Thứ Ba, 9 tháng 12, 2025

Nguyễn Minh Châu tư duy nghệ thuật về cái đẹp trong truyện ngắn sau 1975

Nguyễn Minh Châu tư duy nghệ thuật về
cái đẹp trong truyện ngắn sau 1975

Trong lịch sử văn học Việt Nam đương đại, Nguyễn Minh Châu là một trong số các nhà văn lớn nửa sau thế kỷ XX. Văn nghiệp của ông gắn liền với cuộc đời người lính từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đến những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước. Trong hành trình viết văn, ông đã để lại nhiều tác phẩm văn xuôi đặc sắc cho nền văn học nước nhà, gồm nhiều thể loại trong đó có truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, bút ký, phê bình,… Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu ngay từ khi xuất hiện đã được công chúng hào hứng đón nhận. Đến nay đã có hàng trăm bài viết, nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ đề cập nhiều khía cạnh về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Trong đó, có nhiều bài viết lý luận phê bình (LL-PB) đã khám phá, lột tả được những thành công khác nhau trong các tác phẩm của ông.
Với tôi, Nguyễn Minh Châu chính là người đưa tư duy nghệ thuật về cái đẹp văn chương đến với người đọc để tìm về giá trị chân thiện mỹ. Văn của ông như một luồng khí thông mát giải phóng năng lượng, thắp sáng lương tri con người trong hành trình cuộc sống. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại mà còn gắn với những năm tháng ưu tư trăn trở với bước chuyển dạ kỳ diệu trong tiến trình đổi mới đất nước. Phải là người có tư duy nghệ thuật về cái đẹp, đường văn của ông mới rộng mở như thế. Từ nhận thức đúng đắn, ông đã có hàng loạt tác phẩm để đời. Tôi cho rằng, tư duy nghệ thuật về cái đẹp chính là một trong những chìa khóa mở ra nhiều vỉa, tầng trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thành công. Ông xứng danh là tác giả có vị trí nổi tiếng của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại sau năm 1975, và là một trong những nhà văn tiêu biểu mở đường cho thời kỳ đổi mới văn học nước nhà.
Trong “Tư duy nghệ thuật về cái đẹp”, Mỗi nhà văn đến với bạn đọc đều có cách riêng của mình, bằng khả năng quan sát và nắm bắt đúng bản chất sự vật hiện tượng, từ đó truyền những thông điệp với cộng đồng về lẽ sống, về tinh thần trách nhiệm qua ngòi bút. Nguyễn Minh Châu không ngoài con đường đó. Nhưng với ông còn có thêm ở ý thức cao cả của nhà văn đối với xã hội, với con người, với cái đẹp, mà con người đang hướng tới. Ông đã từng tâm sự: “Phải có đầy đủ ý thức ghi nhận lấy những gì đang xảy ra trên mảnh đất ta đang đứng hôm nay. Những điều ghi nhận ấy phải do ta tự tìm lấy”. Có thể hiểu, ông đã chủ động dấn thân để có tư duy nghệ thuật về cái đẹp cho riêng mình được ấp ủ từ lâu. Vì vậy, những sáng tác sau thời kỳ 1975 như: Tiểu thuyết Miền cháy (1977); Lửa từ những ngôi nhà (1977); Người đi từ trong rừng ra (1982); Chiếc thuyền ngoài xa (1985); tập truyện ngắn Người đàn bà trên tuyến tàu tốc hành (1983); Cỏ lau (1989); Bức tranh (1976) công bố trên báo văn nghệ năm 1982; Truyện ngắn Bến quê (1985) trong tập truyện Mảnh đất tình yêu; Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát (1989), đã xác lập một giá trị riêng trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Đây là dấu ấn, thể hiện ý thức nhân bản hóa, nhân văn hóa được đề cao. Tất cả nhằm mục đích vượt qua thi pháp cổ điển truyền thống hướng tới cái đẹp, kể cả việc khai mở hệ hình tư duy lý luận, có tác động đến đời sống trong thời kỳ đổi mới văn học.
Những sáng tạo nghệ thuật, từ ngôn ngữ nghệ thuật đến thế giới quan nhìn về cái đẹp của Nguyễn Minh Châu đã tìm ra sự thức nhận của con người. Nhiều tập truyện của ông kể về con người có những góc khuất thầm lặng. Con người hiện lên những giá trị tinh thần với chiều sâu nhân bản trong sự hài hòa với thiên nhiên tạo vật. Với cái đẹp, Nguyễn Minh Châu hẳn có một đời sống nội tâm rất phong phú. Mạch suy tư trữ tình trong lối viết văn của ông như dòng sông tươi mát chảy về các ngách sông bên những ngôi làng xanh mướt bãi dâu, để rồi có những câu chuyện kết đọng sắc cảm, thấm đậm tình người: “Tôi buông bút, đi ra vườn. Sáng nay ngôi vườn sao nhiều gió? Hẳn vẫn những ngọn gió này đã từng thổi qua mặt bà tôi, thổi vào cuộc đời đầy đau khổ và cô độc của bà tôi? Tôi đứng quanh tiếng lá reo ào ào. Tôi nhìn lên vòm lá, muốn hỏi từng cái cây trong vườn-loài thảo mộc cùng sống cùng thời với bà tôi- những cây nào đã từng đổ bóng xuống cái dáng đi đứng một mình trong vườn của bà tôi, đã từng để rơi lá xanh hay lá vàng xuống vai bà tôi?”(Mảnh đất tình yêu).
Nguyễn Minh Châu không những đã tạo cho mình từ điểm nhìn nghệ thuật (point of view) trong tư duy của một nhà văn sắc sảo, mà ông còn mở rộng tư duy nhìn về không gian, thời gian nghệ thuật, khẳng định một tầm nhìn nhân văn trong văn học sử Việt Nam hiện đại. Chả thế mà nhà văn Nguyễn Khải đã viết: “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường“tinh anh và tài năng”, người đi xa nhất” trong quá trình đổi mới văn học Việt Nam hiện đại. Với tư cách tài năng nghệ sĩ, ông đã cảm nhận sâu sắc một điều: Tình yêu là lẽ sống của sự sinh thành, là chốn đi về để tìm thấy cái đẹp, cái sâu xa trong nguồn cội, đó là đạo đức, là tình người trong cuộc sống. Chính vì lẽ đó, trong tư duy nghệ thuật về cái đẹp, Nguyễn Minh Châu đã đóng đinh vào vẻ đẹp của văn chương, làm cho văn chương được ươm giống nảy mầm sinh sôi phát triển. Trong đó có cả bề mặt, bề sâu trong đáy tâm hồn các nhân vật trong tác phẩm.
Nguyễn Minh Châu trong tư duy nghệ thuật về cái đẹp còn thể hiện cách thức xây dựng hình ảnh, biểu tượng. Là một trong những người mở đường cho văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã hiện thực hóa cái đẹp trong bút pháp (éscriture) có yếu tố hiện thực và lãng mạn. Đặc biệt cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng (représentation) rất linh hoạt. Bởi biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật theo nghĩa rộng. Vì vậy các biểu tượng được ông xây dựng trong tác phẩm ẩn chứa sắc thái phản chiếu số phận, tâm lý, tính cách nhân vật. Từ cách xây dựng này, đã xây dựng một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất một hiện tượng, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời. Sử dụng hình ảnh biểu tượng là một trong những nét độc đáo trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Nó đánh dấu một chất lượng mới của sự phát triển tư duy nghệ thuật.
Đọc truyện ngắn viết sau 1975 của ông, xuất hiện nhiều nhất và cũng dễ nhận thấy nhất là những biểu tượng luôn gắn liền với những bước thăng trầm trong suốt cuộc đời con người. Đó là hình ảnh bò khoang và tiếng xe cút kít (Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát. Biểu tượng cơn mộng du gắn chặt với cuộc đời cô y tá Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành), lại dẫn ta tới nỗi bất hạnh của một con người muốn vươn tới những giá trị tuyệt đối hoàn mỹ. “Còn những hòn vọng phu kia, cứ lặng in nhan nhản tại vùng núi Đợi(Cỏ lau) lại dựng lên nhóm tượng đài ký ức về những con người với thân phận nổi chìm trong chiến tranh đều quần tụ những hình người bằng đá đầy cô đơn giữa trời xanh”. Tư duy nghệ thuật Nguyễn Minh Châu còn vươn tới chiều tâm linh, là cầu nối giữa hiện tại và quá khứ để tìm về cái đẹp. Nhân vật Huệ trong Khách ở quê ra dù suốt đời bị lão Khúng biến thành cái máy đẻ, dù quyết tâm 20 năm đoạt tuyệt với thành phố cùng mối tình xưa, vẫn luôn thổn thức không quên kỷ niệm đẹp một thời đã qua. Mới biết, tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu đã kết hợp nhiều yếu tố để sáng tạo khám phá vẻ đẹp trong truyện ngắn rất hiệu quả.
Trong tư duy về cái đẹp, các tác phẩm Nguyễn Minh Châu còn nổi lên số phận nhân vật với một giọng điệu mới rất riêng. Nó thực sự là một hiện tượng đa nghĩa, đa chức năng, vừa thể hiện hình tượng nhân vật điển hình vừa tăng tính triết lý, tính trữ tình mang phong cách nghệ thuật độc đáo.
Là người không dễ dãi trong cách viết, Nguyễn Minh Châu quan niệm cái đẹp trong trang văn đem đến cho tâm hồn con người một sự giải tỏa ách tắc trong tư tưởng, trong khủng khoảng tâm lý. Vì vậy, vẻ đẹp ngôn ngữ trong cách diễn ngôn của ông nuôi dưỡng trong lòng tiếng nói của đời sống. Tất cả được tinh lọc bằng thứ ngôn ngữ tiếng Việt trong sáng, cho mọi người đọc cảm thấy thỏa mãn, nhớ lâu. Đằng sau sự cảm nhận ấy, là thế giới của chữ “tình” trong mỗi câu chuyện được hiển lộ qua tính cách nhân vật. Cái đẹp được ông thức cùng, không phô trương, dung tục, mà luôn ẩn chứa những điểm sáng thẩm mỹ lan tỏa lay động hồn người. Nó có độ đậm sắc vươn tới chiều dài, chiều sâu tác phẩm. Yếu tố này tạo nên cái đẹp phổ quát trong điểm nhìn sáng tạo của Nguyễn Minh Châu. Những chi tiết nghệ thuật (detailartisique) ông thể hiện, tạo nên cái đẹp là điều kiện, là nguyên tắc nghệ thuật. Từ vẻ đẹp trong phương thức trình bày nghệ thuật đã tìm được các tầng nghĩa sâu xa. Trong truyện Mảnh đất tình yêu là sự tối yêu vẻ đẹp văn chương thông qua nghệ thuật tài hoa, kể, tả. Nguyễn Minh Châu đã hóa thân vào nhân vật, làm cho nhân vật văn học và nhân vật trong đời sống hòa trộn vào nhau, tạo nên một vẻ đẹp tự nhiên không khiên cưỡng. Như thế đủ hiểu, mầu sắc lãng mạn tỏa ra từ vẻ đẹp tình yêu trong truyện ngắn của ông dẫn đến chất trữ tình, luôn có đất để phô diễn tài năng nghệ thuật.
Nguyễn Minh Châu trong tư duy nghệ thuật về cái đẹp, đã định hình sắc sảo trong thời gian và không gian nghệ thuật. Với bản lĩnh người lính, văn của ông sáng trọn niềm tin với nhiều thế hệ người đọc. Chất thơ trong văn luôn bung tỏa miền mỹ cảm trên trang viết. Nếu như cách miêu tả nhân vật trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu viết trước năm 1975 với lối kể, tả rất có hồn, đầy chất thơ, là tác phẩm khẳng định dấu ấn của ông về tư duy nghệ thuật, có nét đẹp cổ điển theo cảm hứng anh hùng ca, và thiên hướng tiệm cận cái mới thì đến tác phẩm Bến quê và Chiếc thuyền ngoài xa ra đời năm 1985 là sự thay đổi về tư duy nghệ thuật trong bút pháp. Đây được xem là lát cuốc mở đường, phát ra một lối đi mới vào cái thực tại phức tạp đầy biến động của xã hội Việt Nam trong hoàn cảnh khó khăn lúc bấy giờ. Và tác phẩm này thực sự khơi nguồn cho văn học nước nhà có sự đổi mới về tư duy, phá vỡ thi pháp cổ điển, là sự tiếp cận nhân cách nhìn nhận con người vai trò chủ thể, phát triển cuộc sống. Đặc biệt xem đây là một bước chuyển hết sức quan trọng trong sự cắt nghĩa quan niệm về con người của nền văn học mới, phù hợp với thời đại.
Tiếp theo sự phát triển trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, tác phẩm truyện ngắn Bức tranh và Phiên chợ Giát còn được khẳng định thêm một vẻ đẹp trong triết lý nhân bản, cái đẹp ẩn sâu vào thế giới tâm hồn con người. Cách sử dụng ngôn từ trong miêu tả cái đẹp đã đưa ngôn ngữ văn chương gần với đời sống, tạo nên tính biểu cảm, biểu trưng nhằm nâng cao tính nghệ thuật. Có người cho rằng Bức Tranh là tác phẩm có những điểm đã đem đến một tuyên ngôn nghệ thuật. Có thể là như thế, vì quá trình tìm ra cái đẹp của nghệ thuật còn ẩn sau nó là đạo đức nghề nghiệp. Mà Bức tranh là một minh chứng điển hình.
Trong tư duy nghệ thuật về cái đẹp, cách diễn ngôn trong văn của ông còn giàu hình ảnh, từ ngữ trau chuốt, sống động, kết cấu đa dạng, sự liên tưởng, so sánh độc đáo. Những câu văn được ông sử dụng trong thế giới nghệ thuật mang cả tính triết học. Tôi nhớ trong một bài tiểu luận: “Nhà văn đất nước và dân tộc mình”, Nguyễn Minh Châu có một nhận xét rất sâu sắc Sự đời ngưng đến một độ nào đấy thì trở thành triết học. Đời sống dân tộc ta cũng đi qua một cơn bão táp ghê gớm và mỗi người anh hùng bước ra là một triết nhân.
Nguyễn minh Châu quan niệm, cái đẹp phải là cái được rút ra từ hiện thực, từ cốt lõi tư tưởng, được chuyển hóa trong ý thức nghệ thuật. Có thể, trong hiện thực đời sống, ông đã lấp đầy khoảng trống để xóa đi những gì dấu vết tội lỗi mà bản thân nhân vật còn day dứt để đưa nhân vật ấy trở về với nét đẹp nhân văn. Tác phẩm Bến quê, Bức Tranh  và hàng loạt các tác phẩm khác ông viết trong thời kỳ đổi mới đã thể hiện rất rõ.
Thực tế, hành trình của nhà văn chân chính bao giờ cũng là hành trình đi tìm chính mình, là hành trình đi kiếm tìm nhân vật cho độc giả trong một thế giới có nhiều vẻ đẹp nhân bản. Trong tác phẩm “Cỏ lau” đã hiện nguyên giọng điệu với vẻ đẹp rất đặc trưng, bởi được ông dồn tâm bút để khắc họa. “Khắp bốn phương trời hòn Vọng Phu đứng nhan nhản, tôi thấy lạ lùng quá, thật là đủ hình dáng, đủ tư thế, cả một thế giới đàn bà… Trên nền trời trăng sáng mênh mông, những hình người bằng đá cứ câm lặng, như hàng triệu năm vẫn đứng thế. Sau lưng họ một mảnh trăng cuối tháng như một chiếc đĩa vàng bị vỡ”.
Có thể nói, văn ngôn trong Cỏ lau của Nguyễn minh Châu, với cái đẹp đầy nội lực đã chạm đến gốc rễ người Việt, tính cách người Việt. Đó là những con người làm nên những huyền thoại cổ tích mà ở đó giọng điệu văn xuôi của ông như mạch nước ngầm tráng lên trang văn có đầy đủ vị ngọt, vị đắng trong nhân sinh cõi người. Từ hình ảnh người lính trong chiến tranh và sau chiến tranh đến người nông dân trong “Phiên chợ Giát”, số phận con người trong cuộc đời của họ đã được Nguyễn Minh Châu dựng nên những bức chân dung với sự cảm thông sâu sắc. Đi sâu vào thế giới nội tâm để tìm về cái đẹp càng cho ta hiểu hơn những nhọc nhằn cay đắng được mất của con người trong sóng gió cuộc đời, đầy rẫy những bất trắc đổi thay. Nếu như “Chiếc thuyền ngoài xa”, hình ảnh người đàn bà cam chịu nỗi khổ đau bị chồng hành hạ nhưng vẫn không muốn từ bỏ người chồng là nét đẹp nhân văn thì đến “Phiên chợ Giát” Nguyễn Minh Châu đã đạt đến cao trào trong cách tìm hiểu khắc họa hình tượng nghệ thuật.
Hình tượng người nông dân tiêu biểu, nhân vật lão Khúng tương phản với nhân vật lão Bời Bí thư huyện ủy, xuất thân là một lão buôn bò, là một câu chuyện cười ra nước mắt. “Khi ông Bời cho xóa sạch tên các làng xóm đền chùa miếu mạo để đưa máy móc đến thế cả máy móc bò trên đường, dưới ruộng như cua, làm trâu bò đã trở thành kẻ thất nghiệp”. Đánh giá sự vĩ đại ấy, ông Khúng người nông dân đã bảo lão Bời: “Toàn một lũ ăn cắp”. “Công cuộc mị dân”, nói theo chữ chính trị là “ba cùng”, làm náo động cả tỉnh. Và có ai biết chăng, cái thời báo chí đưa lão Bời đến tận mây xanh về công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp, nay lão đã bị “con bò khoang đen của lão Khúng đá hậu vào giữa bụng làm cho lão Bời ngã bổ nhào úp mặt cả khuôn mặt phương phi vào giữa ruộng”. Thế mới biết lão Khúng có sức ám ảnh nhà văn Nguyễn Minh Châu đến thế. “Phiên chợ Giát” đã thoát mình ra khỏi xu hướng văn học kiểm chứng phê phán ấu trĩ trong nhận thức về cách mạng. Hơn nữa, đã đưa Nguyễn minh Châu với bản năng tư duy với cái đẹp đã đưa văn học trở về với thực tại. “Phiên chợ Giát” thực sự là tác phẩm muôn giải thoát người nông dân để trở thành tự do hơn trong đời sống, có trách nhiệm với cộng đồng và làm chủ bản thân hơn.
Hướng về cái đẹp, trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu còn chạm mạnh vào những đạo đức giả mà con người lấy danh tiếng ảo để che đậy bộ mặt bí hiểm đầy mánh khóe giả dối. Phương châm ông khai thác từ nội tâm, để kích hoạt những khuôn mặt có tiếng, không thoát khỏi sự dằn vặt ám ảnh day dứt lương tâm mà quá khứ những con người đó, có một cách sống cơ hội chủ nghĩa. Trong cách xây dựng nhân vật điển hình, ông đã biểu lộ một giọng điệu văn phong rất riêng. Như vậy, trong tư duy nghệ thuật về cái đẹp, Nguyễn Minh Châu yêu cái đẹp đến vô cùng, và trước khi có được cái đẹp theo tư tưởng của ông là phải loại bỏ cái xấu trước, cái khó nhất bên trong của con người. Ông không miêu tả hời hợt cái bên ngoài mà đi sâu vào xây dựng biểu tượng nhân cách. Kể cả nghệ thuật tạo tình huống truyện có yếu tố bất ngờ.
Tác phẩm “Bến quê” và “Bức tranh” là hai tác phẩm ra đời trước “Phiên chợ Giát” nhưng đã tạo ra một tư tưởng mới trong tư duy nghệ thuật hướng về cái đẹp được ẩn dấu từ bên trong tâm hồn. Cái đẹp “Bến quê” như một cơn gió lạ làm thay đổi nhận thức thật giả của con người để cuối cùng trở về với cái đẹp hướng thiện. Bến quê cũng là thông điệp nhắc con người ta dù có đi đến tận đâu cũng không bằng nhà mình, quê mình. Nhân vật “Nhĩ” trong “Bến quê” đã từng đi khắp mọi nơi trên thế giới, khi về cuối đời, anh bị liệt mới tìm thấy hết vẻ đẹp của “Liên”, người vợ tần tảo quê mùa xinh đẹp. Hàng ngày khi thu mình trong căn phòng mà anh không thể đi lại tự do được, anh mới thấy được vẻ đẹp hoa tím bằng lăng ngoài khung cửa sổ. Đặc biệt “Nhĩ” đã nhớ đến tuổi thơ của mình có nhiều kỷ niệm với cái bãi bồi bên kia sông và anh ước được đặt chân lên một lần cuối. Sự sám hối của nhân vật cho ta liên tưởng đến nhiều điều. Có những người thành danh đã bất chấp luân thường đạo nghĩa coi thường cái nơi chốn sinh ra mình, người giúp mình, trong xã hội. Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm những triết lý cuộc đời, con người ta, muốn có được cái đẹp kết thúc có hậu, phải có nhận thức và hành động đúng về chân giá trị, mới đem lại những vẻ đẹp thẩm mỹ bền vững nhất.
Trong tư duy nghệ thuật về cái đẹp, Nguyễn Minh Châu đã sử dụng giọng điệu trữ tình. Vẫn có những chi tiết ngợi ca nhưng không phải một chiều mà bên cạnh, luôn đem theo niềm trắc ẩn. Khi viết có cả yếu tố chính luận kèm theo triết lý giản dị rất sâu sắc mang tính trải nghiệm. Từ tư duy nghệ thuật, ông đã có quan niệm nghệ thuật, tư tưởng nghệ thuật theo phong cách mới, đem lại sức sáng tạo mới mẻ. Tiêu biểu, truyện “Bức tranh” là một trong những tác phẩm rõ nhất về giọng điệu sáng tác. Cuộc độc thoại nội tâm trong “Bức tranh” khi thì mỉa mai, giễu cợt, khi thì đanh thép nhưng nổi bật lên vẫn là giọng thâm trầm, khắc khoải của một cái đầu bị nỗi đau tinh thần rằng xé. Cũng cần phải nói thêm, nhiều truyện ngắn của ông tính triết lý cao. Ông tỏ ra sự am tường về cái đẹp nên đường dẫn của truyện đi tới điều ấy, bao giờ cũng trúc trắc quanh co, nhưng rất tinh tế, hóm hỉnh trong cách phát hiện những vấn đề cuộc sống trăn trở.
Bức tranh là tác phẩm kể về nhân vật người họa sĩ có bức tranh vẽ về một người bạn lính cùng chung chiến hào, trong một cuộc triển lãm tranh, anh bạn ấy, đã trở thành người nổi tiếng, vì đạt giải thưởng thế giới. Tuy nhiên, người họa sĩ này không thực hiện đúng lời hứa mà người cứu sống mình nhờ chuyển bức tranh về cho người mẹ, sau bao năm chờ đợi đến lòa cả mắt. Khi trở lại đời thường, gặp lại người chiến sĩ năm xưa, hiện làm thợ cắt tóc, người họa sĩ đã day dứt lương tâm và đã tự vẽ lại khuôn mặt mình để đối thoại với chính mình. Với một cốt truyện tưởng chừng như đơn giản, nhưng Nguyễn Minh Châu đã thể hiện một tư duy tài năng nghệ thuật, bằng cách viết lôi cuốn. Ông đã xây dựng nên những trạng huống, tâm lý nhân vật phức tạp với diễn biến đa chiều, đa sự, nhằm thể hiện một khát vọng thức tỉnh lương tâm, hướng tới cái đẹp nhân bản mà cuộc sống nào, thời đại nào cũng đều hướng tới. Ông đã cho độc giả nhận diện “khuôn mặt bên trong” cái xấu, cái thấp hèn để được tòa án lương tâm phán xét. Và tất nhiên, giá trị nội dung và nghệ thuật của bức tranh và một số tác phẩm khác càng đưa Nguyễn minh Châu trở thành nhà văn nổi danh nhất, đem đến một hiện tượng văn học nổi như cồn, với cái tên Nguyễn Minh Châu tỏa sáng.
Trong tư duy nghệ thuật về cái đẹp, Nguyễn Minh Châu không quên sử dụng các thủ pháp nghệ thuật sáng tạo. Ông sử dụng ẩn dụ, biểu tượng đa nghĩa. Thường thì ông hay đưa nhân vật theo lối độc thoại để đối diện với chính bản thân nhân vật để tìm ra những nghịch lý. Bởi lẽ những “nghịch lý” ấy là hệ quả tất yếu trong bản chất nội tại của cuộc sống, khiến cho con người phải thay đổi, nhận thức, cách nghĩ, cách sống quen thuộc của mình. Và quan trọng hơn, nó đòi hỏi con người phải có cái nhìn độ lượng với cuộc đời. Trong truyện của ông, có nhiều nhân vật giỏi giang thành đạt mà cũng có lúc bất lực trước một ước muốn nhỏ nhoi. Trong “Bến quê” đã nêu lên một nghịch lý đáng nhớ: “Đừng nên bỏ cả đời bôn tẩu tìm kiếm cái phù hoa ở chân trời xa lắc, trong khi lại thờ ơ, vô tình với những cái rất thân yêu, gần gũi thủy chung ngay sát bên mình”. Còn ở “Chiếc thuyền ngoài xa” thì nghịch lý đặt ra giữa một vẻ đẹp tươi sáng lại chứa đựng bao cảnh đời ngang trái xót xa. Như vậy, ngoài tác phẩm “Bến quê” và “Bức tranh”, thì truyện “Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành”, “Sắm vai”,“Dấu vết nghề nghiệp”, Nguyễn Minh Châu còn mang đến cho người đọc những quan niệm mới mẻ về con người và cuộc đời mà nền tảng là chiều sâu của triết học. Vì thế ở những truyện ngắn và kể cả truyện dài của ông thường xuất hiện mô típ triết lý về quan niệm sống; về quan hệ giữa hiện thực và phản ánh, giữa thực tế và hư vô. Tất cả những điều ấy đều hướng về cái đẹp nhân bản.
Với cách nhìn sâu, suy nghĩ rộng, ông đã tìm ra tư duy nghệ thuật về cái đẹp mang tính phổ quát, khiến cho sáng tác của ông ngoài tính triết lý còn đậm tính trữ tình. Những biểu tượng được ông xây dựng trong các biện pháp nghệ thuật đã tăng tính thẩm mỹ, góp phần xây hình tượng nghệ thuật mang tầm khái quát triết học. tôi rất đồng tình với ý kiến của Nhà phê bình Lã Nguyên: “Sức hấp dẫn trong những trang viết của Nguyễn Minh Châu chính là chất thơ và chiều sâu triết học, nhờ đó mà nhà văn hiện lên với đầy đủ tầm cỡ của nhà nghệ sĩ- tư tưởng” (Lã Nguyên).
Quan sát hành trình nghệ thuật của Nguyễn minh Châu, có thể dễ dàng nhận ra ngay từ những năm 1980-1981 là giai đoạn chuyển đổi trong tư duy văn xuôi Việt Nam hiện đại. Cùng với Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu có những thành tựu đặc sắc được hình thành từ những tích tụ đầy năng lượng qua những trang đời và những vốn sống. Nhiều trăn trở để làm nên cái đẹp, cái mới trong tác phẩm văn học của ông, ngày càng hiện rõ ý thức sâu sắc hơn về việc đưa văn học trở về với đời sống, tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh đòi quyền sống cho con người. Mỗi truyện ngắn đều có những câu chuyện đời thường, hiện sinh vào thế giới nghệ thuật với một chủ đích rõ ràng. Đồng thời lưu ý con người, cần phải tránh sự độc ác hoặc nhìn nhận đánh giá sao cho đúng trong “Dấu vết nghề nghiệp”; những kỷ niệm, những nỗi niềm riêng tư của một đời người trong những biến thiên dữ dội của dân tộc hiện rõ trong “Bên đường chiến tranh”. Không ít lần Nguyễn Minh Châu thể hiện con người phải biết sám hối tự vấn lương tâm (Bức tranh, cơn giông). Nhìn chung, những truyện ngắn xuất sắc của ông như Bến quê, Bức tranh, Cỏ lau, khách ở quê ra, Phiên chợ Giát mang hơi thở tầm thời đại, chứa đựng những vấn đề bàn về đạo đức nhân sinh. Mỗi một truyện ngắn trong tư duy nghệ thuật có sự dồn nén khái quát cao về nhân tình thế thái, về các mâu thuẫn xã hội đa dạng phức tạp, nhiều góc khuất đào sâu đem đến một sự thật mà bấy lâu bị dấu kín. Hướng về cái đẹp thực sự là nghệ thuật thi pháp, vận hành trong sáng tác của ông đạt đến độ tài năng.
Truyện ngắn mà ông cảm xúc viết trên cái nền của tư duy nghệ thuật thường có những giây phút bất chợt bắt gặp những khoảnh khắc hoàn hảo, dưới tác động của trực giác, của tâm linh, của vô thức. Nguyễn Minh Châu dù viết về “người nông dân, người dân chài, anh bộ đội, hay người đàn bà, người mẹ, người vợ đều miêu tả họ như những đứa con của làng xóm quê hương thân thuộc”, có đời sống nội tâm phong phú, luôn ý thức được trách nhiệm của mình với chân quê. Cái đẹp đem lại thành công cho tư duy nghệ thuật Nguyễn Minh Châu trong nhận diện số phận con người, xem con người là giá trị cao nhất của cuộc sống. Trong ý thức nhìn nhận con người thời đại mới, luôn đề cao đối tượng khám phá, đề cao nguyên tắc nhân bản và tôn trọng sự thật trong nghệ thuật sáng tác. Có lẽ đây cũng là một đặc trưng mà Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Quan sát người xung quanh mình, tôi thấy người tốt vẫn là đa số, vẫn chiếm đa số. Nhưng hình như họ luôn luôn phải cưỡng lại một cái gì bên trong bản thân, hình như luôn có một cuộc đấu tranh bản thân giữa thiện và ác, lý trí và dục vọng, cái riêng và cái chung ở bên trong từng con người. (Nguyễn Minh Châu).
Như vậy, tư duy nghệ thuật về cái đẹp của Nguyễn Minh Châu không dừng lại ở những chi tiết nghệ thuật nhỏ lẻ, hay trong phương thức biểu đạt ở một khía cạnh, mà nó còn mang tầm khái quát đa dạng, trong các phương thức thể hiện. Nó đã đưa trường văn của Nguyễn Minh Châu đạt đến độ sắc sảo, mang tính biểu tượng cao, sức sáng tạo lớn. Sức sống trong truyện ngắn sau 1975 là một minh chứng cho sự tài hoa, nhạy bén, trong đổi mới văn chương của Nguyễn Minh Châu. Trong đó, tư duy nghệ thuật về cái đẹp là những điều cốt lõi, góp phần làm nên thi pháp Nguyễn Minh Châu thêm tỏa sáng. Ông thật xứng đáng một tên tuổi nhà văn lớn, trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại.
Thời gian đi qua, cho dù quá khứ có lúc trầm xuống, trong mỗi thời điểm khác nhau, nhưng các thế hệ nhà văn Việt Nam và những người yêu văn chương, kể cả những người làm công tác nghiên cứu LL-PB văn học vẫn coi Nguyễn Minh Châu là nhà văn ám ảnh nhất, là người có tư duy nghệ thuật về cái đẹp trong truyện ngắn sau năm 1975 nổi bật nhất của mọi thời đại.
2/1/2025
Trịnh Vĩnh Đức
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Alain Robbe Grillet - Tác giả tiểu thuyết mới

Alain Robbe Grillet Tác giả  tiểu thuyết mới Tu le sauvas peut-être un jour. JPS.(1) Thế nào gọi là tiểu thuyết mới ((Nouveau Roman). Đó l...