Nhà thơ Bùi Giáng xuất hiện trong nền thơ ca Việt Nam như một hiện
tượng kỳ lạ và độc đáo. Suốt trong mấy mươi năm nhiều tác giả trong và ngoài nước
viết bình thơ Bùi Giáng. Những chuyện đời của Bùi Giáng đôi khi trở thành giai
thoại. Bùi Giáng sống những năm tháng ngao du, lang thang trên các đường phố
Sàigòn. Người ta từng gặp Bùi Giáng với hình hài người điên, quần áo đủ màu sắc,
đôi khi say ngất ngưởng, ngủ bên lề đường dưới bóng cây xanh lá.
Thi sĩ Đức Tường trong nhóm thi ca München hâm mộ Bùi Giáng
như một thần tượng, cách đây mấy năm trong dịp về Sài gòn, anh đến thăm nhà Bùi
Giáng lúc còn tại thế. Được cháu Bùi Giáng đưa anh đi viếng mộ, đốt nén nhang
thơm tưởng niệm người thi sĩ tài ba. Ai đã đọc Bùi Giáng hoặc nghe những chuyện
về con người kỳ dị này chắc chắn sẽ bị cuốn hút. Một hiện tượng độc đáo đến hy
hữu trong đời sống văn học Việt Nam.
Tôi cùng quê với Bùi Giáng, nên Đức Tường yêu cầu tôi nói về
thơ Bùi Giáng để góp mặt vào đêm thơ nhạc. Thưa quý vị cùng quê hương xứ Quảng
nhưng chưa chắc hiểu Bùi Giáng bằng những người đã yêu thơ của ông. Tôi đã gặp
Bùi Giáng một vài lần, sau 1975 Bùi Giáng điên loạn hơn, có thể Bùi Giáng sung
sướng nhất vì đìên, từng đứng trước Đại Học Vạn Hạnh chửi người tịch thu trường
nầy. Ông Nhất Thanh từng luận về Bùi Giáng:
- Ồ, chẳng có ngôn từ nào thích hợp với Bùi Giáng cả. Ông chỉ
là một ông già bình thường nhất, dễ thương nhất. Nếu có điên chăng, có lẽ là tất
cả chúng ta.
Nhà văn Đào Hiếu viết:
- Cũng có thể hiểu Bùi Giáng như thế này: Ông coi đời là hữu hạn,
là phi lý, là chốn lưu đày, là cõi phù du, là cái mớ bòng bong vớ vẩn....
Chúng ta thử đi vào cõi thơ của Bùi Giáng, để có thể xác định
được cuộc đời của thi nhân một thời vang bóng trên thi đàn miền Nam trước 1975.
Nhà văn Mai Thảo đã ca tụng:
- Cõi thơ Bùi Giáng lúc bấy giờ ào ạt, vỡ bờ, bát ngát trường
giang mênh mông. Bùi Giáng ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ
Thân thế và sự nghiệp
Bùi Giáng là tên thật, tuy nhiên cũng có vài bút hiệu nói lái
khác như Bán Dùi, Bùi Giáng Búi. Xuất thân gia đình vọng tộc, giàu có, sinh
ngày 17/12/1926 tại làng Thanh Châu xã Vĩnh Trinh, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam. Bùi Giáng là con thứ 5, thân phụ là ông Bùi Thuyên, mẹ Huỳnh Thị Kiền. Bùi
Giáng bà con với Bác sĩ Bùi Kiến Tín là người bào chế dầu khuynh diệp với nhãn
hiệu Khuynh Diệp BS Tín trước 1975.
Bùi Giáng vào Sài Gòn, người miền Nam gọi ông là Sáu Giáng.
Bùi Giáng cũng tỏ ra thích thú với tên gọi này. Năm 1945, ông cưới vợ trẻ đẹp
nhưng bạc mệnh là bà Phạm thị Ninh, sinh trưởng trong một gia đình công chức
khá giả, con gái của ông bà Phán Trai, ở gần Chùa Cầu, Hội An.
Theo dư luận khoảng năm 1948, Bùi Giáng dọn nhà, lên Trung
Phước vùng thung lũng đồi núi chăn dê, ông nuôi dê để chơi thôi không bán, cũng
không làm thịt dê để nhậu. Ông rất yêu những con dê, ông đặt cho mỗi con một
cái tên, rất kỳ lạ (người em vợ kể lại)
Bùi Giáng rất thương vợ. Sáng nào ông cũng vắt một bát sữa dê
đem chưng lên cho vợ uống.
Nhưng không tránh khỏi kiếp hồng nhan bạc mệnh, năm 1948 bà
Ninh bị bệnh sanh con non nên cả mẹ con đều qua đời. Từ đó ông không lập gia
đình, không hiểu một vài tác giả dựa vào tài liệu nào viết Bùi Giáng đi chăn
bò? chăn bò và chăn dê khác nhau. Sau này Bùi Giáng xuất bản thi tập Mưa Nguồn
có bài Nỗi lòng Tô Vũ dài 60 câu, nhắc lại kỷ niệm khoảng thời gian
chăn dê:
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe
Thôi từ nay em tha hồ mặc sức
Vang vang lên đồi núi giọng be be
Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe
Thôi từ nay em tha hồ mặc sức
Vang vang lên đồi núi giọng be be
Em nhớ hay không hồn hoa dại cỏ
Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya
Vàng cao gót nai đầu buông hãi sợ
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa...
Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya
Vàng cao gót nai đầu buông hãi sợ
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa...
Anh nằm xuống để nhìn lên cho thỏa
Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh
Chìm ngây ngất vào trong đôi mắt lả
Anh lim dim cho chết lịm hồn mình,
Cây lá bốn bên song song từng lứa
sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn
Hạnh phúc trời với đất mang mang
Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh
Chìm ngây ngất vào trong đôi mắt lả
Anh lim dim cho chết lịm hồn mình,
Cây lá bốn bên song song từng lứa
sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn
Hạnh phúc trời với đất mang mang
Bùi Giáng chăn dê thời gian ngắn, không giống như Tô Vũ bên
Trung Hoa 100 năm trước công nguyên vua Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ sang Hung Nô,
vì sự bất hoà giữa hai nước Tô Vũ sứ thần nhà Hán bị Hung Nô giam giữ đưa đi
chăn dê ở vùng Bắc Hải nay là hồ Baykal. Những ngày Bùi Giáng lặng lẽ lùa dê
vào núi, vui chơi thiên nhiên suối nước... rồi Bùi Giáng gửi đàn dê lại cho
"chuồn chuồn, châu chấu"...
Vào Sài Gòn ghi danh học Đại Học Văn khoa, nhưng rồi ông bỏ học.
Bùi Giáng tự học, đi dạy Pháp văn và Việt văn cho nhiều trường Tư Thục và làm
thơ đăng báo. Thời gian dạy học, ông đã soạn sách giáo khoa, do nhà Tân Việt ấn
hành,
Năm 1956: Bà Huyện Thanh Quan, Lục vân Tiên, Chinh phụ Ngâm,
Quan Âm Thị Kính
Năm 1957: Truyện Kiều, Truyện Phan Trần, Cung Oán Ngâm Khúc,
Nguyễn Công Trứ
Năm 1958: Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường và Phan văn
Trị,
Bùi Giáng thông thạo các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hán văn, và tự học
tiếng Đức 6 tháng, đọc và dịch sách của triết gia Martin Heidegger. Bùi Giáng
là một thiên tài, chúng ta lâu năm ở Đức chưa chắc dịch được tác phẩm lưu loát
như Bùi Giáng. Văn nghiệp của ông thật đồ sộ và đa dạng. Tác phẩm của ông có thể
chia làm 5 loại:
- Giảng luận văn chương
- Triết học
- Dịch văn chương
- Thơ văn biên khảo
- Thêm một số tác phẩm hội họa dù không nổi bật.
Con người tài hoa của Bùi Giáng có những cảm xúc tuôn trào
như một dòng suối chảy, ông đã sống cho riêng mình một cõi mộng. Trong thời gian
dạy các trường tư thục, có nhiều chuyện thật của Bùi Giáng xảy ra trong giờ giảng
dạy. Bùi Giáng rất yêu quý truyện Kiều của Nguyễn Du. Thông cảm tâm trạng của
nàng Kiều tài sắc vẹn toàn, nhưng không tránh được thuyết tài mệnh tương đố
"Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" hay "chữ tài liền với chữ
tai một vần".
Bùi Giáng dạy Việt văn, khi giảng đến đoạn nàng Kiều phải bán
mình chuộc cha để rồi phải mất 15 năm lưu lạc, Bùi Giáng đã khóc nức nở ngay giữa
lớp học. Có lẽ nước mắt cũng không làm ông nguôi bớt, nỗi cảm thương người con
gái tài hoa bạc mệnh Thúy Kiều. Và từ đó không trường nào dám mời Bùi Giáng dạy
học...
Thời gian trôi qua, bão giông đời lắng dịu, chúng ta giờ đây
nghe lại một chút tâm tình, với tiếng nói thiết tha lời thơ trong tập Mưa nguồn
xuất bản 1964, là tiếng thơ thiết tha với hoa đồng cỏ nội:
Én đầu xuân, tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
Bùi Giáng ở miền trung du xứ Quảng, hàng năm thường xảy ra những
cơn nước lũ trên thượng nguồn chảy về xuôi. Những dòng nước đục tràn ngập ruộng
vườn làm cảnh vật thêm tiêu điều:
Một bờ dương xếp bến sau
Nước vần vũ đục nghe đau lá vườn
Nước vần vũ đục nghe đau lá vườn
Em về ở lại đây thôi
Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng
Một trăm cây lá bên rừng
Gửi trong tiếng vọng xa chừng ngàn mây
Mười con xóm nhỏ bên này
Nhắc nhau nhớ lại cái ngày bên kia
Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng
Một trăm cây lá bên rừng
Gửi trong tiếng vọng xa chừng ngàn mây
Mười con xóm nhỏ bên này
Nhắc nhau nhớ lại cái ngày bên kia
(Tiếng vọng)
Nhớ lại những ngày nước lênh đênh, trôi dạt qua làng bên
tránh nước ngập cùng cô thôn nữ, như mênh mông của rừng suối, huyền bí của
sương mây?
Người xuống theo dòng trôi nước lũ
Màu sim màu móc núi sương mây
Suối đá gập ghềnh hôm sớm tụ
khói mù mịt thổi xuống đồi cây
Màu sim màu móc núi sương mây
Suối đá gập ghềnh hôm sớm tụ
khói mù mịt thổi xuống đồi cây
(Người xuống)
Người dân quê Việt Nam, nhất là người Quảng Nam, luôn chịu
khó làm việc không quản ngại nắng mưa đổi mùa, sống trọn vẹn vui buồn cùng
thiên nhiên, mồ hôi đổ xuống luống cày và kết tinh thành những lời ca dao tha
thiết. Tâm hồn Bùi Giáng vẫn là tâm hồn của người nông dân chân chất, nên lời
thơ ông vẫn mênh mang như ca dao trên đồng lúa quê hương:
Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt
hết mấy phen buồn trở lại bên đời
đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt
Dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi
hết mấy phen buồn trở lại bên đời
đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt
Dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi
(Người đi đâu)
Thi tập Mưa Nguồn với nhiều hình ảnh đẹp, là một tác phẩm tuyệt
mỹ giai nhân:
Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này...
Muà xuân hẹn thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
với dòng trong em hẹn ở bên đường
Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này...
Muà xuân hẹn thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
với dòng trong em hẹn ở bên đường
Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng
Bùi Giáng nhìn không gian, thời gian hòa tan trong viễn tượng mênh mang. Theo
dư luận, Bùi Giáng một thời đã yêu nữ nghệ sĩ Kim Cương, được Kim Cương tặng
cái kính lão, suốt ngày lang thang Bùi Giáng làm bể một mặt kính nhưng vẫn đeo
để khóc người một con mắt:
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con...
Những nhịp bước bên đường còn dội mãi
Vang về đâu không vọng lại hồi âm
Của réo rắt riêng một lần mãi mãi
Gió phương trời ủ mộng giữa hoa tâm...
Mù sa thấp rừng mai xưa lỡ hẹn
Xuống thôn làng ngó lá rụng ven khe
Mùa tháng chạp chim trời xa lỡ hẹn
Với sông Thu từ một buổi bay về
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con...
Những nhịp bước bên đường còn dội mãi
Vang về đâu không vọng lại hồi âm
Của réo rắt riêng một lần mãi mãi
Gió phương trời ủ mộng giữa hoa tâm...
Mù sa thấp rừng mai xưa lỡ hẹn
Xuống thôn làng ngó lá rụng ven khe
Mùa tháng chạp chim trời xa lỡ hẹn
Với sông Thu từ một buổi bay về
Bùi Giáng đón nhận mọi viễn tượng kỳ diệu của thiên nhiên trở
thành lẽ sống trong cô đơn, thơ ông có cái thăng hoa đơn giản và cũng lắm triết
lý cao xa vời vợi. Bùi Giáng với quan niệm: "Nếu ta không thực hiện nổi
cội nguồn trường mộng ở nội tâm, thì triết học không thể nào tiếp xúc được với
căn cơ chân chính của nó, dù ta có líu lo trong học hiệu phù hoa" (M.Heidegger
và Tư tưởng hiện đại, tập 1).
Mây đứng lại chân trời phủ khói
Dòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ
Chiều trời đẹp tâm tình em không nói
Đất với trời chung một nghĩa bơ vơ
Dòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ
Chiều trời đẹp tâm tình em không nói
Đất với trời chung một nghĩa bơ vơ
(Không đủ gọi một lần)
Bờ mây trắng dựng cuối trời bóng dáng
Của ban sơ hoài vọng giữa nhân gian
Lòng vạn vật mơ màng chiều qua sáng
Em về nhanh cho mây trắng buông màn
Của ban sơ hoài vọng giữa nhân gian
Lòng vạn vật mơ màng chiều qua sáng
Em về nhanh cho mây trắng buông màn
(Bờ mây)
Có lẽ Mưa Nguồn là tập thơ đầu tay và giá trị nhất của Bùi
Giáng. Liên tiếp, năm sau là 4 thi phẩm: Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột,
Màu Hoa Trên Ngàn, Sa Mạc Trường Ca. Từ năm 1966, Bùi Giáng dịch rất nhiều tác
phẩm văn học của các nhà văn nổi tiếng, các tác phẩm của Saint Exupéry,
Shakespear, Albert Camus, André Gide.
Nhà văn Nguyễn Quyết Thắng đã liệt kê theo thứ tự các sách được
in tới năm 1972 có tất cả 55 tác phẩm. Hiện nay còn khoảng 10 tập thơ và nhiều
văn bản dịch, chưa in... Nói về số lượng, ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng
vào hàng kỷ lục ở miền Nam. Năm 1972 ông in khá nhiều sách: Đường đi trong
rừng; Lời cố quận; Lễ hội tháng ba; Con đường ngã ba; Bước đi của tư tưởng; Bài
ca quần đảo; Hoàng tử Bé; Mùi hương xuân sắc.
Le petit Prince, một trong những cuốn tiểu thuyết bất hủ
Saint Exupéry, Bùi Giáng dịch với tên Hoàng tử bé. Làm cho độc giả qua nhiều thế
hệ, đã yêu mến Hoàng tử bé qua ngòi bút hồn nhiên của Bùi Giáng. Trong Ngày
Tháng Ngao Du, ông kể: "Hồi nhỏ, tôi được sanh ra và lớn lên trong miền
quê hẻo lánh. Chung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy
suốt tuổi thơ. Làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong làng ra ngoài
ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một
màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn khổng lồ.
Cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm, ngày trở về quê không còn lối.
Bùi Giáng thuê nhà ở Sài Gòn, trong ngõ hẻm đường Phan Thanh Giản chẳng may tai
nạn hỏa hoạn thiêu rụi căn gác mất nhiều tài liệu sách, Pháp, Anh, Đức và nhiều bản thảo. Hỏa hoạn đó làm
cho Bùi Giáng đau khổ, nổi cơn điên được gia đình đưa vào dưỡng trí viện Biên
Hòa đầu tháng 5.1969. Theo các bác sĩ của viện: "Người cầm bút cô độc này,
bịnh đã chuyển từ cuồng nhẹ sang cuồng nặng"
Bùi Giáng sống không cần đời. Có tiền nhuận bút, ông ra Chợ
Cũ ở đường Hàm Nghi mua khỉ, chó nuôi từng đàn. Có người đã phê bình sách dịch
của Bùi Giáng rất lả lướt, nhưng cũng có lúc lạc đề; thay vì của tác giả, ông
viết về quan niệm sống của chính mình?
Ra khỏi dưỡng trí viện, Bùi Giáng sống lang thang nay đây mai
đó. Từ đầu năm 1973, ông dọn đến Đại Học Vạn Hạnh, đường Trương Minh Giảng, có
phòng riêng ở lầu 3. Ăn ngủ đó, ngao du trên hè phố bất kể nắng mưa. Thân hữu
và gia đình xuất bản sách cho ông.
Sau 1975, bệnh điên trầm trọng thêm, không được phép ở trong
nội xá Đại Học Vạn Hạnh. Sống nhờ bạn bè thân nhân, có lúc ở nhờ chùa Già Lam,
xóm Gà Gia Định. Từ 1985 về ở với người cháu, giúp Bùi Giáng an dưỡng và sáng
tác, đến ngày cuối đời. Năm 1996, ông về thăm lại Quảng Nam mảnh đất của
"tình biển nghĩa sông", khi ông đã 71 tuổi với bài tâm sự:
Non nửa thế kỷ xa quê
Mà chưa có dịp về quê một lần
Bảy mươi mốt tuổi tần ngần
Về Trung biết chốn nào tìm
Lại ngôi nhà cũ láng giềng đã qua?
Giật mình lúc chợt nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi!
Mà chưa có dịp về quê một lần
Bảy mươi mốt tuổi tần ngần
Về Trung biết chốn nào tìm
Lại ngôi nhà cũ láng giềng đã qua?
Giật mình lúc chợt nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi!
Cuộc đời rong chơi bất tận, dù ở lại trên cõi đời nầy hay đi
về bên kia thế giới,nhà thơ Bùi Giáng cảm thấy đủ vui buồn:
Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu
Ngày 17/8 năm Mậu Dần 1998. Bùi Giáng mất tại Sài Gòn vì bị
tai biến mạch máu não, hưởng thọ 72 tuổi. Nói về thơ văn Bùi Giáng rất
sâu rộng, bao la như biển cả, thời gian không cho phép, xin ngừng lại nơi đây.
Thành thật cảm ơn quý vị đã theo dõi về đề tài thi nhân Bùi Giáng.
Nguyễn Quý Đại
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét