạ mi [1]; André Billy nói rằng Apollinaire vốn vui tính, yêu đời, tò mò, tọc mạch,ham thích dị vật hiếm, thích lông bông và tế nhị (ce bon vivant, cet amateur de raretés et de curiosités, ce dilettante, ce raffiné) [2] … 
Gertrude Stein có nhắc nhiều đến Apollinaire. Bà nói rằng Apollinaire rất khả ái, dễ cảm, dễ thương, đẹp trai thông minh rực rõ dị thường “Guillaume Apollinaire was very wonderful… Apollinaire was very attractive and very interesting… Guillaume was extraordinarily brilliant…) [3]. Bà nói thêm rằng từ ngày Apollinaire chết, những bạn văn nghệ đều chia rẽ nhau, nếu Apollinaire còn sống thì chàng sẽ nối kết lại hết vì chàng có đức tin ràng buộc giữ gìn tình bè bạn giữa anh em (Guillaume would have been bond of union, he always had a quality of keeping people together, and now that he was gone everybody ceased to be friends…). 
Đọc lại những tập hồi ký của André Rouveyre, Vlaminck, André Salmon, Toussaint Luca, Francis Carco, Faure Favier, vân vân, tôi thấy tất cả bạn bè của Apollinaire đều tỏ lòng yêu quý, mến thương chàng vô cùng tính tình của Apollinaire hiền lành lịch sự dễ dãi, hết lòng tử tế với anh em bạn.[tran1] Mặc dù là một nhà thơ rất “avant- gardiste”, rất “lập dị” nhưng tính tình của Apollinaire không “du côn ngang tàng xấc xược” như Rimbaud, Apollinaire không phải là loại poète maudit; tính tình chàng không khó khăn, không cuồng loạn đầy thịnh nộ như những poète maudits (như Lucrèce, Rimbaud, Antonin Artaud, Ezra Pound, Hart Crane, Baudelaire, Mayakovsky…) 
Những nhà thơ thường hay lười biếng, thi sĩ thường hay ít đọc sách, nhưng Apollinaire lại đọc sách rất nhiều, nhiều hơn cả những học giả (T. S. Eliot, Pound hay Kenneth Rexroth cũng thế) nhưng mặc dù đọc sách rất nhiều, thơ của Apollinaire không nhiễm không khí bác học thông thái như thơ của T. S. Eliot, K. Rexroth hay Pound, Apollinaire cũng giống như Leopardi, là nhà học giả trước khi là nhà thơ, nhưng khi họ làm thơ, thì thơ họlà thơ thuần túa. 
Đứng giữa thời đại kỹ nghệ, cơ khí, Apollinaire không có những bực bộ phẫn nộ phản kháng; chàng không phải là l’ homme révolté; chàng không cảm thấy “xa lạ, mất gốc, bị đày” như Melville hay Kafka; chàng không có cảm giác bi đát trước cuộc đời như Unamuno; chàng không phũ phàng cuồng nộ bơ phờ như Knut Hamsun, Strindberg hay D. H. Lawrence; đời sống thành phố không làm náo động thần kinh chàng (Knut Hamsun nghĩ rằng đời sống thành thị đã ăn mòn con người). 
Đứng trước chiến tranh, chàng không phản kháng chống đối theo kiểu Hermann Hesse, Romain Rolland hay Bertrand Russell; đối với chàng, những trái phá tạc đạn rực trời đẹp đẽ không khác gì pháo bông; ở giữa mặt trận, chàng mơ màng ngắm tạc đạn nổ tung “như cây trinh nữ trổ hoa.” 
Un obus éclatant sur le front de l’armée 
Un bel obus semblable aux mimosas en fleurs 
(Poèmes à Lou) 
Chàng không mạt sát văn minh, chàng không chạy trốn bỏ Âu châu và Mỹ châu lại đằng sau như Rimbaud hay Lafcadio Hearn. Chàng không có những khắc khoải siêu hình như những thiên tài khác. 
Ta thấy những thiên tài khai sinh nền văn học hiện đại đều là những kẻ xao xuyến khắc khoải, thác loạn (như Nietzsche, Kierkegaard, Lautréamont, Dostoievsky, Melville, Strindberg, Kafka, Joyce, Rimbaud.) 
Rimbaud và Apollinaire đã khai sinh ra nguồn thơ hiện đại (Blaise Cendrars và Max Jacob cũng có tham dự vào việc khai sinh này). Trường thơ siêu thực đã tôn Apollinaire (cùng Rimbaud và Lautréamont) là những kẻ tiền phong, những người cha khai sinh ra thơ mới. Cùng với Rimbaud và Lautréamont, Apollinaire đã mở ra những chân trời bát ngát cho thi ca hiện đại, nhưng ngược lại với Rimbaud và Lautréamont, Apollinaire không sống ở hỏa ngục, Apollinaire không điên loạn ma quỷ như Rimbaud và Lautréamont, Apollinaire rất “trần tục”; Apollinaire cũng có những khắc khoải, Apollinaire cũng đau khổ; nhưng những khắc khoải đau khổ của Apollinaire không đến nỗi khiến chàng điên cuồng hoặc tự tử, những khắc khoải đau khổ của chàng không đến nỗi khiến chàng phải bỏ làm thơ như Rimbaud; trái lại càng đau khổ, Apollinaire lại càng làm nhiều thơ. 
Apollinaire đau khổ, nhưng đau khổ của Apollinaire là nỗi đau khổ của một con người hồn nhiên; chàng ngây thơ lắm; đọc thơ chàng (nhất là trong tập Poèmes à Lou), ta thấy chàng hay làm thơ với những danh từ tục tĩu “đỏ mặt” (Henry Miller, D. H. Lawrence cũng thế). Những dòng chữ tả chân “tục tĩu” của Alberto Moravia (hay Erskine Caldwell) mang một dụng ý phong phú, nhưng không ngây thơ hồn nhiên như Apollinaire (Tôi nhớ đến truyện “The Innocent” của Graham Greene; truyện này giúp ta hiểu rõ hơn về tương quan giữa sự tục tĩu và sự ngây thơ.) 
• Apollinaire ngây thơ; 
• Apollinaire không bạo động, không phẫn nộ, không điên loạn, không tuyệt vọng; 
• Apollinaire không bận tâm thù ghét chiến tranh, không thù ghét văn minh, đời sống kỹ nghệ máy móc hay đời sống thành thị; 
• Apollinaire là học giả sâu rộng mà không làm thơ tư tưởng hay thơ triết lý hay thơ siêu hình. 
Đó là những nét chính mà tôi đã thấy trong con người Apollinaire. Những nét chính trên đã đi ngược hẳn với trào lưu văn học và tư tưởng hiện đại. 
Văn học hiện đại thì quá già dặn, hết ngây thơ hồn nhiên, có chứa phức cảm tội lỗi, bạo động, phẫn nộ, điên loạn, thù ghét chiến tranh, chán mứa văn minh kỹ nghệ máy móc; nhìn chung, tiểu thuyết hay kịch hiện đại đều là nặng nề về tư tưởng; thơ hiện đại chỉ thừa hưởng những khám phá kỹ thuật của Apollinaire (và của Blaise Cendrars) còn về đường tư tưởng thì thơ ca hiện đại đi ngược hẳn màu sắc trữ tình; thơ hiện đại là thơ triết lý hoặc thơ tôn giáo. Về nội dung tư tưởng, Apollinaire đã đi ngược lại những trào lưu chính của nền văn học hiện đại, nhưng về kỹ thuật hình thức, thì thi ca hiện đại đều nằm trong hơi thở của Apollinaire. 
3. 
Nói đến con người Apollinaire mà không nói đến Tình yêu là không nói được gì cả. Có những người sinh ra đời chỉ để yêu đàn bà và mọi sự trong đời họ đều bị đàn bà chi phối mãnh liệt. Apollinaire thuộc vào hạng người này. Tình yêu đã ảnh hưởng quyết định đến sự nghiệp thi ca của Apollinaire. Đối với Apollinaire, Cuộc Đời, Thơ và Tình Yêu chỉ là Một; Cuộc Đời là Tình Yêu, tất cả mọi sự đều dẫn về Tình Yêu. Ta có thể gọi những thi sĩ nào ở thế giới là thi sĩ của Tình yêu? Robert Burns? Giacomo Leopardi? Christopher Marlowe? So wol Kim? Byung Wha Cho? Sappho? Pétrarque? Heine? Tất cả những thi sĩ không nhiều thì ít đều ca tụng Tình yêu; Tình yêu đã ảnh hưởng mãnh liệt đến Rainer Maria Rilke, nhưng Rilke vẫn xem tình yêu như “gia tăng thêm sự cô đơn” và suốt đời Rilke vẫn lang thang đi tìm “một quê hương tâm linh” mặc dù Rilke đã chết vì đoá hoa hồng của Tình yêu, nhưng phải gọi Rilke là thi nhân của Tâm linh (Gabriel Marcel gọi Rilke là “témoin du spirituel”; danh từ “Thi nhân của Tình Yêu” phải dành cho Pétrarque hay, gần đây hơn, phải dành cho Apollinaire. Pétrarque đã bất tử nhờ mối tình của thi nhân đối với Laura; Apollinaire đã bất tử là nhờ những mối tình của thi nhân đối với Anne với Marie, với Lou, với Madeleine. Tất cả nhân sinh quan hay vũ trụ quan của Apollinaire đều trở về trung tâm điểm là người đàn bà. Có người làm bao nhiêu bài thơ chỉ để ca tụng con người trong đời sống hiện đại (như Walt Whitman), có người làm bao nhiêu bài thơ khóc than cho nỗi bi thương của mình (như Leopardi), có người làm thơ để đọc kinh cho nỗi cô đơn mãnh liệt của mình (như Hàn Mặc Tử và Hoài Khanh), có người làm thơ ca tụng Thượng đế, để tìm Vô hạn (l’inépuisable) trong Hữu hạn (như Paul Claudel), có người làm thơ để tìm Thượng Đế ở Hoả Ngục (như Rimbaud), có người làm thơ chỉ để ca tụng “ngày mai ca hát” (như Bertolt Brecht), nhưng cũng có người làm hàng ngàn bài thơ chỉ để ca tụng một người đàn bà đó là Apollinaire. 
Apollinaire tham lam, suốt đời chỉ chạy loanh quanh lẩn quẩn với hình bóng nàng này và mái tóc nàng kia, Apollinaire nhìn ở đâu cũng thấy những giai nhân; suốt đời chàng cứ bận rộn với những nàng con gái “xinh như mộng”; mặc ai đánh giết nhau, thế giới có tơi bời lửa đạn đi nữa, Apollinaire cũng chẳng hề nhọc óc, chàng cứ thản nhiên làm thơ gửi về “những nàng con gái bên kia ấy”; đang lúc khỏi lửa và đạn bay vèo đầy trời, Apollinaire vẫn thản nhiên mơ mơ màng màng ở giữa trận tuyến; chàng nhìn mọi sự vật trên đời với cặp mắt mơ màng của một người đang yêu, bởi thế chiến tranh không ảnh hưởng gì đến chàng cả; cả vũ trụ của chàng chỉ có nàng: nhìn ở đâu, chàng Gui (Guillaume) Apollinaire cũng đều thấy nàng Lou; ở giữa trận tuyến lửa đạn nghi ngút đầy trời, thi nhân mơ màng: 
La nuit 
S’achève 
Et Gui 
Poursuit 
Son rêve 
Où tout 
Est Lou 
On est en guerre 
Mais Gui 
N’y pense guère 
Đêm tàn 
Và chàng 
Mơ màng 
Chỉ thấy 
Tất cả 
Là nàng 
Chiến tranh 
Nhưng chàng 
Vẫn chẳng hề màng 
Đứng trước cuộc đời, chàng cũng có thái độ như thế. Cần gì bạo động cần gì phẫn nộ phản kháng, ai muốn làm gì cứ làm, ai muốn nghĩ gì nghĩ, tôi chẳng xao xuyến gì cả, tôi dửng dưng hết, bởi vì thế giới của tôi chỉ có một hình bóng mà thôi. Apollinaire chẳng cần thắc mắc xao xuyến trước ý nghĩa của cuộc đời, chẳng cần run run đi tìm Thượng đế, bởi vì đối với Apollinaire, Thượng đế là nàng Anne, là nàng Lou, là nàng Marie, là nàng Madaleine, là nàng có tên gọi là la Jolie Rousse. 
Có những kẻ thất tình vài lần thì mất tự tin và tuyệt vọng rồi trở thành triết gia hoặc kẻ độc tài (như Hitler); Nietzsche và Schopenhauer rút cục lại chỉ là những kẻ thiếu tình yêu của đàn bà và trở thành thù ghét đàn bà; những misogynes chỉ là những kẻ đại thất tình; nhưng càng thất tình, chàng càng đeo miết mấy cô, mỗi lần bị thất tình, chàng cũng đau khổ dữ dội lắm, chàng cũng thất vọng, nhưng không bao giờ tuyệt vọng; nàng Anne không yêu chàng, chàng đau khổ quằn quại lắm, nhưng rồi chàng lại đi tìm nàng Anne khác (như Marie, như Lou, vân vân). 
Xin hoan hô tư cách “đàn ông” của Apollinaire. Dại gì khổ mãi? Hãy bôi sạch những nàng tiên đã đi qua trong đời mình, vì cả vũ trụ này còn có những mấy mươi trăm triệu nàng tiên khác đang rụt rè chờ đợi mình! 
Có những triết gia mà cả đời không trả lời được một câu hỏi; trái lại, ta tưởng chừng như Apollinaire trả lời rất dễ dàng. Nếu ta hỏi cuộc đời là gì? Có lẽ Apollinaire sẽ trả lời: là chàng yêu nàng. Thơ là gì? Thơ là em. Triết học là gì? Là lời em thỏ thẻ. 
Nietzsche đã từng gọi “chân lý” là một “cô nàng”! Và ai thấy lời thỏ thẻ nào của nàng Lou Salomé đang run rẩy đằng sau những trang triết lý cuồng nộ của Nietzsche! 
Apollinaire không chạy trốn cuộc đời (như Kafka, Hemingway, Sadegh Hedayat, vân vân); chàng bám vào cuộc đời, chàng nghiến ngấu cuộc đời như nhai một trái đào tươi, chàng uống cuộc đời như say mê uống ly rượu mạnh; bởi vì đối với chàng, cuộc đời là tình yêu. Đối với Apollinaire, tất cả đều mất hết biên giới: Cuộc Đời, Thơ và Tình Yêu lộn lẫn với nhau và chỉ có một ý nghĩa với nhau, Hư và Thực chỉ là một, Vô Hạn và Hữu Hạn chỉ là một, L’intérieur và L’extérieur của L’existant chỉ là một; Phénomène và Noumène chỉ là một, Trắng hay Đen chỉ là một, Chiến tranh hay Hoà bình chỉ là một, Essence và Existence chỉ là một; En - soi và Pour - soi chỉ là một; Sunyata và Tathata chỉ là một; Logique và Alogique chỉ là một; Xấu và Đẹp chỉ là một; Thành phố và Đồng quê chỉ là một; Tầm Thường và Cao Siêu chỉ là một; Dơ dáy và Sạch sẽ chỉ là một, và Một là gì? Một là Nàng. Một là chàng yêu nàng và nàng yêu chàng. Khi Hai trở thành Một thì cả vũ trụ giao hòa thuận hợp. Khi Hai trở thành Một thì Hỗn Độn trở thành Trật Tự. Một là gì? Một là Tuyệt đối. Một là Siêu Thực Tại (Surréalité). Apollinaire đã khai sinh ra chữ “Surréalité” và từ đó phong trào Surréalisme chào đời để khai thác lĩnh vực hoang vu mà Apollinaire đã tìm ra. 
Nhưng chính trường phái gọi là “Surréalisme” lại đánh mất Surréalité! Giống như Bouddhissme đánh mất Bouddha và Christianisme đánh mất Christ! 
Sống và Chết chỉ là một. Thực tại và Tưởng tượng chỉ là một, Quá khứ và Tương lai chỉ là một, Trên và Dưới chỉ là một. Khi Hai trở thành Một thì mọi Mâu Thuẫn đều chấm dứt. TÔI LÀ CUỘC ĐỜI, TÔI LÀ ÂM THANH, và ÁNH SÁNG, TÔI LÀ XÁC THỊT ĐÀN ÔNG. 
Je suis la Vie… 
Je suis le Son et la Lumière Je suis la Chair des Hommes (Poèmes retrouvés) 
Khi HAI ôm thành MỘT, ta có thể khiêu khích thách đố cả sự chết và ta có thể gọi xanh là đỏ, gọi trắng là đen, gọi sáng là chiều: 
Et liés l’un à l’autre en une étreinte unique 
Nous pouvons défier la mort et son destin 
Quand nos dents claqueront en claquement panique 
Nous pouvons appeler soir ce qu’on dit matin 
(Poèmes à Lou) 
Đứng trước Tình yêu, Kafka cảm thấy bàng hoàng trước cái vật “gớm tởm” (abscheulich) và “dơ dáy” (schmutzig). Kafka chán sợ trước cái nhầy nhụa của xác thịt, bởi thế khi Kafka định tìm giải thoát khỏi sự ám ảnh Hư Vô, Kafka không thể tìm trong Tình Yêu và chàng đã thất bại đau đớn. Đối với Apollinaire thì trái ngược hẳn với Kafka, Apollinaire thần tượng hoá Tình Yêu; Apollinaire ngây thơ, chứ không mang nặng phức cảm tội lỗi như Kafka. Apollinaire hồn nhiên và trước sự nhầy nhụa ấy Apollinaire vẫn hoàn toàn “trong sạch như bầu trời đẹp”. 
Tu peux défier ma volonté sauvage 
Je peux me prosterner comme vers un autel 
Devant ta croupe qu’ensanglantera ma rage. 
Nos amours resterons pures comme un beau ciel. 
(Xin miễn dịch) 
(Poèmes à Lou) 
Đối với chàng, những mối tình cao thượng không bao giờ xấu xa tội lỗi. Tình yêu là thiêng liêng. 

4. 
Không hiểu mấy ngày vừa qua, tôi lừ đừ bơ phờ như một kẻ bị giam hãm trong ngục tù. Chẳng có lý do gì. Bỗng nhiên chán nản hết mọi sự. Thù ghét hết mọi sự. Lấy bút ra định viết ít bài đăng báo, viết được chục trang rồi xé liệng, toàn là những ý tưởng lăng nhăng bệnh hoạn. Lấy tiểu thuyết ra đọc để lấy tinh thần, đọc chừng năm trang đã thấy mệt và cũng chẳng biết mình đang đọc gì; đôi mắt nhìn vào mấy dòng chữ mà tâm trí đang bềnh bồng nơi khác. Đứng dậy định bước chân ra ngoài nhưng rồi ngồi xuống vì không biết đi đâu. Đi mà không biết đi đâu. Ngồi: không biết ngồi làm chi. Viết: chẳng biết viết gì. Muốn làm một cái gì: chẳng biết làm gì bây giờ. 
Tôi bước đi quờ quạng trong phòng; tình cờ bàn tay thờ ơ rờ mó vào tập thơ Hàn Mặc Tử. Tôi bơ phờ giở ra đọc bâng quơ. Thời gian bỗng ngừng lại. Đôi mắt tôi sáng lên. Tôi ngồi xuống. 
Trời tối. Ánh nắng chiếu vàng vọt yếu ớt. Tôi cố gắng trừng mắt đọc. Tôi đọc. Chừng năm phút sau tinh thần tỉnh lại. Thần kinh hết căng thẳng. Hết những chán chường thất vọng. Tôi cười. Một người bệnh nan y và cô đơn ở trong một túp lều tranh tồi tàn. Nỗi chán chường bơ phờ của tôi không có nghĩa lý gì cả nếu so với nỗi bơ phờ tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử: 
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng 
Trôi thây về xa tận cõi vô biên 
Tôi hết thất vọng chán mứa. Tôi hết mất mát. Thơ làm tôi sống lại. Thơ giải thoát tôi ra khỏi vòng tù hãm nhọc nhằn của cuộc sống. Thơ đặt tôi trước đời sống. 
Tôi mỉm cười bước xuống nhà dưới, tình cờ thấy tờ giấy báo dơ nằm dưới đất, tôi lượm lên đọc bâng quơ: 
Mùa thu đêm mưa 
phố cũ hè xưa 
công viên lá đổ 
ngóng em kiên khổ phút giờ 
Mùa thu âm thầm 
Bên vườn Lục Xâm 
ngồi quen ghế đá, 
không em buốt giá từ tâm 
mùa thu nơi đâu 
người em tóc nâu 
tóc vàng sợi nhỏ? 
Mong em chín đỏ trái sầu… 
(Cung Trầm Tưởng) 
Tôi ngạc nhiên. Tim tôi máy động. Cung Trầm Tưởng là ai mà làm thơ tài hoa vậy? Tôi mơ màng. Tôi hình dung những chiếc lá rơi. Tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi chảy. Kia là tả ngạn Rive Gauche… Kia là đường phố Aumont- Thiévil và l’ avenue des Ternes… Kia là những kẻ tứ chiến giang hồ… Kia là cầu Mirabeau… Kia là mùa thu rơi… Kia là Pont - Neuf. Ôi Paris Souvenir Souvenirs… Remember to Remember… 
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Apollinaire. Ừ, chỉ có Apollinaire mới có những giòng thơ bất tuyệt để làm sống lại Paris. Nói đến Paris là nói đến Kỷ niệm, nói đến Nghệ sĩ, là nói đến Tình yêu và Tuổi trẻ. Paris là thành phố của những kẻ tứ chiếng giang hồ, của những clochards của những femmes de joie, của những Henry Miller, những Hemingway, những Gertrude Stein, những Picasso, những Apollinaire…
Mùa thu nơi đâu 
người em mắt nâu 
tóc vàng sợi nhỏ 
Mong em chín đỏ trái sầu 
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Apollinaire… 
J’ ai cueilli ce brin de bruyère 
L’ automne est morte souviens t’en 
Nous ne nous verrons plus sur terre 
Odeur du temps brin de bruyère 
Et souviens-toi que je t' attends 
Cũng vào mùa thu, Cung Trầm Tưởng ngóng người yêu “kiên khổ phút giờ” và “chín đỏ trái sầu”, ngóng chờ mong đợi như Apollinaire đã ngóng chờ mong đợi giữa hương thời gian và mùi thạch thảo: 
Odeur du temps brin de bruyère 
Et souviens-toi que je t' attends 
Trời tối hẳn rồi. Tôi bước vào giường nằm ngủ, mắt nhắm lại, những dòng thơ của Hàn, của Cung, của Apollinaire chan hòa thướt tha đưa tôi vào giấc ngủ triền miên… 
5. 
Sáng sớm, tôi sực thức giấc. Tôi thở khoan khoái. Giấc ngủ êm đềm đã xóa nhòa tất cả những khắc khoải của mấy ngày qua. Tôi bước ra ngoài vườn; gió cao nguyên lạnh buốt. Mặt trăng còn chiếu sáng. Bỗng nhiên tôi sực muốn viết về Apollinaire. Bỗng nhiên… Ừ, chắc những dư vang của tối hôm qua còn đọng lại sau giấc ngủ nhẹ nhàng. Tôi bước vào nhà vội vã ngồi vào bàn. Nhưng… nhưng mà viết gì đây? Có thể viết về Apollinaire sao? Viết thế nào? Viết về thơ Apollinaire? Không thể được. Có thể phê bình thơ Apollinaire? Không. Ừ, không gì vô lý bẩn thỉu bằng cái việc phân tích phê bình thơ. 
Nói đến thơ thì chỉ có việc ca tụng hoặc thờ phụng. Nói đến Thơ không khác gì nói đến Thượng đế. Phê bình Thơ là làm việc phạm thánh, là “blasphème.” 
Nhưng thi sĩ không phải là loài người, họ là những thiên thần, những thánh hoặc những quỷ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được thì ta phải ca tụng họ hết lời. Ta không được quyền có thái độ của học giả hoặc giáo sư hoặc nhà phê bình. Phải giết hết những nhà phê bình để cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi xanh! 
Anh không thể cảm thơ người ta thì anh hãy im lặng; còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những nhà phê bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người; không có ai làm thầy ai cả. Phê bình văn nghệ ư? Đau đớn lắm. 
Giở lại mấy trang của André Rousseaux trong quyển Littérature du vingtième siècle (cuốn thứ 6), tôi đọc đôi lời thú nhận của học giả già dặn: “Il est très difficile de parle vraiment d’ Apollinaire.” 
Ừ, không thể nào nói về Apollinaire cho đàng hoàng được. Đối với những thi hào đều thế. Đối với Rimbaud cũng thế. Blaise Cendrars cũng thế. Miloz, Lorca, Georg Trakl, Seferis, Cummings, Blake, Dylan Thomas, Kathleen Raine, Cavafis cũng thế. 
Đây không phải là một bài khảo luận. Xin anh đừng kiếm sự quảng bác thông minh. Tôi không biết lý luận; tôi không biết phân tích và phê bình. Tôi chỉ biết ca ngợi. 
Tôi ca ngợi: Apollinaire là thiên tài của nhân loại; Apollinaire là hiện thân của thơ; Apollinaire là mây trắng của vòm trời xanh bất diệt…
Chú thích:
[1] Les Écrivains célèbres, éditions Lucien Mazenod cuốn III, trang 195. 
[2] Apollinaire, Oeuvres poétiques, bibliothèque de la Plélade, préface, Paris. XXXII. 
[3] Gertrude Stein, The Autobiography of Alice B. Toklas, trang 58-63 (Random House, N.Y.) 
Tập Alcools là tập thơ tuyệt vời nhất của Apollinaire; tập Calligrammes mang nặng màu sắc “avant-gardiste”; những tập thơ khác của Apollinaire (như Poèmes à Lou, Le Guetteur mélancolique, II y a, Vitam Impendce Amori, v.v…) chứa đựng hương sắc trữ tình nồng nàn ân ái vô tận. 
Tập thơ đầu tiên của Apollinaire là tập Le Bestiaire ou cortège d’ Orphée. Tập thơ này không lôi cuốn như tập Alcools, nhưng thỉnh thoảng tập Le Bestiaire cũng lóe lên vài ánh ngọc lung linh như: Belles journées, souris du temps 
Vous rongez peu à peu ma vie 
Phòng của tôi có vài ba con chuột: tối ngủ mấy con chuột ấy cứ gặm phá ồn ào, tôi bực mình lắm. Đọc hai câu trên của Apollinaire tôi toát mồ hôi, tôi không bao giờ nghĩ được hình ảnh lạ lùng như thế. Ôi chuột thời gian mi gặm nhấm ăn mòn cuộc đời của ta!... Belles journées, souris du temps 
Vous rongez peu à peu ma vie 
Tập Alcools mở đầu với bài thơ “Zone”, một trong những bài thơ lạ lùng nhất của Apollinaire và của thi văn hiện đại ở thế giới: 
A la fin tu es las de ce monde ancien 
Bergère ô tour Eiffel le troupeau des pónt bêle ce matin. 
Thế rồi sau cùng mi chán thế giới cũ kỹ này 
Ô kẻ chăn cừu Hỡi tháp Eiffel đoàn cừu của nàng là những cây cầu kêu be be sáng nay 
Chắc Apollinaire là một thiên thần mới có thị quan khơi vơi như trên? Phải chăng thiên thần Apollinaire bay liệng trên thành phố Paris và tưởng tháp Eiffel là một kẻ chăn cừu và những cây cầu rải rác là một đoàn cừu? Kẻ chăn cừu ấy là một nàng con gái: 
Bergère ô tour Eiffel… 
Thành phố Paris hiện ra huy hoàng, tôi bước đi lang thang vào một con đường xinh xinh mơ màng quên hết mọi sự: 
J’ ai vu ce matin une jolie rue don’t j’ai oublié le nom 
Neuve et propre du soleil elle était le clairon. 
Sáng nay tôi thấy một con đường xinh đẹp mà tôi đã quên tên 
Mới tinh và sạch sẽ như kèn lính của mặt trời 
Thành phố huyên náo nhộn nhịp, ốc hụ, chuông gắt gỏng (“cloche rageuse”), những bảng hiệu, những tờ cáo thị, con đường kỹ nghệ yêu kiều (“la grace de cette rue industrielle”) tôi nhớ tuổi thơ ngoan đạo hồn nhiên trong trắng (“vous priez toute la nuit dans la chapelle du collège”), dĩ vãng xinh đẹp chim én bay đầy trời, nhưng hỡi ơi, hiện tại chỉ là nỗi cô đơn buồn sầu héo: 
Maintenant tu marches dans Paris tout seul parmi la foule 
Des troupeaux d’autobus mugissants près de toi roulent 
L’angoisse de l’amour te serre le gosier 
Bây giờ mi đi bách bộ ở Paris và cô đơn chiếc bóng giữa thiên hạ người đời 
Những đàn cừu ô tô buýt kêu rống chạy gần mi 
Nỗi đau đớn ray rứt của tình yêu bóp cổ họng mi. 
Đi giữa thành phố Paris, bước lang thang vào con đường xinh xắn, Apollinaire bỗng dưng nhớ đến tuổi thơ của chàng, người thi sĩ ấy nhớ lại tuổi hoa niên ngây ngô trong trắng, chưa lấm bụi đời, cái tuổi đầy mơ mộng, cậu bé nhỏ mặc áo xanh trắng ấy đã đọc kinh ngoan đạo và mơ mộng hồn nhiên ngây thơ vô cùng; nhưng hỡi ơi dĩ vãng xanh mộng ấy đã qua rồi và hiện tại chỉ phũ phàng cay đắng, ngày xưa là xinh đẹp vô tư lự, nhưng bây giờ chàng đau khổ cô đơn, đang bước đi lang thang giữa đường phố đông người và đang đau đớn thất tình: L’angoisse de l’amour te serre le gosier. 
Đau khổ quá, chàng lẩm rẩm đọc kinh giữa đường phố, nhưng chàng giật mình hổ thẹn khi bắt chợt mình đang đọc kinh (bởi vì từ lâu, chàng đã mất đức tin và không còn ngoan đạo nữa, tuổi thơ sùng đạo mất rồi), chàng cười ra nước mắt: 
Vous avez honte quand vous surprenez à dire une prière 
Tu te moques de toi et comme le feu de l’ Enfer ton rire pétille 
Les étincelles de ton rire dorent le fonds de ta vie 
Anh hổ thẹn lúc anh bắt chợt anh đang đọc kinh 
Mi chế nhạo mi và như lửa ở Hỏa Ngục tiếng cười mi nổ lẹt đẹt. Những đóm lửa của tiếng cười mi mạ vàng đáy sâu của cuộc đời mi Cười chua chát, chàng tiếp tục bước đi lang thang giữa đường phố Paris: 
Aujour d’hui tu marches dans Paris les femmes sont ensanglantées Hôm nay mi đi bộ ở Paris những người đàn bà loang máu 
Lòng chàng, tim chàng cùng loang máu, tình yêu ám ảnh chàng vô cùng mãnh liệt, tình yêu hành hạ chàng một cách tủi nhục (“l’amour dont je souffre est une maladie honteuse”), bước đi lang thang ở Paris, chàng nhớ đến những chuyến giang hồ, những chuyến viễn trình trong đời chàng những mẩu tình vụn vặt chàng đã gặp trên bước lang thang hải hồ, những chuyến đi ở Prague, ở Marseille, ở Coblence, ở Rome, Amsterdam… 
Chàng làm những chuyến giang hồ vui và buồn, chàng đã thất tình lúc hai mươi tuổi và lúc ba mươi tuổi. 
J’ai vécu comme un fou et j’ai perdu mon temps. 
Tôi đã sống như một thằng điên và tôi đã đánh mất thời gian. 
Chàng không dám nhìn hai bàn tay chàng (“tu n’oses plus regarder tes mains’) và chàng muốn khóc nức nở, khóc cho chàng, cho người chàng yêu, cho tất cả những khi bẽ bàng kinh hãi. Chàng tiếp tục bước đi giữa thành phố Paris và đến một quán nước, chàng dừng chân lại: Tu es debout devant le zine d’un bar crapuleux 
Tu prends un café à deux sous parmi les malheureux 
Tu es la nuit dans grand le restaurant. 
Mi đứng trước quầy rượu bẩn thỉu dâm ô. 
Mi uống cà phê rẻ tiền giữa những người đau khổ. 
Ban đêm mi đang ở trong một nhà hàng sang trọng. 
Đêm sắp tàn bình minh ló dạng: 
Tu es seul le matin va venir, 
Les laitiers font tinter leurs bidons dans les rues 
Mi cô đơn và ngày sắp đến 
Những người bán sữa khua động bình thiết trên những đường phố. Những âm thanh của buổi sáng tinh mơ trỗi dậy: đường phố khua động du dương, chàng nâng ly lên uống rượu trước khi rời bỏ quầy hàng. 
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie 
Ta vie que tu bois comme une eau-de-vie. 
Và mi uống rượu nồng cháy như cuộc đời mi 
Cuộc đời mi mà mi uống như rượu mạnh. 
Chàng bước trở về nhà để ngủ một giấc miên man. Mặt trời lưng chừng thoáng hiện. 
Adieu Adieu 
Soleil cou coupé 
Giã biệt giã biệt 
Mặt trời cổ bị cắt 
Bài thơ “Zone” chấm dứt như trên. Tôi muốn trích trọn bài “Zone” vào đây, nhưng bài thơ dài quá, dài đến sáu trang giấy. (Xin xem phần chú thích) [1] . Bài “Zone” là bài thơ tiêu biểu nhất của Apollinaire. Người ta than rằng bài “Zone” khó hiểu. Tôi đã đọc hết cả những tập thơ Apollinaire từ xưa, thế mà từ đó đến nay không có bài thơ nào ảnh hưởng tôi mãnh liệt như bài “Zone”, có những bài thơ mà hồi còn trẻ nhỏ ta rất say mê nhưng đến lúc lớn khôn ta không thích, nhưng ngược lại cũng có những bài thơ mà càng lớn tuổi ta càng say mê hơn nữa. “Zone” nằm trong trường hợp sau. Thực ra, bài “Zone” chẳng có gì khó hiểu. Có khó hiểu chăng là vì quá nhiều hình ảnh lạ lùng dồn dập hoà lẫn với nhau và biên giới thời gian không gian đã mờ nhạt đi, không còn thứ tự thường lệ nữa. Hầu hết thi ca hiện đại đều thế. Ta từng đọc những quyển tiểu thuyết khác thường của Faulkner và James Joyce, James Joyce và Faulkner đã sử dụng lối độc thoại nội tâm (monologue intérieur) trong tiểu thuyết. Apollinaire (và nhất là T. S. Eliot) đã xử dụng lối độc thoại nội tâm trong thơ. Bài “Zone” (hay bài “Cortège”) của Apollinaire chỉ là những bài độc thoại nội tâm thường khó hiểu đối với những người quen đọc lối văn cũ. Chủ đề bài “Zone” là gì? Theo tôi đó là một bài trầm buồn của một người thất tình Apollinaire là một nhà thơ của Tình yêu; những bài thơ tuyệt vời nhất của Apollinaire đều là những bài hát của kẻ thất tình. Bài “Zone” đưa ta vào những đường phố Paris; Apollinaire buồn chán đi lang thang trên những đường phố Paris từ sáng đến chiều tối, rồi đến khuya sáng hôm sau mới trở về nhà mà ngủ. Đang lúc Apollinaire lững thững bước đi, những hình ảnh tưng bừng của Paris và ngày xưa trở về xuất hiện lộn xộn trong tâm tưởng chàng, chàng thấy lại lúc bé thơ ngây thơ hồn nhiên, chàng thấy lại những lúc bé thơ ngây ngô hồn nhiên, chàng thấy lại những lần lang bạt kỳ hồ ở bờ Địa trung hải, ở Prague, ở Marseille, ở Coblence, Rome, Amsterdam; đang lúc chàng đi lang thang ở Paris, những hình ảnh ấy sống lại trong tâm tưởng chàng; mỗi bước chân chàng gợi lại những quãng đời chàng, những hình ảnh hiện tại và quá khứ xuất hiện lẫn lộn trong tâm tưởng của một chàng thi sĩ thất tình đau khổ; đêm tàn buổi sáng trở về; trước khi về nhà ngủ, chàng uống một ly rượu mạnh như uống cuộc đời chàng: 
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie. 
Ta vie que tu bois comme une eau - de - vie. 
Hai câu thơ trên là hai câu thơ hay nhất của bài “Zone”; Apollinaire đã lấy chữ Alcool trong hai câu thơ ấy để đặt nhan đề tập thơ Alcools. Khi viết bài “Zone”, Apollinaire muốn nói gì? 
Đi trên thành phố phai nhầu 
Bước chân xiêu vẹo nghe sầu vọng âm 
Lời em trên mắt âm thầm 
Khua chân phố nhỏ giọt đầm đìa tuôn 
(Hoài Khanh) 
Có thể lấy mấy câu thơ trên để làm chủ đề cho bài “Zone” là một buổi lang thang xiêu vẹo “nghe sầu vọng âm” trên thành phố phai nhầu Paris. 
Tôi không hiểu tại sao tôi lại thích mê đi lang thang trên những đường phố, bất cứ một đường phố nào. Chỉ bước đi lang thang và ngó nhìn bâng quơ, chỉ bấy nhiêu thôi là đủ hạnh phúc lắm rồi. 
Nhất là đi lang thang từ tối khuya đến sáng tinh mơ. Tôi nghĩ rằng bất cứ kẻ nào đã từng lang như chó hoang, khi đọc bài “Zone”, sẽ càng thấm thía vô cùng. Nếu có đọc “Zone”, chắc Sherwood Anderson thích thú lắm. (Sherwood Anderson là kẻ lang thang bâng quơ nhất trên những đường phố Mỹ quốc). 
Apollinaire đi lang thang ở nhiều nước ngay từ lúc còn trẻ. Blaise Cendrars cũng thế. Valéry Larbaud cũng thế. Hơi thở của “Zone” nhắc ta nhớ đến “Prose du Transbérien” hoặc “Pâques à New York” của Blaise Cendrars. 
“Zone” mạnh và dồn dập thôi thúc hơn bài “Le Pont Mirabeau”. Dở tập Alcools, ta thấy sau bài “Zone” là bài “Le Pont Mirabeau”; cả hai bài đều bất hủ; nhưng cái style nouveau được thể hiện rõ ràng mãnh liệt trong “Zone” hơn là trong “Le Pont Mirabeau”. 
Bài “Le Pont Mirabeau” nằm trong truyền thống thi ca trữ tình Pháp: Sous le pont Mirabeau coule la Seine 
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy. 
Apollinaire đứng nhìn sông Seine trôi chảy và thi nhân đau đớn khắc khoải sống lại dĩ vãng và những mối tình xưa: 
Sous le pont Mirabeau coule la Seine 
Et nos amours 
Faut - il qu’il m’en souvienne 
Tôi nhớ đến mấy câu thơ của Hoàng Trúc Ly; Hoàng Trúc Ly sống lại dĩ vãng và những mối tình xưa: 
Tôi đứng bên bờ dĩ vãng 
Thương về con nước ngại ngùng xuôi 
Những người con gái bên kia ấy 
Ai biết chiều nay có nhớ tôi 
Tôi muốn hôn bằng môi của em 
Mùa mưa thao thiết nắng hoe thềm. 
(Hoàng Trúc Ly) 
Hoàng Trúc Ly “Thương về con nước ngại ngùng xuôi” mang theo mất những mối tình của thi nhân cũng như Apollinaire thổn thức “Tình yêu trôi đi như dòng nước chảy”: 
L’amour s’en va comme cette courante 
L’amour s’en va 
Comme la vie est lente 
Et comme l’Espérance est violente 
Vienne la nuit sonne l’heure 
Les jours s’en vont je demeure 
Tình yêu trôi đi như dòng nước chảy. Tình yêu trôi đi, cuộc đời chậm chạp, hoài vọng mãnh liệt. Đêm đến, giờ điểm, thời gian trôi chảy, chỉ còn thi nhân ở lại bên cầu thương dĩ vãng. Chẳng biết có chịu ảnh hưởng Apollinaire hay không mà Hoài Khanh cũng có những lời thơ tuyệt tác có thể khiến ta nhớ đến những câu thơ của Apollinaire. 
Rồi em lại ra đi như đã đến 
Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù 
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng 
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu. 
(Hoài Khanh) 
Mỗi nhà thơ mang một giọng điệu riêng, nhưng ta có thể lấy câu “ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” để giải thích câu “je demeure” của Apollinaire trở nên bất hủ; ý nghĩa cô đọng súc tích mông lung vô cùng, ta muốn hiểu thế nào cũng được. Thời gian trôi đi mất, chỉ còn nỗi khổ triền miên ở lại cùng tôi! Đoạn thơ hay nhất trong bài “Le Pont Mirabeau” là đoạn này: 
Les mains dans les mains restons face à face 
Tandis que sous 
Le pont de nos bras passe 
Des éternels regards l’onde si lasse 
Vienne la nuit sonne l’heure 
Les jours s’en vont je demeure 
Tay trong tay mặt hãy nhìn mặt 
Đang lúc dưới 
Cầu của những cánh tay đôi ta lướt dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu 
Hãy để đêm về giờ điểm 
Ngày trôi tôi vẫn còn đây. 
Thi nhân nhớ lại ngày xưa cũng tại nơi đây, thi nhân cùng người yêu âu yếm nhìn nhau, tay trong tay, mặt đối mặt, đang lúc ấy cánh tay của hai người chàng qua như một cây cầu (“le pont de nos bras”) và dưới cầu tay ấy là những thoáng nhìn thiên thu của đôi tình nhân không khác gì dòng nước mệt mỏi lướt chảy dưới cầu (“l’onde des étenrnels regards”). 
Bài “Le Pont Mirabeau” chấm dứt thật tái tê thê lương: 
Passent les jours et passent les semaines 
Nile temps passé 
Nil les amours riviennent 
Sous le pont Mirabeau coule la Seine 
Vienne la nuit sonne l’heure 
Ngày đi, tháng đi, năm đi, những tuần lễ trôi đi, thời gian bên ngoài trôi xuôi đi mất, chỉ còn thời gian bên trong tâm tưởng là không đi và những mối tình cũng không trở lại (“Ni les amours reviennent”) và nước sông Seine vẫn “xuôi lạnh một dòng sầu” dưới cầu Mirabeau để cho “mấy mầu thời gian” trôi đi mất và chỉ còn lại thi nhân đứng nhìn con sông xa nguồn mà tê tái (“je demeure”) 
Nước xuôi lạnh một dòng sầu
Biết về đâu hỡi mấy màu thời gian 
(Hoài Khanh) 
Sous le pont Mirabeau 
Vienne la nuit sonne l’heure 
Les jours s’en vont… 
(Apollinaire) 
Con sông nào đã xa nguồn 
Thì con sông ấy sẽ buồn với tôi 
(Hoài Khanh) 
Sous le pont Mirabeau coule la Seine… 
Les jours s’en vont je demeure 
(Apollinaire) 
Màu thời gian không xanh 
Màu thời gian tím ngát 
Hương thời gian không nồng 
Hương thời gian thanh thanh 
(Đoàn Phú Tứ) 
Màu thời gian không còn xanh nữa, màu thời gian đã tím ngát và chỉ còn Apollinaire đứng lại bên cầu Mirabeau bẽ bàng mơ màng ngửi lại “hương thời gian” như dịch mấy chữ “Odeur du temps” trong bài “Adieu” của Apollinaire (chắc Đoàn Phú Tứ không đọc Apollinaire và đây chỉ là trùng nhau thôi). 
Bài “Le Pont Mirabeau” chấm dứt với hai chữ “je demeure” để lại những âm vang đồng vọng mãi suốt cả đời tôi: 
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi 
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang 
(Quách Tấn) 
Tiếng dội lưng mây ấy là tiếng “je demeure” của Apollinaire. Suốt đời tiếng “je demeure” vẫn quyện lấy lòng tôi như tảng mây trắng quyện lấy núi đồi. 
…Je demeure 
Phải chăng đối với: 
… Je suis l’Autre 
(Gérard De Nerval) 
Hay là: 
… Je est un autre 
(Rimbaud) 
Giao hoà cùng: 
… Ta có là Ta chăng hề Ai chứ là Ngươi 
(Vũ Hoàng Chương) 
Ngoài hai bài tuyệt tác như “Zone” và “Le Pont Mirabeau”, tất cả những bài thơ khác trong tập Alcools đều tuyệt vời, bất cứ bài nào trong tập Alcools cũng đều đặc sắc. Tôi khó lòng quên những câu du dương lướt thướt như: 
Voie lactée Ô soeur lumineuse 
Des blancs ruisseaux de Chanaan 
Et des corps blancs des amoureuses 
Nageurs morts suivrons-nous d’ ahan 
Ton cours vers d’ autres nébuleuses (…) 
L’ amour est mort j’ en suis tremblant 
J’ adore de belles idoles (…) 
Juin ton soleil ardente lyre 
Brule mes doigts endoloris 
Trisle et mélodieux délire 
J ‘erre à travers mon beau Paris 
Sans avoir le coeur d ‘y mourir 
Apollinaire suốt đời vẫn lang thang ở Paris, thành phố đẹp tuyệt trần của lòng chàng (“mon beau Paris”…); đời sống Paris vẫn gắn bó nồng nàn cùng bài hát thất tình của chàng thi nhân đau khổ ấy; oô những buổi chiều Paris… những chiều bàng bạc men nồng… 
Soirs de Paris ivres de gin 
Câu trên là câu thơ hay nhất của bài “La Chanson du Mal - Aimé.” 
Men khói đêm nay sầu dựng mộ 
Bia đề tháng sáu ghi mười hai 
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc 
Tố của Hoàng nay Tố của Ai 
(Vũ Hoàng Chương) 
Ôi, men khói đêm Paris… 
Soirs de Paris ivres de gin 
(Apollinaire) 
Em ơi lửa tắt bình khô rượu 
Đời vắng em rồi say với ai 
(Vũ Hoàng Chương) 
Ừ, chỉ say với những đêm Paris… 
Soirs de Paris ivres de gin 
(Apollinaire) 
Apollinaire yêu một cô gái người Anh tại Đức. Chàng yêu say đắm; chàng yêu nàng ngây ngất khi nàng trở về Anh, chàng đã lững thững sang đến Luân Đôn để hỏi cưới nàng, chàng bị từ khước; thất vọng chàng làm bài “La Chanson du Mal - Aimé”; cùng với bài “Zone” và “Le Pont Mirabeau”, bài “La Chanson du Mal - Aimé” cũng trở thành bất hủ: L’ amour est mort j’ en suis tremblant 
Đời đã vắng em rồi… Đời vắng em rồi… L’ amour est mort… L’ amour est mort… từ đây anh bơ vơ lang thang khắp phố phường Paris, J ‘erre à travers mon beau Paris… lòng khô đắng, ôi tình anh đã chết, men khói đêm nay sầu dựng mộ… 
Soirs de Paris ivres de gin 
Anh đi trên những buổi chiều Paris, men khói cuồng say, ôi Tố của Hoàng hay Tố của Ai? Ôi, những buổi chiều Paris men khói cuồng say, đời vắng em rồi say với ai? Apollinaire lang thang đau đớn trên những buổi chiều Paris… Soirs de Paris… Apollinaire lắng nghe tiếng xe điện khua động điên cuồng trên đường phố (“Les tramways feux verts…”) những quán cà phê bồng khói (“Les cafés gonflés de funée ”); đời sống Paris quay cuồng và lòng thi nhân xót xa hướng vọng về người yêu. L’ amour est mort j’ en suis tremblant, Duyên trăm năm đã chết… 
Duyên trăm năm đứt đoạn 
Tình một thủa còn hương 
Hương thời gian thanh thanh 
Màu thời gian tím ngắt 
(Đoàn Phú Tứ) 
Hỡi ơi, tình một thủa còn hương, nhưng Hương đã chết rồi và suốt đời chàng lang thang đau khổ để lại “La Chanson du Mal - Aimé” giữa cuộc đời lạnh lẽo này. Chàng đi vào nghĩa địa hoang vu: 
Dans ce cimetière presque dérzst… 
(“La Maison des morts”) 
Hoặc chàng đi tìm hương thơm của mấy dòng sông để cho đỡ nguôi sầu nhớ em Hương thủa ấy: 
L’ odeur des fleuves dans leurs villes 
(“Cortège”) 
Hoặc chàng rưng rưng gõ cửa, nước mắt chàng ràn rụa, hỡi ôi, cuộc đời luân lưu bất định như dòng Euripe, chàng rưng rưng gõ cửa, nhưng cửa vẫn đóng kín, em nỡ lòng nào tàn nhẫn thế? 
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant 
La vie est variable aussi bien que l ‘Euripe 
(“La Voyageur”) 
Hoặc những lần nhìn lá thu rơi lác đác chàng thấy hai bàn tay nàng thu thướt: 
Et tes mains feuilles de l’automme 
(“Marie”) 
Hoặc chàng lững thững bên bờ sông Seine, tay cầm sách cũ, dòng sông giống như nỗi khổ đau đớn của chàng, sông vẫn chảy mãi và không bao giờ khô cạn, biết về đâu hỡi mấy mầu thời gian? 
Je passais au bord de la Seine 
Un livre ancien sous le bras 
Le fleuve est pareil à ma peine 
Il s’ écoule et ne tarit pas 
Quand donc finira la semaine 
(“Marie”) 
Hoặc Nguyệt lên trời chàng đau thương nhìn thấy Thu đã chết, Hương thủa ấy không còn, giờ đây Thu cũng mất, Hương và Thu đã bỏ chàng bơ vơ: 
L’ automne est morte souviens-t’ en 
(“Adieu”) 
Đã chết mùa thu em biết chưa 
Anh không khóc nữa để mong chờ 
Buồn không chở nổi bao niềm nhớ 
Rưng rức đâu từ vạn cổ sơ 
(Hoài Khanh) 
Hoặc chàng buồn bã lắng nghe tiếng hát biến mất xa xôi, tê tái: 
J’ entends mourir et remourir un chant lointain 
(“La porte”) 
Some song that I might hear little by little 
Dying into the distance down a lane 
(G. Leopardi) 
Hoặc chàng say lúy túy để phá tan “vạn cổ sầu”, ly rượu lung linh leo lét như một ngọn đèn óng ánh: 
Mon verre est plein d’un vin trembleur comme une famme (“Rhénanes”) 
Chàng say; men lên chuếnh choáng; chàng “gắng say say để lên hề tận độ” và ly rượu bể tan tành như một tiếng cười vang động thiên thu: Mon verre s’est brisé comme un éclat de rire 
(“Rhénanes”) 
Hoặc bị giam hãm giữa đường đời, mọi lối thoát không còn, chàng khóc than những năm trời trôi mất và những người con gái quá xa xôi: Ô mes année ô jeunes filles 
(“A la Santé”) 
Những hoàng hôn mưa ướt cuộc đời 
Em cách xa rồi xa rồi em ơi! 
(Hoàng Trúc Ly) 
Chàng khóc những giờ phút trôi đi thê lương như đám ma: 
Que lentement passent les heures 
Comme passe un enterrement 
(“A la Santé”) 
Hoặc khi Thu trở về, chàng khóc như gió khóc, rừng khóc, tiếng Thu rơi xào xạc, chàng yêu Thu chàng yêu những tiếng mùa ào ạc, trái rơi, những giọt lệ thu rơi từng lá, tiếng chân ai khua động đạp trên những chiếc lá, tiếng tàu hoả buồn buồn và cuộc đời trôi chảy lênh láng: 
Et que j’aime ô Sàigòn que j’aime tes rumeurs 
Les fruits tombant sans qu’on les cueille 
Le vent et la forêt qui pleurent 
Toules tours larme en automme feuille à feuille 
Les feuilles 
Qu’on foule 
Un train 
Qui roule 
La vie 
S’ écoule 
(“Automne malade”) 
Ừ, em nghe chăng mùa thu? Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô thu… ôi tiếng thu!… 
Les feuilles 
Qu’on foule 
Un train 
Qui roule 
La vie 
S’ écoule 
Một chiều trở về nhà, đi dọc theo bờ sông hoang tối, chàng lắng nghe tiếng hát trầm buồn văng vẳng đồng vọng: 
Un soir passant le long des quais désertsy et sombres 
En rentrant à Auteuil j’entendis une voix 
Qui chantait gravement se taisant quelque fois 
Pour que parvint aussi sur les bords de la Seine 
La plainte d’autres voix limpides et lointaines 
Chàng lắng nghe tiếng hát của Paris trỗi dậy trong đêm tối tưng bừng són nhạc: 
Et j’ écoutais longtemps tous ces chants et ces cris 
Qu’éveillait dans la nuit la chanson de Paris? 
(“Vendémiaire”) 
Máu giang hồ sống lại, chàng khát khao những thành phố Pháp, ở Âu châu và khắp ở hoàn cầu. 
J’ai soif des villes du France, d’ Europe et du monde 
Venez toutes couler dans ma gorge profonde 
(“Vendémiaire”) 
Chàng từng làm bao nhiêu chuyến đi ngoại quốc, bao nhiêu chuyến viễn trình, nhưng giờ đây chàng lại khao khát muốn lên đường nữa, chàng muốn đi vào biển cả mênh mông, để “chôn chuyện yêu đương vào quá khứ” như người thủy thủ cô đơn này: 
Biển cả mênh mông với nhiều đảo hoang cô độc 
Sóng bạc trùm lấy đầu anh, với những tảng mây trắng vướng trên đầu anh 
Kết thành vòng hoa tang chôn chuyện yêu đương của Phương Anh ngày xưa vào quá khứ (…) 
Anh sẽ chôn em dưới lớp lá mùa thu, mỗi buổi chiều không tên để khuôn mặt đừng thiếu máu 
thời gian cho người đời rẻ rúng 
Rồi người thủy thủ trẻ con trở về những bài thơ cuộc đời đầy bão loạn, đống dây thừng buộc 
chặt lấy đời anh (…..) 
Anh trở về hành lý ngày xưa chỉ còn dăm ba hàng mây trắng 
(Định Giang) 
Chàng khao khát những thành phố ở thế giới, vì thế chàng đã uống say mèm vì đã uống cả vũ trụ: 
Je suis ivre d’ avoir bu tout l’ univers 
(“Vendémiaire”) 
Ừ, hãy say lên, say để chôn em dưới lớp lá mùa thu. Bài “Vendémiaire” là bài thơ cuối cùng trong tập Alcools của Apollinaire. 
Tôi xếp tập Alcools lại và cả tâm hồn thể xác tôi say lúy túy, tôi bước chuếnh choáng hơi men, đã đưa cho tôi li rượu mạnh nồng cháy và tôi đã uống cuộc đời tôi như uống rượu mạnh: 
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie 
Ta vie que tu bois comme une eau de vie. 
Xếp tập Alcools lại, tôi say tận độ, tiềm thức bừng cháy, thời gian chới với, không lẫn lộn men lên ngào ngạt, tôi uống cạn Alcools, tôi đã uống cạn cuộc đời tôi. 
O mes années ô jeunes filles… 
Hỡi ôi, tôi đã chôn quá khứ dưới lớp lá chết mùa thu… 
Chú thích:
[1] Ý thức siêu thực bàng bạc mênh mông trong thi phẩm của Apollinaire; sau đây, tôi xin dịch những bài thơ hay nhất của thi nhân. (Do phần chú thích này của tác giả quá dài nên chúng tôi chuyển thành phần phụ lục cuối bài viết - talawas).
Sài Gòn 25/4/1970
Phạm Công Thiện
Nguồn: http://www.talawas.org/
Theo http://www.vietnamvanhien.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao - trên trời cao/ Chim non ca vang như ngày nào/ Bên em anh...