Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Giầy cỏ, gươm cùn ta đi đây
Giầy cỏ, gươm cùn ta đi đây
Câu thơ trên tôi bắt gặp ở nhà anh bạn không thân quen cho mấy
trước 75
Ừ thì hãy đảo qua anh bạn quen nhưng không thân này một chút,
số là gặp anh ở quán xá, và chỉ biết anh học Sư phạm ban Sử địa. Anh người Nam
giuộc, tôi Bắc kỳ đặc, gần nhau qua nhang đèn khói thuốc vậy thôi. Vậy mà gặp
buổi mây chiều gió sớm, một ngày cận Tết, ghé nhà anh cuối con ngõ cụt để nói
chuyện gì đó, Vừa ngồi xuống, từ bàn học nhìn ra sân có mấy chậu mai vàng đang
nở rộ, vướng víu vào mắt là một xấp giấy và hai câu thơ ngay trang đầu. Chưa kịp
vén miệng búi bấn, anh giấu biến xấp bản thảo vào ngăn kéo rồi giục giặc là
đang xuôi dòng sử Việt với những cuộc di dân vào miền Nam. Sau đấy không biết
nói chuyện gì ngoài chuyện giầy cỏ, gươm cùn ta đi đây là rủ anh ra
quán.
Một chút ngày cũ, một thoáng cảnh xưa, ấy vậy mà đã 30 năm có
hơn. Một chiều cuối năm, nghe người bạn sử qua đây làm một chuyến dối già. Tôi
đến đón anh. Cớ sự gì đến đón anh ư? Ừ thì hãy lực đực qua... "cái
tôi" một tí. Chuyện là những ngày còn ở bậc trung học, tôi lậm với hai bộ
môn sử ký, địa dư. Nay đất khách quê người cùng bóng ngả đường chiều, thiên cổ
chi mê tôi lại ngụp lặn trong một cõi u u minh minh của nghìn năm mây bay với
Lý, Trần, Lê, Nguyễn, cùng những nơi chốn khuất nẻo... Nhớ lại câu thơ ngày nào
năm ấy mơ gì ấp Tiết thiêu văn tựvới mắc chứng gì "ông" ở lại?
Tôi lái xe và hỏi. Vừa rồi tôi đổi danh xưng, vì anh có mái tóc đã hoa râm hay
hơn tôi ba, bốn tuổi chả biết nữa nên tôi buộc chỉ chân voi gọi là... ông chăng.
Mái tóc thưa dài của ông quay sang tôi và lặng lờ:
- Tôi ở lại để làm nhân chứng cho một khúc quanh của lịch sử.
Mệt ông này quá, tôi nhủ thầm vậy. Qua khuôn mặt phẳng lặng,
hẻo mọn và ông lọ mọ tiếp...Ông lại có lối nói chuyện có hơi rối, hơi ngúc ngắc:
- Sông có bến đục bến trong, bên bồi bên lở. Dòng sông cứ miệt
mài lở bên này bồi bên kia. Muốn đổi dòng phải đợi ba trăm năm. Dòng sông Gianh
vơi chiều dài của lịch sử cũng bằng những năm tháng ấy. Sông miệt mài chẩy từ
thuở khai thiên lập địa, đã chứng kiến, đã chuyên chở bao số phận của con người,
của đất trời.
Yên ba giang thượng sử nhân sầu xong, ông châm thuốc lá. Khi
rày người tôi cứ thủng ra về chuyện một dòng sông bên bồi bên lở. Chuyện khỉ ho
cò gáy gì đâu chả biết nữa, khi không tôi chèn ngang một đoạn sử văn mà tôi
hong hanh nhớ được với nhà Nguyễn qua một địa danh khuất nẻo. Chả là theo tôi
nơi chốn phân chia đất của Trịnh Nguyễn là thung lũng sông Gianh (1) chứ
không phải sông Gianh. Vì ranh giới từ sông Gianh trở ra đèo Ngang thuộc
Đàng Ngoài. Khi Nguyễn Hoàng gần đất xa trời đã dặn dò con: "Phía bắc có
sông Linh Giang (sông Gianh) nhỏ hẹp, nếu thế lực không địch được thì cố thủ để
giữ đất đai". Nên các nhà chúa đã cố giữ vùng đất từ sông Gianh trở vào tới
sông Nhật Lệ thuộc Đàng Trong. Đào Duy Từ xin chúa Tiên đánh Đồng Hới để lấy Đèo
Ngang làm ranh giới mới. Vì thế mới có Lũy Đồng Hới, dân tình gọi là
"Lũy Thầy" vì xem ông như bậc thầy.
Chuyện đâu vẫn còn đó vì có "ông thầy" đang ngồi cạnh
ngay đây, lát nữa tính sau. Bỗng ông hỏi tôi hút thuốc không, tôi trả lời tôi
mua chiếc xe thổ tả này để... hun khói. Ông cười dín. Sợi râu miệng ông rung
rinh, tan loãng theo khói thuốc nổi trôi với chiều thứ sáu vừa tan sở làm về,
cái đầu chầy giành tôi bơ bả đến một cái quán nào đó.
Trở lại chuyện ông chọn ở lại để làm nhân chứng cho một khúc
quanh lịch sử mà bây giờ có mặt ở nơi chốn này, và đang đứng bên lề lịch sử. Mà
cứ theo sử gia Fustel de Coulanges với "Lịch sử là gì?". Câu trả lời
ngắn gọn: "Lịch sử là chuyện kể của kẻ chiến thắng!". Lại nữa, nghe
hơi nồi chõ ông ra Hà Nội "làm việc" một thời gian với sử gia, nhà khảo
cổ Trần Quốc Vượng nên tôi mượn dịp hỏi ông chuyện khảo sử này kia kia nọ... Khói.
Khuôn mặt ông hững hờ và xa xôi hẳn. Qua khuôn mặt ngập khói của môi trường điền
dã, bia đá, gạch ngói, một thế giới ngựa xe, lời thơ, giá sách. Tôi quay cửa
kính xuống một khe nhỏ... Ánh mắt ông cắt ngang vùng đất "Hòa Bình, Đông
Sơn". Người bạn sử chép miệng:
- Vâng, năm 1956, Phạm Văn Đồng nói: Các chú cố tìm ra
"cổ sử" trong lịch sử. Từ đó các sử gia và nhà khảo cổ miền Bắc dàn dựng
lên văn hóa, văn minh trống đồng.
Đang nhìn đường để lái xe, nhưng mắt tôi vẫn bạ vào ông. Khóe
mắt ấy cho tôi biết môi ông còn lay động sau câu nói. Tôi nói với ông đi tìm một
quán rượu hay một tiệm ăn cho dễ nói chuyện. "Tiệm ăn đi". Ông cười,
mắt cười theo. Cung cách ấy như thân quen từ lâu, mà thật ra chỉ mới như cá rô
gặp mưa rào. Tôi chọn bàn hai người gần lò sưởi để đốt lò hương cũ những chuyện
vừa rồi. Nhìn cái lò sưởi, ông bậm bạm ắt hẳn là "cái bếp tủ" để nướng..."bò
lụi", Hiểu ý ông nhưng tôi cũng lậu bậu: "Lửa và củi đều giả cả đấy".
