Thăng Long - Hà Nội với sự
tiếp nhận và
Thăng Long - Hà Nội với sự
tiếp nhận và truyền bá tư tưởng thi học mới từ Trung Hoa: trường hợp thuyết
tính linh (cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XX)
1. Mở đầu
Trước đây, khi nghiên cứu về ảnh hưởng của thuyết tính linh trong tư
tưởng thi học Việt Nam thời trung đại (1), chúng tôi đã bước đầu nhận thấy một
hiện tượng đáng chú ý là dấu ấn của lí thuyết này dường như đậm nét hơn ở các tác
giả có gốc gác Bắc Hà, trong đó tiêu biểu là ở Thăng Long - Hà Nội. Bây giờ,
cùng với bước tiến của việc nghiên cứu tư tưởng thi học trung đại Việt Nam, khi
tìm hiểu rộng ra về ảnh hưởng của các lí thuyết thi học thời Minh Thanh tới tư
tưởng thi học Việt Nam trung - cận đại (2), giả hiện tượng đó càng nổi rõ. Trong
ba lí thuyết thi học quan trọng thời Minh Thanh có ảnh hưởng đậm nét trong tư
tưởng thi học Việt Nam thời trung - cận đại, ta thấy có một sự phân bố khá hài
hòa, thú vị: thuyết thần vận, thuyết cách điệu được tiếp nhận qua
"cửa ngõ" Đàng Trong với hai trung tâm nổi bật (Sài Gòn - Gia Định và
Thừa Thiên Huế)(3); thuyết tính linh dường như được tiếp nhận qua
"cửa ngõ" Đàng Ngoài với trung tâm chính là Thăng Long - Hà Nội. Bài
viết này sẽ bước đầu cố gắng tái hiện quá trình tiếp nhận lí thuyết thi học
quan trọng này và lí giải nguyên nhân cũng như vai trò của Thăng Long - Hà Nội
trong tổng thể tiến trình phát triển tư tưởng thi học Việt Nam thời trung - cận
đại. [...]
2. Nội dung
1.1. Có thể nói, từ nửa
đầu thế kỉ XVIII trở về trước, tư tưởng thi học Việt Nam còn tương đối sơ giản
với một vài quan niệm đơn lẻ, chưa thành hệ thống, như: một vài quan niệm thi học
truyền thống mang màu sắc "công lợi chủ nghĩa" của Nho gia ("ôn,
nhu, đôn hậu"; "hưng, quan, quần, oán"; "lục nghĩa",
"quan phong", "mĩ thích",...), các quan niệm thi học
"tự giác" ("thi ngôn chí", "thi tình", "thi
hứng", "sắc ngoại chi sắc, vị ngoại chi vị", "thi cảnh", cách
điệu, "thần hứng", "thi cùng nhi hậu công",...). Đứng về mặt
tiếp nhận ảnh hưởng của tư tưởng thi học Trung Hoa, tư tưởng thi học Việt Nam mới
chịu ảnh hưởng tư tưởng thi học Đường Tống (và Nguyên) là chính. Điều đó có thể
thấy qua các thư tịch Trung Hoa có liên quan đến tư tưởng thi học. [...]
Từ nửa cuối thế kỉ XVIII ("Lê mạt", "Lê quý" - theo quan niệm
của chúng tôi) trở đi, tư tưởng thi học Việt Nam mới thực sự phát triển mạnh mẽ,
phản ánh sự phát triển rầm rộ của "tục văn học", "văn học nghệ
thuật" ("văn học tự giác"). Cũng theo đó, các "khuynh hướng",
"thuyết" (hiểu theo nghĩa một hệ thống sơ giản chứ chưa hẳn là
"trường phái" - doctrine, "lí thuyết" - theory - như lí luận
văn học phương Tây) đã lần lượt xuất hiện, với các "khuynh hướng",
"thuyết" tự thân như: khuynh hướng "chủ tình"(8), thuyết
"quý chân", thuyết "tam yếu"(9), khuynh hướng trọng thị thơ
quốc ngữ (Cao Bá Quát, Phạm Đình Toái,...),... cũng như các lí thuyết thi học
chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Trung Hoa: Sớm nhất có lẽ là thuyết cách điệu,
sau đó là thuyết thần vận rồi thuyết tính linh. Từ các kết quả
nghiên cứu này, chúng tôi bước đầu nhận thấy, thuyết cách điệu và thần
vận được tiếp thu theo cửa ngõ phía Nam, bắt đầu từ Sài Gòn - Gia Định (với
nhóm Gia Định tam gia, đặc biệt là Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825); với những
tác giả người Hoa trong đó không loại trừ các thành viên nhóm Chiêu Anh
Các ở Hà Tiên,v.v...) rồi lan ra Thừa Thiên Huế và phát triển mạnh mẽ ở
nơi đây, trở thành tư tưởng thi học "chính thống" của triều Nguyễn.
[...]
1.2. Về những đặc trưng
của thuyết tính linh ở Trung Hoa, trước đây chúng tôi đã trình bày
khá chi tiết. Cũng có nhiều bài viết của các tác giả khác đã viết về nó. Ở đây,
chúng tôi xin đi vào tiến trình cụ thể ở Việt Nam thời trung cận đại trong sự
liên hệ với Thăng Long - Hà Nội. [...]
Tính linh trong quan niệm
của Lê Quý Đôn, Phan Lê Phiên, Ninh Tốn, ngoài nghĩa "tính tình" dường
như đã hàm chứa trong đó quan niệm về sự "chân thành", "chân
tình" của cảm xúc thơ. Hơn nữa, tính linh theo hai ông không chỉ
là cái tự nhiên vốn có mà còn phải "hàm dưỡng", "nung đúc",
"khuôn nặn" mới nên. Như thế thì tính linh còn bao hàm cả
trí tuệ, cả phẩm cách nữa! Đây là cơ sở để thuyết tính linh ra đời ở
thế kỉ sau mặc dù chưa có những cứ liệu cho thấy có sự ảnh hưởng trực tiếp từ
Trung Hoa. Chẳng hạn, trong các công trình biên khảo của Lê Quý Đôn chưa có nhiều
các sách thi học Minh Thanh, mà chủ yếu vẫn là Đường, Tống, Nguyên (Thi thức,
Thi cách, Thương Lang thi thoại, Hứa Ngạn Chu thi thoại, San Hô câu thi thoại,...).
Dấu ấn tư tưởng thi học Minh Thanh cũng chưa thực sự rõ nét. Như vậy, mặc dù ở
thế kỉ XVIII, thuyết tính linh chưa chính thức ra đời, nhưng nó đã được
đặt nền móng về mặt khái niệm, quan niệm tại Thăng Long, để tiếp đó các trí thức
Thăng Long - Hà Nội thế kỉ XIX kế thừa, tiếp thu thêm từ bên ngoài, tạo thành
lí thuyết tướng đối hoàn chỉnh.
Vai trò tiên phong của sự
phát triển đó, dành cho Cao Bá Quát, một trí thức có gốc gác lâu đời ở Thăng
Long - Hà Nội. Cao Bá Quát (1809 - 1855), tự Cúc Đường, hiệu Cúc Đường và Mẫn
Hiên, quê xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Phú Thị, huyện
Gia Lâm, Hà Nội), đỗ Cử nhân, nổi tiếng hay chữ, làm quan đến chức Giáo thụ (Mĩ
Đức, Hà Nội), sau nổi dậy chống lại triều Nguyễn, bị tử trận, tru di tam tộc.
Cao là danh sĩ Bắc Hà tiêu biểu nửa đầu thế kỉ XIX, được tôn xưng là
"Thánh Quát" (bên cạnh "Thần Siêu" - Nguyễn Văn Siêu, Tùng
Thiện Vương - Miên Thẩm, Tuy Lí Vương - Miên Trinh). Đến thời Cao, Thăng Long
không còn là kinh đô của cả nước, do vậy, để tiến thân Cao phải vào kinh đô mới
- Thừa Thiên Huế - nhưng không ít lần thất vọng, vấp ngã lại trở về quê hương.
Đặc biệt, Cao lọt vào mắt xanh và trở thành bạn văn gần gũi của lãnh tụ thi đàn
chính thống đương thời là Miên Thẩm - đồng thời là chủ soái của phái thần
vận, phụ trách cả việc "hầu thơ" cho ông vua sính thơ văn là Tự Đức -
có thể xem là chủ soái của phái cách điệu. Mặc dù vậy, cốt cách, văn hóa
Thăng Long - Hà Nội vẫn làm nên bản sắc riêng ở con người Cao, trong đó có tư
tưởng thi học độc đáo của ông. Dù gần gũi với "đại gia" Miên Thẩm, dưới
uy quyền Tự Đức, nhưng Cao Bá Quát vẫn không chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng thi học
của hai vị lãnh tụ này, ông vẫn có chủ thuyết riêng. Chủ thuyết đó mang màu sắc thuyết
tính linh rất rõ. Chủ thuyết này có lẽ được hun đúc từ hai nguồn: từ các bậc
tiền bối thời Lê (Lê Quý Đôn, Phan Lê Phiên, Ninh Tốn,...) với chủ trương
"quý chân", "chủ tình", đề cao tính linh; từ lãnh tụ
phái tính linh thời Thanh là Viên Mai (1716 - 1797) mà Cao Bá Quát có
nhiều sự đồng cảnh, đồng cảm.
Trong bài hậu tự (1849) (17) viết
cho Thương Sơn thi tập của Miên Thẩm, Cao Bá Quát đã trình bày một
cách tương đối cặn kẽ quan niệm thi học của mình. Phần đầu dành lời phê phán lối
thơ "ủy mị, yếu ớt", "mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao,
tô điểm có khéo nhưng tinh thần còn thấp",v.v... Ở đây, Cao Bá Quát còn dẫn
lời của Khương Tây Minh "rập theo âm kêu, câu rậm để làm khí tượng, rồi
thác là Thịnh Đường, đó chính là việc làm của những kẻ chìm ngập trong thi thoại
của các nhà, ăn món ăn của cổ nhân mà không hóa được vậy". Khương Tây Minh
tên thật là Thần Anh (1628 - 1699), hiệu Trạm Viên và Vi Gian, một nhà thơ, nhà
văn, nhà sử học, nhà thư pháp nổi tiếng cuối Minh đầu Thanh, đỗ Thám hoa năm
1697, giữ chức Hàn lâm viện biên tu, hai năm sau được bổ làm Phó chủ khảo kì
thi Hương phủ Thuận Thiên (Bắc Kinh), bị nghi gian lận trong thi cử, hạ ngục, uống
thuộc độc tự tận, sau được Khang Hi hoàng đế minh oan. Tác phẩm của ông có: Trạm
Viên tập, Vi Gian tập, Hải phòng tổng luận, Vi Gian thi tập, Tây Minh văn
sao,v.v... Về sự nghiệp thư pháp, Khương Thần Anh được xem là "Khang
Hi tứ đại gia", sở trường về chữ "tiểu khải". Ở Việt Nam, tên tuổi
của Khương Tây Minh cũng có tiếng vang nhất định. Chẳng hạn, trong Luận
thi trát tử, Miên Trinh có viết: "Các nhà thơ thời Thanh như: Vưu Đồng,
Chu Di Tôn, Khương Thần Anh, Tống Lao, Tống Uyển, Uông Uyển, Thi Nhuận Chương đều
có thể phất cờ, tự thành một đội, thi giáo ôn nhu đôn hậu không mất, đủ có chỗ
cậy vậy"(18). Tư tưởng của Khương Thần Anh là không câu nệ vào cách sáo,
không câu nệ cổ nhân, chủ trương tự do, phóng khoáng. Có thể nói, Khương Thần
Anh là bậc tiền bối có ảnh hưởng nhất định đến sự ra đời thuyết tính linh của
Viên Mai sau này. Bởi vậy, việc Cao Bá Quát dẫn lời Khương Thần Anh là điều dễ
hiểu. Ông dẫn là để phê phán lối thơ bắt chước, mô phỏng, không chân thực về
tình cảm; cũng là sự phê phán khuynh hướng tư tưởng "phục cổ", cách
điệu thịnh hành đương thời. Phần sau bài tựa dường như tranh luận trực tiếp
với Miên Thẩm - người "nối gót phái học phục cổ của hai đời Hán,
ba đời Đường" [Mai Am thi tập tự - Trương Đăng Quế) (19), "Khởi
nguồn từ Thất tử/ Bàn thơ chuyên dùng cách điệu" [Vi Dã hợp tập đề từ
- Dương Ân Thọ] (20), "tổng hòa của thần vận và cách điệu"
[Nguyễn Đình Phức] (21) - chủ trương "thi tất Thịnh Đường", học tập
cổ nhân, kịch liệt phê phán thuyết tính linh. Trong nhiều trước tác của
mình, Miên Thẩm cực lực phê phán Viên Mai, Triệu Dực, những "lãnh tụ"
của thuyết tính linh (Thương Sơn thi thoại, Thương Sơn thi tập,...).
Chủ trương "thi tất Thịnh Đường" cũng là xu hướng thịnh hành đương thời.
Câu thơ "Văn như Siêu, Quát, vô Tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy, thất Thịnh Đường"
(tương truyền của Tự Đức) cho thấy điều đó. Cao Bá Quát đứng về Viên Mai và những
người chủ trương tính linh, dù ông không trực tiếp nhắc đến. Ông yêu cầu
thơ "gốc ở tính tình", ông phê phán những bài thơ bắt chước cổ nhân
"không quan hệ gì đến tính linh cả". Tính linh trong
quan niệm của Cao Bá Quát một mặt là "tính tình" ("gốc ở tính
tình", như ông đã nhấn mạnh) nhưng mặt khác, có thể nói là "thần tình",
"linh cơ" hay sự "biến hóa". Họ Cao có cách/ dẫn lại cách
ví von khá sâu sắc: "Ví như học viết, nếu cứ theo lề lối không biết biến
hóa, thì tuy có hệt được cái mặt ngoài của lối chữ Lan Đình cũng chẳng ai thèm
kể vào đâu". Cách ví von này sau đó không lâu cũng được Bùi Văn Dị trích lại
và diễn giải như sau: "ý nghĩ đến đâu, bút theo đến đấy, là như thế. Có
người cứ dựa dẫm vào các nhà, bắt chước những việc cũ, câu chữ tuy khéo léo,
nhưng ý vị thần tình thì kém hẳn. Ví như việc học viết, nếu cứ câu chấp theo
phép tắc mà không biến hóa, thì tuy được cái mặt chữ Lan Đình, người ta vẫn thấy
chán" [Tốn Am thi sao tự tự] (22). Rõ ràng, qua nghệ thuật thư pháp, Cao Bá
Quát nói đến việc tiếp thu hồn cốt, thần tình một cách linh hoạt nghệ thuật của
cổ nhân. Nói khác đi, "học mà như không học", tức biến cái học tập
thành cái của mình, học tập nhưng phải "hóa". Để diễn giải ý này, Cao
Bá Quát mượn lời Tô Đông Pha "không học cũng xong". Câu nói của Tô
Đông Pha mà Cao trích dẫn là từ bài thơ Họa Tử Do luận thư (Họa bài
thơ Tô Tuân, tự Tử Do bàn về thư pháp) trong đó có những câu: "Ta tuy
không giỏi viết chữ/ Nhưng không ai hiểu việc viết chữ như ta/ Nếu có thể thông
cái ý của nó/ thì thường nói rằng 'không học cũng xong'/ Mặt đẹp thì dung nhan
có nếp 'nhăn mày'/ Viên ngọc xinh làm sao lại làm phương hại đến dáng tròn của
nó/ Đoan trang nhuốm vẻ tươi tắn/ Khỏe cứng bao hàm vẻ mềm mại/...". Bài thơ này thể hiện quan điểm về thư pháp của Tô Đông Pha, tức học cổ nhân là
học cái ý, cái thần của họ chứ không câu thúc vào vẻ bên ngoài, nghĩa là học
"truyền thần", lĩnh hội được cái thần của nó, chứ không cần học một
cách máy móc.
Câu thơ của Tô Đông Pha nhằm nhấn mạnh sự tự nhiên và biến hóa của ngòi bút (ông gọi là "thần vị", "chí vị"). Lời bàn về thơ của họ Tô thích hợp cho việc giải thích hai chữ tính linh mà Cao Bá Quát sử dụng. Ở đây, không nên hiểu ý Tô Đông Pha và Cao Bá Quát là họ phủ nhận học vấn, tri thức hay sự kế thừa. Họ chỉ phản đối cách học máy móc, khuôn sáo mà thôi! Có thể hiểu, "không học" ở đây là việc giữ cho tính linh luôn nhạy cảm, tự nhiên (kiểu giữ cái "đồng tâm" hay cái "sơ tâm" vậy!). Họ Cao khá tự tin vào quan niệm của mình, cho nên ông chốt lại đoạn tranh luận về thơ bằng câu: "Ai hiểu được ý ấy thì có thể cùng bàn chuyện làm thơ được". "Ý ấy" có lẽ là cái ý về sự huyền diệu của tính linh, "tính tình", không dựa dẫm kẻ khác. Rải rác ở những trước tác khác, Cao Bá Quát cũng thể hiện rõ quan niệm đó. Chẳng hạn, trong bài thơ Văn tất kỉ xuất, ông tuyên bố: "Há có đôi bàn tay khéo chạm trổ/ Mà lại đi làm bài văn bằng cách chắp vá văn của người khác?/ Chọn lời phải thật lòng từ chính mình/ Văn từ viết ra ắt hơn hẳn người khác/ Đánh cắp câu văn đồng nghĩa với cặn bã/ Câu thơ hay mới mẻ vốn từ kinh sách điển tịch mà ra/ Khí văn thông thoáng ào ạt tựa giấy cỏ rậm/ Lời văn viết ra tinh diệu như muốn vút tầng không/ Lam bản hoàn toàn không để ý đến/ Kẻ có tài văn xuất chúng ai thèm theo lối của anh/ Buông lời chân thật có thể trở thành một nhà trong thiên hạ/ Vì thế ngọn bút cũng có sức mạnh quét được nghìn quân/ Cái tự mình tìm được không giống cái mà mọi người cùng được/ Điều người khác đã nói mình cũng dễ dãi nhại theo/ Thì chỉ đáng dùng làm đồ tế khí nơi tông miếu mà thôi/ Trên đây là những lời kí vọng hết sức ân cần của tôi"(23). Theo Nguyễn Đình Phức: "Bài thơ trên có thể coi là tuyên ngôn nghệ thuật của Cao Bá Quát, quan niệm văn tự kỷ xuất, văn là sự tuôn chảy từ suối nguồn tính linh nơi mỗi con người"(24). Trong Hoa Tiên truyện tự, ông đề cao chữ "tình" trong cuộc đời và trong văn chương: "Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ..."(25). Ông phê phán những người "khinh bạc", "không xét kĩ", cho Hoa Tiên, Truyện Kiều "là loại văn dâm đãng, khúc hát lẳng lơ" mà không hiểu cái "tình", "tiếng nói răn đời", "tiếng nói hiểu đời" của chúng. Trong Thiên cư thuyết ông lại lặp lại quan điểm đó: "Đã đành rằng ồn hay tĩnh là tùy từng nơi, khổ hay vui là tùy từng cảnh, song trông thấy vật mà cảm xúc đến việc rồi lặng lẽ mà ngậm ngùi cho cái đã qua, âu cũng bởi chữ tình xui nên thế"(26). Một lần uống trà với bạn là Phan sinh, Cao Bá Quát liên hệ giữa nghệ thuật uống trà và làm thơ: "Uống trà không nên ướp hoa/ Ướp hoa sẽ mất chân vị của trà", bởi "một nắm của hiếm mà bắt mũi mình phải xem mãi những thứ không thực/.../ Áo lòe loẹt không làm cho dáng người mạnh mẽ/ Âm điệu rườm rà làm biến đổi thể thơ Đại Nhã" [Vị minh tiểu kệ đồng Phan sinh dạ tọa] (27). Trong bài Đề sát viện Bùi công Yên Đài anh ngữ khúc hậu, Cao Bá Quát tuyên bố dõng dạc: "Đóng cửa mà gọt giũa câu văn, lải nhải nhai lại từng câu từng chữ. Điều đó khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời" (28). Cũng ở đây, Cao nhấn mạnh đến trạng thái "ngưng thần", "thần tứ", "thần vị",v.v... những khái niệm không xa lạ gì với thuyết tính linh. Cũng xuất phát từ tư tưởng cởi mở của thuyết tính linh, Cao Bá Quát đã có cái nhìn khá trân trọng với thơ ca quốc ngữ. Trong Hoa Tiên truyện tự, ông khẳng định: "Sống ở đất này, có thể bỏ được tiếng quốc âm không? Không bỏ được! Ôi! Người xưa đã đem tâm chí đúc chuốt thành lời hay ý đẹp, cốt để chắp lông nối cánh cho văn chương của ta, mà ta lại coi thường được sao?". Các tác phẩm thơ quốc âm nổi tiếng của dân tộc được đưa ra đánh giá, thẩm bình với một thái độ trọng thị: "lời nói thì bi tráng, văn viết thì trầm hùng, những cái đó khác nào như bụi bặm, cám bã mà đã đem hun đúc thành gạch gói, giúp đỡ cho tác giả, khiến cho sau đây Truyện Kim Vân Kiều đã có thể xuất hiện" [Hoa Tiên truyện tự]. Mặc dù còn ngần ngại trong việc bắt tay sáng tác thơ quốc ngữ, nhưng "thiện cảm" với loại thơ này rất rõ: "Than ôi! Lấy quốc âm làm văn chương thì ta chưa dám, nhưng lấy văn chương mà coi quốc âm thì ta có phần tán thành. Nước ta từ sau Hàn Thuyên, các tác giả xuất hiện như rừng: Ôn Như Hầu làm thơ cổ cận, khuôn mẫu ngang với Thiếu Lăng; Bằng Quận công đặt điệu cung từ, ruổi rong không nhường Hán Ngụy; đến như văn hay của truyện khúc đến nay ta được thấy Hoa Tiên và Kim Vân Kiều. Như vậy, nếu chỉ coi quốc âm thì hai cuốn truyện này không có cũng được, nhưng nếu còn cần phải tiến lên, tìm cách làm thế nào cho rõ văn chương của ta, thì các bạn cùng yêu văn với ta nghĩ sao đây?" [Hoa Tiên truyện tự](29). Và quả thật, sự trọng thị quốc ngữ của ông sẽ được các thế hệ sau tiếp nối, và nó sẽ bắt nhịp được với xu hướng hiện đại hóa của văn học dân tộc ở cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. [...]
Câu thơ của Tô Đông Pha nhằm nhấn mạnh sự tự nhiên và biến hóa của ngòi bút (ông gọi là "thần vị", "chí vị"). Lời bàn về thơ của họ Tô thích hợp cho việc giải thích hai chữ tính linh mà Cao Bá Quát sử dụng. Ở đây, không nên hiểu ý Tô Đông Pha và Cao Bá Quát là họ phủ nhận học vấn, tri thức hay sự kế thừa. Họ chỉ phản đối cách học máy móc, khuôn sáo mà thôi! Có thể hiểu, "không học" ở đây là việc giữ cho tính linh luôn nhạy cảm, tự nhiên (kiểu giữ cái "đồng tâm" hay cái "sơ tâm" vậy!). Họ Cao khá tự tin vào quan niệm của mình, cho nên ông chốt lại đoạn tranh luận về thơ bằng câu: "Ai hiểu được ý ấy thì có thể cùng bàn chuyện làm thơ được". "Ý ấy" có lẽ là cái ý về sự huyền diệu của tính linh, "tính tình", không dựa dẫm kẻ khác. Rải rác ở những trước tác khác, Cao Bá Quát cũng thể hiện rõ quan niệm đó. Chẳng hạn, trong bài thơ Văn tất kỉ xuất, ông tuyên bố: "Há có đôi bàn tay khéo chạm trổ/ Mà lại đi làm bài văn bằng cách chắp vá văn của người khác?/ Chọn lời phải thật lòng từ chính mình/ Văn từ viết ra ắt hơn hẳn người khác/ Đánh cắp câu văn đồng nghĩa với cặn bã/ Câu thơ hay mới mẻ vốn từ kinh sách điển tịch mà ra/ Khí văn thông thoáng ào ạt tựa giấy cỏ rậm/ Lời văn viết ra tinh diệu như muốn vút tầng không/ Lam bản hoàn toàn không để ý đến/ Kẻ có tài văn xuất chúng ai thèm theo lối của anh/ Buông lời chân thật có thể trở thành một nhà trong thiên hạ/ Vì thế ngọn bút cũng có sức mạnh quét được nghìn quân/ Cái tự mình tìm được không giống cái mà mọi người cùng được/ Điều người khác đã nói mình cũng dễ dãi nhại theo/ Thì chỉ đáng dùng làm đồ tế khí nơi tông miếu mà thôi/ Trên đây là những lời kí vọng hết sức ân cần của tôi"(23). Theo Nguyễn Đình Phức: "Bài thơ trên có thể coi là tuyên ngôn nghệ thuật của Cao Bá Quát, quan niệm văn tự kỷ xuất, văn là sự tuôn chảy từ suối nguồn tính linh nơi mỗi con người"(24). Trong Hoa Tiên truyện tự, ông đề cao chữ "tình" trong cuộc đời và trong văn chương: "Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ..."(25). Ông phê phán những người "khinh bạc", "không xét kĩ", cho Hoa Tiên, Truyện Kiều "là loại văn dâm đãng, khúc hát lẳng lơ" mà không hiểu cái "tình", "tiếng nói răn đời", "tiếng nói hiểu đời" của chúng. Trong Thiên cư thuyết ông lại lặp lại quan điểm đó: "Đã đành rằng ồn hay tĩnh là tùy từng nơi, khổ hay vui là tùy từng cảnh, song trông thấy vật mà cảm xúc đến việc rồi lặng lẽ mà ngậm ngùi cho cái đã qua, âu cũng bởi chữ tình xui nên thế"(26). Một lần uống trà với bạn là Phan sinh, Cao Bá Quát liên hệ giữa nghệ thuật uống trà và làm thơ: "Uống trà không nên ướp hoa/ Ướp hoa sẽ mất chân vị của trà", bởi "một nắm của hiếm mà bắt mũi mình phải xem mãi những thứ không thực/.../ Áo lòe loẹt không làm cho dáng người mạnh mẽ/ Âm điệu rườm rà làm biến đổi thể thơ Đại Nhã" [Vị minh tiểu kệ đồng Phan sinh dạ tọa] (27). Trong bài Đề sát viện Bùi công Yên Đài anh ngữ khúc hậu, Cao Bá Quát tuyên bố dõng dạc: "Đóng cửa mà gọt giũa câu văn, lải nhải nhai lại từng câu từng chữ. Điều đó khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời" (28). Cũng ở đây, Cao nhấn mạnh đến trạng thái "ngưng thần", "thần tứ", "thần vị",v.v... những khái niệm không xa lạ gì với thuyết tính linh. Cũng xuất phát từ tư tưởng cởi mở của thuyết tính linh, Cao Bá Quát đã có cái nhìn khá trân trọng với thơ ca quốc ngữ. Trong Hoa Tiên truyện tự, ông khẳng định: "Sống ở đất này, có thể bỏ được tiếng quốc âm không? Không bỏ được! Ôi! Người xưa đã đem tâm chí đúc chuốt thành lời hay ý đẹp, cốt để chắp lông nối cánh cho văn chương của ta, mà ta lại coi thường được sao?". Các tác phẩm thơ quốc âm nổi tiếng của dân tộc được đưa ra đánh giá, thẩm bình với một thái độ trọng thị: "lời nói thì bi tráng, văn viết thì trầm hùng, những cái đó khác nào như bụi bặm, cám bã mà đã đem hun đúc thành gạch gói, giúp đỡ cho tác giả, khiến cho sau đây Truyện Kim Vân Kiều đã có thể xuất hiện" [Hoa Tiên truyện tự]. Mặc dù còn ngần ngại trong việc bắt tay sáng tác thơ quốc ngữ, nhưng "thiện cảm" với loại thơ này rất rõ: "Than ôi! Lấy quốc âm làm văn chương thì ta chưa dám, nhưng lấy văn chương mà coi quốc âm thì ta có phần tán thành. Nước ta từ sau Hàn Thuyên, các tác giả xuất hiện như rừng: Ôn Như Hầu làm thơ cổ cận, khuôn mẫu ngang với Thiếu Lăng; Bằng Quận công đặt điệu cung từ, ruổi rong không nhường Hán Ngụy; đến như văn hay của truyện khúc đến nay ta được thấy Hoa Tiên và Kim Vân Kiều. Như vậy, nếu chỉ coi quốc âm thì hai cuốn truyện này không có cũng được, nhưng nếu còn cần phải tiến lên, tìm cách làm thế nào cho rõ văn chương của ta, thì các bạn cùng yêu văn với ta nghĩ sao đây?" [Hoa Tiên truyện tự](29). Và quả thật, sự trọng thị quốc ngữ của ông sẽ được các thế hệ sau tiếp nối, và nó sẽ bắt nhịp được với xu hướng hiện đại hóa của văn học dân tộc ở cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. [...]
Bình luận về thuyết
tính linh, Phạm Ngọc Hiền có một nhận xét khá xác đáng rằng:
"Sang giữa thế kỉ XIX, Cao Bá Quát đề cao thuyết tính linh trong
sáng tác văn học và được nhiều nhà Nho có tư tưởng cởi mở thời đó ủng hộ. Điều
này cho thấy văn chương lúc bấy giờ đang có sự bứt phá khỏi thi pháp cổ điển để
chuẩn bị chuyển sang thi pháp hiện đại" (35). Quả vậy, sau này bước sang thời
hiện đại, thuyết tính linh vẫn được tiếp tục đón nhận, ủng hộ, tiêu
biểu là quan điểm của Phan Khôi. Quan điểm của Phan Khôi lại là đại diện cho một
lớp các nhà "Thơ Mới" trên con đường bứt phá khỏi thi pháp truyền thống
và chính thống (mà có thể nói tiêu biểu nhất cho thi pháp truyền thống đó chính
là chủ trương của các phái thần vận và cách điệu). Đây chính là
con đường Phan Khôi tìm đến thuyết tính linh mà Cao Bá Quát gần một
thế kỉ trước đây đã khởi xướng với sự nhiệt thành hiếm thấy. Cũng chính vào lúc
này, tên tuổi, sự nghiệp của Cao Bá Quát mới được người ta quan tâm tìm hiểu và
khôi phục lại mạnh mẽ.
Phan Khôi (1887 - 1959), quê
làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cháu ngoại Tổng đốc Hoàng Diệu
(1829 - 1882), trước theo Nho học, đỗ Tú tài, sau bỏ theo tân học, tham gia
Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội (1907), sau đó làm báo nhiều năm ở Hà Nội, Sài
Gòn, Huế. Sau năm 1954 cho đến khi mất, Phan Khôi chủ yếu sống ở Hà Nội. Tuy là
"người Quảng Nam hay cãi" nhưng tính cách đó có vẻ như lại thích hợp
với môi trường Hà Nội lúc bấy giờ. Phan Khôi là ví dụ tiêu biểu cho việc, một
người không có gốc gác Thăng Long - Hà Nội nhưng hấp thụ văn hóa, tri thức
Thăng Long - Hà Nội vào mình một cách đậm đà, toàn diện. Phan Khôi là học giả
có uy tín trên nhiều lĩnh vực, trong đó, về tư tưởng thi học, ông được đánh giá
cao với công trình tiêu biểu: Chương Dân thi thoại. Chương Dân thi
thoại,nguyên tên là Nam âm thi thoại, vốn là một mục trên các báo Nam
phong tạp chí(Hà Nội), Đông Pháp thời báo (Sài Gòn), Phụ nữ tân văn (Sài
Gòn), Thần chung(Sài Gòn), Trung Lập báo (Sài Gòn), do Phan Khôi phụ
trách chuyên bàn về thơ. Mục này khởi đầu năm 1918 và xuất hiện rải rác cho đến
năm 1931. Đến năm 1936, Phan Khôi tập hợp các bài viết về mục này trên các báo
xuất bản thành sách, đặt tên là Chương Dân thi thoại (Đắc Lập, Huế),...
Có thể nói, Chương Dân thi thoạilà một trong những chiếc "cầu nối giữa
thi học Việt Nam trung đại và hiện đại"(36). Trong Chương Dân thi thoại, Phan
Khôi tỏ ra tâm đắc với thuyết tính linh bởi thuyết tính linh của
Viên Mai có xu hướng tiếp cận tư tưởng thi học hiện đại và trên thực tế có ảnh
hưởng mạnh trên thi đàn Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Điều đó cũng phù hợp với tinh
thần truy cầu đặc trưng và đổi mới thơ của Phan Khôi. Nhận xét về Tùy Viên
thi thoại, công trình thi học quan trọng nhất của Viên Mai, Phan Khôi viết:
"bộ thi thoại nầy của Viên Mai, hiệu Tùy Viên là bộ thi thoại có tiếng nhất
đời Thanh, nhiều người đọc và ưa nó lắm. Tôi làm việc nầy là việc điên điên ngộ
ngộ, xin chớ ai cười!". Cái việc "điên điên ngộ ngộ" ấy chỉ là
cách nói khiêm tốn mà đằng sau là tâm huyết, nỗ lực thầm kín của ông. Với việc
dịch thơ, ông cũng có một chủ trương rất rõ ràng, theo thuyết tính linh của
Viên Mai: "Tôi muốn dịch, là muốn dịch những thơ chuyên tả tánh linh ấy
kia" (37). Tư tưởng của Phan Khôi cũng chịu ảnh hưởng của thuyết
tính linh khá rõ, như ông phê phán sự mô phỏng, rập khuôn, sáo rỗng người
xưa (thuyết cách điệu), phê phán những loại thơ cử tử, thơ "công thiếp",
thơ "khẩu khí", "thơ nhà nghề"; đề cao những tác phẩm thể hiện
tình cảm chân thật, sự sáng tạo độc đáo. Không phải ngẫu nhiên, trong Chương
Dân thi thoại, Phan Khôi phê phán cả Miên Thẩm: "Thơ của ngài vẫn hay
thật, nhưng cũng có người không phục, cho là "thơ nhà nghề" (thi nhân
chi thi); vả lại ở trong có nhiều cái khí vị vương tôn công tử, rõ là giọng thơ
quý phái, không có ảnh hưởng gì đến xã hội. Tôi đã đọc qua mấy lần cũng thấy
như vậy" (38). Quan điểm đó nhất quán trong toàn bộ công trình của Phan
Khôi và cũng chính là động lực để sau đó, ông có chủ trương đổi mới thơ ca
đương thời. Ông làm bài thơ Tình già (Phụ nữ tân văn, Sài Gòn,
1932)- bài thơ mở đầu cho phong trào Thơ Mới - cũng trên tinh thần của thuyết
tính linh: "Bởi vậy tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới. Vì nó chưa thành
thực nên chưa có thể đặt tên kêu là lối gì được, song có thể cử cái đại ý của lối
thơ mới này ra, là đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vận,
mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết. Ấy là như: Tình già"(39).
Hưởng ứng cái mới, hưởng hứng sự dân chủ, Phan Khôi tìm đến thuyết tính
linh như một tất yếu. Theo chúng tôi, nhờ tính cởi mở, dân chủ, thuyết
tính linh phù hợp với tinh thần đổi mới, hiện đại hóa thi học. Cũng chính
nhờ tính cởi mở, dân chủ đó, phi thần bí, nó cho phép các tác giả sáng tác cả
thơ quốc âm (vốn khác thơ chữ Hán về nhiều mặt: ngôn ngữ, tư duy nghệ thuật),
mà một trong những xu thế của thơ cận hiện đại là quay về với quốc âm. Đây là một
điểm khác biệt đáng lưu ý của thuyết tính linh so với thuyết
cách điệu và nhất là thuyết thần vận. Tuy nhiên, đến Phan Khôi ta
cũng thấy, sự phân biệt các vùng địa lí, các không gian văn hóa cũng đã ngắn lại,
nhòe mờ. Phan Khôi làm báo khắp Bắc - Trung - Nam; Chương Dân thi thoại được
công bố khắp nơi (Sài Gòn - Hà Nội - Huế). Đây là hệ quả của quá trình hiện đại
hóa, là sức mạnh của báo chí và xuất bản thời cận - hiện đại.
1.3. Vì sao thuyết
tính linh lại nảy nở, phát triển mạnh ở Bắc Hà mà trung tâm là Thăng Long
- Hà Nội? Theo thiển nghĩ của chúng tôi, có hai nguyên nhân cơ bản.
Thứ nhất, Bắc Hà là mảnh đất
lâu đời của lí học, tâm học. Dấu ấn lí học, tâm học trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam bắt đầu đậm nét từ cuối thế kỉ XV - thế kỉ XVI và càng trở nên sâu đậm ở thế
kỉ XVIII - XIX với trung tâm là Thăng Long - Hà Nội. Lí học, tâm học thế kỉ
XVIII - XIX lại mang đậm dấu ấn trào lưu "thực học"(40) - chủ
trương sự hòa đồng mang tính phổ quát để xóa nhòa khoảng cách trung tâm - ngoại
vi, cắt nghĩa sự mở rộng đất nước, đem lại tính dân chủ nhất định trong quan niệm.
Một vài nét quan niệm của lí học, tâm học (và thực học) đã được chuyển hóa vào
tư tưởng thi học, trong đó có thuyết tính linh, điển hình là nét dân chủ,
bình đẳng của nó. Chẳng hạn, thực chất, tính linh trong quan niệm của
các nhà Nho thế kỉ XVIII, được nhìn dưới quan niệm của "lí học" Tống
Nho (với quan niệm về "thiên lí", "thiên tính", "tính
lí",...) và "tâm học" (với quan niệm về "tính linh minh",
"tinh linh", "lương năng",...). Theo Tiêu Hoa Vinh, sự thịnh
hành của thuyết tính linh thời Minh Thanh có liên quan đến phái
"tâm học" đời Minh mà đại diện là Vương Dương Minh (và sâu xa hơn lại
là "lí học" thời Tống). Họ Vương đề cao chữ "tâm", gọi nó
là "linh minh" và khẳng định: "linh minh của ta là chủ tể của
trời đất, quỷ thần" [Truyền tập lục, quyển hạ] nhằm làm mờ đi những
ranh giới thực tế (về địa vị, chủng tộc,...) trong xã hội. Từ đó, trong phái
tâm học, một loạt khái niệm tương tự cũng được sử dụng phổ biến như "tinh
linh", "linh cơ", "linh căn",... Khái niệm tính
linh là sự vận dụng lí thuyết "tâm học" vào thi học(41). Tính
linh, ở đây, là tình cảm, đồng thời là khả năng nắm bắt và thể hiện tình cảm đó
một cách biến hóa, linh hoạt. Đến thế kỉ XIX, qua lời giải thích của Bùi Văn
Hi, qua quan niệm của Cao Bá Quát, ta càng thấy rõ hơn, vai trò của lí học, tâm
học trong sự hình thành của thuyết tính linh ở các tác giả đương thời.
Chỉ cần họ rũ bỏ đi gánh nặng đạo lí siêu hình, bảo thủ của lí học và tâm học,
họ sẽ có được một cái nhìn sâu sắc, tích cực về gốc gác tình cảm, về sự biến
hóa linh hoạt của sáng tạo thơ ca. Đây chính là hạt nhân của thuyết tính
linh. Bên cạnh đó, Bắc Hà (Thăng Long - Hà Nội) là nơi cắm rễ sâu xu hướng
"chủ tình", "quý chân", tinh thần tự chủ trong sáng tạo văn
học, là nơi lắng lại những gì sâu sắc nhất của cả nghìn năm văn học, mà tinh thần
này hợp với thuyết tính linh. Truyền thống thi học Bắc Hà (Thăng Long - Hà
Nội) chừng mực, không quá đề cao hình thức (như thuyết cách điệu), không đề
cao sự đài các, cao siêu, thần bí (như thuyết thần vận) mà đề cao sự chân
chất, "vụ thực" là điều kiện thuận lợi để tiếp nhận thuyết tính
linh.
Thứ hai, không kém phần quan
trọng là, Bắc Hà (Thăng Long - Hà Nội) từ đầu thế kỉ XIX trở đi không còn là đất
"thần kinh" của triều đại chính thống. Nó tỏ ra thất thế trước Nam Hà
(Thừa Thiên - Huế; Sài Gòn - Gia Định) trong con mắt triều đình quân chủ chuyên
chế. Nó không còn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của đất nước nữa.
Nhưng trí thức Thăng Long - Hà Nội vẫn nỗ lực khẳng định thiên hướng, bản sắc của
họ qua những gì mà triều đình nhà Nguyễn cố tìm cách "chối bỏ" hoặc
kiềm chế. Với thân phận bị "phân biệt đối xử" nhất định, họ phải khẳng
định tư tưởng riêng của mình một cách kín đáo, khéo léo với tư cách những kẻ
"dưới" bản lĩnh, cứng cỏi. Họ cũng chống lại khuynh hướng "cung
đình hóa", "đài các hóa" các hiện tượng văn hóa - văn nghệ. Hơn
nữa, việc không còn là "trung tâm quyền lực" lại là một lợi thế để
Thăng Long - Hà Nội tiếp thu những luồng tri thức văn hóa, văn học không được
xem là "chính tông", "chính thống", "trung tâm". Thuyết
tính linh nằm trong số đó. Nó tìm đến với những vùng ngoại biên, xa trung
tâm, với những nhân vật đặc biệt, có thiên hướng "phản kháng" lại cái
trung tâm, cái chính thống. Nếu như hoàng phái triều Nguyễn và giới trí thức
Nam Hà đa phần đi theo tư tưởng thi học chính thống "thời thịnh" nhà
Thanh (với thuyết thần vận và cách điệu), thì trí thức Bắc Hà -
Thăng Long, Hà Nội tìm đến với một lí thuyết không quá "nổi" đương thời,
nhưng tiến bộ, bênh vực giới trí thức xuất thân cấp thấp hoặc thất thế, bênh vực
"ngoại biên" khiến họ có thể tự tin đứng trên văn đàn để khẳng định
tài năng của mình, dẫu bị dèm pha, phân biệt. Trường hợp Cao Bá Quát chính là
điển hình cho hiện tượng này. Ông đã rất cá tính và bản lĩnh khi trình bày quan
niệm độc đáo, tích cực của mình ngay trong tập thơ của vị lãnh tụ thi đàn chính
thống triều Nguyễn. Ông cũng khảng khái tranh luận với Miên Thẩm, Miên
Trinh,... về sự khác nhau trong tư tưởng thi học của họ. Cao đã không đơn độc,
nhiều trí thức Bắc Hà qua các thế hệ đã ủng hộ ông: Bùi Văn Hi, Bùi Văn Dị,
Nguyễn Thượng Hiền, Hoàng Trọng Mậu, Vương Duy Trinh, Phan Khôi,v.v... Đây phải
chăng là bản lĩnh học thuật Thăng Long - Hà Nội, bản lĩnh Bắc Hà trong những bước
thăng trầm của lịch sử? Ngược lại, những lí thuyết thi học không phải "thời
thượng", không phải "nhất đại chính tông" ở Trung Hoa như thuyết
tính linh muốn du nhập vào Đại Việt cũng không có nhiều cơ hội chen chân
vào thi đàn chính thống ở kinh đô Huế và Sài Gòn - Gia Định, chỉ có cửa ngõ
Thăng Long - Hà Nội (với tình huống bị thất thế) là tỏ ra thích hợp.
Có thể nói, tái hiện lịch sử (dù là lịch sử chính trị xã hội hay văn hóa, văn học)
là những giả thiết, và giả thiết chỉ có thể thuyết phục khi dựa trên nhiều chứng
cớ xác đáng, tin cậy. Hiện thời, giả thiết của chúng tôi đưa ra đã được kiểm
nghiệm bằng một số minh chứng nhất định. Tuy nhiên, có lẽ cần nhiều hơn nữa những
dẫn chứng, đặc biệt là những thiết chứng, những tư liệu cho thấy con đường tiếp
thu trực tiếp thuyết tính linh qua cửa ngõ Thăng Long - Hà Nội: học
hành - thi cử, du nhập thư tịch, trao đổi học thuật, bang giao, in ấn, phát
hành,v.v... Cần sự so sánh các đặc điểm của sự tiếp biến văn hóa ngoại lai của
các trung tâm: Thăng Long - Hà Nội; Thừa Thiên Huế; Sài Gòn - Gia Định trong xu
thế thống nhất đất nước thời trung - cận đại. Cũng cần có sự minh định hơn nữa
đặc tính văn hóa Thăng Long trong sự tiếp thu một lĩnh vực trừu tượng như tư tưởng
thi học, tư tưởng văn học. Điều này cần có sự gia công khảo sát lâu dài trong
tương lai của nhiều người, trên nhiều bình diện. Vì vậy, ở đây, chúng tôi coi vấn
đề trọng tâm của bài viết này là một đề xuất, mô tả để chúng ta cùng suy ngẫm,
đào sâu thêm, trên con đường đi tìm "sự thật" xung quanh những sự
"diễn giải".
Chú thích
(1) Nguyễn Thanh Tùng
(2008). "Vài nét về thuyết tính linh trong tư tưởng thi học Việt
Nam thời trung đại", Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1; Nguyễn Thanh
Tùng (2010), "Vài nét về bản chất, quan niệm thi học của Cao Bá
Quát", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Cán bộ trẻ ĐHSP Hà Nội, Nxb ĐHSP Hà Nội.
(2) Khái niệm "cận đại"
ở đây chỉ quãng thời gian đầu thế kỉ XX (1900 - 1932).
(3) (21) Xin xem: Vương Tiểu
Thuẫn, Hà Thiên Niên, Việt Nam cổ đại thi học thuật lược, Tạp chí Văn
học bình luận, số 5 năm 2002; Vương Tiểu Thuẫn, Hà Thiên Niên, Việt Nam cổ
đại đích thạc quả: Thương Sơn thi thoại, trong sách Trung Quốc thi học (tập
9, Tưởng Dần chủ biên, Nhân Dân văn học xuất bản, 2004; Nguyễn Đình Phức.
(2006). "Nguyễn Miên Thẩm dữ thần vận thi học", trong Ngoại
vực Hán tịch nghiên cứu tập san, đệ nhất tập, Trương Bá Vĩ chủ biên, Trung
Hoa thư cục, Bắc Kinh; Nguyễn Đình Phức (2006). "Về bài Tự tự Tĩnh Phố thi
tập của Miên Trinh", Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr.45-46; Nguyễn Thanh
Tùng (2007), "Vài nét về văn bản và giá trị của Thương Sơn thi thoại",
Tạp chí Hán Nôm, số 3; Nguyễn Thanh Tùng (2008), "Lược khảo về thi
thoại Việt Nam thời trung đại", Đặc san khoa học Cán bộ trẻ ĐHSP Hà Nội;
Nguyễn Đình Phức (2010), "Ảnh hưởng của thuyết thần vận đời
Thanh vào lý luận thơ chữ Hán Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX", Hội thảo Nghiên
cứu Hán Nôm và nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Đại
học KHXH&NV Tp Hồ Chí Minh;v.v...
(4) (5) Lê Quý Đôn (1977). Lê
Quý Đôn toàn tập, tập 2 (Kiến văn tiểu lục), Phạm Trọng Điềm dịch, Nxb
KHXH, Hà Nội, tr.210-214; tr.215-216.
(6) Bùi Duy Tân (cb) (2000). Tổng
tập văn học Việt Nam, Tập 5, Nxb KHXH, Hà Nội, tr.912; tr.933.
(7) Lê Quang Bí, Vũ
Công Đạo, Tư hương vận lục, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu:
A.699; 1a-b.
(8) Trần Nho Thìn (2008). Văn
học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, H, tr.548.
(9) (14) Vương Tiểu Thuẫn,
Hà Thiên Niên, Việt Nam cổ đại thi học thuật lược, Tạp chí Văn học
bình luận, số 5 năm 2002, tr.24; tr.25.
(10) Đặng Huy Trứ (1868), Đông
Nam tận mĩ lục, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: A.416, tờ 4a.
(11) Đại Nam bi kí thi
trướng bảo tập, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: A.222, tờ 82b?.
(12) Nguyễn Phúc Miên Thẩm, Thương
Sơn thi thoại, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: VHv.105, tờ 54a.
(15) (16) (19) (25)
(28) (29) Đặng Đức Siêu (cb), Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 18, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1994, tr.116; tr.132; tr.193; tr.189; tr.183.
(17) Cao Bá Quát, Cúc
Đường thi loại, quyển 2, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv. 1433.
(18) (20) (32) Nguyễn Phúc
Miên Trinh (1875). Vi Dã hợp tập, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
ký hiệu: A.782/1-3.
(22) (30) (33) Bùi Văn Dị, Tốn
Am thi sao, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: VHv.702, tờ 1a; tờ
1b, tờ 1b.
(23) (24) Nguyễn Đình Phức,
(2009). "Luận thi thi một hình thức phê bình trong văn học Việt Nam cần được
chú ý khai thác", Tạp chí Hán Nôm, số 5, tr.35; tr.36.
(26) (27 ) Vũ Khiêu (cb)
(1984). Thơ văn Cao Bá Quát, Nxb Văn học, tr.346; tr.167-168.
(31) Trương Đăng Quế, Trương
Quảng Khê tiên sinh thi tập, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu
VHv. 30, tờ 1a -b.
(34) Vương Duy Trinh, Nguyễn
Thượng Hiền, Hoàng Trọng Mậu, Thi tấu hợp biên,Thư viện Quốc gia Hà Nội,
kí hiệu: R.450, tờ 87a-b.
(35) Phạm Ngọc Hiền
(2008). "Lược sử thi pháp Việt Nam", Tạp chí Văn nghệ sông Cửu
Long. URL: http://vannghesongcuulong.org
(36) Nguyễn Thanh Tùng
(2009), Chương Dân thi thoại - cầu nối giữa thi học Việt Nam trung đại và
hiện đại, Tạp chí Khoa học, số dành cho Hội thảo KH cán bộ trẻ trường
ĐHSP HN, tr 112 - 123.
(37) (38) Phan Khôi (1996). Chương
Dân thi thoại, Nxb Đà Nẵng, tái bản, tr.144, tr.90.
(39) Phan Khôi (1932), Một
lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ, trong Nguyễn Ngọc Thiện, Cao Kim
Lan (2002), Tranh luận văn nghệ thế kỉ XX, tập 2, Nxb Lao Động, H,
tr.53.
(40) Xem: Nguyễn Kim Sơn
(2009), "Cuộc vận động cải cách văn thể, tâm thái sĩ phu và động hình của
văn chương Việt Nam cuối thế kỉ XVII, thế kỉ XVIII, trong Nghiên cứu
văn học Việt Nam, những khả năng và thách thức, Viện Harvard - Yenching,
Nxb Thế giới, H, tr. 203; Alexander Woodside (?), "Trật tự lãnh thổ và các
căng thẳng trong căn cước tập thể tại vùng Á Châu theo Khổng học" ("Territorial
Order and Collective-Identity Tensions In Confucian Asia: China, Vietnam,
Korea"), URL: http://www.gio-o.com/
(41) Tiêu Hoa Vinh (1996). Trung
Quốc thi học tư tưởng sử, Hoa Đông sư phạm đại học xuất bản xã, Thượng Hải,
tr.281 - 282.
Hà Nội, tháng 6 năm 2010.









Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét