1. Không phải ngẫu nhiên khi nhận định về đời và thơ
Bích Khê, Chế Lan Viên đã cho rằng Bích Khê là một "đỉnh núi lạ" mà
tài năng tỏa sáng ngay ở tập thơ đầu, đến nỗi thi sĩ thiên tài Hàn Mặc Tử đã
phải ngưỡng mộ ngợi ca: "Một bông lạ nở hương, một thứ hương quý trọng,
thơm đủ mọi mùi phước lộc. Ta có thể sánh văn thơ Bích Khê như một đóa hoa thần
dị." (1) Sự xác quyết về thi tài của Bích Khê từ hai thiên sứ thi ca: Hàn
Mặc Tử và Chế Lan Viên đã xác tín giá trị thơ Bích Khê trong nền thơ ca dân tộc
là điều không thể phủ nhận.
2. Ở miền Nam giai đoạn 1954 - 1975, việc nghiên cứu, giảng
dạy văn học lãng mạn trong đó có phong trào Thơ mới (1932 -1945) (mà ở miền
Nam gọi là thi ca tiền chiến) luôn được chú trọng và là món ăn tinh thần
không thể thiếu của nhân dân miền Nam, nhất là tầng lớp thị dân, trong đó có
giới trẻ và giới trí thức. Trong các văn thi sĩ tiền chiến, Bích Khê là một
trong không nhiều nhà thơ được biết đến như một thiên tài thi ca mà đóng góp
của ông vào sự cách tân thơ Việt là một hệ giá trị cần được khẳng định. Vì vậy,
trên báo Văn, một tập san Văn học có uy tín ở miền Nam trước 1975 số 64
ra ngày 15 tháng 8 năm 1966, trong lời tưởng niệm Bích Khê đã viết: "Mặc
dầu mệnh yểu, từ trần khi sự nghiệp còn dang dở nhưng thi sĩ Bích Khê đã là
nhà thơ lỗi lạc, có một vị trí rõ rệt trong lịch sử thi ca Việt Nam” (2) Và
cũng ở số báo này, Bích Khê được giới thiệu một cách trân trọng với 8 bài viết
đặc sắc của các tác giả là nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình văn học. Đó
là các bài Đôi nét về cuộc đời Bích Khê của Quách Tấn; Bích Khê có
khuynh hướng chính trịkhông và Nhân nhớ Bích Khê và thơ Bích Khê
bàn về thơ tượng trưng của Tam Ích; Người em Bích Khê của Lê
Thị Ngọc Sương; Thu xà và phần mộ Bích Khê, Nhạc và họa trong thơ Bích
Khê của Đinh Cường; Bích Khê thi sĩ thần linh của Hàn Mặc Tử; Lời bạt
"Tinh huyết" của Hoàng Trọng Miên. Và sau đó cũng trên Văn số
66 ra ngày 15/9/1966 lại đăng bài Nhân đọc bài hồi ký của anh Hồ Hữu Tường của
Ngọc Sương với lời giới thiệu đặc biệt của tòa soạn: “Chúng tôi xin cống hiến
bạn đọc thêm một tài liệu về thi sĩ Bích Khê. Mong bạn đọc coi bài dưới đây
như một phụ đính cho Văn số 64”. Còn trên tạp chí Văn học số chuyên đề
về Bích Khê ra ngày 20/11/1974 có bài viết Bích Khê: Dòng thơ, khoảng
thơ và thời gian của Phạm Hoài Việt; Tinh huyết của Bích Khê của Lê
Huy Oanh và Thế giới thơ tượng trưng Bích Khê của Phan Kim Thịnh.

Ngoài các số báo chuyên đề, Bích Khê còn xuất hiện
trong các tuyển thơ như Thi nhân tiền chiến (quyển hạ) của Nguyễn Tấn
Long (Sống Mới xuất bản, Sài Gòn, 1969); Thi ca Việt Nam hiện đại của
Trần Tuấn Kiệt (Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, 1965), hay trong các tác phẩm
tiểu luận phê bình như Ý Văn 1 của Tam Ích (Lá Bối xuất bản, Sài Gòn,
1967); Đời Bích Khê của Quách Tấn (Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gòn, 1971). Và
hôm nay là công trình biên khảo của nhà thơ, nhà nghiên cứu Hoàng Diệp: Bích
Khê - nhà thơ tiền chiến (Nxb. Hội Nhà văn H, 2017) mà lẽ ra nó phải được
xuất hiện trong đời sống văn học ở miền Nam giai đoạn 1954-1975. Tác phẩm này
được Hoàng Diệp hoàn thành bản thảo từ năm 1970 sau khi ông cho xuất bản công
trình biên khảo Hàn Mặc Tử thi sĩ tiền chiến (Khai Trí xuất bản,
1968) và Chế Lan Viên thi sĩ tiền chiến (Khai Trí xuất bản, 1969).
Giá công trình Bích Khê - nhà thơ tiền chiến của Hoàng Diệp cũng được
ấn hành trong những năm trước 1975 ở miền Nam lúc ấy, thì chúng ta đã có được
một bộ ba hoàn hảo với ba công trình biên khảo về ba đỉnh cao của Trường thơ
loạn nói riêng và phong trào Thơ mới nói chung: Hàn Mặc Tử - Bích Khê - Chế
Lan Viên. Nhưng muộn còn hơn không, vì sự hiện hữu của công trình này sẽ góp
phần quan trọng giúp người đọc có thêm những cách nhìn mới, cách nghĩ mới về
thơ Bích Khê. Bởi, đây là một công trình biên khảo nghiêm túc, cẩn trọng bao
quát khá toàn diện về các phương diện trong đời và thơ Bích Khê mà Hoàng Diệp
đã cảm nhận, đã chia sẻ theo cách riêng của một nhà nghiên cứu đồng thời cũng
là một nhà thơ sống cùng thời với Bích Khê và các thi sĩ tiền chiến khác.
Thơ là thế giới của nhiệm mầu, của huyền diệu. Vì vậy, thưởng
thức thơ là điều không đơn giản. Làm thơ đã khó mà cảm thụ thơ lại càng khó
hơn. Là một nhà nghiên cứu văn học cũng là một nhà thơ, Hoàng Diệp rất có ý
thức về việc nghiên cứu và tiếp nhận thơ.Ý thức ấy được thể hiện ngay ở lời nói
đầu của công trình biên khảo này khi ông xác quyết: “Đọc thơ, tìm hiểu thơ là
cả một vấn đề, nói cách khác là cả một nghệ thuật. Người trồng hoa và kẻ thưởng
thức hoa, phân lượng hương và nghiên cứu màu sắc là hai thế giới cách biệt
cũng như Nam và Bắc cực…(...). Vậy đối với thơ chúng ta phải đấu tranh bằng
cách nào, phải chuẩn bị tâm hồn mình, sửa soạn thể xác mình theo một phương
thức nào khi chúng ta đọc thơ, muốn tìm hiểu và thưởng thức thơ.” (3) Chính
tâm thức này đã trở thành cảm hứng chủ đạo để Hoàng Diệp khám phá thế giới
thơ mới lạ của Bích Khê trong một công trình đầy tâm huyết của mình.
Là một nhà nghiên cứu có một nền tảng văn hóa phong
phú, uyên áo và thâm hậu, am hiểu cả văn hóa Đông phương và Tây phương, đồng
thời cũng là một nhà thơ, lại là người sống cùng thời với các nhà thơ tiền
chiến, đặc biệt là những nhà thơ trong nhóm thơ Bình Định và Trường Thơ Loạn
như Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viện, Quách Tấn, Bích Khê, nên
Hoàng Diệp dễ có sự chia sẻ, cảm thông và thấu hiểu về thơ Bích Khê nói riêng
và các nhà thơ trong nhóm thơ Bình Định và Trường Thơ Loạn nói chung. Vì thế,
ngay từ những trang mở đầu phần “Thơ Bích Khê” ở công trình biên khảo
này, Hoàng Diệp đã phản biện quan điểm của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt
Nam cho rằng: “Thơ Bích Khê đọc hai ba lần cũng như chưa đọc” khi ông biện
luận: “Chúng tôi không dám tự hào tìm hiểu được thơ Bích Khê, nhưng cũng
không đồng ý về cái bí hiểm mà thơ Bích Khê đã chứa đựng là quá bí hiểm. quá
tối tăm. Thơ Bích Khê không quá bí hiểm và quá tối tăm như người ta tưởng, vì
cái nghệ thuật kỳ bí của Bích Khê là luôn luôn muốn đổi mới, đặt lại tất cả mọi
vấn đề mà thi ca có nhiệm vụ. Cái đẹp cái hay, cái sâu sắc đến độ tối tăm,
cái mới lạ xuất hiện trong thơ Bích Khê dưới nhiều hình thể mà người ta tự
cho là kỳ bí, có khi chúng tôi cảm thấy cả một chứng bệnh thất thường gây bối
rối không ít cho người đọc. Nếu người ta đem dùng những từ ngữ “gợi cảm” hay
“lên men” để ám chỉ sức hấp dẫn, sức hút của thơ Bích Khê thì vẫn chưa đầy đủ
và chưa được ổn lắm.”(4) Điều băn khoăn của Hoàng Diệp ngày nào đến hôm nay
đã được giải mã qua các công trình nghiên cứu về thơ Bích Khê trong và ngoài
nước ở những năm gần đây mà rõ nhất là các công trình nghiên cứu được trình
bày trong hai Hội thảo Quốc gia về thơ Bích Khê, tổ chức tại Quảng Ngãi, quê
hương Bích Khê vào năm 2006 và 2016 là một minh chứng.
Đúng là thơ Bích Khê hôm nay không còn bí hiểm như Hoài
Thanh đã từng phán xét trong Thi nhân Việt Nam. Bởi đằng sau những lớp
ngôn từ tưởng chừng kỳ bí và mới lạ ấy là cả một tấm lòng yêu đời, yêu cuộc sống,
yêu cái đep đến cuồng si của thi sĩ thiên tài mà có lẽ đương thời không chỉ
có Hoài Thanh mà có thể còn nhiều người chưa bắt nhịp được với cảm quan trong
thế giới thơ Bích Khê cũng có những suy nghĩ như thế. Vì vậy, những phản biện
của Hoàng Diệp trong công trình này về ý kiến của Hoài Thanh theo chúng tôi
là cần thiết, nó cho thấy tinh thần độc lập của một nhà nghiên cứu khi dám “đụng
đến” những nhà phê bình vốn được xem là thần tượng của một thời như chính
Hoàng Diệp đã chia sẻ: “Chúng tôi ngưỡng mộ Bích Khê trong lúc Hoài Thanh… lại
muốn đưa chúng tôi xuống hố sâu chứa đầy bí mật.” (5).

Và công trình biên khảo Bích
Khê, nhà thơ tiền chiến đã thực hiện sứ mệnh xóa tan cái ý niệm về sự bí
hiểm của thơ Bích Khê trong cảm nhận của người đọc và người yêu thơ Bích Khê
để đưa thơ Bích Khê về gần hơn với cõi nhân sinh như Hoàng Diệp tâm sự: “Đề cập
đến thơ Bích Khê, chúng tôi không dám nuôi hy vọng giới thiệu hay lột trần tất
cả những gì sâu, kín thăm thẳm, bí ẩn mà thơ Bích Khê đã chứa đựng, cũng
không dám nói đã hiểu thơ Bích Khê như Bích Khê đã hiểu (…) chúng tôi không
tham vọng. Chúng tôi chỉ cố gắng tìm đến con người Bích Khê qua những huyền
thoại của chàng, cũng như các phi hành gia đã tìm đến với cung trăng, mang
theo ý định khi trở về, đem biếu quý độc giả thơ Bích Khê vài mẫu đá lạ.” (6)
Với công trình Bích Khê thi sĩ tiền chiến, Hoàng Diệp
đã phân tích, luận giải sâu sắc, cụ thể và thuyết phục hành trình sáng tạo thơ
của Bích Khê. Theo ông, Bích Khê đã đi từ cảm quan thi ca Đường thi qua việc
“Thăm dò vòm trời Đường Tống” với những “quan niệm cố hữu về thơ ca thuần túy
cổ điển” mà theo Hoàng Diệp “Đọc thơ Đường Bích Khê, chúng ta gặp lại những
khung trời từng quen mắt, cảm lại những ý tưởng thân thuộc với lòng ta cũng
như ta đã một thời đọc một Đỗ Phủ, một Nguyễn Công Trứ, và gần hơn nữa, một
Cao Bá Quát, một Phan Sào Nam…” (7) đến cảm quan thi ca phương Tây. Trong
hành trình này “sự can thiệp của Đạo sĩ Hàn Mặc Tử” có vai trò vô cùng quan
trọng. Bởi: “Với chiếc đũa thần, Hàn Mặc Tử đã thổi vào đầu óc Bích Khê một
linh khí kỳ ảo, đã thấm nhuần thể xác Bích Khê với một chất toan thủy nhiệm
màu có đủ thần lực làm cho cơ thể chàng rung động, trí tuệ chàng đổi sắc.”
(8) Vì lúc này, đọc thơ Hàn Mặc Tử đối với Bích Khê là “Một khám phá vĩ đại về
điểm tân kỳ diễm ảo, đượm cái thơm ở một thế giới nào, có sức mát ở suối ngọc
của một tinh cầu nào, ở một cõi một xứ lạ đối với chúng ta.” (9) Xứ lạ đó
chính là những ảnh hưởng của văn hóa và cảm quan thi pháp phương Tây mà Hàn Mặc
Tử đã tiếp nhận và thể hiện hết sức tinh tế trong thơ mình. Và không chỉ có
Thơ Hàn Mặc Tử làm tỉnh giấc mộng Đào Nguyên đắm chìm trong những ảo vọng đến
diệu kỳ của Đường Thi trong Bích Khê mà theo Hoàng Diệp “Còn có cả Điều tàn của
Chế Lan Viên và Bến My Lăng của Yến Lan. Đây là Những yếu tố bất ngờ dồn đập đến
luôn luôn quấy phá giấc mơ chàng, buộc chàng phải dang tay giã biệt giấc mơ
tiên.” (10)

Một phần quan trọng khác trong công trình biên khảo này thể
hiện năng lực cảm thụ thơ sâu sắc của Hoàng Diệp đã đem đến cho người đọc những
mỹ cảm tốt đẹp trong quá trình cảm thụ thơ Bích Khê đó là phần viết về một số
phương diện thơ Bích Khê như Hương, Tình; Lệ; Nhục dục mà ở phương
diện nào ông cũng có những cảm thụ tinh tế. Cảm nhận về Hương trong thơ
Bích Khê, Hoàng Diệp viết: “Đi tìm một mùi hương chúng ta qua ba bậc. Thứ nhất
cấp bậc về cuộc đời, tiếp đến là từ sự sống động của cảm xúc của tưởng tượng
và sau cùng là cuộc sống ở miền tâm linh. ở vùng này con người luôn đối diện
với hóa công vì chính hồn cũng đã diễn ra hương. Hồn vô hình và hương chỉ hữu
hình. Bắt cái “vô hình trở nên cái hữu hình”, câu nói của Hàn Mặc Tử thật là
chí lý và chúng ta không vội ngạc nhiên rối rít lên khi nghe nói thi ca Bích
Khê là một đóa hoa “thần dị.”(11). Hoặc luận về chữ Tình trong thơ
Bích Khê, Hoàng Diệp đã cho thấy một sự cảm nhận khá sâu sắc và mới lạ khi ông
đi “phân chất mùi hương” trong thơ tình yêu của Bích Khê như một biểu hiện của
tâm thức hiện sinh: “Tình đối với Bích Khê thật là nhiều, đậm và nồng say.
Nhưng điều lạ lùng là chàng đã từ chối tất cả mối tình ở trần gian... Tình
yêu cao đẹp tình yêu mơ mộng của trai thanh gái lịch ở tuổi đôi mươi, tình
yêu trăng nước trời mây... đối với Bích Khê chỉ là những hoạt động tầm thường
thuộc ngoại diện của tâm linh. Chàng muốn tìm về với một thứ tình cao hơn
núi, sâu hơn biển, mầu nhiệm hơn lời kinh tiếng kệ; Tình yêu âm thầm sâu kín
đối với chính mình... Tình yêu mình đã đưa đến một thứ tình yêu quê hương nhỏ
bé Việt Nam, xứ ở sỏi đá Quảng Ngãi và ngôi nhà mồ vắng lặng Thu Xà. Bích Khê
đã tài bồi mối thâm tình ấy với tất cả những nguyên liệu tâm linh chàng sẵn
có. Những nỗi niềm đau xót trộn lẫn những nguồn suối hả hê sản khoái: Rồi một
mùa thu vô hạn thương/ Trở về dưới biếc chập chờn hương (Nấm
Mộ).”(12)
Khi phân tích về Lệ trong thơ Bích Khê, Hoàng Diệp cũng
có một sự cảm nhận theo cách riêng của mình: độc đáo và thấu cảm của một tâm
hồn đồng điệu khi ông xác quyết: “Đời khóc Bích Khê nhiều hơn Bích Khê khóc cho
đời”. Và theo Hoàng Diệp: “Hình như tâm tư Bích Khê đã một lần bị thương nặng,
giọt nước mắt chính đã do từ suối tâm linh đổ ra, nên nó không có một danh
xưng rõ trong thơ Bích Khê.” (13). Vì vậy, lệ trong thơ của Bích Khê là những
giọt lệ của thế giới tâm linh mà nếu không có một sự giao cảm tâm linh thì
người đọc sẽ không thể nào giải mã được!?
Bàn về vấn đề Nhục dục trong thơ Bích Khê trên cơ sở những
lý luận khá chặt chẽ được nhìn từ nhiều bình diện khác nhau cả tâm sinh lý, đạo
đức, văn hóa, Hoàng Diệp đã tranh luận với những ý kiến “kết tội” về cái dâm
trong thơ Bích Khê của một số người khi ông khẳng định: “Cái đẹp thể chất,
thuốc phiện, hơi rượu “hú ma” đã biến Bích Khê thành một Baudelaire đã tìm gặp
trong cái say, cái tính dục cho đến trong cái chết, một niềm an ủi tâm hồn
thi sĩ, một thành công trên con đường nghệ thuật, thì Bích Khê vừa bắt tay
cái trần truồng khả ố, cái hữu thể gớm guốc ấy, vừa giã biệt chúng để tiến
vào cõi siêu thoát: Ta là thơ! Phàm tục hãy quy y/ Ta sáng suốt chiếu
ra màu Phật Tánh. Hai câu thơ trên đã làm sụp đổ như những bước tường thành
đua nhau sụp đổ tất cả những ý tưởng, những quan niệm từ trước đến nay về thơ
tội lỗi, thơ dâm đãng của Bích Khê» (14). Chính sự biện luận sâu sắc và
khoa học này đã cho thấy tính hiện đại và sự tinh tế trong tư duy phê bình của
Hoàng Diệp mà không phải ai sống trong khí quyển văn hóa cùng thời với ông,
khi những quan niệm khắc khe của lễ giáo phong kiến vẫn còn ảnh hưởng nặng nề
trong đời sống xã hội, cũng có những suy nghĩ cởi mở như thế!?
Ở lĩnh vực nghệ thuật trong thơ Bích Khê, Hoàng Diệp đã bàn
đến các phương diện như: Nhạc, Âm thanh; Hình ảnh và Nghệ thuật kiến
trúc câu thơ với các vấn đề như cách dùng chữ, phép liên cú, cách
ngắt hơi, lối đảo tự, phép điệp âm, dùng điển tích... mà ở phương diện nào
người viết cũng có những luận giải thấu đáo. Khi bàn về Nhạc và Âm
thanh trong thơ Bích Khê, tác giả viết: “Nhạc phản chiếu hành động và tư
tưởng của người cũng như Thơ (…) Những “Tỳ Bà”, “Hoàng Hoa”, “Nghê Thường”,
“Nhạc”… của Bích Khê là những biểu tượng hùng hồn cho một lối kiến trúc mới,
quá táo bạo đối với thi ca Việt Nam.”(15). Hay khi bàn về hình ảnh trong thơ
Bích Khê, Hoàng Diệp đã chỉ ra những đóng góp của Bích Khê, một nhà thơ rất
có ý thức cách tân trong hình thức nghệ thuật thi ca, khi ông xác quyết: “Những
gì mà chúng tôi tìm gặp trong thi ca Bích Khê đã chứng minh thêm một điều là
Bích Khê đã tỏ ra rất dè dặt, nghiêm chỉnh trong việc tìm kiếm, lựa chọn hình
ảnh, biểu tượng. Từ cái nguồn mạch vô tận ấy thơ ca chàng phát triển sáng
chói, sâu thẳm thêm. Bích Khê cũng không xem thường những điển tích cũ, hình ảnh
xưa khi chàng viếng cảnh “Ngũ Hành Sơn” vì chàng đã thổi vào những hình tượng
mốc meo từ ngàn đời ấy một linh khí hoàn toàn mới, làm cho người ta tưởng
chúng vừa xuất phát ở giữa lòng thế kỷ.” (16) Và còn biết bao điều lý thú
khác trong tập biên khảo này khi Hoàng Diệp khám phá thơ Bích Khê từ cái nhìn
đối sánh với các nhà thơ phương Tây như “Một cuộc gặp gỡ ngược chiều POE và Bích Khê”, “Ảnh hưởng Paul Valery” đối với Bích Khê… mà chúng ta chỉ có thể tìm
thấy những điều ấy khi đọc công trình khảo cứu này.

Phần thay lời kết luận viết về “Ba nhà thơ phản kháng: Hàn
Mặc Tử - Chế Lan Viên và Bích Khê” cũng khá công phu với một cái nhìn đối
sánh về ba nhà thơ này giúp cho người đọc hiểu và cảm rõ hơn, sâu hơn về thơ
Bích Khê mà nhận định sau đây là một minh chứng: “Bích Khê mở rộng những cánh
cửa to tướng, nặng nề, chúng ngăn cách âm dương, phân giới hạn giữa thực thể
và vô thể, giữa hữu thức và vô thức. Chàng tiến đến vị lai, tìm một đời sống
thực, Ở đây không có thiên đàng của Hàn Mặc Tử, không có địa ngục của Chế Lan
Viên. Ở đây con người đời đời không phải sống ngoài không gian thời gian, mà
chính con người đã chứa đựng, ấp ủ chúng có thể làm cho không gian thu hẹp lại,
thời gian trôi chảy êm như một thời khắc phụ thuộc. Bây giờ con người ấy
không biến thể, một con người đầy đủ tất cả., tự do hoàn toàn: ở cõi siêu thế
giới vô thủy vô chung ấy, con người đã trở nên một thần tính.”(17)
Một vấn đề không thể không nói đến khi đọc công trình biên
khảo Bích Khê, thi sĩ tiền chiến của Hoàng Diệp đó là chất “mượt mà” đầy
“cảm xúc” ở văn phong phê bình khi luận giải các luận cứ, luận chứng trong một
công trình mang tính học thuật vốn được xem là lý luận khô khan. Chẳng hạn,
khi bàn về những hình ảnh có tính chất ảo giác trong thơ Bích Khê, Hoàng Diệp
đã tạo nên những diễn ngôn phê bình khá ấn tượng mà nếu không có một tâm thức
giàu mỹ cảm thì không thể kiến tạo được: “Có những hình ảnh không gây được ảnh
hưởng trực tiếp đối với giác quan, nhưng đã tạo nên một cảm giác mới, nó thuộc
về loại ảo giác. Bích Khê đã mất một ngày trọn để dõi theo cái bóng đen chảy
dài trên cát ở động Huyền Không. (…) Chàng đã mơ tưởng qua nhiều đêm trắng đến
đường đi nước bước của một làn hương từ dưới đất bay lên trời (…). Trong sự
giao cảm với thế gới thần bí, thi nhân đã thấy và nghe những gì? Không ai biết
được. Trong sự run rẫy của một chiếc lá, trong cái màu xanh của một ngọn cỏ,
trong hình thể của một viên sỏi, trong tiếng phập phồng của một cánh dơi,
trong ánh sáng lung linh của một hạt sương, trong tiếng than của gió, của nước,
trong những mùi không tên từ núi, từ biển thoang thoảng… Trong tất cả đã phát
hiện một rừng ý tưởng chồng chất lên nhau, âm hưởng nổi loạn.” (18). Và từ những
luận giải đầy tính khoa học này ông đã đi đến xác quyết: “Thi ca Bích Khê xuất
hiện như một quyền lực tinh thần. Nó tạo nên xung quanh thơ chàng một làn
không khí khác thường (…). Chúng ta sẽ quá vội vàng và thiếu khôn ngoan
nếu chúng ta có ý muốn chỉ trong phút chốc sau khi đọc thơ Bích Khê, nếm cái
chất ngọt bùi, mùi vị thơm mát, kết quả của nhiều năm tâm luyện và suy tưởng
về hoa trái thi ca mà Bích Khê đã dày công ươm cây, ướm nụ.” (19).

Mặt khác,
việc kiến tạo các diễn ngôn phê bình của Hoàng Diệp ở công trình này cũng có
những hạn chế khi tác giả dùng khá nhiều các từ ngữ theo lối viết cũ của những
năm đầu thế kỷ XX, như: “Quan niệm cổ hũ về thơ ca”, “Sự can thiệp của một đạo
sĩ: Hàn Mặc Tử”, “âm thanh nội băng”, “đối chọi trong thừa trạng”, “phép liên
cú”, “lối đảo tự”… khá xa lạ với văn phong phê bình hiện nay nên phần nào gây
trở ngại đối với sự tiếp nhận của người đọc, nhất là những người đọc trẻ. Hay
có những nhận định, đánh giá nhiều khi còn ngẫu hứng, chưa thật thuyết phục về
mặt học thuật như: “Vừa lọt lòng mẹ Bích Khê đã là thi sĩ rồi. Chàng nghiên cứu
luật Đường Tống để biết và xa lánh chúng. Muốn thắng kẻ thù phải biết lực lượng
của chúng. Khi đã cảm biết sức nặng nề phức tạp của hình thức, nó thường cản
trở bước tiến của nghệ thuật, Bích Khê không ái ngại vượt lên trên nó để hướng
nghệ thuật đến chỗ hoàn toàn tinh vi, điêu luyện.”… (20)
Phần phụ lục của tập sách với một số bài viết về nhà thơ
nhà, nghiên cứu Hoàng Diệp mà đặc biệt là hai bài viết “Hoài Niệm về Ba” của
Kim Thư và bài: “Nhà thơ Hoàng Diệp - vụ kiện “Trích Thơ Hàn Mặc Tử” của Bùi
Kim Chi cũng góp phần giúp cho độc giả hiểu thêm về cuộc đời và văn nghiệp của
một nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình văn học, vốn chưa phải đã được nhiều người
biết đến.
3. Công trình biên khảo Bích Khê nhà thơ tiền chiến của
nhà thơ, nhà nghiên cứu Hoàng Diệp với những vấn đề đã khái quát ở trên là một
công trình nghiên cứu văn học có giá trị khoa học và thực tiễn, phục vụ thiết
thực cho việc giảng dạy và nghiên cứu thơ Bích Khê trong nhà trường cũng như
các viện nghiên cứu. Nó góp phần quan trọng bổ khuyết vào vùng tư liệu nghiên
cứu về đời và thơ Bích Khê ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 vốn không còn nhiều
và cũng không phải dễ kiếm tìm. Vì vậy, sự xuất hiện của công trình biên khảo Bích
Khê nhà thơ tiền chiến (Nxb. Hội Nhà văn, H, 2017) do gia đình nhà thơ, nhà
nghiên cứu Hoàng Diệp cùng với nhà văn Nguyên Minh, chủ biên tạp san Quán Văn
hợp tác in ấn, phát hành là một điều rất có ý nghĩa. Và ý nghĩa ấy lại càng
sâu sắc hơn khi công trình biên khảo này ra mắt đúng dịp cả nước đang tổ chức
Ngày Thơ Việt Nam để tôn vinh những giá trị của thơ ca Việt. Cơ Duyên này,
thiết nghĩ sẽ làm ấm lòng hương linh của cố nhà thơ Bích Khê và nhà thơ Hoàng
Diệp - những con người suốt cả cuộc đời dấn thân và tận hiến cho thơ. Bởi, nói
như Cyprian Norwid, một nhà thơ Ba Lan: “Thế giới này rốt cuộc chỉ còn lại
hai thứ, chỉ hai thứ thôi: Thi ca và lòng nhân ái... không còn gì khác”.
Chú thích:
Nhiều tác giả (2003), 70 năm thơ Bích Khê, Nxb
Thanh Niên, H, tr. 100.
Văn số 64 ra ngày 15/8/1966, tr.01
(3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13) (14) (15)
(16) (17) (18) (19) (20). Hoàng Diệp (2017), Bích Khê - nhà thơ tiền chiến,
Nxb. Hội Nhà văn H, tr.7,8; tr.10; tr.12; tr.14; tr.19; tr.35; tr.30 ; tr.84;
tr.113; tr. 114-117; tr.120; tr.126; tr.128,137; tr.164- 165;
tr.232;tr.173-174; tr.175 -176; tr.136.
Xóm Đình An Nhơn,
Gò Vấp, 4/3/2018
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét