Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2016

Thơ Bích Khê

Thơ Bích Khê
Đến Quảng Nghĩa, chúng tôi đi tuột ngay về Thu Xà cho kịp thăm mộ Bích Khê trước khi trời tối. Trong đời tôi, tôi đã thăm Khê vẻn vẹn bốn lần. Một lần anh nằm ở bệnh viện lao Pasquier, một lần anh nằm tại Hoàng Hoa Trang (vẫn lao vẫn bệnh) và hai lần anh nằm dưới đất. Thăm mộ Khê lần này cách lần trước (1946) là 42 năm. Đủ thời gian cho hai cuộc chiến tranh, một “cuộc” hòa bình, cộng thêm cái không gian chia cắt về đất đai và tư tưởng nữa. Ấy thế nhưng chiều nay hình như các thứ đó chả có hiệu lực gì. Nhà cửa, ruộng đồng, phố xá quê anh đã đổi thay dữ dội, vì đạn bom, vì xây dựng, nhưng tôi vẫn thấy mình đi trong không khí, khí hậu của các câu thơ:
… Nơi đây làng cũ buồn thu quạnh
… Nơi đây thành phố đời ngưng mạch
Những nàng lai khách vẫn buồn mơ
Tôi hỏi người cháu Khê cùng đi “ở đây có phụ nữ Hoa kiều chứ?”. Vừa hỏi vừa nghĩ: “Khê là người đầu tiên đưa hai chữ lai khách vào thơ” và nghĩ “con gái lai khách chắc là rất đẹp”.
- Dạ ở đây có đông Hoa kiều đến từ đời Thanh. Nay còn vài ba hộ.
Những nàng lai khách vẫn buồn mơ
Đường lên hội quán sương khuya xuống
Đâu mấy chàng trai rõi nhớ hờ
Một người phụ nữ bà con cùng Khê chỉ cho tôi mái nhà hội quán sau các lùm cây. Nhà phê bình trong tôi nghĩ: “Khê là người đầu tiên dùng chữ hội quán. Hội quán mới gặp sương khuya cũ, ngộ lắm”. Còn “nhà” tò mò trong tôi tự hỏi: “Có Khê trong các chàng trai kia không? Cô buồn thì buồn mơ, chàng lại nhớ hờ, được lắm!”.
Tìm ngõ nhà em, anh sẽ thấy
Nhà Khê đây rồi, giữa phố, không có ngõ. Tôi bỗng dưng tiếc cái ngõ trong thơ ấy. Như ngày nào về thôn Vỹ Dạ “lá trúc che ngang mặt chữ điền”, tiếc không thấy trúc ở đâu.
Những cành nhãn muộn bóng dơi lay
Những gốc nhãn, cành nhãn Khê tả ấy không còn. Vườn đầy chuối. Đứng giữa vườn chuối, người cháu đưa tay chỉ xa xa chỗ Khê nằm.
Em đang nổi bệnh trong phòng vắng
Tình đậm theo trăng sáng sáng đầy
Bỗng dưng tôi thấy như Khê đang nằm trong phòng ấy, thiêm thiếp thiêm thiếp như tôi thấy anh nằm ở Pasquier ngoài Huế, ở Hoàng Hoa Trang quê chồng chị Ngọc Sương - chị ruột Bích Khê - trong Quảng. Nằm, và cười một nụ cười nhợt nhạt héo hon, he hé đôi mắt chào tôi.
Trên mồ con quạ đứng im hơi
Mộ Khê đây rồi. Không có con quạ vĩnh cửu thiên thu nào đe dọa mồ Khê cả. Có, thì chúng ta cũng xua đi cho Khê đỡ sợ. Khê nằm giữa mộ các người thân trong quyến tộc. Tôi, Yến Lan và anh Thu Hoài (người có công tổ chức chuyến đi này) thắp một tuần nhang trước mộ người đã khuất. Hai ngày trước đây, chúng tôi cũng đã thắp hương trên mộ Tử ở Quy Nhơn. Tôi báo cho Khê một tin mừng:
Những tờ thơ nát đầy hơi hám
Tay khách đa tình sẽ chuyển trao
Lời mơ ước ấy của Khê sắp được thực hiện. Quê hương Nghĩa Bình của Khê không muốn Khê nằm lâu trong quên lãng. Đã hai năm nay Sở Văn hóa Nghĩa Bình và anh Hồng Nhân giám đốc sở, thiết tha có một tập thơ Hàn Mặc Tử, một tập thơ Bích Khê. Thơ Tử đã có rồi. Thơ Khê cũng đã tuyển chọn xong, chỉ chờ có giấy, chỉ chờ có tựa. Tôi cũng báo cho Khê rõ, người tuyển chọn và đề tựa vẫn là người Khê đã giao phó 44 năm xưa, hồi 1943, 1944. Và tinh thần tuyển chọn cũng là tinh thần mà chúng ta đã đồng ý với nhau hồi ấy. Nghĩa là phần thơ trong Tinh hoa (chưa in) được đánh giá cao hơn Tinh huyết. Trong Tinh huyết, thì cái tinh nhất, tinh chất không phải là loại bài “đây sự thật trần truồng nằm giữa háng”, mà dù cho đổi ra “đây hư ảo phủ che nằm giữa háng” thì cũng chẳng phải là thơ. Thơ nằm chỗ khác. Đâu trong trái tim mình.
Một bài thơ của Khê lấy tên Duy tân. Có dính dáng gì không đến ông vua yêu nước trùng tên, Khê vốn hay làm thơ vịnh sử. Nhưng dịch cái đề ấy ra ngôn ngữ thời sự thì nó là “đổi mới tư duy” đấy. Đổi mới tư duy về thơ.
Rồng vẽ lối xưa toàn những sáo
Cua bò thơ mới chả nên thơ
Khê đã tự phê bình rồng xưa và cua mới của mình như vậy, như chính là Khê đã không vui lòng lắm với những cái sáo ngữ của thơ cũ, cũng như các cái chả nên thơ, chả phải thơ của thơ mới đương thời… Anh muốn duy tân, để có một thứ thơ khác:
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong.
Thơ ấy sẽ là nhiếp ảnh:
Đường nhiếp ảnh sắc khua màu, tiếng thở
Cũng là hội họa:
Hỡi hội họa đến muôn đời nức nở
Là âm nhạc:
Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái
Là điêu khắc:
Đầy thẩm mỹ như một pho thần tượng
Là vũ đạo:
Múa song song khiêu vũ giữa đêm hồng
Như người xưa xem múa kiếm mà tìm ra cách viết chữ, thay đổi biến hóa thủ pháp, bút pháp của mình. Nhưng đây là các quan niệm về thơ “tổng hợp” của châu Âu lúc đó. Quả măng cụtcủa Khê, ta biết đấy là quả lựu của Valéry. Valéry hóa thân, con quạ trên mồ Khê là con quạ của Edgar Poe, của thơ Mallarmé bay đến, da thịt, rồi xác thịt, rồi xác chết trong anh, nguyên là của Baudelaire.
Những nhà thơ ít rạch ròi trong các vụ việc này, họ vay mượn nhau, giật tạm nhau là thường, vốn cùng gia đình, cùng bộ tộc. Vấn đề là vay mượn thế rồi có ăn nên làm ra không, có gây được vốn liếng riêng gì của mình cho mình không, có thêm lãi thêm lời không hay lại ăn cụt vốn! Phải nói ngay Khê không phải là kẻ ăn theo, anh đã từ đường băng của thầy, của bạn mà cất cánh mình lên nhanh, bay những đường bay đẹp. Thậm chí anh có những hơi thở riêng mà các thầy không có. Anh nhờ các thầy Tây phương đánh thức bản năng, trí tuệ mà anh vốn có, nhờ các thầy cho những phương thức tìm hiểu sự vật, và tương quan giữa các sự vật đã có sẵn đấy rồi, khi chưa có các thầy, Khê muốn tạo ra giữa thơ rồng hay cua đều khá yên tĩnh lúc bấy giờ.
Một hỗn độn đẹp xô bồ say dậy
Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
Và mới mẻ…
Nhưng cái mới ấy có nền, có gốc nữa chứ. Nó mới mẻ ở đâu, ở giữa trời à? Không phải…
Và mới mẻ, trên viện cổ Đông phương
Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật
Và chính nhờ cái sức tiềm tàng của Đông phương chưa ai hiểu hết, kể cả các thầy Tây, nhờ Khê quá nửa đời người, quá nửa tâm hồn thân thể đắm mình trong Đông phương, trong dân tộc ấy, mà Khê đã tìm ra cái mới. Khê viết:
Trập trùng màu xiêm áo
Lớt đớt trận mưa bông
Phật Như Lai thoạt hiện
Trên bảy sắc cầu vồng
Quái thay hòn Non Nước
Nghe giảng đủ mười tông
Đừng cười anh duy tâm, lạc hậu. Anh là người tự cho mình “Ta trên đài Vọng hải, chỉ nhượng Phật Như Lai” như Hàn Mặc Tử tự cho mình không phải “là cát bụi trở về cát bụi” mà là“thánh thể kết tinh”. Các anh đâu có dễ dàng mê tín.
Những danh nhân lớn của Đức từ triết gia Schopenhauer, Nietzsche đến nhạc sĩ Wagner không giấu diếm quan hệ mình với Đông phương, với vài ba tông của Phật. Khi Khê viết:
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa lạy
Trên, dưới, đất, trời chầu
đừng thấy chữ lạy, chữ chầu mà bảo anh là thầy phù thủy, anh đang nói về hòn Kim, hònMộc, hòn Thủy, hòn Hỏa của Ngũ Hành Sơn đương phủ phục trước quyền hành của thi ca. Một trong những vị thầy của nền phê bình Pháp hiện nay, người ta gọi ông là Copernic trong phê bình (như Copernic trong khoa học), Bachelard khi nói đến hai lực, bốn yếu tố, khi xếp các nhà thơ theo dòng Thủy, dòng Hỏa, dòng Thổ, dòng Không khí, phải chăng đã dựa vào của phương Đông thuyết Âm dương và thuyết ngũ hành? Ta ở phương Đông nhàm chán nó, xem nó là viện cổ, nhưng nhiều viện sĩ Tây phương lại liếc mắt về nó mà tìm mới mẻ mà kiếm đề tài.
Đầu tiên ta thấy Khê muốn duy tân, đổi mới tư duy trong chữ:
Chữ biến hình ảnh mới, lúc trong ngâm
Chữ trong vắt sánh nghệ thuật sầu câm
Ta viết cây cao cây thấp, cây gần cây xa, cây xanh cây héo. Ta thấy, Khê viết:
Cây du dương lâu đài song sóng
Mắt Khê thấy và nghe, thấy cây giống lâu đài và nghe cây du dương như nhạc, so với ta, Khê có con mắt “kép” giàu hơn.
Ta viết tia trăng ánh trăng. Khê lại viết: “Da trăng trắng tợ hàu”. Trăng thành cô gái, Khê sờ được làn da trắng ấy. Cảm giác của Khê nhiều hiệu quả hơn. Khê duy tân Câu. Câu với anh không chỉ là đường thẳng, đường cong mà còn là chữ chi, cửu khúc hay đường gãy gập. Câu thơ không chỉ liền một hơi mà tấm tức, ray rứt, nối đứt, đứt nối nhiều lần:
Buồn, và xanh trời (tôi trôi với bờ
Êm biếc - khóc với thu: lời úa ngô
Vàng… khi cách biệt
Có phải học Khê, tôi đã tập qua hàng:
Chỉ một ngày nữa thôi. Em sẽ
Trở về. Nắng sáng cũng mong. Cây
Cũng nhớ. Ngõ cũng chờ. Và bướm
Cũng thêm màu trên cánh đang bay
Khê duy tân cách qua hàng, khá độc đáo:
Thoảng tiếng gáy của cu
Cườm. Hiu hiu vàng đượm
Chữ cườm tách riêng ra, đứng đầu câu, long lanh như một hạt cườm. Hoặc:
Như mặt trời lọc qua khóm liễu, một
Hoàng hôn. Đàn môi, chim báu tới
Chữ một ăn với hoàng hôn câu dưới. Nhưng Khê tách đặt nó ở câu trên sát kề khóm liễu, nhờ thế ta có khóm liễu cô đơn, một khóm liễu lọc mặt trời. Chữ hoàng hôn, tách riêng ra, càng rực rỡ hơn, và đứng đầu câu sau chói rọi khắp mình câu, chim báu và môi đều có ánh rọi của nó. Ta thấy ở đây kỹ thuật về trang, về page của Mallarmé. Ta thấy Khê làm kỹ thuật Khê làm. Làm, bố trí, chế tạo rất có ý thức. Anh làm thơ chứ không bị làm thơ như Hàn Mặc Tử, đó là chỗ yếu và chỗ mạnh của Khê.
Khê duy tân đoạn, mảng, bài, những bộ phận trên câu. Trong bản thảo chị Ngọc Sương giao cho Sở Văn hóa Nghĩa Bình, rồi sở chuyển cho tôi, tôi thấy thiếu đôi đoạn, đôi câu xưa kia tôi biết. Câu:
Nụ cười ai trắng như hoa lê
Trắng xóa bên kia vùng Phan Thiết
nụ cười không mang sắc hồng của môi mà lại mang sắc trắng của tình yêu trong trắng, tình yêu không với được nơi xa kia trắng xóa một vùng. Về đoạn thiếu đi đoạn này, tôi vừa phục hồi lại được:
Hoàng hôn ô bên cồn
Bên cồn ô cô thôn
Cô thôn ô trúc vàng
Trúc vàng điểm riêng thu
Thoảng tiếng gáy của cu
Cườm. Hiu hiu vàng đượm
Vì sao tôi nhớ được? Không phải nhờ bộ óc của tôi mà chính nhờ bộ óc của Khê đã dựa vào, đã nắm được các quy luật của sự nhớ mà làm ra đoạn, mảng bài thơ dễ nhớ này. Đọc lại xem, những chữ ngỡ mất đi với câu trên, lại hồi sinh ở câu dưới, cô thôn rồi cô thôn, trúc vàng rồi trúc vàng, những ô, những cô, những hôn, những cồn, những thôn ngoặc vào nhau chặt chẽ mà đi qua sóng gió giông bão của thời gian. Bìu díu với nhau thành một khối bền chặt về âm thanh, về ý nghĩa như thế, thời gian nào làm tan rã chúng được. Nhờ thế, sau gần nửa thế kỷ, bộ óc già nua của tôi vẫn nhớ.
Khê duy tân trong Nhạc. Xưa nay ta hay dùng bằng trắc. Nay cùng Xuân Diệu ở Nhị hồ, cùng Xuân Sanh trong bài thơ Tay sương lam mờ đường giăng tơ đăng ở báo Tiếng Địch (Bình Định)(*). Bích Khê dùng vần bằng làm chủ lực. Nhưng Xuân Sanh, Xuân Diệu chỉ làm một bài. Bích Khê không phải chỉ thể nghiệm mà sản xuất đại trà, chủ trương tạo hẳn một thể loại.
Khê duy tân trong lối tạo hình. Hình ảnh cũ vốn tĩnh. Khê làm cho nó động, hoạt động. Thơ cũ nói trăng như sữa. Khê làm cho trăng ấy thành sữa, sữa kia nhỏ giọt, nhỏ từ vú hẳn hoi là các núm đồi:
Nâng lên vú núm đồi
Sữa trăng nhi nhỉ giọt
Hình ảnh động theo bề dọc thời gian và bề ngang không gian. Theo bề dọc thời gian, nó tiến triển, nó dây chuyền, con tinh đứng, con tinh nằm, con tinh đưa võng, con tinh ru con hát, rồi thì tiếng hát ru con ấy lại thay nó, tiếp nó mà tác động lên vành trăng, vành trăng ứa nước ra và luồn qua cửa động v.v…
Bề ngang không gian, mỗi hình ảnh trong đoạn thơ này cùng hoạt động với một quần thể các hình ảnh khác đồng thời với nó, bao vây quanh nó, tác động lên nó.
Lên Kim tinh xác bằng thanh khí
Đất lưu ly không khí xạ hương
Cây du dương lâu đài song sóng
Trên biển châu - trời lộn kim cương
Để làm các duy tân trên, Khê đã húc đầu vào nhiều cánh cửa, vái đủ tứ phương, áp dụng các thuyết của Valéry, Rimbaud, Mallarmé, Poe, Baudelaire và của vị “thiền sư Công giáo” là Henri Brémond nữa. Ông có thuyết thơ thuần túy sực nức vị thiền là món Khê khá sở trường:
Hỡi lời ca man dại
Điệu nhạc thở hơi rừng
Đêm nay xuân đã lại
Thuần túy và tượng trưng
Khê mê một thứ thơ thuần túy, một thứ vàng ròng, chỉ là thơ thôi, không có tạp chất nào khác. Đồng thời nó lại đại diện, tượng trưng, nói giùm cho những cái không phải nó, oái oăm chưa? Nó được làm ra, chế tạo ra, nhưng lại phải hồn nhiên như của trời cho, như của tự nhiên, thở hơi rừng, man dại. Thế lại càng oái oăm hơn nữa! Tóm lại là từ gần nửa thế kỷ trước, Khê đã động đến các vấn đề sự vật (chose) và ký hiệu (signe), vấn đề đa nghĩa, vấn đề lao động và cảm hứng, ý thức hay tiềm thức v.v… Ban nãy tôi có nói Khê làm thơ và Tử bị làm thơ. Cả hai phương pháp đều có cái mạnh cái yếu của nó. Tháp Eiffel người làm cũng đẹp như mây trời mà trời tự làm ra trên tháp. Đúng ra phải nói Hàn Mặc Tử bị thơ làm (bị bệnh tật, bị tình yêu làm) và anh đã làm thơ. Còn Bích Khê thì đã làm trên chữ, trên câu, trên trang giấy, trên các yếu tố, năng lực của tâm hồn mình, rồi thì các cái ấy làm anh trở lại. Chữ Pháp có chữ travail de soi sur soi, mình làm, tác động lên chính bản thân mình, động tay, động chân, động lòng, động não của mình, và một khía cạnh của cái động ấy biểu hiện ra ngoài là động chữ, động câu, động nhạc, động hình trên trang giấy. Khê đánh động bộ gõ của trí tuệ, nó đẻ ra những danh từ khô khốc, ồ, gồ, và sắt cũng rất cần trong việc kiến trúc lâu đài thơ chứ sao?
Đường kinh tuyến hút nhiễm chất vô hình
hoặc
Lời truyền sóng đánh điện khắp muôn trời
Chữ bí mật chứa ngầm bao chất nổ
Nhưng Khê cũng đánh lên, động vào bộ giây, bộ hơi của cảm xúc, cảm tình, bản năng, kể cả bản năng vật dục nữa… Tôi đã nói, ngoài thì anh vái tứ phương, trong thì anh húc vào mọi cửa mà. Thời gian ở trái đất của anh có còn dài đâu. Anh định trong sáu tháng thôi phải giải quyết cho xong khối lượng hay đúng hơn chất lượng Thơ một đời. Một câu thôi cũng được, nhưng nó là thứ vàng ròng thuần túy, tượng trưng mà anh mơ ước đó. Thơ có thứ đơn chấtvà loại đa chất, có thứ là nguyên chất, có thứ lại là hợp chất, hóa chất kia. Khê thích biến hóa, tổng hợp. Anh nhặt các chất, cái thì bên Tây, cái thì bên Tàu, cái trên tòa sen, cái ở hang âm phủ, cái ở hồn anh, cái ở ngoài đời, đầu cua tai nheo trên trời dưới bể rồi bỏ vào cái lò bát-quái thơ của anh mà nung lên vạn độ, bỏ vào cái hồ-lô-thơ anh mà lắc đến triệu lần. Từ đấy sẽ chảy ra chất thơ anh tâm niệm. Việc làm trên có thể nghiêm túc, có thể lố bịch, hóa trò cười.
Nếu ra được một chút gì đấy từ các hồ lô kia, lò bát quái kia, nếu thành công thì người ta gọi đấy là tập đại thành, như khi người ta đánh giá Đỗ Phủ, là somme (tổng hòa, tổng hợp), khi người ta đánh giá Saint-John Perse, hoặc lai được giống mới khi đánh giá con bò sữa Hà Lan (xin nói rằng nhà thơ lớn Guillen của Cuba và cũng của thế giới nói rằng bản sắc dân tộc Cuba là mutala (mulâtre) là lai, hỗn hợp tinh hoa của người da trắng, da đen và da đỏ. Xuân Diệu đã thuật lại quan niệm này trong tựa thơ Guillen).
Còn khi lai không thành công, lắc không thành công, đun lò bát quái không thành công, làm cái việc đem trăm thứ đầu Ngô mình Sở bỏ vào một cái bị kia không thành công, đến nỗi Ngô đi đằng Ngô, Sở đi đằng Sở, đầu đi đằng đầu, mình đi đằng mình, thì người ta sẽ bảo đấy không phải là lai mà lai căng, mất gốc, là hổ lốn, là tả pí lù, là chợ giời, là xúp bát nháo, là loạn Âu… có một trăm thứ danh từ dành cho.
Thế mà để làm VIỆC THƠ, Khê chả còn bao nhiêu sinh mệnh, bao nhiêu thì giờ! Trong sáu tháng quyết thành thiên tài, quyết có văn chương quán thế không ai biết, gọi Xuân Hươngtrong mộng mình về thưởng với tôi… thế có liều không? Hàn Mặc Tử cũng góp phần vào ảo tưởng ấy, gọi anh là thi sĩ thần linh. Thần thì ai chẳng thích!
May thay Khê không phải chỉ có thất bại. Cùng với thất bại, Khê có những thành công. Thế mới là Khê chứ. Nhưng đấy là nhờ con người Khê, chớ chả nhờ thần linh nào cả, dù đó là thần Khê, hay các vị thần từ phương Tây phương ta nói trên kia.
Ngay từ thời xửa xừa xưa khi còn làm các bài thơ cũ, Khê cũng đã có những câu thơ rất hay, rất lạ rồi. Dạng chữ Hán:
Hoán khởi mê tân thuyền thượng khách
Tỉnh hồi trường dạ mộng trung nhân
bỗng tòi ra một câu hiện đại, tổng hợp lạ kỳ:
Bóng yêu hoa, màu khiêu vũ, mây phú quý, bả phù vân
Tiếng linh động trong ngần thiên vạn cổ
hoặc những câu khác:
Người bán trời không chứng mới là phiền
Còn tôi bán hàng sầu, tiền chẳng lấy
Tôi muốn bán hàng sầu không vốn lãi
Ngỡ như các câu này là các tìm tòi năm 87 mà nhiều thi sĩ trẻ đem khoe một cách huênh hoang! Hoài Thanh tuy rất dè dặt, ngại ngần nữa, khi đánh giá Bích Khê và Hàn Mặc Tử, cũng đã mở đầu bài viết về Khê: “Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam”.
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông
Thế giới thơ rất dân chủ hay nói đúng hơn có lối công bằng kỳ quặc. Người có một câu hay được nhắc đến như người có vạn bài, miễn rằng câu ấy đã đến được xứ thơ, và câu kia quả thực hái từ xứ ấy hái về. Khê không chỉ có một câu, không chỉ có hai câu. Anh có nhiều câu và nhiều bài mà… mà các thầy có khi không có, Hàn Mặc Tử không có, thơ Việt Nam trước đây không có.
Cái đáng cho ta yêu Khê, bắt ta phải tìm đến anh, phải lôi anh ra khỏi lãng quên, đó là chất nhạc của thơ anh. Không, không phải chỉ có cái thanh bằng chỉ cái giọng trầm, chỉ tiếng nói thầm, chỉ cái ngọn đèn anh hạ thấp xuống cho vừa nội tâm, vừa tầm tâm sự:
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Nói thầm, nói lơ mơ mà thốt ra được “Tình tang tôi nghe như tình lang” thì tình tang kiểu ấy còn gấp trăm nói thật. Rồi lại lên cung thương cung yêu, vay mượn du dương, vay mượn tình yêu muôn thuở, thế thì là ý đấy rồi chứ đâu chỉ nhạc. Nhạc vả chăng chả phải chỉ là lúc nói thầm. Có khi reo vang, sảng khoái:
Tiếp ly cạn, cạn ly đầy
Năm con, một vợ ngồi vòng xây
Nhạc chim thanh tước rót về đây
Đỗ vàng cành lá lục.
Nâng chén tinh ròng ca một khúc
Tiệc hoa hề, chén ngọc hề
Giang hồ vút cánh sau chung rượu
Năm vẻ rồng bay áng sắc mây.
hoặc trong đoạn “Hoàng hôn ô bên cồn” đã trích trên kia, những ô, những cô, những cồn, những thôn dập dồn rộn rã.
Nhưng nhạc cũng là bước đi dịu dàng, nhịp nhàng của những lứa đôi câu, từng cặp, từng cặp dìu nhau qua trang giấy:
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Cây đàn yêu đương run trong mơ
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Nhạc cũng chỉ là các nhóm chữ đi về, lặp lại, như chu kỳ ngày đêm, năm tháng, như nhịp sóng vỗ bờ, bàn tay vỗ về lên thân thể v.v…
Những cánh hồng đơm, những cánh hồng đơm
Nhẹ nhàng, nhịp nhàng… thở đều trong sương
Thơ bay, thơ bay vô bàn tay ngà
Thơ ngà ngà say, thơ ngà ngà say…
Ý nghĩa đòi âm thanh rồi âm thanh lại đẻ ra ý nghĩa. Saint-John Perse, Péguy rất thích kiểu này. Nhưng Khê thì khai thác lối nhạc này, chính là dựa vào vốn liếng Đông phương, hơi thở dân tộc.
Nhờ Khê ta nghe được những âm điệu trước đó chưa có, nhưng cũng nhờ Khê ta thấy được những cảnh chưa từng. Cái nhìn của Khê có nhiều cung bực, khi thì mờ ảo huyền hồ:
Huyền hồ nhìn không ra
Hay là tôi hóa hai
Đã chết đi một nửa
Hay là trời ban mai
Bị mù sương vây bủa
khi thì rạng rỡ:
Vàng ròng bạc tốt trong tay trắng
Danh nghĩa cao sang tợ mặt trời
Tiếng xe rổn rảng sau bờ trúc
Bóng vợ bóng con lẫn bóng cây
khi thì bát ngát:
Một bóng giăng rồi một bóng giăng
Hồn vẫn phiêu lưu rất nhẹ nhàng
Đến mút không gian là bát ngát
Một trời thơ mộng đẹp mê man
kể cả những lúc khá thực thà:
Người em rày mệt quá
Hai tay đây ra rã
Dìu lấy cùng nhau đi!
Thế nhưng anh nhìn thấy những cảnh ấy ở đâu, ở đâu? Ở bên ngoài hay ở nội tâm anh? Anh phản ánh hay là anh sáng tạo? Có thể nói anh nhìn hai nơi một lần, làm hai việc một lần.
Lò mò đường lên mây
Chén trăng vừa tầm với
Chàng ơi! Vàng ròng đây
Kề môi, say ân ái
Trăng không chỉ là trăng, mà là chén rượu ân ái, là vàng ròng. Anh cũng không chỉ phản ánh trăng mà còn phản ánh lòng anh đang say, muốn cầm, muốn hôn, muốn uống:
Quái thay hòn Non Nước
Nghe giảng đủ mười tông
Muôn năm lòng đá rắn
Nhuần thấm giọt từ bi
Biển xanh thay chất mặn
Rừng thẳm lọc hơi sầu
Anh đang thấy cái bên ngoài của sự vật, nào hòn Non Nước, nào đá rắn, nào rừng thẳm, nào biển xanh, hay đang thấy cả cái chuyển hóa bên trong của nó, đá thì nhuần thấm tình thương mà thôi. Không đá nữa, biển thì trút chất mặn khắc nghiệt của mình, và rừng kia cũng đang thanh lọc. Nhờ nghe kinh chăng? Kinh gì? Thơ anh đấy, lời đấy, ngôn ngữ đấy. Anh đã từng ví anh là trên đài Vọng Hải, chỉ nhượng Phật Như Lai kia mà.
Thương cho anh, bên vực thẳm của nấm mồ đang đợi vẫn không thôi tin ở quyền lực của con người, của thi ca, đã tạo ra những bức tranh hoành tráng, những cơn mơ tổng hợp là hai bài Ngũ Hành Sơn tiền và hậu ấy. Tuy biết rằng: Khi xong cơn mơ ấy, thì anh lại bị trả về thực tại phũ phàng:
Trở lại giữa bạn bè
Với hai tay bàn tay trắng!
Nhưng mơ được thì cứ mơ.
Tôi thường so sánh hai bài Ngũ Hành Sơn với bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp. Chỉ vì cả hai thi sĩ đều tả cảnh đất nước, cả hai đều dùng thể ngũ ngôn. Cố nhiên tôi rất yêu Nguyễn Nhược Pháp ở Chùa Hương. Nhưng tôi xin phép được đánh giá Bích Khê cao hơn. Nguyễn Nhược Pháp tả một cảnh, kể một chuyện có thể có. Bích Khê tạo ra một điều khó thể có. Nguyễn Nhược Pháp dẫn bài thơ dọc theo chiều dài một tuyến. Bích Khê tung hoành, hoành tráng dọc ngang qua nhiều tuyến. Chữ ở Bích Khê cũng phát huy hiệu lực cả ba tầng hơn chữ của Nguyễn Nhược Pháp. Số là Bachelard có nói chữ như ngôi nhà, có tầng trệt ăn ở, ra vào, giao tiếp, lại có lẫm cao nơi ta lên với các vấn đề trừu tuợng, có hầm sâu nơi ta xuống các tầng tiềm thức của ta. Theo Bachelard: thơ thường từ tầng trệt đối ngoại đó, lên xuống các tầng cao và đối nội kia. Thơ Khê mạnh hơn Pháp chỗ ấy. Hãy đọc các chữ của anh:
Da trời màu thịt sứa
Da trời se chất sữa
Truyền cảm hứng mênh mông
hoặc:
Miệng nào giục điệu ca
Tóc nào buông lõa xõa
Mắt nào điên long lanh
Tay nào như sắp bay
Gió lồng hang Âm Phủ
Hoa mộng thẳm màu thâm
Bóng đa phờ tóc rũ...
Ta thấy thoắt cái anh ở tầng trệt, thoắt cái anh lên cao trên trừu tượng, thoắt cái anh chấn động ta nơi thẳm sâu tiềm ẩn của ta. Năm vừa rồi, chúng ta đã tái bản Nguyễn Bính. Anh được yêu mến ào ạt xứng đáng với tài năng anh, cộng với sự bù trừ cho những người đã lâu vắng mặt. Nhưng dù sao gặp lại Nguyễn Bính là gặp lại một cái gì quen thuộc. Còn Khê, thì khác. Sợ e bây giờ người ta cũng chưa quen anh dễ dàng đâu. Nếu Nguyễn Bính là một miền đồng bằng thân thuộc, thì Khê là một đỉnh núi lạ. Có những nhà thơ làm thơ. Có những nhà thơ vừa làm thơ vừa đẩy lịch sử thơ ca, duy tân thêm một bước. Có những nhà thơ đem đến một mùa lương thực. Lại có những nhà thơ cầm một dúm hạt giống mới trên tay. Khê thuộc vào hạng thứ hai.
Loại thứ hai này, cái lõi của nó, trái tim của nó, vẫn là loại thứ nhất. Người ta yêu thơ Khê, vì thơ anh chớ đâu chỉ vì anh là kẻ đi tìm. Huống nữa đi năm đồng bảy đỗi, anh tìm ra ai? Anh tìm ra anh. Có điều không bõ công vòng quanh như thế, đâu có tìm được ra mình. Anh đi khá xa trong kỹ thuật, nghệ thuật, để tìm được cái rất gần là trái tim người. Những lúc ấy anh vứt hết văn chương và kêu lên rất thật:
Anh ơi, từ đâu đến?
Em buồn em đang bệnh….
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng….
Lên chơi hòn Non Nước
Ôm nhau chết bên đường v.v...
Ta đang xem một người tung dao, múa kiếm tuyệt vời. Ta đang hoa mắt lên vì đường kiếm, ánh dao kia bỗng ô kìa sao có máu ai tia ra vậy? Máu của người đang trổ tài tung dao múa kiếm đấy.
Và chính anh ta cũng không biết nữa.
Anh ơi tôi mới đến
Là hiện thân của bệnh
Hai ta đều quạnh quẽ
Đứt ruột nhớ thương nhau
Nấn ná sẽ lìa nhau
Chiêm bao còn thấy nhau
Đọc thơ Bích Khê nhiều lúc ta có cảm giác ấy. Ba chữ nhau xoáy vào như ba mũi dao liên tiếp và máu đã tuôn ra.
Khê tìm ra mình, tìm ra Đông phương, tìm ra dân tộc. Những lúc ấy anh viết như không:
Thưa chị, đêm nay dường nhớ quá
Đưa thư, hồng nhạn biết mang không?
Muốn thấy người xa trong giấc mộng
Khuya lơ còn tựa ở bên song
Nào bên song, nào hồng nhạn, nào giấc mộng, nào đưa thư, ngỡ như chuyện cũ, lời xưa, tự thuở nào. Không đâu, chỉ chút thưa chị, chỉ một chữ khuya lơ, thì ta đã ở giữa thực tại bây giờ rồi. Chỉ cần một chút nhấn nhẹ thế thôi, đã là hiện đại. Chính Apollinaire, chính Lorca đã chinh phục chúng ta nhờ sự kết hợp truyền thống và cách tân, dân tộc và hiện đại này. Cô Hồ Xuân Hương truyền thống đã thành người vợ mới cưới của Bích Khê:
Người vợ trong thơ, gần, cách mộng
Đêm nay không biết có về không?
Nhưng cô Hồ Xuân Hương ấy không phải là người vợ theo công thức muôn thuở nữa:
Ô! Nàng Xuân Hương ngực để trần
Ngâm bài “Vấn nguyệt” tiếng trong ngần
Nhìn xuống nhân gian cười như điên
Chính phải đi vòng quanh thế giới để lúc trở về mới tìm ra cô có tiếng cười điên và bộ ngực để trần như vậy…
Từ giã anh em trước gió xuân
Khê báo trước mình sẽ chết vào mùa đông, cái mùa hộc máu của những người lao phổi. Cách mạng 1945 nổ vào mùa thu, tháng 8. Khê bảo người nhà đưa anh ra ngõ, để anh nằm trên giường bệnh, sắp kề cái chết vẫn có thể chào được cờ đỏ sao vàng. Bõ công cho anh nhìn được ngọn cờ thiêng liêng ấy của dân tộc. Chúng ta, những người của ngọn cờ đỏ ấy, với tấm lòng trân trọng những giọt máu tài năng của đất nước, trân trọng những lời thơ viết bằng tiếng nói dân tộc còn lại sau bao binh lửa, đạn bom, chúng ta làm tuyển cho anh. Xua con quạ đứng im hơi vỗ cánh bay trên mồ anh đi. Gỡ đi các nhãn hiệu mà anh tự dán, hay người khác dán cho anh đi, kể cả tự điển ta đã gán cho anh và cho Hàn Mặc Tử nhiều từ thô bạo! Ô, cái chế độ Sài Gòn làm rùm beng về anh, về Hàn Mặc Tử, mà họ chỉ khai thác tình yêu, bệnh tật, đời riêng các anh thôi, chớ tuyển tập đầy đủ nhất về tác phẩm Hàn Mặc Tử vẫn là những người của ngọn cờ đỏ sao vàng làm, còn tuyển thơ Bích Khê thì cũng đến chúng ta làm thôi. Năm 1963, chị Ngọc Sương định in cho em. Nhưng người chị cách mạng ấy làm gì có tiền! Cái một gia đình không làm được thì hôm nay một cơ quan cách mạng làm, một tỉnh quê hương cùng với gia đình chị Ngọc Sương làm! Cũng không phải chỉ có tỉnh Nghĩa Bình, vì tình quê hương mới nghĩ đến Bích Khê. Tuần trước, nhà thơ Hoàng Trung Thông viết cho tôi: “Làm tuyển Hàn Mặc Tử rồi, chờ gì mà không làm tuyển Bích Khê đi? Mình rất thích thơ cậu ấy”. Anh Vũ Quần Phương, một cây bút phê bình thơ khá có trọng lượng, hiện nay là biên tập viên của Nhà xuất bản Văn Học cũng vừa viết thư cho tôi nhắc chuyện Bích Khê.
Tôi tin không lâu nữa Khê sẽ có mặt trong các tuyển toàn quốc. Mặc dù thế, tôi nghĩ là nếu Bích Khê còn sống hẳn Khê rất sung sướng được in tại quê nhà, nơi Khê đã sống, nơi Khê đang yên nghỉ. Nơi Khê chào ngọn cờ đỏ sao vàng trước lúc qua đời. Còn chúng ta, chúng ta hãnh diện tuyên bố rằng: Từ mảnh đất miền Trung, từ Nghĩa Bình, sau thơ Hàn Mặc Tử, giờ đến lượt thơ Bích Khê đang nhập vào lưới điện quốc gia. Những câu thơ bừng sáng.
(*) Tiếng Địch, báo in ở Sài Gòn, quãng năm 1940, nhưng tòa soạn Chùa Ông, Bình Định, do Yến Lan và Chế Lan Viên phụ trách. Báo có đăng thơ của Xuân Diệu, Xuân Sanh…
Viên Tĩnh Viên 5-2-1988
Chế Lan Viên
Theo http://honvietquochoc.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát/ ...