Dường như ông tảng lờ, người bạn sử miền Nam thân già vác dùi nặng với... khúc củi
giả:
- Với sử gia ta thi Tàu là gương mẫu, vì họ cố công đào bới đẩy
lùi lịch sử từ nhà Thương, nhà Ân ngược lên vài thế kỷ nữa. Sau Genève, các sử
gia và nhà khảo cổ miền Bắc được đào tạo từ Liên Xô, và Tàu với các chuyên viên
đàn anh viện trợ, họ lục lọi trong các tầng đất để lập ra một chuỗi tiền sử có
tên là Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun cho phù hợp với 4000 năm văn hiến. Và nhiều
khi còn hơn nữa... tới 5000 năm, thưa anh.
Vừa lúc người nữ tiếp viên mắt xanh tóc vàng mang ra chai
Beaujolais và nghiêng chai rượu để ông thẩm định, ông nói câu gì đó rồi gật đầu,
rượu mở, nâng ly. Người bạn sử miền Nam, mắt ông vẫn cắt ngang ở lằn ngang
không gian "Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun" nhưng vẫn gật gù: "Hết
ý" rồi dàng dênh:
- Khoa khảo cổ học đã biến thành công cụ để gây lòng tự
tín dân tộc và họ chỉ làm theo định hướng, nghĩa là thời Hùng vương phải rực rỡ,
trong chuỗi tiến trình tiến hóa lịch sử qua những khám phá đào sới.
Cầm ly vang, đụn lại trong tôi địa danh hoang sơ, hoang địa
mãi tận miền Bắc xa xôi. Nhìn cái bình hoa giữa bàn mầu vàng như muốn giãy nảy
lên vì hơi rượu, khói thuốc. Tôi trang trải với ông bôn ba sang đây nhiều năm,
mỗi lần thấy hoa đào nở trên báo Tết, tôi lại nhớ cánh mai vàng của miền Nam
hai mùa nắng mưa rộ cả một góc sân nhà ông năm nào. Người bạn sử miền Nam hết
nhìn tôi, nhìn hoa và ông cười, mắt cũng cười theo.
Như miền Nam mưa đấy cũng nắng ngay đấy, ông nắng với mưa:
- Vâng. Nhưng không phải tôi hay ai. Chuyện là chuyện của lịch
sử và đất nước. Về sử học, mình phải nghiêm chỉnh hơn. Trước sau gì cũng phải
có một "dự kiến lịch sử".
Tôi chưa kịp hiểu ông định nói gì. Nhấp ngụm vang, và ông... dự
kiến thế này đây:
- Để tồn tại, người Việt ta phải mở đường Nam tiến xuống phía
nam theo bờ biển qua dãy núi Hoành Sơn, như lời khuyên của Trạng Trình:
"Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (2). Đó là điều kiện
sống còn của dân tộc, và đó cũng là vận mệnh lịch sử từ thế kỷ thứ X cho đến
nay trải qua mấy triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn.
Ở miền Trung nước ta ngày nay, Chiêm tộc xây dựng đất nước,
khởi thủy quốc hiệu là Lâm Ấp. Vì đất nước một bên là núi, một bên là biển, thiếu
đất cày cấy, cho nên họ ngó lên các châu phương Bắc như Giao Châu, Nhật Nam, và
không ngớt đem quân lên xâm lấn và họ đã chiếm huyện Thọ Linh nay là Thừa
Thiên. Sau bị nhà Đường đem quân xuống tấn công, người Chiêm lui về Quảng Nam
bây giờ, và đổi quốc hiệu là Chiêm Thành từ đấy.
Và người bạn sử miền Nam lụi đụi ngược dòng lịch sử...
Nhà Tiền Lê với Lê Đại Hành lên ngôi sai sứ sang giao hảo bị
vua Chiêm bắt giam sứ nên manh quân đánh báo thù. Dọc theo dẫy Hoành Sơn, Lê Đại
Hành chiếm được Quảng Bình đến Đèo Ngang, rồi rút quân về. Nhà
Lý, Chiêm Thành sang quấy rối ven bể, Lý Thường Kiệt mang quân vào sâu đất
Chiêm Thành, tới tận Quảng Trị và ngừng chân ở đây. Và cũng nhưnhà Tiền
Lê, nhà Lý cũng không nghĩ đến việc mở mang bờ cõi.
Nhà Trần, Chiêm Thành đem chiến thuyền xâm nhập vào vùng biển.
Trần Thái Tông thân chinh đi đánh, chiếm đất Thừa Thiên đến
đèo Hải Vân. Sau vua Trần gã công chúa Huyền Trân cho Chế Mân để kết thân,
Chế Mân dâng sính lễ là hai châu Ô, châu Rí (3).
Người bạn sử miền Nam đào xới đất đai để vật lên phong thổ
chí...
Nhà Hồ đem quân đánh Chiêm Thành, vua Chiêm phải dâng đất Quảng
Nam (4) để bãi binh. Như vậy theo dãy Hoành Sơn (Đèo Ngang) vào đến Quảng
Nam, người Việt đã mở rộng lãnh thổ của mình xuống 3/5 lãnh thổ Chiêm Thành.
Chính sách di dân của người Việt ta chỉ thật sự bắt đầu với họ Hồ. Hồ Hán
Thương cho làm con đường thiên lý từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa, như thế đủ thấy về
sự khai khẩn quốc thổ của nhà Hồ.
Nhà Hậu Lê, Chiêm Thành lợi dụng nước ta trải qua chiến trận
với nhà Minh nên đem quân đánh phá. Lê Thánh Tông sắp đặt một trận đại quy mô để
Chiêm Thành kiệt quệ. Thắng trận Đồ Bàn (Bình Định) (5) kinh đô của
Chiêm Thành, và chiếm Quy Nhơn.
Quảng Bình - Hoành Sơn - Phan Rang
Công cuộc Nam tiến được tiếp nối với nhà Nguyễn, từ nhà Lê,
người Việt ta đã chiếm được 4/5 đất đai. Nhà Nguyễn chỉ dành chiếm phần còn lại
của họ từ Tuy Hòa đến Phan Rang, mảnh đất cuối cùng của Chiêm Thành thuộc Bình
Thuận ngày nay, thưa anh.
Đợi tôi rót thêm ly vang và mặt ông đỏ cay đỏ cợt. Mắt vắt
qua khung cửa sổ mà ngoài kia, bóng tối và trời đất đang lùng nhùng. Ông cười hậc
một cái và ngầy ngà:
- Gần đây trong sách vở họ hay dùng thuật ngữ ‘’sử gia duy vật
biện chứng tiến bộ Mác Lê’’ và ‘’sử gia phong kiến Việt Nam’’. Họ dùng duy vật
biện chứng để dựng sử Việt, nhưng họ không biết Phong kiến gồm hai chữ
"phong tước" tức ban quan tước và "kiến địa" tức
ban đất đai. Phong kiến chỉ chế độ vua phong tước cho người có công và cấp cho
một vùng đất để lập một lãnh địa, với quân lính, luật lệ và thuế má riêng. Thể
chế này có thời nhà Chu bên Tàu, ở Việt ta không có chế độ phong kiến mà chỉ có
chế độ quân chủ.
Địa là đất, tôi đang to hó với lãnh địa, kiến địa thì đổng đểnh
thế nào chả biết nữa mắt ông vắt qua...hòn giả sơn mãi tận ở Hải Dương, đất khởi
nghiệp của nhà Mạc:
- Như anh biết đây, bằng vào giai thoại cụ "An Nam lý học
hữu Trình truyền" giữa họ Mạc đối đầu với họ Trịnh. Mạc Mậu đến hỏi cụ ở
khoảnh sân có hòn non bộ, cụ nói "Cao Bằng tuy thiểu, khả năng sổ thế", ý
là Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dung thân được mấy đờị.
Cóc lại đòi đi guốc, lúc này tôi mới len chân vào chuyện và
nói dém với ông là ít lâu sau, cụ Trạng cũng chống gậy ra khoảnh sân ấy, cũng
ngắm hòn giả sơn đó, nhìn đàn kiến đang "leo núi" có cây tùng, cây
bách bé con con và bầy kế cho Nguyễn Hoàng "Hoành sơn nhất đái, vạn đại
dung thân". Nhà chúa hiểu ý bèn xin Trịnh Kiểm vào trấn thủ Thuận Hóa bắt đầu
cuộc hành trình về phương Nam xa vạn thẳm. Tôi dắng tiếng với ông là thay vì Mạc
Mậu, cụ Trạng...lỡ dại xúi Nguyễn Hoàng ngược lên Cao Bằng thì lịch sử đã rẽ qua
một khúc quanh khác, thì ông và tôi đã không có mặt ở miền Nam mưa nắng hai
mùa...
Làm như không nghe tôi đang theo bước chân phù lãng nhân
trong cõi ngu lạc trường, ngón tay khẽ gõ lên mặt bàn, đầu ông gật gù...
- Vâng, theo tôi Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nghi vấn của lịch
sử. Vì sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, Nguyễn Kim đi tìm con út vua
Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, tức chúa Chổm, tôn làm vua. Để mưu đồ đại sự,
Nguyễn Kim thu nạp Trịnh Kiểm. Khi ấy nước nhà chia làm hai: từ Nam Định trở ra
của nhà Mạc, tức Bắc triều. Từ Thanh Hóa trở vào thuộc nhà Lê, tức Nam triều.
Theo sử sau khi Nguyễn Kim mất, để lại hai người con là Nguyễn Uông và
Nguyễn Hoàng. Trịnh Kiểm sợ cả hai sau này có thể tranh dành địa vị với mình,
vì thế Nguyễn Uông chỉ mắc một lỗi nhỏ bị Trịnh Kiểm giết. Nguyễn Hoàng sợ đến
lượt mình, nhờ người tới hỏi trạng Trình như các sử gia vừa... "diễn sử"
ở trên.
Vẫn chưa hết chuyện trạng Trình, trạng Bùng Phùng Khắc Khoan
ao ức không biết nên theo Nam triều, hay ở lại với Bắc triều. Họ Phùng tìm Nguyễn
Bỉnh Khiêm hỏi han sự thể thế sự thăng trầm quân mạc vấn này nọ, Nguyễn Bỉnh
Khiêm dậy: "Lê tồn, Trịnh tại; Lê bại, Trịnh vong". Trạng Bùng ngầm
hiểu ý tôn sư đã đến lúc phải vào xứ Thanh với nhà Lê. Người sau chê trách trạng
Trình bấm độn biết nhà Mạc soán ngôi nhà Lê, lại không tồn tại mà vẫn làm quan
với nhà Mạc. Sau đấy lại đẩy đưa học trò thay mình phò Lê.
Nghe thủng xong, tôi ngẫm ngợi há lại có cái lý ấy sao? Mà hỏi
làm gì cho rách cuyện! Vì từ Thăng Long mò xuống Hải Duơng đi bộ, cáng võng
cũng nhiêu khê lắm chứ bộ. Lại nữa, chắc gì thơi cụ Trạng đã có...hòn non bộ với
ngư tiều canh độc. Bèn nói dàm với ông:
- Vậy thì những giai thoại của cụ Trạng...
Ông lại gục gặc đầu, mắt ngầy ngật như mắt thầy bói, ngón tay
lại gõ lên bàn...
- Thì anh cứ cho là như... "Sấm Trạng Trình" vậy,
thưa anh.
Đang rối loạn tiền đình vì giai thoại Nợ như chúa Chổm để
Thăng Long có ngõ Cấm Chỉ gần sịt ngõ Trạng Trình, như ăn mày cầm tinh bị gậy
ông dẫn dắt tôi... đường vào lịch sử...
Sử kiện Trịnh Kiểm ám hại Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng
vào trấn Thuận Hóa theo tôi cũng là nghi án của lịch sử. Bởi lẽ không như các
nhà viết sử viết sử... "liệt truyện".
Khi Nguyễn Kim đưa Lê Duy Ninh từ Lão Qua vê để làm vua là
lúc tài năng quân sự Trịnh Kiểm nổi bật, thêm Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng cùng gốc
Thanh Hóa nên được vời về với Nguyễn Kim. Sử nhà Nguyễn không nói chi tiết việc
tranh chấp quyền hành và cho là: Trịnh Kiểm tranh đoạt quyền hành nên ám hại
ông. Viết như thế chẳng hợp lý chút nào! Vì khi ấy, Nguyễn
Uông mới chỉ hai mươi, nào có quyền hành gì để Trịnh Kiểm tranh chấp? Tại sao
Nguyễn Uơng bị giết quan trọng như thế lại được chính sử nhà Nguyễn ghi là
"khuyết sử"? Vì vậy, ta chỉ có thể kết luận cái chết của Nguyễn Uông
không rõ ràng, thiếu chứng cớ mà nhẽ ra phải có. Vì vậy ta nên xem sự kiện ấy
là một nghi án lịch sử mà thôi.
Còn tại sao Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa? Câu hỏi này không khó
trả lời: Vì sau cái chết của Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng cầm quân chống nhà Mạc, lập
được chiến công, được thăng Đoan Quận công. Sau khi Nguyễn Uông chết, ta không
có chứng từ gì việc Nguyễn Hoàng ở vào tình thế khó khăn để phải "tìm chỗ
dung thân". Chuyến đi của Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa không phải là chuyến
đi lánh nạn của một người cùng đường. Vì Trịnh Kiểm tỏ ra không phải là người
nhỏ nhen, nên đã cho phép thân bằng quyến thuộc theo vị tân trấn thủ vào Nam. Ấy
là chưa kể đồng tình cho hai quan trấn thủ hai trấn Thanh Hóa và Nghệ An mang
quân lính theo vào Thuận Hóa tới hơn một ngàn người. Việc sau này Nguyễn Hoàng
trở ra Đông Đô gả con gái út Ngọc Tú cho Trịnh Tráng, cháu nội của Trịnh Kiểm.
Tiếp đến việc con thứ Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên được vào trấn thủ Quảng
Nam thì mới có... miền Nam như anh vừa..."dự kiến lịch sử", thưa anh.
Rút điếu Craven "A" mang từ bên nhà qua để đó, mắt
ông vắt ngang cái đàn dương cầm, một nhạc công ngồi đấy đang chơi nhạc. Ông nói
nhạc Jazz của người da đen nghe ai oán Nam Ai Nam Bìnhnhư dân Chàm mất nước,
theo Vương Hồng Sển nào khác gì vọng cổ với Dạ cổ hoài lang. Ấy vậy mà
phán quan Tố Hữu đã xuống câu sề "tắt đèn" cải lương, hát bội của những
người miên Nam từ thời Hương rừng Cà Mau với Hát bội giữa rừng.
Thế là tét rồi, là tỏi rồi! Tôi thầm nghĩ vậy và bẻm mép hỏi khi ra Hà Nội... "hành
sử" ông có dậy cóc đi guốc, dậy khỉ leo cây chăng. Người bạn sử miền Nam lừ
đừ như ông từ vào đền...
- Bọn tôi ăn lương, dưới sự "chỉ đạo" của Phạm Văn
Đồng, tôi chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc họp đột xuất. Đùng một cái, sáng
mai có có buổi họp mà đề tài là nâng ngành viết sử lên thành "trường
phái"... Đến tối có "bảo vệ" đến từng nhà mời miệng. Hôm sau trí
thức có đủ, có cả tứ trụ sử gia Hà Nội. Ai nhìn ai cũng thèn thẹn. Phát biểu gì
cũng chẳng quá dăm câu. Hèn thế đấy. Không ai có dịp bàn trước, hội ý với ai.
Hốt nhiên ông cười cái bét và tuế tóa...
- Anh biết họ họp gì không?
Không đợi tôi trả lời, ông dắt trâu chui ống:
- Họ đặt cái cầy trước mũi con trâu, là các nhà khảo cổ đã lập
ra chuỗi tiền sử Phùng Nguyên, Đồng Đậu phù hợp với một thời Hùng Vương rực rỡ
rồi. Nay đến phiên sử gia dựa vào "trường phái Marxist", sử gia miền
Bắc theo trường phái này chủ đích là: Biện chứng sự hình thành xã hội,
phân tích vai trò của giai cấp để tạo nên lịch sử.
Tôi im thin thít như thịt nấu đông bởi những nhà biên khảo, sử
học trong nước hiện nay đang vặc nhau như mổ bỏ vì văn hóa Phùng Nguyên chưa được
giải quyết thỏa đáng, vì họ chỉ nhắc đến nó như một giả thuyết đã từng có và của
ai đó. Họ dựa vào học giả Nhật Nitta Ejji, nhà khảo cổ học Ý Rispoli dẫn chứng:
Những di chỉ ở Vân Nam cùng có hoa văn "chấm vạch dài" và gợi ý văn
hóa Phùng Nguyên có thể có nguồn gốc từ bên...Tàu.
Như không hay biết những gì tôi đang bối rối như sư đẻ, lấy hộp
quẹt diêm cầm tay...
- Với giai cấp để tạo nên lịch sử như Lê Lợi với giai cấp
nông dân, họ đề cao Nguyễn Huệ gốc anh hùng áo vải nên được coi như là quốc
sách. Bởi thế có đến 1620 công trình viết về nhà Tây Sơn. Vì họ đánh lận con
đen ông Hồ cùng gốc gác với Hồ Quý Ly. Vơi họ thì: "Việc Hồ Quý Ly soán
ngôi nhà Trần, Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê, việc giành lấy ngôi vua một triều
đại phong kiến đã suy tàn là hợp quy luật". Vì vậy chỉ riêng nhà Mạc, nhà
Hồ được họ gọi là...phong kiến chính thống, thưa anh.
Làm một hơi xong, ông hững hờ nhìn ra ngoài cửa sổ và thở ra
khói...
- Những nhà dựng sử miền Bắc không tiếc lời chê trách nhà
Nguyễn là tay sai của thực dân Pháp. Đến Phan Thanh Giản và sử gia miền Nam còn
bị vạ lây, Viện trưởng viện sử Trần Huy Liệu đã bôi nhọ trí thức nói chung và sử
gia miền Nam nói riêng thế này đây: "Tất nhiên khi chép về sử kiện Phan
Thanh Giản cắt đất dâng cho xâm lược Pháp thì trí thức và sử gia miền Nam đã vô
liêm sỉ coi đó không phải là chuyện phản quốc".
Học thói sử gia Fustel de Coulanges: "Sự thật của lịch sử
là gì? Sự thật của lịch sử là quả cầu tròn, mỗi người chỉ nhìn được một
phía". Nói dại chứ! Chứ tôi chả dại đứng về một phía sử gia Mác Lê để
hợm chữ chửi người vắng mặt như mắng người chết như vậy. Như lời lẽ nặng nề, mạt
sát, thiếu hẳn phong cách của người viết sử: "Tối tăm, cực kỳ phản
động, hủ lậu, mục nát, mù quáng, cực kỳ ngu xuẩn, vân.. vân...."
Tôi đang động tình đến đây, ông động não tiếp...
Người muốn tìm hiểu sử học nghiêm túc, khi viết một điều gì
không phải chỉ cho người cầm bút mà còn phải viết cho người đọc. Viết sử không
chỉ là việc sắp xếp các sự kiện lịch sử suốt cả ngàn năm như liệt truyện mà
phải đưa ra những sai trái của tiền nhân, ngay cả với các sử quan. Nếu
không, người đọc sử riết rồi bị uốn nắn, thuần hóa vào quan điểm của sử quan.
Vì sử quan, sử gia trở thành người viết sử cung đình bóp méo lịch sử tạo
nên chính sử, hay viết sử để xây dựng thể chế, chế độ. Nay cũng thế, như
trong lần phát biểu tại Đại học Paris năm 1988, Nguyễn Văn Tạo, Viện trưởng Viện
Sử học tuyên bố: "Chúng tôi không viết sử để làm công trình sử học mà là để
góp phần xây dựng chế độ mới". Vì vậy, sử trở thành sử phong thần, vì
dưới mắt nhà Nguyễn với chính sử, hay miền Bắc với sử phong thần chỉ có hai loại
người là minh quân, ’’bác Hồ vĩ đại’’ và ngụy quân, ngụy quyền.
Người bạn sử miền Nam cười. Ông cười bằng mắt...
Họ không làm công trình sử học, nhưng để xây dựng chế độ họ
’’bài bản’’ theo triều đại phong kiến nhà Nguyễn là cũng đốt sách tàn
dư của ngụy quyền. Theo một nhà biên khảo nào đó thì: ’’Nào có khác gì nguyên
mẫu của bản sao Gia Long vì nhà Nguyễn có tha gì mà không đốt sạch
dấu vết nhà Tây Sơn còn sót lại được gọi là Nguỵ tây". Ngoài ra
theo Đại Nam chính biên liệt truyện thì chúa Võ Vương Nguyễn Phúc
Khoát dành vùng Thủy Xá và Hỏa Xá để ‘’cải cách’’ và ‘’tạo dựng’’ nơi
ăn chố cho người Chiêm Thành mất đất. Vì vậy ngay cả hai chữ... cải tạo họ cũng
vay mựợn từ thời... ’’phong kiến’’. Nhưng lịch sử là một chuỗi móc xích tiếp nối,
để không khỏi không nhắc đến sử kiện Minh Mạng sai Trương Minh Giảng đem quân
đánh Cao Miên. Nhà Nguyễn bắt nữ vương Ang Mey đưa về Gia Định quản thúc, sau
đó toàn thể bầu đoàn thê tử cận thần quan lại của Cao Miên bị đưa ra Bắc tập
trung cho tuyệt hậu hoạn, thưa anh.
Lúc này tôi cứ u mê ám chướng những gì vừa rồi ông sắm nắm:
’’người viết sử không phải chỉ cho người cầm bút mà còn cho người đọc’’. Chả là
chăn trâu nhân thể dắt nghé, tôi lây lất qua một nhà văn học miền Nam nặng lòng
với sử Việt có câu Cô vọng ngôn chi mà tác giả diễn giải là: Hình
như lời người viết sử nói chuyện với... ma. Tác giả tiếp: Hóa ra khi đọc
sách, người ta chỉ đọc những gì muốn thấy. Khoan nói tới nhưng gì phía sau các
dòng chữ ấy. Vừa lúc nghe câu ’’Nhà Nguyễn bắt nữ vương Ang Mey quản thúc’’. Là
người đọc, thiên cổ chi mê tôi cũng muốn đẽo chữ vá câu...nhưng gì muốn thấy
phía sau các dòng chữ ấy. Vì vậy kịp khi ông thông sử như thông khói xong, tôi
cô vọng ngôn chi với ông...
Ừ thì với lịch sử là một cuộc tái diễn không ngừng với 140
năm sau, đoàn người thất trận từ phương Nam ngược về phương Bắc, nơi sơn lam
chướng khí bên dẫy núi Hoàng Liên Sơn để bị quản thúc. Nơi mà thân bằng quyến
thuộc của Nặc Ông anh, Nặc Ông em đã bị tập trung ở đấy từ bao thế kỷ trước. Để
rồi lịch sử sang trang với cuộc chiến Nam Bắc, cũng ở nơi đây với tù binh là ngụy
quân, ngụy quyền bỏ xác bên sườn núi đìu hiu hoang vắng. Được thể tôi lùi nhùi
qua cuộc nội chiến của người Hoa Kỳ, tại làng Appomattox, tướng Robert E, Lee tới
để bàn thảo việc đầu hàng, tướng Ulysses S, Grant đưa ra bản sơ thảo ngắn gọn
như hàng binh không bị bắt làm tù binh. Sau đó điền trang của tướng Lee trở
thành nghĩa trang Arlington, nơi chôn cất chung của tử sĩ hai miền Bắc Nam.
Mưa không ướt đất nắng không ấm đầu, khi không tôi chầu văn hầu
bóng với người thơ Lá hoa cồn hay "Trung niên thi sĩ" họ Bùi:
Sử lịch sai trang
Chạy quàng
Là lịch sử...
Chạy quàng
Là lịch sử...
Đợi tôi ngập ngụa trong cõi mụ mị đâu vào đấy rồi, ông... như
thị ngã văn:
- Vâng, lịch sử đã sai trang, với những gì vừa rồi mà tôi vừa
bương bả được phần nào hay phần ấy, chỉ là tương đối thôi, thưa anh.
Lại vẫn khuôn mặt phẳng lặng, hẻo mọn, ngập khói môi trường
điền dã, bia đá, gạch ngói, dường như ông đang quay quả trở về một thế giới ngựa
xe, lời thơ, giá sách. Chợt ánh mắt ông cắt ngang không gian "dẫy núi
Hoàng Liên Sơn tới Thuận Hóa"...
Riêng Nguyễn Hoàng đặt chân tới vùng đất Thuận Hóa có thế đất "Nhất
hổ trục quần dương - Tiên vi tướng, hậu vi vương" hy vọng mạng đế vương muốn
được truyền tử lưu tôn đời đời kế thế. Vì thế nhà chúa lấy một phần đất Chiêm
Thành lập ra tỉnh Tuy Hòa (phủ Phú Yên). Chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát chiếm
thêm đất Phan Rang (phủ Bình Thuận). Từ đấy nước Chiêm Thành mất hẳn. Nhưng
công việc Nam tiến của nhà Nguyễn vẫn chưa xong, vì thế chúa Sãi Nguyễn Phúc
Nguyên đã kết thân với vua Chân Lạp bằng cách gả công chúa Ngọc Vạn (6) cho
Chey Chetta II. Chúa Nguyễn xin cho dân Việt được làm ruộng và buôn bán trên
vùng đất mà ngày nay là Sài Gòn.
Và ông cổ lỗ rị mọ:
Người bạn sử miền Nam vừa nói, ánh mắt vừa như cắt ngang những
đường phố Sài Gòn của một thời một thưở, ở một nơi chốn nào đó có con đường
Nguyễn Hoàng khuất vắng, hẻo lánh và dường như ông đang hòa nhập về một vùng
hoang vu thái cổ...
Dụi điếu thuốc, người bạn sử miền Nam thấm giọng chút rượu,
ông ve vé mắt quanh chỗ ngồi. Lúc này tôi mới buông tuồng ngoài cái công khai
phá, khẩn hoang ra tiệm ăn được... "hút thuốc lá" này, Ông
gà gưỡng: "Hết ý" và cười cười.
Nhưng sau cặp kính, mắt ông không cười. Sợi râu bạc rung
rung...
- Nghĩ đến hành trạng dựng nghiệp và dấu tích của Nguyễn
Hoàng (7) từ cửa Việt, lên Quảng Trị, đến Ái Tử đúng năm 34 tuổi.
Chúa Tiên ở đất này 59 năm, dân cảm ân mến đức vì chợ không hai giá, không có
ăn trộm, cửa không phải đóng. Thuyền buôn ngoại quốc đều đến buông bán, quân lệnh
nghiêm túc, vì vậy dân trong xứ đều được an cư lạc nghiệp.
Trong khi tôi đang ngồi hổng người ra vì bây giờ tên Sài Gòn
đã đi vào quá vãng, từ nghĩa trang Arlington tôi định vất vưởng qua nghĩa trang
Biên Hòa đang hoang phế với cỏ cây. Làm như có đồng cảm, nhìn cái lò sưởi đốt củi
"gas" đang chập chờn những tia lửa xanh, vàng như nhìn miếu đền xưa
cũ. Trong một thoáng giây, ông dáng người thiên cổ thế đấy, nhưng lúc này thần
thái gồ ghề như biến đi đầu mất cả, ông tha ma mộ địa...
- Với dấu tích trên đất Quảng Trị không thể không nhắc đến
ngôi miếu do cư dân ghi ơn lập nên ở xã Gio An, huyện Gio Linh (7), sau
khi nhà chúa qua đời. Thành thử, khi đi điền dã, cụ Trần Quốc Vượng quàng vai
cái máy xén cỏ để chuẩn bị phát cây, dọn dẹp lối vào. Đi tìm dấu tích xưa với
tâm thức của những người về nguồn, như vào đất Thục.
Rót nửa ly Beaujolais, lắc lắc cho đều để vang nó... thở và lại
để đó. Và ông thở ra...
Đường vào đất thờ chúa Tiên chạy xuyên qua vỉa tầng văn hóa
trầm tích. Tôi liên tưởng đến những công quả của chúa Tiên dành cho Gio Linh.
Trước khi đi vào Thục địa ở đây, tôi có linh cảm mách bảo rằng nơi này dù hoang
phế nhưng vẫn còn những di tích hiếm hoi còn lưu lại, chẳng hạn như những gạch
cũ. Quả vậy, với cầi máy xén cỏ của cụ Vượng rà rà hiện ra một trụ đá ăn sâu
vào nền đất, mặt trụ hình tròn.
Một trụ tròn ở miếu Nguyễn Hoàng
Theo cụ Vượng ngôi miếu hướng về phương Bắc, hẳn là khi chọn
hướng miếu, người dựng miếu đã hiểu được nỗi lòng đau đáu hướng về quê cha đất
tổ Tây Đô Thanh Hóa (8) và Đông Đô Thăng Long của chúa Tiên.
Và khi chọn đất dựng miếu, ắt hẳn phải chọn theo phong thủy. Cụ Vượng cho thế đất
ở đây là thế "hoàng xà thính cáp" tức rắn vàng rình con cóc. Tôi nhìn
xung quanh có mấy chỗ đất nhô lên hình con cóc như cụ Vượng nói thật.
Bỗng không người bạn sử miền Nam âm ử trong một cõi đi về...
Nơi đây, cầu gãy, sông bồi lấp
Ngày xưa nghe nói chốn kinh thành.
Biết bao triều đại từng oanh liệt
Mãi mãi vùi chôn dưới cỏ xanh.
Ngày xưa nghe nói chốn kinh thành.
Biết bao triều đại từng oanh liệt
Mãi mãi vùi chôn dưới cỏ xanh.
Thấy tôi ớ ra, ông cười hụt một cái và tóe loe chuyện làbài
thơ có tựa đề "Chiếc cầu gãy của Đoan Công". Ông văn chương thiên cổ
sự rằng "Thi nhân bất đắc kiến - Kiến thi như kiến nhân" (Nguyễn Du),
hiểu là với khách thơ nào thấy được, đọc thơ như thấy người. Vì bài thơ
đây là của người thơ Mẫn Hiên Cao Bá Quát khi ghé Quảng Trị cảm tác Đoan quận
công Nguyễn Hoàng. Với liệu cơm gắp mắm, ông rầm rì thêm phải chăng chiếc cầu
gãy của Đoan Công chính là cái cầu bắc qua Bến Hói mà Tây gọi trại đi là Bến Hải
chăng? Nhiễu sự này từ mấy nhà văn học, mấy ông biên khảo nhúc nhắc mà có.
Đến trần ai khoai củ này, tôi chỉ hay hớm rằng đoàn tuỳ tùng
hơn 1000 người cùng chúa Tiên khai sơn phá thạch cả chục ngàn dặm đường với bao
chông gai lội sông vượt suối khoảng 80 cái cầu, con đò. Thêm 5 con đèo hiểm trở
là đèo Tam Điệp (Ninh Bình, Thanh Hóa), nơi đây sau này vua Quang Trung đã ngừng
chân trước khi tiến quân ra Thăng Long. Qua đèo Ngang (Hà Tĩnh, Quảng Bình) tới
Quảng Trị, trên con lộ sinh tử từ chặng đường đầu tiên cả mấy trăm năm trước
còn âm vọng đâu đây những ám ảnh trông gai, ngại ngùng ở Hồ Xá "Nhớ em anh
cũng muốn vô - Sợ Truông Nhà Hồ, ngại phá Tam Giang".
Từ dẫy Trường Sơn tới biển Đông chỉ đo được 40 cây số, nhìn
lên bản đồ như cái cổ họng thắt lại đến nghẹt thở giữa hai miền Nam Bắc. Ở đây
có cổ thành Quảng Trị, hơn một lần là nơi tranh hùng Trịnh Nguyễn cùng một thời
chinh chiến thuở trời đất nổi cơn gió bụi, khách má hồng nhiều nỗi truân
chuyên với bóng xế trăng lu "Mẹ bồng con ngồi cầu Ái Tử - Thiếp trông
chồng đứng núi Vọng Phu". Nghẹt thở hơn nữa là Mùa hè đỏ lửa 72, cũng
chính nơi này là chiến địa giữa hai miền Bắc Nam với cổ lai chinh chiến khứ
nhân hồi và cổ thành Quảng Trị nay trở thành phế tích.
Cổ thành Quảng Trị
Qua đèo Hải Vân là đến Quảng Nam, đất khởi nghiệp của chúa
Sãi với lớp di dân tiên khởi từ Huế. Người Quảng Nam là con cháu của những di
dân, có 4 hạng khác nhau, đầu tiên là những lính thú đi mở nước về phương nam.
Hạng di dân thứ hai đến Quảng Nam là những người tù tội. Dưới thời Lê Thái Tổ,
chia tội phạm thành năm loại: xuy, trượng, đồ, lưu, tử. Xuy là
đánh roi. Trượng là đánh bằng gậy. Đồ là làm dịch
đinh. Lưu là lưu đày. Tử là tử hình. Tội lưu có 3 hạng: Lưu
cận châu (châu gần). Lưu viễn châu (châu xa). Lưu ngoại châu (biên giới). Từ thời
Lê Thái Tổ đến Nguyễn Hoàng vào nam, trong khoảng trên 200 năm, Quảng Nam thuộc
loại viễn châu xa xôi, giữa Đại Việt và Chiêm Thành.
Hạng di dân thứ ba là những người đào tẩu vì trốn chạy trả
thù của các triều đại. Như nhà Trần xuống, nhà Lê lên, một số con cháu nhà Trần
và tiếp là nhà Mạc phải trốn chạy. Nhiều nhánh họ Mạc và họ Trần phải đổi họ và
chạy vào tận Quảng Nam. Hạng di dân thứ tư là những di dân vì quá nghèo khổ ở
vùng đất cũ. Họ được đưa tới định cư vùng đất mới. Người di dân có một số đặc
tính chung như liều lĩnh, khẳng khái, bộc trực vì họ luôn luôn va chạm với cư
dân bản địa là người Chàm đề sinh tồn. Đối phó nghịch cảnh để mưu sinh ở vùng đất
thiên nhiên khắc nghiệt, rừng thiêng nước độc. Để sinh tồn và đối phó nghịch cảnh
trở thành thói quen của người Quảng Nam hay cãi để thắng chứ không chịu thua.
Vì không ít thì nhiều gốc gác họ là lính thú, tội đồ mang cái tâm trạng của kẻ
bị đi đày.
Các chúa Nguyễn kế tiếp vượt đèo Cù Mông (Bình Định, Tuy Hòa)
và đèo Cả (Tuy Hòa, Nha Trang) vào miền Nam. Con đường mòn không thênh thang rộng
mở như của âm nhạc thời thế với âm điệu hào hùng của quê cha đất tổ với Nuớc
non ngàn dặm ra đi. Vì sau ba bốn mùa mưa, con đường mòn ấy đã bị mất dâu, đoàn
người vai gồng vai gánh, tay bồng tay bế, họ phạt cỏ chặt cây khai quang lối
đi. Họ leo núi băng rừng ngập những chông gai, họ trèo đèo lội suối đầy gian
nan với suơng lam chướng khí cuối cùng bị bệnh tật, kiệt sức. Những người di
dân đi tìm vùng đất mới đã bỏ xác lại bên ven đường không phải là ít.
Tây Đô Thanh Hóa
Đời Lý cư dân Kẻ Chợ lên tới 40000 người, qua đời Trần, một
phần đê Nhĩ Hà vỡ, cả kinh thành Thăng Long lụt lội ngập dưới nước. Một phần bị
Chế Bồng Nga kéo quân ra Bắc ba lần đốt phá kinh thành, khói lửa ngập trời cả
tháng, khi ấy Thăng Long chỉ còn 20000 người. Có thể vì chiến tranh, hỏa tai, lụt
lội nên Hồ Hán Thương lập kinh đô mới là Tây Đô và lập lên con đường
thiên lý di dân vào Thanh Hoá. Sau khi chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên di dân vào
Quảng Nam, tiếp đến là chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần di dân vào Bình Thuận, đất này
được gọi là "Ngũ Quảng lưu dân". Họ mở đất lập làng cả mấy đời, ngỡ
đã an cư lạc nghiệp lại khăn gói gió đưa theo chúa Nguyễn vào Nam. Vì vậy có thể
nói con đường cái quan đã hình thành từ các chúa Nguyễn, từ Quảng Trị tới Cà Mâu.
Càng xuống phía Nam, đất đai rộng, thời tiết dễ chịu, con người càng thoải mái
hơn. Theo cuộc di dân với ngôn ngữ, trong văn học có câu: giọng Thanh Hoá
là giọng miền Bắc...phải đi. Giọng Bình Thuận là giọng miền Nam...sắp sửa. (*)
Và... sắp sửa vào đến miền Nam, chúa Hiền Nguyễn Phước Tần
cho quan tổng binh Trấn thủ Phú Yên ngừng chân trên đất Miên, ngay tại
doanh trại, dinh cơ của phó vương Nặc Ông Nộn ở vùng đất từ chùa Cây Mai tới
trường đua Phú Thọ, Chính mảnh đất nhỏ bé này đây đã khởi đầu hình thành một
Sài Gòn cho mai hậu. Từ Quảng Nam, theo thời gian từng đợt di dân trải rộng tới
tận Cà Mâu, trong đó có tù binh chúa Trịnh, đào binh chúa Nguyễn. Thêm tội đồ
thích dấu ở tay bị phát vãng tới Mỏ Xòai, mảnh đất địa đầu của Gia Định Sài
Gòn, tội đồ thích dấu ở trán bị đày xuống vùng châu thổ Đồng Nai Cửu Long trải
rộng đến biên giới Miên. Nếu so với cuộc di dân của Lý Long Tường qua Cao Ly,
và lấy mỗi 25 năm là một thế hệ thì con cháu nhà Lý đã lập cư ở đấy được 27 đời.
Nếu lấy mốc thời gian từ chúa Tiên Nguyễn Hoàng đến chúa Võ Vương Nguyễn Phúc
Khoát, sau hơn 200 năm, trải qua 9 đời chúa, 12 đời người của lớp lưu dân từ miền
Bắc, miền Trung và người Hoa lánh nạn nhà Minh đến lập nghiệp. Họ đã thay thế dần
nét văn hóa và đời sống của người Chàm bản địa ở Tây Ninh, Châu Đốc, người
Miên, người Minh Hương để có giọng nói người Lục tỉnh. Tại đất Cây Mai của phó
vương Nặc Ông Nộn, họ cũng hòa nhập với người Miên, thêm dân tộc bản xứ là người
Mạ, người Stiêng. Theo người Pháp, vào cuối thế kỷ 19, người Mạ, người Stiêng sống
ở thung lũng vùng Donai gần Biên Hòa để có giọng nói đặc thù người Sài Gòn. Với
phong thổ chí, phong tục đã tạo nên phong thái, phong cách một lớp người trung
dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài của người miền Nam....
Thiên cổ chi mê tôi đang châm lửa đốt trời đến đây, vừa lúc
làm hết ly vang, người bạn sử miền Nam đội mũ lên đầu. Thêm một lần biệt hữu
thiên địa phi nhân gian (Lý Bạch) tạm hiểu là ta có một cõi riêng không
người vì ông như đang sửa soạn cho một chuyến đi xa. Như quay về Hoành
Sơn, Quảng Trị của một thời xa xưa. Sau cặp kính dâm, ánh mắt ông "vắt
ngang dòng sông Bến Hải và sông Gianh" đang lặng lờ với nước chẩy đôi
dòng: Dòng sông sau 300 năm, nước vẫn tiếp tục trôi đi ở giữa dòng có một
giải phân cách tự nghìn năm. Cùng một cảm hoài với ông, tôi cảm thấy thanh thản
ở cái tuổi hiểu được cuộc đời là dòng sông đã gần đến cửa biển. Mà biển là tàng
thức chứa chấp mọi nhân sinh. Thời gian trên những dòng sông chính là những mảnh
đời. Mấy chục năm sau gặp lại người bạn sử miền Nam đây. Mắt ông đã mệt mỏi.
Tôi không nhìn thấy ánh mắt ấy vắt qua một khỏang không gian, thời gian nào đó
mà ông đã từng hoài bão. Kể cả những hoài vọng thầm kín như một giấc mơ, giấc
mơ một đời người với mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự, giầy cỏ, gươm cùn ta đi
đây. Tôi chưa có dịp để nói tôi thích cái cười... "hụt" hồi nãy thì
ông cười như không cười, cái cười còm nòm của nhất hữu ly biệt thiên lý tống tiễn
với đã đến lúc phải chia tay.
Thời gian vỗ cánh như quạ bay, một ngày tôi đặt bút xuống với
những dòng chữ này, người bạn sử của miền Nam không nắng thì mưa không còn nữa!
Đôi mắt ông vĩnh viễn khép lại. Nhưng sợi râu trên nốt ruồi bên cằm vẫn còn ẩn
hiện trong một cõi đi về.
Năm cùng tháng tận, rũ bỏ mọi quá khứ dù có mặt hay không có
mặt. Đất khách quê người với bóng ngả đường chiều, thiên cổ chi mê tôi ngụp lặn
cùng những nơi chốn khuất nẻo rót về Bắc phương, gọn Bắc phong vi vút, cát
chạy đá baỵ, rót về Nam phương, trời Nam mờ mịt. Với cuộc Nam tiến mấy trăm năm
trước, thêm mấy chục năm sau nữa, trong đó có hai lần di cư. Tôi đang bước theo
những vết chim di của người bạn sử miền Nam qua bài văn sử Hành phương nam này
đây. Sau 75, trong cái tâm thái mỗi năm hoa đào nở lại nhớ cánh mai
vàng của mảnh đất không mưa thì nắng. Người viết bài văn sử này được thể
ngược về năm 54, gia dĩ là Bắc kỳ đặc, trộm nghĩ nếu không có chúa Tiên Nguyễn
Hoàng xuôi nam, thì chẳng có thẻo đất nào để người viết có chỗ làm nơi chốn
dung thân với những năm tháng xưa cũ u ẩn chiều lưu lạc, buồn viễn xứ khôn
khuây, thưa bạn đọc...
Chú thích:
(2) Nguyên văn câu được chép lại trong bài Phả ký của Vũ
Khâm Lân là "Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân" (Một dải
Hoành Sơn có thể dung thân được) chứ không là "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại
dung thân" (Một dải Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời). Sai khác này được
lý giải là do các sử gia nhà Nguyễn sau này đã sửa đổi hai chữ "khả
dĩ" thành "vạn đại", với hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp của triều
đại nhà Nguyễn tới muôn đời.
(3) Châu Ri goi là Châu Lý vì chữ Hán không có vân
"R" nên đổi ra "L". Đời Trần đổi hai Châu Ô (Quảng Trị),
Châu Rí (Thừa Thiên) là Thuận Châu, Hóa Châu. Sau ghép hai
chữ Thuận và Hóathành một là Thuận Hóa. Vì vậy Thuận Hóa gồm
Quảng Trị và Huế.
(4) Hồ Hán Thương đánh chiếm phủ Thăng Bình. Gia Long đổi
tên Thăng Bình là Quảng Nam với "Quảng" là rộng rãi, "Nam"
là nhà Nguyễn đã phát triển về phía nam.
(5) Nhà Lê chiếm Đồ Bàn thuộc Bình Định. Gia Long đổi Đồ Bàn
thành Bình Định với nghĩa "bình định" được đất đai của hai miền Nam Bắc
từ năm 1802.
(6) Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên ghi: Nguyễn Phúc
Nguyên có 4 người con gái là:
1/ Ngọc Liên, lấy Nguyễn Phúc Vĩnh. con Mạc Cảnh
Huống.
2/ Ngọc Vạn, khuyết truyện.
3/ Ngọc Khoa, khuyết truyện.
4/ Ngọc Đĩnh lấy
Phó vương Nguyễu Cửu Kiều. Sau này theo Nguyễn Phúc tộc thế phả: Nguyễn Phúc
Nguyên gả Nguyễn Phúc Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II. Và
gả Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cho vua Chiêm Thành là Pôrômê.
Theo Li Tana sử gia Nhật thì Araki Sotaro, thương gia Nhật Bản là con
rể Nguyễn Phúc Nguyên. Nhưng có lẽ nhà chúa đã gả con nuôi thì đúng hơn, vì
theo Nguyễn Phúc tộc thế phả, trong số tất cả 4 người con gái, không có ai
được gả cho Araki Sotaro.
(7) Gio Linh và Quảng Bình hợp lại từ ba châu Ma Linh, Bố
Chính, Địa Lý. Ma Linh là Gio Linh phía bắc Quảng Trị. Bố Chính phía bắc Quảng
Bình, Địa Lý là Quảng Bình.
(8) Dòng tộc Nguyễn Hoàng xuất thân từ một gia đình danh
giá ở Thanh Hóa. Ông tổ của Nguyễn Hoàng là Định quốc công Nguyễn Bặc, vị khai
quốc công thần của nhà Đinh, từng giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.
Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn và Việt sử xứ Đàng
Trong của Phan Khoang, tiên tổ của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Công Duẩn, người
Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa.
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng
Phụ đính: (*)
Thổ âm và tiếng nói từng vùng đất theo những cuộc di dân:
Thanh Hóa: Thời Lê quân Minh tàn phá Thăng Long. Sau Lê Chiêu
Thống đốt phủ chúa Trịnh cháy ba ngày ba đêm mới tắt. Vì chiến tranh, hỏa hoạn
thêm lụt lội, từ nhà Hồ đến nhà Nguyễn có những cuộc di dân lớn vào Thanh Hóa làm nhiều đợt. Vì vậy hiếm có vùng đất nào như Thanh Hóa sau đó phát lên
được tới ba dòng vua, hai dòng chúa. Đó là vùng đất phát tích của
nhà tiền Lê, hậu Lê, nhà Hồ và là đất tổ của hai họ Trịnh Nguyễn. Nếu
Hà Nội là Đông Đô thì Thanh Hóa được gọi là Tây Đô. Thanh Hóa còn
được gọi là Hạc Thành vì phải chăng hình thể tỉnh Thanh giống hình
con chim hạc? Cũng vì vậy có thể nói Thanh Hóa là miền đất cực nam của miền Bắc
hay là miền đất cực bắc của miền Trung để có gịong nói rất đặc thù Thanh Hóa như... hạc kêu.
Huế: Hồ Hán Thương lập con đường thiên lý từ Thanh Hóa vào đến
Thuận Hóa. Tiếp đến chúa Nguyễn Hoàng vào đây để có giọng Huế pha lẫn với tiếng
Chàm với nhiều dấu nặng.
Quảng Nam: Một phần chúa Nguyễn Phúc Chu di dân từ Huế mà đa
số người Kẻ Chợ (Đông Đô) và đất Thanh (Tây Đô) vào Quảng Nam (Hội An có những
ngôi nhà cổ kính hao hao giống phố Chả Cá, Hàng Vải Thâm, Hàng Bạc ở Hà Nội). Một
phần vì ảnh hưởng của sông núi, Quảng Nam xưa vốn là linh địa của người Chàm
(Amavati - Trà Kiệu là kinh đô của họ trước thế kỷ VIII). Thế nên đất này là đất
địa linh nhân kiệt có nhiều nhân tài, khoa bảng, văn nhân thi sĩ để có giọng
nói Quảng Nam với "Quảng Nam hay cãi". Không biểu vì lý do gì, trong Đại
Nam nhất thống chí, mục tỉnh Quảng Nam, tiểu mục "Phong thổ", các
chúa Nguyễn cho rằng giọng Quảng Nam là giọng chuẩn trong nước. Trong khi đó,
giọng Quảng Nam lớn, mạnh, sắc, có khi chói tai, có nhiều thổ âm, nói hơi khó
nghe. Đã nói giọng khó nghe, người Quảng Nam hay nói thẳng đến độ cục mịch, mà
người Quảng Nam gọi là "ăn cục nói hòn". Còn về Quảng Nam hay
cãi, cãi không dứt, cãi chi cãi mãi, cãi mãi cãi hoài. Có điều cãi với giọng
cãi chói tai, nghe nhức đầu. Thế nhưng người Quảng Nam lâu ngày không nghe giọng
Quảng Nam thì cũng nhớ, như lâu ngày không được ăn một tô mì Quảng đạm bạc theo
lối nấu đơn sơ của quê mình với muôn vàn nỗi nhớ.
(Quảng Nam hay cãi - Trần Gia Phụng)
Quảng Ngãi, Bình Định: Năm 1470, vua Lê Thánh Tôn đánh chiếm
Ðồ Bàn. Sau thời kỳ Nam tiến này, cứ mỗi lần chinh phục được đất mới, triều
đình đưa người từ ngoài Bắc vào mở mang. Vì vậy dân Quảng Ngãi, Bình Định,
trong buổi đầu phần đông có nguồn gốc ở Bắc, hay ở bắc Trung phần. Nhiều nhân vật
đã lập nên nghiệp lớn ở Bình Định vốn là gốc người đàng ngoài: Ðào Duy Từ (gốc
Thanh Hóa), Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ (gốc Nghệ An) v.v... Thời trước, từ
Bắc vào đất mới quá xa. Dân Thanh Nghệ vào Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Hoài Nhơn
(Bình Định) hoặc tuân theo chiếu vua kêu gọi, hoặc vì mang án lưu hình v.v...
đã đi là đi luôn, đi để lập nghiệp ở các miền đất mới. Thậm chí đời nhà Hồ, di
dân phải thích hai chữ tên đất mình sắp đến (Quảng Ngãi, Bình Định) lên cánh
tay.
Nha Trang, Đà Lạt: Chúng ta đoán phỏng rằng có thể từ những
cuộc di dân từ thời xa xưa. Hoặc từ khi Gia Long lên ngôi năm 1802 đến Bảo
Đạo thoái vị năm 1945, trải 13 đời vua kéo dài 143 năm. Không ai hay biết
khoảng thời gian nào, nhưng cũng có thể gần đây thôi.
1- Người Việt di dân từng vùng đất như dân Cầu Vồng Yên thế
vào Quảng Ngãi. Người Hà Đông vào Bình Định. Người Thanh Hóa vào Phan Thiết.
Người Hải Dương vào Nha Trang.
(Người Việt Đất Việt - Toan Ánh)
2- Tiếp đến là những di dân sau này từ Quảng Nam, Quảng Ngãi
tới Trại Mát. Dân Nghệ An, Hà Tĩnh vào thung lũng ấp Ða Thiện. Vì thế có thể
nói Đà Lạt là vùng đất cực nam của miền trung hoặc cực bắc của miên nam để có
tiếng Đà Lạt pha trộn giữa những giọng nói của người Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nghệ
An, Hà Tĩnh.
(Đà Lạt xưa và nay - Trần Ngọc Toàn)
Nguồn: Cảm tác qua Trần Quốc Vượng, tính trời nết đất của Viên Linh, Mưa giăng vườn vải của Tường Vũ Anh Thy. Và Phan Khoang, Nguyễn Thị Hậu, Phạm Trung Tùng, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Nhuận Minh, Thái Văn Kiểm, Trần Viết Ngạc, Hồng Trung, Nguyễn Đức Hiệp, Phan Chính, Tạ Chí Đại Trường, Trần Gia Phụng, Tạ Đức, Toan Ánh, William Zinsser.
Thạch trúc gia trang
Tiết xuân, Giáp Ngọ 2014
Phí Ngọc Hùng














Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét