CHUYỆN KỂ ĐỨT QUÃNG VỀ ĐÁM BẠN
TRIẾT VĂN KHOA RA SAO SAU 30 THÁNG 4
Nhớ mấy ngày đầu sau 30/4, có một ông “nón cối”
thường xuất hiện ở nhà tôi. Tội nghiệp ba mẹ tôi đã tốn nhiều quà
cáp, trọng vọng quá sức người bà con mới nhận lại này, chỉ mong
dựa hơi cán bộ để kiếm việc làm cho con cái. Do đó, không ai được
phép nhắc tới cái thời ông này đi tập kết năm 54, làm việc mấy năm
trên lưng mấy con bò ở nông trường Sơn La hay Mộc Châu gì đó rồi được
đề bạt đi học, rồi cũng thành y sĩ ngành răng-hàm-mặt, tức rành rành
thuộc giới trí thức miền Bắc. Nghe nói thằng cháu dạy học ở chế độ cũ
đang thất nghiệp ở chế độ mới, ông bảo gọi tôi tới. Ngắm tôi vài giây
– chắc ông xem tôi có “trí thức miền Nam” chút nào không – rồi ông
lấy ngón trõ vỗ vỗ vào màng tang mà phán rằng: ” Cháu học Văn khoa?
Chà, trí thức tiểu tư sản, lại ban triết nữa thì tư tưởng khó
chuyển biến đấy! Phải phấn đấu nhiều lắm mới được. Phải chi cháu
tốt nghiệp kỹ sư kinh tế chẳng hạn thì bác có thể giới thiệu cháu
tham gia công tác ngay ở…”.
Lúc ấy, tôi hiểu ngay tương lai mình hiển nhiên chẳng
sáng sủa gì nhưng lại ngờ nghệch, không hiểu “kỹ sư kinh tế” là gì. Theo
cách phân ngành đại học mà tôi được biết trước đây, “kỹ sư” thuộc lãnh vực
đào tạo về khoa học kỹ thuật hay công nghệ ứng dụng, làm sao gắn với
“kinh tế”, thuộc lãnh vực nhân văn – xã hội, trong đó có chuyên ban kinh tế
– thương mại. Trước kia, chỉ có hoặc “kỹ sư công chánh”, “kỹ sư điện” hay “kỹ
sư hóa học” … chẳng hạn, được đào tạo ở trường ĐH Bách khoa Phú Thọ, hoặc
“cử nhân luật kinh tế” được đào tạo ở trường ĐH Luật cùng thuộc Viện Đại học
Sài Gòn chẳng hạn. Nay lại nghe pha tạp thành “kỹ sư kinh tế”? Sau này,
tôi mới được nghe một bác cán bộ hưu trí lý giải, rằng bởi xã hội ở ngoài đó –
dù không công khai – có xu hướng không xem trọng các ngành học từ chương,
nghèo tính thực dụng, được gọi là ngành “khoa học tổng hợp”, như: kinh tế,
nhân văn, văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ (kể cả ngoại ngữ)…, nên hình như khoa
kinh tế học miền Bắc muốn che dấu tính chất nặng về nghiên cứu, nặng
lý thuyết của mình, đã cho sinh viên ra trường cũng được cái tên “kỹ sư”,
thay vì “cử nhân”. Tuy cùng là lao động trí óc, nhưng phải nhập nhằng
nhào vô ngồi chung với các anh kỹ sư thủy lợi, kỹ sư giao thông vận
tải, kỹ sư nông nghiệp.v.v…, thì anh “kinh tế” mới khỏi bị đánh giá
là kém ích dụng, kém thực tiễn khi so với mấy anh họ “kỹ”.
Còn ở trong này, vào thập niên 60 bọn chúng tôi đã chọn
ghi danh ở một ngôi trường cũ kỹ, nhưng được cái là nằm trong một khu
rất yên tĩnh ở đất Sài Gòn. Trường Văn khoa bao gồm nhiều ban như Việt
Hán, Sử địa, Triết, Ngoại ngữ, Nhân văn… nhưng linh mục Thanh Lãng,
dạy môn văn học sử, cứ thích gọi là “trường Văn” thôi. Hẳn là cha Thanh
Lãng đã mơ màng nhìn những giảng đường lâu năm bụi bám, thấy giống như
cửa Khổng sân Trình của đám nho sinh cổ xưa?
Riêng bọn tôi thì có vẻ…cổ xưa, hũ nho thật. Có lần
tôi trồng cây si một cô nàng rất hấp dẫn, học cái ban à la mode nhất
trong trường là Anh văn. Lân la đến làm quen thì nàng nhìn tôi với con
mắt đầy…tội nghiệp: “Toa nói toa học ban Triết đông hả? Sao cái ban gì
tên nghe… cải lương dữ vậy!?”. Đáng đời cho tên nghịch đồ của ban phái
Đông phương! Người trong mộng của hắn, như lời tình ca mượt mà Hởi
người tình Văn khoa…của PD., phải là một tiểu thư yểu điệu thục nữ, áo
dài tha thướt, trang trọng, rất Á Đông, chứ sao lại là một nàng vốn học
trường đầm, mặc jupe bó đùi rất gợi cảm? Kẻ thất tình lầm lạc đã
được các bạn đồng môn an ủi bằng cách dẫn đi ngồi café ghế-cao là
quán Hân ở Đakao, có nhạc Paul Mauriat tuyệt vời. Nhưng chỗ ‘đóng đô’
thường nhật của bọn tôi – trong những ngày… cạn túi – còn là quán
cóc ghế-thấp ở lề đường Nguyễn Du, ở đây có phiêu lãng những mẩu lá
me bay lạc vào tách café bình dân rẻ tiền. Nhưng có gì cấm được đám
sinh viên bọn tôi – đa số là con nhà nghèo – ngồi đó mà nghĩ suy, dệt
mộng lớn cho tương lai, dự phóng giúp ích cho đời bằng kiến thức,
chữ nghĩa mà mình đang dùi mài, tích lũy từ ngôi trường cổ kính
của mình qua mấy mùa mưa nắng? Rồi ra trường, thời sinh viên lãng
mạn, đầy hoa mộng khép lại tuy vẫn ghi danh tiếp, làm luận án cao
học và không thường xuyên đến trường nữa. Đa số đi dạy học; có người
làm thơ (bệnh làm thơ của đa số bọn sinh viên trường Văn), có người
viết văn, làm báo, biên tập viên đài phát thanh, nghiên cứu hay công tác
xã hội… – nói chung là làm việc, chọn kế sinh nhai trong các lãnh vực
giáo dục, văn hoá, xã hội.
Rồi ngày 30 tháng 4 trờ đến, dựng lên cái thời đại mà
hầu như người ta chỉ tôn vinh những ai có bàn tay dính dầu máy, phân
bón, thuốc trừ sâu, bùn đen, đất đỏ… thì dân xuất thân Văn khoa cũ, nhất
là đám ban triết, làm sao sống nỗi, nói gì khá lên nỗi?
Ai dính nguỵ quân, nguỵ quyền thì đi học cải tạo.
Một số ít anh chị em gốc ban triết Văn khoa (cũ) may mắn được cho tiếp
tục dạy học nhưng với môn dạy khác, bởi song song với việc lập tức dẹp bỏ
ban triết/môn triết (bất kể triết Đông hay triết Tây) đã có ở cấp đại học, chỉ
còn dạy triết học Mác-Lênin, cấp trung học cũng lập tức dẹp bỏ môn triết lớp
12. Hơn thế, hãy quên đi danh xưng “giáo sư”, dù dạy cấp 3 cũng”giáo viên”
thôi nhé.
Cũng nên quên đi cái bằng cử nhân khi xin vào làm công
nhân viên ở hầu hết các cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã. Nếu bạn không
được hân hạnh là ‘lao động trực tiếp’ đầy vinh quang ở công trường,
xưởng sản xuất thì khi được bố trí làm ở văn phòng, bạn chỉ là loại
‘lao động gián tiếp’. Nghĩa là tiêu chuẩn gạo, vải… cùng hàng nhu yếu
phẩm, như đường, xà bông, thuốc lá, dầu hôi… đều thấp, thấp hơn cả tiêu chuẩn
của người lao động phổ thông, làm việc chân tay, không cần học nghề, như
quét dọn, bưng nước, đào đất, bốc vác…
Còn lại thì chúng tôi, dân Văn khoa (cũ) nói chung đều thất
nghiệp, phải làm đủ thứ nghề ngỗng lặt vặt để kiếm sống. Mấy ngày đầu
thì đem sách vở, ly tách, chén dĩa… trong nhà ra lề đường ngồi bán.
Hết đồ đạc để bán thì đi làm rẫy, trồng nấm, nuôi gà vịt, chạy
hàng tạp hóa, đứng chợ trời … Thời kỳ ấy, cả ngày đạp xe đạp long
nhong ngoài đường phố, tôi mới có dịp nhìn thấy Sài Gòn biến dạng nặng
nề, khác hẳn xưa. Không biết ra đường làm những việc gì, nhưng từ
những góc phố, vỉa hè, đến bến xe bus, bến xe lam, người Sài Gòn đi
đi lại lại, hấp tập, vội vã, đăm chiêu… Trong cái hoạt cảnh ảm đạm
diễn ra từ sáng sớm đến tối mịt ấy, mốt thời trang phổ biến cho cả
nam lẫn nữ là nón vải đội đầu, dép lê dưới chân, và một món không
thể thiếu là một cái túi, một cái giỏ xách kè kè bên người. Lục
túi coi thì bên trong chỉ là những món mua-đi-bán-lại: gói thuốc lá
hay cuộn giấy vệ sinh, cái đồng hồ hư hay cuốn sách cũ, hộp thuốc
tây hay chai hoá chất còn ‘đát’…
Sài Gòn biến thành một cái chợ trời rộng mênh mông.
Người ta mua mua, bán bán tất cả mọi thứ vặt vãnh, nhận chút tiền,
hẹn gặp lại, quay đi ngã khác, chạy tiếp… Riêng tôi thì một cách ngoài ý
muốn, được ngừng chạy rong khi đến hạn trình diện học tập cải tạo ở Trảng Lớn,
Tây Ninh.
2.
Năm 76, học tập cải tạo về, tôi đang cùng một anh bạn,
nguyên là tổng thư ký một viện đại học tư của giới Công giáo, làm
‘nghề’ phạc-ma-xiên-à-la-mái-hiên (từ do tôi ‘chế’, nhái tiếng Tây bồi
nghe cho nó… sang xạo ở chợ trời thuốc tây gần chợ Tân Định, có nghĩa:
dược-sĩ-đứng-mái-hiên!) thì ủy ban phường chỗ tôi ở kêu tôi đi làm thủy
lợi dài hạn ở bưng Sáu Xã, huyện Thủ Đức. Thấy cùng đường, tôi bèn đăng
ký đi công trường lao động XHCN do Hội trí thức yêu nước TP.HCM lập ở
Củ Chi. Nghe ” hội trí thức” thì có vẻ… sang hơn cấp phường nhưng cũng
chỉ là đào kênh, đắp đê tối tăm mặt mũi.
Dù sao, đối với tôi, tập phim “tình nguyện đi lao
động” ở cánh đồng bưng quanh năm ngập nước, cách Sài Gòn 55km ấy
cũng có vài cảnh vui vẻ. Tất nhiên, về phần xác thì khó có gì gọi là
phấn khởi – một từ không mới nhưng hay được dùng thời ấy. Sau khi đăng ký làm
việc ở công trường thủy lợi 6 tháng, 1 năm… tùy ý, bạn được ở láng
trại cất bằng tre nứa, xài toàn đèn dầu và nước giếng, cơm canh theo
tiêu chuẩn đạm bạc và lãnh sinh hoạt phí (không phải lương) là 50
đồng/tháng thời chưa đổi tiền lần 2 (năm1978). Riêng lao động nữ được phụ
cấp mấy chục xu cho khoản … vệ sinh trong tháng. Tôi hơi bất mãn và thầm
ganh tị với cánh phụ nữ. Đáng lẽ lao động nam cũng nên có phụ cấp về
khoản… quần xà-lõn, vì cũng chỉ cỡ sau một tháng là quần vải gì cũng
mục rách do ngày ngày phải ngâm mình dưới nước phèn khi đào kênh ngoài bưng.
Có một anh, coi vậy mà vẫn còn khá lạc quan, yêu đời (?), đã nhăn nhó tâm sự:
“Ngâm nước phèn suốt ngày, suốt tháng kiểu này thì ‘đồ đạc’ của mình cũng hư tuốt.
Về phép chủ nhật, tối mình xáp vô, âu yếm bà xả sau cả tuần xa cách thì…, nó cứ
xuôi xị!”.
Còn về phần hồn, phải nói là tôi cũng có được vài niềm vui
nho nhỏ riêng tư khi tình cờ gặp lại vài bạn bè trí thức cũ vào những lúc cùng
ra bưng đắp đê hay trên đường về phép cuối tuần. Vui nhất là gặp lại C.H.K.
Nhà phê bình văn học nổi tiếng này dạy triết ở Nha Trang, sau 30-4 bị đố kỵ
gì đó mà phải nghỉ dạy, trôi dạt vô Sài Gòn, rồi cũng đưa chân lên Củ Chi làm
thủy lợi. Ở một đội khác, lại gặp hai cậu “đàn em” Văn khoa cũ, sau
30-4 chỉ được dạy học thêm ít tháng ở Bến Tre, một vùng thời đó có tiếng
là kỳ thị người trí thức chế độ cũ. C.H.K. cũng nói do ở Nha Trang cũng
khó thở như thế nên anh mới bỏ dạy. Lại gặp Bích D., một phụ nữ
Huế duyên dáng, sau mấy tháng ra hiện trường vùi mình xuống bùn chuyền đất
đắp đê, đã được điều về làm ở tổ bếp và căn-tin. C.H.K.(cũng dân Huế) cho biết
chị chính là Diễm trong Diễm xưa của T.C.S. Chị D. thố lộ mình tình
nguyện lao động và có mang tiếng là kiếm điểm như nhiều người khác cũng
đành, do chị cần có chút ‘thành tích phấn đấu’ dính-bùn-dính-đất mà
kể ra trong đơn bảo lãnh cho chồng, một phó tỉnh trưởng, được xét cho
học tập về sớm sớm chút… Nhân vật Diễm nay rất khả ái và công tác rất
nhiệt tình, như để kiếm phân súc vật về cho vườn ươm cây tràm bông vàng của
công trường, chị đã từng góp bàn tay nõn nà hốt sạch từng bãi phân trâu, bò rải
rác trên con đường tỉnh lộ 7 dẫn vào công trường. Tôi còn phục chị D. hơn qua một
sáng kiến của chị là rủ chúng tôi và mấy nữ tu xin phép ban chỉ huy
công trường mở một lớp Anh văn và Pháp văn. Đêm đêm, dưới ánh đèn dầu ở
chái nhà ăn, một nhóm người hiếu học cùng vài bạn bè còn muốn phục vụ
bằng chính sở học của mình, để cùng nhau học tập, ôn luyện ngoại ngữ…
Có một chuyện là tuy không còn lạc quan, cứ tìm-cách-yêu-đời
như anh bạn bị hư đồ đạc đã kể ở trên, nhưng có lần, khi nhờ ‘có trình độ văn
hóa’ mà được đề bạt từ đội viên lên chức tổ trưởng tổ thủy lợi, tôi cũng thử
lay động, thử thách cái con người yếm thế, thân tâm đều trì trệ, xuống dốc…của
mình một chút xem sao.
Công trường rùm beng mở một đợt thi đắp đê cấp 3.
Ngoài bưng, nước ngập sâu đến thắt lưng, mô hình đê được thấy qua hai
hàng cây cọc tiêu (làm mốc) được cắm song song, ló lên khỏi mặt nước. Đã
suy tính trước nên vào bữa thi, trong tổ gồm 8 người (6 nam, 2 nữ) thì về 2 cô
nữ – thường lãnh phần chuyền đất ngoài đê – vốn yếu sức sẽ ảnh hưởng đến
năng suất chung, tôi cho kiếm chuyện khai bệnh, nghỉ tại trại. Kế đó, tôi
mượn thêm ở kho vài cái len mới, loại xắn đất thật tốt, đóng thêm đinh cho
thật chắc, để đang làm mà gặp chuyện rất hay xảy ra ngoài đồng là gảy len
thì quăng cái gảy, khỏi sửa mất thì giờ, chụp ngay cái khác làm tiếp
ngay… Ở hiện trường, tôi bố trí đội hình là cạnh mỗi hàng cọc tiêu một
cặp 2 người, để cùng lúc xấn đất chìm trong nước ngập, lấy đất được cả
từ hai bên. Người đứng xắn đất (tôi lãnh một vai này với cây len kiểu thuận
theo chân trái của mình) thì đi lui để khỏi cản trở thao tác của người đồng
đội – với tư thế ngồi ngâm mình trong nước, có khi chỉ ló cái đầu – hai cánh
