Xuân Diệu và dòng chảy thời gian
(Qua hơi thở ca dao và các “ngã rẽ” tâm tình tiêu biểu)
Cuộc đời muôn màu, muôn vẻ mà tình yêu là chất liệu gợi nguồn cảm hứng không bao giờ cạn của con người. Không phải ai cũng làm thơ tình được nhưng không làm thơ tình được thì chẳng thể nói người đó không biết yêu. Một điều chỉ có thể khẳng định là: Người làm thơ tình yêu cuồng nhiệt quả phải có một trái tim yêu. Xuân Diệu là một điển hình trong những trái tim yêu đó.
Người ta biết đến Xuân
Diệu (1916 – 1985) vì những bài thơ tình độc đáo. Thế nhưng Xuân Diệu là một
người tài hoa. Suốt thời gian 1939 đến 1983, chàng tóc quăn này lả lướt ngọn
bút như những nhạc sĩ chơi mười ngón điêu luyện trên phím đàn. Bên cạnh những
tập thơ nổi tiếng như ”Thơ Thơ” (1938), ”Gửi Hương Cho Gió”
(1945), những tập truyện ngắn, bút ký, tiểu luận phê bình của Xuân Diệu xuất
hiện như: ”Phấn thông vàng” (1939), ”Trường ca” (1945),
”Việt Nam ngàn dặm” (1946), ”Ba thi hào dân tộc” (1959), ”Phê
bình giới thiệu thơ” (1960), ”Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, các
nhà thơ cổ điển Việt Nam” (1968 -1981), ”Một Khối Hồng” (1964), ”Thanh
Ca” (1982), ”Tuyển tập thơ”(1983)… đã lần lượt ra đời trong
suốt bốn mươi bốn năm liền. Bên cạnh đó, Xuân Diệu còn xông vào cả lĩnh vực
dịch thuật: “Thi hào Nadim Hitmet” (1962), ”Những nhà thơ
Bungari” (1978-1985)…
Tài hoa như thế nhưng
ít ai gọi chàng trai của Xã Tùng Giản, Tuy Phước, Quy Nhơn gốc Hà Tĩnh này là
nhà văn, nhà phê bình, dịch thuật mà chỉ dùng bốn từ gọn ghẽ: “Nhà thơ Xuân
Diệu“. Thân mật hơn nữa, mọi người quen gọi chàng tóc quăn này là “nhà
thơ tình yêu!” Tình yêu muôn màu như cuộc đời. Không ai yêu ai mà giống
nhau. Vì thế, chàng trai xứ Rùa này yêu đương cũng… khác người.“Cái khác
người” này qua hơi thở ca dao và các “ngã rẽ tâm tình – thơ
bè bạn” tiêu biểu bổ sung vào dòng chảy tình yêu của Trảo Nha – Xuân Diệu với
sáu tính cách.
1. Trong tình yêu,
chàng tóc quăn này thể hiện rất là “đàn ông”:
Trước hết, đó là người
đàn ông chịu thương, chịu khó đầy… nịnh bợ:
Anh ta đã xắn tay áo
xông vào… nhà bếp để nấu nướng mà không biết anh ta nấu cái món gì ngoài cái
món mà ca dao “mớn” dùm:
Canh bầu nấu với cá
trê
Ăn vô cho mát mà mê vợ
già.
Nhưng chàng không thèm
nấu cái món “bình dân học vụ”
này mà nấu món bí mật sau khi “chăm xong cái bếp nhà”:
này mà nấu món bí mật sau khi “chăm xong cái bếp nhà”:
Tâm thành cơm nước dọn
bưng ra
Một tuần mong đến, hôm
nay tiếp
Vào bát cho em vị đậm
đà.
(Đứng chờ em)
Người ta nói: “Vắng
đàn ông quạnh nhà. Vắng đàn bà quạnh bếp” nghe ra… trật lất! Căn nhà Xuân
Diệu nghe ấm cúng hẳn lên bởi chính chủ nhân lao vào bếp. Kẻ nào mà được chàng
“chăm chút” đến như vậy? Ta hãy nghe chàng tự hào:
Đời anh, em đã đi qua
Sáng thơm như một
luồng hoa giữa đời.
(Đời anh em đã đi
qua)
Vợ? Chắc chắn là
không. Người con gái bí ẩn kia mà chàng “một tuần mong đến” mới
hấp dẫn, mới hồi hộp còn bà vợ ở sẳn trong nhà ngày nào mà chả thấy, ngán đến
tận mang tai, gai muốn chết! Rồi kẻ đợi chưa đến, chàng đợi lâu quá nhưng đâu
có dám cáu. Chàng đầu bếp bất đắc dĩ này rất… dễ thương, cam lòng nhẫn nại: “Hãy
đợi thôi, thương em vất vả, anh quên hết”. Không biết chàng có bực
mình vì chờ một phút hơn nghìn thế kỷ mà làm tình, làm tội với ông bà Táo
chăng? Khi nàng đến, ta hãy thử xem nàng là con cái nhà ai? Tiên nữ giáng trần
hay Hằng Nga tái thế mà khiến chàng trai kia thiệt “tỉ mỉ” ngắm nàng trong “Em
làm bếp”:
Trên trán em như gương
Giọt mồ hôi lấm tấm.
Tóc đôi cọng rơm vương
Anh nhìn em thương
lắm.
Tính từ “thương
lắm” biểu hiện mức độ tình cảm thân thiết lắm mới nhìn kỹ như thế chớ
không chàng sẽ bị… chấm rớt cái bịch vì:
Đàn ông gì quá sổ sàng
Mới quen ngó dọc, ngó
ngang hỡi chàng?
Nhưng cô nàng kia có
lẽ… mệt quá, đói quá nên quên phắt… cặp mắt cú vọ xăm xoi mà ngồi vào bàn ăn
ngay:
Bữa ăn thành một hội
vui
Có em gắp với rau thôi
cũng tình.
Cảnh thường cũng hóa
ra xinh
Có em, anh hết ngẫm
mình bơ vơ.
(Đời anh em đã đi
qua )
Bây giờ, vỡ lẽ, cái
“món bí mật” kia, bật mí ra là… “rau” thôi, chớ có mẹ gì đâu! Chàng dạo bản
nhạc mở màn cho nàng nhớ tục ngữ nhân gian: “Đói ăn rau, đau uống thuốc“.
Thế là nàng hoảng quá, thưởng thức tài nấu nướng của chàng thật là đậm đà nên
cũng xắn tay áo, để nguyên cái đầu“vương rơm” mà nhào vô bếp chứ không
dám để chàng trổ tài đâu. (Ăn làm sao nổi, nuốt làm sao trôi!) Chàng lúc này
“chai mặt” nên đâu biết “quê” lại trở nên ngoan ngoãn, nịnh bợ:
Em có tài nấu nướng
Anh có tài ngợi khen.
Thế này gọi là thế “lật
ngược thế cờ” hay thiệt, thấp cơ mà chẳng có hèn. Cả hai cùng có tài: ”Em
có tài nấu nướng. Anh có tài…ngợi khen”. Huề cả làng. Thế là khán giả… vỗ
tay!
Vậy thì cái người đang
cùng chàng quăn làm bếp có phải là Hoàng Cát? Một chàng trai trong muôn ”Tình
trai” của Xuân Diệu? Trong bài ”Xuân Diệu và Huy Cận hai nhà
thơ đồng tình luyến ái” (tienve.org) Minh Nguyệt hé mở ”Hoàng
Cát đi rồi, Xuân Diệu buồn vô cùng. Trong bài ‘Đời anh em đã đi qua’, còn có
một đoạn cuối nói đến nỗi buồn trống vắng người yêu của Xuân Diệu:
Từ đây anh lại trong
đời
Bữa ăn ngồi với một
đôi đũa cầm
Giường kia một bóng
anh nằm
Phòng văn một sách đăm
đăm sớm chiều”.
Ta hãy đồng ý với Minh
Nguyệt ”dù người yêu là con trai thì tình cảm của Xuân Diệu vẫn dạt dào
và nồng cháy. Nếu chúng ta đừng để ý đến chuyện đồng tính luyến ái của
nhà thơ”. Ta hãy cứ xem xét thơ Xuân Diệu trong lớp áo tình yêu đơn
thuần Việt Nam.
Nguyên Sa khác Xuân
Diệu, trong “Áo lụa Hà Đông“, chàng Trần Bích Lan này chân thành
hơn: “Gặp một bữa, anh đã mừng một bữa“. Khỏi bày vẽ ăn uống mất thời
gian quá nhưng nỗi mừng lẹ làng đó chứng tỏ chàng Nguyên chưa thấm cái câu: “Có
thực mới vực được đạo” bằng chàng Xuân!
Thiệt ra, người con
gái mà chàng tóc quăn xứ Rùa thương yêu, săn đón chỉ là con nhà dân giả với “tóc
vương rơm“. Đi làm đồng mới vương rơm chớ đi đâu mà chui vào… đống rạ! Đàn
bà, con gái thì cài bông, cài hoa chứ ai lấy rơm giắt lên tóc mà làm duyên bao
giờ! Con gái nhà quê hiền lành, mộc mạc làm chàng quăn nhớ, đâu như người con
gái… hiền như Masoeur của Nguyễn Tất Nhiên đã làm lòng chàng tan nát:
Em hiền như ma soeur
Vết thương ta bốn mùa.
Trái tim ta làm mủ
Ma soeur này ma soeur.
Có dịu dàng ánh mắt
Có êm đềm cánh môi
Ru ta người bệnh hoạn
Ru ta suốt cuộc đời.
(Ma soeur)
Với mối tình dân giả
của chàng trai tóc quăn, cách hay nhất là khuyên chàng nấu món bình dân này:
Râu tôm nấu với ruột
bầu
Chồng chan, vợ húp gật
đầu khen ngon.
Khi chàng và nàng cưới
nhau, chỉ cần tặng cho họ vài ký tôm (không phải râu) vài trái bầu (không phải
ruột) thế là “nhất cử lưỡng thiện” nhưng nhớ kỹ đừng tặng món quà
đặc biệt này cho “nàng masoeur” của Nguyễn Tất Nhiên mà làm chàng
Nguyễn khốn khổ tập hai với vết thương ”tứ thời khúc” đó!
Công nhận phát “nhất
cử lưỡng thiện” ấy linh nghiệm. Họ đã có… con (chẳng biết công chúa vương
cọng rơm hay hoàng tử nịnh đầm?). Người đàn ông tóc quăn xứ Rùa lại càng da
diết, cưng chìu, nịnh tiếp:
Con giống em, con cũng
giống cha
Giống cái mũi thật thà
thẳng sóng.
Nhìn gần giống trông
xa cũng giống
Cũng mái đầu dợn sóng
Nha Trang.
(Đứa con của tình yêu)
Bài thơ này mà ta nói…
hay thì đúng là “mắt đui”, tâm hồn ”thui chột” nhưng chưa tìm ra cái “mượt mà”
cũng không nói là dở vì cái ý thuộc loại “quỷ quái” lắm. Này nhé, cha ở xứ Rùa
(Quy Nhơn) mà khen mái đầu con“dợn sóng Nha Trang” chứ không phải dợn
sóng Quy Nhơn. Thôi, cho mày giống mẹ mày. Bỏ bốn từ “con cũng giống
cha” ra thì còn “con giống em” (chưa chắc con anh vì anh đâu có… con
được?) và giống thằng cha nó với mái đầu dợn sóng Nha Trang? (đâu phải riêng
anh… quăn!). Trời ơi! Bình thơ như vậy là “đốt nhà” người ta rồi còn gì! Người
cha xứ Rùa này đời nào dám nghĩ vậy vì “khiếp” cái tật của nàng tức “cái
nư khi dỗi“. Thông qua hình ảnh đứa con, kẻ mới lên chức cha này đã “ớn
lạnh” gián tiếp khi nựng cục cưng:
Nhưng con ta nó giống
em hơn
Giống đi đứng, nghĩ
suy, ăn nói.
Duy chẳng giống cái nư
khi dỗi
Khi em hờn trời cũng
phải thua.
Tục ngữ có câu: “Con
gái giống cha, giàu ba họ. Con trai giống mẹ, khó ba đời“. Chắc chàng cũng
biết điều đó nên dù cho “giàu ba họ, khó ba đời” gì cũng lạy trời,
con đừng giống mẹ cái lẫy, cái hờn. Như vậy, chàng Xuân đâu có phải là ”đồng
tình luyến ái”? Chỉ là ước mơ bình thường của một người biết yêu và khát khao
hạnh phúc gia đình. Ta cứ cho, cứ hiểu là như vậy. Trong khi đó, chàng Nguyễn
Tất Nhiên mới lò cò yêu iếc và cũng vẽ rồng, vẽ rắn cho mơ ước của mình:
Ta sẽ là vợ chồng.
Sẽ yêu nhau mãi mãi.
Sẽ se sợi chỉ hồng
Sẽ hát câu ân ái .
Sống trong mái nhà
tranh.
(Hôn nhau lần cuối)
“Sống trong mái nhà
tranh” mà không con thì ôi thôi:
Có chồng mà chẳng có
con
Khác gì hoa nở trên
non một mình.
Thơ năm chữ của Nguyễn
Tất Nhiên mộc mạc như cái tên cúng cơm của chàng và cũng họ hàng chú bác gì với
câu thần chú của dân gian: “Một túp lều tranh, hai trái tim vàng” mà
hai ca sĩ Hùng Cường, Mai Lệ Huyền đã “phát ngôn tình yêu”… nghèo mạt rệp cho
bản nhạc “Túp lều lý tưởng!” vang bóng một thời!
Cái gì trước hôn nhân
cũng “sẽ“… đẹp đẽ, sau hôn nhân cũng “sẽ” nhưng cái “sẽ
bẽ bàng” chống nạnh đứng chờ sau cánh cửa Tân hôn! Bởi vậy mới có câu:
Tình chỉ đẹp khi còn
dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn
câu thề.
Chàng trai tóc quăn
với cái “vẹn câu thề” này ra sao? Chàng không còn là một chàng trai chịu
thương chịu khó, nịnh đầm nữa mà trở thành:
2. Một chàng trai khổ
với tình yêu vì mang nghiệp “đa tình”:
Xét kỹ mà nói: Bao
nhiêu người “còn dang dở” nhưng tình đâu “chỉ đẹp”?. Xuân
Diệu trong “Tình thứ nhất” thố lộ:
Anh chỉ có một tình
yêu thứ nhất
Anh cho em nên anh đã
mất rồi.
Đã nói “thứ nhất”
là phải có thứ tiếp theo nên chàng này yêu cũng… ba xạo! Thật ra, trên đời này,
mỗi một con người nếu chỉ có một“tình thứ nhất” mà không thứ hai thì kẻ
này sẽ… bẻ bút và không… gọi điện thoại nữa vì “nguồn sinh sự” đã cạn kiệt!
Chao! Chuyện ấy không bao giờ xảy ra thế mới “khổ”! Các nhân vật trong kiếm
hiệp của Kim Dung cũng hùng hùng, hổ hổ để rồi gát kiếm, ngửa mặt lên trời mà
than rằng: “Hỡi thế gian, tình là cái chi chi?”. Người thế
gian điên cái đầu. Câu hỏi ấy vẫn nghìn năm treo trước gió!
Bởi vậy, chàng Xuân
tóc quăn (khác ”Xuân tóc đỏ” của Vũ Trọng Phụng) càng yêu lắm
nơi, bồ lắm chỗ chỉ có rước khổ vào thân. Mối tình thứ nhất của chàng ta đã
“không chồng mà có con” sinh sôi nẩy nở, yêu qua hết bài thơ này đến bài thơ
khác; hết tập thơ này đến tập thơ khác. Khiếp! Cho nên, chàng tha hồ rên trong “Em
đọc lại thơ” như một lời trăn trối:
Mai sau dù có bao giờ
Em ngồi đọc lại chùm
thơ đắng này.
Câu đầu thấy “quen
quen”. Chúng hình như giông giống hai câu thơ mà Nguyễn Du đã để Kiều trăn trối
với Thúy Vân:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ
phiếm này.
“E thơ” giống lúc Kiều
năn nỉ Thúy Vân lấy Kim Trọng dùm:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy
rồi hãy thưa.
Nhưng không sao, văn
học có khó tính như bà già góa chồng đi chăng nữa cũng không nỡ bắt lỗi “thơ
vẫn giống thơ, người giống người!”.
Trở lại chữ “Tình” của
Xuân Diệu, chàng vỗ ngực khẳng định chắc nụi với nàng rằng:
Có ai trên trái đất
này
Yêu em sâu thẩm như
ngày anh yêu?
Tan đi, nát lại bao
hồi
Yêu em ai khổ trên đời
bằng anh!
Thằng cha này mới đợi
một chút đã than khổ, mới nấu ăn (luộc rau) có một bữa cũng than khổ “tan
đi nát lại“, mới chịu cái “nư” một chút đã rên khổ! Ngón đòn “gậy
ông đập lưng ông” là một nét đặc sắc của thơ Xuân Diệu… bị chửi cho chừa
trong mảng thơ tình yêu của chàng quắn này. Mình rên “khổ” trong khi mình xuống
bút, giấy trắng mực đen hẳn hoi:
Người ta khổ vì thương
không phải cách
Yêu sai duyên và mến
chẳng nhầm người.
Có kho vàng nhưng tặng
chẳng tùy nơi
Người ta khổ vì xin
không phải chỗ.
Đường êm quá ai đi mà
nhớ ngó
Đến khi hay gai nhọn
đã vào xương.
Vì thả lòng không kềm
chế dây cương
Người ta khổ vì lui
không được nữa.
(Dại khờ)
Toàn bộ thơ tình của
Xuân Diệu nói riêng, thơ Xuân Diệu nói chung, bài thơ “Dại khờ” này
coi như bài thơ “kết luận” được đúc kết từ thực tiễn. Tôi cho đó là bài thơ lý
trí hay nhất của Xuân Diệu về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật.
Cái “khổ” của
chàng Xuân tóc quăn vì ”thương không phải cách” làm “tan
đi, nát lại” là cái khổ ”bụng làm dạ chịu“. Chàng phạm lỗi lầm
cho nên bị nàng cho “de” một bên, bỏ mặc chàng với “lỗi lầm anh trả
bằng đau đớn rồi“. Cho chừa!
Cái yêu “sâu
thẩm” của Xuân Diệu khác cái yêu dịu dàng của Bàng Bá Lân trong “Tình
trong mưa”:
Xa nhìn đắm đuối tìm
trong gió
Chỉ thấy màn mưa nước
ngập đường.
Ta nhìn theo bước đi
run len lén
Bỗng cả lòng yêu náo
nức liền.
Yêu một bước đi “run” trong “màn
mưa nước ngập đường” không rõ mặt thì chắc chàng yêu đương tột đỉnh với ma
men hoặc bậm gan mà yêu đại một… con ma trong mưa. Yêu “ma” khỏi sợ mất bồ!
Tính toán bậc thầy! Còn chàng họ Chế chưa thấy mở đầu dạo nhạc cho chữ yêu đã…
nhào đại vào nàng, quắp nàng cùng bay lên “Ngủ trong sao”:
Đầu gối lên hàng Thất
tinh vừa mọc…
Ta hôn nàng trong bóng
núi mây cao
Ta ôm nàng trong những
nguồn trăng đổ
Ta ghì nàng trong
những suối trăng sao.
Với “hôn”,
“ôm”, “ghì” liên tục của Chế thì thiệt tội nghiệp cho nàng nào vô
phước nếu không “thất đởm kinh hồn” vì lời tỏ tình “lý thuyết đi đôi
với thực hành” có một không hai này. Yêu thì yêu, muốn “làm gì thì
làm”, sao còn la om sòm lên ngu thế, lại vác cả người yêu mà bay lên cao quá lỡ
xảy tay… ôi xương tan! Yêu như chàng, thiếp ngán tới trời! Gãy xương cổ bỏ mẹ!
Xuân Diệu vì yêu mà
rên. Bàng Bá Lân vì yêu mà bất chấp. Chế Lan Viên vì yêu mà bạo. Còn Nguyên Sa,
Nguyễn Bính, Hồ Zếnh, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương…?
Vương Duy (Trung
Quốc), Nguyên Sa và Nguyễn Bính có hai bài thơ cùng tựa đề “Tương tư“.
Tương tư của Vương Duy gởi vào… trái đậu:
Hồng đậu sinh Nam
Quốc,
Xuân lai phát kỷ chi.
Nguyện quân đa thái hiệt,
Thử vật tối tương tư.
Xuân lai phát kỷ chi.
Nguyện quân đa thái hiệt,
Thử vật tối tương tư.
Trương Đình Tín dịch:
Đất Nam, hồng đậu sinh này,
Đến xuân lại nảy một vài nhánh cao.
Xin anh hái thật nhiều vào,
Đậu này giữ lấy nhớ nhau suốt đời.
Đất Nam, hồng đậu sinh này,
Đến xuân lại nảy một vài nhánh cao.
Xin anh hái thật nhiều vào,
Đậu này giữ lấy nhớ nhau suốt đời.
Một kiểu tương tư gắn
liền một loại thực vật đầy đủ chất đạm đáng nhớ một đời trong… bao tử! Ui cha!
Còn Lý Bạch trong ”Trường tương tư”(Thơ Đường tập II, Viện văn học
1962) thì gởi hồn vào tiếng đàn tri âm khúc của nàng một dạo gặp ở Trường An:
Trường tương tư
Tại Trường An…
Tại Trường An…
Thiên trường lộ viễn
hồn phi khổ
Mộng hồn bất đáo quan sơn nan.
Trường tương tư
Tồi tâm can.
Mộng hồn bất đáo quan sơn nan.
Trường tương tư
Tồi tâm can.
Quỳnh Chi phỏng dịch
trên chimviet.free.fr:
Nhớ nhau mãi, ở Trường
An
“Trường Tương tư khúc” tiếng đàn đêm thu.
Bay về tìm gặp người thương
Làm sao về đến bên nàng đêm nay??
Quan san muôn dặm đường
“Trường Tương tư khúc” tiếng đàn đêm thu.
Bay về tìm gặp người thương
Làm sao về đến bên nàng đêm nay??
Quan san muôn dặm đường
Trường tương tư dạ ai hoài canh thâu.
Trong bài thứ hai, Lý
Bạch thay tiếng đàn tương tư bằng dáng hoa u sầu:
Nhật sắc dục tận hoa
hàm yên
Nguyệt minh như tố sầu
bất miên
Triệu sắt sơ đình phượng hoàng trụ
Thục cầm dục tấu uyên ương huyền
Triệu sắt sơ đình phượng hoàng trụ
Thục cầm dục tấu uyên ương huyền
…Tích thời hoành ba
mục
Kim tác lưu lệ tuyền
Bất tín thiếp trường đoạn
Quy lai khán thủ minh kính tiền
Kim tác lưu lệ tuyền
Bất tín thiếp trường đoạn
Quy lai khán thủ minh kính tiền
Quỳnh Chi dịch:
Bóng chiều bảng lảng
hoàng hôn
Trăng lên hoa khép ngậm sương đọng sầu
Trăng soi óng ánh lụa đào
Trăng khuya thao thức dạ sầu ngẩn ngơ
Trăng lên hoa khép ngậm sương đọng sầu
Trăng soi óng ánh lụa đào
Trăng khuya thao thức dạ sầu ngẩn ngơ
…Sầu dâng đòi đoạn tơ
vò
Xa xôi ai có thấu cho chăng là
Khi về đến trước thềm hoa
Gương trong còn bóng dáng hoa u sầu
Xa xôi ai có thấu cho chăng là
Khi về đến trước thềm hoa
Gương trong còn bóng dáng hoa u sầu
Trong ”Truyện Kiều”,
Nguyễn Du đã để cho Kiều với ”dáng hoa u sầu”tương tư Kim Trọng qua
bóng trăng:
Một mình lặng ngắm
bóng nga
Rộn đường gần với nỗi xa, bời bời.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay chăng?
Rộn đường gần với nỗi xa, bời bời.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay chăng?
Đêm khuya ngắt tạnh mù
khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
và Kiều nhớ nhung Thúc Sinh cũng qua ánh trăng:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
và Kiều nhớ nhung Thúc Sinh cũng qua ánh trăng:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Toàn là những tương tư
khóc gió than mây gọi hồn tri kỷ cả! Tuyệt vời thay! Thế nhưng khi trăng bị mây
che khuất hay khuyết rồi mất hút bên rèm, lúc ấy, ai có còn tương tư ai qua…
bóng đêm? Sự tương tư của người xưa ẩn nấp vào một điểm tựa và khi điểm tựa đổ
thì trạng thái tinh thần cũng tiêu! Ta hãy coi thử người thời nay tương tư có
khác người xưa không?
Hàn Mặc Tử trong ”Trường
tương tư” là một tương tư huyền hoặc như khói như sương, âm u đầy
nhang khói:
Một mối tình nức nở
giữa âm u,
Một hồn đau rã lần theo hương khói,
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi,
Một lời run hoi hóp giữa không trung,
Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng,
Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn.
Một hồn đau rã lần theo hương khói,
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi,
Một lời run hoi hóp giữa không trung,
Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng,
Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn.
Đấy là tất cả người
anh tiêu tán,
Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ,
Cùng tình em tha thiết như văn thơ,
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế.
Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ,
Cùng tình em tha thiết như văn thơ,
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế.
Tương tư trong “hương
khói” với “vũng máu đào” như Hàn thì chắc chắn tình yêu nhang khói
“cõi trên” thế kia trước sau gì cũng tan vào trăng với gió! Buồn thật nhưng
chẳng chút gì của cái gọi là… thất tình trong thơ Hàn!
Nguyên Sa trong “Tương
tư” yêu em trong lớp áo mây:
Có phải em mang trên
áo bay
Hai phần gió thổi, một
phần mây
Hay là em gói mây
trong áo
Rồi thở cho làn áo
trắng bay?
Có phải mùa xuân sắp
sửa về
Hay là gió lạnh lúc
đêm khuya
Hay là em chọn sai màu
áo
Ðể nắng thu vàng giữa
lối đi?
đến nổi… mờ con mắt:
Cho nên đôi mắt mờ hư
ảnh
Cả bốn chân trời chỉ
có em.
Cái dạng chập chờ,
chập choạng “mờ hư ảnh” này nguy quá lỡ mà…“nhìn gà hóa cuốc” vợ
người tưởng vợ mình, dễ ăn bợp tai. Trời bao la quá, để chắc ăn nên chàng Sa
(Satăng) mới lấy “đinh ba” hô “biến” thành bốn cái cọc đóng giăng nàng lại cho
khỏi lộn. Nàng tự do bay nhảy nhưng chỉ trong “bốn chân trời” đó
thôi (bốn chân… gường thì nàng “cũng liều một thác cho xong“!).
Nguyễn Bính yêu khác
Nguyên Sa, khác hết, tình yêu đến với chàng là cái bệnh:
Gió mưa là bệnh của
trời
Tương tư là bệnh của
tôi yêu nàng.
Tương tư thức mấy đêm
rồi
Biết cho ai hỏi ai người biết cho,
Bệnh hết trơn vì tương tư? Thiệt ra, có “ấm đầu sổ mũi” gì đâu! Chứng “kinh niên” này của Nguyễn Bính, Đông y, Tây y bó tay. Huê Đà tái thế cũng đầu hàng. Thằng cha này khôn ngoan quá, “sỏ lá” quá nhưng ai cũng nhìn vào, nghe mát lỗ tai cho rằng chàng hiền lành nên yêu chơn chất. Lầm! Này nhé: Dám cả gan cho rằng: ”Trời mắc bệnh mưa gió. Tôi mắc bệnh tương tư yêu nàng”. Thế là “nhất trời, nhì… tôi” rồi còn gì! Mưa (mát mẻ, ướt át). Gió (mát mẻ, vỗ về). Tổng hợp lại: Ta đem cái ướt át, mát mẻ vỗ về này để yêu em. Em đồng ý không? Trời bệnh… mát mẻ, ướt át. Tôi yêu ướt át, mát mẻ. Té ra hai… thằng này… khỏe re mà dám nói bệnh hoạn! (Trời ạ! Nếu có sai thiên lôi thì sai Nguyễn Bính này vác cái búa “Tương tư” giáng xuống là con nguyện chết… ướt trên tay của chàng, ngu gì làm con bướm chết khô!). Ai cũng cho Nguyễn Bính “chân quê” từ xưa đến nay, trật hết trơn!
Biết cho ai hỏi ai người biết cho,
Bệnh hết trơn vì tương tư? Thiệt ra, có “ấm đầu sổ mũi” gì đâu! Chứng “kinh niên” này của Nguyễn Bính, Đông y, Tây y bó tay. Huê Đà tái thế cũng đầu hàng. Thằng cha này khôn ngoan quá, “sỏ lá” quá nhưng ai cũng nhìn vào, nghe mát lỗ tai cho rằng chàng hiền lành nên yêu chơn chất. Lầm! Này nhé: Dám cả gan cho rằng: ”Trời mắc bệnh mưa gió. Tôi mắc bệnh tương tư yêu nàng”. Thế là “nhất trời, nhì… tôi” rồi còn gì! Mưa (mát mẻ, ướt át). Gió (mát mẻ, vỗ về). Tổng hợp lại: Ta đem cái ướt át, mát mẻ vỗ về này để yêu em. Em đồng ý không? Trời bệnh… mát mẻ, ướt át. Tôi yêu ướt át, mát mẻ. Té ra hai… thằng này… khỏe re mà dám nói bệnh hoạn! (Trời ạ! Nếu có sai thiên lôi thì sai Nguyễn Bính này vác cái búa “Tương tư” giáng xuống là con nguyện chết… ướt trên tay của chàng, ngu gì làm con bướm chết khô!). Ai cũng cho Nguyễn Bính “chân quê” từ xưa đến nay, trật hết trơn!
Trên là “trời”, dưới
là “tôi”, vốn dĩ “hai ta” đã hài hòa giữa đất trời và con người. Cô nàng của Hỗ
Dzếnh thật cũng “gan dạ” lắm dù chỉ “be bé” thôi:
Mày ai bán nguyệt,
người ai nhỏ
Em ạ! Yêu nhau… chết
cũng đành.
(Xuân ý)
Chàng Hồ này quả thật
cũng loại “hồ ly tinh”. Ai lại “yêu nhau” mà… quăng…”trái lựu đạn”
vào tình yêu bao giờ? Chết thì chết một mình đi, sao lại rủ người yêu cùng chết
chung! Người ta đẹp như… Thúy Vân… trăng rằm bị xẻ nửa (bán nguyệt),
người ta chuẩn bị đóng phim “con… cây” (người ai nhỏ) vậy mà rủ đi
thăm… ông nội sớm vậy! Ác!
Nàng của Vũ Hoàng
Chương trong “Say” khác nàng “nư” của Diệu, chẳng phải
nàng “masoeur” của Sa, không giống “Cô hàng xóm” của
Bính, xa lạ với nàng “cây” của Dzếnh:
Em ơi lửa tắt bình khô
rượu
Đời vắng em rồi say
với ai?
Nàng dòng dõi… Lưu
linh chớ còn ai nữa! Khá khen cho họ Vũ, nửa say, nửa tỉnh trong tình yêu làm
người ta không biết đâu là thật, đâu là giả? Hết rượu, hết say. Vắng em, ta lăn
quay. Ta ôm cái bình rượu mà không có linh hồn em trong đó để làm gì? Tử Kỳ đập
đàn vì không có Bán Nha. Nay ta… đập quách cái “bình khô rượu” này
vì thiếu nàng! Chậc! Vì sao người ta yêu mà khổ, mà tương tư mà sầu muộn chớ?
Cũng bởi một chữ “đa tình” mà ra cả. ”Đa tình tự cổ nan di hận” là
thế!
Trở lại với Xuân Diệu,
chàng thanh niên trong “đa tình” đã tự viết “sơ yếu lý lịch” trích
ngang:
Tôi biết yêu từ khi
chưa có tuổi
Lúc chưa sinh vơ vẩn
giữa dòng đời
Tôi đã yêu khi đã hết
tuổi rồi.
Không xương vóc chỉ
huyền hồ bóng dáng.
Cách phóng đại của
chàng quăn nói theo nghĩa giang hồ là… “nói dóc”.“Chưa sinh”, “chưa có tuổi”
mà đã “biết yêu” là quỷ quái mà đến khi “hết tuổi rồi”
nghĩa là “lợi đi đàng lợi, răng đi đàng nào?” vẫn còn yêu là ông tổ nội quỷ
quái. Thiệt “gừng càng già càng cay“! Thiệt là “càng già
càng dẻo càng dai” nói theo giang hồ nữa là: “Già không nên…
nết“! Văn chương lại một lần nữa mỉm cười, bỏ qua, lại coi đó là “hình ảnh
mẫu mực”, một ly nước lạnh dưới 0oC tạt vào những cái hồn trơ như đá không biết
chữ yêu thương là gì!
Quang Dũng trong “Trắc
ẩn” đã đứng một bên Xuân Diệu để bổ sung:
Chưa gặp sao đành
thương nhớ nhau
Cái “số mệnh
cơ cầu” đã đưa biết bao bao mối tình trắc trở vào huyền thoại! Dòng ca
dao “nhớ ai như điếu thuốc lào” không phải ngẫu nhiên mà chảy qua
dòng sông đa tình. Nó hiện diện từ khi có con người, có những tương tư khi Ađam
và Eve ăn trái cấm. Khi từ “nhớ”bắt đầu xuất hiện trong dòng ca
dao: “Nhớ ai nhớ mãi thế này, nhớ đêm quên ngủ nhớ ngày quên ăn”
thì trần gian đã loạn lên vì nó. Trong ”Tứ tuyệt tương tư”, Xuân
Diệu như khóc như than với nỗi nhớ xanh núi, tím trời này:
Lâu lắm em ơi, tháng
rưỡi rồi
Sao nhiều xa cách thế, em ơi!
Sớm trông mặt đất thương xanh núi;
Chiều vọng chân mây nhớ tím trời
Sao nhiều xa cách thế, em ơi!
Sớm trông mặt đất thương xanh núi;
Chiều vọng chân mây nhớ tím trời
Bỗng
nhiên trời đất nhớ người yêu
Cây vắng: chim bay, nắng vắng chiều
Nước cũng lơ thơ, bờ líu ríu
Mây chừng ấy đó, gió bao nhiêu…
Cây vắng: chim bay, nắng vắng chiều
Nước cũng lơ thơ, bờ líu ríu
Mây chừng ấy đó, gió bao nhiêu…
Hoa tím tương tư đã nở
đầy
Mời em dạo bước tới vườn đây
Em xem: yêu mến em gieo hạt
Hoa tím tương tư đã nở đầy…
Mời em dạo bước tới vườn đây
Em xem: yêu mến em gieo hạt
Hoa tím tương tư đã nở đầy…
“Tương tư, chiều” của Xuân Diệu không thoát khỏi cái “nhớ” ác
nghiệt này:
Bữa nay lạnh, mặt trời
đi ngủ sớm
Anh nhớ em, em hỡi!
Anh nhớ em…
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ
hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em. Anh nhớ
lắm, em ơi!
Có tất cả 7 từ “anh
nhớ” trong 3 câu thơ tạo thành chùm điệp ngữ gào thét để được bày tỏ tình
yêu! Trời à! Tả cảnh ngụ tình nếu ai làm được không cần dùng động từ, tỉnh từ
trực tiếp tả như trên ắt vượt qua cái câu: “Người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ” của Nguyễn Du. Không nói chữ “buồn” mà người ta đọc cảm giác
“buồn” mới là kỹ xảo của thơ. Xuân Diệu khi làm thơ, viết: “Bữa nay
lạnh, mặt trời đi ngủ sớm” thì cũng chỉ xuất phát từ mạch cảm xúc mà ra
thôi nhưng không ngờ, nó lại trở thành một trong những câu đại diện cho một nét
nghệ thuật độc đáo: Sự cộng hưởng!
Cái lạnh: Tâm hồn
thiếu vắng, cô đơn khi ”mặt trời đi ngủ sớm”. Trừ lúc buồn ngủ,
ngoài ra là cái tâm bệnh “tương tư, chiều buồn”. Nằm ngủ mới thả hồn qua chữ
“nhớ”. Chữ “nhớ” kéo cả họ cả hàng cả hóc cả hang ra.
Trở lại cái nghệ thuật
trên, từ nghĩa thật: Lạnh có nghĩa thời tiết vào mùa đông rồi nên mặt trời lúc
nào cũng lặn sớm hơn mùa hè để chuyển sang sự “cộng hưởng”: Mặt trời bị mây mù
che khuất gợi con người một xúc cảm cho chữ buồn không buông ra được: Không thể
nói: Mặt trời buồn, ngủ sớm! Một câu trên chưa nói tới cách nhân hóa, cách ẩn
dụ đã đủ ý rồi, thêm nhiều điệp từ “anh nhớ” vào và dẫn ra
nhiều cái nhớ quá làm nỗi buồn nhớ bị kéo dài, trải rộng, không cô động nên rất
uổng cho cái ý “Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm“!
Nhưng điều đáng phục ở
đây là chàng Xuân tóc quăn dám yêu, dám nói khác với những “mày râu nhẵn nhụi”
chỉ mới hé chữ “yêu” là sợ tổn thương danh dự, lu mờ công danh, tan tành sự
nghiệp làm gì có chữ “nhớ” quằn quại như Xuân Diệu! Từ xưa đến nay, người ta
nói “cờ bạc là bác thằng bần” chứ có thấy nói “yêu đương là con
đường bần của… các bác” đâu!
Cho nên nói: Một kẻ
chưa sinh như Diệu đã yêu, một người chưa gặp như Quang Dũng đã thương. Cả hai
đồng cao thủ hết. Nâng lên cấp nữa, chàng quăn làm kẻ nhẹ vía sợ le lưỡi:
Kẻ đa tình không cần
đủ thịt da
Khi chết rồi tôi sẽ
yêu ma.
Con người khi vướng vi
rút “đa tình” sao mà dễ sợ, hăng máu quá đến nổi yêu “không
cần đủ thịt da” gì cả. Yêu đến nổi chỉ còn “bộ xương” với cái đầu lâu
biết nói? Eo ơi! Yêu như vậy là quá trời, quá đất! Yêu từ kiếp này qua kiếp
khác làm kẻ yêu hoài không biết chán này, giật mình! Cảnh ma cỏ này sao nghe
rờn rợn, giông giống “trên đường về” của Chế Lan Viên:
Đây những cảnh ngàn
sâu cây lả ngọn
Muôn ma hời sờ soạng
dắt nhau đi.
Thì ra, ma của chàng
Diệu là ma thất tình, ma của chàng Viên là ma mất nước! Ma của Đoàn Phú Tứ chưa
thành hình chỉ vì:
Phấn hương chưa ủ tình
yêu lạnh
Em chết! Trời ơi! Anh
tủi lòng.
(Tủi )
Đinh Hùng trong “Tiễn
em cay đắng” lại “phụ diễn” cho Xuân Diệu:
Ta sẽ chết, sẽ vì em
mà chết
Một chiều nào tắt thở
giữa môi hôn.
Một ông Xuân tóc quăn
nhớ em đến lóc cả thịt da. Một ông Hùng lại bắt chước Nguyễn Tất Nhiên “bởi
vì em mà thiên tài chán sống” để “chết vì em” vì “hôn”. Có
lẽ hôn lâu quá, nàng ú ớ, chàng không nghe nên nàng giở độc chiêu… cắn cho một
phát, chàng… tắt thở! Diễn thơ kiểu này giống bọn học sinh cơm nguội, gà mờ mà
báo chí hay “mượn trò chửi thầy” đây! (mượn trò ngu, chửi thầy
dốt!). Tình là cái chi chi? Đàn ông sao mà yếu xìu, yêu đương búa xua, la lối
om sòm không còn oai phong gì ráo! Ca dao có câu chống lưng hay thế này mà
không chàng nào thuộc lòng để phùng man trợn mắt với cái ”tương tư” với cái
“thất tình”:
Có ai ta cũng thế này
Không ai ta cũng như
rằng có ai.
Có ai nước cũng đứng
bờ
Không ai nước cũng
đứng cơ mực này!
Họ chỉ khư khư ôm lấy
cái:
Trường gian, trường
lộng, bất cộng chi tình
Ai kia hờ hững, riêng
mình tương tư!
Đáng đời!
Người ta nói: “Yêu
nhau lắm, cắn nhau đau”. Xuân Diệu với những “ngã rẽ” là một chứng
minh hùng hồn cho câu tục ngữ “có răng” trên khi yêu đến tột đỉnh!
3. Xuân Diệu với tột
đỉnh tình yêu:
Tình yêu bỗng bị gán
cho cái tội “có răng” với cái răng nanh nhọn quắc! “Cắn” thôi cũng đủ làm người
bị cắn… nhiễm trùng, dở sống dở chết rồi mà Xuân Diệu còn chơi trội hơn… giết
quách!
Anh đã giết em, anh
chôn em vào trái tim
Từ đây, anh không được
yêu em ở trong sự thật.
Tại em cố chấp nên anh
giết em rồi anh chôn vào trái tim anh
Anh đã giết em rồi,
anh vẫn ngày đêm yêu mến.
(Anh đã giết em)
Lời thơ chỉ có bốn
dòng trên mà đã sử dụng “giết” tới ba lần nhưng không thấy nói
đến “hung khí” gây án? Giết người đền mạng còn giết tình đền chi? Muốn “giết”,
trước hết, người ra tay phải ghét, thù, căm, hận trước rồi mới đủ sức mạnh đẩy
đến động cơ! Lại đụng cái mụ ca dao:
Ghét nhau câu câu xấu
bửa ba
Ghét nhau ném đá vỡ
đầu nhau ra.
Kinh khủng mà cũng hú
hồn vì chàng quăn chỉ giỏi “yêu, nhớ” bằng cái mồm thì “giết” cũng chỉ bằng cái
miệng. Không ai giết người mà la làng, báo trước: “Trời ơi tôi muốn giết
người tôi đã yêu” như ca sĩ Trường Vũ gào trên sân khấu? La như thế thì
người sắp bị giết… trốn mất bởi đâu có ngu mà đứng đó cho chúng tới… thịt!
Bài “Anh đã
giết em” của chàng quăn này không thể gọi là thơ được bởi nó như văn xuôi.
Bỏ vào trong văn xuôi cũng chưa chắc nó có “chỗ trọ”! Đọc thơ mà ngứa tay nên
làm dùm chàng quăn đoạn này:
Anh giết em rồi chôn ở
tim
Tìm đâu em nữa để yêu
nhiều.
Vì em cố chấp nên anh
giết
Giết mất em rồi, anh
vẫn yêu.
Ngó… chưa chuẩn lắm
nhưng đảm bảo… lọt tai, mát mắt.
Kiểu yêu và giết của
chàng quăn thiệt quá lắm. Giết thật không nỡ mà để sống thì ngứa gan. Lỗi nàng “cố
chấp” cũng chỉ là “cái nư” của nàng mà chàng từng nói “trời cũng
phải thua”. Yêu mà nóng nảy, chấp nhứt thì cũng giết chết tình yêu. Kẻ
“cố chấp” chính là Xuân Diệu chớ không phải nàng. Trước đó, chàng quăn cũng đã
từng: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào mi”, nên giờ tình lên
đỉnh điểm, ta không lạ gì cái tính đa tình và “đánh võ mồm” của chàng. Chế Lan
Viên cũng… cắn nhưng không thèm cắn cái…”xuân hồng” của chàng quăn mà…
cắn cái… sọ người: “Ta muốn cắn mi ra từng mảnh nhỏ”!
Buồn tình đi cắn… sọ
người có… ê càng, ê que một chút nhưng nhân đạo hơn đi giết người yêu dù dưới
bất cứ hình thức nào, phương tiện nào. Người ta cho Chế Lan Viên làm thơ có chút
trí tuệ coi bộ không sai!
Yêu có “trí tuệ” té ra
cũng không chỉ có một Chế mà Bàng Bá Lân trong:“Chưa bao giờ thương thế“,
tự xét:
Em cắn răng chịu đựng.
Được thể ta lại càng.
Làm em thêm đau khổ
Ôi thương em, thương
em.
Trong “Hối
hận”:
Em được gì kia chứ? Mà
phải chịu đau buồn
Ta được gì kia chứ? Mà
làm em đau thương.
Nếu có ai yêu mà biết
nghĩ vậy cho người mình yêu như chàng Lân thì quả tuyệt cú mèo! Rất tiếc! Với
Xuân Diệu, em “cố chấp” nên ta “giết”quách và nếu nhẹ
hơn, ta “đánh em đau” để “bắt đền sầu anh“.
Còn Nguyễn Bính muôn
đời vẫn khôn ngoan trong cái lớp vở “chân” trong “Chân quê” xuống giọng…
năn nỉ khi em quá quắc:
Nói ra sợ mất lòng em
Giới phụ nữ cũng có
nhiều loại. Loại nghe hù, nghe dọa là sợ toát mồ hôi hột; loại chịu đòn mà vẫn
bám dai như… đĩa; loại “trên đe dưới búa” chẳng nhằm nhò chi ráo
thuộc loại “công phu thượng thừa” nên phải sử dụng chiêu “năn nỉ xuống nước”,
vừa tỏ lòng tôn trọng nàng vừa khẳng định mình. Thế là “nhứt tiễn song
điêu” vừa lòng nàng, mát dạ chàng! Ban giám khảo nhất định trao vương miện
“đối nhân xử thế” cho chàng Nguyễn lập tức!
Sau cái màn yêu “độc
đáo” của các chàng, người ta đang chờ đợi một thứ tình mà người đàn ông trong
đó phải thật hiền lành, phải yêu tha thiết, phải chung tình:
Thương anh chín công
toại, danh thành
Thương anh ăn ở hiền
lành, dễ thương.
Đặc điểm của tột đỉnh
tình yêu là đánh, cắn, giết chỉ là một vế, cái vế thứ hai là sự bộc lộ tình cảm
(chủ yếu) của kẻ làm thơ mà Xuân Diệu đã từng tuyên ngôn:
Có ai trên trái đất
này
Yêu em sâu thẩm như
ngày anh yêu!
Cái “sâu thẩm”
của Xuân Diệu xét kỹ cũng chỉ là của một kẻ “gởi hương cho gió” không
cân đo đong đếm gì được. Có cái “sâu thẩm” khác không bột phát miền mà
âm ỉ, âm ỉ… Đây, một chàng Nguyễn Bính ốm yếu, hiền lành, dễ thương, đau khổ
trong “Cô hàng xóm“:
Đêm qua, nàng đã chết
rồi
Nghẹn ngào tôi khóc
quả tôi yêu nàng.
Bài thơ này nổi tiếng
từ lâu với những câu lục bát muôn đời vẫn ngọt ngào nhưng không phải ai sử đụng
6/8 cũng được như thế cả. Chỉ hai câu trên, chàng Nguyễn tình cờ cho ta hai giả
thuyết:
Một, chàng nghe tin
nàng chết từ “đêm qua” mới hôm nay (từ cách ít nhất nửa thời gian
của ngày) nên “khóc“, chứng tỏ chàng “yêu”nàng!
Hai, chàng hay tin
nàng chết “đêm qua” nhưng đến hôm nay mới có cảm giác từng cấp độ “nghẹn
ngào” (không tin, nín lặng) đến bật ra “khóc” để khẳng định chữ
“yêu”.
Giả thuyết một được
loại trừ vì nó không làm nội dung sâu sắc khi diễn tả nội tâm cực điểm.
Phân tích thơ, bình
thơ, nói chuyện về thơ, ta vẫn không bỏ qua phương pháp loại trừ nhằm mục đích
mang lại cho người đọc nội dung tốt nhất của người làm thơ ngay khi người viết
không chủ ý và không ngờ đến.
Trở lại giả thuyết thứ
hai của Nguyễn Bính từ hai câu thơ trên: Với một người xa lạ, khi ta nghe một
cái tin dữ hoặc tin vui, ta với tình người, ta sẽ thở dài hoặc vui vui ngay
nhưng với một người thân thiết (thân nhất) khi ta nghe tương tự, phản xạ thứ
nhất… không tin liền. Với những vụ sìcangdan thì càng… nửa vui, nửa ngờ. Một
thông tin bất ngờ từ một tin dữ đó sẽ bị não bộ giữ lại kiểm nghiệm rồi phản
hồi.
Trong “Nghe em
vào đại học“, Giang Nam đã để cho nhân vật anh khi được tin vui: “Nửa
tin, nửa ngờ tên lại trùng tên”. Còn với Nguyễn Bính,“cô hàng xóm”
mà chàng thỉnh thoảng “sang chơi thăm nàng” rồi đến mình “chiêm
bao rất nhẹ nhàng” ấy đã từ từ chiếm lấy trái tim chàng dù lúc nàng còn
sống, chàng khó lòng khẳng định. Nói đúng hơn, chàng chưa có dịp khẳng định
tình yêu. Nghe tin nàng chết từ đêm qua, chàng đã khó tiếp nhận rồi. Lúc này,
ta mới thấy thời gian đóng vai trò quyết định là “phương thuốc tiên” để người
ta khẳng định hoặc phủ định một điều gì đó.
Nguyễn Bính qua một
đêm tiếp nhận tin buồn từ lý trí (não bộ) nói rằng: Đó là sự thật thì nội tâm
có phản ứng liền: Nghẹn ngào! Tính từ chỉ mức độ tình cảm dùng
trong câu rất “chuẩn” và không có tính từ nào thế vào câu trên để diễn đạt khá
hơn và theo vần “ngọt” như vậy! (Đau lòng, nát lòng, xé lòng, thét gào… cộng
ghép với “tôi khóc” đưa tới mức độ cảm xúc giảm hết một nửa.)
Khóc nghẹn ngào là
tiếng khóc như thế nào? Khi ta nghe câu:
Con chim nhạn lạc bầy
nhớ bạn
Tiếng nghẹn ngào vàng
cả hoàng hôn.
Khóc nghẹn ngào là
tiếng khóc như thế nào? Khi ta nghe câu:
Con chim nhạn lạc bầy
nhớ bạn
là đã biết rằng con
chim ấy đang nhớ bạn mà khóc, khóc đến nỗi mờ mắt, khóc đến nỗi “vàng
cả hoàng hôn”, nghĩa là khóc hết nổi. Từ “vàng” thay từ “khóc”
ở đây vì từ tiếng ”con chim” chi phối: Con chim la khản cả
giọng, tiếng gào vọng tràn ngập cả bầu trời, buồn bã vì… nhớ bạn. Khóc của
Nguyễn Bính từ “con người” chi phối. Khóc nghẹn ngào là tiếng khóc không phát
ra âm thanh hù hụ như người ta ví ý ”khóc như cha chết, mẹ chết“.
Khóc của chàng Nguyễn là khóc với tiếng nuốt hết vào trong, ít nhiều nước mắt.
Đúng với tâm sinh lý học: Tuyến nước mắt đàn ông ít nhạy hơn tuyến nước mắt của
đàn bà và trái tim người đàn bà yếu đuối hơn đàn ông. Như vậy, sự nghẹn ngào
của Nguyễn Bính cũng khác hẳn tiếng khóc của Giang Nam khi nghe tin ”em tôi” bị
giặc giết, quăng mất xác: ”Đau xé lòng anh chết nửa con người”.
Tiếng khóc của Giang Nam là tiếng khóc không nước mắt vì “đau xé lòng”, lịm
chết nửa người trong đó có một chữ “thù” bên trong nên câu thơ trở nên cứng
cỏi. Giả thuyết được đặt ra:
Một, người làm cách
mạng thì không nên khóc lóc kiểu “nhi nữ thường tình”, kiểu Nguyễn Trãi lẽo đẽo
theo khóc cha Nguyễn Phi Khanh khi bị Trương Phụ bắt giải qua Ải Nam Quan?
Hai, người chết không
phải là “người yêu” thật sự mà chỉ mang một thứ tình “em gái” với quê hương bởi
Giang Nam không khẳng định chữ yêu em mà chỉ ”yêu quê hương” ngay cả hai câu
kết bài thơ “Nghe em vào đại học”:
Nay yêu quê hương vì
trong từng nấm đất
Có một phần xương thịt
của em tôi.
Đi xa hơn chút nữa, bổ
sung cho giả thuyết hai là bài: “Màu tím hoa sim”của Hữu Loan. Hữu
Loan coi người vợ hứa hôn cũng chỉ như người em gái: “Tôi thương nàng như
tình yêu em gái“. Nên khi nghe tin nàng té sông, chết đuối, chàng vệ quốc
quân kia không dùng chữ “yêu” mà chỉ buốt lòng vì:
Giây phút cuối không
được nghe em nói
Không được trông nhau
một lần.
Tình yêu có nặng “tình
em gái” khó có thể nói là một tình yêu “tột đỉnh” của gào như Xuân Diệu, khóc
như Nguyễn Bính, rên như Vũ Hoàng Chương, đau như Hoàng Trúc Ly, kêu như Đinh
Hùng và xót như Đoàn Phú Tứ. Thơ là tiếng lòng (nhưng khi “tiếng
lòng” có sự “chỉ đạo nghệ thuật” có “đường lối nội dung” thì tiếng lòng ấy chỉ
là “tiếng lòng sân khấu”?). Một hình ảnh, chi tiết trang trải trên thơ qua từ
ngữ chọn lọc đều phản ảnh “tiếng lòng” đó. Có những nội
dung không cần nói “hoạch toẹt” vẫn dễ dàng chấp nhận, thậm chí được coi là
nghệ thuật độc đáo.
Đỉnh điểm tình yêu của
Nguyễn Bính là sau tiếng “nghẹn ngào khóc” mới phát hiện, khẳng
định một trăm phần trăm ”quả tôi yêu nàng“. Người đọc chỉ chờ có
thế, thở… hắt ra! Thế là dòng ca dao lên tiếng:
Ai buồn ai khóc thiết
tha
Tôi vui tôi cũng chan
hòa giọt châu!
Hỡi ơi! Thế gian này
còn bao nhiêu người mượn thời gian, mượn bối cảnh mới khẳng định được chữ yêu?
Khi người ta sống nhăn răng thì không “dốc hết tình này ta trả nợ…
nàng” mà yêu cho đến nơi, đến chốn lại hời hợt chờ cho đến khi: “Em
chết, trời ơi!” mới… đòi vuốt mắt, mới nghe tủi lòng! Người ta đã bị
“tình yêu lừa” rồi “đi lừa tình yêu”. Đảo qua, đảo lại, tình yêu là con dao bào
hai lưỡi, là đồng tiền với hai mặt mà khối người gieo xuống “úp hay ngửa”, “lúa
hay bông”?
Đỉnh cao tình yêu của
Xuân Diệu còn là những lời tự kiểm điểm và lời tự tình ngọt ngào, cay đắng bên
cạnh những ngã rẽ khác tương đồng! Tình yêu sợ nhất cái gì? Bị cắn? Bị giết!
Không! Tình yêu sợ nhất là sự “dối trá” mà chàng quăn ngán ngẩm: “Nói
chi nữa tiếng buồn ghê gớm ấy”. Dối trá cũng là tội ác: “Em ác
quá lòng anh như tự xé”. Nàng “ác” vì “nư”
quá, “ăn nói vô duyên quá” (Đơn sơ – Xuân Diệu). Đó
cũng chỉ là một cách đổ thừa khi người đàn ông kiếm chuyện mà thôi để rồi “tự
thú trước bình minh”:
Ngẫm cho kỹ anh là
người bạc bẽo
Yêu em rồi anh đã vội
quên ngay.
Vậy mà mình từng cho
là mình “chỉ có một tình yêu thứ nhất“! Người ta chửi mình “bạc
bẽo” là thường, mình tự cho mình “bạc bẽo” mới đáng cho đi… nhà thương. Kẻ đa
tình như Xuân Diệu, lời thú tội này chỉ là lời tự mãn của kẻ ỷ mình có quá
nhiều tình yêu, có quá nhiều người yêu mà thôi! Nói theo kiếm hiệp của Kim
Dung: ”Nhà ngươi tưởng nhà ngươi là ai đây?”. Yêu mà quên ngay
là kiểu “ăn nóng, uống lạnh” kiểu “cơm nguội đỡ khi đói
lòng“. Bởi vậy, ca dao vẫn thường truyền tụng:
Lưỡi không xương nhiều
điều lắc léo
Miệng không vành méo
mó tứ tung.
Xuân Diệu sẽ cười to
mà thoát nạn vì chàng quăn này có cái miệng với vành môi rất có duyên. Nhưng
chớ vội cười lâu hỡi chàng tóc quăn:
Tóc quăn chải lược đồi
mồi
Chải đứng chải ngồi
quăn vẫn hoàn quăn.
Quăn đi liền “điếm
xảo” đó chàng! Vậy mà cái chàng “dối trá” bạc bẽo này trước khi thành “người
bạc bẽo” là một chàng trai yêu hết ý. Tình yêu tột đỉnh biến chàng trai xứ Rùa
thành… “thầy pháp” hô “biến” tới “biến” lui khi yêu từng cử chỉ của nàng trong “Chén
nước“:
Em cho anh chén nước
Anh biến thành rượu
nho.
Anh lại nâng chén nước
Mời em nhấp môi cho.
Em ơi đừng uống hết
Kẻo say chết bây giờ!
Người trò chuyện thơ
bật nói:
Nếu được say mà chết
bởi vì tình
Em xin nguyện mình…
chơi nguyên thùng nữa!
Mô Phật! “Kỳ phùng
địch thủ, tửu lượng khó lường!”. Nước thành “rượu nho” y
như bà tiên có chiếc đũa thần kỳ gõ vào ly hô “biến”! Uống nước thì không thể
say, chỉ đầy bụnh, không khát thì ai ngu mà uống cho bụng bể! Rượu mới làm say
người. Cái men tình này sao mà đắm đuối và nàng không phải là rượu cũng làm say
chết lòng ta! Thiệt thành giả, giả như thiệt: “Lộng giả thành chơn”
để nói lên lời tình tự hết sức nồng nàn. Bởi“thương ai, thương cả đường đi
lối về” nên chàng quăn “say” nàng khi nấu bếp, “say nàng” khi đưa chén
nước, lại “say” giọng nói rất mến thương của nàng:
Em như suối mát đến
soi gương
Dù ai tốt tiếng như ca
hát
Cũng chẳng bằng em
giọng nói thường.
Rồi chàng quăn này
dùng phép “phóng đại” cho cố để nịnh đầm:
Và khi không nói, em
im lặng
Anh vẫn nghe hay tựa
tiếng đàn.
Hà! Chàng so sánh
giọng của nàng “êm như suối mát” ngay cả những ngôi sao ca nhạc
cũng nghe tiếng nàng mà… chào thua! Thế nhưng giọng em tốt như suối thiệt đó
(suối chảy róc rách cũng còn ồn) hay hơn ca sĩ (ồn gấp trăm bởi ca sĩ phải
luyện tập mỗi ngày). Nhưng em ơi! Em không nói anh đã nghe… hay như tiếng đàn
rồi. Vậy thì lạy trời cho em “không nói”, em “im lặng” cho anh nhờ. “Im
lặng là vàng” đó em! Nhắc nhở khéo quá trời quá đất! Chàng đưa nàng lên tận
đỉnh núi rồi dịu dàng… thả cho nàng rớt bịch xuống chân núi thật… êm ái! Nịnh
nọt là nghề của chàng:
Nói đẩy đưa cho vừa
lòng bạn
Con sông Giang Hà chỗ
cạn chỗ sâu.
Nếu Xuân Diệu lạy cho ”em
im lặng” thì Nguyên Sa trong “tháng sáu trời mưa” cũng lạy quá
chừng:
Tháng sáu trời mưa,
trời mưa không ngớt
Trời không mưa anh cứ
lạy trời mưa.
Té ra hai chàng mong
các nàng “im đi”, “ngủ hết đi” để các nàng khỏi nhiều chuyện mà thôi! Người ta
“Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát
cơm”. Còn Nguyên Sa? Chàng “lạy trời mưa” để nhìn nàng ngủ:
Anh sẽ vuốt tóc em cho
đêm khuya tròn giấc
Sẽ nâng tay cho ngọc
sát vào môi.
(Tháng sáu trời mưa)
Câu thơ với hình ảnh
vuốt tóc thật dễ thương. Con gái ai mà không khoái có người yêu vuốt tóc chứ?
Câu trên như vậy còn câu dưới tối nghĩa quá y như thơ “Bóng chữ”
của Lê Đạt, “Cây Tam cúc” của Hoàng Cầm, hiểu không nổi. Cái gì “ngọc
sát vào môi”?
Với chàng Diệu, tình
yêu tột đỉnh có con ma men làm chàng săn đón, thủ thỉ bên nàng với cây quạt
không chán:
Anh nằm khẽ quạt
Cho gió mát về em
Em ngủ ngon không biết
Nhưng vẫn thở êm đềm
Cho gió mát về em
Em ngủ ngon không biết
Nhưng vẫn thở êm đềm
Anh quạt cho đôi tay
Anh hằng ngày yêu mến
Anh quạt đôi lông mày
Sáu nǎm nay quyến luyến.
Anh hằng ngày yêu mến
Anh quạt đôi lông mày
Sáu nǎm nay quyến luyến.
Bài thơ ”Quạt”
này không ghi thời gian nên làm sao ta có thể… tò mò xem thử người mà chàng
quăn ”sáu năm nay quyến luyến” đây? Yêu gì đến ngần ấy thời
gian mà không gối mỏi chân chùn!
Anh thương khi em ngủ
Anh thương khi em ngủ
Phong thái rất hồn
nhiên.
Em ngủ như trẻ nhỏ
Ngon say một giấc
liền.
Chàng sử dụng luôn
hàng loạt động từ của kẻ làm hoàng tử gát đêm nào “canh, thức, lắng nghe” nàng
ngủ và ao ước:
Anh vô cùng sung sướng
Nếu em mơ thấy anh.
Hình ảnh người con gái
ngủ trong “Ngậm ngùi” của Huy Cận (Phạm Duy phổ nhạc) là đầy
chất thơ hơn hết:
Nắng chia nửa bãi
chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau;
Em ơ!! Hãy ngủ… anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ…
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau;
Em ơ!! Hãy ngủ… anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ…
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…
Nếu Nguyên Sa “vuốt
tóc”, “nâng tay”; Xuân Diệu “canh, thức, lắng nghe” thì
Huy Cận lại… phe phẩy cây quạt mo… ru em! Hình tượng “tựa đầu” vào
tay nghe “trái sầu rụng rơi” là hình tượng đầy chất suy nghĩ. Ngủ ngon
thế sao lại nghe sầu? Tình không đến được mới làm người ta sầu đau. Cái tên
“ngậm ngùi” đã tóm gọn hết cái ý của bài thơ rồi: Huy Cận được yêu mà đau, mà
sầu! Nếu tình không hấp hối, tình không trăn trở, tình không tan vỡ ai đau mà
làm gì! Gỡ không ra cách nên “con nhện” (”nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?”)
xuất hiện với cái ý lòng rối như tơ nhện, rối như bòng bong, rối như canh hẹ!
Hỡi thế gian, tình là cái chi chi? Dân gian nói:
Buồn như tiếng cú ban
đêm
Sầu như tiếng nhạn lạc
bầy kêu sương.
Nghe ra, ca dao đã thê
thiết mà thơ ca cũng da diết vô cùng! Yêu tha thiết nên xa mới nghe đau thương.
Cũng có loại yêu mãnh liệt mà xa dễ dàng nên mới thêm cái câu:
Càng thắm thì lại càng
phai
Thoang thoảng hoa lài,
lại được thơm lâu.
Hình ảnh “người
đàn ông bạc bẽo” mờ đi khi hình ảnh chàng trai yêu với”tột đỉnh nhớ
thương” đã tới:
Áo em để lại dáng hình
Treo lên mắc áo cho
mình thấy thương.
Áo em ngày nhớ đêm
thương
Áo em chín nắng mười
sương anh chờ.
Thành ngữ “một
nắng, hai sương” đi vào dòng lục bát của Xuân Diệu đã thành “chín
nắng, mười sương“, tuyệt cú mèo! “Một nắng hai sương” đã quá
khổ rồi mà chàng chơi luôn “chín, mười” nữa nghe ra chàng quả là
người nặng tình với “cây đa bến cũ con đò… khác xưa“! Không gian
(thương, chờ) vô bờ, thời gian (đêm, ngày) vô tận qua cái hoán dụ (áo em là em)
như một kiểu “xếp tàn y tìm chút hương thừa” sao mà da diết! Thôi
đi! Còn không chịu lôi áo xuống ôm mà ngủ, treo làm gì? Nào ai”trách người
quân tử đa tình” mà sợ quê?
Cũng chiếc áo để lại
“dáng hình” ấy mà Nguyên Sa trong “Tuổi mười ba” đã ngơ ngẫn:
Áo nàng vàng, tôi về
yêu hoa cúc
Áo nàng xanh, tôi mến
lá sân trường.
Khác nào mang bệnh
“tương tư màu sắc”! Hoa cúc thường nở vào mùa thu. Lá xanh chỉ có ở mùa xuân.
Tình yêu của chàng gián tiếp qua bông hoa cúc – lá sân trường – là tình yêu học
trò hồn nhiên có chiều dài theo năm tháng theo mùa mà lớn lên. Tuổi mười ba như
vậy là quỷ lắm. Không có ai chơi khăm, xúi nàng của Nguyên Sa mặc áo màu… đen
chắc dám chàng cũng chơi luôn: “Áo nàng đen, anh về yêu… con quạ!!” hay “anh về
yêu quách chú… ngựa ô”!! Còn nếu nàng không mặc áo thì… trời trời… kẻ trò
chuyện sẽ nhảy vào “gỡ rối tơ lòng thòng” của chàng:
Áo nàng đen, anh về
yêu… con quạ
Nàng… không áo, anh về
yêu… Eva.
Không biết từ hồi nào
chú em Sa học cách “nịnh đầm” của ông anh Diệu trong “Áo lụa Hà
Đông” tương thông, tương cảm:
Nắng Sài Gòn anh đi mà
chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa
Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy
vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ
tình lụa trắng.
Bài thơ được phổ nhạc
bởi Ngô Thụy Miên và chiếc áo lụa Hà Đông trở thành biểu tượng cho áo dài của
người phụ nữ Việt Nam làm sây mê cả thế giới. Tài thế!
Với Xuân Diệu, chẳng
thơ mộng như Nguyên Sa yêu sắc màu của áo em mà tình yêu chàng quăn như những
cánh hoa tàn tạ trong sa mạc hoang liêu và chàng si tình này cũng định nghĩa
hai chữ Tình Yêu coi như… mù tịt trong bài ”Yêu”:
Yêu là chết trong lòng
một ít
Vì mấy khi yêu mà đã được yêu.
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu;
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết
Vì mấy khi yêu mà đã được yêu.
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu;
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết
Phút
gần gũi cũng như giờ chia biệt.
Tưởng trǎng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
Yêu, là chết trong lòng một ít.
Tưởng trǎng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
Yêu, là chết trong lòng một ít.
Họ lạc lối giữa u sầu
mù mịt
Những người si theo dõi dấu chân yêu.
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu.
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
Những người si theo dõi dấu chân yêu.
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu.
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
Bài thơ ba khổ vậy mà
chỉ điệp ngữ ”yêu là chết ở trong lòng một ít. Vì mấy khi yêu mà chắc được
yêu” làm thiên hạ… nuốt trọn để phát ra khi bị… thất tình! Xem ra,
chàng quăn cũng là… quân sư trên trận chiến tình yêu tốn nhiều giấy mực mang vào
không được, rứt bỏ chẳng xong! Vậy mà trước đó, chàng còn phơi phới trong ”yêu
mến”:
Một phút gặp thôi là
muôn buổi nhớ
Vài giây trông khơi mối vạn ngày theo
Mộng bay chơi nhằm một buổi trời chiều
Gặp tóc biếc: tưởng sắc ngày xưa nở!
Mới gặp ”một phút”, mới trông ”vài giây” mà đã như… chết trong trận tình. Người ta dùng phương pháp phóng đại để… nói dóc thiệt không sai khi chàng quăn cũng sử dụng chiêu này tung vào khuấy sóng yêu cho thiên hạ… phục chơi! Nhưng hoa nở, hoa tàn ấy mà. Luật tạo hóa có sinh tất có diệt và cuối cùng, những đắm say trong cung trầm tưởng ấy lại là một dấu hỏi to đùng rớt xuống đời ô trọc, không làm sao lý giải cho kiếp đa tình mà chàng quăn đã đầu hàng vô điều kiện trong ”Vì sao?”:
Vài giây trông khơi mối vạn ngày theo
Mộng bay chơi nhằm một buổi trời chiều
Gặp tóc biếc: tưởng sắc ngày xưa nở!
Mới gặp ”một phút”, mới trông ”vài giây” mà đã như… chết trong trận tình. Người ta dùng phương pháp phóng đại để… nói dóc thiệt không sai khi chàng quăn cũng sử dụng chiêu này tung vào khuấy sóng yêu cho thiên hạ… phục chơi! Nhưng hoa nở, hoa tàn ấy mà. Luật tạo hóa có sinh tất có diệt và cuối cùng, những đắm say trong cung trầm tưởng ấy lại là một dấu hỏi to đùng rớt xuống đời ô trọc, không làm sao lý giải cho kiếp đa tình mà chàng quăn đã đầu hàng vô điều kiện trong ”Vì sao?”:
Làm sao cắt nghĩa được
tình yêu!
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu …
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu …
Cô
hãy là nơi mấy khóm dừa
Dầm chân trong nước, đứng say sưa,
Cho tôi là kẻ qua sa mạc
Tạm lánh hè gay; thế cũng vừa
Dầm chân trong nước, đứng say sưa,
Cho tôi là kẻ qua sa mạc
Tạm lánh hè gay; thế cũng vừa
Rồi một ngày mai, tôi
sẽ đi.
Vì sao, ai nỡ hỏi làm chi!
Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá,
Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì.
Vì sao, ai nỡ hỏi làm chi!
Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá,
Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì.
Những “mày thanh,
mắt lá liễu” trong thơ Xuân Diệu qua những từ ám chỉ phái yếu như nàng,
cô thì ta cứ tin rằng ”thái giám Xuân Diệu” thật ra cũng chỉ là tin
đồn nhảm trong muôn vàn tin đồn của ngày ”Cá tháng tư” Việt Nam mà
thôi!
Đa tình, yêu tột đỉnh
của Xuân Diệu kết lại:
Ngươi si muôn kiếp là
hoa núi
Uống nhụy lòng tươi
tặng khách hờ.
(Gởi hương cho gió).
Cùng với những ngã rẽ
khác, thơ tình Xuân Diệu mở ra cho một tư tưởng mà tình yêu cũng rất sợ sau cái
“dối trá”.
4. Xuân Diệu với những
ngã rẽ “ghen”… say đắm!
Tình yêu sợ nhất là
dối trá và ghen.
Ghen của Hoạn Thư
trong Kiều ai cũng biết: “khôn ngoan hết mực, nói năng phải lời” khiến
cho Kiều định đập một trận cho biết tay mà cũng chỉ: “Giơ cao đánh
khẽ”. Đàn bà khôn ngoan cỡ Hoạn Thư hiếm có nên đàn bà “ghen” ác chiến
là nhà tan, cửa nát, dao lam, muối ớt kè kè thấy ghê! Những câu văn nào, hình
tượng nào trong văn học xấu nhất, hạ cấp nhất thậm chí “bịa ra câu chuyện thật
đen”, các bà gom hết… thảy cho tình địch. “Ghen” là chuyện bình thường của đàn
bà vậy mà, đàn ông cũng nhào vô… ghen. Ghen túi bụi có. Ghen ngấm ngầm có. Ghen
trực tiếp, gián tiếp đều có hết. Ghen của đàn ông thường… vô duyên vì không
thèm nghe ai giải thích. Đời thường ghen. Văn thơ lẽ nào không có một khoảng
trời cho cái ghen đó chớ?
Nguyên Sa với những
dòng thơ đầy nốt nhạc gắn với những tên tuổi Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Song
Ngọc… cũng không thoát khỏi cái ghen qua sự cáu kỉnh khi để nàng mặc chiếc áo
dài mượt mà cho thiên hạ chiêm ngưỡng rồi nổi cơn giận:
Em chợt đến, chợt đi,
anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt
nắng chẳng vì đâu.
Nhưng sao đi mà không
bảo gì nhau
Để anh giận, mắt anh
nhìn vụng dại…
Anh sẽ chép thơ trên
thời gian
Lời thơ toàn những
chuyện hờn ghen
(Paris có gì lạ không em)
Giận quá… “mất khôn”. “Chép
thơ trên thời gian” là chép làm sao? Thời gian không mỏi mệt, đi hoài không
bến đỗ y như một thách thức một sự liều mạng đuổi theo thời gian cho tình thơ
kết trái… ghen! Ghen kỳ quặc!
Nguyễn Bính với sức
vóc mảnh giẻ như con gái nhà… tàn mà cũng bày đặt ”ghen”:
Cô nhân tình bé của
tôi ơi
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười.
Những lúc có tôi và mắt chỉ
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười.
Những lúc có tôi và mắt chỉ
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.
Tôi
muốn cô đừng nghĩ đến ai
Đừng hôn dù thấy cánh hoa tươi.
Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ
Đừng tắm chiều nay biển lắm người.
Đừng hôn dù thấy cánh hoa tươi.
Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ
Đừng tắm chiều nay biển lắm người.
…Nghĩa là ghen qúa đấy
mà thôi
Thế nghĩa là yêu qúa mất rồi.
Và nghĩa là cô là tất cả
Cô là tất cả của riêng tôi.
Thế nghĩa là yêu qúa mất rồi.
Và nghĩa là cô là tất cả
Cô là tất cả của riêng tôi.
”Tôi muốn” của
Nguyễn Bính là cái tôi ích kỷ nhưng dễ thương của tình yêu. Nó không giống cái ”tôi
muốn” được hòa mình ”tìm đến thiên nhiên”để được thấy ”tình
yêu ban đầu” như của Lê Hựu Hà bao la, trong sáng đầy nhân bản cho một
kiếp người!
Xuân Diệu với cái ”Ghen
tuông nhìn chạnh gió chen cây. Chim lẻo không im. Liễu cứ gầy” trong ”rạo
rực” lại ra chiêu ghen độc đáo hơn trong “Bên ấy bên này“:
Bởi vì ta có được em
đây
Tay kia sẽ ấp nhiều
tay khác.
Môi ấy vì ai sẽ đượm
màu
Họ sẽ yêu em với cánh
tay
Và em yêu họ đến muôn
ngày.
Người ta thường nói: “Chớ
lấy bụng tiểu nhân để đo lòng quân tử“. Xuân Diệu đâu có “lấy bụng” mà lấy…
cái đầu đầy đặc yêu đương, yêu cả ma khi chết để lú lẩn nghĩ… tầm bậy. Suy diễn
hay gọi là thước phim tự mình viết kịch bản rồi kiêm luôn đạo diễn và bức bách
người ta làm diễn viên! Suy diễn là một phương cách “động não” tốt nhưng diễn
giải lan man, sang tận miền đất cấm, hủy hoại cái chất xám mà thiếu nó, con
người trở thành thời nguyên thủy. Với chàng quăn, chàng ta không“được em đâu”
vì:
Một, nàng không yêu
chàng. Không yêu, ai lại “cho” đâu bao giờ!
Hai, nàng yêu chàng
nhưng ba cái “lễ giáo” phong kiến hoặc vì nàng quá “tự trọng” mà không chịu
“trao ra” trước hôn nhân!
Thế thôi, đơn giản như
vậy mà làm bộ không hiểu còn nghĩ xấu cho nàng. Đại danh từ “họ” số
nhiều, độc địa, phụ trợ cho “nhiều tay khác” hoán dụ, ám chỉ
nàng “tiếp” cả đống thằng đàn ông! Ghen đến nổi ”tầm thường hóa” người yêu!
Hoặc giả “họ yêu em” và “em yêu họ” thì còn “ghen” cái nỗi gì mà không chịu
chúc phúc cho họ! Chung quy lại, ghen bậy chỉ làm người ta đánh mất sự cao
thượng cần có để nuôi dưỡng tình yêu mà thôi!
Xuân Diệu “ghen bậy”
không nói gì, ca dao cũng “ghen hờn” vô duyên nữa:
Đến ta mới biết của ta
Trăm nghìn năm trước
biết là của ai?
Ghen hờn, dằn vặt làm
chi cái quá khứ của người ta mà không chịu đồng ý, chấp nhận cái hiện tại. Đó
chính là sự ích kỷ, nhỏ nhen. Ai ghen, ai dằn vặt mình mà mình làm tình làm tội
người khác chớ! Nàng của Xuân Diệu bị quấy nhiễu, bị xúc phạm quá nên, bực
mình, bực thét rồi chút tình còn lại cũng biến mất:
Không tăng âu yếm
trong câu nói
Trong mắt còn nguyên
vẻ hững hờ.
(Bên ấy bên này)
Trong “muộn
màng“, cái ghen trẻ con biến mất nhường chỗ cho sự năn nỉ:
Anh biết yêu em đã
muộn màng
Nhưng mà ai cưỡng được
tình thương.
Ngậm ngùi tặng trái
tim lưu lạc
Anh chỉ xin về một
chút thương.
Ghen bậy cho đã rồi đi
xin xỏ “một chút thương” là cách nói giảm “rộng rãi”: Đem tặng
nguyên trái tim nặng ít nhất vài trăm grams để xin về “một chút” không biết
nặng bao nhiêu! Không ai đi ban bố tình thương cho một kẻ cầu cạnh vì yêu là sự
đồng hành của hai con tim chư không hề là sự ban phát cho kẻ tiếp, người nhận.
Người đàn bà kiêu ngạo không thích yêu loại đàn ông yếu đuối nhưng cũng không
làm cho người đàn ông kiêu ngạo yêu. Kiêu ngạo quá giết chết tình yêu ngay khi
còn trứng.
Trái tim vô hình nhưng
vẫn biết tự tìm nhau không ai cưỡng ép được. Yêu bao giờ cũng chỉ là mới bắt
đầu nên không thể nói “muộn màng”! Ai biết được chàng quăn này “được yêu” quá
rồi trở nên sinh chuyện tìm cách nói giảm để khiêm tốn nhận cái phần quá nhiều
làm cho người ta nghĩ rằng chàng là một con người dễ mũi lòng, đáng thương biết
chừng nào với “một chút thương” của “kẻ đắp chăn bông, kẻ
lạnh lùng” mà Hồ Xuân Hương mai mỉa chua chát? Đã yêu lỡ như:
Chuồn chuồn mắc phải
nhện vương
Đã trót quấn quít thì
thương cho cùng.
Mấy trăm bài thơ của
Xuân Diệu ít có bài với những lời “khiêm tốn” như vậy. Toàn bộ là giọng thơ yêu
dữ dội, thương mãnh liệt và “ác” cũng khét tiếng ghen cũng ác nhơn với những ý
nghĩ quái dị:
Có khi vò một cành hoa
Bỗng lên hương mới như
là đậm sâu.
Muốn cho em khổ, em
phiền
Đánh em đau để bắt đền
sầu anh.
(Đánh em đau)
Người ta quan niệm: “Cưng
như cưng trứng, hứng như hứng hoa” để nói lên một ý thận trọng pha chút mỉa
mai. Trứng thuộc loại dễ vỡ, hoa dễ bị dập nên mới “cưng” mới “hứng”. Sự so
sánh không có vế so thứ nhất mà chỉ có vế bị so thứ hai. Cưng cái gì? Hứng cái
gì? Ai đi “vò”?
Trở lại nghĩa thật:
Với “hoa”, ta có thể chiêm ngưỡng gần, xa (tùy mắt cận hoặc viễn thị nữa!!).
Xuân Diệu chơi… ngông, nhào tới, bẻ đầu xuống… vò cho khác người ta! Động từ “vò” mắc
dịch này đã nặng nề, còn ác hơn “bóp”, “xé”, “đập”… để làm cho hoa tan tành mà“dậy
hương” cho thi sĩ ác này… ngửi chơi!
Dừng ở đây, ta nói
thêm về cái hoa “lên hương” của Xuân Diệu khi “vò”. Có loại hoa “hữu
xạ tự nhiên hương” như hoa bưởi, hoa trà, hoa sứ, hoa hồng… thơm tự nhiên
còn những hoa khác chỉ để ngắm nhìn hơn để ngửi. Trên thế gian này người có cái
“hữu xạ tự nhiên hương này” chỉ có một Hương Phi đời nhà Thanh (Càn Long
Cao Tông hết lòng sủng ái còn là huyền thoại) mà thôi! Chính vì nàng phi tần có
mùi thơm kia làm cho Kim Dung vội vã đưa nàng vào tình sử trong ”Thư
Kiếm ân cừu lục”.
Như vậy, Xuân Diệu bắt
người yêu “vò nhàu” để dậy hương mà hưởng thụ sao mà ác mà phi lý quá! Nhưng ta
cũng biết chàng quăn này chỉ “võ mồm”. Hoa nào chàng ta chọn để “vò” đây? Hoa
sứ thì mủ nhiều, hoa lài, trà, bưởi nhỏ xíu mắc công vò cả nắm. Chàng này “ăn
nóng, uống lạnh” chỉ có thể chọn hoa hồng. Hồng nào cũng thơm ngào ngạt, càng
nát càng thơm.
Xuân Diệu không sai
nhưng dùng từ “cành hoa” thì phải coi lại. Cành hồng luôn có gai nhọn đó! Xời
ơi! Có điên như Hàn Mặc Tử lúc cuồng cũng đố mà dám vò cành hoa gai! Có cắn sọ
người như Chế Lan Viên khi ngông cũng không dám nhào vô mà cắn cành hoa gai! Xuân
Diệu quả liều mạng cùi. Chưa nói “cành hoa” chắc gì có hoa trên đó? Không có
hoa thì vò cành hoa làm sao mà “lên hương”? Hà! Chàng quăn đã từng ảo thuật cho
chén nước thành rượu nho thì tại sao không “úm ba la” cho cành hoa có hoa chứ
hả?
Lúc này, ta mới thấy:
Ngôn ngữ thơ cần phải chắt lọc. Người làm thơ làm lúc nổi hứng, cảm hứng hay vì
gì đi nữa thơ với chữ chạy ra ào ào nhưng khi đọc lại mới thấy cái “hớ” trong
bài thì đã “bút sa gà chết”. Mình lơ lễnh, người đọc phát hiện ngay. Lẽ ra, câu
thơ phải là:
Có khi vò một đóa hồng
Bỗng lên hương mới
thấy lòng đậm sâu!
Xuân Diệu dùng từ so
sánh “như là” trong “Bỗng lên hương mới như là…”
thật vô nghĩa, câu thơ trên nối từ “hồng” với “bỗng“,
nối“hồng” với“lòng” không bị bắt bẻ về ý (cành hoa có hoa và
cành hoa không có hoa) mà thơ được trùng vần. Cái hờn ghen dẫn ra phi lý bao
điều. Xuân Diệu là bậc cổ thụ trong lĩnh vực yêu bạo, ghen ẩu thì Đinh Hùng là
Xuân Diệu thứ hai là cái cây con mọc bên cha cổ thụ. Đi bên người yêu mà cũng
hờn:
Anh giận bình minh,
ngờ nắng hồng
Hờn ghen bao nhiêu hoa
mùa xuân.
Sánh vai nhưng không
là vợ chồng
Kề môi vẫn không là
tình nhân.
Chàng Đinh nổi chứng:
Oán cả không gian, thù
cả mộng
Ghen cả trời xanh
trong mắt nhau.
Nụ cười rung cánh hoa
hờn giận
Trong mắt em còn bóng
dáng ai?
(Hờn giận)
Giận, ngờ, oán, ghen
cả “trời xanh trong mắt nhau” thì ôi thôi, thằng cha này sắp
sửa… vò đóa hoa thứ hai. Cuộc đời này hễ đi bên nhau mà thành chồng, thành vợ
thì biết bao cuộc hôn nhân “đa hệ” xảy ra, kiện thưa tùm lum, Bao Công tái thế
cũng chào thua huống hồ… Người viết bực mình quá, quát:
Đi bên nhau đâu nhất
thiết phải thành chồng, thành vợ
Thành vợ, thành chồng
đâu bắt buộc phải yêu nhau!
Nhưng “kề môi
vẫn không là tình nhân” thì coi chừng một nụ hôn “hời hợt” vì nếu chỉ “tình
người” không ai đi “kề môi”? Tất nhiên, gã Đinh Hùng vẫn còn có lòng nhân đạo
hơn sư phụ.
Trở lại bài thơ “Đánh
em đau”, chàng sư phụ này không biết mắc cái bệnh “thích hành hạ người
khác” bao giờ mà ra tay “uýnh” người. Đánh đau (bằng cái gì cũng mặc) thì người
bị đánh thấy “đau thí bà nội” thể xác trước rồi mới tính chuyện… trả thù chứ
“khố”, “phiền” cái nỗi gì! Sau khi bị ăn đòn thì người bị đánh chỉ thấy “thù,
ghét, căm, hận, oán” nên coi chừng “dao phay” trên thì bổ hai, dao lam dưới
thì… cắt bỏ thì mình còn mạng trai đâu mà để “bắt đền sầu anh“!
Thơ vẫn là con dao hai
lưỡi. Khi nó sắc, nó cắt ta đau; khi nó cùn, nó làm ta bầm dập. Cho nên, ra đòn
phải tính nước đỡ lỡ bị phản công.Yêu phải phòng hờ… mở đường máu ra cửa sau
mà… tẩu!
Tìm mãi không thấy nhà
thơ, nhà thi sĩ nào “đánh đập”, “vò nhàu” khi yêu như chàng quăn nên phong
quách cho chàng “đăng quang” ở lĩnh vực không đối thư này! Đinh Hùng cũng chỉ
là bậc… đệ tử! Vì sao, chàng hành hạ nàng? Trong bài thơ “Bên ấy, bên này“,
chàng quăn đã nêu lý do:
Lòng ta trống lắm,
lòng ta sụp
Như túp nhà không, bốn
vách xiêu.
Em chẳng cứu dùm, em
bỏ mặc
Mưa đưa ta đến bến đìu
hiu.
Dòng thơ nghe “đắng”
mà “ngọt” lắm với hình ảnh căn nhà không gọi là nhà “chỉ cần chút gió đổ cha mất
rồi!” bởi cái tâm trạng hụt hẩng lắm rồi, suy sụp lắm rồi, chi phối!
Đọc thấy mà thấy đáng
đời cho cái gã đa tình, yêu “ác” này qua loạt từ“chẳng cứu, bỏ mặc“.
Chàng quăn này thả xuống hình ảnh“mưa”, “bến đìu hiu” thật tuyệt
vời! Lẽ ra, tác nhân gây ra sự suy sụp tâm hồn này là “em” nên chỉ cần
xuống từ ”em”: “Em đưa ta đến bến đìu hiu” là bao tội
lỗi một lần nữa khẳng định sự tàn nhẫn của “Em”. Nhưng không: “Biết người rồi
biết cả ta” nên chàng mượn tác nhân thiên nhiên “mưa“: “Mưa
đưa ta đến bến đìu hiu” để khỏi mích lòng em mà thiệt ra, gã quăn đang…
mắng luôn cả tác nhân thiên nhiên cũng hùa vào mà đưa gã đến vực thẳm. Ta ướt
nhẹp. Ta lê bê, lếch bếch như con mèo mắc mưa đi ngoài đường mà không biết đi
đâu! Cô đơn quá (lòng ta trống lắm), cô đơn tợn (lòng ta sụp)!
Hú vía là chàng không
xách theo chai rượu chứ thường những kẻ “thất tình” hay mượn con ma men chỉ lối
soi đường. Nhẹ thì khập khễnh, ngất ngư bò về nhà; nặng thì “phải gió” nhập vào
gan là tiêu diêu miền cực… khổ (tại ác). Uổng quá, chàng không vớt Hằng Nga
dưới sông nên ta không có một Lý Bạch thứ hai!
Cái ghen say đắm của
Xuân Diệu trở thành tiếng thơ rên xiết vì lòng nghi ngờ tột đỉnh. Thơ viết về
chuyện tình phụ, tình dang dở thì lũ khũ và dòng thơ hay nhất, lãng mạn nhất,
hấp dẫn nhất mà cũng xót xa nhất, “cô hồn” nhất vẫn là dòng thơ “người đã phụ
người, ta phụ ai?”. Trong “hẹn hò”, chàng Diệu đã gào lên: “Em
ác quá lòng anh như tự xé” và sự “đồng sàn dị mộng” chắc trong ai không
nhiều thì ít kẻ “nhắm mắt đưa chân lòng tiễn đưa lòng” để rồi:
Cùng giường khác mộng
sao em
Tình ta đau đớn hơn
đem tử hình.
Trăm năm mơn trớn dục
tình
Sao bằng được bóng in
hình trong tim.
(Khác mộng)
Lại đụng đến cái “hồn”
và “xác”: Xác nằm đây, hồn ở nơi đâu? Xưa nay, người ta hay nói về “hồn, xác”
kiểu như Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký xuất hồn đi trộm đào tiên của Tây Vương
Mẫu, “xuất hồn” đi đập phá cây nhân sâm ngàn năm của Trương chơn nhơn vì giận
Thanh Phong, Minh Nguyệt. Giới mê tín đồng bóng thì “kẻ khuất mặt” mượn xác nhập
vào nói dăm điều bốn chuyện rồi… thăng! Nếu người phàm thiếu một trong hai cái
đó (có hồn mà không xác, có xác mà không hồn) thì coi như… tắc thở!
Trở lại bốn câu thơ
của Xuân Diệu “cùng giường khác mộng” mới thiệt quái quăm. Làm sao
chàng ta biết được nội tâm của nàng chôn giấu một bóng hình? Có thể trong mơ,
nàng ngu ngốc ú ớ gọi tên ai đó rồi kể lể nên bị gã chồng nằm bên nghe hết
trọi? Hay là nàng “ngay đơ cán cuốc” thế là thằng đàn ông… cụt hứng mới hầm hầm
lên?
Xác định “em” trong
bài thơ là người yêu, người bị yêu hay là vợ hoặc “người tình không bao giờ
cưới” của chàng quăn? Người yêu thì “cùng giường” không thể “khác
mộng” được rồi vì hai người yêu nhau “hồn, xác” nhập một, vô tội, tha bỗng.
Người “bị” yêu tức không yêu chàng thì “cùng giường” làm sao được? Đây
chỉ có “hiền nội” mà thôi!
Trên thế gian này có
biết bao nhiêu người, bao nhiêu cặp lầm chữ “Yêu” mà lấy, khi lấy rồi mới biết
mình vẫn hụt hẩng cái phần hồn.
Lấy nhau có biết bao
nhiêu lý do mà biện hộ, biện minh cho sự phụ tình và tình phụ! Đâu có gã đàn
ông nào chịu nhận mình là kẻ “bạc bẽo” như Xuân Diệu đâu! Chính cái điểm sáng
“can đảm này”, chàng quăn đã đứng trên bao nhiêu gã đàn ông bạc bẽo! Hiền nội
cùng giường không cùng mộng khiến gã chồng cảm thấy “đau đớn hơn đem tử hình“.
Hình phạt tử hình là mức án cao nhất (chỉ còn tồn tại một vài nước trên thế
giới mà thôi) nhưng gã chồng cảm thấy nhẹ hơn “tội cùng giường”. Có ai trên thế
gian này chịu mức phạt nhẹ tử hình đâu mà toàn bộ chấp nhận hình phạt cao nhất
hơn cả tử hình là “tù chung thân”! Sao mà khôn dữ, khôn dằn! Chữ “đau đớn” của
Xuân tóc quăn bỏ vào đây có chân, chạy mất!
Câu thơ thấy… lạnh da
gà vì gã quăn bê nguyên cái “mơn trớn dục tình” bỏ vào. Động từ
“mạnh” gợi một hình ảnh “bạo”. Ngòi bút mạnh bạo như vậy mà lại xuất phát từ
một con người có trái tim thơ? Uổng quá! Hai từ đó đã giảm mất cái nghĩa “tào
khang”, cái tình chồng vợ mà ít ai chú ý. Dẫu rằng sự “chung đụng” là sự thường
tình nhưng không nên đem những từ ngữ quá bạo gợi một hình ảnh “không mấy lành
mạnh” vào thơ. Chế Lan Viên và Đinh Hùng cũng có viết “mạnh bạo” như vậy. Gần
đây, chủ nghĩa tự nhiên trong thơ đã làm mất nghĩa từ THƠ khiến cho lời văn
hoa, tính hàm xúc của THƠ không còn là THƠ như trước nữa! Đáng tiếc! Mạch thơ
vẫn chảy lúc ri rỉ, lúc ào ạt như suối nhưng thường khi suối chảy mạnh quá làm
cát, bùn, đá sỏi, rong rêu trôi theo một lượt. Thơ cũng vậy, “chủ nghĩa tự
nhiên” quá làm hỏng cái “thơ” của thơ. Con người mạnh dục tình quá cũng làm
chết cảm xúc yêu thương.
Có lẽ người đọc thông
cảm, xót xa cái cảnh “khác mộng” của người con gái trong “Lỡ bước sang ngang”
của Nguyễn Bính hơn. Người ấy mới thật “đau đớn” theo cả hai nghĩa xác và hồn:
Năm xưa đêm ấy giường
này
Nghiến răng nhắm mắt…
châu mày… cực chưa!
Từ “ba chấm…” sao mà
dài dằng dặc! Có người đến cả một đời không thoát khỏi chữ “cực”
với ba chấm… dài như có khóa! Người ta cũng “thương” cái “dị mộng” của T.T.Kh
trong “Hai Sắc Hoa Ti-Gôn” hơn chữ “đau đớn” của Xuân Diệu:
Rồi từng thu chết từng
thu chết
Vẫn giấu trong tim
bóng một người.
Ngữ “từng thu
chết, từng thu chết” đọc lên như một sự rã rời, không thấy chữ “đau
đớn” mà nghe “đau đớn” quá! Còn Xuân Diệu kêu la “đau đớn” nhưng ta “dửng dưng”
không thấy lòng thương cảm chút nào! Ta bắt gặp cái chiêu “gậy ông đập
lưng ông” này của Xuân Diệu trong rất nhiều bài thơ phải chăng cũng là nét
đặc biệt trong thơ mà Xuân Diệu là một điển hình?
Chàng quăn rên mà ta
không xót cho hắn lại đi xót cho kẻ bị lên án “giấu trong tim bóng một
người“, kẻ coi chồng “không bằng được bóng in hình trong
tim”. Ở tâm trạng này, người phụ nữ dễ được thương tâm hơn và yêu dưới
bất cứ hình thức nào, người bị thiệt cả hai mặt xác và hồn bao giờ cũng là phụ
nữ. Mạch cảm xúc này mà người đàn ông dù có tài ba cỡ nào cũng không lột cả hết
cái chiều sâu hun hút đau khổ của cái cảnh “dị mộng cùng giường” đó đâu! Lĩnh
vực này, Xuân Diệu rớt, thử hỏi ai có công lực thâm hậu hơn nhảy vào?
Làm thơ không có hậu
thuẩn thì cũng như lính ra trận không người tiếp lương mà thôi! Câu này chấp
nhận được:
Buồn vì một trái tim
thơ
Phía sau không hậu
phương chờ đợi ta.
“Một trái tim thơ”
oai lắm nhưng vẫn cần nguồn năng lượng từ tình yêu, nhưng “nguồn năng lượng”
không thể cân, đo, đong, đếm này gặp trắc trở không phát sinh nhiệt để cho tua
binh tình yêu quay. Hai câu thơ này bỗng “cứu khổ, cứu nạn” cho chàng đa tình,
ghen quá quắt: “Tim không tình yêu, tim tan vỡ. Thơ không tình, thơ cũng bơ
vơ“. Một chút tình yêu le lói cũng đủ làm người ta ấm áp suốt một đời nhưng
với chàng quăn thì dù chàng có ”rạo rực” trong yêu đương như ”mặt
trời vừa mới cưới trời xanh” ; có hân hoan reo vui trong ”thơ
duyên”:
Chiều mộng hoà thơ
trên nhánh duyên.
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.
Con đường nho nhỏ, gió
xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn.
Lần đầu rung động nỗi thương yêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn.
Lần đầu rung động nỗi thương yêu
…Trông thấy chiều hôm
ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
thì cũng chìm vào trong ”xa cách”:
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
thì cũng chìm vào trong ”xa cách”:
Em vẫn là em; anh vẫn
là anh
Có thể nào qua Vạn lý
trường thành!
Chẳng ai hay biết rằng
vì sao trong tình yêu đang như thơ, như nhạc hòa mộng trên nhánh duyên xanh như
ngọc, đổ đầy ngập cả trời thu trong nắng trở chiều như vậy thì có cái “Vạn
lý trường thành” nào… mắc toi, mắc dịch lù lù hiện ra, chắn mẹ giữa
đường yêu! Tức chết được vì bao nhiêu cái ”rung động nỗi thương yêu” từ
một giây gặp gỡ, tiến tới vội vã thúc giục người yêu: ”Gần thêm nữa! Thế vẫn
còn chưa đủ” hay trong ”giục giã”: ”Mau lên chứ, vội vàng lên đi
chứ” để mà hưởng nụ hoa xuân”hoa anh ơi, một chiều nở trong lòng”…
mất trắng! Môi chàng… chu ra không có môi nàng… chu lại. Tay chàng dang ra… chỉ
ôm lấy bóng vô hình! Lòng anh cưới lòng em nhưng đêm… động phòng, em… “drọt”
mất tiêu! Thế thì lỡ làng! Thế là phủ phàng! “Vạn lý trường thành” chắc
là đây! Tức ói! Ghen nổi lên là phải rồi!
Than ôi! một chữ
”Tình” đủ rồi gắn chi một chữ vừa là động từ, vừa là danh từ “Yêu” vào thành ra
quỷ quái khó lường!
Xin mượn bốn câu trong “Lá
thư ngày trước” của Vũ Hoàng Chương để kết thúc phần “ghen” của Xuân Diệu
với đỉnh điểm “ghen say đắm, thắm cái đau, ghen càng sâu càng đau vì… khác
mộng”:
Yêu sai lỡ để mang sầu
trọn kiếp
Tình mười năm còn lại
chút này thôi.
Lá thư xưa màu mực đã
úa rồi
Duyên hẳn thắm ở
phương trời đâu đó!
Khép lại cái “ghen”
đồng thời mở ra một phần ngã rẽ khác bên cạnh Xuân Diệu với dòng thơ tuyên ngôn
yêu.
5. Xuân Diệu: Tuyên
ngôn - Phát ngôn viên của tình yêu ngọt ngào, cay đắng:
Hình ảnh Eva và Adam
khi ăn trái cấm đã khiến nhân loại đi qua con đường ngọt ngào và cay đắng.
Không có tình yêu, thế giới này vô hồn. Chàng trai Xuân Diệu trong “Bài
thơ tuổi nhỏ” phán một câu xanh rờn khiến bao nhiêu dòng họ trên đất nước
này thuộc lòng dễ hơn học lịch sử:
Làm sao sống được mà
không yêu
Không nhớ không thương
một kẻ nào.
Hãy đốt đời ta trăm
thứ lửa
Cho bừng tia mắt đọ
tia sao!
Có người hay ngứa
miệng sẽ hỏi: Vậy mấy người xuất gia, mấy cha nhà thờ đang sống sờ sờ chắc họ
cũng “đang giấu trong tim bóng một người” để sống mà tu cho… đáng
kiếp vì ”làm sao sống được mà không yêu”?
“Không” loại từ phủ định mà lại để khẳng định trong
đoạn thơ này nặng đô hơn phó từ “chẳng“. Chàng đa tình này nhất
quyết như thế nghĩa là ăn chắc một trăm phần trăm. Tự tin là tính tốt nhưng tự
tin quá hóa… gà mờ! Hai câu đầu phát ra từ “phát thanh viên” Xuân tóc quăn sao
mà nghe dũng mãnh quá, trơn tru, quyến rũ quá! Hai câu sau, chàng năn nỉ người
ta đốt lửa. Lửa gì đây ngoài lửa tình? Bệnh nào thuốc đó, ai đi cạo gió để chữa
bệnh nhức răng? Một thứ lửa còn kêu trời thêm chín mươi chín thứ lửa nữa thiêu
luôn cái đời còn nhúm tro, làm sao còn mạng mà: “Cho bừng tia mắt, đọ
tia sao”.
Câu thơ này thuộc loại
câu “nghênh chiến” giữa con người và thiên nhiên nghe thấy oai phong lắm, dũng
cảm lắm nhưng bình tĩnh, sáng suốt lại rồi lật cái chiêu “gậy ông đập
lưng ông” của chàng quăn xem: “Đốt trăm thứ lửa“, bùm! Tia mắt
bừng lên sáng rực để… đọ tia sao!? Nghe ghê gớm nhưng thử xem “tia sao”
là tia thế nào?
Tia?: Danh từ chỉ kích thước vật thể bé tí tẹo và
mong manh như lưới nhện.
Sao? Tinh thể cách xa trái đất hàng triệu triệu năm
ánh sáng ngay như ngôi sao gần nhất là sao Hôm (sao Mai chỉ là một) khi chết đi
thì nghìn chục nghìn năm sau, người trái đất mới biết là mất. “Sao”
nhìn lên thấy bé như hạt mè, hạt tiêu nên ánh sáng phát ra yếu xìu không đủ soi
cái gì cả. “Sao” đã như vậy mà “tia” nữa nhỏ cỡ
nào? Mắt… lé cũng ”đọ” nổi huống chi mắt thường? Vậy mà cái lão
quắn này mang “trăm thứ lửa” để tấn công vào một cái “tia”
không có chút công suất nào chẳng phải uổng phí và mang tiếng “ỷ đông hiếp yếu”
sao? Có ngon thì lấy “tia mắt” đọ với “tia nắng” thử xem! Kết quả nhanh chóng:
“Tia nắng chẳng lui mà mắt… đui”. Đệ tử Đinh Hùng khôn hơn: “Em hãy đốt
dùm anh trong mắt lửa” coi bộ có lý hơn sư phụ!
Hình tượng trong thơ
buộc phải có nhưng hình tượng phải hợp tình, hợp lý mang sức thuyết phục tự
nhiên. Trái với lẽ trên, hình tượng khập khễnh, so sánh lệch lạc làm “tổn
thương” cái giá trị đáng được có của thơ.
Tài hoa đôi khi cũng
sơ hở – một sơ hở cũng dễ thương nên cũng chỉ “giơ cao, đánh
khẽ”! Với chàng quăn khi thương thì chăm chút, chịu khó; khi yêu thì
ghen dữ tợn, “ác” cũng không nhẹ hơn chữ “ác” bởi đã lỡ phát ngôn cái sống cần
yêu nên được yêu thì quá tham lam, ham quá độ trong”vô biên”:
Trời cao trêu nhử chén
xanh êm
Biển đắng không nguôi
nổi khát thèm.
Những lúc môi ta kề
mộng thắm
Trời ơi, ta muốn uống
hồn em!
Trời cao trêu nhử chén
xanh êm
Biển đắng không nguôi
nổi khát thèm.
Những lúc môi ta kề
mộng thắm
Mãnh liệt quá! Bệnh
yêu điên, yêu ngấu nghiến như đồ ăn, thứ uống kiểu này thì thuốc đắng ngó bộ
chẳng dã tật được chàng này! Trước đó, chàng quăn đã ”hôn” ngấu nghiến
như thế:
Hôn em nước mắt chảy
ròng;
Em ơi! Như ngọn đèn chong vẫn chờ.
Em hôn anh suốt một giờ
Anh hôn em mấy cho vừa lòng đau.
…Hôn em ngàn thuở chưa xuê
Ấp yêu da thịt, gắn kề tâm linh.
Em ơi! Như ngọn đèn chong vẫn chờ.
Em hôn anh suốt một giờ
Anh hôn em mấy cho vừa lòng đau.
…Hôn em ngàn thuở chưa xuê
Ấp yêu da thịt, gắn kề tâm linh.
Yêu giục giã, yêu vội
vàng, hối nhanh lên… cũng chỉ để… hưởng một nụ hôn. Hôn ”ngàn
thuở” nghĩa hôn chung thủy rồi còn gì! Chưa có ai hôn mà lâu lơ, lâu
lắc như cha này! Nghẹt thở đến nơi!
Thiết tưởng, người đời
thường mang nụ hôn ra cười cợt, hời hợt. Đụng chút là hôn. Hôn ban phát. Hôn
thưởng thí. Hôn giao kèo. Hôn lấy le. Hôn xã giao. Hôn bù lỗ. Những nụ hôn này
đến bao giờ mới làm người trong cuộc ”nước mắt chảy ròng”? Nụ hôn
như ”ngọn đèn chông vẫn chờ” sẽ tắt khi cạn dầu nhưng nụ hôn
sẽ là vĩnh viễn khi tim người là ngọn đèn mà tình yêu là loại dầu chong không
bao giờ cạn kiệt. Đem ngọn đèn ví với tình yêu xem ra khập khiễng nhưng bù lại,
trong so sánh khập khiễng là một sự đối lập giữa cái hiện hữu là vật thể nhìn
thấy rõ ràng (đèn) với cái ẩn hình là thứ không nhìn thấy được (tình yêu) để
nói lên một giá trị tình yêu chỉ có khi lòng mình có lửa đèn sáng soi. Ngọn lửa
đèn trong lòng có tình yêu (ngoa dụ) ”hôn ngàn thuở” thì làm
sao mà tắt? Tuyệt!
Nếu cuộc đời có những
ước mơ mà không dễ tới tay mình thì mình lại phải biến mình vào một vật thể
khác để ước mơ tồn tại. Nụ hôn mà chàng quăn ước ngày, mơ đêm đã hóa thành con
sóng biếc:
Anh không xứng là biển xanh
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là
bờ cát trắng.
Một lần khiêm tốn “không
xứng” bằng “bốn mươi lần tự kiêu” để nhỏ nhẹ:
Anh xin làm sóng biếc.
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm.
Hôm êm đềm mãi mãi.
(Biển )
Chàng tham lam này xin
được “làm sóng biếc” tưởng chỉ “hôn” thôi ai dè không dừng lại: “Như
nghiến nát bờ em, tan cả đất trời. Như hôn mãi nghìn năm không thỏa”. ”Biển”
của Xuân Quỳnh với những con sóng tình yêu tìm về bờ cát, êm dịu hơn như một
quy luật tự nhiên bất di, bất dịch:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ.
Sóng hôn bờ dịu dàng của Xuân Quỳnh khác với cái hôn ác nghiệt của Xuân Diệu: Nụ “hôn” đang dịu dàng làm sao! Cái “bờ cát trắng” chưa kịp lim dim cảm nhận, đón lấy hết sự êm ả này thì lại… “Á” mất hết cảm giác vì bỗng đâu ngón “cẩu sực xí quách”… phập! “Cắn” rồi “nghiến nát“! Chao!
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ.
Sóng hôn bờ dịu dàng của Xuân Quỳnh khác với cái hôn ác nghiệt của Xuân Diệu: Nụ “hôn” đang dịu dàng làm sao! Cái “bờ cát trắng” chưa kịp lim dim cảm nhận, đón lấy hết sự êm ả này thì lại… “Á” mất hết cảm giác vì bỗng đâu ngón “cẩu sực xí quách”… phập! “Cắn” rồi “nghiến nát“! Chao!
Dã man dòng họ dã
tràng
Không điên sao nghiến
nát bờ vàng em?
Không có ai yêu mà
điên cắn, điên nghiến như Xuân Diệu và cũng chẳng có ai “hôn” mà hôn nhiều, hôn
đi, hôn lại như thằng cha Xuân Diệu. Có người yêu, yêu kiểu này… khiếp quá đi!
Mình may mắn mà còn không chịu khấn:
Cúi xin đức Phật từ bi
Cho con lấy đại thằng
già chín lăm!
Đêm khuya lỡ bị nó…
quằm
Chỉ bằng cái “lợi” có
nhằm nhò chi!!
“Phụ bản” cho Xuân
Diệu với chiếc hôn “kinh thiên động địa” còn có một Trần Dạ Từ trong “Nụ hôn
đầu”:
Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết
hồn kêu vang.
Trên môi ta, vạn đóa
hồng
Hôn em trời đất một
lòng chứa chan.
Một cái hôn đầu chao!
Thiệt dễ thương quá đổi nhưng cũng thuộc loại tham lắm! Mỗi nụ hôn được ví một
đóa hồng mà chàng Từ này được tới“vạn đóa hồng“. Nói cho cố! Mới ghé môi
hôn thôi mà những con ve đã khiếp hồn còn “hôn vạn cái” nữa cả bầy chồn… lăn
quay, chết!
Trở lại hình tượng
nhân hóa của Xuân Diệu: Chàng là biển, là sóng. Nàng là bờ cát trắng, là bờ để
chàng:
Như hôn mãi ngàn năm
không thỏa
Bởi yêu bờ lắm lắm, em
ơi!
Tạo sao hình tượng đã
có mà không chịu đưa vào câu cho có chủ ngữ mà lại đưa từ so sánh “như”, từ chỉ
mục đích “bởi” vào đầu câu làm câu thơ “không mặn mòi” cho lắm. Sao không chịu
viết:
Sóng hôn mãi ngàn năm không thỏa
Biển yêu bờ lắm lắm, em ơi!
Chủ ngữ Sóng,
Biển chỉ tính chất vĩnh cửu của tự nhiên: Sóng biển, bờ sẽ muôn đời có
nhau. Chúng đã có trước loài người và vẫn có thể tồn tại khi chẳng còn con
người nữa. Tình yêu giữa người và người dẫu có “thương xanh cả trời và
yêu tím cả núi” mà non đã cạn thì đá cũng mòn thôi!
Cái hôn của Xuân Diệu
là cái hôn bất tử nếu đặt hai chủ ngữ Sóng và Biển vào đầu câu
thơ trên. Chúng có giá trị nhất định là tăng thêm mức độ “khẳng định” cảm xúc
vô biên: Hôn mãi ngàn năm! Xuân Diệu “hôn mãi ngàn năm” không thỏa thì
Trịnh Công Sơn cũng “ru mãi ngàn năm” không chán. Hai hình tượng, hai
con người tài hoa một thơ, một nhạc như hai ngã rẽ bổ sung vào dòng sông tình
yêu một hương vị hết sức dịu dàng nhưng không kém phần nồng nàn thiết tha kêu
gọi ai đó có thêm “ngàn năm” nữa thì hãy tự mình tìm một ngã rẽ cho mình vào
dòng thơ mẹ!
Tình yêu là nguồn cảm
hứng vô tận với dòng đắng cay, ngọt ngào chảy vào thơ ca với những lớp phù sa
mà qua sự gạn lọc của thời gian, chúng theo năm tháng sinh sôi, nẩy nở thay thế
cho những gì già cỗi như một quy luật của cuộc đời, của tạo hóa bất di, bất
dịch! Có trùng phùng vẫn phải có biệt ly. Dòng thơ Xuân Diệu trong “Biệt
ly êm ái” mà lại không “êm ái” chút nào:
Chúng tôi ngồi vây phủ
bởi trăng thâu
Sương bám hồn, gió cắn
mặt buồn rầu.
Cứ nhìn nhau rồi lại
vẫn nhìn nhau
Hạnh phúc ngừng giữa
đôi trái tim đau.
Cảnh đêm khuya lơ,
khuya lắc không nỡ rời nhau qua một loạt danh từ tả cảnh “trăng thâu,
sương gió“. Từ “bám” rơi xuống “bám hồn”cho “gió
cắn mặt” không cần thêm từ “buồn rầu” thì chúng cũng tự nói lên
được cái cảm giác lạnh lẽo, buốt giá cố tình bám víu bởi hai tác nhân: Tác nhân
từ bên ngoài là cái lạnh của đất trời. Tác nhân từ bên trong là cái cảnh chia
tay. Chia tay kiểu này sâu lắng quá, đắng lòng quá rồi còn gì! “Không
có nỗi đau nào đau nhất bằng nỗi đau mất mẹ. Không có nỗi buồn nào buồn nhất
bằng buổi chia tay người yêu!”. Nguyễn Ánh 9 đã phải kêu van trong nhạc
khúc “Đêm mai ai đưa em về”:
Thời gian ơi! Xin dừng
lại
Cho đôi tình nhân yêu
trong muộn màng đừng khóc ly tan.
Xuân Diệu kêu không
được nên “cứ nhìn nhau rồi lại nhìn nhau“. Ở ngoài đời, những cặp
tình nhân chia tay trong mưa, trong hoàng hôn, trong nước mắt thì không thiếu
những lời dặn này, dặn nọ: “Đừng hôn ai, đừng đi với ai ngoài anh, em
nhé…”. Bởi một lẽ, họ cũng tin “người ra đi rồi sẽ quay về” và ngày hội ngộ
sẽ có nên cái hạnh phúc vẫn trôi. Ngược lại có những buổi chia tay tình đầu,
tình cuối, tình… mà không có ngày trùng phùng (hiếm hoi) thì sẽ thê thiết hơn
bao giờ hết! Cả hai đều “nghẹn”, chỉ có thể như Xuân Diệu“nhìn nhau rồi lại
vẫn nhìn nhau” rên xiết trong lòng như Thái Can:
Anh biết em đi chẳng
trở về
Dặm ngàn liễu khuất
với sương che.
(Anh biết em đi)
Chia tay trong im lặng
mới là cách chia tay sâu sắc nhất vì nói chi nhiều chỉ “lời nói gió bay“!
Lưu Trọng Lư trong “Một mùa đông”cũng vậy:
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không
cùng.
Thật vậy:
Năm nay xuân còn trở
lại
Người xưa không thấy
tới.
Nên cái chia tay đau
xót “không cùng.”
Nguyên Sa trong “Tiễn
biệt” cũng rất đau trong lặng lẽ:
Tôi muốn hỏi thầm
người rất nhẹ
Tôi đưa người hay tôi
đưa tôi?
Ý “lòng tiễn đưa
lòng”, “tôi đưa tôi” quá hay. Đỗ Phủ trong “Xuân vọng”đã
viết: ”Hận biệt điểu kinh tâm” (Biệt ly tủi hận đến chim cũng
phải đau lòng). Hồ Dzếnh trong “Cảm xúc” cũng không một lời
trong buổi chia tay mà vẫn thấy được lòng nhau:
Tôi biết tình cô u uất
lắm
Xa nhau đành chỉ nhớ
nhau thôi.
Hoàng Trúc Ly với “Xuân
về” mà:
Những người xưa đi rồi
không về nữa
Em bảo anh người đi
không trở lại.
Cho nên, họ đến bên
nhau thật nghẹn ngào:
Ta đến bên nhau sao
chùng bước mỏi
Lời sắp xé môi sao
bỗng nghẹn lời.
Chàng Đinh Hùng – bản
sao của Xuân Diệu trong “Bài hát mùa thu” cũng một trời xa
xót:
Em đi hoài cảm một
mình
Hai lòng riêng để mối
tình cô đơn.
Lạnh lùng chăng gió
tha hương
Em về bên ấy, ai
thương em cùng?
Hai câu cuối chạy qua
mắt, người viết bất giác… chạnh lòng vì sự ân cần dù chỉ trong tâm tưởng “ai
thương em cùng?”. Chua chát quá, đau lòng quá! Cái “sương bám hồn”,
“gió cắn mặt” của Xuân Diệu và cái “hạnh phúc ngừng trôi giữa
đổi trái tim đau” như có thêm dàn hợp xướng cho cuộc chia ly. Bài thơ, có
những câu thơ hay nhất về sự chia ly vẫn là “Tống biệt hành” của
Thâm Tâm:
Đưa người ta không đưa
sang sông,
Sao có tiếng sóng ở
trong lòng.
Bóng chiều không thắm
không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn
trong mắt trong?
Một bài thơ hai mươi
sáu câu, riêng bốn câu thơ đầu này là đủ một bài“Tống biệt hành“! Không
đưa mà có, không thấm mà đầy gói gọn trong hai chữ “bão lòng” không cần thêm
hai mươi hai câu sau. Nó hay ở chỗ: Bối cảnh tiễn đưa (đưa người, đưa ta, đưa
lòng), nội tâm xáo động (tiếng sóng lòng), thời gian chiều buồn (bóng chiều,
vàng vọt) không gian đầy cô đơn (hoàng hôn trong mắt) quyện lại với nhau, không
tháo gỡ nổi!
Làm thơ không nói đau
mà người đọc thấy đau, không nói buồn mà ta cảm nhận buồn, không reo vui mà
người thưởng thức biết vui, không nói bão mà ta nghe có tiếng sóng: Ấy mới là
tuyệt đỉnh của người cầm bút. Cái chất liệu cần cho cái “đỉnh cao xuất thần” ấy
vẫn không xa lạ, chúng ở chung quanh ta thôi mà sự quyết định chính vẫn là sự
cảm thụ, khả năng rung động của người cầm bút.
Trong lĩnh vực chia
tay, Thâm Tâm đã vượt trên hết những bài thơ, những câu thơ tuyệt vời kia.
Ngoài ra, còn có một Duyên Anh rất vững thi pháp này. Sự khen ngợi trên có quá
đáng chăng? Chờ thời gian xem có những “anh hùng xuất thiếu niên”.
Với bài thơ ”Tan
tác” chỉ vỏn vẹn có hai câu này:
Trang tan tác vỡ toang
trên cát ướt
Biển nhạt nhòa từng
đợt sóng khơi xa…
Hình ảnh của cái ý gì
đây? Muôn ngàn ánh trăng trên biển bị sóng dập cho “tan tác” rồi
đẩy vào bờ “cát ướt” (khác với cát khô không được tiếp cận với
nước biển nữa). “Từng đợt sóng” đi xa, xa mãi đến ”nhạt
nhòa”tạo một hình ảnh đối lập. Sự đối lập giữa bờ và sóng, giữa sóng và
trăng, giữa bờ và khơi. Trăng không tròn trên sóng, không nguyên vẹn trên cát“tan
tác, vỡ toang“. “Bờ cát ướt” không bao giờ gặp được “khơi
xa“. Tan tác, nhạt nhòa thêm ba chấm nữa chìm mất tăm một mối tình, một lần
tiễn biệt!
Hai câu thơ, hai người
viết. Họ là ai mà cũng “bóng chim tăm cá”?
Hình ảnh “bóng
chim tăm cá” xưa nay vẫn là nguồn thi liệu cho thơ. Những cánh cò trong gió
cũng bổ sung vào nguồn thi liệu này tồn tại mãi mãi như “phút thanh viên Xuân
Diệu” đã tuyên bố:
Làm sao sống được mà
không yêu
Không nhớ không thương
một kẻ nào.
Vượt lên trên tất cả
là tình yêu vũ trụ bao la, vô tận, vô cùng nhưng buộc kẻ si tình như Xuân Diệu…
lạm phát tình yêu tham lam trong”phải nói”:
Yêu tha thiết, thế vẫn
còn chưa đủ
Phải nói yêu, trăm bận đến nghìn lần.
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái.
Phải nói yêu, trăm bận đến nghìn lần.
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái.
…Yêu tha thiết, thế
vẫn còn chưa đủ.
Thơ chàng Xuân yêu như
thế còn chưa đủ nên phải mượn thêm những tác nhân phụ diễn với những hình ảnh
cũng đầy chim, lắm cò của thời “ngựa non háu đá“. Để trở thành một kẻ
tiêu biểu cuộc sống không thể thiếu bóng dáng tình yêu, chàng Xuân đã phải lặn
lội đi tìm “cái tôi”.
6. Xuân Diệu “đi giữa
thiên nhiên” với những ngã rẽ tâm tình:
Trong “Lưu học sinh”
(đầu đề cũng hóa búa bắt người ta phải đi tìm Lưu là gì? Chỉ là một người đi
học nước ngoài mà thôi) Xuân Diệu đã đi tìm “cái tôi”:
Chàng trai nhỏ nhẹ như
tôi ấy
Đi giữa thiên nhiên để
kiếm mình.
“Nhỏ nhắn” chỉ
vóc dáng, “nhỏ nhẹ” chỉ lời ăn tiếng nói. Thế mà cậu quăn này bỏ
đại vào thơ. Nếu thơ mà làm bây giờ hẳn nhiều tranh cãi. Một con người nhỏ
nhắn, nhỏ bé mà đi giữa thiên nhiên mênh mông mới nổi bật, chứ một kẻ “nhỏ
nhẹ” lọt thỏm vào thiên nhiên đâu gây ấn tượng gì? Người nhỏ nhẹ phải đối
lập với kẻ ăn to nói lớn mới nổi?! Nhưng, nhỏ nhẹ hay nhỏ nhắn cũng chỉ là một
cậu quăn Xuân Diệu mà thôi! Cậu ta “đi giữa thiên nhiên” nghe ngông
nghênh lắm với sự khiêm nhường trong hai từ “nhỏ nhẹ” chỉ phẩm chất con người.
Kiếm chưa ra cái “tôi” nên… chộp quách mấy con cò. Cò bay nhanh quá chộp không
nổi nên… chộp tiếng cò rớt lại, hú hồn, chúng không… ị lên đầu làm… kỷ niệm:
Trong tiếng cò nay
vương nắng trưa
Thu sang chim trắng
vội bay ngừa.
Cổ dài rẽ biếc kêu vô
định
Trở lại bên lòng sợi
gió thưa.
(Lưu học sinh)
Bốn câu này đọc lên
phảng phất hơi thơ Đường luật thất ngôn với lời lẽ và hình ảnh sống động đi một
mạch nghe “xôm” lắm… nhưng (cái thằng phó từ ”nhưng” đáng
ghét) khi “bửa ngang” thì ôi thôi một trời để nói: Này nhé: “tiếng cò”
là âm thanh con cò nhả ra rồi mất tiêu trong không gian đâu có thể nào đi với “vương
nắng trưa” là sắc màu tồn tại? Nên tiếng cò phải được đổi là “sắc cò”
mới đi với “vương nắng”. Một đoạn thơ có hai tiếng cò (tiếng cò, kêu) thì dư
ra. “Chim trắng bay ngừa” là bay làm sao? (Người ta chỉ nói chích
ngừa hay ngừa bệnh, phòng ngừa…). Từ“trưa” đi xuống “ngừa”
nặng nề quá thể, trái với cách bay nhẹ nhàng của chim, của cò. Lại nữa: “Cổ
dài rẽ biếc kêu vô định”? Dùng từ “rẽ biếc” giết mẹ cái ý
thơ hay. “Rẽ biếc” là rẽ làm sao? Vì tiếc ý thơ hay của chàng quăn
nên người trò chuyện thơ mới nhảy vào làm “bác sĩ thẩm mỹ viện” (không phải
thằng cha bác sĩ thuộc loại này lúc nào cũng… may mắn):
Trong sắc
cò nay vương nắng trưa
Thu về, chim trắng vội bay chưa?
Cổ dài đưa
tiếng kêu vô định
Bỏ lại bên mình sợi gió thưa!
Ý thơ của chàng quăn
là một sự khắc khoải, chưa tìm ra một phương hướng nào mà chỉ có một phương
trời vô định qua cái hình ảnh con cò bay trong mùa thu u buồn. Chim, cò không
thiếu nhưng mượn chúng để nói chuyện “tâm tình” thì cũng chẳng dễ dàng. Với
hình ảnh này, các nhà thơ thời Đường quả không hổ danh sư phụ.
Ta thấy cái “Hận
biệt điểu kinh tâm” (Cảm động trước thời thế ấy, hoa rơi nước mắt.
Thương hận cảnh biệt ly kia, lòng chim rung động) trong“Xuân Vọng” của
Đỗ Phủ, cái “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên” (trăng tà tiếng
quạ kêu sương) trong “Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế, cái “Tích
nhàn dĩ thừa hoàng hạc khứ” (hạc vàng ai cưỡi đi đâu) trong“Hoàng hạc
lâu” của Thôi Hiệu là tuyệt đỉnh.
Ta đọc “Nhất
điểu hoa gian minh” (gió xuân đưa tiếng Oanh ca) trong “Xuân Nhật Túy
khởi ngôn chí” của Lý Bạch, câu “Lạc hà dữ cô vụ tề phi… Bội ngọc minh
loan bãi ca vũ” (Nọ bãi le, kìa nơi bến hạc, giờ còn đâu tiếng ngọc
chạm, chuông va) trong “Đằng Vương các tự” của Vương Bột, câu “Vọng
đế xuân tâm, thác Đỗ Quyên” ( vọng đế lòng xuân Vọng đế, Đỗ
Quyên gởi vào” trong “Cầm sắt“) của Lý Thương Ẩn là tuyệt
vời! Thơ của người xưa sao mà ngậm ngùi, mà thoát tục đến thế!
Thời mẹ ru ta trong
nôi cũng từng hát:
Chim chuyền bụi ớt líu
lo
Nhằm thương quân tử ốm
o gầy mòn.
Từ “líu lo”
vui bắt chết mà “thương” cái nỗi gì? Thương hại cho cái người quân
tử không gặp thời, còn vô định như con cò chao cánh trong thu nên“ốm o, gầy
mòn“? Nếu “người quân tử” ấy là chàng Xuân tóc quăn thì cái lý do để
kẻ “quân tử” này ốm o chắc hẳn vì yêu quá trời, quá đất! Bài hát “Trái tim
còn trinh”- nhạc ngoại, đã giải thích dùm:
Này hỡi con tim xinh
xinh
Vì yêu đương quá nên tim
xanh xao, gầy còm.
Trái tim “gầy
còm” chỉ là một ẩn ý thêm cho một “cái tôi” mà Xuân Diệu
đi giữa thiên nhiên tìm kiếm. Tình yêu bất diệt không bao giờ “già” nhưng con
người lại thấy mình già đi. Cái tôi đã lẫn vào cái ta của cuộc đời để níu kéo
một thời tuổi trẻ. Sắc đẹp là niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ và “những dấu chân
chim” trên mặt là nỗi buồn năm tháng của tuổi già, là “niềm đau không thể chôn
giấu” của xuân thì! Chàng quăn trên đường đi tìm “tôi” đã sớm nhận
thấy điều ấy nên trong“ngẩn ngơ“, chàng xuống bút:
Ta tiếc theo sau những
đóa hồng
Những người con gái
sớm phai bông.
Hoa nào nở mà không
tàn nhưng trong tình yêu, càng né đichữ “già” bao nhiêu thì các chàng đỡ bị…
dép guốc bay vô đầu bấy nhiêu. Xuân Diệu buông ra từ “tiếc” với “phai
bông“, Nguyễn Tất Nhiên thành thật một cách “ngu ngơ” thả một chữ “già” xuống
trong “Hai năm tình lận đận”:
Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng hư hao.
Hai năm tình lận đận
Em đã già hơn xưa.
Nếu được cũng nên chửi
cho đã: “Hai năm tình lận đận. Anh… ngu như bận nào!!”. Thiên hạ sợ
chữ “bạc đầu” hơn sợ khốn khó. Đàn bà “kinh hãi” chữ ”già”, đàn ông ngán ngẩm
chữ ”suy”! Cái tôi hay cái ta gì cuối cùng cũng bị… ném vào chữ già và
bị chữ “già” nuốt trọng.
Đỗ Phủ trong “Xuân
vọng” đã than:
Bạch đầu trao cánh
đoản,
Hồn dục bất thăng
trầm.
(Ðầu bạc, xoa thấy
càng lưa thưa. Coi bộ không đủ dày để cài trâm).
Đặng Dung trong “Cảm hoài” cay đắng:
Đặng Dung trong “Cảm hoài” cay đắng:
Quốc thù vị báo đầu
tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái
nguyệt ma.
(Thù nước chưa xong
đầu đã bạc. Mấy độ gươm mài dưới ánh trăng).
Lê Đạt với “Gốc khế”
kêu:
Người yêu anh đốm bạc.
Tóc khế xanh đầu hè.
“Đốm bạc” hay “bạc đầu” cũng:
Theo sông vào trăm
sóng
Sóng như ta bạc đầu.
trong “Một thuở
buồn như sông” của Hoàng Chính Nghĩa nhẹ nhàng hơn chữ “già”. Ngay cả
T.T.Kh trong “Bài thơ thứ nhất” cũng “né” chữ “già” khi nói về
người chồng với một từ ”luống tuổi”:
Biết đâu… tôi: Một tâm
hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm
luống tuổi rồi.
Nhưng một số người tự
nhận mình “già” với “cái tôi” xa xót, kiểm điểm cuộc đời mình như
một con số không!:
Con số có tên, kiếp
người có tuổi
Anh già rồi chối bỏ
tên anh.
(Môi giới – Hoàng
Trúc Ly)
Với Nguyễn Khuyến chữ
già như một niềm riêng đắng lòng trong “Tự thuật”:
Sách vở ích gì thời
buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn
thân già.
Nói gì thì nói, “già”
vẫn có cái tự hào của “Gừng càng già càng cay” với những câu độc
đáo:
Trăng bao nhiêu tuổi
trăng tròn
Núi bao nhiêu tuổi gọi
là núi non?
Người ta mấy tuổi là
non
Tuổi con thêm mấy tuổi
son rằng già?
Câu hỏi không cần lời
đáp này đã ủng hộ cho cái hương vị cuộc đời mà “Tình yêu” là đại biểu trẻ mãi
không già! Khi người ta hát, một chữ “già” lại trở thành lời tự tình, nịnh đầm
ngọt nhất, khôn ngoan nhất mà cũng “thật lòng” nhất dành cho người tri kỷ:
Vẫn biết trên cõi đời
tình yêu đến như cơn mơ thoáng qua…
Vẫn biết em không già
đi trong lòng anh?
(Tình băng giá.
Nhạc Hoa, Lê Quốc Dũng)
Chàng quăn cũng trở
lại chữ già cần thiết trong ”giục giã”:
Mau lên chứ, vội vàng
lên đi chứ
Em, em ơi, tình non đã
già rồi.
Con chim hồng, trái
tim nhỏ của tôi
Mau lên chứ, thời gian
không đứng đợi.
Một cái nhìn của người
sống hết mình với tình yêu, sống bằng tình yêu và… đói thì cũng… gặm tình yêu
nhai đỡ! Vì sao phải hối vội vàng?Vì sao phải giục vội vã? Chưa thấy bình minh
đã thấy trời hoàng hôn! Chưa ngắm hoa nở đã ngỡ hoa tàn! Chưa nhìn tận nhau đã
biết tới ngày ly biệt! Xem ra, kẻ này chắc… bệnh trong tư tưởng nhiều hơn hưởng
xuân thì! Tình non mà đã già là trái chín háp rồi còn gì!
Tóm lại, chàng không
có lòng tự tin nếu không nói là… ham ăn, háu uống! Người phong lưu thì cho
chàng biết cách ”hưởng thụ”. Thật vậy, các nàng như bông hoa hàm tiếu trong
sương, như đóa hồng trong bình minh dậy, bóng chiều tàn, như cành Lan chỉ nở
trong lòng… Điệp, như hoa Quỳnh trong đêm ngắn tàn phai! Không nhanh đi chứ,
không vội vàng lên đi chứ cho đàn ông… thưởng thức thì tự mấy bà… bỏ phí tuổi
xuân mấy bà đấy! Uổng! Nâng niu, quý trọng xuân sắc mấy bà thì chỉ có những kẻ
biết yêu như chàng quăn mới vậy thôi đấy! Thậm chí, gã si tình Xuân Diệu cũng…
rộng lượng… cho qua chỉ số nợ lút cán của mấy bà dù mấy đóa hồng này đã bay đi
tìm lối mộng khác:
Anh tưởng em là của
anh rồi
Em mắc nợ, anh đòi em
sao được?
Từ thiện vậy còn gì
hơn nữa? Cao thượng quá rồi còn gì? Trong khi đó, người đời cười như điên:
Bắt thang lên hỏi ông
trời
Tiền cho gái hỏi có
đòi được chăng?
Trời già dê mới nói
rằng:
Tao còn mắc nợ huống
chăng là… mày!
Tiền đi với tình. Tiền
là lao lực. Tình là lao tâm. Một trong hai cái đó không trọn vẹn thì tình có
tràn như biển Thái Bình, tiền có cao như núi Thái Sơn cũng sứt mẻ hết trơn.
Thành ra, chim bay biển bắc, anh tìm biển đông! Cuối cùng, người thấu hiểu cho
người là ở chỗ làm một kẻ quân tử dù bị phụ phàng, không hề oán giận:
Lòng ta là một cơn mưa
lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai.
Mưa biết tha hồ rơi hạt ngọc
Lá xanh không ướt đến da ngoài.
…Ngày mai nắng mọc, mưa rơi hết
Mặt tạnh cơn si, lòng cạn hồ.
Ta sẽ thôi yêu như đã giấu
Không hề oán hận lá khoai khô.
Đã gặp lòng em là lá khoai.
Mưa biết tha hồ rơi hạt ngọc
Lá xanh không ướt đến da ngoài.
…Ngày mai nắng mọc, mưa rơi hết
Mặt tạnh cơn si, lòng cạn hồ.
Ta sẽ thôi yêu như đã giấu
Không hề oán hận lá khoai khô.
Vậy là mang ”tâm Phật”
rồi đó! Chúc mừng người đã đắc đạo. Bỏ xuống một chữ YÊU, không giữ trong lòng
một từ HẬN, coi như… phủi tay cuộc tình ta đầy ”cơn mưa lũ” để
chỉ nhận tình em ”là lá khoai” như ”nước đổ đầu vịt, nước
đổ lá khoai” vô cảm, vô tâm để ta rảnh rang mà… yêu người khác vì làm
sao sống được mà không yêu! Hà! Cho em… già héo cho chừa em ơi!
Phải nói chàng quăn đã khôn ngoan, thận trọng với hình ảnh “phai bông” so với chữ “già” tàn nhẫn! Đó cũng là một cảm xúc trong muôn vàn cảm xúc của người mang đầy hồn thơ. Chàng thanh niên đi tìm cái “tôi” giữa thiên nhiên để rồi trở thành nhà thơ có tên tuổi hồi nào chẳng rõ. Cái “cảm xúc” của thi sĩ tất nhiên từ thiên nhiên:
Phải nói chàng quăn đã khôn ngoan, thận trọng với hình ảnh “phai bông” so với chữ “già” tàn nhẫn! Đó cũng là một cảm xúc trong muôn vàn cảm xúc của người mang đầy hồn thơ. Chàng thanh niên đi tìm cái “tôi” giữa thiên nhiên để rồi trở thành nhà thơ có tên tuổi hồi nào chẳng rõ. Cái “cảm xúc” của thi sĩ tất nhiên từ thiên nhiên:
Là thi sĩ nghĩa là ru
với gió
Mơ theo trăng và vơ
vẩn cùng mây.
Để linh hồn ràng buộc
với muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm
tình yêu mến.
(Cảm xúc)
Bài thơ này mấy chục
năm trước đã bị thiên hạ “phanh thây, mổ bụng” và lũ học trò beo nào cũng phải
thuộc ít nhất hai câu đầu để minh họa cho phần văn học lãng mạn bị kết án là…
vô tích sự trong truyên tuyền cách mạng! Nhưng thơ mà bị ngắt để phân tích
chẳng khác nào tôm sú bị bóc đầu! Cái “vớ vẩn” trên là để nói cái bay
bỗng của hồn thơ. Làm thơ không “bay bỗng” thì thành… thợ thơ.
Câu: “linh hồn
ràng buộc với muôn dây” đã gắn ”cái tôi” trong “cái ta” với trăm ngàn mối
quan hệ xã hội. Câu “chia sẻ bởi trăm tình yêu mến” là cái“Hồn”
của nguyên bài “Cảm xúc“. Nó lãng mạn thật nhưng cái lãng mạn này
có nguồn gốc từ tính Người. Thưởng thức Thơ không đứng trên cái nền “trăm
tình yêu mến” ấy chẳng khác nào xây cái nhà lầu trên cát mà thôi! Thơ không
mang đôi cánh lãng mạn thì không còn là thơ nữa mà chỉ là:
Con mèo, con chó có
lông.
Cây tre có mắt, nồi
đồng có quai.
Quải!
Bởi vậy, con người
nặng nợ với thơ luôn đầy ắp ước mơ. Con người bình thường nặng chữ “Tham” thì
ham muốn trúng độc đắc, mơ lượm được cục vàng bự bằng… đầu gối!! Con người thơ
ca thoát tục, chỉ ước ao như Xuân Diệu:
Không có cánh nhưng
vẫn thèm bay bỗng
Đi trong sân mà nhớ
chuyện trên trời.
Tuy có chút vớ vẩn
thật nhưng là cái “vớ vẩn” cần có của thơ ca. Một “vớ vẩn” dễ yêu không có gì
mà bị dạt qua một bên, nấp một xó mà chờ nghe định tội. Sự định tội của cái
”lưỡi không xương” thì người bị tội cũng không có gì mất giá mà người định tội
cũng chẳng được tiếng hay ho!
Con người không nuôi
ước mơ thì nhân loại trí tuệ nghèo nàn, tâm hồn trầm mặc, sống với thời ăn lông
ở lỗ, có biết đâu thiên đàng, biết đâu địa ngục! Các nhà bác học, khoa học gia,
nhân chủng học, thiên văn học, vạn vật học, vật lý học… đã trở thành vĩ đại
không phải đã từng nuôi ước mơ từ trong trứng nước mà ra hay sao? Càng nhiều mơ
ước, càng tiếp cận với đời mới thấy mình chỉ là bé nhỏ, cái tôi bé nhỏ này của
Xuân Diệu cũng từ “cảm xúc” mà ra:
Tôi chỉ là cây kim bé
nhỏ
Mà vạn vật là muôn lá
nam châm.
Cách nói giảm khá
chỉnh của “tôi” (cây kim) gặp lực hút vạn vật (đá nam châm) để ôm vào lòng cái
khôn khiêm tốn bằng bốn mươi lần tự kiêu. Bởi vậy, chàng tóc… quăn bao giờ cũng
“khôn” ghê gớm! Chàng quăn này không biết hồi ở phổ thông học vật lý được mấy
phẩy mà thuộc lòng“Định luật vạn vật hấp dẫn” của Niu-Tơn (Isaac
Newton) mang cả vào thơ… hù mấy “cây kim bé nhỏ” khác?
“Tôi đi tìm tôi” với
cây kim bé nhỏ mà vạn vật hút tôi trở thành cái “ta” ưỡn ngực lên tí nữa trong “Hy
mã lạp sơn”:
Nghìn thế kỷ đã theo
nghìn thế kỷ
Ta đứng đây để thấy
triệu mặt trời.
Tắt và nhen và phân
phát cho đời
Những thời tiết tái tê
hay ấm áp.
Sự oai phong hùng dũng
theo thời gian “nghìn thế kỷ” gặp độ phóng đại “kính thiên văn
học” nhìn thấy tới “triệu mặt trời“! Ôi chao! Một mặt trời đủ sống
không nổi nếu hắn nỗi điên, triệu triệu nữa cái núi nhà mi có tồn tại để “ngóng
cổ” nhìn trời đất chăng? Chàng quăn lại chen vào hai liên từ “và”
trong cùng một câu thơ xem ra… dư nhưng cái ý chính là chàng đã thấy được chu
kỳ hoạt động của vũ trụ, cũng sẽ thấy được loài người ấm, lạnh như thế nào!
Chính hai câu dưới đây đã đẩy chàng quăn vào ”lò luyện kim” cách mạng:
Ta là một là riêng là
thứ nhất
Không có ai bè bạn nổi
cùng ta.
Thật ra, trên trái đất
có ngọn núi nào cao hơn ngọn núi này mà không “thứ nhất”! Nghĩa thật đúng phóc
còn nghĩa bóng thì cho mày cô đơn trong tù đơn côi suốt đời cho chừa cái tật
kiêu ngạo. “Một” đã là “thứ nhất” rồi còn thêm “riêng” làm
chi nữa thành ra ý tự tách mình khỏi tập thể cho cô đơn? Ta bỏ đời nên đời cũng
bỏ ta! Chàng quăn đánh võ mồm cho cố mà cuối cùng cũng chúi mũi vào giấy viết
lấy, viết để bởi “làm sao sống được mà không yêu, không nhớ không
thương một kẻ nào” khi vạn vật là nam châm hút cây kim bé nhỏ!
Tình yêu sợ nhất dối
trá và hờn ghen. Cuộc đời sợ nhất là sự già cỗi trong cô đơn. Khi người ta thấy
buồn, đau khổ là đã thấy cô đơn đi kèm.Trong bài “Chiều” tặng
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, chàng quăn bộc bạch:
Hôm nay trời nhẹ lên
cao
Tôi buồn không hiểu vì
sao tôi buồn
…Êm êm chiều ngẩn
ngơ chiều
Lòng không sao cả chỉ
hiu hiu buồn.
Cái buồn vô cớ của
chàng quăn là cái buồn có cớ của chàng Kim tương tư Kiều:
Sương trinh rơi kín từ
nguồn yêu thương
Phất phơ hồn của bông
hường
Trong hơi phiêu bạt
còn vương má hồng.
Cái “tôi” của cánh
chim giang hồ ”phiêu bạt” gặp áng mây mờ trôi phất phơ mà buồn
tình. Xuân Diệu buồn tình vơ vẩn, bâng quơ. Chế Lan Viên buồn trong cái buồn
“thương tiếc dân Hời” dù mình chẳng có chút dòng máu Hời nào cả! Chàng vật vã
với “cái tôi” trong bài“Xuân”:
Tôi có chờ đâu có đợi
đâu
Đem chi xuân lại chỉ
khơi sầu
Với tôi tất cả như vô
nghĩa
Tất cả không ngoài
nghĩa khổ đau!
Chộp được bốn câu này,
người ta vội vã bỏ vào nhóm “tiêu cực” ngay mà không thấy rằng cái tiếng kêu “vô
nghĩa” lại bắt đầu từ nỗi nhớ nước đến nỗi con cuốc cuốc còn đau lòng trong
thơ Bà Huyện Thanh Quan trong bài thơ độc đáo ”Qua đèo ngang”:
Qua đỉnh đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
huống hồ là người trong cuộc như Chế. Cái “vô nghĩa” lại là “rất có nghĩa” của một tâm hồn yêu nước đó. Tiếng lòng này đáng trân trọng quá. Sự“khổ đau” này đáng cho ta thắp một nén hương… Cái đau của kẻ mất nước khi đem vào thơ yêu cũng đầy cái “tôi” tuyệt vọng:
Qua đỉnh đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
huống hồ là người trong cuộc như Chế. Cái “vô nghĩa” lại là “rất có nghĩa” của một tâm hồn yêu nước đó. Tiếng lòng này đáng trân trọng quá. Sự“khổ đau” này đáng cho ta thắp một nén hương… Cái đau của kẻ mất nước khi đem vào thơ yêu cũng đầy cái “tôi” tuyệt vọng:
Nàng hỡi nàng! Trên
tay ta là mộ trống
Trong lòng ta là huyệt
bỏ, với trong hồn.
(Mồ không –
Chế Lan Viên)
Cho tới một Bộ trưởng
Bộ văn hóa, văn nghệ từ năm 1945 và là một trong những ngòi bút xuất sắc của
phong trào “Thơ Mới”, Huy Cận đi tìm cái “tôi” cũng đã long đong,
lận đận:
Chàng trai gối mộng
trên trang sách
Tỉnh thức, mùa xuân
rụng hết hồng.
(Buồn)
Mùa xuân có chữ “hồng”
là nhựa sống, là tinh hồn và điểm tựa. Xuân“rụng hết hồng” thì chỉ còn
lại số không! Nhiều người nói đến chữ “tôi” để bộc lộ “cái tôi” như đang tự viết
“bản kiểm điểm” (trừ những bản tự cho “điểm” nhiều hơn là “kiểm”!) nhưng không
phải để “nhận tội” (có tội gì mà nhận?) mà là để tự khẳng định mình hơn. Du Tử
Lê trong “Giao khúc tháng sáu” đã cho rằng:
Tôi từ đó nhỏ nhoi như
châu chấu
Như cào cào vỗ cánh
chả bay xa.
Lỳ đòn:
Như rêu xanh ôm đá
tảng
Khinh loài người nên
chọn kiếp vô tri.
Những hình ảnh: “một
bóng mây, chuồn chuồn, chiếc lá, như bọ ngựa, như củi mục…” sao mà “khập khừ” y
như gã “võ sĩ bọ ngựa” của Tô Hoài! Chàng Du này cũng để thời gian
trôi tuồn tuột đi trong những kiếp phiêu bồng như loài côn trùng tách hẳn ra
thế giới loài người và ta cho chàng làm thêm kiếp… thằn lằn, tắc lưỡi: “Chợt
nhớ ra từ lâu đã già trước tuổi”!
Thế mới hay Xuân Diệu
“kiêu” cho hung rồi cũng cô đơn. Chế Lan Viên “tiếc” cho cố rồi cũng tiếc trong
cô đơn. Huy Cận “mộng” cho đã rồi cũng “mộng” trong cô đơn. Du Tử Lê “vô tri”
chai đá rồi cũng vô tri trong cô đơn. Duyên Anh càng khẳng định nỗi cô đơn đó
trong “Khai bút”:
Rượu xuân mừng chén
lênh đênh
Nghìn năm sau vẫn một
mình mình thôi.
Sau những yêu đương
cuồng nhiệt của Xuân Diệu thì ta lại thấy chàng quay về với tiếng lòng thật của
mình bằng những nỗi buồn như có cánh bay lên:
Những chiều thu góp
lạnh giữa mù sương
Những đêm đông giạt
bước ở bên đường.
Gió khuya khắt dậy con
buồn lá uá
Sao rải rác như lệ
vàng đêm nhỏ
Mưa lơ phơ như dạ khúc
âm thầm.
(yêu mến)
Không gian (chiều mùa
thu lạnh, đêm đông giạt bước), vũ trụ (gió lạnh, sương mù, lá úa, sao rải rác,
mưa lơ phơ) bao trùm con người nhỏ bé (lệ vàng, âm thầm khúc). Đem cái số đông
của tác nhân thiên nhiên để đối lập với con người chỉ một mà lại ẩn hình để nói
cái ý hiện hình buồn như thu tàn, như đông lạnh như sao cô đơn như mưa lớt
phớt. Tất cả cuộn lại thành khúc tình buồn! Ai hát dùm Xuân Diệu khi xót xa?
Nỗi xót xa được thực tế minh chứng trong bài ”Khung cửa sổ”:
Anh có nhà có cửa
Nhưng không vợ không con
Sợ cái bếp không lửa
Sợ cái cửa không đèn.
Ôi cái khung cửa sổ,
Của kiếp anh, đời anh!
Tay em không đến mở
Thôi còn gì tươi xanh?
Nhưng không vợ không con
Sợ cái bếp không lửa
Sợ cái cửa không đèn.
Ôi cái khung cửa sổ,
Của kiếp anh, đời anh!
Tay em không đến mở
Thôi còn gì tươi xanh?
Có lẽ, đây là bài thơ
miêu tả hiện thực cuộc sống trần trụi, cô đơn trong hy vọng duy nhất của Xuân
Diệu. Khi người ta thiếu cái gì thì người ta ao ước cái đó. Phải chăng vì Xuân
Diệu đã không hề có được một tình yêu bình thường chân thành nên ước mơ yêu
đương trong thi nhân đã trở thành sự yêu đương thần thánh? Anh là khung cửa sổ.
Mở ra hay khép lại cũng chỉ là vô nghĩa, làm sao mà ”tươi xanh” khi
không có em tức là có một tình yêu thật sự ngự trị!
Cuối cùng, người si
tình cũng chỉ ”ao ước” như Tế Hanh:
Nếu em chết, chắc là anh có thể
Tỏ mối tình lặng lẽ quá sâu thâm:
Anh đến nơi em nghỉ giấc ngàn năm
Ngồi điên dại sầu như cây liễu rủ.
Nếu em chết, chắc là anh có thể
Tỏ mối tình lặng lẽ quá sâu thâm:
Anh đến nơi em nghỉ giấc ngàn năm
Ngồi điên dại sầu như cây liễu rủ.
Anh không uống, anh
không ăn, không ngủ,
Anh khóc than, than khóc đến bao giờ.
Nước mắt anh lầy lội cả nấm mồ
Nhỏ từng giọt xuống thân em lạnh lẽo.
Anh khóc than, than khóc đến bao giờ.
Nước mắt anh lầy lội cả nấm mồ
Nhỏ từng giọt xuống thân em lạnh lẽo.
Rồi anh chết, anh chết
sầu, chết héo;
Linh hồn anh thất thểu dõi hồn em.
Đời thiếu hẳn lý tưởng sống, thiếu vắng cái hương vị tình yêu, con người rơi vào hố thẳm của cùng cực cô đơn. Tình yêu chân thật là liều thuốc sống, là cái vuốt mắt êm dịu cuối cùng cho người nằm xuống không còn vướng vấn cái danh hời! Yêu và được yêu là cái “tôi” cuối cùng còn lại cho người mang theo sang bên kia thế giới!
Linh hồn anh thất thểu dõi hồn em.
Đời thiếu hẳn lý tưởng sống, thiếu vắng cái hương vị tình yêu, con người rơi vào hố thẳm của cùng cực cô đơn. Tình yêu chân thật là liều thuốc sống, là cái vuốt mắt êm dịu cuối cùng cho người nằm xuống không còn vướng vấn cái danh hời! Yêu và được yêu là cái “tôi” cuối cùng còn lại cho người mang theo sang bên kia thế giới!
II. Kết:
Nhận xét về thơ tình
của Xuân Diệu, Lưu Khánh Thơ trong ”Từ điển tác giả, tác phẩm văn học
Việt Nam”, Nxb ĐHSP – 2004, trang 812 có viết:”Cái rạo rực của tình
yêu trong thơ Xuân Diệu là cái rạo rực của một con người ham sống, ham
yêu” nhưng xét về mặt nghệ thuật, Lưu Khánh Thơ ca ngợi thơ Xuân Diệu
đạt đến chất lượng tuyệt hảo với ”những hình ảnh được trau chuốt, giọt
giũa kỹ càng, câu văn giàu nhạc điệu” thì cần xem lại. Tuy nhiên, là
người được coi là điển hình của phong trào Thơ Mới, ”Xuân Diệu là thành
viên của Tự lực văn đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào
Thơ Mới”, Xuân Diệu đã mang lại cho nền thi ca Việt Nam những sắc màu
huyền diệu của tình yêu không lẫn lộn với bất cứ nhà thơ nào cùng thời đại.
Chỉ riêng ”Hai
tập ‘Thơ thơ’ và ‘Gửi hương cho gió’ được giới văn học xem như là hai kiệt tác
của ông ca ngợi tình yêu và qua các chủ đề của tình yêu là ca ngợi sự sống,
niềm vui và đam mê sống”. (Huy Cận, tháng 4 năm 2000) (vi.wikipedia.org).
Xuân Diệu với những
ngã rẽ bao gồm sáu tính cách khó phân biệt trên (kẻ thương chịu khó, người yêu
đa tình, lúc tột đỉnh yêu sinh ra cắn giết và hối hận tột cùng, khi ghen say
đắm nghiệt ngã, một phát ngôn cho lẽ sống yêu của cuộc đời) cuối cùng, quay về
với nỗi buồn muôn năm khi đã đi tìm cái tôi vinh quang và cô đơn, cuối cùng đã
đưa tình yêu từ đơn giản đến phức tạp (là yêu giữa người khác giới thính và
đồng giới tính). Sự đơn giản và phức tạp này cần có trong cuộc đời vì nó đã
mang hương vị tình yêu đầy sắc màu đến cho cuộc đời, cho văn học. ”Thơ
Xuân Diệu là ‘vườn mơn trớn’, ca ngợi tình yêu bằng muôn sắc điệu, âm thanh và
hương vị trong Thơ Thơ, pha lẫn chút vị đắng cay trong Gửi Hương Cho Gió. Nhiều
câu nhiều bài chịu ảnh hưởng từ thi ca lãng mạn Pháp” (thovn.net).
Dòng thơ tình yêu vẫn
lặng lẽ trôi cho ta cái cảm giác chạm tay vào dòng nước thật mạnh mẽ và thật
nhẹ nhàng, êm ái. Xuân Diệu với những ngã rẽ đã soi bóng mình xuống dòng sông
và tắm mình trong dòng sông đầy phù sa này. Cát sạn, bùn đen sẽ lắng và dòng
đời cứ lặng lẽ trôi…
Xuân Diệu – Trảo Nha
hày chàng quăn, chàng quắn xứ Rùa đã từng say đắm và cùng với bạn thơ – những
ngã rẽ tâm tình không giai cấp, không tước vị, không danh hời quên đi nỗi cô
đơn trong một cuộc sống không gia đình, không con cái mà vẫn yêu, yêu tha thiết
cho đến bạc đầu, yêu đắm say cho đến khi về bên kia thế giới!
Ngưỡng mộ quá! Ta bỗng
nhiên ước muốn làm “bờ cát trắng” chờ từng cơn ”sóng
biển” hôm nao…
Dòng thơ tình yêu với
hơn bốn trăm bài – một mảng nhỏ trong gia tài thơ văn của Xuân Diệu với ca dao
đi cùng dòng thơ nhạc của anh em, bè bạn “nghìn thế kỷ đã theo nghìn thế
kỷ” không cô đơn!.
TƯ LIỆU THAM KHẢO CÓ
SỬ DỤNG:
I. Thơ: Thơ Xuân Diệu (Tuyển tập Xuân Diệu, Nxb
HNV – 1983). Thơ Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên, Bàng Bá Lân, Chế Lan
Viên (Điêu tàn, Nxb HNV – 1995), Hồ Drếnh, Vũ Hoàng Chương, Quang Dũng, Đoàn
Phú Tứ, Đinh Hùng, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Khuyến, Xuân
Quỳnh, Thâm Tâm, Hoàng Chính Nghĩa, Du Tử Lê, Trần Dạ Từ, Bà Huyện Thanh Quan,
Đỗ Phủ,Trương Kế, Thôi Hiệu, Lý Bạch, Vương Bột, Lý Thương Ẩn.
II. Nhạc và những tư
liệu khác: Trịnh Công Sơn, Ngô
Thuỵ Miên, Phạm Duy, Nguyễn Ánh 9, Nhạc Hoa (music.com)…
III. Bài viết, sách:
1. Lưu Khánh Thơ “Xuân Diệu…” (Từ
điển, tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam”, Nxb ĐHSP – 2004).
2. ”Đường thi tuyển dịch” (Trương Đình Tín, Nxb Thuận Hóa – 2003).
3. ”Xuân Diệu và Huy Cận là hai nhà thơ đồng tình
luyến ái”, Minh Nguyệt
(tienve.org).
IV. Web site đăng
trích:
http://www.vi.wikipedia.org/ vietnamthuquan.com/
vhvn.com/ vnmusic.com/ baoanhdatmui.com/ hoahoctro.com/ vietanamsigle.com/
thovn.net/ eVan.com/ nhanmonquan.net/ ykien.net/ annonymous.online/
hoasontrang.us/ pkucn.com/ tienve.org/ chimviet.free.fe/…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét