Một số cảm nhận về tứ hay của
bài thơ “Trước vườn xưa” của Duy Tân
Mấy độ phong sương bặt dấu
giày
Hoa quên mùa nở, bướm quên bay
Xác xơ ngoài giậu màu hoa dại
Lặng lẽ bên song dáng liễu gầy
Cá nước thẫn thờ chìm góc biển
Chim trời biền biệt tím chân mây
Chợt nghe khách báo tin đầu ngõ
Trăng lại về thăm nắng lại đầy.
Hoa quên mùa nở, bướm quên bay
Xác xơ ngoài giậu màu hoa dại
Lặng lẽ bên song dáng liễu gầy
Cá nước thẫn thờ chìm góc biển
Chim trời biền biệt tím chân mây
Chợt nghe khách báo tin đầu ngõ
Trăng lại về thăm nắng lại đầy.
Duy
Tân
Khi một cây bút điêu luyện
có được một tứ thơ hay thì rất có thể người đọc được hưởng thụ một bữa tiệc
ngon lành đối với tất cả các giác quan; càng cảm nhận, càng thưởng thức, càng
chiêm nghiệm, càng ngẫm nghĩ thì càng cảm thấy mãn nguyện. Với tôi, bài thơ Trước
vườn xưa của Duy Tân là một bài thơ đạt được chuẩn tiêu đó.
Nói cảm giác chung về một
khu vườn mà tác giả rất kiệm lời.
“Hoa
quên mùa nở, bướm quên bay”
Nhưng trước hết là tâm trạng
của một người đứng trước khu vườn đầy kỷ niệm giờ đây đã trở thành hoang vắng,
tiêu điều:
“Mấy
độ phong sương, bặt dấu giày”
“Phong sương” ở đây có thể
nghĩa là gió sương, là sự biến động của thiên nhiên theo thời gian, cũng có thể
nghĩa là sương phủ (phong là gói lại). Từ lúc chia tay, sáng nào cũng có người
đến, mong tìm một dấu giày mà sương chưa kịp phủ hết. Nhưng thất vọng: Dấu giày
vẫn “bặt” - “Bặt” chứ không phải “không”, là “chẳng”. “Bặt” là chấm dứt hiện tượng
lẽ ra còn phải tái hiện. (Cũng có thể hiểu: Cái vườn đã trở nên hoang vắng lâu
ngày không ai đến thăm). Duy Tân đã phát triển ý thơ Nguyễn Du khi thăm lại vườn
Thúy:
Khu vườn ấy còn “bặt” nhiều
thứ, nhưng tác giả chỉ dẫn dụ chi tiết duy nhất là “dấu giày”. Tìm dấu giày là
cách nói tránh tài tình về ý tìm người. Bài thơi nói về sự xa cách đã mòn mỏi
mà chẳng thấy sự hiện diện bóng dáng con người. Chỉ một từ, mà vẫn thấy hiện
lên một con người cụ thể khao khát đoàn viên: “Hoa quên mùa nở”
“Quên” chứ không phải là muộn;
khi con người cách xa nhau thì đến cả cỏ cây hoa lá cũng quên luôn cái qui luật
tự nhiên của nó; vạn vật cũng buồn lây.
Đó lá trong vườn. Ngoài vườn
thì sao?
“Xác
xơ ngoài giậu màu hoa dại”
Hoa trong vườn thì quên nở;
còn hoa ngoài vườn thì cũng chỉ là hoa dại xác xơ. Cành liễu là hình ảnh của sự
thiết tha mềm mại cũng chỉ còn là bóng dáng gầy guộc lặng lẽ bên song.
(Xin lan man nhắc lại giai
thoại về “tứ mĩ nhân” trong văn học cổ Trung Quốc như sau):
Khi Chiêu Quân tắm, cá sông
mải ngắm, quên bơi, để đến nỗi chịu xuôi tận đáy;
Tây Thi ngồi chơi trên
bãi cỏ, chim bay qua, ngó thấy sắc đẹp, sững sờ, quên cả vỗ cánh mà rơi xuống đất;
Điêu Thuyền trang điểm đúng
lúc mặt trăng bị đám mây che, Vương Doãn nhân đó mà thêu dệt “Sắc đẹp của nàng
đến Hằng Nga cũng phải thẹn mà giấu mặt vào đám mây”;
Dương Quý Phi khi ngắm hoa,
tay vô tình chạm vào cánh hoa, hoa khép lại, người đời kháo nhau: Đến hoa cũng
phải chịu nhường, chịu “chào thua” dung nhan của nàng.
Còn ở ta, trong “Cung oán
ngâm khúc”, Nguyễn Gia Thiều đã dựa các điểm trên mà viết hai câu xuất thần:
“Chìm
đáy nước, cá lờ đờ lặn
Lửng
da trời, nhạn ngẩn ngơ sa”
Cái đẹp của mỹ nữ trong văn
chương người xưa đạt đến độ
“Chim
sa, cá lặn, nguyệt thẹn, hoa nhường”
Duy Tân đã sử dụng mô típ đó
một cách sáng tạo, độc đáo để nói về sự xa cách, về nỗi buồn li biệt:
“Hoa
quên mùa nở, bướm quên bây”
“Cá
nước thẫn thờ chìm góc biển”
“Chim
trời biền biệt tím chân mây”
Đến đây, ta lại nhớ đến thơ
Nguyễn Du:
“Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu
Cái buồn đến ngay cả cỏ cây
hoa lá, chim muông cũng cảm nhận được mà chia sẻ - Buồn như vậy mới thực là buồn - Thơ đến vậy mới là thơ đích thực.
Ta hay nghe xem, cái khao
khát đoàn viên kia nó “có hậu” hay không.
“Chợt
nghe khách báo tin đầu ngõ
Trăng
lại về thăm, nắng lại đầy”
Chim khách vui mừng báo tin
cố nhân về thăm vườn cũ, ánh trăng thề ngày xưa lại vằng vặc, ánh nắng xuất hiện,
phong sương tan biến, dấu giày tất sẽ xuất hiện, hoa lại nở, bướm lại bay, chim
lại hót… Khi con người đoàn viên thì vạn vật lại trở về qui luật ngàn đời của
nó.
Bài thơ “có hậu” vì đã chuyển
được khoái cảm vào tâm hồn người đọc.
Đây là một bài thơ hay, đa
nghĩa, có thể coi là một sự tự giãi bày của vườn thơ Đường đã bấy lâu nay, qua
bao biến đổi gió sương ít người quan tâm đến. Những bông hoa của tám câu năm vần
hầu như từng quên nở; vườn hoa vắng bóng hồ điệp mặc khách tao nhân; những tâm
hồm đồng điệu thì hoặc “chìm nơi góc bể” hoặc đã “tím chân mây”. Vườn thơ Đường
có lúc tưởng chừng hoang vu thực sự.
Rồi bỗng nhiên, Nghị quyết về
văn hóa như chim khách báo tin vui. Vườn thơ Đường lại dìu dập yến oanh. “Mây,
gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” lại được sưởi ấm với những ngày nắng mới –
ánh nắng của tình yêu và bản sắc.
Chao ôi! Đã lâu lắm rồi mới
lại được chiêm ngưỡng một bài thơ Đường mang phong vị cổ thi nao buồn và đằm thắm
như vậy; được thấy một dòng chảy của văn phong tự ngàn xưa đang thấm dần vào
tâm hồn những độc giả mê thơ, đặc biệt là thơ Đường.
Đây là một giọng thơ rất
“hoài cổ” của một tác giả có cái tên rất “kim”: Duy Tân.
Lê Đức Thụy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét