I.DẪN NHẬP
Người Việt ta chẳng có những tư tưởng triết học cao siêu hay hệ thống lý luận
vững chắc gì cả. Tâm hồn Việt dung dị lắm, chỉ biết làm thơ thôi. Yêu, ghét,
vui, buồn, sướng, khổ, sống, chết…đều biến thành thơ. Thơ là cửa ngõ để tâm
hồn bước ra, và cũng từ đấy, những quan niệm triết lý mộc mạc nhưng thâm trầm
nảy sinh.
Là một môn sinh đang học triết, biết "triết" một tí nhưng ngán ngẩm
lý thuyết. Con người là thế này, con người là thế kia. Phải sống một cách… ,
phải sống như… rối rắm thế nào ấy. May sao, có một nhà thơ triết, trong thơ
chứa triết. Thơ nói lên phận đau con người, thơ xông hương trước nhan Thiên
Chúa. Thơ ấy, nhà thơ ấy là Hàn Mạc Tử. Bài tiểu luận này xin được luận về chất
triết trong thơ của thi sĩ họ Hàn. Thứ triết không xa xôi, dính chặt vào thân
phận con người và thể hiện một phong cách sống, một thái độ sống rất riêng, rất
thơ. Và điều nữa, cũng vì Hàn Mạc Tử dùng thơ để ca tụng Chúa, dùng thơ làm
chiếc thang bắc lên trời để hát cho Chúa nghe và để kéo ơn Người xuống, nên
người viết chọn đề tài về thơ của thi nhân.
Là người Việt sao mình lại không ca tụng Chúa bằng thơ nhỉ? Lâu lắm rồi, trước
Hàn Mạc Tử và sau Hàn Mạc Tử ít thấy ai làm thơ theo cách ấy. Theo cách thôi
chứ không bắt chước. Mình là mình, Tử là Tử, đừng mô phỏng sẽ đánh mất khả năng
riêng một của mình. Nói vậy thôi chứ Tử là bóng cây to, đứng dưới gốc cây sẽ
được bóng mát và nghiệm ra được ý nghĩa của một hành trình sống, rồi từ đó sửa
soạn lên đường…
II.ĐÔI NÉT VỀ HÀN MẠC TỬ:
Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 tại Mỹ Lệ (Đồng
Hới). Ông được rửa tội tại giáo xứ Tam Toà (giáo phận Quy Nhơn ) với tên thánh
là Pierre François. Hàn Mạc Tử thân vóc gầy yếu, tính tình hiền hậu và thích
giao du. Ông bắt đầu đến trường tại Quảng Ngãi nhưng sau khi cha mất (1926) Hàn
Mạc Tử theo mẹ vào Quy Nhơn và ra Huế theo học trường Pellerin. Năm 1930, Tử
thôi học, quay trở lại Quy Nhơn và bắt đầu làm thơ, lấy bút hiệu là Phong Trần.
Giai đoạn này Tử chỉ làm thơ Đường luật chứ chưa làm thơ Mới, dầu vậy ông khá
nổi tiếng. Phan Bội Châu đọc thơ ông và viết lời giới thiệu khen ngợi: "Từ
về nước đến nay, tôi được xem thơ Quốc âm cũng khá nhiều, song chưa gặp được
bài nào hay đến thế…Ôi hồng nam nhạn bắc, ước có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau
cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó". Năm 1932, Hàn Mạc Tử vào
làm việc sở đạc điền Quy Nhơn và yêu Hoàng Cúc, con của một viên chức, nhưng
chỉ yêu thầm kín, rụt rè. Năm 1935, Tử bỏ việc vào Sài Gòn làm báo và bắt đầu
làm thơ theo phong cách thơ Mới.
Trở lại Quy nhơn năm 1936, Hàn Mạc Tử cho xuất bản tập thơ "Gái quê"
và định vào Sài Gòn lần nữa thì bệnh phong khởi phát. Biết mình mắc bệnh, Hàn
Mạc Tử thuê một chòi tranh ở Gò Bồi (một xóm lao động nghèo ven biển cách Quy
Nhơn khoảng 15 km) và tuyệt giao với bạn bè. Thương con, gia đình chạy chữa cho
Tử nhưng bệnh ngày một tăng. Từ đây, nguồn thơ tinh anh của ông phát tiết cùng
với sự dày vò đau đớn do căn bệnh. Qua văn thơ và bạn bè, Hàn Mạc Tử quen, cảm
mến và yêu Mộng Cầm, Mai Đình, Ngọc Sương và Thương Thương. Mỗi người đều để
lại trong ông một nguồn thi hứng nhưng chua xót.
Năm 1937, Hàn Mạc Tử gom các bài thơ làm trên giường bệnh thành tập thơ lấy
nhan đề "Đau Thương" để tặng mẹ đã đau khổ vì thấy nỗi đau thương của
con. Tập thơ gồm ba phần: Hương Thơm, Mật Đắng, Máu Cuồng và Hồn Điên.
Với sự đau khổ vì bệnh tật và rơi vào trạng thái trực giác siêu hình, Hàn Mạc
Tử cho ra đời các tập thơ : Xuân Như Ý, Thuợng Thanh Khí, Cẩm Châu Duyên, Duyên
Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội.
Tháng
9/1940, bệnh tái phát trầm trọng, Hàn Mạc Tử phải vào bệnh viện phong Quy Hòa
do các nữ tu dòng François d’Assise đảm trách. Từ đây, Hàn Mạc Tử bỏ việc văn
chương quay sang nghiền ngẫm ý nghĩa của sự chết và ngày ngày đọc kinh cầu
nguyện.
Ngày11/11/1940 Hàn Mạc Tử ra đi trong an bình nhưng quạnh quẽ, không người
thân, không bạn bè, chỉ có một người bạn đồng bệnh và hai bà phước đưa tiễn.
III.TÍNH TRIẾT TRONG THƠ VÀ ĐỜI HÀN MẠC TỬ:
Thơ là đời, đời là thơ. Nếu tách ra riêng rẽ thơ chỉ là mớ chữ nghĩa không giá
trị. Cuộc đời đau thương và những vần thơ của Hàn Mạc Tử hoà trộn vào nhau tạo
thành chất keo vẽ lên bức tranh phận người, và nếu ta kéo theo thứ keo ấy dài
ra, nó sẽ là sợi dây đàn rung lên những thanh âm thành thật, mới mẻ, trong trẻo
và vọng tới Đấng Tuyệt Đối.
1. Thành thật:
Thường ra, khi nói đến nhà thơ, nhà văn người ta sẽ bảo: "Toàn là vẽ vời,
mơ mộng, sống trên mây trên gió". Cái thứ vẽ vời, tưởng tượng ấy tất nhiên
phải có trong thơ văn, nhưng không đồng nghĩa kẻ sáng tạo ra nó sống giả, yêu
giả, vật vờ giả. Thơ là diễn trình của cuộc sống, hoạ ảnh cuộc sống bằng phương
thức riêng, một phong cách riêng.
"Một
cuốn sách, một cuốn tiểu thuyết, một truyện ngắn, một bài thơ, một vở kịch có
bao giờ là chính thực tại đời sống đâu, nhưng mà nó diễn tả ý nghĩa của cuộc
sống, ý nghĩa của một con người, ý nghĩa của một tình yêu, ý nghĩa của một giai
đoạn lịch sử, ý nghĩa của cái sống và cái chết" (Nguyễn Hoàng Đức, Ý hướng
tính văn chương, nxb. Văn hóa dân tộc, 1999, tr. 622). Hàn Mạc Tử là nhà thơ
chẳng những có thái độ sống thành thật mà trong thơ cũng chứa đầy tấm chân
thành, gói trọn ý nghĩa của đời một người thơ. "Về sự thành thật, có lẽ
Hàn Mạc Tử hơn hết các nhà thơ hiện đại. Cũng vì ông rất thành thật nên thơ ông
theo sát hẳn tính tình cùng tư tưởng ông" (Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại,
nxb. Khoa học xã hội, 1989, tr.714).
Hãy
nghe những câu thơ:
Ta
muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
Mỗi
lời thơ đều lính não cân ta.
Bao
nét chữ quay cuồng như máu vọt,
Như
mê man chết điếng cả làn da.
Cứ
để ta ngất ngư trong vũng huyết,
Trải
niềm đau trên mảnh giấy mong manh;
Đừng
nắm lại nguồn thơ ta đương siết
Cả
lòng ta trong mớ chữ rung rinh.
(Rướm máu)
Đau quá vì bị lở lói, Hàn Mạc Tử bấu chặt vào thơ để diễn tả tâm hồn mình không
chút giấu giếm, có sao nói vậy. Lời thơ như dính máu. "Cả lòng ta trong mớ
chữ rung rinh", Hàn Mạc Tử ngả nghiêng, chết điếng, mê man, ngất ngư, trào
máu… theo từng chuỗi đau đớn bệnh tật. Biết sao được, có ai đâu để bầu bạn, chỉ
có thơ thôi, đành gởi cả vào thơ để "hồn trào ra đầu ngọn bút, lời thơ
lính não cân".
Mà cũng khác thường, đau thì lý ra phải trốn chạy, Tử lại "cứ để ta ngất
ngư trong vũng huyết". Thơ trở thành nguồn ủi an của Tử, đau thương kia đã
thốt thành lời thì cái sự thực "chết điếng" được phủ lấp bằng nỗi
niềm thành thật. Đọc những câu thơ "rướm máu" ta có cảm giác như đang
đứng trước một con người hấp hối vậy. Tử không rền rĩ nhưng khổ nỗi hiện thực
cứ hiển hiện ra đấy, làm sao không thốt lên:
Nguồn
thơ ngậm cứng, không rền rĩ
Mà
máu tim anh vọt láng lai
Thơ
ở trong lòng reo chẳng ngớt
Tiếng
vang tha thiết dội khắp nơi.
(Lưu luyến)
Tiếng thơ cũng chính là tiếng lòng của Tử - một tiếng lòng thiết tha, lai láng.
Sự thành thật xuất phát từ tâm, từ kiếp sống lữ hành, bụi bặm.
Con người sống trong thân xác, chịu sự giới hạn của thân xác, nhưng là
"người" nên con người bước qua giới hạn ấy và mặc cho nó những giá
trị ngang tầm với mình. Điều cốt yếu và trước nhất là chấp nhận thân xác mình,
chấp nhận một thân xác đang hiện hữu như nó có. Thái độ thành thật nơi Hàn Mạc
Tử cũng chính là đây, Tử chấp nhận nó, đồng hành với nó và thăng hoa nó bằng
thơ. Tử không trốn chạy hay phủ nhận thực tại. Trong lời tựa một tập thơ của
mình, Hàn Mạc Tử đã viết: "Tôi làm thơ ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị
cám dỗ. Tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức
giữ bí mật, và nghĩa là tôi mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá, tôi
bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú… Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi?
" (Tựa tập Thơ Điên).
Xin đừng hiểu "nàng" là một thiếu nữ hay bóng hồng nào, mà đấy là
niềm đau, đau nhức nhối. Hàn Mạc Tử khóc, gào, rú mà làm chi nếu chẳng phải là
tiếng hồn khát khao sự sống, nhìn nhận tài thơ đang trào ra nơi mình. Sự sống
mỗi ngày thêm khô cạn thì nguồn suối thơ mát trong tuôn chảy. Đọc hết mọi tác
phẩm của Hàn Mạc Tử không thấy chỗ nào nói đến nguyền rủa, đập phá hay tỏ ra
chán chê cuộc sống, mặc kệ đời. Đọc thơ Tử là ta biết được bí mật cõi lòng thi
nhân. Chả nhà thơ nào dám thú thật cho người khác biết:
Anh
điên anh nói như người dại
Van
lạy không gian xóa những ngày. (Lưu luyến)
Bây
giờ tôi dại tôi điên
Chắp
tay tôi lạy cả miền không gian. (Một miệng trăng)
Ta
ném mình đi theo gió trăng
Lòng
ta tản khắp bốn phương trời. (Ghen)
Thành
thực "đấm ngực thú tội" mình dại mình điên, Tử chỉ nói đến không
gian, sao vậy? Thời gian dài quá, cứ kéo lết con người theo sau; không gian
rộng ngát, thả đau đớn vào đó để gió cuốn đi có lẽ đỡ khổ hơn. Điên như thế này
thì cứ điên. Tỉnh lại sẽ đau. Tỉnh lại sẽ ý thức, sẽ lý luận: thơ gì rối rắm,
khó hiểu. Điên để mà đem những gì máu, hồn cố giấu tung lên trời làm thơ và tự
do bay trong bầu trời thành thật của mình. Nhà thơ Xuân Diệu có lẽ không ưa gì
cái "điên" này nên đã viết: "Điên cũng không dễ làm như người ta
tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng
sống". Hàn Mạc Tử đón nhận những đánh giá của người khác về mình, vẫn cười
vui với cái điên của mình. Thật ra, lắm kẻ tỉnh táo nhưng chỉ là "khéo
léo" sống, nhiều kẻ lý sự đến kỳ cùng nhưng là lý sự đến kỳ cùn. Có lợi
cho mình, dù tí ti thôi cũng tâng bốc, tung hê; ngược lại, đụng vào lợi riêng
là bút chiến, là đào bới. Cái gì không thành thật thì không thể trường tồn cùng
thời gian được.
Thành thật không phải là sự nói toạc ra, ngây ngô như con trẻ. Thành thật là
biết suy tư, diễn tả ra bên ngoài những gì kinh nghiệm bản thân đã trải qua. Sẽ
là ngộ nhận khi cho rằng, do cuộc đời đau khổ của Hàn Mạc Tử mà người ta đoái
đến thơ ông. Ngược lại là đằng khác, thơ ông dạy ta biết thành thật với chính
mình, biết lắng nghe nhịp đập tim mình giữa bao trộn trạo.
Cho
ta nhận lấy không đền đáp
Ơn
trọng thiêng liêng xuống bởi trời,
Bằng
tiếng kêu gào say chếnh choáng
Bằng
tim, bằng phổi nóng như sôi.
(Sầu vạn cổ)
Sống bằng tim, bằng phổi đang sục sôi thì đâu có thể là
một tâm hồn giả dối, bệnh hoạn. Hàn Mạc Tử nói: "Tôi đã sống mãnh liệt và
đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển
hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự
sống." (Tựa tập thơ Hàn Mạc Tử ). Chính nhờ đã sống mãnh liệt, đầy đủ mà
Tử mới thiết tha với cuộc sống, sẵn sàng đón nhận tất cả và dâng hiến tất cả:
Này
đây lời ngọc song song,
Xin
dâng muôn sóng tơ đồng chơi vơi.
Xin
dâng này máu đang tươi,
Này
đây nước mắt giọng cười theo nhau.
(Bến Hàn Giang)
Sống thật là sống bằng thân xác máu huyết của mình và vận dụng hết khả năng của
thân xác. Thành thật có nghĩa là yêu thật. Nhà văn Trang Thế Hy đã từng khuyên:
"Điều gì mà mình không yêu mến hoặc chưa kịp yêu mến nó thì đừng giả vờ
yêu mến nó". Hàn Mạc Tử yêu thật đấy chứ, còn yêu mãnh liệt nữa kia. Học
giả Huỳnh Phan Anh đã nói về thơ của Tử: "Thơ Hàn Mạc Tử ? Tại sao không
nhìn nó như một kinh nghiệm trước hết của một con người, một thực tại con người
ngay trong thân phận, trong sử tính đích thực của nó!…Thơ là sự mời gọi tham dự
vào chính những cảm xúc, những trạng thái tâm thần, những tình tự, kinh nghiệm
của chính người thơ" (Nguyễn Tấn Long, Thi nhân tiền chiến, Sống Mới xb.,
1969, tr. 388– 389).
Quả vậy, thơ Hàn Mạc Tử chính là kinh nghiệm sống của người thơ, kinh nghiệm
của quá trình sống trọn vẹn thân phận làm người, phận người thành thật đến thảm
thương. Khi đọc:
Tôi
vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai
đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao
bông phượng nở trong màu tuyết
Nhỏ
xuống lòng tôi những giọt châu?
(Những giọt lệ)
Thịt
da tôi sượng sần và tê diếng
Tôi
đau vì rùng rợn đến vô biên.
(Hồn là ai?)
Mực
lùa khí vị vô hồn chữ
Văn
bút hào quang ở miệng ta
Giấy
trắng tinh khôi, tuôn huyết mạch
Lời
vàng nguyên vẹn trổ tài hoa.
(Bút thần khai)
thì ai có thể dửng dưng mà chẳng nghĩ lời thơ hùng chí, mơn man tê dại ấy là
của một người quằn quại trên giường bệnh; ai chẳng suy chiêm về thân phận cát
bụi của mình ngày kia sẽ "từ vực sâu tôi kêu cầu…"? Thơ Hàn Mạc Tử là
tiếng kêu thành thật và liệu có giọng thơ nào thành thật đến thế không?
Nguồn
thơ ứa mãi hai hàng lệ
Tờ
giấy hoa tiên cũng ướt mèm.
Về cách sống của Hàn Mạc Tử đối với mọi người, Hoàng Diệp, bạn thân của Tử
thuật lại rằng, sau một thời gian làm báo ở Sài Gòn, Tử về quê với hai bàn tay
không, gia đình hỏi valy, mũ, mền len đâu, Tử chỉ cười; rồi hỏi tiền đâu, Tử
lại cười và mãi mới trả lời: "Tụi hắn (bạn bè cùng làm báo) chết đói dăn
(nhăn) răng ra cả ở trong ấy mà mình để tiền làm chi?" Có gì cao quý bằng
tấm chân tình ấy. Thật đúng như Tử viết:
Ở
đâu có những lá tinh hoa,
Phước
lộc vô biên đến mọi nhà.
Ở
đâu có những lương tâm quý,
Tiếng
thơm lừng thấu đến tai vua.
(Ước ao)
Hàn Mạc Tử đã xa khuất nhưng hình ảnh thi nhân vẫn váng vất trong tình cảm bạn bè,
chập chờn không dứt được. Bích Khê nằm mộng thấy bạn:
Trên
đầu đơm vòng hoa
Khắp
thân in màu tuyết
Trong
trẻo mà diễm tuyệt
Tơ
tơ gần như nguyệt
Biếc
biếc gần như thu.
và
xót xa cho bạn, cho mình, Bích Khê nói như khóc:
Hai
ta đều quạnh quẽ
Đứt
ruột nhớ thương nhau
Nấn
ná sẽ lìa nhau
Chiêm
bao còn thấy nhau!
(Hàn Mạc Tử)
Tội tình chi lúc sống đã cô độc mà thác đi gặp nhau trong mộng cũng "nấn
ná sẽ lìa nhau"!
Hẳn Tử sống chân thành lắm mới để lại ấn dấu sâu đậm trong lòng bạn bè như thế.
Không chỉ bạn bè thôi đâu, cả nơi người đọc thơ ông nữa, bởi "sự kế thừa
các tác phẩm như của Tử làm cho tim ta nhân tính hơn, óc ta co giãn đàn hồi
hơn, và cái nhìn ta không đơn giản mà trở nên đa dạng và phong phú" (Lời
tựa của Chế Lan Viên trong thơ Hàn Mạc Tử, Sở Văn hoá và thông tin Nghĩa Bình
xb., 1988, tr. 25). Thành thật là một lẽ quan trọng trong thái độ sống triết
lý, nó giúp người ta sống hồn nhiên với lòng mình. Đọc thơ Hàn Mạc Tử ta thấy
tâm hồn mình thật ra và "trong trẻo mà diễm tuyệt". Trong sự thành
thật của Hàn Mạc Tử ta khoan được mạch tự do và sáng tạo.
2. Tự do và sáng tạo:
Con người là một bản thể tự do. Đã tự do thì con người ý thức được sự hiện hữu
của mình trong vũ trụ cũng như trách nhiệm biến cải thế giới. Sống là đăng kí
với đời bộ mặt của mình, ghi tên mình vào cộng đồng xã hội. Nhờ năng lực thiên
phú và sự cố gắng, con người luôn muốn hiện hữu sao cho thật ý nghĩa, không để
cho thời gian đánh dấu chéo vào bộ mặt của mình. Do vậy, con người miệt mài
kiếm tìm, sáng tạo cái gì mới mẻ, và chính trong cuộc kiếm tìm ấy, cái độc đáo
của riêng mình được bộc lộ.
Hàn Mạc Tử cũng đã sống hết mình, sử dụng hết nguồn năng lực của mình cho thơ.
Thi sĩ không phải là kẻ quỳ lạy thơ mà dùng thơ diễn tả tâm hồn mình, và cùng
một trật, cả Hàn Mạc Tử và thơ đều bái gối trước Chúa. Theo triết gia Karl
Jaspers thì: "…Một nguồn triết lý bắt nguồn tự nguyên ủy còn xuất hiện nơi
những bệnh nhân tinh thần (Geisteskrank). Năm chừng mười họa, ra như những bệnh
nhân này bị một bức màn phủ kín, nhưng một đôi khi bức màn bị xé toang. Lúc ấy
ta nghe họ nói được những chân lý cao siêu" (Karl Jaspers, Triết học nhập
môn, Lê Tôn Nghiêm dịch, Trung tâm học liệu xb., 1969, tr. 5).
Hàn Mạc Tử có là "bệnh nhân tinh thần" như Jaspers nói hay không, xin
dành cho các nhà tâm lý. Ta chỉ biết Hàn Mạc Tử là một bệnh nhân phong, mỗi
ngày sức lực thể xác bị bòn rút, tinh thần đôi lúc hoảng loạn (bị điên theo như
Tử vẫn gọi) nhưng không hề "lên cơn", rồi phải chăng hay chớ thốt ra
được vần thơ triết lý. Như thế đâu phải là sáng tạo! Sáng tạo thì phải là có ý
thức của chủ thể, có sự tự do của chủ thể. "Nghệ thuật là ý thức, ý thức
không muốn tự chấm dứt mình mà ý thức luôn tìm cách mở ra ý thức như hạt men cứ
gây men mãi chẳng ngừng" (Nguyễn Hoàng Đức, Sđd., tr. 622). Thơ Hàn Mạc Tử
cũng như hạt men vậy, gây men - gây men, sáng tạo - sáng tạo.
a) Thể hiện một cái tôi:
Tự do và sáng tạo của Hàn Mạc Tử trước hết thể hiện một cái tôi, một cái tôi
không bị vong thân, không èo uột bám víu. Văn đàn Việt Nam những năm 1930 -
1945 đầy đủ các thể thơ, trào lưu thơ và người làm thơ thì vô khối, cựu trào
có, tập tễnh có, nổi tiếng lẫn "chìm" tiếng đua nhau sản xuất thơ
thật rộn rịp. Phái lãng mạn, phái hiện thực, phái cổ điển, phái tả chân. Hàn
Mạc Tử chẳng gia nhập phái nào cả, mà chàng thanh niên ngoài hai mươi tuổi tự
mình lập ra "trường Thơ Loạn" đứng riêng một cõi. Chế Lan Viên, Yến
Lan, Bích Khê…theo nhau vây quanh "ngôi sao" mới mọc ấy. Tôi biết vị
trí của tôi; tôi biết khả năng của tôi thì việc gì phải nấp bóng kẻ khác, dựa
hơi để lấy tiếng, lấy danh! Việc Hàn Mạc Tử lập ra trường phái thơ riêng chứng
tỏ ông là người có bản lãnh, có tinh thần tự lập. Tử đã sống mãnh liệt, đầy đủ
bằng lệ, bằng hồn nên chẳng quá đâu khi Chế Lan Viên viết về Tử lúc ông mới
mất: "Mai sau, những cái tầm thường mực thước kia sẽ tan biến đi, và còn
lại ở cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mạc Tử" (Hoài Thanh, Thi
nhân Việt Nam, nxb. Văn học, Hà Nội, 1997, tr. 169). Cái tôi nơi Hàn Mạc Tử thể
hiện rõ nét ở tài thơ của ông. Mới 15 - 16 tuổi đã làm một bài thơ có sáu cách
đọc:
Hoa
cười nguyệt rọi cửa lồng gương,
Lạ
cảnh buồn thêm nợ vấn vương
Tha
thiết liễu in hồ gợn sóng,
Hững
hờ mai thoảng gió đưa hương;
Xa
người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng
bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng.
Qua
lại yến ngàn dâu ủ lá,
Họa
đàn có sẵn dế bên đường
Đọc xuôi, đọc ngược, bỏ 2 chữ đầu đọc xuôi, bỏ 2 chữ đầu đọc ngược, bỏ hai chữ
cuối đọc xuôi, bỏ 2 chữ cuối đọc ngược. Hàn Mạc Tử giỏi lắm, tài lắm. Thi sĩ là
một nguyên bản, một chứ không hai, không photocopy, là một phong cách. Nguyễn
Du tả trăng:
Vầng
trăng ai xẻ làm đôi
Nửa
in gối chiếc, nửa soi dặm trường. (Truyện Kiều)
Thì
đây, Hàn Mạc Tử cũng có trăng riêng mình:
Hôm
nay có một nửa trăng thôi
Một
nửa trăng ai cắn vỡ rồi. (Một nửa trăng)
Trăng,
Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Trăng
sáng, trăng sáng khắp mọi nơi,
Tôi
đang cầu nguyện cho trăng tôi
Tôi
lần cho trăng một tràng chuỗi. (Trăng vàng trăng ngọc)
Tưởng khỏi nói thêm về trăng của Tử nữa. Trăng là con người rồi. Thơ của Tử cứ
khác người mà cứ cám dỗ người.
b) Vượt lên thực tại để đi vào cõi siêu hình:
Nói đến sáng tạo là đề cập đến việc tạo ra những gì chưa có, hoặc ít là biến
cái cũ thành cái mới. Con người sáng tạo là con người biết sống cho có ý nghĩa.
Thơ Hàn Mạc Tử mang tính triết lý nhân sinh, được che sau lớp màn siêu tưởng.
Tính tự do và sáng tạo nơi Hàn Mạc Tử còn thể hiện ở chỗ vượt lên cõi thực để
đi vào cõi siêu hình. Một người mạnh khỏe bình thường mà sống một mình sẽ
cảm thấy cô đơn biết dường nào, huống chi là người bệnh, lại bệnh nan y nữa
chứ, thì việc bị tách ra ngoài cuộc sống, mối tương quan với tha nhân bị chặt
đứt còn thảm hại và day dứt đến vạn lần. Đối với Hàn Mạc Tử, thực tại là sự
sống đang dần "trút hơi" khỏi thân xác. Hàn Mạc Tử sẽ bay lên (bay
thôi chứ không rũ bỏ) và tưởng tượng:
Ở trên
kia có một người
Ngồi
bên sông Ngân giặt lụa chơi;
Nước
hóa thành trăng trăng ra nước
Lụa
là ướt đẫm cả trăng thơm.
Người
trăng ăn vận toàn trăng cả,
Gò
má riêng thôi lại đỏ hườm.
(Say trăng)
hoặc
là:
Rủ
rê, rủ rê hai đứa vào rừng hoang
Tôi
lượm lá trăng làm chiếu trải,
Chúng
tôi kề đầu lên khối sao băng
Chúng
tôi nói chuyện bằng hơi thở.
Dần
dần hoa cỏ biến ra thơ
Chúng
tôi lại là người của ước mơ.
(Rượt trăng)
và
đây:
Máu
tim ta tuôn ra làm biển cả
Mà
sóng lòng dồn dập như mây trôi…
…Ta
đi thuyền trên mặt nước hồn ta
…Ta
cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta
(Biển hồn ta)
Ở đâu ra "hai đứa", rồi lại còn giặt lụa sông Ngân? Hàn Mạc Tử đã tái
tạo ra "một đứa" để cùng chơi đùa, cùng tung tăng bên các vì tinh tú
và chèo thuyền trong vũng hồn mình. Có ai đi thuyền như Hàn Mạc Tử chưa? Hồn là
nơi gần nhất, gần đến độ không có khoảng cách, nhưng mấy ai quay về hồn mình để
thủ thỉ với nó, lắng nghe những điều nó nói. Đấy, một nét sáng tạo của Tử,
"bịa" ra một hồn để tâm sự. Thơ của Tử là loại thơ: "Chỉ thỉnh
thoảng ta mới tìm đến ông. Đó là những lúc lòng ta, trí ta, cách nghĩa về thế
giới của ta vượt ra khỏi khuôn khổ thông thường, ta thấy chung quanh quá nhàm
chán và cảm thấy muốn được giải thoát" (Vương Trí Nhàn, Cánh bướm và đoá
hướng dương, nxb. Hải Phòng, 1999, tr. 141). Kinh hãi quá thôi, Hàn Mạc Tử đã
giúp người đến thơ ông được giải thoát bằng cách:
Hồn
hãy thoát ly ra ngoài tâm tưởng
Là
hồn đừng nghĩ ngợi đến hồn trong
Cứ
để mặc hồn ngoài bay lưởng vưởng
Ngao
du cùng khắp cõi trí mênh mông.
Rồi
hồn ngắm tử thi tan rã
Bốc
thành âm khí nguyệt cầu xa
Hồn
mất xác, hồn sẽ cười nghiêng ngả.
Thơ Hàn Mạc Tử phần nhiều hay nói đến hồn với những trạng thái kì dị. Thật ra,
trong thơ ông ẩn chứa những kinh nghiệm thất bại. Khi bị bệnh, được gia đình và
Quách Tấn (bạn thân của Tử) lo thuốc thang; bệnh thuyên giảm, Tử hân hoan sung
sướng; bệnh tái phát, Tử như thể đang hấp hối đến nơi. Hơn thế nữa, mối tình e
ấp với Hoàng Cúc, đắm say cùng Mộng Cầm, ngọt ngào với Mai Đình, Ngọc Sương và
trong mộng với Thương Thương đã để lại nỗi đau trong Tử. Có người Tử yêu trước
khi bị bệnh, có người Tử chỉ nghe tên chứ chưa gặp mặt bao giờ. Như thế cũng đủ
gợi niềm yêu trong Tử. Mỗi người như nàng tiên đậu nhẹ nhàng trên cách hoa lòng
Tử rồi se sẽ bay đi.
Người
đi một nữa hồn tôi mất,
Một
nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
(Những Giọt lệ)
Yêu, hy vọng, thất vọng chỉ tăng thêm vết thương tâm nơi hồn Mạc Tử. Trong tác
phẩm "Những chặng đường đời", Kierkegaad đã viết: "Những ai trở
thành thiên tài, anh hùng và thi sĩ đều nhờ một thiếu nữ mà họ không cưới làm
vợ." Hàn Mạc Tử yêu sáu người nhưng chẳng cưới ai cả, vậy Mạc Tử là thi sĩ
đến sáu lần! Thi sĩ của đau khổ. Đau đớn nhất là Tử bi cách ly khỏi những người
mình thương mến:
Sao
trìu mến thân yêu đâu vắng cả
Trơ
vơ buồn và không biết kêu ai.
(Cẩm Châu Duyên)
Sống là phải có tương quan liên đới, Tử lại bị "bỏ dưới trời sâu". Vò
võ trên giường nhìn xác thân rã lần nhưng Tử gắng sống, vẫn sống và trút cả
những kinh nghiệm ấy vào thơ để suy niệm. Một cách triết lý thơ.
Triết lý ấy là gì?
"Triết lý, công việc của nhà văn sử dụng ngôn từ xây dựng khả hữu những
kinh nghiệm của tư tưởng. Khởi từ đây, mỗi ngôn từ mang dấu vết của kinh nghiệm
tư tưởng; chỉ thị một đời sống riêng, một giải pháp riêng hướng về toàn thể
hiện hữu trong diễn tiến phi chủ thể của vận hành" (Nguyễn Phùng Quân,
Chân dung triết gia, nxb. Lửa thiêng, 1973, tr.23 -24).
Thơ của Hàn Mạc Tử là những kinh nghiệm của tư tưởng và là kinh nghiệm của một
phận người, thành thử đừng có hiểu nghĩa ngôn từ diễn đạt mà cần hiểu ngôn từ
muốn hướng đến cái gì và dưới tầng ngôn từ ẩn chứa cái gì. Và như Heidegger
nói: "Duy chỉ có thơ ca đứng trên cùng một bình diện với triết lý và suy
tư triết lý" (Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học Tây phương, Trung tâm học
liệu xb., 1974, tr.18). Hàn Mạc Tử đã trực giác siêu hình, mấp mé giữa sống và
chết, giữa thực và hư. Bao suy tư dồn nén để rồi bùng tỏa. Nhờ vậy, ta mới có
thể cảm thông và thấu hiểu được tiếng thơ triết của Hàn Mạc Tử, tiếng thơ của
một thân phận làm người.
Hồn
hỡi hồn lên nữa quá thinh gian,
Tìm
tới chốn chiêm bao ngoài sự thực.
…Hồn
hỡi hồn bay ra ngoài kia mức
Nơi
thiên sầu địa thảm giới Lâm bô.
(Ngoài vũ trụ)
Tách hồn để hồn bay lên, nhưng Tử vẫn hỏi: "Ta là ta hay không phải là
ta?" Hình như sợ người sau sẽ không hiểu thơ mình, Hàn Mạc Tử nhắn nhủ
trước: "Vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn
lạnh…" Thơ nói về tình yêu, thương vay khóc mướn thi đàn Việt Nam không
thiếu. Hàn Mạc Tử cũng làm thơ tình nhưng phần thơ triết lý mới là tinh anh, như
viên ngọc trong con trai. Viên ngọc ấy ban đầu chỉ là hạt cát, ngày kia rơi vào
miệng trai, trai ngậm miệng và ngày đêm ứa lệ, lệ tích tụ quanh hạt cát và
tháng năm cát thành ngọc. Ta hãy thử dạo thăm ngôi nhà siêu hình của Tử:
Mới
hay cõi siêu hình cao tột bực
Giữa
hư vô xây dựng bởi trăng sao
…Ai
tới đó chẳng mê man thần trí.
Trí
châu báu kết bằng hương kì dị
…Trí
vô cùng lan nghĩ rộng vô biên
Cắt
nghĩa hết những anh hoa huyền bí.
Trời
bát ngát không cần phô triết lý,
Thơ
láng lai chấp chóa những hàng châu.
(Siêu thoát)
Giải nghĩa thơ không phải là công việc dễ dàng, nhất là thơ gia nhập vào thế
giới ảnh niệm; ta chỉ còn mỗi việc là ngâm lên để nó biến thành mạch máu trong
mình. Chế Lan Viên thừa nhận thơ của Tử là loại thơ: "Cứu ta khỏi sự chết
cứng dày da, giảm sút xúc cảm, giảm sút nhân tính, nhân tình. Đừng sợ nó làm ta
thoát ly. Đọc đi, bạn sẽ thấy nó làm ta thoát chứ không ly, ta thanh thoát. Ồ,
phải đấy, nó có tác dụng tẩy rửa và thanh lọc" (Lời tựa của Chế Lan Viên,
Sđd., tr. 40). Cuộc sống nhiều niềm vui chen lẫn thương đau, đôi lúc ta cần
phải thoát, ở trên cao sẽ nhìn rõ hơn. Mơ mộng một chút giúp đời thêm thú vị
lắm chứ, sao ta cứ chạy lẩn quẩn mà không dám bay. Thoát đời chứ đâu lìa đời!
3) Biết sống:
Ôi dào! Thế giới gần 7 tỷ người đang sống sờ sờ ra đấy. Họ không sống thì chết
à? Bình tĩnh lại đi, suy nghiệm kỹ vào. Sống đấy nhưng có biết sống không? Ai
cũng triết lý nhưng ít ai sống triết lý. Ai cũng ít sống triết lý nhưng ai vẫn
cứ sống. Có người sẽ bảo: "Triết lý là cái quái gì? Dẹp!". Anh dẹp
thì kệ, nhưng anh đã có lý sự "không" cho đời anh rồi. Sống là vượt
lên trên tồn tại, đạt đến mức hiện hữu. Ở Hàn Mạc Tử ta bắt gặp một con người
biết sống, sống hết mình bằng chính triết lý của mình.
a. Biết sống bằng triết lý của mình:
"Một nhà thơ triết học phải là nhà thơ nghệ thuật, có tư tưởng đặc hữu; vì
thơ triết học bao gồm hai phần: một, hình thức phải đẹp, và hai, phải có chiều
sâu tư tưởng đặc hữu. Muốn vậy người làm thơ phải có căn bản sống sâu và có
nghệ thuật diễn đạt" (Thế Phong, Hàn Mạc Tử nhà thơ siêu thoát, nxb. Đồng
Nai, 1998, tr. 5). Hàn Mạc Tử đương nhiên là nhà thơ triết học theo như định
nghĩa trên. Thi sĩ có căn bản sống sâu, tư tưởng đặc hữu. Còn nghệ thuật diễn
đạt thì có lẽ chẳng nhà thơ nào bắt chước được. Hàn Mạc Tử lăn lộn với thất
bại, phụ rẫy rồi cũng thoát xác rong chơi nẻo mơ, thành thử "ma sát"
với đời nhiều. Càng ma sát càng nóng lên ý thức cuộc sống con người. Hàn Mạc Tử
đã lấy thơ làm triết lý cho đời mình, làm thơ để viết ra những suy nghĩ trong
tâm trí mình, những gì giác quan trực giác, cảm giác được; làm thơ để họa lại
nét đẹp của thiên nhiên, nhất là để ca ngợi Đức Thánh nữ Đồng Trinh Maria, tụng
ca Đức Chúa:
Hỡi
sứ thần Thiên Chúa Gabriel,
Khi
Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ,
Người
có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người
có nghe náo động cả muôn trời?
Nguời
có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để
ca tụng - Bằng hoa hương sáng láng,
Bằng
Tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng.
(Ave Maria)
(Ave Maria)
Thơ tôn giáo ở nước Nam này hiếm lắm, nhất là thơ về Chúa. Các cụ nhà đạo ngày
xưa cũng có làm vè các Thánh, soạn kinh nói về đạo thánh Chúa, nhưng chỉ phổ
biến cho các bổn đạo thôi, thành thử ít ai chú ý. Bỗng nhiên đùng một cái, làng
thơ Việt Nam toác làm đôi, một nguồn thơ sáng láng ra đời. Người ta xôn xao bàn
tán thơ cũ, thơ mới, nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh… Người
ta chứ không phải tôi. Hàn Mạc Tử vững vàng theo lối thơ riêng mình, một lối
thơ lấy cảm hứng trong tôn giáo, ca khen mầu nhiệm đạo. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc
Phan quả quyết: "Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mạc Tử. Tôi dám chắc rồi
đây còn nhiều thi sĩ sẽ tìm nguồn hứng trong đạo giáo và đưa vào thi ca con
đường triết học" (Vũ Ngọc Phan, Sđd., tr. 713). Trước Tử xa, người ta đã
làm thơ về đạo rồi, nhưng đấy là đạo Phật, đạo Khổng. Đạo Chúa được truyền vào
Việt Nam ngót ba trăm năm mà hãy còn xa lạ, "Tây" quá, nói chi đến
việc làm thơ về Chúa. Hàn Mạc Tử tiên phong, hân hoan xây cung điện bằng thơ
dâng Chúa, cho nên Tử đứng riêng một cõi. Triết lý của Tử là thế. Làm thơ để ca
tụng Chúa, ca tụng Thánh nữ Maria bằng hoa hương sáng láng, bằng Tràng hạt,
bằng Sao Mai. Ai chê điên chê dại là họ chê, mình vẫn là mình, miễn sao triết
lý ấy làm mình sống trọn ý nghĩa của một hữu thể tại thế.
Làm thơ đâu chỉ để kiếm miếng cơm manh áo, kiếm chút tiếng tăm. Đau khổ của Hàn
đã hóa thành thơ, thơ hóa triết lý siêu thăng. Quả vậy, "Nếu không mất
mát, chẳng ai để ý đến việc tìm kiếm; nếu chẳng khổ đau không ai mơ ước điều
sung sướng; nếu không có cái chết, không ai đi tìm lẽ sống mà làm gì"
[13]. Nhà thơ Quy Nhơn đã mất mát, đã chết hụt, đã cảm nghiệm đau khổ cố nhiên
thấm thía được cái được, cái có và cho ra:
Ta
cho ra một dòng thơ rất mát
Mới
tinh khôi và thanh sạch bằng hương.
Trời
như hớp phải hơi men ngan ngát,
Ừ, thơ mát để tưới rửa vết thương thể xác lẫn tinh thần. Thơ mát dễ giúp người
ta sống, biết sống. Hàn Mạc Tử và thơ của ông thực sự hiện hữu. Ta đã quá quen
với những hệ thống triết học khô cứng, lập luận bằng những câu văn ám nghĩa,
nói những lời mà người không học triết nghe chẳng hiểu. Sẵn thơ đây của một
người dùng siêu cảm biểu tỏ một lý trí "không hiện hữu độc lập nhưng bị
vùi vào một thân phận con người nặng nề vật chất" [14]
Áo
ta rách rưới trời không vá
Mà
bốn mùa trăng mặc vải trăng.
(Lang thang)
(Lang thang)
Câu thơ và con người mặc vải trăng ấy dường như vượt ra khỏi vòng nhân gian mà
vẫn gần gũi, thường đời; cao sáng, vút lút nhưng vẫn dính dáng đến chuyện rách
rưới, vá đắp. "Chính cái phi thường trong cuộc sống đã thúc ép thi nhân
tạo ra cái phi thường trong tư tưởng" [15]. Vậy cái phi thường ấy là cái
gì? Đó chính là Hàn Mạc Tử đã đặt thơ làm bạn đời với mình và chung thủy với
thơ "khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc
mạnh khỏe".
Can đảm sống hết mình với triết lý của mình là điều vô cùng khó khăn, bởi ta là
"thân thể nặng nề vật chất" yếu đuối mỏng dòn. Triết lý của tôi là
sống thiện, triết lý của anh là yêu người nghèo…ấy là những triết lý cao đẹp.
Tất nhiên không phải ai cũng có triết lý cao đẹp. Điều xấu thì dễ thực hiện, dễ
có đủ mọi lý do để biện minh cho hành động của mình, còn điều cao đẹp luôn dẫn
ta đi về phía trước. Và lắm khi ta không cần bất kỳ giải thích nào cho thái độ
chọn lựa của mình. Hàn Mạc Tử chọn cho mình triết lý thơ để sống, mà thơ lại là
hằng số ẩn. Thế nên, triết lý của Tử là một triết lý độc đáo, riêng một - triết
lý tôn thờ Chúa qua thơ, trên thơ. Cả đời sống của Tử là bài thơ dâng Chúa. Khó
lắm nhưng Tử đã làm được. Có lúc Tử lấy Chúa làm thi hứng:
Lạy
Chúa tôi! Vầng trăng cao giá lắm
Xin
ban ơn bằng cách ánh thêm lên,
Ánh
thêm lên cho không gian rất đẫm,
Linh
hồn thơ mát rợn với hương nguyền.
(Vầng trăng)
(Vầng trăng)
Có
lúc Tử cất vang lời thơ như lời nguyện dâng Chúa:
Tiếng
pháo đi bao nhiêu kinh cầu nguyện
Để
dâng lên cho đến chín tầng mây. (Nguồn thơm)
Dầu gì đi nữa, Hàn Mạc Tử đã sống trọn vẹn với triết lý của mình. Sống trọn vẹn
một cách chân thành.
b) Tìm cái "thú" trong đau thương:
Ở đời, thường khi gặp đau khổ con người có hai thái cực: hoặc là phản kháng,
kêu rên, rủa hận; hoặc là cam chịu, đành vậy. Ẩn số của đau khổ muôn đời thách
thức con người, và con người đi tìm lời giải đáp mãi, để rồi ẩn số mãi là ẩn
số. Chi bằng ta học cách sống với đau khổ. Trường hợp Hàn Mạc Tử là một cách
sống chung với đau khổ, và ngộ lắm, Hàn Mạc Tử biến đau thương thành một cái
"thú". Thật chẳng có đau khổ thể xác nào cho bằng chính mình cảm nhận
được sự rã lần của thân xác mình. Hàn Mặc Tử rơi vào tình cảnh ấy: sự sống đang
mỗi ngày lìa bỏ thân xác, cuộc đời muốn "xóa sổ" Hàn Mạc Tử. Thi nhân
đã làm gì? Tử dùng thơ để "thánh hóa" đau thương, vật lộn với bóng
thần chết chập chờn trong phòng bệnh vào những đêm trăng cô liêu.
Không ai cả, chỉ ta với ta, Hàn Mạc Tử hóa hai, hóa ba "Hàn Mạc Tử"
khác cho có bạn, có bè. Thế là trái tim đang hoi hóp kia bỗng biến hình thành
một hồn linh động, một cá thể hẳn hoi:
Đêm
nay ta khạc hồn ra khỏi miệng
Để
cho hồn bớt nỗi bi thương.
(Hồn lìa khỏi xác)
(Hồn lìa khỏi xác)
Cả
miệng ta trăng là trăng
Cả
lòng ta vô số gái hồng nhan
Ta
nhả ra đây một nàng
Cho
mây lặng lờ cho nước ngất ngây.
(Một miệng trăng)
(Một miệng trăng)
Anh
đã thoát hồn anh ngoài xác thịt
Để
chập chờn trong ánh sáng mông lung. (Sáng láng)
Hóa hồn để thoát nỗi đau nơi thân xác nhưng nhiều khi Tử quên đi là mình đang
chơi một trò chơi chỉ mình Tử mới có thể nghĩ ra, và Tử hỏi:
Hồn
là ai? Là ai? Tôi chẳng biết,
Hồn
theo tôi như muốn cợt tôi chơi…
…Hồn
là ai? Là ai? tôi không hay,
Dẫn
hồn đi ròng rã một đêm nay
Hồn
mệt lả và tôi thì chết giấc.
(Hồn là ai)
(Hồn là ai)
Ai
đi lẳng lặng trên làn nước
Với
lại ai ngồi khít cạnh tôi,
Mà
sao ngậm kín thơ đầy miệng
Không
nói không rằng nín cả hơi?
(Cô liêu)
(Cô liêu)
Giả như Hàn Mạc Tử không có đạo chắc chắn ta nghĩ thi nhân bị "ma
ám", hoặc ít ra là bị ảo giác nặng. May quá, Tử vẫn tỉnh táo nhận biết
rằng:
Ôi
hồn thiêng liêng không hề chết đặng,
Làm
sao hồn chẳng hiểu nghĩa vô biên.
Ngày
tận thế là ngày tán loạn,
Xác
của hồn, hồn của xác y nguyên
(Hồn lìa khỏi xác)
(Hồn lìa khỏi xác)
Và
Tử cũng nhủ lòng rằng:
Đừng
ngả tay mà hứng máu trời sa,
Thôi
kéo về đừng cho lòng bay xa…
(Đừng cho lòng bay xa)
(Đừng cho lòng bay xa)
Đau thương giờ đây chẳng có ý nghĩa chết chóc gì nữa, Tử biến đau thương thành
một thú vui; Tử đùa cợt với nó, rong chơi với nó, nhân hình hóa nó thành gái
hồng nhan, thành người ngồi khít cạnh. Đau đớn thân xác phải đầu hàng sức mạnh
trí tưởng tượng của Tử. Càng đau tiếng thơ càng trổi cao:
Tôi
ước ao là tôi ước ao,
Tình
tôi vô lượng sẽ dâng cao
Như
bông trăng nở, bông trăng nở,
Những
cánh bông thơ trắng ngạt ngào.
(Ước ao)
(Ước ao)
Và lại nữa, Tử đâu chỉ biết mỗi hóa hồn; Tử vươn ra ngoài không gian, chơi vơi
theo ánh trăng và "nên một" với ánh sáng kì ảo của trăng. Người ta
bảo rằng mỗi lần trăng rằm, bệnh nhân phong bị cắn rứt nhiều hơn các ngày khác.
Điều này còn đang nghi ngờ. Ta chỉ biết "trăng hóa" là một cách khác
mà thi sĩ họ Hàn làm cho đau thương trở nên có ý nghĩa. Thơ Tử lung linh huyền
ảo toàn trăng là trăng. Trăng giống như hồn vậy, cũng được Tử biến hóa. Hãy
hình dung vào đêm trăng, linh hồn Tử thoát khỏi xác và uống trăng, ngủ với
trăng, say trăng, rượt trăng, chơi trên trăng, ưng trăng. Có khi Tử thích quá
vỗ tay reo: trăng vàng trăng ngọc, một miệng trăng, sáng trăng; có khi Tử và trăng
giận nhau và trăng tự tử.
Đây,
trăng hồn Tử cũng quỳ uốn éo, cũng mắc cỡ, cũng lơi lả:
Bỗng
đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp
mặt xuống uốn mình theo dáng liễu
Lời
nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu.
(Hãy nhập hồn em)
(Hãy nhập hồn em)
Con
Trăng mắc cỡ sau cành thông
Buồn
buồn ta muốn về, trăng hỏi:
Thu
đến lòng em có lạnh không?
(Tình thu)
(Tình thu)
Bóng
Hằng trong chén ngả nghiêng
Lả
lơi tắm mát làm duyên gợi tình.
(Huyền ảo)
(Huyền ảo)
Hàn Mạc Tử sống bằng tim, bằng phổi, bằng hồn của mình nên đau khổ chỉ là trò
đuổi bắt. Đừng vội thấy Tử đau bệnh rồi chạy lại an ủi: "Thôi, Thánh giá
Chúa trao, mai mốt được ơn phúc; thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Chúa để đền
tội; đừng buồn, cố gắng bệnh sẽ khỏi…". Đã không những chơi đùa với đau
thương, Hàn Mạc Tử còn khuyên ngược lại những người khuyên nữa kia:
Lau
mắt đi đừng cho lệ đầy vơi.
Ớ
Địch ơi lệ có nguồn,
Hãy
chia bớt nửa nỗi buồn sang tôi.
Mật
không đắng ân tình không thú vị.
Ta
còn trìu mến biết bao người.
Cái
"thú" đau thương nơi Tử còn bật ra tiếng cười giòn giã, tiếng cười hả
hê, reo vui:
Ha
ha! Ta đuổi theo trăng
Ta
đuổi theo trăng,
Trăng
bay lả tả ngả trên cành vàng. (Rượt trăng)
Bắt!
Bắt! Thơ bay trong gió loạn
Để
xem tình tứ nặng bao cân.
(Ước ao)
(Ước ao)
Nghe nhịp câu:" Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!" ta ngỡ
đứa trẻ nhịp chân sáo trên đồng cỏ, khác xa với anh chàng "điên dại".
Nguyễn Văn Xê, người bạn đồng bệnh với Hàn Mạc Tử kể: "Mường tượng lại
những sinh hoạt của Trí trong những ngày sống ở Quy Hoà, tôi thú thật chưa bao
giờ nghe Trí nhắc đến một nàng con gái nào, chứ đừng nói là kêu gào, than khóc,
nhớ thương, mộng tưởng như trong thơ Hàn Mạc Tử. Và tôi cũng chưa hề thấy Trí
khóc lần nào dù chỉ là một giọt lệ âm thầm… Nói đến cái chết thì tôi thấy Trí
rất tỉnh táo, không lo sợ mà sốt sắng dọn mình…"[16].
Và cũng chính Hàn Mạc Tử cũng thường nói với bạn bè: "Chết, đó là ngưỡng
cửa phải bước qua để đi đến cõi vĩnh viễn." Bằng thái độ ung dung tự tại
như thế, Hàn Mạc Tử đã ‘‘thị hiếu’’ về cái chết của chính mình:
"Một
khối tình nức nở giữa âm u,
Một
hồn đau rã lần theo hương khói,
Một
bài thơ cháy tan trong nắng dọi,
Một
lời run hoi hóp giữa không trung,
Cả
niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng,
Hóa
thành vũng máu đào trong ác lặn."
Đấy
là tất cả người anh tiêu tán
Cùng
Trăng Sao bàng bạc xứ Say mơ
Cùng
tình em tha thiết như văn thơ
Ràng
rịt mãi cho đến ngày tận thế.
(Trường tương tư)
(Trường tương tư)
Cái chết như hương khói nghi ngút tỏa vào không gian mờ nhạt. Hàn Mạc Tử đẩy
đau thương lên cực điểm, đoạn ngắm nghía cái chết. Chơi đùa mệt rồi, giờ Tử
chiêm nghiệm về sống - chết, nhưng vẫn còn tha thiết, ràng rịt. "Bắt đầu
không thấy trong người mất mát nữa, tức là bắt đầu đi vào cõi sống. Hàn Mạc Tử
đã bỏ sự mất mát lại ở cõi thế để vươn lên địa hạt siêu tưởng, giải thoát tâm
hồn mình"[17]. Đau khổ hiện diện trong cuộc sống không phải do Chúa phạt
hay bởi luật nhân quả luân hồi. Đau khổ làm giá trị đời sống con người thêm ý
nghĩa khi mà ta biết trao cho đau khổ một ý nghĩa nào đấy. Và như thế, cuộc đời
sẽ không bị quá nhiều vướng víu, lo toan, đối phó.
c. Khám phá cái đẹp nơi vạn vật:
Biết sống còn là biết khám phá cái đẹp nơi vạn vật. Hễ mất đi cái gì ta mới
thấy quý, mới trân trọng nó. Ta đi lại, nói cười và xem đấy là bình thường, khi
nào mà ta nằm yên một chỗ, lúc ấy ta mới thèm được đi, thèm được nghe tiếng
cười giọng nói, thèm nhìn nắng ban mai, thèm nhìn lũ cá bơi trong hồ, đàn kiến
bò chân tường, thèm nghe tiếng lá xào xạc, muốn được làn gió thổi mơn man trên
da… Triết lý có gì là xa xôi. Triết lý là những gì bận bịu với ta hằng ngày,
những điều nhỏ nhặt ta xem vô nghĩa lý. Hàn Mạc Tử biết sống là còn bởi ông
biết trân trọng và luôn ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật, quý yêu
cái tầm thường. Nhà văn Nguyễn Tuân có lần đã nói: "Khi nào mà người ta
không biết sửng sốt nữa thì chỉ còn cách trở lại nguyên bản của mình là bụi
bặm". Khởi đầu của mọi khám phá, triết lý là sự ngỡ ngàng, nghi ngờ. Không
biết sửng sốt con người sẽ sống dửng dưng, bàng quan, thụ động.
Hàn Mạc Tử trước hết ngỡ ngàng với chính bản thân mình cho nên mới hồn hóa, trăng
hóa, sau nữa là lắng nghe tiếng thở của vạn vật. Động từ "nghe" lốm
đốm trong thơ Tử. Con người có thói quen nói nhiều hơn nghe, nhìn cho no mắt
hơn là quan chiêm. Vậy nên Tử mới khuyên:
Ai
hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để
nghe dưới đáy nước hồ reo
Để
nghe tơ liễu rum trong gió
Và
để xem trời giải nghĩa yêu.
(Đà Lạt trăng mờ)
(Đà Lạt trăng mờ)
Lắng nghe đi! Lắng nghe mới khám phá hết được những nét đẹp nơi vạn vật mà
người khác không biết, chưa biết. Anh nhìn, tôi cũng nhìn; anh khen đẹp, tôi
cho là hay. Chẳng khác gì nhau. Hơn nhau là ở chỗ biết lắng đọng tâm hồn để cảm
nhận. Hàn Mạc Tử đã nhìn, đã nghe, đã cảm nhận, cho nên thơ của thi nhân mới có
chiều sâu. "Nhờ ở một nguồn thụ lực phát triển đến cực điểm, Hàn Mạc Tử là
nhà thơ Việt Nam đầu tiên biết nghe ngóng những lời âm thầm của tạo
vật."[18] Thi nhân có thính giác bén nhạy lắm, một tiếng lá rơi, một tiếng
chạm khẽ của hai đường tơ ánh sáng Tử vẫn nghe được:
Đương
khi mầu nhiệm phủ ban đêm
Có
thứ gì rơi giữ khoảng im
Rơi
tự thượng tầng không khí xuống
Tiếng
vang nhè nhẹ dội vào tim.
(Huyền ảo)
(Huyền ảo)
Người
lắng nghe, lắng nghe trong đáy giếng
Tiếng
vàng rơi chìm lỉm xuống hư vô.
(Thi sĩ Chàm)
(Thi sĩ Chàm)
Ta thường ngắm trăng, thưởng thức ánh sáng dìu dịu, man mác của trăng, những
lúc ấy lòng ta nhẹ nhõm và cảm thấy an thái. Như thế thôi thì còn nghèo nàn và
chỉ thấy bề ngoài lồ lộ của cái đẹp. Khám phá nét đẹp nơi vạn vật ta cần vận
dụng hết mọi giác quan, cảm quan để bỡ ngỡ, quan chiêm. Như Hàn Mạc Tử chắc hẳn
phải dồn tâm hồn mình vào một góc mới có thể nghe được tiếng rơi của ánh trăng,
của "thứ gì" giữa khoảng im, trong đáy hư vô. Mọi sự thảy qua đi, vạn
vật là phù vân, cát bụi; đời người là cánh hoa nội cỏ trong gió thoảng, con
người là cát bụi, nhưng là "cát bụi tuyệt vời" cho nên cố chộp bắt được
khoảng khắc vô thường, vụt qua của vạn vật để làm đời mình thêm phong phú, ý
nghĩa.
Hàn Mạc Tử biết nhận ra sự chóng qua của vạn vật, nhất là sức sống nơi thân xác
mình, nên đã quyến luyến:
Còn
đâu tráng lệ những ngày xanh,
Mùi
vị thơm tho một ái tình.
Đố
kiếm cho ra trong lớp bụi,
Ít
nhiều hơi hám của kiên trinh.
(Thời gian)
(Thời gian)
Biết sống là sống trọn vẹn hiện tại, ngay giờ đây và không xem cái gì là bình
thường, nhàm chán, cũ rích. Những mái tranh nghèo, giọt nắng ban mai, đôi tà áo
biếc cũng đủ biến thành thơ:
Trong
làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi
mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột
soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên
giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
(Mùa xuân chín)
(Mùa xuân chín)
Khả năng biết khám phá tái dựng của Tử là ở đây. Nắng, gió, hoa, trăng đã quá
quen thuộc với ta rồi, vậy mà đọc thơ Tử vẫn thấy hay như thường, vẫn khiến ta
ngơ ngác như thường. Ai biết rung cảm tâm hồn thì không thể không nao lòng khi
nghe điệu nhịp của nắng chang chang nơi quê xưa:
Khách
xa gặp lại mùa xuân chín,
Lòng
trí bâng khâng sực nhớ làng.
Chị
ấy năm nay còn gánh thóc,
Dọc
bờ sông trắng nắng chang chang?
(Mùa xuân chín)
(Mùa xuân chín)
Ai
nao lòng sẽ có cùng một trật hành động giống như Tử:
Mỗi
khi mưa ngớt, cơn giông qua
Xắn
áo ra vườn ta lượm hoa,
Những
cách vô duyên theo gió rã,
Vừa
cuời, vừa khóc, ta chôn hoa.
(Nói chuyện với gái quê)
(Nói chuyện với gái quê)
Biết
sống, Hàn Mạc Tử yêu quý những khoảng khắc và tận dụng những cái vụt qua để làm
cho đời thêm ý vị. Nhẹ nhàng thôi, Hàn Mạc Tử năn nỉ:
Tôi
lạy muôn vì tinh tú nhé,
Xin
đừng luân chuyển để thời gian
Chậm
đi cho kẻ tôi yêu dấu
Vẫn
giữ màu tươi một mỹ nhân.
(Thời gian)
(Thời gian)
Thời
gian cứ dần trôi; Hàn Mạc Tử cứ âm thầm lắng nghe nhịp đập của thiên nhiên vũ
trụ, vẫn "lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi". Chỉ ai có đủ bản lĩnh, thấu
thị tận thâm sâu ý nghĩa và chất đẹp nơi mọi tạo vật mới có thể làm công việc:
Đo
từ ngọn cỏ tới cung trăng
Những
sợi hào quang, những thước vàng.
(Uớc ao)
(Uớc ao)
Nhìn
tinh tế, nghe tinh tế, cảm tinh tế mới biết khám phá.
Quách Tấn nói Hàn Mạc Tử " thờ Chúa trên thơ" và đúng như vậy. Trong
lãnh vực sáng tạo nghệ thuật, người thi sĩ sáng tác theo quan niệm riêng mình
và thả hết tâm tưởng vào thế giới bí mật riêng biệt ấy. Hàn Mạc Tử đã bay bổng
trong nghệ thuật huyền ảo, và đôi lúc đặt mình vào "ngôi sáng tạo".
Thế rồi, ý thức mình là người Công giáo, Tử chuyển "ngôi sáng tạo" ấy
thành một tư thế quỳ lạy Đấng Tuyệt Đối; Tử khơi mạch thơ theo hứng cảm Công
giáo. Trong người Tử xốn xao và "trận chiến tinh thần thử thách đức tin
sống động của nhà thơ toát ra những yếu tố thiết yếu của một thi nghệ được minh
hoạ bằng thi phẩm sáng tạo theo nguồn cảm hứng Công giáo" [19]. Trận chiến
đức tin giữa một bên là "thi sĩ kẻ lên trăng" và bên kia "thi sĩ
của đạo quân Thánh giá" đã làm cho đức tin của Tử được trau luyện. Tử cung
kính:
Ta
chấp hai tay lạy quỳ hoan hảo
Ngữa
trông cao, cầu nguyện trắng không gian,
Để
vừa dâng, vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở
một lượt giàu sang hơn Thượng Đế.
(Đêm xuân cầu nguyện)
(Đêm xuân cầu nguyện)
Rồi
thấy "giàu sang hơn Thượng Đế" là phạm thượng, là ngạo nghễ, Hàn Mạc
Tử vội:
Tôi
van lơn thầm nguyện Chúa Giêsu
Ban
ơn xuống cho mùa xuân hôn phối,
Xin
tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của
bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng.
Trong
bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng
(Đêm xuân cầu nguyện)
(Đêm xuân cầu nguyện)
Khi vào bệnh viện phong Quy Hoà, Hàn Mạc Tử thầm nguyện xin nếu Chúa ban cho
khỏi bệnh sẽ đốt tập "Thơ điên", bởi Tử dám xây cho mình một toà
riêng, tự phong mình là vua, là chúa của lòng mình; Tử tạo ra hồn, tạo ra
"một nàng". Làm thơ có quyền sáng tạo chứ, nhưng Tử là con chiên
ngoan đạo, thờ Chúa trên thơ nên không thể đánh mất đức tin của mình. Tử từ bỏ
những hình ảnh kì quái, những ngôn từ bí hiểm để trở về sự thuần chất, thanh
sạch của đức tin đã nâng đỡ Tử trong những lúc nguy tử. Từ đây, thi sĩ họ Hàn
nhảy một cú nhảy từ địa hạt siêu thực, tưởng tượng hư ảo sang "miền
đất" trực cảm tâm linh.
Trong niềm đau kinh dị, Hàn Mạc Tử đã rơi vào thế giới cảm giác siêu nghiệm.
Rồi khi tâm hồn bình tĩnh an thái, Tử chiêm nghiệm đau khổ, sự chết. Tử đốn
ngộ. Tử nảy sinh cảm thức thần thiêng - "Thứ tình cảm kỳ bí thuộc bản tính
người, và vì tính khác lạ của tình cảm đó, nên người ta mới "ý thức"
nổi một thế giới khác lạ" [20]. Hàn Mạc Tử "ý thức" một thế giới
thần thiêng, một thế giới khác lạ "không phải là không thể hiểu, mà là bế
tắc hiểu biết. Không phải chỉ là ngạc nhiên, mà là sững sờ đến tê liệt. Một
kinh nghiệm không giống bất cứ kinh nghiệm nào." [21] - Ý thức của Tử thấm
nhuần tinh thần mộ mến tôn giáo.
"Những đau khổ mênh mông của nhà thơ nhập vào khuôn khổ nhiệm cục Thiên
Chúa, đôi lúc ánh sáng của nhiệm cục loé sáng dưới sức thúc đẩy của ân sủng, và
gợi hứng cho nhà thơ sáng tác những thi phẩm đậm chất huyền bí tạo nên niềm xúc
động" [22].
Những
đau khổ của Hàn Mạc Tử "lọt" vào khoảng không thần thiêng mang tính
trực cảm. Tử chới với và diễn đạt:
Bút
tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí
tôi hớp bao nhiêu là khí vị…
Và
trong miệng ngậm câu ca huyền bí
Và
trong tay nắm một nạm hào quang… (Ave Maria)
Thơ của Tử trước kia u mê với hồn, say sưa cùng trăng; nay sáng láng, ngợp
hương kinh, đầy hoa phẩm tiết. Cả tâm trí và thể xác Tử hoà nhập vào thần
thiêng Siêu Việt và tỏa nghi ngút khói thơ:
A!
A! A!
Thiên
địa đắm hoang mang
-
Là đương khi thờ lạy cả Thiên Đàng,
Bay
những tiếng tung hô Thánh Đức
Muôn
thần phẩm trong lâng lâng chầu chực,
Anh
hào quang chan chói ngất lưu ly!
Ôi,
cao sang không ví trọng ai bì,
Trên
nước cả có vô vàn châu báu.
Trí
rất ngớp, bởi chưng xuân hồn hậu,
Đã
ra đời, theo lịnh của Ngôi Hai.
Ôi
Thánh tai, thánh tai, và thánh tai!
(Ra đời)
(Ra đời)
Đọc những lời thơ ta tưởng như đang hiển hiện trước mắt cảnh hoang sơ của thời
tạo thiên lập địa, và cảnh vật chan chói ra đời "theo lịnh của Ngôi
Hai"; ta xướng lên tựa thể lời kinh trong Thánh vịnh. Bằng say mê hứng
cảm, Hàn Mạc Tử chiếm lấy thần thiêng và để thần thiêng bao phủ mình.
"Hàn Mạc Tử không tính chuyện kéo Thượng Đế về cuộc sống phàm trần mà chơi
vơi đuổi theo Thượng Đế và trong cuộc truy đuổi đó, sẵn sàng thánh hoá…Hàn Mạc
Tử đi vào cõi hư vô như một con chiên ngoan đạo, áo quần tơi tả mà đi, chân đất
mà đi, vấp ngã lại đứng dậy bước thấp bước cao đi tiếp".
Tử lạc vào vườn địa đàng và thơ thẩn trong nguồn sáng. Tử hoà nhập vào thần
thiêng bởi lòng say mến Siêu Việt. Cho nên Tử "lữ hành", biến tan
trong Toàn thể để múc nguồn xúc cảm và trào ra thơ.
Âm
điệu "Thánh tai" được Hàn Mạc Tử giải thích đấy là danh từ biểu lộ sự
hoan hỉ và cung kính đối với Thiên Chúa. "Ôi Thánh tai, thánh tai, và thánh
tai!", lời thơ là tiếng tung hô của muôn vì rất thánh, muôn thần phẩm. Có
lẽ hoà trong tiếng tung hô ấy có tiếng của Hàn Mạc Tử dưới trần gian đang sấp
mình thờ lậy Chúa, đang hướng về Đấng Tuyệt Đối, Đấng Tạo Dựng.
Hàn Mạc Tử như được tưới gội trong "ánh hào quang chan chói ngất lưu
ly" và mạnh mẽ khoác áo chiến bào, vươn cao tung hô:
Đây
thi sĩ của đạo quân Thánh giá
Nửa
đêm nay vùng dậy để tung hô,
Để
sớt ca cho xuân xuân thiên hạ
Hương
mến yêu là lộc của lời thơ.
(Nguồn thơm)
(Nguồn thơm)
Quả thật, "với Hàn Mạc Tử thơ có một sự quan hệ phi thường. Thơ chẳng
những để ca tụng Thượng Đế mà cũng để nối người ta với Thượng Đế, để ban ơn
phước cho cả thiên hạ". Hàn Mạc Tử làm bài thơ "Đêm xuân cầu
nguyện" để "tặng cả và thiên hạ", để "ướp lời thơ thành
phước lộc đường tu". Tử dùng thơ làm sợi dây nối với Thiên Chúa, và Tử leo
lên tụt xuống, đồng thời ngửa trông cao xin ơn phước cả. Từ cõi phàm trần, Tử
bắc thang leo lên cõi siêu hình diệu vợi:
Ta
bay lên! Ta bay lên.
Gió
tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm
Ta
ở cõi cao nhìn trở xuống:
Lâng
lâng mây khói quyện trăng đêm.
(Chơi trên trăng)
(Chơi trên trăng)
Theo như Hoài Thanh nhìn nhận: "Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể
diễn ra thành thơ mới thiệt là những tình cảm thấm tận đáy hồn đoàn thể".
Người viết hoàn toàn đồng ý như thế. Dây đàn có căng mới có thể phát ra thanh
âm; tâm hồn thi sĩ có rung cảm đến tột bực mới tiết ra thơ. Hàn Mạc Tử yêu Chúa
tha thiết, mãnh liệt, "yêu hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn", cho
nên dồn nguồn yêu thành thơ cung kính dâng lên Chúa:
Ngời
phép lạ của đứa tin kiều diễm:
Câu
cảm tạ, khong khen long cả phiếm:
Bút
Xuân thu mùa nhạc đến vừa khi
Khắp
mười phương điềm lạ trổ hoài nghi;
Cây
bằng gấm, và lòng sông toàn ngọc!
Và
đầu hôm một vì sao liền mọc.
Ở
phương Nam mầu nhiệm biết ngần mô!
Vì
muôn kinh dồn dập cõi thơm tho,
Thêm
nghĩa lý sáng trưng như thất bảo.
(Đêm xuân cầu nguyện)
(Đêm xuân cầu nguyện)
Tử cầu nguyện bằng thơ, thơ của "đức tin kiều diễm" mà Tử gọi là
"nhơn đức trọn lành"; Tử tán tạ, khong khen Chúa bằng "muôn kinh
dồn dập". Thật, chỉ có tình yêu chân thành, yêu theo khả năng yêu của mình
mới dẫn đưa ta tới Chúa. Ngoài Chúa ra, Tử kính mến Đức Maria cách đặc biệt. Tử
ca ngợi Mẹ bằng lời thơ giống như chuỗi kinh cầu Đức Bà mà các bổn đạo thường
đọc trong nhà thờ vậy. Khi dìu dặt tựa tiếng tiêu đồi cao, lúc trầm hùng dồn
dập nghẹt hơi như đoàn hùng binh Thiên sứ hợp xướng.
MARIA! Linh hồn tôi ớn lạnh.
Run
như run thần tử thấy long nhan,
Run
như run hơi thở chạm tơ vàng…
Nhưng
lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.
Lạy
Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu
nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
…
Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ,
…
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,…
(Ave Maria)
(Ave Maria)
Thi nhân ca tụng Mẹ Maria với niềm xúc động sâu xa, thành tín, say ngất. Tử yêu
Mẹ "lút trí khôn và ám ảnh hương lòng". Nhạc sĩ Hải Linh đã phổ nhạc
bài "Ave Maria" của Tử, và khi cung nhạc cất lên thì:
Thơ
cầu nguyện là thơ quân tử ý
Trượng
phu lời và Tông đồ triết lý,
Là
nguồn Trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh,
Là
nguồn Đau chầu luỵ Nữ Đồng Trinh.
(Ave Maria)
(Ave Maria)
Cảm thức thần thiêng hàm chứa lòng mộ mến, tin tưởng ký thác, vượt ra ngoài trí
hiểu, ta chỉ có thể cảm mà không giải thích được. Nơi Hàn Mạc Tử ta nhận thấy
một khả năng hiệp thông Siêu Việt. Chính Tử bảo mình là "Thánh thể kết
tinh", là "miêu duệ của muôn vì rất thánh". Tử "thánh
hoá" những đau khổ, mất mát; Tử quên những tình phụ, bội ước; Tử vuợt
thắng được nỗi ám ảnh của cái chết để thông phần vào nhiệm cục Thiên Chúa. Cả
đời và thơ của Hàn Mạc Tử thể hiện một cá tính có ngôi vị khát khao hướng về
Huyền Nhiệm Siêu Việt.
IV.KẾT LUẬN
Thơ Hàn Mạc Tử vốn rất khó hiểu, thứ nhất: lời thơ mới lạ, thứ hai: ý thơ mông
lung, vuợt ra khỏi khuôn khổ của ngôn từ. Dầu vậy, khi xuyên qua lớp ngữ nghĩa,
ta gặp được những tầng nghĩa của một phận người hoi hóp, một triết lý nhân
sinh. Và trên hết, đó là thái độ sống trọn vẹn với những bất toàn của thân xác,
biết thăng hoa những giá trị của đau khổ. Hàn Mạc Tử là một thiên tài thơ thì
đã hẳn. Ai đến với thi nhân chỉ để thưởng thức tài nghệ văn thơ thì cứ việc,
điều ấy cũng tốt. Sẽ tốt hơn nếu ta khám phá ra được cách sống biết sống của
nhà thơ. Đấy là óc tự do và sáng tạo, sống hết mình bằng triết lý của mình; đấy
là sự thể hiện một cái tôi bằng khả năng biến đau thương thành trò chơi, xem
cái chết là cuộc rượt bắt và tìm ra cái đẹp nơi vạn vật.
Hàn Mạc Tử là nhà thơ Công giáo đã lấy thơ làm triết lý cho hành trình sống. Và
đặc biệt, dùng thơ như là cách thức để vươn hồn lên tới Chúa, vươn lên Chúa
trong trạng thái hứng khởi, đê mê nhiệm mầu. Lời hoa mỹ thường là lời không
thật. Chỉ mong xem thơ Tử như là một cách sống triết giữa muôn kiểu triết lý.
Ta hằng ngày đọc kinh nhật tụng, ngợi ca Chúa bằng thơ đấy thôi. Lối triết -
thơ của Tử khiến ta suy nghĩ, khiến ta sống hết mình theo khả năng, theo cách
riêng mình có và như thế, ta sống thật với mình.
Để kết, xin mượn lời thơ của Hàn Mạc Tử viết về ‘‘hậu lai’’ của chính thi nhân:
Đừng tưởng ngàn xưa còn phảng phất
Nơi làn gió nhẹ lúc ban đêm
Hồn xưa từ ấy không về nữa
Ở cõi hư vô dấu đã chìm.
Không về nữa thì không về nữa nhưng dấu không chìm. Thơ vẫn phảng phất hương
triết và cần toả trong xã hội hiện nay đấy, Hàn Mạc Tử ạ!.
Tài
liệu tham khảo.
1.
Nguyễn Hoàng Đức, Ý hướng tính văn chương, nxb. Văn hoá Dân tộc, 1999.
2.
Karl Jaspers, Triết học nhập môn, Lê Tôn Nghiêm dịch, Trung tâm học liệu
xb.,1969.
3.
Nguyễn Tấn Long, Thi nhân tiền chiến, Sống Mới xb.,1969.
4.
Vương Trí Nhàn, Cánh bướm và đoá hướng dương, nxb. Hải Phòng, 1999.
5.
Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, nxb. Khoa học xã hội, 1989.
6.
Thế Phong, Hàn Mạc Tử nhà thơ siêu thoát, nxb. Đồng Nai, 1995.
7.
Nguyễn Phùng Quân, Chân dung triết gia, nxb. Lửa Thiêng, 1973
8.
Hoành Sơn, Dẫn vào triết với triết cơ bản, Fullerton, 1995.
9.
Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam, nxb. Văn Học, 1997.
10.
Bùi Tuần, Triết học và học triết, Long Xuyên.
11.
Phạm Xuân Tuyển, Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử, nxb. Văn Học, 1997.
12.
Thơ Hàn Mạc Tử, nxb. Sở văn hoá và thông tin Nghĩa Bình, 1988.
13.
Nguyễn Trọng Viễn, Trăm năm trong cõi người ta, Học viện Đaminh, 1995.
14.
Võ Long Tê, "Nghệ thuật và đức tin của Hàn Mạc Tử", Tập san Chân Lý,
số 3/ 2000.
Nguyễn Mai Thành













Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét