Mùa thu nghiễm nhiên trở
thành đề tài hấp dẫn và “an toàn” nhất cho những người làm thơ. Bởi lẽ, chỉ cần
viết về sự rơi rụng của cảnh, xao động của tâm hồn cũng đủ tạo ra một thứ đọc
được. Thế nhưng, cũng vì lẽ đó, nó chìm dần vào thứ hỗn độn vô định của những mạch
cảm sáo mòn, của cái trung bình cảm hứng.
Thu tàn tạ
Thử đọc lại một “thói quen”
nghĩ về thơ thu ta thấy vẻ đẹp của nó như được đóng khung bởi một thứ cảm hứng
(và cũng là quan niệm) từ sự tạo sắc, điểm sương sầu muộn từ muôn vật:
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu
sơ
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn
thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết
thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như
mưa.
(Ngô Chi Lan)
Thử đọc thêm một đoạn thơ
thu khác cũng vậy:
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Ðạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Điều thú vị ở đây là sự gặp
gỡ giữa con người và tạo vật. Vạn vật sau chu kì sinh trưởng đã đến lúc thu
mình ngưng kết trong lớp vỏ khô ẩn náu tiết đông giá lạnh. Bởi thế mà những gì
quen thuộc trong mắt bấy lâu nay như sự xanh tươi, viên mãn đến lúc phải rơi rụng.
Sự biến chuyển đó kì thực cũng chỉ là một cách thay đổi trạng thái, thể thức của
thiên nhiên. Nhưng, cùng với nó là tiết trời giá rét tác động không nhỏ đến thể
trạng con người Á Đông mà với những kẻ “bị giời đầy” thì nó “biến chứng” thành
một thứ tâm bệnh. Thế nên, nhân cái sự đó mà trăm thứ tình điệu, triết lí gặp dịp
ngưng kết thành một giọng não nề. Cảnh vật tàn tạ bỗng dưng thành đẹp trong sự
mất mát. Cái mất đi đồng hành với cái quý. Cái mất đồng nghĩa cái có giá trị. Tất
cả như một thứ hồi quang chiếu ngược. Những “bóng nhạn thưa”, “sen tàn”, “lá
phong rụng”, hoa thu rơi… trở thành một thứ quy định của mĩ cảm buộc tất cả phải
phục tùng. Không thế mà Thơ mới của Lưu Trọng Lư vẫn còn say đắm với những thứ ấy: Con
nai vàng ngơ ngác/ Đạp trên lá vàng khô. Sự khác biệt ở đây có chăng là:
Xé rào cho những biểu tượng mới. Không còn là “cánh nhạn thưa” đã cũ mòn đến độ
không đủ sức gợi cảm về hình dáng, bóng vía mà ép xác vào chữ nghĩa. “Con nai
vàng” ở đây mang cái hồn của “con nai bị chiều đánh lưới” - trong thơ Xuân Diệu
- một thực thể mang tâm trạng của tác giả. Thậm chí, Chế Lan Viên còn nhắc lại
rõ ràng hơn, ông như một đại diện cho cả một thế hệ thi sĩ Thơ mới nói lên sự hứng
khởi với quan niệm về mùa thu:
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá
vàng
(Chế Lan Viên)
Mùa trước hay mùa này thì
cũng là cái sầu nhằm thiêng hóa một điển phạm lớn nhất ấy là mùa thu. Cái mùa đẹp
vì đang mất. Mất mát của mùa thu sau nghe còn thống thiết, bi lụy hơn mùa thu
trước. Bản thân trong hai sự mất mát ấy đã có những cấp độ nhằm gia tằng chiều
sâu, tạo lớp lang cho bức tranh sầu muộn mà nhiều thế hệ thi sĩ đã nương tựa
vào đó để tìm ra một cách diễn đạt riêng cho mình.
Nhưng nói như thế, không có
nghĩa là thi sĩ nào cũng ngoảnh mặt, quay lưng với thu mới mà nức tiếng khen
thu cũ. Tản Đà có lẽ là người biết gieo sầu vào hiện tại mà vẫn làm tâm can người
đọc quặn thắt vì quá khứ. Thứ tâm bệnh truyền kiếp được ông “ủ” trong hồn vía
thơ mình:
Trận gió thu phong rụng lá
vàng
Lá rơi hàng xóm lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nữa
Hờ hững ai xui thiếp phụ
chàng
Trận gió thu phong rụng lá hồng,
Lá bay tường bắc lá sang
đông
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng
không
Từ lối thơ song ngữ Hán Nôm
kiểu tự dịch của Nguyễn Khuyến nay chuyển thành lối thơ ẩn dấu gạch ngang khi
các từ ngữ nôm na và trang trọng đặt cạnh nhau là cả một câu chuyện dài. Có lẽ
áp lực của việc phản ánh thực tại, của việc tâm hồn Việt cần sự diễn đạt bằng
thứ lời lẽ thuần chủng đã buộc những người lâu nay khư khư bảo vệ Thi, Thư phải
thỏa hiệp bằng một lối thơ như thế. Chỉ có điều sự mới cũ song song đó chỉ là
tiểu tiết góp phần làm nên bức chân dung của sự mất mát mới mẻ. Một dáng hờ
“thơ thẩn” hay “tựa cửa”- tưởng mới- nhưng kì thực là hiện thân của một cái ta
mờ nhạt trong thơ cũ. Một cá thể dám đương đầu với quy luật ư? Không. Dáng tựa
cửa hay hờ hững đã là một motif quen thuộc. Người viết thường gài người
ngóng đợi ở cuối bài để làm người đọc thấy đau đớn thay cho kẻ không thức ngộ
kia.
Thu kết tinh
Nhưng đọc lại một bài thơ
thu của Nguyễn Khuyến bỗng dưng thấy nhà thơ gối đầu hai thế kỉ ấy có những cảm
nhận khá tinh tế:
Ao thu lạnh lẽo nước trong
veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo
teo
Sóng nước theo làn hơi gợn
tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh
ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng
teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân
bèo!
Đọc đến đâu cũng thấy cảnh
thu quen thuộc, thanh đạm, hợp với thứ thơ tả cảnh ngụ tình, minh họa triết lí
Nho gia. Nhưng không hẳn thế. Đọc kĩ lại chẳng có câu nào thật thu theo nghĩa
tàn héo cả. Lá vàng là hình ảnh duy nhất trên nền xanh nhưng chỉ là nét vẽ chứ
không phải màu sắc ám dụ kiểu mùa thu cổ điển. Nhưng hình ảnh còn lại đều đạt đến
sự sâu lắng và ngưng kết. Tao nhã, tung tẩy nhất là hai câu thơ này:
Từng mây lơ lửng trời xanh
ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng
teo
Trời đạt đến độ tĩnh lặng
“xanh ngắt” cũng là màu đậm nhất, tinh chất nhất. Ngõ vằng khách mà lòng người
vẫn bình thản không lo sợ a dua thói đời cũng là sự điềm đạm, tỉnh táo, giác ngộ
cao nhất chăng?
Như được tiếp thêm thi hứng
từ cảm quan về sự ngưng kết tinh túy của mùa thu, nhà thơ hiện đại nhìn ra được
cái hửng sáng, tươi tắn trong cảnh quan xưa cũ. Nhưng, để làm được điều ấy là cả
một sự dũng cảm. Xưa kia, với cái nhìn thời gian như vòng quay tuần hoàn thì mọi
biến chuyển chỉ nằm trong một chu trình. Khó mà tìm ra một cấp số tiến về đại
lượng thời gian trong sự quanh quẩn của can, chi, của hồi ức Nghiêu, Thuấn,
thái tổ, thái tông. Năm tháng rồi đến triều đại, đến số phận lịch sử đều nương
vào đó mà tồn tại trong quan niệm. Từ khi có văn minh phương Tây và nền khoa học
thực nghiệm, phân tích, đại lượng thời gian mới có cấp số tiến “bất phục phản”
theo chiều véc tơ. Sự thay đổi này đem đến một sự ám ảnh thời gian, đem lại giá
trị thực của hiện tại, của cuộc sống trần thế. Người ta bắt đầu lắng nghe hơi
thở cuộc sống, đo đếm được nhịp sống. Từ những Xuân Diệu cuống quýt: Nhanh
với chứ, vội vàng lên với chứ/ Em em ơi tình non sắp già rồi đến
Phạm Công Trứ quê kiểng cuối thế kỉ công nghiệp và ánh sáng mà vẫn viết nhưng
câu thơ về mùa thu tiều tụy:
Sen tàn mướp cũng đi tu
Lá tre đã thả một mùa heo
may
Con sông không ốm mà gầy
Mắt em không tối mà đầy
hoàng hôn
Thơ thu cứ theo chiều hướng
nhạt dần, tàn dần, cạn dần và héo dần. Cấp số tiến của thời gian chính là ngọn
gió vô hình lấy đi tất cả. Phải chăng đó là sự tỉnh táo của tư duy khoa học thực
nghiệm được khúc xạ vào văn chương thành cảm thức như thế. Nhưng đến một lúc
nào đó, khi cái thái quá, phiến diện, quá tải của cách tân qua đi, người ta sẽ
tìm ra sự kết hợp (hay hòa hợp) giữa cũ và mới để tìm ra một mẫu số cảm quan
chung. Hữu Thỉnh chính là người đã làm được như vậy:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây màu hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
(Sang thu)
Ở đây thời gian như một dòng
sông (dòng thời gian, dòng ý thức) nhưng có hai dòng chảy xuôi - ngược. Một khi
đã phả hương, đã sương khói có nghĩa là báo hiệu ngày tàn tạ. Cánh chim lạc thời
vội vã bay đi tránh rét hay cố níu lấy ngày xanh. Cơn mưa ngày hôm qua còn tưới
mát cho muôn vật giờ vơi dần, cạn dần… Thế nhưng đã có rất nhiều thứ đang đầy dần
lên, dày dặn, mạnh mẽ, cứng cáp lên. Ở cái tuổi của thu, mầm xanh hôm nào giờ
đã cứng cành, gió bão không quăng quật được nữa. Ở cái “độ thu” của đời người
cũng là lúc cứng tuổi, không biến động nào làm lung lay, xao động được nữa. Mặc
kệ cánh chim trên cao vội vã bay đi, giờ chớp được thiên thời nên dòng sông “dềnh
dàng” mà giãi bày sự sâu sa đầy chiêm nghiệm của mình. Cứ thế, một xuôi- một
ngược, một đầy - một vơi, một vùn vụt Tây phương - một tuần hoàn Á đông mà tạo
nên cảm thức mùa thu thật độc đáo. Cảm thức ấy không chỉ là sự độc đáo của
riêng những bài thơ thu mà còn thể hiện sự trưởng thành của thi ca Việt Nam.
Hay nói đúng hơn đó là một sự thức tỉnh thực sự của cảm thức mùa thu.
Bùi Việt Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét