Xuân với hoa - rượu và thơ
"Xuân đáo bách hoa khai
Xuân khứ bách hoa lạc
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai" (*)
Xuân khứ bách hoa lạc
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai" (*)
(Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rụng
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai)
Xuân đi trăm hoa rụng
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai)
Vừa được Nghệ nhân dân gian Lê Văn Kinh (Huế) hoàn thành bộ tranh
thêu bài kệ (thơ) bằng 14 thứ tiếng.
* Ngày 8/11/2010, đại diện Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam đã
trao chứng nhận đạt Kỷ lục Việt Nam cho cặp hoa Atiso bằng vàng lớn nhất do tập
thể nghệ nhân Công ty Vàng bạc đá quý PNJ chế tác. Cặp hoa Atiso này được chế
tác bằng vàng 99.99 với kích cỡ lớn như hoa thật. Mỗi đóa hoa gồm 50 cánh, dài
400mm và đường kính hoa là 105mm, nặng hơn 1 kg vàng (31 lượng).
* Kỷ lục thế giới năm 2010 về rượu thuộc về chai rượu vang
Chavel Blanc 1947 đã được bán với giá 304.375 USD trong phiên đấu giá tại sàn
Christie (Thuỵ Sĩ).
Điểm qua ba sự kiện: thơ - hoa - rượu trên để thấy đời... mãi
xuân và xuân mãi gắn liền với hoa - rượu và thơ.
Ta hãy ngẩm lại đôi tứ thơ xuân mang đậm ý vị sắc hương đã thật
sự chạm khắc rõ nét lên trang sử văn học của nước nhà:
Chẳng biết xuân tình, xuân ý thế nào, mà đến độ Đại
thi hào - Danh nhân văn hóa thế giới - Nguyễn Du đã phải thốt lên:
"Sinh tiền bất tận tôn trung tửu/ Tử hậu thùy kiêu mộ thượng
bôi" (Khi sống chẳng nghiêng bình cạn rượu/ Chết đi ai tưới mộ ly đầy).
Bởi: "Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ/ Niên quang ám trục bạch đầu
lai" (Sắc xuân dần chuyển oanh bay mất/ Năm tháng ngầm đưa trắng tóc lay -
Trước Chén Rượu - Phạm Thảo Nguyên dịch).
Chí sĩ Phan Đình Phùng cảm tác ngày đầu xuân với một
tâm thế trong bối cảnh đất nước đắm chìm nô lệ: "Lưu oanh đình
ngoại ngữ hoa chi/ Hoa báo xuân quy nhân vị quy" (Ngoài sân oanh hót hoa
chào/ Nhắn ai xuân tới rằng sao chưa về? - "Mùng một tết Mậu Tý cảm
tác" - Nguyễn Tấn Hưng dịch)
Trước năm cùng, tháng tận, ngày tàn, Thiền sư Huyền
Quang tầm xuân miên viễn trong "Hoa Cúc": Vong thân vong thể dĩ đô
vong/ Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương/ Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật/ Cúc hoa
khai xứ tức trùng dương (Thân mất thể mất còn với mất/ Ngồi giường lạnh ngắt một
phương trông/ Giữa núi cuối năm quên ngày tháng/ Đầu tiết trùng dương cúc ngấp vườn - Chu
Vương Miện dịch).
Cao Bá Quát cả đời kiêu bạt có lúc phải lắng lòng
gieo hạt "Trồng Mai": Thí tương mai tử trịch sơn gian/ Nhất ác
thanh tư ký bích loan/ Ký tử lai thời xuân sắc hảo/ Dữ nhân cộng tác hoạ đồ khan
(Trên non ươm hột giống Mai vàng/ Trân quý thanh cao mọc giữa ngàn/Xuân sang hoa
nở men triền núi/ Bức tranh tuyệt mỹ gửi thế gian - M.loan hoa sử/ Phong
lữ thảo dịch).
"Hoa với Rượu" của Nguyễn Bính là hoài
niệm tình mơ mộng: Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới/ Chuốc mãi men say rượu ái
tình, và: Đời say men rượu thơm hoa rụng/Tràn những thơ ngây, ngập cảm tình;
là giằng xé đớn đau: Khóc vụn mỗi lần tôi nhớ lại/ Men nồng gạo nếp nước
hoa cam, và: Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc/ Hoa hết thơm rồi rượu hết say. "Rượu
xuân" của Nguyễn Bính cũng chuyên biệt: Cao tay nâng chén
rượu hồng/ Mừng em, em sắp lấy chồng xuân nay/ Uống đi! Em uống cho say!/ Để trong
mơ, sống những ngày xuân qua/ Thấy tình duyên của đôi ta/ Đến đây là... đến đây
là... Là thôi!/ Em đi dệt mộng cùng người/ Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh.
Với "Ngày xuân thơ rượu" Thi sĩ Tản Đà đã tuyên
ngôn: Trời đất sinh ta rượu với thơ/ Không thơ không rượu sống như thừa,... Mạch
nước sông Đà tim róc rách/ Ngàn năm mây Tản mắt lơ ngơ,... Còn thơ còn rượu còn
xuân mãi/ Còn mãi xuân, còn rượu với thơ. Bởi lẽ, Thi sĩ còn biết gởi cái
tình vào đâu: Thương ai cho bận lòng đây/ Cho vơi hũ rượu, cho đầy túi thơ. Thôi
đành gởi gấm vào rượu với thơ: Rượu say, thơ lại khơi nguồn/ Nên thơ, rượu cũng
thêm ngon giọng tình/ Rượu thơ mình lại với mình/ Khi say quên cả cái hình phù
du.
Có thể cái tình của Tản Đà đã được Trần Huyền
Trân san sẻ trong bài "Với Tản Đà về bạn rượu, bạn thơ":
Cụ hâm rượu nữa đi thôi
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy và đau lòng này
Tôi say?
Thưa, trẻ chưa đầy???
Cái đau nhân thế thì say nỗi gì (...)
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy và đau lòng này
Tôi say?
Thưa, trẻ chưa đầy???
Cái đau nhân thế thì say nỗi gì (...)
Rót đi rót rót đi thôi
Rót cho tôi cả mấy mươi tuổi đầu
Nguồn đau cứ rót cho nhau
Lời say sưa mới là câu chân tình.
Rót cho tôi cả mấy mươi tuổi đầu
Nguồn đau cứ rót cho nhau
Lời say sưa mới là câu chân tình.
Nguyễn Công Trứ có phong thái khác Tản Đà?
(Khác mà không khác): Dở duyên với rượu khôn từng chén/ Chót nợ cùng thơ phải
chuốc lời,... Ai say ai tỉnh ai thua được/ Ta mặc ta mà ai mặc ai ("Cầm kỳ
thi tửu"). Hay là: Hẹn với lợi danh ba chén rượu/ Vui cùng phong nguyệt một
bầu thơ ("Thoát vòng danh lợi").
Và với Bích Khê (Khác mà không khác): Chén nầy
khách hãy cạn liền/ Ngó đôi mắt ngọc thì quên bụi hồng,... Xuân thơm tuy hết mặc
dầu/ Rượu ngon còn mãi khách lưu sau cùng ("Mỹ tửu ca").
Riêng với Lưu Trọng Lư: Đêm ấy rượu nàng ta không uống/ Từ
sau thề không uống với ai. Lư thề không uống rồi lại uống: Chén lại chén,
kề môi thủ thỉ/ Càng vơi càng túy lúy càng đầy. (Không uống với nàng, không uống
với một ai nữa, nhưng không thể không uống với vợ?).
Một lẽ khác (thật khác chăng?) thể hiện ở một số thi nhân bày
tỏ thái độ chê trách thói rượu (hay khuyến rượu?) như: Vếu váo câu thơ cũ
rích/ Khề khà chén rượu hăng xì (Nguyễn Bỉnh Khiêm); Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng
mấy/Độ dăm ba chén đã say nhè ("Tự trào" - Nguyễn Khuyến) -
Song, khi "Khóc Dương Khuê": Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp/ Chén quỳnh
tương ăm ắp bầu xuân,... Rượu ngon không có bạn hiền/ Không mua không phải không
tiền không mua.
Một lẽ khác nữa, đã có người cho Thế Lữ rất tỉnh
táo, trong suốt tập "Mấy vần thơ" gồm 47 bài, chỉ có một lần Thế
Lữ nhắc đến rượu mà cũng chẳng hề uống (?): Lòng ta hồ vỡ tan tành/ Vì hờn, vì giận,
vì tình, vì thương/ Vì cay đắng đủ trăm đường/ Than ôi! Ly rượu mơ màng khi
xưa/ Ai đem dốc cạn bao giờ/ Chẳng cùng chia nửa, chẳng chờ hưởng chung ("Lời
tuyệt vọng") <Còn rượu cho Thế Lữ uống chết liền!>.
Đã có người uống rượu; có người chê rượu; có người thề không
uống rượu. Sao? Lại có "người thèm rượu" đáng yêu như Đoàn
Thị Lam Luyến với "Huyền thoại một tình yêu": "Giá được một
chén say mà ngủ suốt triệu năm/ Khi tỉnh dậy anh đã chia tay với người con gái ấy/ Giá
được anh hẹn hò dù phải chờ lâu đến mấy/ Em sẽ chờ như thể một tình yêu. Cùng
tâm trạng đó còn có Lê Văn Bái: Một người xuống ngựa mười năm trước/ Một
chén men tràn suối lệ hoa ("Lớp tang thương"); còn có Yên Bằng:
Cỏ hoa vì biết tình thơ đó/ Nên biến sương thành giọt lệ tan ("Bại tướng"). Đáng
yêu và dễ thương hơn nữa khi Nguyễn Thị Mai "Uống rượu với
chồng": Thì mình cứ rót! Em say/ Tựa vào hơi ấm mà bay một lần/ Đất xa trời
tạt xuống gần/ Chung chiêng cả mấy mươi phần thế gian.
Chính cái say rượu, say hoa đã làm nên tuyệt tác thơ trên và
còn biết bao áng thơ hay, đẹp nữa, với ngất ngưỡng Vũ Hoàng Chương: Say đi
em! Say đi em!/ Say cho lơi lả ánh đèn/ Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt/ Rượu,
rượu nữa, và quên, quên hết!/Ta quá say rồi!/ Sắc ngã màu trôi ("Say đi
em"), thơ tâm sự: Rượu thơ là cõi lòng này/ Ủ hương trăng mật từ ngày
có em ("Rượu thơ"), thơ thở than: Gặp gỡ chừng như chuyện Liêu
Trai/ Ra đi chẳng hứa một ngày mai/ Em ơi! Lửa tắt, bình khô rượu/ Đời vắng em rồi,
say với ai? ("Đời vắng em rồi say với ai?"); với Đynh Trầm Ca trong
một lần "Uống rượu cuối năm bên bờ kinh phương Nam" mà thấy lòng
như bay lên mây: Rượu cuối năm mà lòng say chưa đã/ Thêm một ly để cảm tạ đất nầy/ Thêm
một ly gửi tới những tảng mây/ Để cuối kiếp ta trôi lên thường trú; với hình
ảnh ông lái đò của Yến Lan bên "Bến My Lăng": Bến My
Lăng nằm không, thuyền chờ khách/ Rượu hết rồi ông lái chẳng buông câu; với kỷ
niệm của Xuân Hoàng về "Đồng Hới": Phố nhỏ quê ta thức
nhiều kỷ niệm/ Dạ lan hương thơm ngát những canh dài/ Em đi nhé! Bóng anh lồng
bóng biển/ Bài thơ lành anh đến ngủ bên vai... Ta về xây Đồng Hới quê ta/ Lại sẽ
trồng hoa hồng quanh lối nhỏ/ Hoa thược dược đến mùa xuân lại nở/ Vàng huân
chương trong mỗi sân nhà...; với liên tưởng mượt mà của Thanh Hải về
"Mùa xuân nho nhỏ": Mọc giữa dòng sông xanh/ Một bông hoa tím biếc...;
với rạng rỡ sắc hoa vàng theo Hoàng Việt Hằng vào cõi vô ưu: Ta
đến chùa nghe tụng kinh niệm Phật/Nơi tam quan cây mộc nở hoa vàng ("Thơ
hai câu"); với Đỗ Hoàng giữa "Mênh mang nông trường":
Hoa vừng vương mờ hơi sương/ Gió đổi mùa đi nghe đằm thắm...; với "Hoa Trắng"
từng chùm nhỏ thơ ngây dịu dàng mong manh sương khói riêng của mỗi Trần
Nhuận Minh:.. Mới đầu hoa lấm tấm vàng/ Đến khi trắng muốt, là tàn mất hoa/ Có gì
muốn nói cùng ta/ Nhưng chưa nói được thì hoa lìa cành...; với "Hoa Tường
Vi" như thực lại như mơ/ Cùng tôi sống suốt một thời trẻ dại của Xuân
Quỳnh; thậm với "Hoa Dại": Miên man hoa nở trắng sườn đồi/ Những niềm
hoang dã chốn xa xôi/ Hoa chẳng có tên hoa có sắc/ Hương vẫn gửi vào trong gió
bay của Hà Thiên Sơn;...
Thơ - hoa - rượu và xuân vốn dĩ đã - đang và sẽ tiếp diễn
tồn tại để trang điểm cho đời người hướng đến chân - thiện - mỹ. Nói đến trăm
ngàn đời; viết đến trăm ngàn trang không vừa, không đủ. Nên chăng, ta cứ học
cách người xưa biết vừa là vừa, biết đủ là đủ. Suy cho cùng sự tồn tại của nghịch
lý lại không nghịch lý như lòng người không gió lại luôn ẩn sóng; trong buổi
đông tàn đã chớm huy hoàng sắc xuân. Xuân ý và xuân tình như thế nào để lòng
người lặng sóng, để thấy sắc xuân trong cảnh đông tàn.
Khi ta biết hòa quyện mình với cảnh vật, đất trời, vũ trụ một
cách an nhiên thì trong ta có xuân vậy.
(*) Bài viết có trích dẫn thơ, bản dịch thơ từ nhiều nguồn
(chủ yếu từ internet và trí nhớ) nên không thể tránh khỏi thiếu sót hoặc nhầm lẫn.
Mong người đọc thông cảm và góp ý để tác giả kịp thời hiệu đính.
Cuối năm Canh Dần - 2010
Cát Hoàng




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét