“Tình
khúc mưa” - Một bài thơ dung dị
TÌNH
KHÚC MƯA
Giọt ngâu tí tách suốt canh thâu
Mưa khóc tình ai rụng hạt sầu
Chiếu lạnh, giường không, chiều đợi mãi
Chăn đơn, gối chiếc, tối chờ lâu
Ước người thi sĩ trao duyên phận
Mong bạn văn chương nối nhịp cầu
Buông tiếng thở dài lòng não ruột
Thầm mơ điệu hát “Lý thương nhau”
Bạn
có biết thi sĩ khác người bình thường ở chỗ nào không? Một điều đơn giản có thể
dễ dàng nhận thấy, đó là: họ rất nhạy cảm, có thể chỉ một tác động nhỏ của môi
trường bên ngoài, cũng làm tâm hồn họ xao xuyến, trái tim họ rung động, thậm
chí họ nghẹn ngào trong những tiếng khóc không nguôi. Tại sao lại như vậy
ư?. Điều này được nhà thơ Xuân Diệu lý giải bằng hai câu thơ hết sức
giản dị mà sâu sắc:
“Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió,
Mơ theo trăng và thơ thẩn cùng mây”
Mang
trong mình tâm hồn của người nghệ sĩ, tác giả Nguyễn Bá Chính hiện đang là Chủ
nhiệm Câu lạc bộ Di sản thơ luật Đường Việt Nam Chương Mỹ. Ông có một phong
cách sáng tác thơ Đường luật rất độc đáo, nổi trội về bút pháp Đường
thi so với mấy chục anh em đang sinh hoạt trong Câu lạc bộ thơ Đường của huyện
Chương Mỹ. Thơ ông có nhiều cung bậc, âm điệu và cách dụng từ chọn lọc hay, có
những bài làm người đọc khó quên bởi lối chơi chữ rất sắc sảo. Ông cũng rất nhạy
cảm với những biến động của cuộc sống. Chỉ đơn thuần là một cơn mưa thôi, đã
làm cho trái tim ông thổn thức, suy tư, để rồi biết bao nhiêu niềm thương và nỗi
nhớ cứ thế trào dâng dội về trong ông…
Để
thấy được những tâm sự thầm kín của tác giả Nguyễn Bá Chinh, ta cùng nhau tìm
hiểu bài thơ “Tinh khúc mưa” trên đây của ông.
Dân
gian vẫn thường cho rằng: Tháng bảy là tháng mưa ngâu, ông ngâu và bà ngâu xa
cách nhau biền biệt, chỉ được gặp nhau một lần vào tháng bảy. Vì lâu ngày xa
nhau, nên khi gặp mặt, họ đã khóc rất nhiều, những giọt nước mắt đó đã biến
thành những giọt mưa tuôn trào, rả rích không thôi, chứng kiến cuộc
tình ly biệt ấy, nên mỗi năm cứ vào tháng bảy, trong dân gian thường cho rằng
đó là tháng xui và là tháng của chia ly. Tháng của những cơn mưa buồn da diết.
Mở
đầu bài thơ là sự tác động của ngoại cảnh vào trong tâm hồn của thi sĩ, âm
thanh mà ông cảm nhận được đầu tiên khi nghe tiếng mưa:
Giọt
ngâu tí tách suốt canh thâu
Mưa
khóc tình ai rụng hạt sầu.
Vốn
dĩ trời mưa, không mấy gợi cho con người ta cảm xúc vui, mà ngược lại, nó thường
mang lại cho ta cảm giác buồn. Nỗi buồn ấy thật dữ dội biết bao khi lại đặt vào
trong hoàn cảnh là tháng bảy, tháng buồn của những cuộc chia ly đầy
nước mắt, tháng của những chiếc lá vàng rơi lìa cành:
“Em
không nghe mùa thu
Lá
khô rơi xào xạc
Con
nai vàng ngơ ngác
Đạp
trên lá vàng khô”.
(Tiếng
Thu - Lưu Trọng Lư)
Tác
giả Nguyễn Bá Chính cảm nhận được tiếng mưa vào lúc “canh thâu” - lúc đêm
khuya, khi mà mọi hoạt động của con người và cảnh vật đã đi vào giấc
ngủ yên, nên không gian vô cùng tĩnh lặng. Ở thời điểm đó dễ đưa tâm trạng của
con người vào tâm trạng bâng khuâng của nỗi buồn vô tận. Nghe tiếng mưa mà tác
giả cảm nhận như chính mình đang “khóc”. Mặc dù tác giả không nói rõ khóc vì
ai? Khóc vì cái gì? Nhưng qua từ “tình”, bạn đọc đã phần nào lý giải được
tâm trạng của nhà thơ. Phải chăng đó là tiếng khóc cho một cuộc tình không trọn
vẹn, một cuộc tình chia ly, xa cách…Tác giả sử dụng đại từ nhân xưng “ai” - đây
là một từ phiếm chỉ, có thể nỗi sầu này không chỉ riêng của nhà thơ, mà của biết
bao nhiêu cuộc tình khác trong cõi nhân gian này: “Em sẽ khóc khi nhìn thấy
trên khóe mắt/ Thấy một mình người đi lại lang thang/ Cỏ ghi giữ ân tình trong
cỏ nhặt/ Mưa vi vu vì hẹn với chuông ngàn” (Mưa buồn - Thảo Hương)
“Lã
chã bên thềm những giọt mưa
Mưa
rơi gõ nhịp mấy cho vừa
Người
đi bỏ lại con đường cũ
Kẻ
ở tìm về quán nước xưa”
(Mưa
vắng - Hoài Nam)
Nếu
như hai câu mở của bài thơ là sự tác động của ngoại cảnh vào tâm hồn thi sĩ,
thì ở hai câu thực tiếp theo, ta thấy rõ được hoàn cảnh thực tại của tác giả: “Chiếu
lạnh, giường không, chiều đợi mãi/ Chăn đơn, gối chiếc, tối chờ lâu”.
Nguyễn
Du trong truyện Kiều đã từng viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, điều
đó thật đúng với hoàn cảnh thực tại của tác giả Nguyễn Bá Chính. Chỉ duy nhất một
mình trong nỗi buồn vô vọng, “chờ” rồi lại “ đợi”, nhưng kết quả
chỉ là “Chiếu lạnh, giường không… chăn đơn, gối chiếc”. Ở đây ta thấy sự tuần
hoàn của thời gian, thoạt đầu tác giả cảm nhận được âm thanh của tiếng mưa vào
lúc đêm khuya, sau đó là buổi chiều, rồi lại buổi tối, điều đó cho thấy mưa ở
đây không chỉ một đêm, một ngày mà nó rả rích ngày này qua ngày khác, và tâm trạng
chờ đợi mòn mỏi của nhà thơ cũng kéo dài da diết, khắc khoải, không nguôi. Tình
yêu phải gắn liền với đôi, với cặp thì đó mới hạnh phúc, nhưng ở đây, mọi cảnh
vật đều đơn chiếc, lẻ bóng, cho thấy một cuộc tình buồn, hiu quạnh… Nhịp thơ
2/2/3 tạo cảm giác rời rạc, ngắt quãng, gợi nên sự cô đơn, trống trải trong tâm
hồn con người. Chính bởi tình yêu buồn, không trọn vẹn, nên tác giả Nguyễn Bá
Chính luôn khao khát: “Ước người thi sĩ trao duyên phận/ Mong bạn văn
chương nối nhịp cầu”.
Ông luôn ước mơ người
tình mà mình đang mong nhớ sẽ thấu hiểu tâm sự, nỗi lòng của ông và hơn thế nữa,
ông muốn gửi đến người ấy lời hứa hẹn: duyên phận trăm năm chỉ duy nhất dành trọn
cho một người và duy nhất một người mà thôi. Ông cũng luôn khao khát có một người
bạn văn chương đồng điệu với ông về mặt tâm hồn để cùng ông chia sẻ nỗi buồn, nỗi
cô đơn. Thế nhưng kết quả ấy lại chỉ là: “Buông tiếng thở dài lòng
não ruột/ Thầm mơ điệu hát “Lý thương nhau”.
Sự chờ đợi đến
mòn mỏi ngày này qua ngày khác, nhưng cuối cùng kết quả chỉ là sự vô
vọng. Nỗi buồn không những không vơi đi, mà nó ngày một lớn hơn. Tất cả những
ước mơ, hoài bão hiện tại chỉ là một giấc mơ mà thôi.
Bài
thơ với ngôn từ giản dị, sâu lắng, đã nói lên được tâm sự của tác giả Nguyễn Bá
Chính, đó là niềm khao khát đến cháy bỏng về một tình yêu trọn vẹn,
trăm năm bền vững không phai. “Tình khúc mưa” như một bài ca gieo vào lòng bạn
đọc những suy tư, trăn trở về hạnh phúc lứa đôi và mong muốn có sự đồng
cảm sẻ chia sâu sắc từ phía bạn đọc.
Nguyễn Duy Cách
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét