Thứ Hai, 28 tháng 6, 2021

Hình tượng nỗi buồn trong "Lửa thiêng" của Huy Cận

Hình tượng nỗi buồn trong
"Lửa thiêng" của Huy Cận

Nhà thơ Huy Cận Tác giả tập thơ “Lửa thiêng”. Nguồn: vienvanhoc.org.vn 
Nghiên cứu hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc những tư tưởng, tình cảm, quan niệm… của nhà thơ. Qua Lửa thiêng, Huy Cận đã nói lên tâm trạng chung của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Đó là tâm trạng buồn bã, thất vọng và bất lực trước thực tại.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
I.1. Văn học là một hình thái ý thức xã hội thẩm mỹ đặc thù. Là hình thái ý thức xã hội, văn học gắn liền với cuộc sống. Với tính chất thẩm mỹ đặc thù, văn học nhận thức, phản ánh, lý giải, biểu hiện cuộc sống, con người bằng hình tượng. Hình tượng không chỉ là phương tiện phản ánh cuộc sống mà còn là phương tiện giao tiếp của nhà văn.
Học tập, nghiên cứu, giảng dạy văn học không thể không tập trung vào hình tượng. Bởi vì, khám phá hình tượng mới thấu hiểu được nội dung, ý nghĩa và cái đẹp của tác phẩm văn học. Đồng thời, hình tượng nghệ thuật không chỉ phản ánh mà còn biểu hiện tiếng nói của tình cảm- cảm xúc con người, là sự bộc lộ, giãi bày và gởi gắm tâm tư. Ở đó còn thể hiện cách nhìn, cách suy nghĩ của người nghệ sĩ.
I.2. Phong  trào Thơ mới lãng mạn 1932-1945 là một hiện tượng văn học vô cùng đa dạng và phong phú. Thơ mới mang màu sắc của cái tôi cá nhân độc đáo thể hiện nhu cầu giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã và tự do cá nhân. Do vậy, cái tôi của các nhà thơ mới mang nhiều màu sắc khác nhau, muôn màu muôn vẻ, hết sức đa dạng, phong phú và phức tạp. Song, ở đâu cũng phảng phất nỗi buồn và cô đơn, không lối thoát, không thấy tương lai, chỉ thấy trời đất tối tăm mù mịt, “cho nên Thơ mới vừa cất tiếng chào đời đã buồn ngay trong bản chất” [8;564].
Cái buồn và cô đơn thấm đẫm trên từng trang viết và quan niệm thẩm mỹ của các nhà Thơ mới. Hầu như thi nhân nào cũng có đề cập đến sự cô độc, cái buồn man mác, cái đau đời. Song Huy Cận là nhà thơ thành công nhất khi thể hiện cái tôi sầu thương bi thiết. Huy Cận đã nâng nỗi đau đời của mình và của đất nước lên thành hình tượng vừa lãng mạn vừa điển hình. Đó là hình tượng nỗi buồn. Đây cũng chính là đề tài mà chúng tôi yêu thích và sẽ đi sâu khai thác.
I.3. Huy Cận là một tác gia lớn có nhiều đóng góp cho phong trào Thơ mới lãng mạn 1932-1945 nói riêng, cho nền văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm của Huy Cận rất đa dạng về số lượng và đề tài. Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ là một chặng đường sáng tạo độc đáo không mệt mỏi. Huy Cận là một trong những nhà thơ có nhiều tác phẩm được trích giảng trong nhà trường phổ thông như: Đoàn thuyền đánh cá, Các vị La Hán chùa Tây Phương, Tràng giang…
Với nhiều đóng góp quan trọng và có giá trị như thế chứng tỏ rằng Huy Cận là một tên tuổi không thể thiếu trong nền văn học dân tộc. Do đó, việc tìm hiểu, khám phá các tác phẩm của ông rất được nhiều người quan tâm. Chúng tôi nhận thấy, nỗi buồn trong thơ Huy Cận được nhiều nhà phê bình - nghiên cứu văn học đề cập đến. Tuy nhiên, đó là những nghiên cứu riêng lẻ, chưa có một hệ thống thống nhất và hoàn chỉnh. Thế nên, người viết muốn khám phá, nghiên cứu và đi sâu phân tích hình tượng nỗi buồn trong tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận để hiểu một cách có hệ thống một khía cạnh trong thơ Huy Cận. Mặt khác để trân trọng sự đóng góp của ông cho nền văn học nước nhà. Cuối cùng là để có một kỹ năng, một ý thức trong việc khai thác hình tượng nghệ thuật trong việc giảng dạy văn học sau này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
II.1. Đối tượng nghiên cứu
Thơ Huy Cận đề cập và phản ánh nhiều vấn đề trong cuộc sống. Hơn 60 năm lao động nghệ thuật, nhà thơ đã để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ với trên 20 tập thơ và trở thành cây đại thụ của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Mỗi tập thơ đều có nét độc đáo riêng biệt, đề cập đến các vấn đề khác nhau tạo nên sự đa dạng và phong phú trong phong cách sáng tác của ông.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng đi sâu tìm hiểu và khám phá hình tượng nỗi buồn trong thơ và để phát hiện ra những sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật sáng tác của Huy Cận là một đề tài rất thú vị.
II.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác phẩm Huy Cận để lại vô cùng phong phú cả về số lượng lẫn đề tài. Nhưng do khả năng bản thân và việc cho phép của một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu hình tượng nỗi buồn và nghệ thuật xây dựng hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận. Vả lại đây cũng là tập thơ tập trung nhất nỗi buồn của chủ thể trữ tình.
Những vấn đề khác cũng như những tập thơ khác của Huy Cận cũng được chúng tôi tìm hiểu xem là tư liệu quý báu, cần thiết để phục vụ cho đề tài. 
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hình tượng nỗi buồn trong tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận để thấy được vì sao thi nhân nhìn đời buồn như vậy, nghệ thuật biểu hiện hình tượng nỗi buồn đặc biệt như thế nào mà nhiều người đã quan tâm.
Đây cũng là dịp để người viết áp dụng lý luận đã được trang bị ở trường Đại học vào thực tiễn nghiên cứu. Từ đó, củng cố lý thuyết, khắc sâu kỹ năng khai thác hình tượng. Đây là một việc làm quan trọng mang lại hiệu quả thiết thực cho việc giảng dạy Ngữ văn ở trường phổ thông, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ dạy học của một giáo viên tương lai.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
 IV.1. Khái quát về hình tượng, phương thức xây dựng hình tượng trong thơ, về phong trào Thơ mới 1932-1945, về cuộc đời và sáng tác của nhà thơ Huy Cận để làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu.
IV.2. Tìm hiểu nguyên nhân của nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận, những đặc sắc của nhà thơ trong việc thể hiện nỗi buồn. Từ đó, thấy được phong cách riêng rất độc đáo của thi nhân.
IV.3. Rút ra kết luận và nêu lên những đề xuất của người viết về việc mở ra hướng tiếp cận đề tài theo những cấp độ mới của bậc học cao hơn.
V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu đề tài này một cách nghiêm túc, toàn diện, có hệ thống sẽ giúp người viết có thêm những kiến thức mới, bổ ích về thơ Huy Cận. Qua đó, thấy được sự đóng góp to lớn, tích cực của nhà thơ cho nền văn học nước nhà.
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy đề tài có các giá trị thực tiễn như sau:
V.1. Cung cấp tài liệu cho học sinh phổ thông tìm hiểu thêm về thơ Huy Cận.
V.2. Giúp ích cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy sau này của bản thân. Đặc biệt giúp học sinh hiểu được cái hay, cái đẹp của hình tượng văn học.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng ba phương pháp cơ bản sau:
VI.1. Phương pháp thống kê
Phương pháp này dựa vào những số liệu cụ thể và tổng hợp chúng một cách có hệ thống theo mục đích của người viết. Từ đó minh chứng cho các ý kiến, nhận định hay lý giải một vấn đề nào đó mà người viết đề cập đến. Đồng thời, phương pháp này sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu được thuận lợi hơn.
VI.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh sẽ làm nổi bật lên nét độc đáo của Huy Cận trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nỗi buồn.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành so sánh nghệ thuật xây dựng hình tượng của Huy Cận với một số nhà thơ khác trong phong trào Thơ mới 1932-1945. Từ đó, dễ dàng thấy được nét đặc sắc, độc đáo trong phong cách của Huy Cận, thấy được những đóng góp to lớn của nhà thơ trong tiến trình hiện đại hóa thơ ca nói riêng và hiện đại hóa văn học nước nhà nói chung.
VI.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp phân tích đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu, lý giải, đánh giá văn học. Đây là phương pháp cơ bản cho việc nghiên cứu đề tài.
Phân tích để thấy được cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của hình tượng nỗi buồn trong thơ Huy Cận, thấy được phong cách riêng rất ấn tượng của nhà thơ này.
VII. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
VII.1. Văn học là một hình thái ý thức xã hội thẩm mỹ đặc thù, ra đời và phát triển trong quá trình lao động và hoạt động thực tiễn của con người. Cùng với sự phát triển ngày càng cao của nền văn minh nhân loại, các loại hình nghệ thuật cũng ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. So với các loại hình nghệ thuật khác thì văn học chiếm một vị trí rất quan trọng. Bởi vì văn học sử dụng chất liệu để xây dựng hình tượng là ngôn từ, mà ngôn từ có một sức mạnh tiềm tàng rất lớn, có thể chứa đựng trong nó tất cả âm thanh, hình ảnh, đường nét, màu sắc… Có thể lấy lời khẳng định của Belinxki để minh chứng cho điều này: “Thơ văn là loại hình nghệ thuật cao cấp nhất. Thơ văn thể hiện trong lời nói tự do của con người, mà lời nói vừa là âm thanh, vừa là bức tranh, vừa là khái niệm. Do vậy thơ văn mang trong mình tất cả các yếu tố của nghệ thuật khác, nó như sử dụng không tách rời phương thức của tất cả các loại hình nghệ thuật riêng biệt. Thơ văn chính là toàn bộ nghệ thuật” [9;91].
Ý kiến của Belinxki đã chỉ rõ ưu thế của văn học trong việc phản ánh cuộc sống. Với chất liệu là ngôn từ, văn học đã xây dựng một hệ thống hình tượng có thể phản ánh bất kỳ phương diện nào của thế giới khách quan. Đồng thời, qua hệ thống hình tượng đa dạng và phong phú, văn học còn có chức năng nhận thức, biểu hiện tư tưởng một cách trực tiếp và toàn diện nhất.
Hình tượng văn học mang tính phi vật thể. Do đó thiếu tính trực quan nhưng bù lại hình tượng văn học có những ưu thế khác. Trước hết, do tác động vào thế giới tinh thần nên hình tượng văn học kích thích sự liên tưởng, tưởng tượng, tái hiện cuộc sống và con người đối với người đọc. Bên cạnh việc tái hiện những hình tượng hữu hình, văn học còn tái hiện được những hình tượng vô hình, những cái mỏng manh và mơ hồ nhất mà các loại hình nghệ thuật khác không thực hiện được. Điều đó cho thấy rằng, nhờ có hình tượng mà những trạng thái tình cảm rất trừu tượng của con người có được một hình hài cụ thể. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được những tư tưởng, tình cảm của tác giả qua các hình tượng vô hình đó.
VII.2. Hình tượng là vấn đề phổ biến trong văn học và được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Ở phương Tây, hình tượng được xem là sự thống nhất biện chứng giữa cái riêng và cái chung, giữa cái cá biệt - cảm tính với cái trừu tượng- khái quát. Hêghen, một trong những nhà nghiên cứu hình tượng khá toàn diện cho rằng: “Nội dung của nghệ thuật là tư tưởng, còn hình thức của nó là sự thể hiện một cách hình tượng cảm tính” [21;17]. Tiếp nối quan niệm của Hêghen về hình tượng trong văn học còn có ý kiến của các nhà nghiên cứu văn học như: Sussanne Langer, A. Enstein, Belinxki, Timophêep, Pospelov v.v…
Ở phương Đông, hình tượng cũng được quan tâm từ rất sớm. Về vấn đề này, Khổng Tử viết: “Viết không nói hết lời, lời không nói hết ý, vậy thì cái ý của thánh nhân không thấy hết được sao?”. Và Không Tử thấy rằng: “Thánh nhân làm ra tượng để nói  hết ý”. Nghĩa là, người xưa đã biết dùng hình ảnh, biểu tượng để diễn đạt những điều mà lời nói không chuyển tải hết được. Ngoài Khổng Tử, còn có các quan niệm về hình tượng của nhà lý luận - phê bình văn học Lưu Hiệp. Ông cho rằng, hình tượng là hình ảnh của thế giới khách quan được nghệ sĩ quan sát, sau đó biểu hiện và sáng tạo bằng những cảm nhận tinh tế của mình. “Tình cảm vì sự vật mà thay đổi, lời vì tình cảm mà phát ra… Trong cái cảnh bao la muôn vàn hình tượng, nhà thơ trầm ngâm nghe và ngắm, tả lại cái khí chất, vẻ lại cái dung mạo của nó. Nhà thơ đã theo sự vật mà để tâm trí, lại còn thêm sắc thái, góp âm thanh, tâm trạng cũng vì thế mà bồi hồi” [14;54]. Điều đó có nghĩa là sự thay đổi của thế giới khách quan tác động đến thế giới tinh thần của con người. Và từ sự cảm nhận chủ quan tinh tế, người nghệ sĩ đã tạo ra hình tượng từ thực tế cuộc sống. Điều đó cũng chứng minh rằng, hình tượng là sự gắn bó mật thiết giữa hiện thực khách quan và tình cảm chủ quan.
Ở Việt Nam, lý luận văn học hiện đại khẳng định hình tượng là “bức tranh sinh động về cuộc sống vừa cụ thể - cảm tính vừa khái quát và mang ý giá trị thẩm mỹ” [18;298]. Các nhà nghiên cứu, lý luận văn học tiêu biểu như: Phương Lựu, Trần Đình Sử, Hà Minh Đức, Lê Ngọc Trà… đều rất quan tâm và đề cập nhiều đến những khía cạnh của hình tượng.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng các ý kiến và quan điểm của các nhà lý luận văn học phương Tây, phương Đông và ở Việt Nam đều có điểm chung khi cho rằng hình tượng văn học là sự thống nhất biện chứng giữa cái cụ thể - cảm tính và cái chung - khái quát, giữa chủ quan và khách quan.
VII.3. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Huy Cận có một vai trò, vị trí rất quan trọng. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Huy Cận đã để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ. Trong hành trình nghệ thuật của mình, Huy Cận đã không ngừng phấn đấu sáng tạo và cho ra đời nhiều tác phẩm văn chương có giá trị, đạt đỉnh cao của thành tựu thơ ca Việt Nam.
Các nhà thơ, các nhà nghiên cứu đều trân trọng những đóng góp của Huy Cận trên cả hai chặng đường, trước và sau Cách mạng. Nhiều ý kiến đã lý giải được quá trình vận động cảm hứng sáng tạo của Huy Cận qua các tập thơ, phác thảo được những đặc điểm cơ bản trong phong cách thơ của Huy Cận như: tình yêu sự sống, nỗi khắc khoải không gian, nỗi buồn thế hệ, giọng điệu trầm lắng, sâu sắc…
Thơ Huy Cận là một mảng đề tài lớn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà phê bình và nhiều thế hệ độc giả. Tính cho đến nay, đã có hơn 80 công trình nghiên cứu - phê bình lớn ở trong nước và ngoài nước. Đáng chú ý nhất là những công trình nghiên cứu mang tính tổng kết của Trần Khánh Thành, Trinh Đường, Hà Minh Đức, Trần Đình Việt, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Trần Mạnh Hảo, Phan Hoàng, Trần Đình Sử, Nguyễn Hoàng Khung, Nguyễn Xuân Nam, Vũ Quần Phương, v.v…
Lửa thiêng tuy là tập thơ đầu tay của Huy Cận nhưng đã đưa tên tuổi nhà thơ lên vị trí hàng đầu trên thi đàn Việt Nam. Đây là tập thơ được nhiều nhà phê bình và các độc giả yêu văn chương quan tâm nhất. Đây cũng chính là tập thơ được coi là một trong những tập thơ “toàn bích nhất của giai đoạn 1932-1945” [25;5].
Lửa thiêng thành công vẻ vang vì tập thơ đã nêu bật được hồn thơ của nhà thơ, cái buồn chung của cả một thế hệ và nỗi đau của những người dân mất nước nên đã đánh động được sự đồng tình, ủng hộ của tất cả mọi người, thuyết phục cả những độc giả khó tính nhất.
Nghiên cứu tập thơ Lửa thiêng, các nhà phê bình - nghiên cứu văn học đã tìm hiểu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh khác nhau. Trong lời giới thiệu về tập thơ, nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét về hồn thơ Huy Cận - một hồn thơ mang linh hồn trời đất và nặng tình đời, tình người, tình yêu sự sống: “Linh hồn Huy Cận là một linh hồn trời đất, nói thế không sai đâu! Xem suốt tập Lửa thiêng, cái cảm giác trội nhất của ta là một cảm giác không gian, ta nghe xa vắng quanh mình, ta đứng trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn cõi bát ngát; một cái buồn vời vợi dàn ra cho đến hư vô. Huy Cận quá cảm nghe cái mênh mông, thì giọng thơ của người cũng lây cái sầu vũ trụ” [5,27].
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã khẳng định vị trí quan trọng của Huy Cận khi cho rằng tác giả Lửa thiêng “đã gọi dậy hồn buồn của Đông Á, người đã khơi dậy cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này” [24;137]. Trong tác phẩm Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã chỉ ra vẻ đẹp trong sáng, thanh tao, cổ kính của Đẹp xưa, Tràng giang, Thu rừng… “Dù nhìn nhận ở những góc độ khác nhau nhưng các nhà thơ và các nhà nghiên cứu đương thời đều đánh giá cao đóng góp của Huy Cận. Và Huy Cận đã có một vị trí cao, vững chắc trong phong trào Thơ mới” [25;14].
Các nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoàng Khung trong các giáo trình đại học đều chỉ ra lòng yêu đời, yêu và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Hồn thơ Huy Cận trong trẻo và đầy sức sống. Từ năm 1985 đến nay, Lửa thiêng càng được nhiều nhà phê bình - nghiên cứu văn học quan tâm hơn và được khai thác từ nhiều phương diện khác nhau. Trong chuyên luận Thơ mới, những bước thăng trầm, Lê Đình Kỵ đặc biệt nhấn mạnh “nguồn mạch truyền thống chảy dào dạt trong những vần thơ Lửa thiêng” [25;15]. Còn nhà thơ Trinh Đường trong tiểu luận Huy Cận và Lửa thiêng đã cảm nhận sâu sắc nỗi buồn thương của Huy Cận về quê hương, đất nước, về những mảnh đời đau khổ của kiếp người nô lệ, về nỗi xót xa, thương cảm của một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu (Ê chề). Song song đó là lòng yêu đời thiết tha của thi nhân. Đỗ Lai Thúy trong tiểu luận Huy Cận và sự khắc khoải không gian đã nghiên cứu rất sâu những đặc điểm cơ bản của không gian nghệ thuật Lửa thiêng. Đó là một không gian “hóa thân của thiên đường, của sự hòa đồng nguyên thủy thuở xưa” [25;330]. Ở đó có sự tương giao giữa con người, thiên nhiên và vũ trụ bao la.
Trong tập tiêu luận Một thời đại trong thi ca, Hà Minh Đức đã có những kiến giải mới mẻ và phân tích sâu sắc về  Ngọn Lửa thiêng trong đời và trong thơ. Ông cho rằng thế giới tâm linh kết thành ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận. Đó là “thế giới tâm linh soi rọi như ánh sáng, như niềm tin vào lương tri của con người và được tác giả xem như phần hồn” [25;52]. Nhờ có nguồn ánh sáng ấy mà Huy Cận nhìn thấy được “bóng dáng xưa của ngọn nguồn dân tộc, cảm nhận được nhịp sầu vũ trụ và nỗi buồn nhân gian, và nhận ra bản thể của con người trong sự sống của thiên nhiên” [25;15].
Đặc biệt, Trần Khánh Thành trong chuyên luận Thi pháp thơ Huy Cận đã nghiên cứu sâu về thơ Huy Cận ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh như: Cái tôi trữ tình với nhiều đối cực, Quan niệm nghệ  thuật, Thời gian và không gian nghệ thuật, Phương thức thể hiện…
Những công trình nghiên cứu của các tác giả đều rất đáng trân trọng và rất bổ ích đối với những ai quan tâm đến thơ Huy Cận, đặc biệt là giúp ích cho người viết trong suốt quá trình tìm hiểu hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận.
Tuy nhiên, dù nghiên cứu ở góc độ nào thì các nhà phê bình và nghiên cứu văn học đều thống nhất với nhau khi cho rằng:
“Huy Cận bước tới thi đàn bằng một tâm hồn đa cảm, đa sầu. Với tập thơ đầu tay Lửa thiêng, Huy Cận đã mang đến cho phong trào Thơ mới những vần thơ buồn bã, ảo não bậc nhất. Buồn bã, cô đơn là tâm trạng chung của các nhà thơ mới nhưng không có nhà thơ nào buồn nhiều, buồn sâu, buồn thấm như Huy Cận” [25;15].
Khi tìm hiểu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu văn học đặc biệt quan tâm đến tâm trạng cô đơn, bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời của Huy Cận. Đó chính cảm xúc chủ đạo của thi nhân. Đồng thời, thơ của tác giả Lửa thiêng có một vị trí đặc biệt trong lòng bạn đọc. Đó là cơ sở quý giá để khóa luận tiếp tục làm sáng rõ thêm nguyên nhân của nỗi buồn và nghệ thuật thể hiện nỗi buồn đó đặc sắc như thế nào mà bạn đọc rất quan tâm và yêu thích.
VIII. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu của chúng tôi gồm ba phần:
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
Chương I. Cơ sở lý luận
Chương II. Nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận
Chương III. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận
C. Phần kết luận
PHẦN NỘI DUNG
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Khái quát về hình tượng
Hình tượng là phương thức biểu hiện chủ yếu của văn học. Nói đến văn học là nói đến hình tượng. Hình tượng chính là phương tiện để nhà nghệ sĩ miêu tả con người và thế giới khách quan một cách sinh động, toàn diện, có hệ thống.
Vai trò của hình tượng luôn được các nhà lý luận - phê bình nghiên cứu văn học nhấn mạnh. Heghen viết: “Sứ mệnh của nghệ thuật là ở chỗ dùng hình thức hình tượng nghệ thuật cảm tính dể làm hiện lên tính chân thực”. Còn Macxim Gorki thì cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật không phải là kể ra mà là dùng hình tượng và bức tranh để miêu tả hiện thực”. Do vậy, hình tượng là phương thức tư duy đặc thù của nghệ thuật để phản ánh thực tại khách quan.
Theo Từ điển văn học thì: “Hình tượng hay hình tượng nghệ thuật là bức tranh cuộc sống vừa cụ thể cảm tính vừa khái quát và có ý nghĩa thẩm mỹ” [19;298]. Một tác phẩm có tính hình tượng khi tác phẩm đó đem đến cho người đọc những bức tranh sinh động về cuộc sống. Đồng  thời phải tạo nên những cảm xúc mãnh liệt khi tiếp xúc với tác phẩm qua ngôn ngữ. Bức tranh ấy vừa phản ánh cuộc sống của một vài cá thể vừa phản ánh cuộc sống của nhiều người trong xã hội. Tình cảm ấy vừa là tình cảm của chủ thể trữ tình vừa là tình cảm của một tầng lớp, một dân tộc hay toàn nhân loại. Lòng yêu hòa bình và căm thù chiến tranh không chỉ của riêng Andrey hay Pier trong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của L.Tonxtoi mà là của cả cộng đồng người trên toàn thế giới.
Hình tượng phải có tính chất vừa quen vừa lạ, tức là có sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan trong nghệ thuật xây dựng hình tượng. Nhờ có sự thống nhất biện chứng giữa tính chung của hiện thực khách quan và tính riêng của cảm xúc người nghệ sĩ mà hình tượng phản ánh cuộc sống một cách chân thực, đồng thời mang ý nghĩa thẩm mỹ sâu sắc. Có thể thấy, qua nhân vật Thúy Kiều, hình tượng người phụ nữ được phản ánh một cách trọn vẹn và chân thật. Nàng mang tất cả những nét đẹp của người phụ nữ về dung mạo lẫn tâm hồn. Nàng giàu đức hy sinh và giữ vẹn lòng chung thủy. Dù bị vùi dập giữa muôn ngàn lớp sóng cuộc đời, nàng vẫn giữ lòng mình trong sạch. Nàng ý thức được về bản thân, về thế giới và quyết không đầu hàng số phận. Đó là những nét tính cách rất thật của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời, Nguyễn Du cũng xây dựng nàng Kiều thành một hình mẫu trọn vẹn, tinh khiết và lý tưởng. Nàng trở thành một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mỹ cao. Nàng đã gieo được những hạt mầm tình cảm tốt  đẹp trong lòng người đọc.
Đó chính là cách phản ánh rất riêng và độc đáo của tác phẩm văn học. “Nghệ thuật xây dựng các hình tượng là để phản ánh và lý giải đời sống theo cách riêng của nó” [20;64]. Với cách đó, hình tượng chẳng những nói hết ý mà còn có khả năng tác động trực tiếp đến tình cảm và thế giới tinh thần của con người.
Do có sự thống nhất giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan nên hình tượng có thể phản ánh thực tại khách quan một cách chân thực, đồng thời cũng mang đậm nét phong cách, tài năng và bản lĩnh của chủ thể sáng tạo. Vì vậy, hình tượng vừa có giá trị hiện thực vừa là “thành quả của tư duy sáng tạo và tưởng tượng của người nghệ sĩ” (Pospelov). Qua hình tượng, chúng ta có thể hiểu được những suy tư, trăn trở, những tư tưởng, tình cảm của tác giả.
II. Đặc trưng của hình tượng
Hình tượng nghệ thuật là sự kết tinh những kinh nghiệm sống và những mối quan hệ ràng rịt của con người. Cho nên hình tượng nghệ thuật vừa có sự thống nhất giữa cái cá biệt, cụ thể - cảm tính và cái chung, khái quát vừa thể hiện ở chỉnh thể các quan hệ xã hội - thẩm mỹ.
Trước hết, đó là quan hệ nghệ thuật với thế giới khách quan mà nó phản ánh. Tiếp theo là quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và người tiếp nhận, tức là giữa tác giả với người đọc. Sau nữa là quan hệ giữa hình tượng nghệ thuật với chất liệu làm nên nó v.v…
Đặc trưng của một ngành nghệ thuật nói chung và hình tượng của nó nói riêng chịu sự chi phối của chất liệu tổ chức tác phẩm. Với chất liệu ngôn từ, hình tượng văn học có những đặc trưng riêng.
II.1. Tính hình tượng - gián tiếp
Chất liệu của hội họa là màu sắc, của âm nhạc là âm thanh, làn điệu, của vũ đạo là hình thể, động tác, của điêu khắc là đường nét, hình khối… Nói chung, các loại hình nghệ thuật trên đều có chất liệu là vật chất, vật thể nên chúng đều có tính hình tượng - trực tiếp, tức là người tiếp nhận có thể trực tiếp nghe hoặc nhìn thấy một cách dễ dàng.
Văn học cũng là một loại hình nghệ thuật nhưng hình tượng văn học đặc biệt không giống như các loại hình nghệ thuật khác. Hình tượng văn học là hình tượng - trực tiếp bởi chất liệu tổ chức tác phẩm là ngôn từ, mà ngôn từ chỉ là ký hiệu của vật chất chứ không phải là vật chất nên ta không thể cảm quan một cách trực tiếp. Đây là hình ảnh cô gái thanh xuân, xinh đẹp, tràn đầy sức sống trong thơ Huy Cận:
Ngực trắng giòn như một trái rừng;
Mắt thì bằng rượu, tóc bằng hương,
Miệng cười bừng nở hàm răng lựu,
Sáng cả rừng xanh mấy dặm trường.
(Hồn xuân)
Rõ ràng ta có thể tưởng tượng ra các hình tượng chứ không thể thấy ngực, mắt, miệng… cũng như mùi hương của cô gái.
Hình tượng văn học tuy thiếu tính trực quan nhưng bù lại nó có những khả năng đặc biệt khác. Khả năng đặc biệt đó là do sức mạnh của ngôn ngữ mang lại. Ngôn ngữ trong tác thuộc hệ thống tín hiệu thứ hai nên sẽ tác động vào trí não và ý thức con người, giúp họ nghe thấy được hình tượng một cách gián tiếp qua sự hình dung, tưởng tượng, kích thích quá trình hoạt động trí tuệ của họ.
II.2. Tính tư duy - trực tiếp
Do ngôn ngữ là “cái vỏ vật chất trực tiếp của tư duy” (Mác) nên những tư tưởng, suy nghĩ, tình cảm - cảm xúc của nhà văn hoặc nhân vật trong tác phẩm đều có thể bộc lộ một cách trực tiếp. Nói cách khác, do văn học lấy ngôn ngữ làm chất liệu nên hình tượng của nó mang tính tư duy - trực tiếp. Chẳng hạn, đau buồn trước thực trạng tăm tối của xã hội, Huy Cận đã không kìm được tiếng lòng nức nở.
Than ôi! trời đẹp nhưng trời buồn
Như cảnh tươi màu rạp cải lương
Tôi đội tang đen cùng mũ trắng,
Ra đi không hẹn ở trên đường.
(Giấc ngủ chiều)
Trước Thượng đế hiền từ tôi sẽ đặt
Trái tim đau khô héo thuở trần gian.
Tôi sẽ nói:
“Này đây là nước mắt,
Ngọc đau buồn, nguyên khối vẫn chưa tan”.
(Trình bày)
Các loại hình nghệ thuật khác mang tính tư duy - gián tiếp. Khi xem một bức tranh hay nghe một bài hát, ta có thể nghe thấy được hình tượng một cách dễ dàng nhưng muốn biết những tư tưởng, tình cảm ẩn giấu đằng sau thì buộc người tiếp nhận phải suy nghĩ và tư duy. Trái lại, khi đọc một tác phẩm văn chương, chúng ta có thể biết được vô vàn số phận con người trong xã hội và họ suy nghĩ như thế nào về cuộc đời, những suy tư, dằn vặt, những nỗi đau khổ, sự thất vọng, niềm hạnh phúc… Vì thế, xét trên một bình diện nào đó thì hình tượng văn học “giàu khuynh hướng tư tưởng hơn các loại hình nghệ thuật khác” [15;190].
II.3. Tính tuyến tính của hình tượng
Hình tượng văn học được tái hiện một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn trong thời gian, tức là những hành động, sự kiện, suy nghĩ, ý định… của con người xuất hiện nối tiếp nhau theo thời gian. “Văn học thuộc loại nghệ thuật thời gian, nghĩa là hình tượng của nó mở dần trong thời gian, khác hẳn các loại hình nghệ thuật khác” [16;188]. Lessing đã rất có lý khi đưa ra lập luận: “Các ký hiệu biểu hiện cái này tiếp sau cái kia thì chỉ có thể chỉ ra các sự vật trong thực tế cũng bộc lộ với ta trong tính liên tục của thời gian”. Lập luận của Lessing có thể giải thích qua chất liệu xây dựng hình tượng. Bằng ngôn từ nghệ thuật, khi đọc một tác phẩm văn học, ta có thể cảm nhận sự xuất hiện dần dần theo thời gian của hình tượng đến khi trở thành một chỉnh thể hoàn chỉnh, thống nhất biểu hiện một tư tưởng, một quan niệm nào đó của tác giả.
Hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao xuất hiện với nhân dáng là một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Sau đó, lật qua từng trang viết, hình tượng nhân vật này ngày càng được hoàn chỉnh, người đọc có thể hiểu một cách sâu sắc về Chí Phèo ở nhiều khía cạnh: Một anh thanh niên hiền lành, chất phác với  mơ ước giản dị, trong sáng, có vợ sinh con  và có cuộc sống bình thường, hạnh phúc. Rồi anh bị hãm hại, vào tù và sau đó trở nên hung hăng, tàn nhẫn mất hết tính người với chuỗi ngày tháng sống vất vưởng bên lề xã hội loài người, với những mảnh chai chằng chịt trên mặt, với cuộc sống vô nghĩa không cảm xúc, không tình yêu. Rồi Chí Phèo gặp Thị Nở và nảy sinh tình yêu, Chí bắt đầu ý thức về bản thân và sự bất hạnh khi bị mọi người xa lánh, Chí giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời đầy đau khổ của mình… Tất cả các chi tiết đều hiện lên tuần tự theo thời gian, tương hỗ nhau để khắc họa hoàn chỉnh hình tượng Chí Phèo.
Nhờ có chất liệu là ngôn từ nghệ thuật nên văn học đạt được tính vạn năng trong việc phản ánh , tái hiện đời sống và xây dựng hình tượng. Tính vạn năng thể hiện ở chỗ văn học có thể phản ánh bất kỳ phương diện nào, vấn đề nào trong đời sống - xã hội. Văn học chẳng những phản ánh được những sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan mà còn có thể nắm bắt tất cả những cái mơ hồ, vô hình chỉ tồn tại trong tâm thức của con người. Điều này làm cho văn học không bị giới hạn bởi không gian và thời gian khi miêu tả, thể hiện. Chính vì vậy mà có thể nói rằng không ở đâu có thể có hình tượng phong phú như trong văn học.
I.2.4. Tính đa trị, mơ hồ của hình tượng
Hình tượng văn học thường được cấu tạo bằng các phương thức: so sánh, ẩn dụ, liên tưởng… cộng với ngôn từ giàu hình ảnh làm cho hình tượng mang tính đa trị, nhiều nghĩa. Một nhân vật văn học hay một trạng thái cảm xúc được xem là hình tượng khi nó có tính đa trị, tức là nhân vật hay trạng thái cảm xúc đó phải ẩn chứa trong nó nhiều ý nghĩa, nhiều giá trị tư tưởng sâu sắc, là thông điệp cho một quan niệm nhân sinh nào đó của tác giả. Chẳng hạn, xây dựng hình tượng nỗi buồn, Huy Cận không chỉ nói lên tâm trạng xót xa, đau buồn của mình trước thực tại mà còn thể hiện nỗi buồn chung của thế hệ, của dân tộc, ẩn đằng sau nỗi buồn da diết ấy còn lấp lánh những tia sáng hy vọng vào con người, vào cuộc đời và tương lai đất nước.
Do tính đa trị nên kéo theo hệ quả là hình tượng cũng có tính mơ hồ. Bởi “vì hình tượng văn học tác động vào trí tuệ, tưởng tượng và liên tưởng của người đọc” [16;186]. Chế Lan Viên đã đề ra nguyên tắc “thơ là gợi chứ không phải mở” để minh chứng cho cách viết có hình tượng:
Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá
Nó không là anh nhưng nó là mùa.
(Sổ tay thơ)
Với quan niệm đó, chúng ta có thể thấy, để có hình tượng thơ thì người thi sĩ không nên trình bày hết những điều mình nghĩ, tức là chỉ nên nói một phần và phần còn lại phải để cho người đọc tìm hiểu, khám phá. Do tự tìm hiểu, khám phá, người đọc phải liên tưởng, tưởng tượng. Do không có sự liên tưởng, tưởng tượng nào giống nhau nên hình tượng văn học mang tính mơ hồ.
Cùng một hình tượng văn học nhưng mỗi người tiếp nhận sẽ sáng tạo cho riêng mình một hình ảnh nhất định tùy theo sự tưởng tượng của họ về nhân vật đó, tác phẩm đó. Thúy Kiều đẹp, điều đó ai cũng biết, nhưng vẻ đẹp của Kiều ở mỗi người lại khác vì sự tưởng tượng của mỗi người không giống nhau.
Đó chính là tính đa trị, mơ hồ của hình tượng văn học.
III. Hình tượng trong thơ trữ tình
Như đã phân tích ở trên, ta thấy không chỉ có văn học mới có hình tượng mà trong điêu khắc, hội họa, âm nhạc… đều có hình tượng của nó với những nét riêng mang tính đặc thù.
Những hình tượng thuộc các lĩnh vực nghệ thuật khác cũng phản ánh cuộc sống một cách sinh động nhưng chúng được xây dựng bằng chất liệu mang tính vật thể. Còn hình tượng văn học nói chung và hình tượng thơ nói riêng cũng là bức tranh sinh động về cuộc sống nhưng chất liệu của nó lại mang tính phi vật thể.
Theo Hữu Đạt thì: “Hình tượng thơ là một bức tranh sinh động và tương đối hoàn chỉnh về cuộc sống được xây dựng bằng một hệ thống các đơn vị ngôn ngữ có tính chất vần, điệu với trí tưởng tượng, óc sáng tạo và cách đánh giá của nghệ sĩ” [7;127].
Như vậy, ta thấy hình tượng thơ là một phương tiện để phản ánh cuộc sống. Đó là sản phẩm độc đáo của trí tưởng tượng, óc sáng tạo và cách đánh giá đối tượng của nhà nghệ sĩ.
Bản chất nghệ thuật là sáng tạo. Vì thế, hình tượng phải ngày càng mới lạ, độc đáo và gắn với hiện thực cuộc sống và con người.
IV. Phương thức xây dựng hình tượng trong thơ trữ tình
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Có nghĩa văn học là  một hình thái ý thức xã hội thẩm mỹ sử dụng ngôn từ tổ chức tác phẩm. Đặc trưng xã hội thẩm mỹ của văn học là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Như vậy hình tượng văn học được xây dựng bằng ngôn từ. Cái tài của nhà thơ là am hiểu, vận dụng sáng tạo ngôn ngữ trong thơ để tạo nên hình tượng nghệ thuật.
Trước hết là ở lớp từ ngữ có tính hình tượng. Đó là các từ ngữ chỉ sự vật, hoạt động, trạng thái. Ví dụ như: tót, nhờn nhợt, trọc lóc…, lớp từ này sẽ tạo nên một thế giới hình tượng sinh động.
Tiếp theo là lớp từ ngữ đa nghĩa. Tiếng Việt có nhiều từ đa nghĩa gợi lên sự liên tưởng đến hình tượng. Chẳng hạn từ mận, đào, vườn hồng… trong bài ca dao sau đây:
Bây giờ mận mới hỏi đào:
- Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa:
- Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Cách ngắt nhịp khéo léo  cũng có thể tạo nên hình tượng.
Kìa đạn, kìa gạo
Kìa gạo, kìa đạn.
Nhịp bài thơ gợi lên sự hối hả của đoàn tàu tiếp nối nhau mang lương thực và vũ khí của hậu phương miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam. Ngoài ra, nhịp thơ còn gợi lên sự ác liệt của chiến trường và sự khắc nghiệt của  những tháng ngày chiến tranh.
Có thể nói một nghệ sĩ tài hoa là người biết vận dụng linh hoạt lợi thế ngôn ngữ để xây dựng hình tượng một cách sáng tạo cho riêng mình. Hình tượng đó phải sinh động và gợi được cảm xúc của người đọc.
Đặc biệt, hình tượng được xây dựng rất nhiều từ các phương tiện chuyển nghĩa như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, đối lập, nhân hóa v.v… So sánh tu từ trong câu thơ sau đây của Xuân Diệu thật độc đáo:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
(Vội vàng)
So sánh tháng giêng với cặp môi người thiếu nữ thì quả là rất độc đáo. Đôi môi người thiếu nữ là biểu tượng của cái đẹp, duyên dáng và tinh khiết. Đôi môi mềm ấy sẽ thốt lên những lời dịu êm, nhẹ nhàng gây ấn tượng đẹp trong lòng người. Tháng giêng là mùa đẹp nhất trong năm, là mùa bắt đầu một năm mới với những hy vọng mới. Tháng giêng cũng đẹp, cũng ngon như môi người thiếu nữ vậy. Thật là một sự so sánh hết sức đặc biệt và mới mẻ!
Hay biện pháp đối lập được Huy Cận sử dụng trong Mai sau cũng tạo được hiệu quả tu từ độc đáo trong phương thức xây dựng hình tượng.
Chàng yêu lắm nên bị người hắt hủi
Chàng yêu lâu nên thiên hạ lìa xa.
Thật là nghịch lý! Chủ thể trữ tình mang tình yêu chân thành, tha thiết đến cho người nhưng người không thèm nhận, cũng chẳng đoái hoài đến. Đã vậy, người còn hắt hủi, lìa xa. Nỗi buồn Huy Cận triền miên, trĩu nặng là vì thế!
Ngoài ra, cách tổ chức câu thơ khác thường cũng tạo được hình tượng. Bất thường về ngữ pháp và bất thường về ý đều tạo được những hình tượng độc đáo.
Có thể thấy rằng, khi sáng tác nhà thơ tận dụng tối đa mọi phương tiện ngôn ngữ để xây dựng thế giới hình tượng đa dạng, phong phú của con người. Hình tượng thơ là hình tượng của cảm xúc, suy tư thể hiện cách nhìn, cách đánh giá của chủ thể trữ tình.
Hình tượng trong thơ được xây dựng bằng nhiều yếu tố như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ chú trọng khai thác các phương tiện chuyển nghĩa trong phương thức xây dựng hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận.
Chương II. NỖI BUỒN TRONG LỬA THIÊNG CỦA HUY CẬN
I. Vài nét chính về phong trào Thơ mới lãng mạn 1932-1945 và tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận
I.1. Thơ mới và đặc điểm của phong trào Thơ mới
Thơ mới là thơ có sự thay đổi  ở hình thức, ở nội dung cảm xúc, mà đặc biệt là ở nội dung. Theo Hoài Thanh, Thơ mới là tiếng nói của cái tôi lần đầu tiên được giải phóng khỏi cái ta chung của cộng đồng.
Phong trào Thơ mới xuất hiện trong thời kỳ khủng bố trắng và cuộc khủng hoảng kinh tế. Các nhà thơ mới tương đối thống nhất về thái độ chính trị và quan điểm mỹ học, có nhiều yếu tố tiến bộ và tích cực. Tuy nhiên, mang nhiều lý tưởng tốt đẹp nhưng lại gặp thực trạng đen tối của xã hội thực dân lúc bấy giờ nên các nhà thơ mới dễ rơi vào bế tắc, hụt hẩng. Vì thế, họ luôn mang trong lòng tâm trạng buồn và những nỗi “đau đời” không tránh khỏi. “Buồn và cô đơn là nét chung của Thơ mới” [11,22].
Cái buồn đã thấm sâu trên từng trang viết và quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ mới. “Cô độc là bệnh của chủ nghĩa lãng mạn” [8;565]. Song, dù buồn và cô độc  nhưng Thơ mới vẫn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Biểu hiện rất rõ của tinh thần dân tộc là lòng yêu và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Thơ mới còn thể hiện sâu sắc tinh thần yêu đất nước, yêu thiên nhiên. Đồng thời, Thơ mới thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
Thơ mới lãng mạn mang đậm màu sắc của cái tôi cá nhân. Cái tôi ấy đã nói lên được nhu cầu lớn trong việc giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã và tự do cá nhân. Do đó, thế giới tâm hồn - tình cảm của con người được mở rộng và ngày càng phong phú. Thơ mới chú trọng sự sáng tạo mang màu sắc cá thể (phong cách cá nhân) độc đáo và sắc nét.
Mỗi nhà thơ mới đều đi tìm lối thoát bằng cách thoát ly khỏi cuộc sống. Nhưng càng thoát ly lại càng bế tắc, “càng đi sâu vào cái tôi lại càng cô đơn, vắng lạnh” (Phan Cự Đệ).
Thơ mới lãng mạn 1932-1945 chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thơ Pháp và cũng chịu ảnh hưởng của thơ Đường (Trung Quốc). Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Đông và Tây, truyền thống và hiện đại đã làm cho Thơ mới phát triển mạnh mẽ với những nét độc đáo riêng, tạo nên “một thời đại trong thi ca” (Hoài Thanh) và tạo nên diện mạo mới cho văn học nước nhà.
“Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê màu như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” [24;34].
I.2. Tập thơ Lửa thiêng
Lửa thiêng là tập thơ đầu tay của Huy Cận, ra mắt bạn đọc năm 1940. Tập thơ được Xuân Diệu - người bạn thơ thân nhất của Huy Cận - giới thiệu với tất cả sự trân trọng và nhiệt tình:
“… Thơ Huy Cận không được vui. Âu cũng là sự tự nhiên của đất trời: hàng phi lao đứng bên sóng xanh kia, gió xa thổi vào, cứ tự nhiên phát ra những lời rầu rĩ… Cái buồn Huy Cận là cái thương vô hạn hóa thành cái tủi vô cùng: ấy là thứ hận sầu dài dặc lâu bền, nó gieo hoa trong lòng bọn thi sĩ! Nỗi buồn đó vốn là nỗi buồn chung của con người…
Huy Cận nói hộ ta đó; những giọt nước mắt thường đến quanh mi rồi ngừng. Huy Cận đã vì ta để rơi xuống má…” [25;29].
Lửa thiêng là một tập thơ kết tinh của những nỗi buồn. Nỗi buồn Huy Cận thời Lửa thiêng là kết quả của quá trình lắng nghe tinh tế nhịp sầu vũ trụ và nỗi buồn nhân gian, là sự ý thức về thân phận con người trong cuộc đời nô lệ.
Với Lửa thiêng, Huy Cận đã mang đến cho phong trào Thơ mới “những vần thơ buồn bã, ảo não bậc nhất” [25;15]. Lửa thiêng có 50 bài thì có đến 35 bài trực tiếp bộc lộ tâm trạng buồn bã, cô đơn, lạc lõng. Tập thơ đã đưa tên tuổi Huy Cận lên vị trí hàng đầu trong làng Thơ mới lãng mạn 1932-1945.
II. Nỗi buồn của người dân mất nước, mất tự do
Những nhà thơ lớn bao giờ cũng có sự đồng cảm rộng lớn và sâu sắc trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Dường như hoàn cảnh càng khắc nghiệt thì sự đồng cảm càng lớn. Phong trào Thơ mới xuất hiện trong thời kỳ khủng bố trắng và cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, đời sống người dân vô cùng khó khăn, chật vật. Tuy là giai cấp tiểu tư sản trí thức có học vấn nhưng đời sống của các văn nghệ sĩ cũng hết sức bấp bênh. Do đó, hơn ai hết, các nhà văn, nhà thơ rất hiểu nỗi khổ của người dân nô lệ sống trong xiềng xích kẻ thù.
Nói đến Thơ mới là nói đến nỗi buồn của những tâm hồn đa cảm đa sầu. Buồn bã, cô đơn là đặc điểm chung của khuynh hướng lãng mạn. Huy Cận cũng không thoát khỏi khuynh hướng tất yếu ấy. Nỗi buồn của Huy Cận không chỉ xuất phát từ sự đa cảm của bản thân mà nó còn có nguyên nhân từ đời sống xã hội. Cũng như những nhà thơ lãng mạn khác, Huy Cận cảm thấy ngột ngạt, ê chề khi phải sống trong một đất nước mất chủ quyền, mất tự do:
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng, sầu mưa
Cùng đất nước và nặng buồn sông núi.
(Mai sau)
Nỗi buồn đó chính là hệ quả tất yếu khi nhà thơ ý thức được một cách sâu sắc về cảnh ngộ đất nước và thân phận con người trong xã hội nô lệ, một xã hội bế tắc, quằn quại. Trong tập thơ Bài thơ cuộc đời mà Huy Cận sáng tác sau Cách mạng, tuy giọng thơ và cảm hứng của tác giả có thay đổi nhưng nỗi buồn vẫn đeo đẳng, phảng phất đâu đó trước thực tại quê hương. Có thể lấy một ví dụ điển hình trong bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương:
… Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn…
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
(Các vị La Hán chùa Tây phương)
Đó là sự trăn trở, vật vã của con người khi phải đối mặt với những cảnh đời đau khổ, với sự thay đổi của xã hội không tình người. Cuộc đời thay đổi với biết bao thăng trầm khiến cho thi nhân không nén được tiếng thở dài. 
Than ôi, trời đẹp nhưng trời buồn
Như cảnh tươi màu rạp cải lương.
(Giấc ngủ chiều)
Trên sân khấu cuộc đời đã có biết bao bi kịch diễn ra. Khi cánh màn nhung mở ra, những cảnh huy hoàng xuất hiện, nào là áo mới, nào là những khuôn mặt đẹp… Nhưng đằng sau đó là gì? Là lọc lừa, giả dối, là sự xa cách, chia ly. Là sự hả hê của những người chiến thắng và nỗi chua xót của kẻ thất bại. Cuộc đời cũng như rạp cải lương với biết bao sắc màu rực rỡ, muôn hình vạn trạng, khó mà phân biệt được người tốt kẻ xấu. Vì vậy, lòng chân thành của chàng trai hai mươi mang trong lòng nhiệt huyết tuổi trẻ rất thiết tha với cuộc sống, rất yêu tự do đã không được đáp trả. Chàng trai ấy lại phải chứng kiến đất nước bị giày xéo, còn người dân thì phải chịu cảnh nô lệ đau khổ. Còn nỗi buồn nào hơn khi chứng kiến sự đau khổ của đồng bào mình, dân tộc mình? Nỗi buồn của Huy Cận “có cái gốc từ lòng yêu đời, từ tình yêu quê hương, đất nước. Nỗi buồn ấy không chán chường, bi lụy mà trong trẻo, dễ cảm thông và được nhiều người đồng cảm” [26;48].
Trước thực tại tối tăm, tẻ nhạt, quẩn quanh, bế tắc, Huy Cận vẫn cảm nhận được cuộc đời đang vận động. Tinh tế thấy được sự dịch chuyển ấy, đó là sự thể hiện của tấm lòng yêu cuộc đời, con người và lòng yêu nước thiết tha.
Nghe mạch đời đang thao thức âm thanh
Và nhạc sống vẫn âm thầm tiến tới.
(Vỗ về)
Cái mạch ngầm chảy trong lòng đất vốn đã khó tìm thấy rồi, huống chi là mạch đời. Thế nhưng Huy Cận vẫn phát hiện ra. Mạch đời ấy chính là những xao động sâu kín nhất, vô hình vô thanh trong hồn người. Vậy mà Huy Cận vẫn cho rằng nó có âm thanh, có thể nghe được và thấy được nhạc sống đang âm thầm tiến tới. Qua sự cảm nhận tinh tế, ta có thể thấy tấm lòng yêu thương sâu nặng của thi nhân với cuộc đời, với con người. Vì vậy mà nhà thơ cảm nhận được những bước chân xa vắng trên những dặm mòn lẻ loi, mới cảm nghe được những trái sầu đang rơi nặng tâm hồn mình.
Từ đó có thể thấy, lòng yêu đời, tình yêu quê hương của Huy Cận đằm thắm, ẩn dấu đằng sau nỗi buồn dằng dặc. Vì yêu đời nên khi thấy cuộc đời không tốt đẹp  như ý muốn, đất nước không thanh bình, yên vui, thi nhân mới buồn như vậy. Với một tâm hồn đa cảm đa sầu, nhà thơ cảm nhận được cảnh mất mát, lầm than của đất nước như nỗi đau của chính bản thân mình. Tình yêu ấy là máu thịt, là linh hồn. Tình yêu ấy không sôi nổi, ồn ào mà thâm trầm, lặng lẽ, nhưng không kém phần sâu sắc. Nó triền miên, trĩu nặng từng trang thơ. Đó là mạch ngầm bền bỉ trong tâm hồn Huy Cận! Qua đó, chúng tôi nhận thấy rằng, thấm đượm hơn cả trong Lửa thiêng là cái sầu về đời người, về trần thế!
Tình trạng cô đơn, lẻ loi của con người trong xã hội cũ một phần là do họ không tìm thấy sự giao cảm với cuộc đời. Ngay từ thuở học trò, Huy Cận đã cảm thấy bơ vơ, đơn chiếc trong những đêm rét mướt ngủ chung với bạn bè trong nhà trọ. Ngủ chung nhưng vẫn cảm thấy cô độc bởi thi nhân không tìm thấy sự thân thiết và ngọn lửa ấm áp của tình người, mà chỉ thấy cái rét mướt, lạnh lẽo của sự cô độc. Có thể nhận thấy điều đó trong những câu thơ sau:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
(Tràng giang)
Cái buồn ở đây được gợi lên từ một không gian bao la nhưng rời rạc, hờ hững, không hề có sự giao hòa. Các sự vật của thế giới khách quan vẫn tồn tại và được đặt bên cạnh nhau nhưng giữa chúng chẳng hề có sự liên hệ nào cả. Cầu và đò là những phương tiện nối kết đôi bờ, để cho con người có thể liên lạc. Thế mà ở đây không có gì cả, không cầu, không một chuyến đò ngang. Trước mắt ta là một thế giới không liên hệ, cảnh vật thì đìu hiu, vắng vẻ, con người thì nhỏ bé, cô độc. Dường như cuộc sống bị bỏ quên! Tất cả tạo nên một nỗi buồn trùng điệp trong lòng chủ thể trữ tình và ngay cả trong lòng người đọc bao thế hệ.
Có thể khẳng định rằng: Nỗi buồn của Huy Cận không phải là nỗi buồn ủy mị, bạc nhược mà là cái buồn của người có tâm huyết. “Thơ Huy Cận buồn, căn bệnh tinh thần của thế hệ không dễ đổi thay, nhưng nỗi buồn của Lửa thiêng không mang tính riêng tư, không gắn liền với dục vọng, đam mê để rồi chán chường, tuyệt vọng” [25;57]. Huy Cận đau buồn vì đất nước rơi vào cảnh xiềng xích và bế tắc, bất lực vì chưa tìm được lối thoát trong bóng đêm nô lệ. Thế nên, khi tìm thấy ánh sáng của Cách mạng thì Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm đã đi theo Cách mạng, đem sức mình phục vụ quê hương!
III. Nỗi buồn nhân thế - nỗi buồn thời cuộc của giai cấp tiểu tư sản
Tình trạng cô đơn của giai cấp tiểu tư sản trong xã hội cũ xuất phát từ sự bế tắc của họ trong hành trình đi tìm niềm giao cảm với cuộc đời. Đó là khuynh hướng chung của Thơ mới lãng mạn.
Huy Cận cũng giống như các nhà thơ lãng mạn cùng thời cảm nhận rất rõ nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn của những con người bị mất thiên đường, bị cuộc đời thờ ơ, lạnh nhạt. Huy Cận ý thức sâu sắc về cá nhân và thế giới nội tâm của mình. Vì vậy mà nhà thơ càng ý thức sâu sắc về nỗi cô đơn của con người giữa cuộc đời đầy gió bụi. Không tìm được niềm giao cảm nên thi nhân cảm thấy hụt hẩng, thất vọng:
Nhưng cô độc đã thầm ghi trên trán
Lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh.
(Trình bày)
Lòng chàng xưa chốn nọ với nơi này
Đây hay đó chỉ dựng chòi cô độc.
(Mai sau)
Con người sinh ra trong cuộc đời là một điều rất thiêng liêng và có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Để tồn tại và phát triển, họ cần phải có sự giao lưu và đoàn kết với nhau. Điều đó rất có ý nghĩa về mặt tinh thần đối với con người. Trong cuộc sống phải có tình người. Đó là phương thuốc hiệu nghiệm chữa lành mọi vết thương và đau khổ. Thế nhưng từ thuở sơ sinh, Huy Cận đã cảm thấy lạc loài và cô độc, đã thấy sợi buồn giăng mắc khắp nơi.
Lửa thiêng đưa ta về một thế giới của nỗi buồn - những nỗi buồn day dẳng, sâu lắng, ảo não, đa dạng và nhiều cung bậc. Nỗi buồn ấy thấm đẫm cả không gian, kéo dài từ quá khứ đến hiện tại. Sầu muộn, buồn bã như kết lại, đọng lại thành giọt làm nặng lòng nhà thơ.
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Gió trăng ơi! Nay còn nhớ người chăng?
Hơn một lần chàng đã gởi cho trăng
Nỗi hiu quạnh của hồn buồn không cớ.
(Mai sau)
Huy Cận bảo rằng mình cảm thấy hiu quạnh bởi hồn buồn không cớ. Song đọc thơ Huy Cận ta thấy nỗi buồn của người rõ ràng là có cớ. Nỗi buồn ấy xuất phát từ tâm trạng chung của một lớp người có cùng lý tưởng, cùng chung ước mơ, khát vọng. Với tâm hồn lãng mạn đa cảm, giàu tình yêu thương, nhà thơ thương cho mình và thương cho mọi người.
U sầu chắc hẳn đang nhanh bước
Lưng khọm ngàn năm đến chỗ tôi.
(Buồn)
U sầu không chỉ đang tiến nhanh đến với một mình Huy Cận mà với tất cả mọi người, đặc biệt là tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Bởi vì họ cùng được đào tạo trong một môi trường giống nhau, cùng hấp thụ một nền văn minh Tây học giống nhau và cùng có một nỗi buồn giống nhau. Đó là nỗi buồn của cả một thế hệ, của những con người mong muốn sống tốt sống đẹp để cống hiến tài năng và sức trẻ cho đời. Nhưng xã hội tối tăm không biết quý trọng tài năng và trí tuệ của họ, đã thế còn vùi dập họ, tấn công dân tộc họ bằng bạo lực, bằng chính sách ngu dân. Vì vậy Huy Cận đã đại diện cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản nói lên tâm trạng buồn bã, cô đơn, xót xa vô hạn này!
Qua việc tìm hiểu tập thơ Lửa thiêng, một lần nữa chúng tôi xin đưa ra nhận định: Tâm trạng cô đơn của Huy Cận chính là tâm trạng chung của các nhà thơ lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám. Không chỉ riêng Huy Cận mà Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính… cũng có nỗi buồn chung này tuy mỗi người có mỗi cách diễn đạt riêng,“… họ cảm thấy bơ vơ lạc lõng giữa lòng nhân loại, không tìm thấy niềm thân mật giữa cõi đời” [26 ;193]. Tầng lớp tiểu tư sản trí thức cũng ý thức một cách sâu sắc về đất nước đau thương nô lệ, về số phận buồn tủi của con người trước vận mệnh quê hương. Là người nhạy cảm, “Huy Cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não” [24 ;136].
Ở Huy Cận, ta không thấy những khát khao âm ĩ, nồng nàn như Xuân Diệu, không thấy sự mộc mạc, quê mùa như Nguyễn Bính, không thấy cái buồn ủy mị, trụy lạc như Vũ Hoàng Chương và cũng không thấy cái buồn nhẹ nhàng, vơ vẩn như Lưu Trọng Lư. Huy Cận than thân thì ít mà khóc cho đời, cho người thì nhiều. Đó chính là tinh thần nhân văn cao đẹp của tác giả Lửa thiêng!
Không buồn sao được khi Huy Cận cũng như các nhà thơ mới đều có chung tâm trạng của người dân mất nước, của thế hệ đầu thai nhầm thế kỷ (Vũ Hoàng Chương), hằng ngày phải chứng kiến xã hội nhiễu nhương, nhân dân chìm trong nghèo khổ, tối tăm. Bản thân các nhà thơ cũng chẳng hơn gì!
Đôi guốc năm hiên kéo bốn mùa
Tiền nhà ít gởi biết chi mua.
(Học sinh)
Do vậy, “đời buồn, lòng buồn, thơ buồn là điều dễ hiểu” [25;368]. Nỗi buồn thương của Huy Cận về kiếp người, về thời cuộc hồ như lan rộng khắp đất trời, lan cả vào lòng người như sương khói làm mờ cảnh vật, rồi buông những giọt sương là những giọt nước mắt mà con người đồng cảm đã khóc cùng thi nhân. Bởi vì thấm đượm trong Lửa thiêng chính là tinh thần dân tộc, là kiếp người trong muôn thuở, là những giá trị nhân văn ẩn trong những câu thơ buồn ảo não và cô đơn. Đúng như Hà Minh Đức đã từng viết trong tập tiểu luận Một thời đại trong thi ca: “Lửa thiêng đúng như tên gọi của tập thơ là mạch tình cảm mang nhiều tình đời, tình người trong những cảnh ngộ buồn chán của xã hội cũ nhưng vẫn giữ được sự thiêng liêng và niềm tin cậy với cuộc đời” [25;60].
IV. Nỗi buồn của một tâm hồn nhạy cảm, luôn cảm thấy bơ vơ, cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời
Trước hết, nỗi buồn ấy xuất phát từ sự nhạy cảm của Huy Cận với cuộc đời. Bởi chàng là con của một người mẹ hay sầu - nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ (Mai sau). Người đa cảm thường hay đa sầu, nhìn vào đâu cũng cảm thấy buồn mà đã buồn thì không sao nguôi được! Trong bài thơ Ê chề, Huy Cận đã không kiềm được tiếng thở dài khi cất lên lời than:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu.
Chiếc linh hồn nhỏ ấy chính là chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm! (Mai sau). Huy Cận buồn vì cô đơn, vì bị người hắt hủi, bị thiên hạ lìa xa. Đối với nhà thơ, nỗi buồn không chỉ hiển hiện trong nội tâm mà còn có thể tìm thấy, nghe thấy ở tất cả mọi nơi. Nỗi buồn kết đọng lại thành giọt tuôn tràn như mưa lũ và khi đi vào thơ Huy Cận thì những giọt sầu ấy lắng đọng vào hồn người, mang một nỗi buồn man mác, mênh mông, trùng điệp. Có những lúc ta bắt gặp nụ cười nhẹ nhàng trên môi người thi sĩ khi người đang đón mùa xuân cuộc đời vào lòng. Tình yêu và niềm khát khao giao cảm với đời như mạch nước ngầm vẫn chảy mãi và không hề cạn trong tâm hồn nhà thơ.
Ồ những người ta đi hóng xuân
Cho tôi theo với, kéo tôi gần!
Rộn ràng bước nhịp hương vương gót
Nhựa mạnh tuôn tràn tưởng dính chân.
(Xuân)
Đêm nay không khí say nồng
Nghìn cây mở ngọn, muôn lòng hé phơi.
(Xuân ý)
Nặng tình với cuộc đời như thế, mở lòng đón tình người như thế nhưng nhà thơ đa sầu đa cảm của chúng ta lại gặp cảnh:
Chàng yêu lắm nên bị người hắt hủi
Chàng yêu lâu nên thiên hạ lìa xa.
(Mai sau)
Tuổi non dại lòng tôi say mến bạn
Khi thanh xuân tôi mỏi chạy theo tình
Nhưng cô độc đã thầm ghi trên trán
Lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh.
(Trình bày)
Ngay cả trong lúc vui, ta cũng bắt gặp nỗi buồn thấp thoáng, dường như nỗi buồn chưa bao giờ lìa xa người thi sĩ.
Chính sự trái ngược giữa một bên là tình yêu thiết tha và một bên là sự thờ ơ, ghẻ lạnh đã tạo nên những mối băn khoăn, giằng xé trong nội tâm, khiến nhà thơ cảm thấy bơ vơ, cô độc, lạc lõng giữa cuộc đời. Không buồn sao được khi nhà thơ say mến bạn với tất cả lòng thành, chàng yêu lắm, yêu lâu và  yêu sâu sắc nhưng cái chàng nhận được là sự hắt hủi, lìa xa và cô lập của con người. Chính vì buồn nên thơ Huy Cận có vẻ già dặn, chín chắn của một người từng trải, chiêm nghiệm nhiều khía cạnh cuộc đời tuy nhà thơ lúc này chỉ mới đôi mươi. Cái ảo não thê lương dường như lên tới đỉnh khi nhà thơ bắt gặp chiếc xe tang đưa linh hồn người đã khuất về thế giới nghìn thu. Thi nhân xót xa, nghẹn ngào trước cái hữu hạn của đời người:
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường
Ảo não quá trời buồn chiều vĩnh biệt!
(Nhạc sầu)
Ai chẳng đau đớn trước sự kết thúc của một kiếp người! Có điều mỗi người có cách biểu hiện khác nhau, và Huy Cận đã nói hộ chúng ta những điều sâu kín nhất trong tâm hồn mà ta ít khi thể hiện. Lang thang trong thế giới đau buồn nhưng Huy Cận không quay lưng với cuộc sống. Dù có tìm về với cảnh cũ, người xưa song thi nhân không lìa bỏ thực tại:
Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trên thành son nhạt- Chiều tê cúi đầu…
(Chiều xưa)
Giấc mộng dù có đẹp cũng không thể là hiện thực, quá khứ dù có huy hoàng và lãng mạn cũng không thể xóa đi chuỗi ngày buồn của thực tại. Thi nhân sực tỉnh để sống ngày hôm nay, không thể lấy ngày hôm qua làm cứu cánh cho nỗi buồn.
Đó cũng là điểm khác nhau cơ bản giữa Huy Cận và Chế Lan Viên trên con đường tìm về quá khứ. Nhà thơ họ Chế chỉ gặp những cảnh Điêu tàn đau đớn khi quay về tháp xưa:
Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi.
(Trên đường về)
Còn Huy Cận trở về với trời xưa, người xưa để thắp sáng ngọn Lửa thiêng cho muôn đời. Ta bắt gặp trong cái buồn của một tâm hồn nhạy cảm, luôn cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời là khát khao giao cảm với mọi người là lòng ham sống, yêu thiết tha và gắn bó máu thịt với thế giới này. Đó là nét đẹp rất đáng quý trong tâm hồn nhà thơ Huy Cận.
Lòng ham sống được thể hiện rõ rệt ở tình yêu của tuổi trẻ. Tình yêu trong sáng đáng yêu chỉ có ở tuổi học trò, ở những cô gái, chàng trai có linh hồn bằng ngọc chưa vướng bụi đời, nhưng mộng đẹp vỡ tan, nhà thơ buồn bã, lắng nghe nhịp đời mình trải dài theo năm tháng, cô đơn và lặng lẽ.
Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm bể
Suốt một đời như núi đứng riêng tây
Lòng chàng xưa chốn nọ với nơi này
Đây hay đó chỉ dựng chòi cô độc.
(Mai sau)
Cuộc đời hữu hạn và thời gian có thể làm phai mờ tất cả. Song, những tấm lòng chân thành và cao đẹp sẽ mãi mãi không có gì xóa nổi. Nhà thơ Trinh Đường trong tiểu luận Huy Cận, từ Lửa thiêng đã đưa ra nhận xét thật xác đáng và rất hay:
“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm và gió trăng, và người đời vẫn còn nhớ đến người đấy thôi. Chỉ lo là của giả chứ nghìn lần bị vùi dưới lớp bụi thời gian thì ngọc quý vẫn là ngọc quý” [5;264]. Chúng tôi cũng tin rằng ngọn Lửa thiêng sẽ sáng mãi trong lòng độc giả ở mọi nơi và ở mọi thời đại, vì ngọn lửa ấy được thắp sáng bởi một trái tim đầy nhiệt thành của một người đã cống hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật, cho dân tộc. Huy Cận sẽ mãi hiện hữu trong lòng chúng ta, bởi thi nhân đã giúp chúng ta bộc lộ những nỗi niềm sâu kín nhất mà từ lâu ta đã bỏ quên để bắt nhịp dòng đời hối hả, hoặc rụt rè ngại ngần không dám nói. “Huy Cận gợi lên và ta bỗng nhớ, bỗng cảm thấy chút gì như thiếu sót vì đã hững hờ với quanh ta chan chứa bao tình” [25;369].
Từ đó, chúng tôi nhận thấy rằng: Triền miên trong nỗi sầu thương ảo não nhưng Huy Cận dường như chưa bao giờ tuyệt vọng, nhà thơ cũng không chán chường rũ bỏ tất cả. Thi sĩ họ Cù vẫn thiết tha gắn bó ràng rịt với cuộc sống, với người đời. Nhiều lúc bị cuộc đời hờ hững song nhà thơ vẫn không sao xa lánh mọi người được, ông vẫn yêu say đắm và mãnh liệt!.
Chương III
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NỖI BUỒN TRONG LỬA THIÊNG CỦA HUY CẬN
I. Hình tượng nỗi buồn qua so sánh nghệ thuật
So sánh là một dạng thức phổ biến trong giao tiếp hằng ngày. So sánh giúp cho người nghe hiểu nhanh được vấn đề vì vấn đề đó đã được cụ thể hóa sinh động và dễ hiểu. Đặc biệt trong văn chương, so sánh là phương thức tạo hình, gợi cảm. “Hình tượng là gì? Chính là sự so sánh…” (A. Pho-răng-xơ).
So sánh là một hình thức tổ chức lời nói thường được dùng trong thơ để miêu tả, thể hiện hình tượng. Hình như nhà thơ nào cũng tận dụng sáng tạo hình thức này trong thơ của mình để miêu tả, biểu hiện, phản ánh cuộc sống. Cũng vì vậy, các nhà lý luận, nghiên cứu văn học thương đề cập nhiều về hình thức trên.
Trong giáo trình Phong cách học Tiếng Việt, Nguyễn Thái Hòa đã nêu ra định nghĩa về biện pháp so sánh như sau:
“So sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó, để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc, người nghe” (   ).
Như vậy, so sánh tu từ là sự đối chiếu giữa hai đối tượng khác nhau và hai đối tượng đem ra đối chiếu phải có đặc điểm tương đồng nào đó.
Nhà thơ tận dụng mọi khả năng của ngôn ngữ để xây dựng hình tượng thơ. Qua hình tượng, nhà thơ bộc lộ tư tưởng và quan niệm của mình về cuộc sống, về thời đại. Huy Cận cũng thế, hình tượng nỗi buồn của thi nhân chủ yếu được xây dựng qua các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc. Một trong những thủ pháp đó là so sánh nghệ thuật. Bằng sự linh hoạt và sáng tạo trong diễn tả, hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng mang vẻ đẹp rất độc đáo, thể hiện cách nhìn của nhà thơ.
Cũng như hầu hết các nhà thơ mới lãng mạn 1932-1945, Huy Cận mang một nỗi buồn thời thế, nhưng nỗi buồn của Huy Cận mang một âm hưởng khác, một đường nét khác, da diết và day dẳng hơn nhiều. Nỗi buồn ấy thấm đẫm từng trang thơ làm ảo não, đơn côi, cô độc cả một đời.
Trong Lửa thiêng có 50 bài thơ thì đã có 26 bài có sử dụng so sánh nghệ thuật với tỷ lệ 52%. Trong đó, so sánh trực tiếp thể hiện hình tượng nỗi buồn chỉ có 7 bài, tỷ lệ 14%, nhưng đó lại là đóng góp quan trọng của Huy Cận, làm cho hình tượng trong thơ thêm phong phú và đa dạng.
Với phương tiện so sánh, hình tượng nỗi buồn hiện lên với một dáng dấp, một hình hài riêng rất cụ thể, sinh động nhưng mang tính khái quát, tiêu biểu cho cả một lớp người. Đó là tầng lớp trí thức tiểu tư sản trong xã hội. Họ cũng bị chế độ thực dân đè nén, chèn ép như những tầng lớp khác khi họ phải sống trong một đất nước nô lệ.
Nếu Chúa biết bao nhiêu lòng hốt hoảng
Trong sầu đen đã gãy cánh như dơi
Nếu Chúa biết bao nhiêu dòng lệ đắng
Chảy như sông, không rửa sạch sầu đời.
(Thân thể)
Trong không khí ngột ngạt của xã hội cũ, cái sầu đời với bao nhiêu dòng lệ đắng sẽ không bao giờ cạn. Nước mắt tủi hờn, đau đớn vẫn chảy như sông nhưng không rửa sạch sầu đời. Con người chỉ thấy trước mắt mình một không gian đen tối chưa tìm được lối đi. Họ bỗng thấy lòng hốt hoảng vì bế tắc, vì sợ hãi. Cuộc đời sẽ đi về đâu? Vận mệnh đất nước sẽ như thế nào? Con người rồi sẽ sống ra sao? Bao nhiêu câu hỏi đặt ra nhưng không có câu trả lời, làm nhức nhối trái tim đa cảm của chàng trai hai mươi tuổi. Nỗi buồn song hành với sự cô đơn trần thế ngày thêm triền miên, âm ĩ hơn. Cuộc đời hữu hạn và khi từ giã cõi trần gian con người lại mang một nỗi buồn khác. Đó là nỗi buồn của những linh hồn lạc loài, lạnh lẽo nơi mồ sâu, trong cảnh hoang vắng xa khuất bóng dáng con người.
Hàng cờ đen là bóng quạ chập chờn
Báo tin xấu, dẫn hồn người đã xế…
(Nhạc sầu)
Nhà thơ so sánh hàng cờ đen  với bóng quạ, cho thấy một hình tượng ghê rợn mang tin chẳng lành. Trong dân gian, người ta cho rằng tiếng quạ kêu là báo hiệu của điềm gỡ và thường gắn với sự chết chóc. Ở đây, những hàng cờ đen được ví như những bóng quạ chập chờn đến dẫn hồn người đã xế. Một hình tượng gợi lên sự tang tóc, chia ly. Người ra đi có thể ngủ giấc ngàn thu nhưng kẻ ở lại ngàn năm vẫn nhớ. Vì còn nhớ nên còn buồn. Buồn cho sự chia ly vĩnh viễn, buồn cho người đã khuất lạnh lẽo nơi mồ sâu và buồn cho sự hữu hạn của kiếp người. So sánh của Huy Cận ở đây mang triết lý về nhân sinh. Chỉ mới hai mươi tuổi nhưng Huy Cận đã nhìn bằng con mắt trải nghiệm và sự già dặn của tâm hồn. Đó chính là thành công của nhà thơ trẻ Cù Huy Cận!
Cuộc đời là một chuỗi ngày vô vọng đầy ắp chuyện buồn và tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến. Không có gì đơn điệu và tẻ nhạt hơn sự lặp đi lặp lại một cách nhàm chán của con tàu không đổi chuyến. Từ ngày này qua ngày khác, con tàu vẫn cứ xuất phát ở một thời điểm nhất định, trong một thời gian nhất định, không hề có sự thay đổi mới mẻ nào. Cuộc đời cũng thế, tháng ngày chồng chất lên nhau tuần hoàn theo quy luật tự nhiên. Như thế không tẻ nhạt và nhàm chán lắm sao! Ấy vậy mà Huy Cận lại nghĩ rằng, khi kết thúc kiếp người, linh hồn cũng không thể thanh thản ra đi. Khi trở về cát bụi, con người bỗng thấy da diết, xót xa và thương nhớ vô bờ cuộc đời trần thế.
Hồn ơi! có nhớ giấc trần gian
Nệm là hơi thở, da: chăn ấm
Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn?
(Ngủ chung)
Cuộc sống trần gian có nệm là hơi thở và da là chăn ấm ấp ủ giấc ngủ con người. Còn khi về bên kia thế giới , hồn sẽ lạnh lẽo trong đêm dài ướt rượi khí tha ma. Sự ấm áp của nệm, của chăn và cả cơ thể con người không thể xua được cái lạnh để sưởi ấm hồn sầu. Do vậy, thi sĩ cảm thấy bơ vơ, cô độc.
Người thi sĩ đã nguyện cầu Thượng đế
Một đôi lần nhưng vốn nghiệp đi hoang
Thì chết rồi, chắc người vẫn lang thang
Như buổi sống ở trong bầu trăng gió.
(Mai sau)
Khi chết cũng như lúc sống, thi sĩ vẫn cứ lang thang không biết đâu là điểm dừng. Buổi sống ở trong bầu trăng gió, mọi người cùng hít thở chung bầu không khí nhưng giữa họ không có sự giao hòa, không có sự gắn kết. Cuộc sống tẻ nhạt với những tâm hồn hờ hững. Vì thế, thi sĩ lang thang với sự cô độc của riêng mình, với tâm sự u uất không biết chia sẻ cùng ai. Đến khi chết, hồn cũng không tìm được tri kỷ, tri âm mà vẫn lang thang khắp chốn. Đã vậy, lúc ta đem tình trao cho người thì người không thèm nhận. Người còn hắt hủi, rẻ khinh. Nỗi đau lòng ấy hẳn ai cũng hiểu, thế những có bao nhiêu người biết cảm thông, chia sẻ!
Cuộc đời tẻ nhạt và buồn chán như thế, nhưng thi sĩ vẫn gắn bó thiết tha. Và vì lưu luyến sự sống nên nhà thơ luôn đối diện với thực tại. Thi nhân đến với thiên nhiên để tìm sự an ủi, dung hòa. Song người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Truyện Kiều - Nguyễn Du), cho nên thiên nhiên thời Lửa thiêng cũng buồn bã và cô đơn.
Than ôi! Trời đẹp nhưng trời buồn
Như cảnh tươi màu rạp cải lương.
(Giấc ngủ chiều)
Trên sân khấu, cảnh được trang trí bằng những màu sác huy hoàng, rực rỡ, những mảnh đời trong những vở diễn trên sân khấu phần lớn là những mảnh đời đầy bi kịch với những đau khổ chất ngất. Thiên nhiên, vũ trụ đẹp nhưng vẻ đẹp ấy giống như nét huy hoàng, rực rỡ của sân khấu chứa đựng những nỗi buồn bất tận. Đó là sự ủ rũ, tàn phai của cảnh vật và cái đau đớn của số phận. Cái đẹp hàm chứa cả cái buồn của thiên nhiên và cái bi kịch của đời người. Chỉ một câu so sánh mà đã nêu bật được biết bao ý nghĩa tư tưởng và giá trị nhân văn.
Thiên nhiên ở đây mang đầy tâm trạng, đã hòa vào nỗi đau của nhân vật trữ tình, “là máu thịt của hồn sầu” (Lê Bảo). Dù thiên nhiên có đôi lúc cũng tươi trẻ, là đối tượng để nhà thơ gửi gắm niềm tin vào cuộc đời, vào con người:
Gió thổi sân trường chiều chủ nhật
Ôi thời thơ bé tuổi mười lăm
Nắng hoe rải nhặt hoa trên đất
Đời dịu vừa như nguyệt trước rằm.
(Học sinh)
Nhưng cái buồn ảo não vẫn đeo đẳng không hề rời xa nhà thơ, đến nỗi khiến thi nhân phải thốt lên: 
Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm bể
Suốt một đời như núi đứng riêng tây.
(Mai sau)
Sự vắng vẻ của đảo rời dặm bể, của núi đứng riêng tây gợi lên nét hoang vu, lặng lẽ của cảnh vật. Đảo ở đây không có sự liên lạc nào với đất liền, cắt đứt mọi quan hệ, mọi sinh hoạt với con người một khi đã rời dặm bể. Núi cũng thế, bản thân núi từ ngàn xưa đã mang vẻ cô đơn, hoang vắng, giờ đây lại còn đứng riêng tây thì sự hoang vắng càng tăng lên gấp bội. Ví hồn đơn chiếc như đảo rời dặm bể, như núi đứng riêng tây thì sự cô đơn trong lòng nhà thơ đã lên đến đỉnh điểm rồi. Chẳng những hồn buồn vì cô đơn rợn ngợp mà thân xác cũng không hơn gì.
Tôi đâu biết thịt xương là sông núi
Chia biệt người ra từng xứ cô đơn.
(Trình bày)
Thể xác lúc này là sông núi cách trở, là hàng rào ngăn cách, phân chia con người ra từng xứ cô đơn. Núi sông trùng điệp, cách trở là ranh giới để phân chia địa lý đất đai. Còn thịt xương con người là ranh giới để phân chia tâm hồn ra từng xứ cô đơn. Con người trong thời đại đó luôn cảm thấy cô dơn, bơ vơ và lạc lõng. So sánh thịt xương với sông núi là một so sánh hết sức mới mẻ và độc đáo, vừa làm người đọc thú vị khi liên tưởng vừa mang tính triết lý cao. Với Huy Cận thì thân xác con người cũng có ranh giới, chỉ tại con người chưa nhận ra đấy thôi!
Sống trong một đất nước nô lệ, mất hết quyền tự do, luôn đau khổ, chán chường với một cuộc đời tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến thì ai mà chẳng buồn, nhất là với một con người nhạy cảm, đa sầu như Huy Cận. Còn gì đau xót hơn khi con người bắt đầu ý thức được sự tồn tại của mình trong xã hội thì phải sống trong một xã hội ngột ngạt không còn sinh khí, chết dần chết mòn trong sự tầm thường của cuộc đời tẻ nhạt. Vì thế, nỗi sầu cứ cô đặc lại, đong đầy mãi trong lòng thi nhân. Nỗi buồn ấy da diết và day dẳng lắm!
Ngay cả trong tình yêu cũng nhuốm vẻ ảm đạm của cảnh chia ly. Bởi nhà thơ nhận ra rằng gần gũi song le vẫn biệt rào. Sự cách biệt không phải ở không gian hay thời gian mà là ở lòng người, ở sự thờ ơ, ghẻ lạnh của chính con người. Đó là nỗi đau tuy thầm lặng nhưng âm ĩ và đeo đẳng suốt đời. Nỗi buồn nào cũng có thể nguôi ngoai theo năm tháng nhưng dư âm của sự tan vỡ thì tồn tại mãi, nhất là đối với tình cảm ban sơ của những chàng trai mười lăm tuổi vào trường - rương nhỏ nhỏ với linh hồn bằng ngọc (Tựu trường).
Biện pháp so sánh nghệ thuật đã góp phần tạo nên nét đặc sắc, sinh động cho hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận. Bởi đây là biện pháp nghệ thuật mang tính thẩm mỹ cao và gợi lên sự liên tưởng mạnh. Những hình tượng vừa mới lạ, độc đáo vừa có sức sống lâu dài như: hồn đơn chiếc, đảo rời dặm bể, nguyệt trước rằm, hàng cờ đen, bóng quạ chập chờn, sầu đen, sầu đời, chòi cô độc, núi đứng riêng tây v.v… vừa có chức năng biểu hiện vừa có chức năng biểu cảm. Do đó hình tượng nỗi buồn thật sinh động, gợi cảm, gợi hình. Đọc Lửa thiêng của Huy Cận, người đọc sẽ cảm nhận ngay được nỗi buồn chất chứa trong từng câu, từng chữ thật mênh mang khó tả. Nó làm ta phải suy ngẫm, đồng cảm và truyền cho ta sức mạnh của yêu thương. “Và nghe thơ Huy Cận, tự nhiên lòng ta lây cái cảm thương không cùng của thi sĩ và trước nhất, ta cảm thương thi sĩ rất nhiều cảm thương” [25 ;46].
II. Hình tượng nỗi buồn qua biên pháp ẩn dụ tu từ
Nghiên cứu nghệ thuật xây dựng hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận, chúng tôi phát hiện rằng, bên cạnh so sánh nghệ thuật, nhà thơ còn sử dụng ẩn dụ tu từ. Có nhiều định nghĩa về biện pháp này nhưng chúng tôi nhận thấy định nghĩa của Nguyễn Thái Hòa là có phần đơn giản và dễ hiểu hơn cả.
“Ẩn dụ thực chất là sự so sánh ngầm, trong đó vế so sánh được giảm lược đi chỉ còn lại vế được so sánh. Như vậy, ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa của một đối tượng này thay cho đối tượng khác khi hai đối tượng có một nét nghĩa tương đồng nào đó” [13 ;194].
Ẩn dụ khác so sánh ở chỗ: “Nếu ở so sánh có mặt cả hai thành phần được so sánh thì ẩn dụ là  so sánh ngầm” [1;12], tức là chỉ còn lại một thành phần được so sánh. Ẩn dụ nổi bật ở tính biểu cảm, mở ra những khả năng vô tận cho việc nhìn ra nét gần nhau của những sự vật, hiện tượng khác xa nhau. Theo Lại Nguyên Ân thì ẩn dụ sẽ “đem lại sự sắc bén và sáng rõ cho ý tưởng, nó làm mới lại đối tượng, tạo ra hình tượng cảm tính cụ thể, sắc nét, biểu hiện được những cảm xúc sống động nhưng tiềm ẩn, làm tăng ấn tượng”. “Ở ẩn dụ thể hiện bản chất đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật” [1;13].
Thơ mới lãng mạn buồn, điều đó ai cũng biết nhưng buồn như Huy Cận thì chưa ai có. Nỗi buồn ấy triền miên day dẳng, trĩu nặng tâm hồn. Thể hiện nỗi cô đơn, buồn thương tiếc nhớ, Huy Cận sử dụng biện pháp ẩn dụ tu từ và đã rất thành công. Qua khảo sát tập thơ Lửa thiêng, chúng tôi nhận thấy ẩn dụ trong thơ Huy cận rất phong phú, đa dạng và độc đáo. Nỗi buồn qua lăng kính của biện pháp ẩn dụ đã hiện lên với một hình hài cụ thể, vừa sinh động vừa kín đáo trong việc biểu lộ cảm xúc, tư tưởng. Hầu hết, các bài thơ đều có hình ảnh ẩn dụ và các ẩn dụ đều mang đến cho Lửa thiêng hiệu quả tu từ rất cao. Nhân thế như nghe đâu đây cái man mác buồn của thời gian lặng lẽ trôi, cái mênh mông vô tận của vũ trụ xoay vần và cái nhỏ bé, đơn độc của kiếp người.
Huy Cận ý thức một cách sâu sắc về triết lý nhân sinh ấy. Thời gian vẫn vô tình trôi, còn đời người thì hữu hạn. Vì ý thức được điều đó nên Huy Cận cảm thấy đau xót và cảm thương, tình thương trong tâm hồn Huy Cận như ngọc trai ẩn chìm dưới đại dương bao la, càng trải qua sóng dập gió vùi càng có nhiều khả năng phát sáng. Vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, bên bờ nam bến Chèm thuộc sông Hồng, Huy Cận nhìn dòng sông mênh mông, bát ngát và cảm thương cho những kiếp người trôi nổi giữa dòng đời vô định:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
(Tràng giang)
Hình ảnh ẩn dụ sóng gợn tràng giang, thuyền về nước lại, củi một cành khô… gợi lên cảm giác chia ly, cách biệt và sự cô đơn, lẻ loi, bất định của con người. Sóng gợn tràng giang trùng trùng điệp như nỗi buồn trùng điệp chất lên nhau. Con thuyền không phải là hình ảnh mới, chúng ta đã bắt gặp hình ảnh này trong ca dao.
Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Con thuyền là hình ảnh tượng trưng cho sự chuyển động, rày đây mai đó không ổn định. Đó là hình tượng của người con trai mà chí tang bồng luôn giục giã họ trên bước đường phiêu lãng. Còn con thuyền ở đây có điểm mới, con thuyền xuôi mái không còn chỉ người con trai nữa mà đó là hình ảnh tượng trưng cho những cuộc đời lênh đênh, vô định và nhỏ bé trước cái mênh mông của đất trời. Ví nỗi buồn với những lớp sóng trùng điệp có thể thấy nỗi buồn đó nhiều như thế nào. Ở đây, chiếc thuyền buông mái xuôi dòng theo con nước, tưởng chừng như hai sự vật gắn bó thân thiết với nhau. Nhưng không phải vậy, thuyền và nước chỉ song song chứ không liên hệ gì với nhau cả. Thuyền đi với dòng để rồi chia ly với dòng, thuyền về nước lại sầu trăm ngả. Nước buồn nên không biết trôi về đâu trên trăm ngả dòng sông, cũng như người buồn không biết đi về đâu trên muôn nẻo đường đời!
Đoạn thơ đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững. Không gian càng bao la với sông dài trời rộng thì con người càng nhỏ bé và hữu hạn. Hình ảnh con thuyền xuôi mái làm nổi bật lên cái mênh mông, hoang vắng của bến cô liêu. Cảnh vật càng buồn hơn với hình ảnh củi một cành khô bấp bênh, không biết sẽ lạc về đâu, cũng như số phận con người cô đơn, lạc lõng giữa cái lênh đênh, vô định của dòng đời.
Cái tài của Huy Cận còn thể hiện ở chỗ thi nhân lấy hình ảnh của một cành củi khô để chỉ con người. Không phải là nhánh củi mà là cành củi nhỏ bé và cô độc, đã vậy nó còn mất hết sức sống. Cây sinh sống trên rừng, để khi già cỗi mục nát, nó cũng cố bám xuống đất như một cách trở về cội nguồn. Và ở đó, cho dù nó có chết đi, nó cũng không cô độc. Còn ở đây, Cành củi khô lạc giữa dòng trong một môi trường xa lạ, không bè bạn, không nơi bám víu. Một mình trôi nổi giữa dòng sông bao la, mặc cho những con sóng xô đẩy về muôn hướng. Đó chính là hình ảnh con người trong xã hội cũ, dù cố gắng chống chọi lại sự ngột ngạt, bế tắc nhưng họ thật nhỏ bé và bất lực trước cuộc đời. Họ không thể làm gì được, đành để mặc cho dòng đời đẩy đưa.
Vì vậy, một người tinh tế và nhạy cảm như Huy Cận làm sao không buồn cho được! Hai mươi tuổi, nhà thơ cảm nghe trong gió tiếng thở dài của vũ trụ. Như một nốt lặng trầm buồn trong một bản hòa tấu cô đơn, ông cảm thấy xôn xao mỗi khi cơn gió đến xóa đi những dấu chân trên đường bụi:
Và sau này nữa, dấu chân ai
Sẽ ghi rồi xóa trên đường bạc
Mỗi lúc trời đau gió thở dài?
(Dấu chân trên đường)
Ta nghe trong gió tiếng thở dài của Huy Cận khi chứng kiến những dấu chân xa lạ bước trùng lên nhau trong cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên rồi chia ly mãi mãi. Những cuộc chia ly không hẹn ngày tái ngộ khiến trời đau, gió thở dài. Trời đau nên trời rơi lệ, gió buồn nên gió thở than. Đó cũng là những giọt nước mắt và những lời thở than của con người, nhưng dù có thở than, có van xin cũng không thể làm cho khoảng cách giữa mọi người ngắn lại. Cái đau của trời và lời than thở, thì thầm của gió chính là nỗi lòng của người. Cái hay của Huy Cận là nhà thơ không nói mình buồn như thế nào khi nhìn thấy hình ảnh những con người gặp nhau một lần trong đời rồi không bao giờ gặp lại, nhưng ta có thể nghe trong gió lời thở than của thi nhân, lắng nghe tiếng khóc của người qua nỗi đau của trời đất. Từ đó có thể thấy rằng khao khát giao cảm, hòa hợp với con người của nhà thơ xem ra khó thực hiện được!
Vì thế, Huy Cận cảm thấy buồn hơn bao giờ hết. Buồn vì nhân thế chia ly, bản thân thi nhân cũng không thể làm gì được. Chính người cũng bị ghẻ lạnh, xa cách.
Chàng trai gối mộng trên trang sách
Tỉnh giấc, mùa xuân rụng hết hồng
Đời mất về đâu hỡi tháng, năm?
Xuân không mọc nữa với trăng rằm!
Chẳng bao lâu ngủ sầu trong đất
Vĩnh viễn mùa đông lạnh chỗ nằm
Nay hẵng còn đây ấm mặt trời
Mà sao lòng lạnh tuyết băng rơi?
(Buồn)
Mùa xuân là mùa ấm áp, trăm hoa đua nở, hoa lá xanh tươi. Nàng xuân nồng nàn mang hạnh phúc đến cho con người. Đó là mùa của sự sum họp, đoàn viên, con người cũng cảm thấy vui hơn, tươi trẻ và yêu đời hơn. Cùng với mùa xuân đất trời, họ bắt đầu một khởi đầu mới đầy may mắn. Mùa xuân còn tượng trưng cho tuổi trẻ đầy nhiệt huyết. Ở đây, Huy Cận muốn đề cập đến một quy luật nhân sinh mang tính triết lý. Một năm bắt đầu bằng mùa xuân và một đời người bắt đầu bằng tuổi trẻ. Ấy thế mà khi nhà thơ ý thức một cách sâu sắc nhất về con người, về cuộc đời - tỉnh giấc - thì mùa xuân rụng hết hồng. Nhiệt huyết tuổi trẻ giờ đã tắt, lòng chàng trai cũng không còn tha thiết nữa. Ước mơ cùng mọi  người đón mùa xuân cuộc đời đã không thành, chàng chỉ thấy vĩnh viễn mùa đông lạnh chỗ nằm và lòng lạnh tuyết băng rơi. Bao ước mơ, hoài bão không thực hiện được, lòng thi nhân nặng trĩu nỗi buồn, người ngồi nghe cô đơn giày xéo tâm hồn mình. Vũ trụ mênh mông thế, nhân gian rộng lớn thế mà chẳng ai tri âm, tri kỷ! Thật là buồn!
Có thể đề cập đến một vấn đề nữa trong Lửa thiêng, đó là những hình ẩn dụ về những số phận đau khổ của con người, vận mệnh của non sông đất nước. Đó là “cảm hứng về đất nước đau thương nô lệ, về số phận buồn tủi của con người trước vận mệnh non sông” (  ).
Nỗi buồn dân tộc thấm đẫm từng trang thơ, nhạt nhòa trên đôi mắt người thi sĩ. Nằm im dưới gốc cây tơ, nhà thơ Trông lên để thấy những chiếc lá lìa cành xoay tít trên không trung. Những chiếc lá nhỏ bé con con trơ vơ giữa bầu trời. Hình ảnh ẩn dụ lá thon mình thuyền thật độc đáo và đặc biệt. Chiếc lá trong tưởng tượng của Huy Cận như những chiếc thuyền được gió đẩy lên biển trời để thoát khỏi sự tù túng, chật hẹp của cuộc đời trần thế, tìm đến với một không gian rộng lớn, mênh mông hơn. Đó là ước mơ của Huy Cận, ước mơ thoát khỏi cuộc đời tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến, đến với một vũ trụ bao la đầy ắp điều mới lạ. Không chỉ dừng lại ở sự so sánh ngầm hết sức độc đáo đó, nhà thơ còn tinh tế lồng ẩn vào hình ảnh ấy một tâm sự. Tâm sự của một người nhỏ bé, cô đơn giữa biển đời, chẳng biết bến bờ là đâu, mặc cho dòng đời xô đẩy mà không biết điểm dừng. Đó phải chăng là tâm trạng chung của tầng lớp trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ? Họ không tìm được hướng đi cho mình, chưa tìm ra chân lý và còn mịt mờ trong bế tắc? Đó phải chăng là cảm giác Thiếu quê hương (Nguyễn Tuân) dù đang sống trên chính mảnh đất sinh ra mình? Nếu không phải vậy thì sao Huy Cận đã có lần đau xót thốt lên:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Tràng giang)
Hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ đối lập với khung cảnh bao la, rộng lớn, hùng vĩ của vũ trụ. Một cánh chim cô đơn, lạc lõng giữa bầu trời. Đôi cánh nhỏ bé như chở cả buổi chiều đang xuống. Hoàng hôn đè nặng lên những cánh chim non làm người đọc có cảm giác chỉ cần đôi cánh ấy khẽ chao nghiêng thôi thì buổi chiều sẽ ập xuống bao trùm cảnh vật. Bóng chiều mông lung trở thành có hình có khối như có thể cảm nhận được qua đôi cánh nhỏ. Và cánh chim cô đơn ấy sẽ bay về đâu để thoát khỏi bóng chiều mờ mịt đang đè nặng đôi cánh bé nhỏ của mình? Cũng như con người sẽ ra sao trong cuộc sống tù ngục, đen tối của xã hội lúc bấy giờ? Và những thế lực đen tối đang đè nặng lên cuộc đời họ đến khi nào mới chấm dứt?
Cái đẹp buồn của thiên nhiên làm nhà thơ liên tưởng đến những số phận bé nhỏ giữa cái rộng lớn, mênh mông của cuộc đời. Cánh chim nhỏ chính là hình ảnh của số phận con người trong xã hội cũ. Cánh chim cô đơn chở cả buổi chiều trên đôi cánh mỏng manh, nhỏ bé. Đó là tấm gương phản chiếu hình ảnh dân tộc phải chịu cảnh một cổ hai tròng, chở trên vai mình bóng tối của cả đêm dài nô lệ. Sự tương đồng đó là phát hiện mới mẻ của Huy Cận làm nên nét độc đáo trong phong cách nhà thơ. Chỉ một cánh chim nhỏ thôi mà có thể nói lên cảnh ngộ của cả một dân tộc đang đau khổ dưới ách thống trị của kẻ thù. Rồi thi nhân nhìn xa hơn, tất cả những gì quen thuộc: cồn, làng, sông dài, trời rộng, bến sông, bờ xanh, bãi vàng… giờ đây sao đìu hiu, cô liêu, lạc lõng, không gợi được chút niềm thân mật. Phải chăng những cảnh quen thuộc đó giờ đã rơi vào tay bọn  thống trị tàn nhẫn nên hóa ra xa lạ? Phải chăng đất nước không còn là của nhân dân Việt Nam nữa nên dù sống ngay trên quê hương, nhà thơ vẫn nhớ nhà, vẫn cảm thấy thiếu quê hương? Có lẽ vì thế nên nhà thơ cảm thấy lòng dợn dợn đau - một nỗi đau thấm sâu vào da thịt.
Huy Cận buồn nhưng thi nhân không tuyệt vọng, không bi quan như một số nhà thơ mới lúc bấy giờ. Huy Cận vẫn hy vọng và vẫn tin vào cuộc đời. Tuy ván bài đời may mắn chỉ ù suông, tuy cửa đều đóng kín, nhà thơ vẫn mở lòng chờ gió mới.
Đã là ván bài thì có may rủi, thắng thua, có cả sự lọc lừa, giả dối và có đủ mọi thành phần tham gia. Có kẻ tham vọng chiến thắng, có kẻ tuyệt vọng khi thất bại, có người hiền kẻ ác, có người chân thật có kẻ lừa lọc… Một người sống lãng mạn, chân thật như Huy Cận thì ù suông trong ván bài cuộc đời đã là may mắn lắm rồi. Nhà thơ đâu mong mỏi gì chiến thắng vì nó xa vời quá. Khi xã hội còn lắm kẻ sống vì mình, khép kín cửa lòng, không mang trái tim mình ra trao đổi, không mang sự chân thành đối xử với nhau thì còn mơ gì đến tình yêu và hạnh phúc. Thế nhưng, Huy Cận không buông xuôi, không bỏ cuộc. Nhà thơ mong mỏi có một cơn gió mới làm mát lòng người. Cơn gió đó là lý tưởng, là chân lý, là lối thoát cho mình và cho cả dân tộc. Dùng hình ảnh cơn gió để đề cập đến một vấn đề mang tính xã hội - chính trị thì quả là độc đáo. Gió là biểu tượng của sự mền mại, linh hoạt và cả sức mạnh. Gió làm thay đổi, làm mới bộ mặt của thiên nhiên. Còn lý tưởng, chân lý sẽ làm mới suy nghĩ và quan niệm của con người. Đồng thời, tư tưởng là điểm tựa để con người tiến lên. Nhưng ở đây, cơn gió mới chưa đến và cửa lòng vẫn còn im ỉm đóng. Vì vậy mà nhà thơ buồn!
Nỗi buồn của Huy Cận còn hiện hữu ngay trong tình yêu ban sơ, trong sáng. Với Huy Cận, tình yêu là chuỗi ngày chờ đợi dài đằng đẳng.
Thuở chờ đợi ôi thời gian rét lắm
Đời tàn rơi cùng sao rụng canh thâu
Và trăng lu xế nửa mái tình sầu
Gió than thở biết mấy lời van vỉ?
(Tình tự)
Rét là cảm giác của cơ thể do khí hậu lạnh lẽo mang lại. Thế nhưng ở đây, vì chờ đợi vô vọng nên thời gian cũng đông đặc lại, lạnh giá và rét mướt. Giờ đây, rét không còn là cái lạnh của thể xác nữa mà đã trở thành cái lạnh của tâm hồn. Cái lạnh của ngoại cảnh có thể dùng lửa sưởi ấm. Thế còn cái lạnh của lòng người thì lấy gì mà sưởi ấm được? Sao rụng, trăng lu xế, gió than thở,… không còn là hiện tượng của thiên nhiên nữa mà tất cả đã hóa thân vào hồn người thành trạng thái của tình cảm. Đợi người mà người không đến nên tất cả chỉ còn lại nỗi tái tê, lạnh lẽo trong lòng thi nhân. Nỗi buồn là một trạng thái vô hình nhưng có thể xé nát tâm hồn người, bóp nát trái tim người.
Qua tìm hiểu Lửa thiêng, chúng tôi nhận thấy: Hình ảnh trong thơ Huy Cận được chọn lọc rất kỹ và do vậy mà thơ ông không có hình ảnh thừa, cũng không có hình ảnh nào bị lu mờ cả. Cảnh vật dù buồn đến đâu vẫn giữ được nét đẹp riêng của mình. Một vì sao rơi rụng, một vầng trăng lu xế, nửa mái tình sầu, một tiếng gió thở than, một buổi trưa huyền thoại nhè nhẹ trong ca dao, một buổi chiều mưa giăng lạnh lẽo… Tất cả những hình ảnh đẹp ấy đều hàm ẩn cho một tâm trạng buồn bã, cô đơn, quạnh vắng, một tâm hồn luôn chất chứa nỗi sầu vạn dặm, sầu vũ trụ không bao giờ nguôi cạn.
Sự cô đơn đã tràn ngập khắp lòng Huy Cận, thi nhân bàng hoàng nhận ra mình đã mất thiên đường. Hình ảnh chòi cô độc và hình ảnh một người lạc lõng, bơ vơ giữa thiên đường hay địa ngục  kết hợp với hình ảnh cô sầu dựng núi lên cao ngất và những cặp chim hồn lạc hướng bay (Cách xa) càng làm tăng thêm độ đậm đặc của nỗi buồn, chúng gắn bó, hỗ trợ cho nhau nêu bật lên tâm trạng đơn côi, lưu lạc, sầu tư đến tột đỉnh. Sầu ở đây chồng chất lên thành núi và những cánh chim lạc loài không biết bay về phương nào như sự phân vân, mất định hướng của con người trong xã hội lúc bấy giờ!
Hình tượng nỗi buồn được khảo sát qua biện pháp tu từ ẩn dụ  giúp ta thấy rõ tính triết lý nhân sinh trong Lửa thiêng của Huy Cận - một Huy Cận tài hoa và sâu sắc với những nỗi buồn không nguôi: buồn vì khát khao giao cảm với đời bị cự tuyệt, buồn vì tình yêu không thành, buồn với nỗi buồn thế hệ, buồn vì quê hương thân yêu bị thực dân Pháp xâm lược tàn khốc… Bao nhiêu nỗi thương cảm, sầu tư, Huy Cận đều giành cả cho mình. Đó chính là một tâm hồn lớn! Có lẽ vì thế mà sau này khi tìm thấy ánh sáng của Cách mạng, chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm đã hăng hái tình nguyện đi theo tiếng gọi của non sông.
III. Hình tượng nỗi buồn qua biện pháp nhân hóa
Nhân hóa là một biện pháp được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt hàng ngày và phổ biến trong lời nói nghệ thuật. Bởi nhân hóa có chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm - cảm xúc cao. Đồng thời, nhân hóa còn là một hình thức đặc biệt, độc đáo trong phương thức xây dựng hình tượng.
Nhân hóa là gì?
“Nhân hóa (còn gọi là nhân cách hóa) là những biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình» [12 ;63].
Khảo sát Lửa thiêng, chúng tôi nhận thấy Huy Cận sử dụng khá nhiều biện pháp nhân hóa. Biện pháp này đã mang lại hiệu quả tu từ rất cao trong miêu tả và diễn đạt hình tượng nỗi buồn.
Huy Cận là một nhà thơ tinh tế, thi nhân bắt gặp cái buồn hiện hữu trong vạn vật. Song cái buồn vẫn mang nét đẹp rất lãng mạn và để lại ấn tượng nhẹ nhàng, trầm lắng trong lòng người đọc. Cái đẹp của Lửa thiêng ủ mầm nơi quán vắng đèo cao, nơi sông dài trời rộng, nơi vườn hoang trinh nữ… Thế giới Lửa thiêng là thế giới của những tưởng vọng về quá khứ và thế giới của những trăn trở nội tâm. Quay về quá khứ không phải để trốn tránh thực tại mà là để chiêm nghiệm về thực tại, về những gì đã xảy ra trong thời đại mình đang sống. Đó cũng là sự phản ứng lại với xã hội lúc bấy giờ.
Hỡi mây trắng, hỡi nước buồn, gió cũ!
Sao chiều nay ảo não vị sơ xưa?
Cho ta gởi vọng xuôi về quá khứ,
Đôi chút sầu tư nước đẩy, mây đưa.
(Bi ca)
Nỗi lòng không biết ngỏ cùng ai, bởi nhân thế không còn ai là bè bạn. Thế nên Huy Cận gọi nước buồn, gió cũ, gọi mây trắng về tâm sự. Vì đời người hữu hạn và mỗi tâm hồn là một ốc đảo cô đơn và phức tạp, khó tìm được sự giao hòa từ tâm hồn khác. Còn thiên nhiên thì trường tồn và có thể trở thành tri âm tri kỷ để thi nhân san sẻ nỗi lòng. Mây trắng, dòng nước và cơn gió sẽ ngàn năm còn mãi. Thiên nhiên như một người bạn tâm đầu biết lắng nghe tâm sự của thi sĩ. Thiên nhiên cũng buồn khi con người buồn và xót xa nhìn thấy nụ cười trên môi người héo hắt. Người buồn nên mây trắng cũng buồn, gió cũ cũng ảo não. Huy Cận đã gởi tâm sự cho nước, cho mây. Lời than thở của thi nhân nghe buồn quá.
Buồn đã lại khi bắt đầu yêu mến
Lòng say mê ngay từ thuở mê tình.
(Bi ca)
Rõ ràng ta thấy Huy Cận có hướng về thực tại, cố gắng bước để bắt kịp nhịp đời. Thi nhân vẫn yêu và yêu rất thiết tha. Song thực tế phũ phàng, không tốt đẹp như mong đợi mà chỉ gieo rắc nỗi buồn. Ta thấy, sợi buồn giăng mắc khắp nơi trong Lửa thiêng, trong lòng Huy Cận và cả trong lòng ta nữa!
Có thể bắt gặp trong chiều sâu của cảm xúc về thiên nhiên, về quá khứ là tình cảm với đất nước. Tuy không rõ rệt và hiện hình một đất nước trong Lửa thiêng nhưng ta vẫn thấy bàng bạc trong thơ là tấm lòng thi nhân đối với quê hương khi người tâm sự với thiên nhiên, khi tủi buồn, thương nhớ cảnh cũ người xưa. Ngược dòng thời gian, tác giả đã tìm đến hồn thiêng sông núi và vóc dáng quê hương. Quá khứ trong Lửa thiêng là thời gian trải dài và ngưng động ở bến sơ xưa, ở dòng sông tiền sử. Huy Cận đã quay về với quá khứ xa xưa như tìm về miền đất hứa của niềm giao cảm. Ở nơi ấy, thiên nhiên sẽ hiểu và chia sẻ tâm sự với con người. Điều đáng trân trọng ở Huy Cận là nhà thơ không chỉ nghĩ đến nỗi buồn và sự cô đơn của riêng mình mà nghĩ cho tất cả mọi người. Thế nên, thơ Huy Cận có buồn thật nhưng thanh thoát và tìm được những tâm hồn đồng vọng. Đó chính là điều tạo nên những khác biệt giữa thơ Huy Cận với những bài thơ buồn hoài cổ khác phổ biến lúc bấy giờ.
Huy Cận sớm nhận ra bản chất của cuộc đời cũ, ở đấy tình yêu chỉ là ảo vọng và hạnh phúc là cái không thể với tới.
Quá cô đơn, nhà thơ gọi buổi chiều xuống để cùng người trút niềm tâm sự.
Chiều ơi! Hãy xuống thăm ta với!
Thiên hạ lìa xa, đời trống không.
Nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ
Đìu hiu bên phố, nhớ bên lòng.
(Tâm sự)
Chiều giờ đây không còn là khoảnh khắc của chuỗi dài thời gian mà là một nhân vật trữ tình biết lắng nghe, chia sẻ. Thiên hạ lìa xa rồi, không có ai san sẻ nỗi lòng. Thế nên nhà thơ trò chuyện với chiều. Và chiều cũng đồng cảm với thi nhân, nên nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ. Nhà thơ buồn và chiều cũng buồn. Chiều đã trở thành người bạn tri âm tri kỷ.
Ta biết quen chiều tự thuở xưa
Tim nghe xa vắng rộng không bờ
Một ngày trời đẹp bâng khuâng quá
Ấy buổi đầu tiên bạn bút tờ...
Một mình cũng muốn câu tâm sự
Chiều xuống cùng ta đặng có nhau…
(Tâm sự)
Có bạn rồi Huy Cận có vơi đi chút buồn nào không? Rõ ràng, dù có trút cạn bầu tâm sự nhưng nỗi buồn vẫn còn đấy, những trăn trở, suy tư vẫn còn đấy. Thế nên, nhà thơ nghe hồn mình lạnh giá nỗi cô đơn.
Một buổi xưa kia phòng vắng bạn
 Đó ngày quen biết với cô đơn.
(Tâm sự).
Tuy đã làm bạn với thiên nhiên, với thời gian nhưng tâm hồn nhạy cảm của Huy Cận vẫn còn phấp phổng lo sợ. Thi nhân sợ mây nước, gió trăng quên lãng mình.
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm,
Gió  trăng ơi! nay còn nhớ người chăng?
Hơn một lần chàng đã gởi cho trăng
Nỗi hiu quạnh của hồn buồn không cớ.
(Mai sau)
Sợ người khác quên sự hiện diện của mình, đó là tâm lý chung của con người, nhưng sợ cả những sự vật, hiện tượng vô tri vô giác quên lãng mình, dường như chỉ co mỗi mình Huy Cận. Ở đây, ta thấy Huy Cận đã xem không gian, thời gian là những vật có cảm giác và suy nghĩ như con người. Thế nên, chàng đã gởi cho trăng nỗi hiu quạnh của lòng mình, gởi những nỗi buồn ảo não và gởi cả tình yêu thiết tha, chân thành. Ta nghe trong gió tiếng thở dài của Huy Cận, nghe trong mưa tiếng khóc của chàng dành cho dân tộc. Lòng chàng vẫn hay tủi nắng sầu mưa, vẫn không nguôi tình yêu nhân thế.
Đối với con người, thời gian và thiên nhiên là nhưng vật vô tri vô giác, nhưng đối với Huy Cận, thiên nhiên và thời gian chính là bạn và chúng không hề vô tình. Gió mây, trăng sao, dòng nước, chim chóc đều có tình.
Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt
Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày.
(Vạn lý tình)
Rõ ràng không chỉ có người biết buồn mà gió cũng biết buồn trước những cảnh chia ly, cách biệt. Không chỉ có người biết nhớ mà gió cũng biết nhớ. Vì buồn và nhớ nên gió mới thở than, gió mới bay đi tìm bạn. Đôi mắt Huy Cận nhìn đâu cũng thấy vạn vật hữu tình. Đó chính là nét đặc sắc riêng của nhà thơ. Nếu cho rằng Huy Cận là chàng thi sĩ của thiên nhiên, của trời đất thì cũng không sai!
Thơ Huy Cận bàng bạc hình ảnh của thời gian và không gian. Cây với người xưa có lẽ láng giềng, đem một vật vô tri đặt cạnh một cái có hồn để nói lên sự gắn bó của con người và thiên nhiên. Đồng thời qua thiên nhiên, Huy Cận bộc lộ tư tưởng và tình cảm của mình. Ở đây, thiên nhiên và con người đã hòa làm một, con người như tìm thấy một nửa còn lại của mình trong sự sống của thiên nhiên và thiên nhiên cũng giúp con người giải tỏa nỗi ưu phiền.
Thời gian, không gian như cứu cánh, như phương tiện đưa hồn thi nhân thoát khỏi sự khắc nghiệt và ngột ngạt của xã hội. Không gian, thời gian mở ra những chân trời mới cho Huy Cận và chấp đôi cánh cho thơ vượt qua những giới hạn thông thường, tạo nên sức lay động và ấn tượng đẹp trong lòng người đọc. Người bạn thơ của Huy Cận thường là mây, nước, gió, trăng… và buổi chiều. Buổi chiều la khoảng thời gian gợi lên nhiều nỗi buồn nhất. Thông thường, người ta buồn thì tìm đến những người bạn có cùng tâm trạng hoặc ít ra cũng có một sự đồng cảm nào đó. Chẳng ai mang tâm trạng buồn tâm sự với người đang vui, và ngược lại khi ta vui không bao giờ ta san sẻ với người đang buồn. Cho nên, Huy Cận đã tìm sự đồng vọng ở người bạn có cùng nỗi lòng. Đó là chiều!
Chiều lại xuống ở trên lầu cô tịch
Chờ thi nhân đã chết tự ngàn xưa
Nói chuyện cùng- chiều không nắng không mưa
Không sương khói, chỉ có sầu vạn thuở.
Đời hiu quạnh, thời gian nghiêng bóng nhớ
Phố không cây thôi sầu biết bao chừng
Chỉ mơ hồ trùng điệp với mông lung,
Buồn vạn lớp trên mái nhà dợn sóng.
(Trò chuyện)
Dòng tâm trạng với lớp lớp sóng buồn khiến thi nhân cảm thấy bơ vơ giữa thời gian và không gian vô tận. Huy Cận trò chuyện với chiều và với thi nhân đã chết tự ngàn xưa. Lúc này nhà thơ đang tưởng niệm về quá khứ - một quá khứ đẹp và yên bình. Ở nơi đó, con người sống hòa đồng với thời gian, không gian và con người. Chiều lại xuống ở trên lầu cô tịch, dường như chiều xuống đã trở thành một thông lệ, một lời hẹn ước và chiều đã xuống không chỉ một vài lần. Chiều xuống để trò chuyện cùng Huy Cận và các thi sĩ ngàn xưa, để cởi bỏ hết những bức bối trong lòng, để trút cạn dòng tâm sự. Khi chiều xuống không có nắng cũng không có mưa, không có sương khói chỉ có sầu vạn thuở. Chiều không mang gì đến, chỉ có nỗi sầu thiên cổ để góp thêm nỗi buồn đã đầy ắp trong lòng thi nhân. Không gian hoang sơ như ở thời tiền sử, lặng vắng và êm ả. Không chỉ mỗi mình Huy Cận tưởng vọng về quá khứ đẹp đẽ đã qua mà thời gian cũng nghiêng bóng nhớ. Dường như thiên nhiên và buổi chiều có một sự đồng cảm rất sâu sắc. Dù cô đơn giữa loài người nhưng Huy Cận cũng tìm được một người bạn có thể sẻ chia tâm sự. Đó là điều an ủi cuối cùng còn sót lại và chắc hẳn Huy Cận cũng hài lòng vì điều đó.
Trong Lửa thiêng, Huy Cận đã có 40 lần nhắc đến buổi chiều: chiều tê cúi đầu, chiều mồ côi, chiều vĩnh biệt, chiều tận thế…, chứng tỏ chiều có một vị trí đặc biệt trong lòng thi nhân. Chiều là người bạn không thể thiếu của nhà thơ và là hình tượng độc đáo trong thơ.
“Nhạy cảm với buổi chiều cũng là nhạy cảm trước nỗi buồn bã cô đơn của con người, đồng thời cũng thể hiện sự thất vọng của con người trước thức tại. Thế giới nghệ thuật của Lửa thiêng đã góp phần bộc lộ niềm khát vọng lớn và nỗi thất vọng lớn của Huy Cận. Khát vọng lớn là khát vọng bất tử cùng thời gian, khát vọng tìm kiếm hạnh phúc trong thời quá khứ, trong sự hòa đồng với thiên nhiên và nhân loại. Nhưng Huy Cận đã thất vọng vì càng xuôi về quá khứ nhà thơ càng cô đơn để cuối cùng chợt nhận ra tình trạng bơ vơ của mình trên con đường thời gian vô tận” [25;296].
Không chỉ trò chuyện với chiều, Huy Cận còn trò chuyện với thi sĩ ngàn xưa và ngưỡng mộ cuộc sống an bình, vui vẻ và hạnh phúc của tiền nhân. Đó là cách phủ nhận thực tại tối tăm của nhà thơ Huy Cận.
Còn trong tình yêu, chẳng mấy khi ta thấy Huy Cận vui. Tình yêu lãng mạn, dịu dàng, đằm thắm nhưng cũng lắm nỗi ngậm ngùi, thương đau.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ…
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
(Ngậm ngùi)
Bốn câu thơ mở ra một không gian tâm tưởng dịu êm, man mác ngậm ngùi, thể hiện tâm trạng xót xa thương cảm và da diết yêu thương của Huy Cận. Nhà thơ mong người yêu ngủ ngon với giấc mộng bình yên và đẹp đẽ. Tiếng thùy dương du dương đưa em vào giấc ngủ an lành. Thùy dương trở thành người bạn hát ra em ngủ và xua đi những đau thương đã làm em buồn lòng. Ngủ đi em và hãy mộng bình thường, cây dài cũng phải ngẩn ngơ nhìn em ngủ. Những xót xa của ngày tháng cũ rồi cũng sẽ qua để trả lại cho em chuỗi ngày bình yên sắp tới. Chỉ riêng mình anh nghe nặng trái sầu rụng rơi, còn em hãy cứ vô tư, yên vui và hạnh phúc. Đó là điều Huy Cận mong mỏi, ước ao!
Hình tượng nỗi buồn ở đây cứ như sương khói vấn vương, như tơ trời giăng mắc, như cõi mộng huyền ảo xa xăm. Song, đó cũng là hình tượng rất thực như cây ngẩn ngơ đổ bóng dài, như hàng thùy dương ngân nga hát. Cây và bóng đều buồn đến ngẩn ngơ, hàng thùy dương biết ru và an ủi. Tất cả đều buồn nhưng rất đẹp, vì ở đấy có tình yêu. Tình yêu chính là thơ, là nhạc của cuộc sống, là đôi cánh chở ước mơ đi thật xa trên vùng trời bình yên hạnh phúc. Và dù có ngậm ngùi thương đau, tình yêu ấy vẫn đẹp và vẫn là khát vọng ngàn đời của con người. Ta bắt gặp trong Ngậm ngùi của Huy Cận một chút gì đó là của mình. Đó chính là sự đồng vọng của tâm hồn! Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã có lần tâm sự:
“Bài thơ hay làm cho người ta không còn thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người. Quên rằng đó là tiếng nói của ai, người ta cảm thấy nó như tiếng ca từ trong lòng mình, như là của mình vậy. Thơ là tiếng nói tri âm” [26;201].
Có thể nói, Huy Cận là một trong số rất ít những nhà thơ có sự nhạy cảm đặc biệt và có sự cảm nhận một cách sâu sắc bước chuyển mình của thiên nhiên. Và qua biện pháp nhân hóa, Huy Cận đã làm cho hình tượng nỗi buồn vừa đa dạng vừa thể hiện cá tính sáng tạo rất độc đáo của nhà thơ. Đó là một trong những đặc điểm làm nên phong cách riêng của tác giả Lửa thiêng!
IV. Hình tượng nỗi buồn qua biện pháp hoán dụ tu từ
Nghiên cứu Lửa thiêng, chúng tôi thấy cần phải đề cập đến một hình thức xây dựng hình tượng rất thành công. Đó là hoán dụ tu từ.
Vậy hoán dụ tu từ là gì?
“Hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa bằng cách dùng một đặc điểm hay một nét tiêu biểu nào đó của một đối tượng để gọi tên chính đối tượng đó” [13; 203].
«Hoán dụ tu từ là hoán dụ thực hiện hóa mối quan hệ mới mẻ, bất ngờ giữa hai khách thể» [12 ;67]
Hoán dụ tu từ sẽ giúp chúng ta thấy được cái hay, cái đẹp của hình tượng, vì chức năng của hoán dụ tu từ là nhận thức và biểu cảm - cảm xúc. Nó còn có khả năng khắc sâu đặc điểm tiêu biểu cho đối tượng được miêu tả.
Lửa thiêng là một bức tranh giàu màu sắc, đường nét và rất sống động. Trong đó màu chủ đạo chi phối tất cả chính là màu của tâm tưởng, của nỗi buồn. Màu sắc ấy lan tỏa trên toàn hình tượng, để khi ngắm nhìn, chúng ta sẽ cảm nghe được một nỗi buồn man mác len nhẹ vào hồn mình. Tạo hóa sinh ra nhân loại, ban cho con người thân thể để tồn tại và linh hồn để yêu thương:
Người đã cho những bàn tay hoa nở
Những chân cây, chồi mạnh búp tơ măng.
(Thân thể)
Hoa là biểu tượng của cái đẹp, là tặng phẩm độc đáo của thiên nhiên dành cho con người. Búp tơ măng là biểu hiện của sự tươi trẻ, non tơ. Hai câu thơ làm nổi bật hình tượng con người trẻ trung, xinh đẹp và khỏe khoắn. Con người chính là kỳ công độc đáo mà Thượng đế tạo nên. Vẻ đẹp của con người được ví với hoa, với chồi mạnh tươi tắn, với những gì tinh túy nhất của thiên nhiên. Con người là một phần của thiên nhiên, đồng thời là chủ nhân quản lý thế giới này. Bằng sức mạnh và trí tuệ, con người luôn vươn tới những gì cao đẹp nhất.
Thế nhưng, khi vừa chào đời, con người đã phải nhận ngay vào những giọt nước mắt đau thương đầu tiên. Miệng bao giờ buông nhả vú chua cay, triết lý nhân sinh ấy tồn tại hàng nghìn năm nhưng không phải ai cũng hiểu được. Mà không hiểu được thì không buồn. Còn đã nhận ra  thì không  thể làm ngơ, và vì không thể làm ngơ trước thực trạng đó nên Huy Cận thấy rõ hơn ai hết nỗi buồn nhân thế. Người ta ai cũng biết cuộc đời là con đường không bằng phẳng và đầy rẫy chông gai. Thế nhưng, họ không thể không tiến bước vì sự sinh tồn của bản thân. Biết rằng cuộc đời có đủ vị đắng cay, thế mà chẳng ai tránh được. Đó là quy luật, mà đã là quy luật thì trốn tránh làm gì!
Lòng Huy Cận đẹp, thi nhân cũng không thở than vì sự thiếu thốn vật chất tầm thường. Nhưng sự chật vật đời thường đôi khi làm con người mệt mỏi.
Đôi guốc năm hiên kéo bốn mùa
Tiền nhà ít gởi biết chi mua
Áo dài cọ mãi đôi tay rách
Gương lược thăm hoài tóc ngắn thưa.
(Học sinh)
Cuộc sống vật chất của người nghệ sĩ trong xã hội cũ rất thiếu thốn, nhưng tâm hồn họ thì luôn dạt dào yêu thương. Thi nhân nhìn đâu cũng thấy nét thơ mộng, lãng mạn. Và nỗi buồn chẳng qua là sự biểu hiện ngược của lòng yêu đời và khát khao hòa nhập vào cuộc sống. Lòng họ đẹp, họ cũng có lý tưởng sống, nhưng họ lại đầu thai nhầm thế kỷ (Vũ Hoàng Chương), nên họ khó mà thực hiện hiện được lý tưởng của mình. Vì thế, họ cảm thấy xót xa, cảm thấy bơ vơ lạc loài giữa thế giới ồn ào xung quanh. Dù vẫn biết lòng mới nở giữa tay đời ấm áp nhưng bởi cuộc đời ghẻ lạnh, thiên hạ lìa xa nên:
Những bàn tay đáng lẽ phải giao nhau
Hờ hững thế! Không chịu cầm lưu luyến.
(Tình mất)
Những bàn tay giao nhau thể hiện sự giao lưu, thân thiết, gắn bó trong tình cảm. Một cái nắm tay có sức mạnh hơn cả ngàn lời nói. Nó truyền cái ấm áp của sự sẻ chia, cái nét đẹp văn hóa và đạo đức của từng người. Bàn tay có thể dìu ta bước tiếp trên đường đời, nâng ta dậy khi ta gục ngã. Bàn tay giao nhau là sự biểu lộ tình cảm của người và người, là sức mạnh giúp ta vươn lên những điều tốt đẹp để đạt được ước mơ, hoài bão. Thế mà ở đây, những bàn tay ấy lại hờ hững, không chịu cầm lưu luyến.  Điều đó làm cho thi nhân buồn và xót xa!
Cuộc đời đầy may rủi và ván bài đời may mắn chỉ ù suông, thế mà con người còn tránh nhau để xa thêm:
Chân xa mau, lòng chưa kịp giao thân.
(Tình mất)
Thôi đã tan rồi vạn gót hương
Của người đẹp tới tự trăm phương
Tan rồi những bước không hò hẹn
Đã bước trùng nhau một ngả đường.
(Dấu chân trên đường)
Nên chân đi chưa định ngày nghỉ bước
Đường không dài; người tránh để thêm xa.
(Cầu khẩn)
Những bước chân trùng nhau trên một ngã đường là sự ngẫu nhiên, song Huy Cận quan niệm rằng phải có duyên mới gặp được nhau. Đó là sự sắp đặt của số mệnh. Trên muôn nẻo đường đời, có những người ta không bao giờ gặp mặt vì ta và họ không có duyên. Thế thì tại sao những người có duyên kỳ ngộ mà lại hờ hững để những bước chân gặp nhau trở nên vô nghĩa. Huy Cận coi đó là điều đáng buồn.
Đời người hữu hạn và con đường họ đi cũng phải có điểm dừng vì đường không dài vậy thì tại sao phải tránh nhau để thêm xa? Ý thức sâu sắc triết lý nhân sinh về sự hữu hạn của đời người nhưng Huy Cận bất lực vì không thể rút ngắn khoảng cách giữa mọi người. Thà là vô tình chứ một khi đã ý thức rõ mà không làm gì được, thi nhân cảm thấy bức bối và khổ tâm!
Mang trái tim cô đơn đi giữa biển người, Huy Cận buồn vì đôi tay không tín mộ - chỉ lạc hướng thiên đường (Ê chề). Và vì cô độc giữa cuộc đời nên Huy Cận mang một nỗi sầu trĩu nặng, mênh mang với những suy tư, khắc khoải. Nỗi buồn ấy triền miên kéo dài vượt cả biên giới không gian, lan tỏa, mở rộng cả biên độ  thời gian. Đó chính là nỗi buồn của  một chiếc linh hồn nhỏ - mang mang thiên cổ sầu. Nhà thơ Bùi Giáng đã nhận xét về Huy Cận như sau: “… Nguồn thơ buồn nhất Việt Nam là nơi Huy Cận… Huy Cận đã sống trọn vẹn với linh hồn nhân gian. Nguồn thơ ông chảy khắp mạt buồn vui nhân thế” [5 ;170].
Trong một xã hội bất công đầy rẫy nhiễu nhương, Huy Cận đã phản ứng lại bằng nỗi buồn, bằng sự thất vọng của mình và của thế hệ mình. Huy Cận nhạy cảm, tinh tế cảm nhận những âm thanh rất nhẹ, rất khẽ của cuộc sống. 
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi.
(Buồn đêm mưa)
Huy Cận nghe mưa hay nghe nỗi buồn lắng đọng vào hồn? Nghe tiếng bước chân cô độc trên con đường vắng vẻ hay nghe hồn mình đìu hiu? Chắc chắn một điều là Huy Cận không chỉ đơn thuần nghe hiện tượng thiên nhiên đang diễn ra, mà ẩn chứa trong đó là tất cả bùi ngùi, nghẹn ngào của nỗi buồn mang mang thiên cổ, của những kẻ mất thiên đường.
Ta nghe trong Lửa thiêng của Huy Cận tiếng thở dài ảo não. Nhà thơ tìm đến những lời đồng vọng, tìm sự đồng cảm của người đời. Song, muốn người khác đồng cảm với mình thì trước tiên nhà thơ phải đồng cảm với mọi người. Đó là điều hiển nhiên! Và ta đã nghe tiếng nức nở nghẹn ngào, cố kiềm lại của thi nhân khi chứng kiến chuyến xe cuối cùng của cuộc đời tiễn đưa linh hồn về thế giới vô biên. Hình tượng nỗi buồn giờ đây có nguyên nhân là cái chết của thể xác lẫn tâm hồn.
Chân quấn quýt rồi đến ngày nghỉ bước
Miệng trao thơ rồi đến buổi làm thinh;
Thân có đôi chờ lúc ngủ một mình
Không bạn lứa cũng không mền ấm nóng;
Tai dưới đất để nghe chừng tiếng sống
Ở trên đời: - Đầu ấy ngẩng lên cao
Sẽ nằm im! Ôi đau đớn chừng nào;
Thân bay nhảy giam trong mồ nhỏ tí
Một dáng điệu suốt trăm nghìn thế kỷ.
(Chết)
Huy Cận đã dùng các bộ phận của cơ thể để nói về con người. Những bước chân quấn quýt nhanh nhẹn thể hiện sự năng động, vững chãi, nhưng cũng phải có ngày nghỉ bước không còn vận động được nữa. Đôi môi duyên dáng nói những lời hay ý đẹp, bày tỏ tình cảm - cảm xúc, những yêu ghét giận hờn trong cuộc đời qua ngôn ngữ, qua âm thanh trong trẻo nhẹ nhàng, nhưng cũng có lúc phải làm thinh, không bao giờ trao lời được nữa. Đó là ngày con người rời bỏ trần thế để đến với một thế giới khác lạnh lẽo và cô đơn, không bạn lứa cũng không mền ấm nóng. Chuyến xe cuối cùng của cuộc đời đưa con người về lòng đất, mang theo bao tiếc thương, bao giọt nước mắt của người ở lại. Đó là chuyến xe buồn nhất trong đời người mà ai cũng phải đi qua. Đọc những câu thơ trên chúng ta nghe một sự cảm thông sâu sắc của Huy Cận đối với người đã khuất. Và chúng ta cũng thế, cũng nghe tim mình đau thắt lại. Còn gì buồn hơn khi thân bay nhảy giữa thế gian giờ lại bị giam trong mồ nhỏ tí. Ôi đau đớn chừng nào! Huy Cận cảm thương cho sự hữu hạn của con người và đã truyền cho ta sức mạnh của sự cảm thương.
Vì cảm nhận được sự hữu hạn của kiếp nhân sinh nên Huy Cận cảm thấy xót xa cho người đời. Thi nhân đã đem tấm lòng mình trao tặng mọi  người. Và chúng ta tin rằng, tấm lòng của thi nhân sẽ được mọi người đồng cảm và trân trọng!
Biện pháp hoán dụ tu từ xuất hiện trong Lửa thiêng không nhiều bằng ẩn dụ tu từ nhưng nó cũng góp một phần rất lớn vào phương thức xây dựng hình tượng nỗi buồn. Nó làm cho nỗi buồn không còn là một trạng thái tâm lý trừu tượng mà hết sức sống động, đặc sắc và rất riêng. Nó góp phần làm nên phong cách thơ Huy Cận - một phong cách thơ hết sức độc đáo và lãng mạn buồn.
Với Huy Cận “cái sầu là chặng dài nhất của đời người, cũng là cái phần sâu nhất của con người”, “cái sầu vây hãm con người như thiên la địa võng vô hình…” [25;308]. Trong tập Hồi ký song đôi, thi nhân cũng thừa nhận: “Trong buổi thanh niên, tôi hay buồn, sầu vô cớ”. “Cảnh tâm lý trong nhà khi nào cũng âm u, chỉ nắng héo với sương mù, chỉ có hắt hiu, chỉ có lạnh tẻ. Có lẽ vì sống trong cảnh ấy ngày nhỏ nên sau này, vào tuổi thiếu niên, thanh niên, tôi mới hay buồn, hay sầu não về cuộc đời đó chăng?” [Trích Hồi ký song đôi].
Đó cũng là điều dễ hiểu! Trong buổi giao thời ngày ấy, bao nhiêu cái xấu đều có dịp phơi bày, hỏi ai chẳng xót xa, đau đớn! Nhất là đối với một người nhạy cảm như Huy Cận thì nỗi buồn ấy càng được nhân lên gấp bội và lan tỏa khắp không gian, xuyên cả bức tường thành thời gian để trở về muôn ngàn năm trước!.
C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu hình tượng thơ là hướng tiếp cận đúng đắn đối với người nghiên cứu, học tập và giảng dạy văn học. Hình tượng cũng là phương tiện phổ biến nhất giúp tác giả bộc lộ nỗi lòng và tư tưởng về một khía cạnh, một vấn đề mang tính thời đại trong xã hội mình đang sống. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy nét chủ đạo trong Lửa thiêng là hình tượng nỗi buồn.
Nghiên cứu hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc những tư tưởng, tình cảm, quan niệm… của nhà thơ. Qua Lửa thiêng, Huy Cận đã nói lên tâm trạng chung của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Đó là tâm trạng buồn bã, thất vọng và bất lực trước thực tại.
Huy Cận là nhà thơ có nhiều tác phẩm giảng dạy ở trường phổ thông. Thế nên, nghiên cứu hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận sẽ cung cấp cho người viết vốn kiến thức nhất định về thơ cũng như phong cách thơ đặc biệt, độc đáo của nhà thơ lãng mạn này, phục vụ đắc lực cho công tác giảng dạy sau này.
2. Huy Cận đã trải qua một chặng đường lao động nghệ thuật hơn sáu thập kỷ và đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà. Tập thơ Lửa thiêng đã giúp cho Huy Cận khẳng định vị trí của mình trong phong trào Thơ mới. Có thể nói, tuy là tập thơ đầu tay nhưng Lửa thiêng đã làm nổi bật tài năng thơ của Huy Cận và góp phần làm rạng rỡ, phong phú cho văn học Việt Nam hiện đại. Lửa thiêng chính là ngọn lửa sáng chói nhất trong đời Huy Cận và sẽ còn sáng mãi trong lòng độc giả bao thế hệ.
Qua Lửa thiêng, chúng tôi nhận thấy rằng Huy Cận là nhà thơ của tình người, tình đời và tình yêu sự sống. Trong suốt tập thơ, ta thấy thi nhân luôn khắc khoải về số phận con người trong xã hội, về vận mệnh của non sông, đất nước. Đồng thời, nhà thơ luôn mở rộng lòng mình để giao cảm, giao hòa với cuộc đời. Đó là một nhà thơ có một tấm lòng rất đáng quí và đáng trân trọng!
3. Thơ Huy Cận buồn nhưng không hề tuyệt vọng, không đánh mất niềm tin vào con người, vào cuộc đời. Nỗi buồn của Huy Cận không phải là nỗi buồn của một cá nhân mà là cái buồn chung của thế hệ, của dân tộc. Nhà thơ đại diện cho dân tộc mình cất lên lời tố cáo kín đáo xã hội thực dân, ngột ngạt, đen tối đã mang đến bao cảnh bất công, đau khổ  cho con  người. Lẫn tránh là ủy mị, yếu đuối và cũng không thể giải quyết được vấn đề gì, nên Huy Cận đã không trốn tránh mà đối diện với thực tại, đối diện với nỗi buồn luôn cào xé tâm hồn nhà thơ. Tiếng khóc của Huy Cận là lời đồng vọng dành cho con người trong thực tại, đó là tiếng khóc mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc
4. Để miêu tả và diễn đạt thành công hình tượng nỗi buồn, Huy Cận đã sử dụng nhuần nhuyễn các phương tiện chuyển nghĩa trong Lửa thiêng. Đó là các biện pháp: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ. Qua đó, chúng ta có thể thấy được sự tinh tế trong cảm nhận và tài hoa trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của thi nhân. Ngoài ra, nét đặc sắc và độc đáo trong phong cách Huy Cận còn thể hiện ở chỗ lồng ẩn trong Lửa thiêng là những triết lý mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Nghiên cứu hình tượng nỗi buồn qua tập thơ đầu tay của Huy Cận, chúng tôi hy vọng với vốn kiến thức có được sẽ giúp cho học sinh của mình trong tương lai sẽ càng yêu và thích thú hơn với văn chương, để các em thấy thú vị khi học văn và không còn cảm giác đó là một môn học tẻ nhạt.
5. Trên cơ sở tìm hiểu Hình tượng nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận, chúng tôi thấy hướng tiếp cận này còn có thể mở ra theo các hướng sau nếu chúng tôi có dịp trở lại nghiên cứu đề tài này:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu toàn diện hình tượng nỗi buồn qua tất cả các biện pháp nghệ thuật, các phương tiện ngôn ngữ trong tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận.
Thứ hai, nghiên cứu hình tượng nỗi buồn một cách toàn diện trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận.
Thứ ba, nghiên cứu hình tượng nỗi buồn một cách có hệ thống và toàn diện trong thơ ca lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1932-1945.
DANH MỤC THAM KHẢO:
1. Lại Nguyên Ân. 150 thuật ngữ văn học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
2. Nguyễn Thanh Bình - Nguyễn Đức Khuông. Tìm hiểu nhà văn và tác phẩm trong nhà trường. Nxb Đại học Sư phạm, 2005.
3. Nguyễn Phan Cảnh. Ngôn ngữ thơ. Nxb Văn hóa thông tin, 2001.
4. Huy Cận - Hà Minh Đức (chủ biên). Nhìn lại một cuộc Cách mạng trong thi ca (60 năm phong trào Thơ mới). Nxb Giáo dục. H.,1993.
5. Huy Cận - Trần Khánh Thành. Huy Cận, đời và thơ. Nxb Văn học. Hà Nội, 1999.
6. Lê Tiến Dũng. Giáo trình lý luận văn học - Phần tác phẩm văn học. Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
7. Hữu Đạt. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
8. Phan Cự Đệ - Trần Đình Hượu - Nguyễn Trác… Văn học Việt Nam (1900 - 1945). Nxb Giáo dục, 2005.
9. Hà Minh Đức (chủ biên). Lý luận văn học. Nxb Giáo dục, 1997.
10. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên). Từ điển thuật ngữ văn học. Nxb Giáo dục, 1992.
11. Ths. Ngô Thị Hy. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945. Trường đại học An Giang, khoa Sư phạm, 7/2005.
12. Đinh Trọng Lạc. 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt. Nxb Giáo dục, 2005.
13. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) - Nguyễn Thái Hòa. Phong cách học Tiếng Việt. Nxb Giáo dục, 2002.
14. Phương Lựu. Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc. Nxb Gíao dục, 1989.
15. Phương Lựu (chủ biên). Lt1 luận văn học (tập I). Nxb Đại học Sư phạm, 2002.
16. Phương Lựu (chủ biên). Lý luận văn học (tái bản lần I). Nxb Giáo dục, 1997.
17. Nguyễn Xuân Nam. Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường: Chế Lan Viên - Huy Cận. Nxb Giáo dục, 1999.
18. Nhiều tác giả. Tổng quan văn học Việt Nam (trọn bộ 42 cuốn). NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 2000.
19. Nhiều tác giả. Từ điển văn học (tập I). Nxb Khoa học xã hội, 1983.
20. Pospelov (chủ biên). Dẫn luận nghiên cứu văn học (tập I). Nxb Giáo dục, 1985.
21. Trần Đình Sử. Giáo trình lý luận văn học (2 tập). Nxb Đại hoc Sư phạm.
22. Trần Đình Sử. Những thế giới nghệ thuật thơ. Nxb Giáo dục, 1997,
23. Nguyễn Minh Tấn (chủ biên). Từ trong di sản. Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1981.
24. Hoài Thanh - Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam. Nxb Thanh Hóa, 2006.
25. Trần Khánh Thành - Lê Dục Tú. Huy Cận về tác gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục, 2003.
26. Trần Khánh Thành. Thi pháp thơ Huy Cận (chuyên luận). Nxb Văn học, Hà Nội, 2001.
20/6/2012
Hồ Thị Ngọc Nữ
Theo https://nguvandhag.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly 30 Tháng Mười Hai, 2022 Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vầ...