tay mò mẫm trong nước mà nhận và chuyền đi từng cục đất. Người đứng xắn
đất cũng không xắn cục quá lớn, để người kia có thể bê, chuyền trên
tay cho 2 người còn lại đứng đắp từ giữa hình chân đê – bên trong 2 hàng cọc
tiêu – mà đắp ra. Đặc biệt giữa 4 người ngồi chuyền đất/đắp đê, tránh tình trạng
làm cục đất xắn rơi khỏi những cánh tay chuyền mà chìm xuống nước, sẽ mất công
mò tìm và đất cũng dễ rã nát. Phần chân đê phải xong theo chiều ngang rồi
mới lo chiều dài. Mệt thì đổi vai. Con đê cấp 3 dần dần xuất hiện vượt
lên trên mặt nước và từ từ dài ra…
Khi ước lượng – ở trại tôi vẽ hình, làm toán trước –
thấy cái khối hình thang của con đê vừa dài đủ để qui ra thành khoảng 36
mét khối thì dừng, chuyển qua đắp, bồi theo hướng ngược lại. Nhưng tại
sao lại là 36m khối? Theo tình hình chung các nông trường thủy lợi ở các vùng
ngoại thành Sài Gòn thời đó, dân công đi đắp đê ‘xã hội chủ nghĩa’ – nghĩa là
tình nguyện, tự nguyện hay do nghe lời phường hô hào, tuyên truyền mà mau mắn
chấp hành lịnh đi công trường thủy lợi chứ không hề là dân ‘thổ đấu’, tức làm đất,
đắp đê chuyên nghiệp như ở miền Bắc – thì năng suất chung chung của dân ‘nghiệp
dư’này bình quân là 4 – 5m3/người/ngày công lao động (tức 8 giờ – tổng cộng 2
buổi sáng, chiều). Đồng thời tôi chỉ muốn tổ mình phấn đấu chừng đó là được, là
‘đạt chỉ tiêu’ rồi. Đắp, bồi đất pô-luya cho hai mái đê vừa mới tạm phẳng phiu
thì tôi cho một em đội viên vừa chạy vừa lội nước đi báo ngay với cán bộ
nghiệm thu của ban chấm thi đến đo liền, vì để lâu đoạn đê sẽ thấm nước
mà lùn xuống, mất khối lượng…
Kết quả là tổ của tôi được công nhận đã đắp được khúc đê qui
ra là 36m3, chia cho 6 thì mỗi người đạt 6m3.
Sau này, nghe tôi kể lại ‘chiến thuật’ giúp tôi đạt thành
tích trong cuộc thi đắp đê, C.H.K. chỉ cắm cúi hút thuốc lào, không thèm khen
cho một tiếng, gọi là ‘động viên’ cái danh hiệu ghi đậm trên bằng khen cấp
Thành phố “Kiện tướng thuỷ lợi” của tôi, tức một nhà giáo đồng nghiệp, cũng
thư sinh nho nhã như anh, cũng ốm nhom ốm nhách vỉ thiếu ăn như anh. Nhưng anh
cũng gật gù đồng ý với tôi, rằng “Đã không phải là dân chuyên nghiệp tức làm
nghề thổ đấu, chuyên đắp đê mướn mà chỉ là dân nghiệp dư thì không ai một
mình vừa xắn, vừa chuyền, vừa đắp mà đạt được 6 mét khối/ngày
công”, và “Nên biết dùng cái đầu một chút, để nghĩ ra kỹ thuật thích
đáng”.
Cũng sau này, khi nghe C.H.K. từ khâu đắp đê ngòi đồng
được chuyển qua tổ nhà bếp, phụ trách khâu tiếp phẩm (đi chợ mua hàng cho
tổ bếp), rồi nhà cựu nghiên cứu văn học và cựu giáo sư này được tiếng là tính
toán bó rau, hũ mắm, miếng đậu hũ… rất khéo, tiêu chuẩn thời kỳ ăn độn vẫn thế
nhưng bữa cơm trong trại dễ ăn hơn đôi chút, tôi bèn chọc quê: “Theo lô-gíc
thì nhờ cái đầu, ai có năng lực ở khâu nào thì nên ở luôn khâu ấy để
phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Có cần tui hót với trên cho
ông được làm công tác đi chợ, lo tương-cà-mắm-muối suốt phần đời còn lại không
hả?”.
3.
Đến năm 77, chuyển thành nông trường quốc doanh, công
trường thủy lợi XHCN biên chế những sĩ quan cải tạo về (đúng ra là về
hơi sớm do tình nguyện đi sản xuất) và đám thanh niên xung phong mới tăng
cường sau này thành lực lượng lao động dài hạn. Những người trí thức,
tư sản, tu sĩ… đã đủ (hoặc dư) thời hạn đăng ký lao động thì được
động viên ở lại để tiếp tục phục vụ – cũng dài hạn luôn.
Phải nói lời giã biệt thôi! Xem đơn xin nghỉ việc vì
lý do “… muốn trở lại nghề dạy học cũ ở thành phố cho đúng
khả năng”, ông giám đốc nông trường nói thẳng: ” Trở lại nghề cũ?
Nhớ nghề cũ, nhớ quá khứ? Cái kiểu mấy anh cứ vừa đi tới mà vừa
ngoáy lại phía sau, dễ vấp té lắm đó! Có giấy chứng nhận đã tham
gia lao động do nông trường cấp, cũng chưa chắc ở nội thành người ta
tiếp nhận các anh! Mà Củ Chi dù hới xa xôi nhưng cũng thuộc thành phố,
sao mấy anh không ở lại phục vụ, góp phần xây dựng vành đai xanh, sản xuất
nông nghiệp cho thành phố?”.
Tôi thì ít khoái kiểu ví von “vừa đi, vừa ngoáy thì
té” của ông giám đốc nhưng phải công nhận ông không nói xí gạt về tiền
đồ của chúng tôi. Rất nhiều khó khăn, vất vả chạy vạy, nhất là chuyện
cắt hộ khẩu (từ hộ khẩu tập thể công nhân công trường) ở huyện ngọai
thành là Củ Chi chuyển về hộ khẩu gia đình ở một quận nào đó thuộc nội
thành, chúng tôi kẻ trước người sau trở về Sài Gòn. Riêng tôi đến đầu
năm 79 mới về được hẳn, khi được ‘Ban quản lý người học cải tạo về’ chấp nhận
cho tạm trú ở chỗ ở cũ là nhà ba mẹ tôi ở quận Bình Thạnh, vùng Bà Chiểu.
Nhớ nghề dạy học và muốn được làm cái nghề mình rành nhất,
giỏi nhất, tôi và một số anh chị em dân Văn Khoa cũ đã nộp đơn lên Sở giáo
dục. Xem phần tự khai trong đơn, rằng ngay sau 30 tháng 4 đã hăng hái đi lao
động tình nguyện ở công trường thủy lợi, nhưng trước đó, mới tiếp quản thì
“đã bỏ dạy, rời nhiệm sở vì lý do quá khó khăn và sống xa gia đình…”,
có cán bộ ở Sở đã đánh giá đám thầy, cô giáo mất dạy này là “vô tổ
chức” và bác đơn. Còn như tôi, đã hoàn thành nghĩa vụ lao động XHCN nhưng
trước đó đã có thời gian phải đi học tập cải tạo vì là sĩ quan giáo sư văn hóa
vụ, dạy ở trường TSQ Vũng Tàu, thì cán bộ này lạnh lùng nói: “Chưa có chủ
trương cho thầy giáo gốc sĩ quan ngụy được đứng lớp dạy học sinh”.
Lại thất nghiệp. Lại ăn bám cha mẹ, vợ con. Lại
ngày ngày ghé Hội trí thức yêu nước – số 43 Nguyễn Thông, quận 3, tức câu
lạc bộ Phấn Thông Vàng cũ – xem có được giới thiệu chỗ làm chưa. Lại cả
ngày long rong ngoài đường.
Bọn tôi hùn vốn còm cõi mở cà phê vỉa hè, vừa bán vừa
coi chừng bị ‘hốt’ nên tôi đặt tên quán là quán Fất Fơ. Hay ngồi sửa
giày dép, túi xách, đi bỏ mối các loại bánh trái, cà phê trộn bắp,
hàng tạp phẩm… Lại có vài bạn đi bán… nước bọt, tức chạy mánh. Nghe
tuy-dô ở đâu còn vài tấn hóa chất, mấy cái máy phát điện cũ, đồng
hồ ODO còn gõ chuông.v.v.. là lập tức chạy kiếm đầu mua, thỏa thuận
được là ăn hoa hồng môi giới. Một bạn, dân triết Đông, cũng đi bán
nước bọt, nhưng cao trọng và kín đáo. Đó là chấm tử vi, chỉ lấy
thù lao “tượng trưng”. Tôi bái phục vì dần hồi anh trở thành nhân vật
quan trọng, chính danh “thầy”. Nhiều người phải lặn lội tìm đến anh
vì họ cần xem tử vi, coi số mình có đi được không, tức là họ đi
kiếm ở “thầy” một niềm hy vọng – hy vọng đơn xin đi của mình được… số
mạng siêu hình duyệt xét, giải quyết!
Đâu khoảng vào năm 1980, để phục vụ những người còn
phải lui tới, chờ chực được giới thiệu, bố trí cho chỗ làm, Hội trí
thức yêu nước đã tổ chức lập hợp tác xã (giống kiểu hợp tác xã tiêu thụ ở các
phường nhưng qui mô nhỏ hơn) để cung cấp một số mặt hàng lương thực, thực phẩm,
tạp phẩm… cho hội viên (có đóng tiền cổ phần, lập sổ mua hàng) với giá có rẻ
hơn ít, nhiều so với thị trường. Khi đến đây “đi chợ”, mọi người còn có thể bước
sang căn-tin là nơi bán cà phê, đồ giải khát, thức ăn nhẹ – đặc biệt là bia hơi
– với giá chính thức khá rẻ…
Tất nhiên, vẫn đám kỹ sư, kỹ thuật viên là dễ được có
chỗ làm sớm, còn dân có gốc học Văn khoa cũ thì vẫn thường phải chờ dài cổ,
nhất đối với những người như tôi, vốn không có chút vốn liếng, của cải nào nên
trước mắt, chỉ có một con đường duy nhất là tìm chỗ làm – quốc doanh, hợp
doanh, hợp tác xã gì cũng được – để bám vào mà kiếm sống. Cũng tất nhiên,
vẫn còn rất nhiều người ngoài-đường-phố, chỉ tự lo cho mình chứ không
nhờ vả hội hiếc nào tuy khi được rủ đến chơi ở “Căn-tin của Hội Trí”, anh
em đều công nhận bia hơi và mồi nhắm ở căn-tin của Hội trí thức ‘được đấy!’.
Một là căn-tin này bán bia hơi khá thoải mái, không bắt mua kèm mồi, kiểu tiêu
chuẩn “1 dĩa đồ xào/2 lít bia” như ở các cửa hàng ăn uống thương nghiệp quốc
doanh ngoài đường phố; hai là mồi nhắm ở căn-tin giá bán ngang hay rẻ hơn chút
xíu so với các cửa hàng quốc doanh nhưng nhiều món ngon hơn. ăn được hơn.
Thời gian lặng lẽ trôi, đến một ngày tháng nào đó, đối với giới
trí thức cũ, trong đó có đám ban triết Văn khoa tụi tôi, phải nói rằng ở
TpHCM khi đó, một số nhỏ cán bộ lãnh đạo cũng ít nhiều có dần hồi thay đổi
cái nhìn, có phần bớt phân biệt đối xử, bớt đố kỵ lạnh nhạt, nghĩa là có
thoáng hơn. Nhưng uổng thay, khi họ “thay đổi cái nhìn” thì nhiều anh chị
trí thức cũng đã, “thay đổi chỗ ở”, xuống ghe mất rồi!
Riêng về đám VK Triết, ở một cái quán cà phê cóc vỉa hè, nằm
ở đường Nguyễn Thiện Thuật, khu Bàn Cờ mà do thời đó điện thoại di động chưa
có, điện thoại bàn hiếm hoi, hạn chế, chúng tôi đã chọn làm điểm hẹn chung để
hằng ngày dễ tìm gặp nhau hay thông tin liên lạc này nọ, hay chỉ để tán gẫu
chuyện thời thế, thì bạn bè cứ dần hồi “mất tích”…
Nguồn tin ngày càng nghèo nàn, mơ hồ, nên đến đây xin thành
thật cáo lỗi quý độc giả, rằng chuyện kể về đám ban triết Văn khoa (cũ) ra
sao sau ngày 30 tháng 4 đành đứt quãng vậy.
4/2024
Phạm Nga
Theo https://vietvanmoi.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét