Thứ Năm, 28 tháng 11, 2019

Nắng muộn thu vàng 2

Nắng muộn thu vàng 2
Kỷ niệm rực rỡ
Thạch ra khỏi nhà, con đường Hoàng Đạo ban đêm như một bức tranh nào đó Thạch đã xem trong một cuộc triển lãm, bức tranh vẽ hình một con phố nhỏ, hai bên phố những ngôi nhà bằng gỗ hai tầng chen chúc, xiêu vẹo, với những dây điện chằng chịt bên ngoài. Từ ngôi nhà bên đường, ánh đèn hắt ra một thứ ánh sáng vàng úa, một phần ánh sáng in trên tà áo của cô gái đang đi trên khu phố hoang vắng ấy.
Thạch có thói quen đi trên những con đường vắng vẻ vào ban đêm, nhiều đêm chàng đi lang thang từ con đường này sang con đường khác, đến khi mỏi chân thì trở về nhà ngủ. Chàng cũng biết đi như thế có khi gặp nguy hiểm, nhưng Thạch cũng tự nhủ là mình chẳng có gì để phải sợ bị mất mát nên vẫn tiếp tục giữ thói quen cũ. Khi trở về đến nhà thì Tuấn đang chờ ở phòng khách.
- Đi đâu thế ông bạn? Chờ muốn chết!
- Buồn tình đi quanh quanh thôi mà, biết làm gì bây giờ?!
Tuấn thường có lối xưng hô lộn xộn, khi ông, khi anh, khi mày! Thạch và Tuấn là bạn học hồi cả hai còn mài đũng quần ở trung học. Sau này cả hai cùng đi lính rồi cùng đi "cải tạo", và bây giờ cùng được thả, và cả hai đều không có nghề ngỗng gì!
Tuấn có gia đình trước khi đi cải tạo nhưng khi trở về thì lại độc thân vì vợ vượt biên, và không nhận được tin tức gì từ mấy năm nay. Người vợ của Tuấn, nghe đồn, khi sang đến Mỹ đã lấy chồng khác! Lúc đau Tuấn mất tinh thần, suốt ngày buồn bã, nhưng dần dần cũng nguôi ngoại. Được cái bố mẹ Tuấn còn chút đỉnh tiền nong, thành thử ngày trở về của Tuấn không đến nỗi bi đát về phương diện vật chất. Thạch thì không vướng vít chuyện vợ con nhưng lại hoàn toàn vô sản nên phải ăn bám vào đứa em gái khá giả hơn.
Tuấn ít khi nào đến nhà Thạch vào lúc khuya khoắt nên Thạch ngạc nhiên:
- Mày đến tao có việc gì không?
- Ngày mai tao đi, đến gặp mày chào từ giã.
Thạch biết Tuấn dự định đi từ lâu, nhưng khi nghe tin Tuấn đi Thạch cũng cảm thấy một chút bùi ngùi. Bây giờ là thời buổi của chia lìa, mất mát!
- Sang bên ấy, gặp lại người xưa đừng có nổi khùng nghe không? Chuyện qua rồi cho qua luôn! Hơn nữa, cũng phải thông cảm cho người ta, chờ người đi cải tạo thì biết đến bao giờ?
Nghe nhắc lại chuyện cũ, Tuấn hơi xịu mặt, nhưng rồi tươi tỉnh ngay:
- Ôi! Con gái thiếu giống gì bên đó, tao "bắt" một em mới.
Thạch cười:
- Thôi đi "ông nội", con gái ở bên đó là vàng đấy, đừng có hòng rớ tới, tao nghe nói các bà các cô sang bên ấy ghê lắm. Mà không cần phải sang tới Mỹ, Úc, Canada rồi mới lên giá đâu, mới tới đảo đã lên giá rồi!
- Họ lên giá, mình cũng lên giá, sợ gì!
- Mày cho không còn chưa đắt nữa là lên giá!
- Tao sẽ bắt một em thơm như múi mít, chụp ảnh gửi về cho mày chiêm ngưỡng!
- Ừ! Ráng đi "em", đừng làm tao thất vọng.
Nói chuyện lăng nhăng một hồi, Thạch đứng lên vào trong bếp đun nước pha cà phê. Cô em gái Thạch mới mang được một ít cà phê từ Buôn Mê Thuộc về, nên chàng muốn Tuấn hưởng một chút hương vị cà phê thứ "chính hiệu".
Thấy Thạch đang nói chuyện dở dang thì đứng lên. Tuấn hỏi:
- Mày đi đâu thế?
- Trước khi mày đi, phải có gì tiễn nhau chứ?
- À thằng này biết điều, nhưng gì đó?
- Cà phê Buôn Mê Thuộc một trăm phần trăm.
Tối hôm đó Thạch và Tuấn đã nói chuyện rất khuya. Khi Tuấn đứng dậy ra vè, Thạch vẫn không buồn ngủ nên ra ngoài sân hóng gió. Khu xóm lao động vào ban đêm im lìm quạnh quẽ, mọi nhà đã đóng cửa tắt đèn. Một con chó đang bới thùng rác dưới một cột điện tỏa ánh sáng mờ mờ. Thạch bỗng nhớ đến những đêm xa xưa, của một Sài Gòn náo nhiệt cả ban ngày lẫn ban đêm, ngay cả trong những hẻm hẻo lánh vẫn nghe tiếng "xức tắc" hay tiếng rao "bánh bò, bánh tiêu'; của một chú ba Tàu nào đó vọng lại. Cái cảnh ấy không biết đến bao giờ mới trở lại!
Tuấn đi được một tháng, Thạch tìm đến nhà Tuấn hỏi thăm, em gái Tuấn ra tiếp và cho biết, Tuấn đã đi lọt và hiện đang ở Thái Lan, gia đình mới nhận được tin ngày hôm qua, mọi người đều mừng cho Tuấn vì nếu rủi ro bị bắt lại thì khó có hy vọng trở về!
Nguyệt, em gái Tuấn, Thạch đã biết từ khi nàng còn rất nhỏ. Ngày xưa mỗi lần Thạch đến chàng xoa đầu cô bé hoài. Thời gian Thạch đi "cải tạo", cô bé ngày xưa đã biến thành thiếu nữ xinh tươi. Trong những ngày đầu mới gặp, Nguyệt vẫn tỏ ra vui vẻ, thân mật, nhưng trong dáng điệu của nàng đã có vẻ thay đổi nhiều, hình như Nguyệt tự kiềm chế để tình cảm không vượt qua giới hạn bình thường:
- Anh có tính vượt biên không?
Câu hỏi của Nguyệt làm Thạch quay lại:
- Chẳng tính vào đâu được, số tiền ấy bây giờ quá lớn đối với tôi.
- Sao anh không mượn đỡ cô em, khi nào sang đến nơi thì trả lại.
- Tôi không rõ cô ấy có chừng ấy tiền không, nhưng dù có, cũng khó làm như vậy! Nếu đi trót lọt thì không nói làm gì, những người may mắn thoát được ngay lần đầu thật là hiếm hoi, rồi nhỡ không bao giờ đến nơi cũng không bao giờ về nữa thì cô ấy sống bằng gì? Còn gánh nặng gia đình của nó nữa, thật sự, tôi chẳng có hy vong gì thoát khỏi nơi này!
Thấy câu chuyện trở thành kém vui, Nguyệt đổi hướng:
- Anh Tuấn kỳ này sang Mỹ gặp "bà" Ngọc thế nào cũng có chuyện lôi thôi.
- Tôi nghĩ là Tuấn không cố tìm để gặp lại đâu, vì làm như vậy chỉ thêm đau lòng.
Nguyệt không giấu nổi cay cú đối với Ngọc:
- Bà ấy thật tệ, đi được là không thư từ với ai nưa, Nguyệt biết bà ấy quá, nhưng "ông" Tuấn ngu thì ráng mà chịu!
- Tôi thấy Tuấn cũng có vẻ thông cảm với chị ấy mà.
- Bề ngoài ông ấy tỏ ra bất cần, nhưng Nguyệt biết, còn cay lắm!
Câu chuyện xoay quanh vợ Tuấn, Nguyệt có vẻ cay cú không kém gì Tuấn. Chắc trong những ngày sống chung đã có ít nhiều sóng gió trong gia đình.
Thấy ngồi đã lâu, Thạch đứng dậy ra vè, qua mẩu sân xi măng trước nhà, Thạch ngước nhìn giàn hoa:
- Nhà cô Nguyệt có giàn hoa đẹp quá!
Nguyệt cười, để lộ chiếc răng hơi khểnh ở phía bên trái:
- Bố em trồng đấy, bố em rất thích hoa, ông cụ chỉ ao ước có một khu đất rộng để trồng đủ loại hoa.
Thạch nghĩ thầm, trong vườn hoa của cụ, hoa đẹp nhất vẫn là hoa Nguyệt.
Đi được một quãng, khi đến chỗ gần quẹo, Thạch nhìn lại, thấy Nguyệt vẫn đứng trước cổng nhìn ra ngoài, màu áo tím nàng mặc xen lẫn màu xanh của lá cây và màu đỏ của mấy bông hoa đang rung rinh trước gió.
Thạch hiểu, trong hoàn cảnh của chàng, Thạch không nên có những ý tưởng viển vông. Chàng cố xua đuổi hình ảnh Nguyệt trong trí, cắm cúi đạp xe.
- Thạch!
Thạch giật mình quay lại, nhận ra ngay Vận đang ngồi một mình trong quán cà phê bên đường:
- Đi đâu mà tất tả vậy? Vào đây?
Thạch dựng xe đạp cạnh gốc me bên đường, bước lại gần Vận:
- Bộ mới được về hả?
Vận ngước mắt nhìn Thạch qua cặp kính cận hơi trệ xuống:
- Mới về được một tháng, vừa lo xong giấy tờ tạm trú, hôm nay là ngày đầu tiên được rảnh ra đây thưởng thức lại cuộc đời.
Vận còn rất trẻ mặc dầu đã ở sáu, bảy năm trong tù, Vì Vận mới ra trường thì "đứt phim". Trong thời gian ở tù Vận đã chịu nhiều sự đắng cay chỉ vì cái kính cận của mình. Có lần đang xếp hàng để vào trại sau khi đi lao động về, Vận bị tên trực trại gọi ra "dũa" thê thảm chỉ vì hắn nghĩ là Vận nghinh hắn, sau đó hắn bắt Vận phải bỏ kính không cho đeo nữa. Khốn nỗi, bỏ kính ra Vận chỉ là tên mù không đi đứng làm ăn gì được nên cuối cùng, Vận được phép đeo kính lại nhưng vẫn bị ghét, bị trù.
- Thằng Tuấn đi lọt rồi mày biết không?
- Vậy hả, thằng đó bị vợ bỏ nhưng coi bộ hậu vận lại khá.
- Còn mày, có tính gì không?
Thạch nói giọng buồn buồn:
- Tao thì vô vọng, đang ăn bám vào con em làm sao đi nổi, nếu sau này có ai mướn mày làm hoa tiêu mày xin cho tao một chỗ thì may ra, cựu sĩ quan hải quân coi bộ đắc dụng trong thời buổi này, ít nhất cũng có thể đi được mà không phải mất tiền.
- Tao mới về thành ra chưa biết gì cả, nhưng nếu có cơ hội thì tao sẽ rủ mày cùng đi. Sao về cả năm rồi, đã kiếm được em nào sẵn sàng bao bọc cho chưa?
- Cái đó bây giờ khó đấy, ai cũng sợ lập gia đình cả, một thân một mình còn sống không nổi, vợ con vào nữa có nước lôi nhau xuống hố luôn.
Cô gái bán hàng mang hai tách cà phê và một bình nước trà đến, có lẽ nàng nghe được câu cuối cùng hai người nói với nhau, Thạch thấy nàng hơi mỉm cười nhưng cố lấy lại vẻ tự nhiên ngay, chàng chỉ Vận, nói đùa với cô gái:
- Bạn tôi đang tìm việc làm, nếu cô cần người bưng cà phê thì cho hắn một chân.
Cô gái liếc Vận, nở nụ cười tinh nghịch:
- Bưng cà phê thì em cần, nhưng em lại không muốn xuống hố, thôi để em bưng lấy vậy...

Thạch thân,
Lâu nay không viết thư cho mày vì tao bận nhiều việc quá. Tao quyết định đi học lại, cuộc đời mình chẳng còn gì và cũng chẳng làm được gì cho nên chquyện, nếu không đi lọc lại.
Tao không đi tìm Ngọc. Nhưng trời xui đất khiến nên tình cờ gặp lại, bắt chước thái độ "quân tử Tàu" của mày, tao đã không nói tiếng nào và người ấy cũng chẳng tỏ ra ân hận hay hổ thẹn gì! Thành ra, nói thật với mày, tao vẫn ấm ức trong lòng, nhưng tất nhiên là không có vụ "tái hồi Kim Trọng" rồi.
Xã hội nhỏ bé của người mình bên này cũng có những điểm đáng vui nhưng nhiều điểm đáng buồn, nếu viết ra đây mày nghĩ là tao thiên kiến, mặc cảm do việc bị vợ bỏ nên nhìn đời một cách lệch lạc, thành thử tao mong có dịp gặp mày ở đây để cùng nhau "chiêm nghiệm".
Mặc dầu đi học, tao vẫn đi làm thêm, để có chút quà biếu gia đình và bạn bè.
Ở bên này mà không giúp gì được cho người thân thì cũng đáng buồn.
Tao hy vọng ở tương lai vậy.
Bạn của mày,
Tuấn.
Sau khi đọc xong lá thư của Tuấn do Nguyệt mang lại, Thạch bỏ lá thư xuống bàn, nhìn Nguyệt:
- Tưởng tượng hai ông bà gặp nhau mà làm bộ xa lạ, buồn cười nhỉ?
- Cái đó là cười ra nước mắt!
- Cô có tính vượt biên không?
- Một ngày nào đó em sẽ phải quyết định, nhưng bây giờ thì chưa.
Thạch trêu chọc:
- Chắc còn vương vấn tình cảm với chàng nên không đi nổi chứ gì?
Nguyệt liếc mắt rất sắc:
- Anh thật...
Nguyệt bỏ dở câu nói nhìn ra ngoài cửa, rồi không hiểu nghĩ sao, đột ngột đứng lên:
- Thôi, em xin phép anh, em phải về để còn đi chợ...
Thạch cũng đứng lên theo:
- Cảm ơn Nguyệt, nếu viết thư cho Tuấn, xin nói tôi gửi lời hỏi thăm, tôi sẽ viết thư sau.
Nguyệt đã đi về, Thạch vẫn ngồi ở chỗ cũ rất lâu. Những hình ảnh của Tuấn, nhất là của Nguyệt, cách đây mười năm, bỗng sống lại thật mãnh liệt trong ký ức.
Nguyệt với tuổi mười ba và mái tóc bắt đầu óng ả, ngồi vẽ những bông hoa hồng, hoa cúc, trên trang đầu của một tập vở nhưng rồi không viết nổi mấy chữ "lưu bút ngày xanh" vừa ý, đành phải cầu cứu Thạch.
Thạch có chút tài vụn viết mấy kiểu chữ, và chàng đã để lại không biết bao nhiêu nét bút trên tập vở của Nguyệt. Mỗi khi Thạch đến, Nguyệt không nhờ làm hộ cái này cũng cái khác. Tuấn nhiều khi bực mình vì cô em làm phiền bạn, nhất là những lúc đang định rủ Thạch đi nơi nào đó chơi, đã la rầy Nguyệt.
Những nét chữ ấy trên những trang giấy chàng viết ngày xưa Nguyệt còn giữ không, nếu không còn nữa, nó có để lại vết tích gì trong tâm hồn Nguyệt?
Thạch nhớ có một lần Nguyệt trèo lên cái ghế đẩu ngắt mấy bông trên giàn hoa giấy ở trước cửa nhà, luống cuống thế nào đã ngã nhào xuống, Thạch đứng gần đấy phải chạy lại đỡ. Cái cảm giác va chạm vào thân thể Nguyệt khi xốc nàng đứng lên đã khiến Thạch ngây ngất, và đến bây giờ cảm giác ấy còn sống động. Nguyệt lúc đó cũng đã biết thẹn thùng nên mặc dầu rất đau nàng vẫn cố nở nụ cười.
Hình ảnh Nguyệt của những ngày thơ ấu đã trở về chiếm trọn tâm hồn Thạch, bất giác Thạch thở dài, hoàn cảnh chàng bây giờ không cho phép Thạch nghĩ về nàng. Có thể Nguyệt đã yêu một người nào đó, mà Thạch chỉ được coi như một ông anh trong cuộc sống tình cảm của nàng.
Hơn nửa, Thạch không còn gì, mọi con đường trước mặt đều là đường cùng, và tất nhiên Thạch không có quyền lôi Nguyệt vào cái hỏa ngục đời mình.
Thạch đang ngồi xem mấy tấm ảnh cũ chụp ngày còn đi học thì cô em gái đưa cho cái giấy báo của phường, trong đó nói, chàng phải thu xếp trong vòng một tháng để đi kinh tế mới ở Tây Ninh. Thạch đón nhận tin buồn một cách hờ hững.
Chuyện này chàng biết là nó sẽ đến. Hơn nữa, đó cũng là cách giúp Thạch giải quyết vấn đề tình cảm một cách dứt khoát.
Xa hẳn Sài Gòn, xa hẳn kỷ niệm với Nguyệt, với Tuấn, và với tất cả mọi người, sống cuộc đời với cái cuốc trên tay, ngày hai bữa bo bo, khoai sắn, rồi già, rồi chết...mọi chuyện kể như xong!
Thạch chẳng có gì để thu xếp thành thử một tháng đối với chàng quá dư thừa, hành trang cho ngày đi là mấy bộ quần áo, một cái nồi nhỏ, một đôi đũa và một cái bát, y hệt hành trang của người đi cải tạo mà chàng mang cách đây sáu bảy năm, có khác chăng là hồi đó áo quần còn tươm tất hơn và còn chút đỉnh tiền nong trong người.
Trước khi đi Thạch đến chào bố mẹ Nguyệt và nàng. Nghe tin, Nguyệt sửng sốt:
- Trời ơi! sao anh lại đi?
Thạch cười khô héo:
- Không đi thì làm thế nào?
- Anh cứ ở lại đại, họ không làm gì được đâu, biết bao nhiêu người bị ép buộc đi nhưng người ta ở lì, rồi cũng xong. Anh đã ký giấy tờ gì chưa?
- Chẳng có ký gì cả, nhưng nó cũng đâu có cần mình ký.
- Trước đây, nhà em bị ép buộc phải ký giấy tình nguyện đi kinh tế mới, bố em liều luôn, nhất định không ký, rồi cũng thế thôi.
- Nhưng cô nhớ là bác khác anh khác, anh mới đi tù về.
- Chẳng khác gì cả, vì chẳng lẽ cho đi tù hết. Hơn nữa, anh mới được về, nhốt lại ngay coi sao được, người nào họ cũng làm thế thì lấy chỗ nào mà chứa.
Bố mẹ Tuấn cũng hết sức khuyên Thạch không nên đi, ông cụ quả quyết là chàng sẽ không bị bắt lại, lý do rất đơn giản là mới được thả về, nếu muốn an toàn hơn thì đút lót cho họ chút đỉnh.
Nghe nói đến đút lót, Thạch cười buồn:
- Nhưng cháu có gì đâu mà đút lót.
- Cái đó thì cậu không lo, chúng tôi sẽ giúp cậu.
Thấy thái độ sốt sáng của gia đình Nguyệt, Thạch càng buồn hơn:
- Cháu chẳng dám làm phiền hai bác.
Ông cụ có vẻ hơi giận:
- Có gì đâu mà phiền, tôi coi cậu như thằng Tuấn, tôi bỏ ra chút đỉnh thôi, chẳng đáng gì.
Nguyệt đang nghe Thạch nói chuyện với bố mình, thấy thái độ của Thạch cương quyết từ chối sự giúp đỡ, nàng quay mặt di vào nhà trong.
Ra khỏi nhà Nguyệt, Thạch đi lang thang cốt cho qua thì giờ, đến khi về đến nhà thì trời đã sẩm tối. Em gái Thạch thấy anh về, chạy ra:
- Anh Vận nhắn anh đến gặp anh ấy ngay, có chuyện gấp lắm, hình như anh ấy gần đi và rủ anh đi cùng.
Vừa nghe xong Thạch lại vòng xe ra, đạp đến nhà Vận, đúng lúc Vận đang dắt xe ra ngoài:
- Mày chuẩn bị gấp, thuyền còn một chỗ trống nên người ta cho tao thêm một người, dự định ngày mốt sẽ đi. Bây giờ mày về chờ ở nhà, tao phải đi có chút việc cần ngay bây giờ, khi nào tao đến đón thì mày đi, nhớ đừng đi đâu trong ngày đó.
Nói chuyện với Thạch mấy câu rồi Vận đi, Thạch trở về nhà lòng chứa chan hy vọng. Thạch đang ở trên bước đường cùng, đang lâm vào thế bí, biết đâu ông trời nhìn lại...
Hai tháng sau, Nguyệt đột ngột nhận được lá thư của Thạch từ Mã Lai gửi về.
Nguyệt,
Anh mong rằng những kỷ niệm thời thơ ấu sẽ giúp em cảm nhận được những gì anh muốn viết ở trong lá thư này, vì anh cảm thấy bất lực khi muốn diễn tả những điều mình thật sự muốn nói.
Một dịp may đã đến nên anh đã đi và đến được bến bờ tự do, đây là niệm hạnh phúc lớn lao mà anh không bao giờ dám mơ ước, chắc em cũng biết anh chẳng có một xu dính túi để lo vụ vượt biên.
Bây giờ anh đang ân hận vì trước khi đi đã không đến chào hai bác và Nguyệt, nhưng làm như vậy sao được khi trong lòng anh cũng không thực sự tin là mình được đi, chứ chưa nói đến việc có đi được hay không. Hơn nữa, anh rất "sợ" gặp em, nhất là trong hoàn cảnh bi đát của đời mình. Thú thật mổi khi gặp em trở về nhà, anh không thể q quên được em, và những kỷ niệm ngày xưa lại trở về, rực rỡ hơn bất cứ lúc nào, trong cái ký ức nhỏ bé của anh nhưng lại chứa quá nhiều hình ảnh của em.
Nếu còn ở Vệt Nam anh sẽ không bao giờ dám viết những điều trên đây, vì anh không có quyền lôi kéo ai vào cái địa ngục của đời mình.
Nhưng oái oăm thay, khi có thể nói, thì lại ở quá xa nhau, nhưng dù sao cũng phải nói với người đã thắp ngọn đuốc rực sáng tình yêu trong trái tim mình, ít nhất một lần trong đời để rồi sẽ không phải ân hận về việc đã không nói lên điều tha thiết nhất mà mình muốn nói.
Nếu những điều anh viết trên đây có làm phiền em thì xin em tha lỗi, và kể như không có lá thư này. Nhưng anh vẫn hy vọng.
Thạc
Bụi hoa giấy
Ngày thằng Đính về sống trong khu vực này, chỉ có một mình gia đình nó là người Việt nên nó hầu như không có bạn. Thỉnh thoảng có vài thằng Úc con đến gạ chơi với nó thì nó lại không hiểu mấy thằng đó nói gì. Thành ra chơi chung với nhau được một lúc là nó chán, chạy về mở ti vi ra coi. Hai mẹ con nó mới vượt biên qua đây được mấy tháng, lại trúng ngay vào lúc đang nghỉ hè nên nó cũng không học được câu tiếng Anh nào. Nó chỉ biết một tiếng duy nhất là "hello" do mẹ nó dạy, thế là hết! Có ai hỏi gì thêm nó chỉ cười rồi lảng ra chỗ khác.
Nhưng trời vẫn còn thương nó, nên một ít lâu sau có một con bé nữa, con Quyên, cũng có hai mẹ con như gia đình nó ở đâu dọn đến, chỉ cách nhà nó có một đoạn đường ngắn. Vậy là nó bắt đầu có bạn, một đứa bạn gái.
Ngày còn ở Việt Nam nó không bao giờ chơi với mấy đứa con gái. Tụi nó không chịu đi chơi xa, lại chơi những trò mà thằng Đính không chơi được hay chơi rất vụng. Đã vậy, tụi nó còn hay giận, hơi một tí là: "Tao không chơi với mày nữa!", nghe ứa gan!
Nhưng ở đây dù muốn dù không nó vẫn phải chơi với con Quyên, còn ai nữa đâu mà chọn. Hơn nữa, con Quyên cũng dễ mến. Hôm nhà nó mới dọn xuống đây, thấy nó, con Quyên chạy lại ngay, nói: "Mày cho tao chơi với!". Vậy là từ lúc đó hai đứa trở thành bạn.
Con Quyên thường rủ thằng Đính sang nhà nó chơi vì nhà nó rộng hơn. Vả lại, mẹ con Quyên bận may quần áo, suốt ngày bà lúi húi làm việc với cái máy may ở phòng bên cạnh, để mặc cho con Quyên muốn làm gì thì làm, nên hai đứa được tự do đùa nghịch.
Thường thường hai đứa ngồi coi ti vi với nhau. Có khi hai đứa cùng nằm trên thảm, ngóc đầu nhìn cái ti vi đặt trên cái kệ ở góc phòng. Con Quyên thường thích xem phim hoạt họa hay phim hài hước. Thằng Đính thì lại thích xem phim có đánh nhau. Thành thử có khi hai đứa giành nhau mở ti vi. Và cuối cùng thằng Đính phải nhường con Quyên vì dù sao cũng là ti vi của nhà nó.
Có lần con Quyên nhìn thấy cảnh một đôi trai gái làm tình trên màn ảnh, nó chỉ thằng Đính:
- Mày thấy không, phim này người ta cũng đánh nhau.
Thằng Đính nghe nói tức cười quá, chọc nó:
- Mày "quê" vừa thôi, người ta làm chuyện người lớn mà mày nói là đánh nhau!
Con Quyên vẫn không chịu thua:
- Mày banh mắt mày ra xem có phải người ta đánh nhau không? Đấy, đấy, mày thấy chưa?
Đến nước này thì thằng Đính đành chịu thua nó:
- Thôi, phải rồi! Người ta đánh nhau đó, đánh nhau kiểu này chắc người ta muốn đánh nhau hoài!
Thằng Đính hơn con Quyên đến ba tuổi nên nó rành rẽ hơn. Hơn nữa, là con trai nó hay đi theo mấy người lớn nghe họ nói chuyện, nhất là đi coi "video cọp" khi còn ở bên đảo, nó biết nhiều cảnh còn động trời hơn thế nữa nhưng những cảnh ấy người ta không chiếu trên ti vi. Nó nhớ lại lần đầu tiên khi thấy những cảnh ấy nó cũng tưởng là người ta đánh nhau, sau nghe mấy người lớn nói nó mới hiểu.
Thằng Đính kéo tay con Quyên:
- Thôi ra ngoài vườn chơi, mày!
Con Quyên lưỡng lự một lúc rồi cũng đi theo thằng Đính ra ngoài. Khi ra đến cửa con Quyên mới sực nhớ ra là chưa tắt ti vi nên nó chạy trở lại vào phòng.
Bên ngoài, bầu trời rất xanh, nắng rực rỡ chiếu xuống khu vườn nhỏ bé, long lanh trên những lá cây đang giao động vì gió. Cái giá để phơi quần áo ở giữa vườn bị gió thổi cũng quay chậm chạp như một cái đèn kéo quân mà những tên lính là những quần áo mẹ con Quyên phơi ở trên đó. Thằng Đính nhìn thấy những cái váy hoa và quần áo của con Quyên mà nó thường mặc cũng đang phơi bị gió thổi bay phất phới.
Con Quyên đã chạy ra đứng đàng sau lưng nó, thấy thằng Đính đang đứng nhìn nên hỏi:
- Mày nhìn gì đó?
- Mày có thấy cái kia giống cái đèn lồng không? Cái đèn lồng có hình người đi, có xe chạy mỗi khi người ta đốt lên vào tết Trung Thu ấy mà. Mày có bao giờ thấy cái đèn lồng không?
- Thấy, tao thấy cái đèn lồng thường treo trước cửa hàng của chú Thìn trong xóm tao hồi xưa, nhưng tao đâu có thấy cái này giống cái đèn lồng. Đèn lồng đẹp lắm, không có như vậy đâu!
Thằng Đính tức mình, tại sao nó thấy mà con Quyên không thấy. Nó vừa nói vừa lấy tay chỉ:
- Mày nhìn đây này, cái kia cũng có góc có cạnh, cái đèn lồng cũng vậy, mấy cái áo quần trên đó là mấy tên lính nó đang chạy thôi.
Con Quyên cãi:
- Đèn lồng có cái tròn, không phải cái nào cũng có góc cạnh hết.
- Tao có bảo cái này là cái đèn lồng không? Tao nói nó giống vậy thôi!
Con Quyên không nói nữa. Thằng Đính cũng chán nên nó im luôn. Lúc sau nó rủ con Quyên:
- Tao với mày ra ngồi ghế xích đu.
Vừa nhắc đến ghế xích đu là con Quyên lao ra, mới ngồi xuống là nó đẩy cái chân cho cái ghế đong đưa rồi nó ngả người ra phía sau, mái tóc của nó xõa xuống đưa qua đưa lại. Rồi không biết vì quá đà hay sao đó nó ngã lộn xuống, bò lồm cồm dưới mặt đất. Thằng Đính hoảng hồn chạy lại đỡ nó:
- Mày có sao không?
Thằng Đính thấy mắt con Quyên mọng nước, biết nó sắp khóc, nên hỏi:
- Mày đau chỗ nào, đưa tao coi.
Con Quyên vẫn không trả lời nó, cúi xuống vén váy cao lên quá đầu gối, phủi hết đất dính ở đấy. Thằng Đính chỉ thấy hơi bị trầy.
- Không sao đâu, tao bị trầy đầu gối là thường, mày chỉ bị trầy chút xíu ăn nhằm gì!
Con Quyên tức mình vì thằng Đính nói không sao, làm như nó làm bộ không bằng. Có giả bộ, làm nũng, thì chỉ làm với mẹ nó thôi chứ với thằng Đính thì làm nũng để làm gì. Nó hét lên:
- Kệ tao, không việc gì đến mày!
Thằng Đính đang cúi xuống nhìn vào cái đầu gối bị trầy của con Quyên, ngạc nhiên đứng lên nhìn lại con Quyên. Mấy đứa con gái thường kỳ cục như vậy, khi không lại hét lên làm như bà nội người ta! Mà như vậy cũng đáng kiếp, ai bảo cái gì cũng giành giật, làm như ăn được không bằng!
Tuy nghĩ thế, thằng Đính vẫn không dám nói ra. Vì nó biết nếu nó nói như vậy thế nào con Quyên cũng nghỉ chơi với nó, rồi lại mất công làm lành.
Vừa lúc ấy thì mẹ con Quyên cũng ở trong nhà bước ra vườn. Bà hỏi:
- Hai đứa làm gì ở ngoài này mà cãi nhau vậy?
Con Quyên thấy mẹ ra, nó bắt đầu khóc. Thằng Đính không hiểu tại sao con Quyên lại khóc được khi vừa thấy mẹ nó. Nó làm như đóng kịch không bằng. Con này mai mốt đóng kịch con hay hơn cả Kim Cương!
Mẹ nó thấy nó khóc, hỏi thằng Đính:
- Tại sao nó khóc, Đính?
- Nó ngã từ trên xích đu xuống, bác ơi!
Mẹ con Quyên chạy lại, bà cúi xuống quan sát tay chân nó. Khi thấy không có gì, bà bảo:
- Thôi vào rửa tay chân, mặt mũi đi. Cái mặt dơ hầy! Rồi thay quần áo nữa, nghe chưa?
Thằng Đính cũng theo con Quyên vào nhà, nhưng khi thấy mặt con Quyên bí xị, làm như còn giận nó, nên nó lẻn ra về.
Khi về đến nhà nó thấy mẹ nó đang ngồi ở phòng khách nói chuyện với chị Ngoạt, người cùng quê với nó. Đã mấy tháng nay nó không nhìn thấy chị. Hôm nay chị đến chơi nó thấy khác hẳn hồi còn ở Việt Nam. Chị mặc quần áo đẹp lắm vì nghe chị nói rất đắt tiền. Nó không ngờ chị sang đến như vậy. Cái mái tóc của chị thì nó không thấy đẹp nữa, vì chị nhuộm màu hơi vàng, giống như những người có tóc bị cháy vì đi nắng lâu ngày mà không đội nón.
Thằng Đính ngồi nhìn hoài quần áo và mái tóc của chị Ngoạt. Nó không thể tưởng tượng nổi, chị Ngoạt bán xôi ở đầu xóm ngày xưa, bây giờ đang ngồi trước mặt nó. Cũng may là nó gặp chị ở nhà nên nó mới nhận ra. Chị Ngoạt thấy nó nhìn mình hoài nên quay lại hỏi:
- Mày thấy quần áo tao mặc có đẹp không?
Thằng Đính nghe hỏi lúng túng không biết trả lời thế nào, cuối cùng nó đáp liều:
- Tôi thấy ngộ ngộ!
Chị Ngoạt quay sang mẹ thằng Đính:
- Bữa nào em dẫn chị đi mua bộ quần áo như em đang mặc, dạo này nó đang "sale", rẻ lắm. Mình phải ăn mặc cho hợp thời trang chị à!
Mẹ thằng Đính cười:
- Thôi tôi già rồi, mặc vậy ai mà coi cho được, các cô còn trẻ thì không nói làm gì. Vả lại, tôi nói cô đừng buồn nghe, tôi thấy ăn mặc như vậy cũng không có gì là đẹp lại tốn tiền quá. Mình liệu sống cho hợp hoàn cảnh của mình, cô à!
Thằng Đính thấy chị Ngoạt làm như không vui khi nghe mẹ nó nói nên chị nói sang chuyện khác. Còn mẹ nó thì hình như chỉ ậm ừ nhiều hơn là nói. Nó cũng hơi ngạc nhiên. Mẹ nó cũng đâu có phải là người ít nói gì mà hôm nay nó chỉ thấy bà ngồi nghe, thỉnh thoảng mới nói chêm vào một hai câu.

Gặp chị Ngoạt thằng Đính lại nhớ đến lão Tròm ở cuối xóm. Lão có vợ con rồi vậy mà lão còn "cua" được chị Ngoạt. Tối tối lão thường hẹn hò với chị ở nghĩa địa Hồi giáo, gần ngã năm Chuồng Chó. Lão Tròm với chị làm ăn thế nào mà chuyện đổ bể, tụi con nít trong xóm biết hết, nên khi thấy lão Tròm đi là mấy thằng trong xóm đi theo rình. Sáng hôm sau tụi nó lại kể cho những đứa không đi được nghe. Thằng Đính hồi ấy còn quá nhỏ nên không đi theo được chỉ nghe mấy thằng lớn nói lại. Đúng ra thì hồi ấy nó nghe mà không hiểu rõ. Khi qua đến bên đảo, mỗi khi có chiếu video- người- lớn nó chạy theo nhìn lén, nên mới biết được tại sao hồi xưa lão Tròm và chị Ngoạt lại rủ nhau vào bãi tha ma tối hù, trong khi ngoài đường đèn sáng trưng thì lại không đi.
Nghĩ đến chuyện ấy thằng Đính cứ nhìn chị Ngoạt hoài. Bỗng chị quay lại nhìn nó rồi hỏi:
- Bộ mày thấy tao lạ lắm sao mà nhìn hoài vậy, Đính? Thằng này dạo này lớn xộn rồi!
Rồi chị quay sang nói với cả mẹ thằng Đính:
- Mai mốt lớn nó đẹp trai, à! Ở đây mà không đẹp trai và học giỏi là ế vợ. Mày liệu mà học!
Thằng Đính nghe nói đến lấy vợ nó đỏ mặt, chạy ra ngoài cửa đứng nhìn ra ngoài. Nó mang máng lo sợ một ngày nào đó con Quyên cũng sẽ lại bắt chước chị Ngoạt. Lúc đó chắc nó nghỉ chơi với con Quyên luôn.
Nó vừa nghĩ đến con Quyên thì con bé cũng đang đi về phía nó. Con Quyên mới tắm rửa xong mặc bộ quần áo mới, mái tóc chải gọn ghẽ lại buộc ở phía sau nhìn như cái đuôi. Mỗi khi nó đi chùm tóc phía sau lại tưng lên.
Thằng Đính không muốn chị Ngoạt nhìn thấy con Quyên, nên nó chạy về phía con Quyên chận nó lại:
- Sang nhà mày chơi, nhà tao đang có khách.
Con Quyên dùng dằng:
- Nhưng tao muốn chơi ở bên nhà mày.
- Chút xíu nữa sang nhà tao, giờ thì sang vườn nhà mày, tao chỉ cho cái tổ chim ở trên ngọn cây hoa tím ở cuối vườn, lúc nãy tao đã định chỉ cho mày rồi nhưng chưa kịp thì mày ngã trên xích đu xuống khóc um sùm.
Con Quyên đang đi, đứng hẳn lại nhìn thằng Đính, nó ghét thằng Đính hay nói cái điệu hàm hồ:
- Tao khóc hồi nào mà mày nói tao khóc um sùm. Thôi tao không chơi với mày nữa!
Thằng Đính hoảng hồn. Nó cũng nhận ra ngay là mình nói bậy
- Thôi mà, không chơi, không chơi hoài!
- Thế lần sau mày không được nói xấu tao nữa, nhé?
Thằng Đính gật đầu:
- Ừ, tao không nói nữa
Thế là hai đứa trở lại khu vườn nhà con Quyên. Lần này thì con Quyên không còn giành cái xích đu nữa. Nó đứng nhìn thằng Đính đang ngồi đong đưa trên đó.
- Sao mày nói mày chỉ cho tao tổ chim ở trên cây mà mày không chỉ?
Thằng Đính sực nhớ ra câu nói xạo của mình, nó hơi lúng túng, nhưng cuối cùng nó cũng tìm ra được cách nói dối:
- Gần tối chim mới về, mày có thấy cứ buổi chiều thì chim về đậu trên ngọn cây không? Lúc đó mới có tổ.
Con Quyên nghe thằng Đính nói nó không hỏi nữa, vì nó cũng thấy trước khi mặt trời lặn thì chim có về đậu trên cành cây đó thật. Nhưng giờ đó thì nó lại không ra ngoài vườn được vì mẹ nó không cho ra. Bà nói buổi tối ở ngoài vườn nhiều muỗi nên phải chơi trong nhà. Thành ra điều thằng Đính nói cũng như không, có chim mà không bắt được.
Thằng Đính và con Quyên chơi cho đến khi mẹ con Quyên gọi nó vào ăn cơm thằng Đính mới trở về nhà mình.
Khi nó về thì không thấy chị Ngoạt đâu nữa. Nó hỏi mẹ nó:
- Chị Ngoạt về rồi hả mẹ?
- Ừ về rồi, mà mày đi tắm đi rồi còn ăn cơm. Sau đó phụ mẹ dọn dẹp cái phòng bên một chút, ngày mai người ta dọn đến rồi.
Thằng Đính ngạc nhiên đứng nhìn mẹ:
- Mẹ nói ai dọn đến? Bộ có người đến ở chung với mình hay sao?
- Ừ, cho người ta ở chung cho vui, với lại họ chia tiền thuê nhà với mình, chứ một mình mình thì tiền đâu mà trả tiền thuê nhà?
- Ai đấy mẹ?
- Thì ai nữa, con Ngoạt vừa rồi nó đến xem phòng rồi mai nó dọn đến. Nó ở phòng bên đó, mẹ con mình ở phòng bên này.
- Sao mẹ không gọi người khác lại gọi chị Ngoạt làm chi vậy?
Mẹ thằng Đính ngạc nhiên nhìn nó:
- Bộ mày không thích chị Ngoạt?
Thằng Đính không biết trả lời sao, đành nói:
- Thôi, ai cũng được!
Thằng Đính đang ngồi chơi với chiếc xe chạy bằng pin ở trước nhà thì chị Ngoạt về. Dạo này chị Ngoạt đã có bồ nên mỗi khi đi đâu anh ấy lại đến đón rồi đưa về tận nhà.
Anh bồ của chị Ngoạt nghe chị gọi tên là Tuyên, còn rất trẻ, trẻ hơn chị ấy nhiều. Nó không biết nó nghĩ như vậy có đúng không, vì nó chỉ so sánh lão Tròm với anh Tuyên thì hai người chắc chắn tuổi tác chênh lệch nhiều, mà chị Ngoạt đã là bồ của lão Tròm thì chắc chẳng còn trẻ gì!
Từ khi thằng Đính sang bên này nó cứ nghe người ta nói đàn ông ế vợ vì thiếu đàn bà, con gái. Có người còn khuyên nó ráng học giỏi chứ không mai mốt sẽ ế vợ vì các cô bên này kén chọn lắm. Bây giờ thì nó thấy những điều người lớn nói có lẽ đúng thật. Vì nếu không sợ ế chắc chẳng bao giờ anh Tuyên lại đi cặp với chị Ngoạt. Nhìn chị Ngoạt nó cứ nghĩ là chị sẽ ế chồng chứ đâu ngờ có một anh đẹp trai như anh Tuyên chạy theo. Hay thằng cha đó cũng cà chớn chứ người như chị Ngoạt thì mê nỗi gì!
Thằng Đính đứng lên tránh chỗ cho anh Tuyên và chị Ngoạt vào nhà. Hai người thường ít khi ngồi ở phòng khách. Mới vào đến phòng ngủ là thấy đóng cửa ngay. Nhiều khi thằng Đính nghe tiếng cười đùa từ trong phòng vọng ra. Nó lấy làm thích thú nhưng mẹ nó thì có vẻ khó chịu. Thỉnh thoảng bà lại nhăn mặt nhưng không nói gì. Những lúc như vậy hình như bà muốn tránh mặt. Bà đi sang nhà con Quyên ngồi nói chuyện với mẹ nó hoặc đi ra phố mua mấy món lặt vặt.
Hôm nay đúng như thằng Đính nghĩ, mẹ nó lại bỏ đi. Khi đi ngang chỗ thằng Đính ngồi, bà nói với nó:
- Con ngồi đây trông nhà, mẹ ra ngoài phố một chút. Hay con có đi với mẹ không?
- Thôi con không đi đâu, mẹ đi đi!
Thằng Đính không thích ra ngoài phố, đúng hơn nó không thích đi bộ. Nếu mẹ nó có xe thì đi đâu nó cũng đi. Đằng này đi đâu mẹ nó cũng đi bộ. Nếu đi xa thì bà nhảy lên xe lửa. Nhưng đằng nào cũng phải đi bộ ra ga thành thử nó không thích đi với mẹ nó. Chẳng thà ở nhà mở ti vi xem hay chạy sang nhà con Quyên còn thích hơn.
Khi mẹ nó đi rồi thằng Đính đóng cửa lại rồi vào nhà. Nó ngồi ở phòng khách, mở ti vi ra xem. Không có phim nào hay nhưng nó vẫn ngồi xem vì không biết làm gì nữa!
Phòng ngủ bên chị Ngọat vẫn có tiếng động và tiếng thì thầm khi lớn khi nhỏ. Nó vặn nhỏ ti vi để nghe tiếng động phòng bên nhưng nó không nghe được gì hết.
Một lúc sau cửa phòng xịch mở, cả hai anh chị cùng đi ra. Thấy thằng Đính ngồi coi ti vi câm, chị Ngoạt hỏi:
- Sao mày không mở lớn lên mà nghe?
Nó sợ chị Ngoạt biết dụng ý của nó nên nói :
- Tôi nghe cũng đâu có hiểu gì!
Anh Tuyên thì hình như hơi ngượng khi nhìn thấy nó, anh bèn kéo chị Ngoạt đi.
Còn lại một mình thằng Đính ngồi trong nhà. Nó thấy căn nhà vắng lặng quá. Bỗng dưng nó cảm thấy rờn rợn. Nó vội điều chỉnh ti vi để nghe cho lớn hơn, nhưng chỉ một lúc sau nó lại thấy sợ trở lại. Đêm hôm qua nó mới coi một phim ma trên ti vi thành ra bây giờ nó nhát. Thấy nhà không có ai là nó có cảm tưởng là có con ma đang rình rập nó trong góc phòng, trong xó tối nào đó, mặc dầu căn nhà nó ở không rộng rãi gì!
Thằng Đính chạy ra mở tung cánh cửa cho ánh sáng lùa vào và nó cảm thấy bớt sợ hơn. Vừa lúc đó thì mẹ nó cũng về. Chưa bao giờ thằng Đính cảm thấy cần mẹ bằng lúc này.
- Chị Ngoạt đi rồi hả?
- Vâng.
- Tao mà biết thế này tao gọi người khác cho chia. Nghĩ là người quen dù sao cũng đỡ hơn là người lạ. Nào dè con này nó quá tay!
Thằng Đính không biết mẹ nó phàn nàn chị Ngoạt về điều gì. Nó cũng không dám hỏi. Mẹ nó nói vậy nhưng nếu hỏi tới là thế nào nó cũng bị mắng là con nít không được hỏi chuyện người lớn. Nó để ý thì thấy hình như mẹ nó bực mình chị Ngoạt nhiều thứ lắm, từ tiền thuê nhà đến tiền điện, rồi cả vấn đề khách khứa, bồ bịch nữa.
Mấy hôm nay con Quyên giận thằng Đính thành thử nó chẳng có chỗ nào đi chơi, nhiều lần nó định chạy sang làm lành nhưng nó còn tức con Quyên. Làm lành thì nó không ngại, nhưng con Quyên làm như ngon lành lắm hơi một tí là nó giận. Đã vậy nó cho giận luôn, ít nhất cũng phải một tuần lễ nữa nó mới sang, để cho con Quyên biết, thiếu nó, con Quyên sẽ buồn như thế nào!
Thằng Đính bỗng nhớ lại ngày còn ở Việt Nam. Xóm nó vui lắm, bất cứ lúc nào nó ra đường cũng gặp bạn, không thằng này thì thằng khác, nào thằng Toàn, thằng Ánh, thằng Hùng, thằng Quân. Ôi thôi, kể sao cho hết!

Giờ này không biết tụi nó đang làm gì. Chắc tụi nó đang rủ nhau đi tạt lon, trò chơi thịnh hành nhất trong xóm nó khi nó còn ở quê nhà. Thằng Toàn, thằng Ánh, hai thằng lớn nhất thường hay đi rình lão Tròm và chị Ngoạt ở nghĩa địa Hồi giáo. Chắc tụi nó đã chuyển sang trò chơi khác vì chị Ngoạt bây giờ đang ở đây. Nếu có tụi nó chắc là chị Ngoạt khó sống yên lành, nhất là bây giờ chị có nhiều bồ.
Hồi còn ở Việt Nam nó chỉ biết chị Ngoạt cặp với lão Tròm. Chứ sang đây từ hôm chị dọn đến ở chung với mẹ con thằng Đính, nó đã thấy chị đi với hai người rồi. Chị này coi bộ đắt "khách" dữ!
Thằng Đính nhớ có lần chị Ngoạt bị vợ lão Tròm đánh ghen. Mụ túm lấy tóc chị kéo đầu xuống đập thùm thụp trên lưng, mụ vừa đánh vừa chửi. Mụ vợ lão Tròm trông gầy gò vậy mà thật khoẻ. Trong khi chị Ngoạt nhìn đẫy đà mà lại yếu hơn. Hay là tại làm bậy rồi nên không dám đánh lại người ta nữa!
Thằng Đính đang ngồi nghĩ đến mấy thằng bạn ngày xưa thì thấy con Quyên đứng trước cửa đưa tay vẫy nó. Lúc đầu nó định làm lơ, nhưng rồi thấy tội nghiệp nên cũng đưa tay vẫy lạïi. Vậy là hai đứa lại hòa. Thằng Đính liền chạy sang nhà con Quyên. Con Quyên thấy nó nhoẻn miệng cười đưa mấy cái răng sún ra:
- Sao mấy hôm nay mày không sang nhà tao chơi?
- Ai bảo mày nói nghỉ chơi với tao rồi đuổi tao về làm chi?!
Con Quyên lại cười:
- Tao tức, tao nói vậy thôi.
Nói rồi con Quyên móc túi đưa cho nó gói xí mụi:
- Mẹ tao mới mua, tao cho mày.
Thật ra thằng Đính không thích xí mụi, loại này chỉ có con gái là thích ăn. Nếu là lúc khác nó đã từ chối, nhưng vì hai đứa mới làm lành, nó không muốn con Quyên nghĩ là nó còn đang giận, nên nó cầm cục xí mụi cho vào miệng.
Vừa cho vào miệng thằng Đính đã nhăn mặt vì vị chua của xí mụi tiết ra miệng nó, nó nói với con Quyên:
- Xí mụi này chua quá!
- Tao thích chua.
- Tao thì thích ngọt.
Hai đứa đang đứng thì nghe tiếng mẹ con Quyên gọi:
- Quyên ơi!
Con Quyên nghe mẹ nó gọi chạy vào nhà, thằng Đính cũng chạy theo:
- Mẹ gọi con?
Mẹ con Quyên bảo nó:
- Con ra tắt hộ mẹ cái bếp, rồi lại đây giúp mẹ đóng thùng quà gửi về cho bà nội con.
Thằng Đính đứng nhìn mẹ con con Quyên ngồi xếp những sấp vải, sà bông và kem đánh răng vào thùng. Bà ghi cẩn thận tên người trên món quà mà bà muốn cho. Bỗng bà ngẩng đầu nhìn thằng Đính:
- Nhà cháu có gửi quà về không?
Thằng Đính ấp úng:
- Cháu không biết.
Bà không hỏi thêm gì nữa, lúi húi xếp lại mấy món quà. Thằng Đính bỗng nhận thấy con Quyên có cái mũi giống mẹ nó y hệt, cả con mắt nữa. Chắc mai mốt khi con Quyên lớn lên cũng giống như mẹ nó.
Con Quyên sau khi tắt bếp cho mẹ nó đã chạy lại phụ giúp mẹ nó xếp những gói quà vào thùng các- tông, nó dùng bàn tay nhấn xuống, nhưng có lẽ nhấn không thẳng nên cái thùng bỗng đổ xuống và đồ đạc lại rớt ra ngoài.
Mẹ con Quyên nhìn lên:
- Thôi để đấy cho tao, mày thì chẳng được tích sự gì!
Con Quyên buông tay đứng nhìn một lúc rồi đi ra khỏi phòng. Nó vẫy thằng Đính:
- Ra ngoài này chơi, sướng hơn!
Vừa ra đến ngoài cửa con Quyên lại vấp vào bậc cửa ngã xuống. Thằng Đính chạy lại đỡ con Quyên dậy. Nó thấy con Quyên nhăn mặt, sợ con Quyên lại khóc nữa, nó dỗ:
- Thôi đừng khóc, không đau đâu!
- Sao mày biết tao không đau?
Thằng Đính cụt hứng không biết nói thế nào nữa. Quả thật làm sao nó biết con Quyên có đau hay không. Nó nghiệm ra, mỗi khi nói chuyện hay cãi nhau với con Quyên, nó thường thua!
Dạo này mẹ thằng Đính mới có một ông bồ, một ông cũng trạc bằng tuổi bố nó. Một hôm bà gọi nó lại nói cho nó biết, bà muốn "bước thêm một bước nữa"- tiếng của mẹ nó dùng. Lúc đầu nó không hiểu mẹ nó muốn nói gì. Nhưng rồi mẹ nó giải thích thêm thì nó hiểu được là mẹ nó muốn đi lấy chồng một lần nữa. Nó buồn lắm nhưng không biết nói năng làm sao. Ngăn cản thì không dám, vả lại cũng tội nghiệp bà! Người ta ai cũng có chồng, mẹ nó thì không, việc gì cũng phải lo liệu lấy một mình. Nhưng nhìn người đàn ông lạ hoắc mà sau này nó phải gọi là "bố" nó cảm thấy khổ sở làm sao!
Thằng Đính bỗng nhớ đến bố nó, bố thật của nó, nó cũng thấy xa lạ không kém. Từ khi lớn lên nó chỉ nhìn thấy bố nó trong những lần đi thăm nuôi ở trại cải tạo, mà cũng cả năm nó mới gặp ông một lần. Người ông gầy gò, nước da xanh mướt. Nó không thể tưởng tượng một người như vậy mà lại là người bồng nó trong tấm ảnh chụp từ ngày nó còn bé tí. Nó có cảm tưởng đó là hai người chứ không phải là một. Vì bố nó trong tấm ảnh đẹp lắm chứ không tiều tụy như ông trong trại cải tạo đâu. Thằng Đính chỉ nhận ra một điểm rất giống là con mắt, còn ngoài ra đều khác.
Nó còn nhớ khi nghe tin ông chết mẹ nó khóc. Bà không khóc to như những người khóc khi đưa đám ma, nhưng ngày hôm đó lúc nào mắt mẹ nó cũng đỏ hoe, thỉnh thoảng bà lại hỉ mũi. Còn nó, nó không khóc được, thậm chí cũng không cảm thấy buồn, nếu có chăng là một chút hoang mang ở trong lòng. Nghĩ lại lúc đó nó cảm thấy có lỗi với bố nó.
Hôm trước ngày vượt biên, mẹ nó dẫn nó đi thăm mộ bố nó. Bà thắp vài nén nhang rồi lâm râm khấn vái. Hôm đi mẹ nó cũng khóc, nhưng một lúc sau bà trở lại bình thường.
Thằng Đính đang ngồi chơi ở trước cửa thì ông bồ của mẹ nó đến. Ông cúi xuống xoa đầu nó làm như ông thương nó lắm, nó không biết nói sao chỉ cười. Nó để ý thấy mẹ nó ăn mặc đẹp hẳn ra, mấy cái quần áo cũ trước kia mẹ nó vẫn mặc bây giờ đã bỏ đi rồi. Trước đây mẹ nó chỉ thoa phấn son mỗi khi đi ra ngoài. Nhưng bây giờ thằng Đính thấy mẹ nó trang điểm cả khi ở nhà. Nó không ngờ người đàn ông ấy lại làm mẹ nó thay đổi đến thế!
Thằng Đính liếc mắt vào trong nhà thấy mẹ nó đang nói chuyện với ông ấy, nó đứng lên đi về phía nhà con Quyên. Mỗi khi ông ấy đến là nó bỏ đi, chẳng biết nó trốn ông ta được đến bao giờ. Vì nghe nói ít lâu nữa hai mẹ con nó sẽ về ở chung với ông ấy. Còn cái nhà nó đang ở sẽ trả lại hoặc để cho chị Ngoạt ở với anh bồ của chị ấy. Chắc là như vậy, vì chẳng lẽ chị ấy ở một mình!
Vừa đến nhà con Quyên thì nó thấy một cái xe "truck" thật lớn đậu trước cửa. Mấy người đàn ông lực lưỡng đang khuân vác đồ đạc nhà con Quyên chất lên xe. Mẹ nó đang đứng trước cửa nói chuyện với một người đàn ông nữa. Nó không hề biết ông này, nhưng không hiểu sao nó nghĩ ngay đó là bồ của mẹ con Quyên, vì bà chắc cũng có bồ như mẹ nó.
Con Quyên thấy thằng Đính đến chạy ra đón bằng một nụ cười:
- Nhà tao dọn đi chỗ khác!
Thằng Đính vừa tức vừa buồn vì con Quyên có vẻ vui mừng khi thông báo cho nó tin này. Nó nhăn mặt nhưng con Quyên không để ý, vẫn bô bô:
- Mẹ tao nói đi xuống Fleminton, nhà ở dưới đó rẻ hơn. Rồi mai mốt mày lại đến nhà tao chơi nữa nhé!
Thằng Đính trợn mắt nhìn con Quyên:
- Mày có biết từ đây xuống Fleminton xa lắm không?!
- Không.
- Tao đi Fleminton với mẹ tao rồi, xa lắm! Làm sao tao có thể đến chơi với mày được. Sao mày không nói mẹ mày ở lại đây?
- Mẹ tao không chịu, hay thôi mày về nói với mẹ mày dọn xuống Fleminton như mẹ tao đi.
Thằng Đính đứng lặng người. Nó lớn hơn con Quyên nên nó hiểu. Nó và con Quyên bắt đầu xa nhau thật sự. Nó cũng sẽ đi khỏi khu vực này vì nhà nó cũng sẽ dọn, nhưng nghe đâu về dưới Bankstown chứ không phải Fleminton. Vả lại, có về cùng khu Fleminton với con Quyên chăng nữa, có dễ gì nó gặp lại con Quyên như con Quyên nghĩ.
Thằng Đính hiểu là nó mất con Quyên thật sự kể từ ngày hôm nay.
Khi mẹ con con Quyên đã lên xe, thằng Đính còn đứng tần ngần trước cửa nhà con Quyên một lúc sau nó mới trở về.
Nắng buổi chiều đổ xuống chói chang trên đường. Thằng Đính cắm đầu chạy, nhưng được một quãng nó lại đứng lại dưới một tàn cây bên đường nhìn về ngôi nhà cũ của con Quyên.
Ngôi nhà dưới ánh nắng không có gì khác so với những ngày trước. Bụi hoa giấy trước nhà vẫn nở rộ một màu đỏ thắm đang rung rinh trước gió. Nhưng thằng Đính vẫn thấy như có gì buồn, làm như ngôi nhà và cây cối cũng nhớ con Quyên như nó vậy.
Tấm ảnh màu
Không biết ai đã đặt tên cho nó là Ngộ, vì khi đủ lớn để biết rằng mình không có cha mẹ, thằng Ngộ đã nghe người ta gọi nó với tên đó rồi. Ngộ sống trong xóm này như là một đứa con của cả xóm, vì nhà nào nó cũng đã từng ăn cơm một hai bữa, ngủ một hai tối trước hiên nhà, và bà nào cũng gọi nó là con, ngọt sớt, ngon lành mỗi khi sai bảo nó làm điều gì! Phải cái xóm nghèo nên cũng không được nhờ vả bao nhiêu. Gặp khi kiếm ăn dễ dàng, thằng Ngộ cũng có bữa đói bữa no. Nhưng đến lúc khó khăn, chật vật, nó thường phải nhịn đói hay chạy lên Sài Gòn, đến trước các tiệm ăn vét chút cơm thừa canh cặn!. Một hôm thằng Ngộ đang đi thì mụ Liến gọi:
- Ngộ, lại đây biểu mày!
Khi đến gần, mụ nhìn nó từ đầu đến chân rồi nói:
- Tao hỏi thiệt, mày muốn vợ không?
Câu hỏi làm thằng Ngộ đứng chết trân, hết biết trả lời thế nào. Nó làm sao lấy vợ được, không có gì hết, bộ mụ giỡn hay sao mà hỏi kỳ cục vậy!. Thật ra thỉnh thoảng Ngộ cũng có nghĩ đến đàn bà, con gái, như một mơ ước mà nó nghĩ không bao giờ có được, Ngộ không nhớ rõ có những ý nghĩ này từ bao giờ, nhưng hình như mới đây khi nó nghe người này người khác khen nó chóng lớn. Kể cũng lạ, thằng Ngộ có ăn gì bổ dưỡng đâu mà chóng lớn, thỉnh thoảng nó có nhìn mặt nó trong gương ở tiệm hớt tóc của lão Biêng đầu xóm, mỗi khi lão ế khách thấy nó đi qua mà tóc quá dài, lão gọi vào xởn cho vài đường. Những lúc như vậy thằng Ngộ cũng thấy mình lạ lẫm, Ngộ còn nghe có người khen nó đẹp trai nữa, chẳng biết họ nói thật hay nói chơi, mấy người đó nói giỡn hoài, tin làm sao được!
- Ủa, sao tao hỏi mày không trả lời?
Nó cười ngượng ngập:
- Thôi mà, dì! Ai mà lấy tôi!
- Có người lấy thì thôi, nhưng mày phải nói cho tao biết mày có muốn vợ không đã.
Tất nhiên thằng Ngộ không thể trả lời câu hỏi cắc cớ đó, muốn lấy vợ thì quả thật là câu hỏi nó chưa từng đặt ra cho mình, nó chỉ cảm thấy thích khi nhìn mấy con nhỏ trong xóm như con Thắm, con Liễu, con nào con nấy trắng bóc!
- Ủa, sao mày đứng chết trân không nói gì vậy, mày?
- Dì nói giỡn hoài, thôi tôi có chút công chuyện phải đi. Bà Ký mới nhắn tôi tới xách nước cho bả.
- Ừ, thôi đi đi, nghĩ kỹ rồi trả lời tao, không phải giỡn đâu.
Thật ra bà Ký có nhắn đến xách nước cho bà nhưng là buổi chiều kia, nó kiếm cớ để đi nên nói đại vậy cho yên chuyện, chứ hỏi cắc cớ ai mà trả lời được! Buổi chiều sau khi đã làm xong công việc cho bà Ký, bà ấy cho nó ăn cơm và còn dúi vào tay nó mấy đồng. Làm cho gia đình khá giả cũng sướng, được ăn ngon lại còn có chút tiền tiêu vặt, còn làm cho nhà nghèo chẳng ăn thua gì, giỏi lắm kiếm được bữa cơm. Tuy vậy, nó không bao giờ từ chối ai, nếu từ chối không có ai gọi nữa là đói! Vả lại, việc nó làm cũng chẳng quan trọng gì, chỉ là những công việc lặt vặt. Ngộ ao ước lớn hơn một chút nữa để đi làm nhiều tiền hơn, như mấy anh ở gần giếng nước đi khuân vác cũng có tiền ngồi nhậu hoài, bây giờ thì chưa được, thấy mấy anh ấy vác cả bao gạo một tạ ở trên lưng mà ớn, gãy lưng như chơi, người khác bị tàn tật còn có người nuôi, nó một thân một mình có nước chờ chết chứ ai mà lo cho!
Bà Ký giàu nhất xóm, có mấy cô con gái lớn xộn, cô nào cũng đẹp, con Nga, cô con gái út của bà, chắc chỉ bằng tuổi nó là cùng, trông đẹp như tiên, nhưng thân phận nó chỉ là đứa côi cút, thất học, đâu dám mơ ước hão huyền! Chỉ có mấy đứa con nhà nghèo thỉnh thoảng có nói giỡn với nó, còn con Nga thì không bao giờ, con nhà quyền quý, đài các mà!
Mới chập choạng tối Ngộ đã vác manh chiếu ra cái chòi Nhân Dân Tự Vệ để chuẩn bị chỗ ngủ, dạo này nó hết ngủ ở hiên nhà người ta, vì lãnh luôn việc gác thế cho hết người này đến người khác, vừa có chỗ ngủ lại vừa có chút đỉnh tiền, trước đây vì nó quá nhỏ không ai cho làm, còn bây giờ thì mọi người đều bằng lòng với việc làm của nó. Có nhiều đêm trời mưa, mấy anh khác ở nhà hết, chỉ có một mình nó ngủ trên chòi, nó cũng không lấy thế làm buồn, thỉnh thoảng có lúc cũng cần yên tĩnh để ngủ, nhất là những hôm như hôm nay, xách nước nhiều quá mỏi cả hai vai. Nó không quen gánh, nếu biết gánh có lẽ đỡ hơn!
Ngộ trải cái chiếu ở một góc chòi, vừa đặt mình xuống là nó ngủ ngay. Nửa đêm, nó bỗng thức giấc, bên ngoài trời mưa gió ào ào, nước mưa theo gió hắt vào những khe gỗ rơi trúng mặt, nó lồm cồm bò dậy thu chiếu định trải ở một góc khác kín gió hơn, bỗng nó đụng phải một người khác, nhìn kỹ nó mới biết là thằng Lược, thằng này cũng gác thuê cho người ta thành ra mưa gió cũng không dám ở nhà. Lược chỉ có hai mẹ con và nghèo nhất xóm, có lẽ vì vậy hai đứa chơi thân với nhau.
Thằng Ngộ trải cái chiếu của mình song song với cái chiếu của thằng Lược, rồi từ từ đặt mình xuống. Khi mới thức giấc nó tưởng nó sẽ ngủ lại được ngay, không ngờ bây giờ thấy tỉnh táo hẳn. Bên ngoài gió thổi ào ào, những tấm tôn trên mái chòi rung lên bần bật, thỉnh thoảng có những giọt nước mưa tạt vào tận chỗ nó nằm. Ngộ cảm thấy lạnh, nó nằm xích lại gần chỗ thằng Lược hơn và thấy hơi ấm của thằng Lược truyền sang nó. Ngộ nằm như thế rất lâu mà cũng không ngủ được. Nó nghĩ đến câu hỏi của mụ Liến vào buổi sáng và nó bỗng ao ước làm người lớn, có vợ có con và có ngôi nhà để che nắng che mưa, nó nghĩ được như vậy cũng là hạnh phúc lắm rồi và không còn ao ước gì nữa!
Mãi gần sáng Ngộ mới ngủ lại được, ngủ mê man không biết gì, đến khi ánh mặt trời xuyên qua khe ván chiếu vào mắt, thằng Ngộ mới tỉnh dậy, lúc đó đường phố đã đông người qua lại, ồn ào náo nhiệt. Nó vội vàng trở dậy đi vào xóm xem ai có nhờ làm gì để kiếm bữa ăn trưa. Khi đi ngang ngôi nhà mụ Liến, Ngộ thấy mụ đang ngồi trước cửa, vừa nhai trầu vừa cầm quạt phe phảy, thấy Ngộ, mụ giơ tay vãy:
- Lại đây tao biểu.
Thằng Ngộ tiến lại gần, nó nghĩ đến câu hỏi hôm qua của mụ, mỉm cười:
- Dì gọi tôi?
- Không gọi mày thì gọi ai, bữa nay mày giúp tao xách mấy đôi nước, rồi rẫy đám cỏ phía sau, đám cỏ rậm quá nên đầy muỗi, đêm qua tao bị muỗi đốt bầm mình! Trưa và chiều nay mày ăn cơm ở đây. Tao mới mua được cái ti vi cũ, tối nay coi cải lương, mày muốn coi thì ở lại, tối nay ngủ ở đây cũng được, tao cho mày ngủ trên bộ ván này đó. Giọng mụ ngọt ngào hơn mọi hôm, mụ cũng không đả động gì đến câu hỏi hôm qua, câu hỏi ấy thỉnh thoảng nó có nghĩ đến nhưng cũng chẳng bao giờ trả lời mụ được. Ngộ cứ đinh ninh thế nào mụ cũng hỏi lại, nhưng rồi nó thấy mụ tỉnh bơ như không có gì xẩy ra.
Hôm đó Ngộ được ăn no cả sáng lẫn chiều, đêm đến còn ở lại xem cải lương, nó vừa nằm vừa coi rồi ngủ quên lúc nào không biết. Lúc thức giấc, nó giật mình thì nhận ra có người nằm cạnh nó, thằng Ngộ lồm cồm bò dậy thì thấy người nằm cạnh nó kéo nó lại. Ngộ hỏi một cách hoảng hốt:
- Ai đó?
- Suỵt, nằm xuống đi, em đây mà!
Trời ơi, con Liễu! cháu mụ Liến, thỉnh thoảng con Liễu vẫn giỡn cợt với nó, xưng mày mày tao tao, sao hôm nay nó lại xưng anh anh em em ngọt sớt, mà tại sao nó lại ngủ nhà mụ Liến tối nay, lại nhè ngủ ngay trên bộ ván với nó. Thằng Ngộ nín khe không dám cựa mình, nó nằm sát vách tường, cố thu nhỏ người lại để không đụng vào người con Liễu, nhưng hình như mỗi lúc con Liễu mỗi lấn nó thêm!
Thằng Ngộ thấy người con Liễu nóng ran và người nó cũng nóng, nó cảm thấy như máu của nó chảy rầm rập khắp cơ thể, trống ngực đập liên hồi. Khi con Liễu cầm lấy tay thằng Ngộ đặt lên những phần cơ thể của nó thì thằng Ngộ thực sự lên cơn sốt, đầu óc u mê không còn biết gì nữa, nó làm theo tất cả những gì con Liễu muốn và cả nó cũng muốn nữa. Sau đó thì nó ngủ mê mệt...
Sáng hôm sau khi nó còn ngủ thì mụ Liến đánh thức nó dậy, mụ nói là mụ biết tất cả việc nó làm đêm hôm qua, mụ dọa là sẽ thưa và bỏ tù nó. Thằng Ngộ sợ đến xanh mặt, nhưng cuối cùng, mụ nói:
- Thấy mày côi cút nhưng hiền lành nên tao cũng thương, thôi tao không đi thưa cảnh sát nữa, nhưng mày phải lấy nó, mày lấy nó là may lắm rồi đó, rồi tao sẽ lo cho! Nghe mụ Liến nói vậy thằng Ngộ mừng rơn, nó không ngờ nó được lấy con Liễu.
Nhưng rồi, vừa thoáng vui nó lại buồn ngay, rồi đây nó lấy gì để nuôi vợ và cả con nó sau này nữa! Đám cưới thằng Ngộ và con Liễu được mụ Liến tổ chức, mụ dọn vài mâm cơm, mời vài người hàng xóm đến chứng kiến. Thằng Ngộ mắc cỡ gần chết khi mụ Liến gọi nó và con Liễu ra trình diện bà con và hàng xóm. Nó đứng chết trân không dám nhúc nhích. Khổ sở nhất là khi nó gặp trẻ con hàng xóm đứa nào cũng chỉ trỏ, lại còn cười khúc khích với nhau, có đứa còn nheo mắt với nó nữa!
Nhưng ngày khổ sở ấy rồi cũng qua, Mụ Liến đưa vợ chồng thằng Ngộ đến một căn chòi sau cái miếu hoang. Miếu thờ ai, nó không biết, và có lẽ trong xóm cũng không còn ai biết một cách rành rẽ, người thì nói miếu thờ một cô gái đồng trinh, bị cha mẹ ép gả cho một người mà cô không bằng lòng, vì cô đã đem lòng yêu thương người khác, nên cô treo cổ trên cành cây đa cạnh đấy tự tử. Cũng có người lại nói là miếu thờ một người đàn ông bị Tây bắn chết vì hoạt động trong một hội kín nào đó đã lâu lắm rồi. Nhưng dù chuyện gì chăng nữa thì cũng là những chuyện ghê gớm mà thằng Ngộ không muốn nghe. Trước đây thỉnh thoảng nó cũng có đi ngang chỗ này nhưng nó không sợ lắm vì lúc đó nó không nghĩ gì hết về những điều người ta kể. Còn bây giờ mặc dầu nó không muốn nghĩ nhưng những câu chuyện ấy vẫn cứ luẩn quẩn trong đầu nó hoài, mà càng nghĩ lại càng sợ!
Ngày đầu tiên dọn vào căn chòi, thằng Ngộ và con Liễu, cả hai đứa đều thấy lạnh xương sống, lúc nào hai đứa cũng ra ngoài cửa nhìn vào xóm, và cảm thấy yên tâm hơn khi có người đi lại trước mặt. Mụ Liến thấy tội nghiệp mua cho ít nhang đèn để cúng oan hồn uổng tử. Nhưng đêm đến đứa nào cũng sợ, cũng muốn nằm phía trong vách. Cuối cùng thằng Ngộ đành nằm phía ngoài, nhường cho vợ nó nằm phía trong, dù sao nó cũng là chồng!
Mấy tháng sau thì con Liễu đẻ, nhìn đứa bé nhỏ tí teo và đỏ hỏn, thằng Ngộ không thể tưởng tượng nổi nó đã thành cha đứa bé. Nhiều lúc nó có cảm tưởng giữa nó và đứa bé chẳng có chút liên hệ nào. Từ ngày vợ nó sinh, thằng Ngộ phải giữ con để con Liễu ra chợ xóm Gà bán rau kiếm tiền nuôi gia đình. Nhiều lúc thằng Ngộ cũng cảm thấy xấu hổ, đáng lẽ nó phải làm để nuôi con Liễu mới phải, đằng này nó lại để con Liễu nuôi mình, nhưng nó cũng không biết làm gì hơn! Ngày chưa lấy con Liễu nó chỉ đi xách nước và làm công việc lặt vặt cho mấy người cùng xóm, nhưng cũng chỉ nuôi nổi một mình nó, lại bữa đói bữa no, nay nếu cũng làm như vậy thì cũng không nuôi được vợ và rồi ai trông nom con nó!
Vợ nó mới đẻ được hai, ba ngày đã ra chợ bán rau lại, giao cho nó đứa bé đỏ hỏn để trông nom, chỉ thỉnh thoảng mới trở về để cho con bú. Những lúc phải một mình trông con, mà nó lại khóc đòi bú hoặc ỉa đái tùm lum, thằng Ngộ mới cảm thấy hết nỗi khổ sở khi lấy vợ. Nếu nó không có vợ con, nó có thể tự do muốn đi đâu thì đi không bị ràng buộc gì, đằng này như bị trói vào căn chòi với đứa con nít còn đỏ hỏn. Khổ sở nhất là ngày đầu tiên, nó lúng túng không biết phải làm gì, nhiều lúc con nó khóc nó cũng khóc theo luôn! Nhưng cũng may là con nó càng ngày càng ngoan, và nó cũng quen công việc nên dần dần không còn thấy vất vả như những ngày đầu tiên.
Mấy tháng nay có người quen dẫn nó đi khuân vác ở kho gạo gần đấy. Công việc cũng khá vất vả nên mấy ngày đầu nó ê ẩm cả mình mẩy, nhưng chỉ một hai tuần sau đã cảm thấy thoải mái hơn, và bây giờ công việc khuân vác đối với nó không còn vất vả lắm nữa, nó có thể vác cả một bao gạo không khó khăn gì. Cũng may là công việc tuy vất vả nhưng tiền kiếm được cũng khá nên có thể muôi nổi vợ con. Vì vậy, dạo này vợ nó ở nhà trông con không còn đi bán rau nữa.
Công việc vừa tạm ổn thì thằng Ngộ lại nghe nhiều chuyện bực mình về vợ nó. Theo một số người thì trước khi lấy nó, vợ nó đã tằng tịu với lão Mịch đạp xích lô, tên này đã có vợ con, rồi vợ nó có chửa nên mụ Liến phải tìm cách gài để ép nó lấy con Liễu. Thằng Ngộ không biết câu chuyện thực hư thế nào, nhưng chỉ nghe như vậy nó cũng đã rất bực mình, nhiều lúc về nhà nó muốn lôi con Liễu ra đánh cho một trận và hỏi cho ra lẽ, nhưng không hiểu sao lại không dám làm. Đôi khi Ngộ cũng cảm thấy tội nghiệp vợ nó, mỗi khi đi khuân vác về con Liễu đều hỏi nó có mệt không rồi rót nước cho nó uống, có khi còn đun cả nước nóng cho nó tắm nữa. Một hôm bực mình, nó gắt ầm lên, khuân vác về người nóng hừng hực mà tắm nước nóng cái nỗi gì, giá có nước đá nó còn tắm được, nhưng nghĩ lại cũng thấy tội nghiệp, vợ nó thấy nó vất vả nên tỏ ra chăm sóc vậy thôi, nhưng chăm sóc kiểu đó chẳng ham tí nào!
Có những lúc Ngộ muốn bỏ ngoài tai mọi chuyện, kể như không có gì hết, người đời phần đông xấu mồm xấu miệng, nó thấy ít ai nói tốt cho nhau, ở trong xóm này nó còn lạ gì, nay nghe đồn bà này ngoại tình, ông kia có vợ bé, nhưng rồi nó cũng chẳng thấy có chuyện gì xẩy ra, người ta vẫn sống với nhau, vẫn sinh con đẻ cái, mặc dầu thỉnh thoảng có cãi nhau, nhưng nhà nào mà không cãi nhau! Trường hợp của nó chắc cũng vậy!
Nhưng mỗi khi nhìn thấy con nó, thằng Ngộ lại nhớ đến lời người ta đồn đãi. Chẳng lẽ đứa bé này là con lão Mịch? Nó cố tìm trên khuôn mặt đứa bé xem có nét nào giống lão Mịch không. Có khi nó thấy đứa bé giống lão Mịch y hệt, nhưng cũng có lúc nó tin tưởng đứa bé là con nó, mỗi khi đứa bé quấn quýt bên nó rồi gọi: ba...ba...
Thằng Ngộ khổ sở vì sự nghi ngờ, chẳng thà biết rõ nó sẽ dứt khoát, đằng này không có gì rõ rệt hết, bỏ vợ con thì không đành, mà cứ im lặng như không biết gì hết thì nó làm không nổi! Nhiều khi vợ chồng cãi nhau vì những chuyện lặt vặt, những lúc ấy thằng Ngộ muốn nói huỵch toẹt những điều người ta đồn đãi đến tai nó nhưng rồi lại thôi.
Một buổi chiều vào tháng 4, trời như muốn chuyển mưa. Năm nay có lẽ mưa sớm hơn mọi năm, cách nay cả tháng đã có trận mưa lớn, và bây giờ chiều nào cũng có mây đen tụ ở góc trời như báo hiệu những trận mưa sắp đến, nhưng rồi trời lại quang đãng trở lại.
Toán phu khuân vác tụ tập ở một đầu nhà kho có bóng cây râm mát, thằng Ngộ cũng đứng lẫn lộn trong đám người đó, nó vẫn là người trẻ nhất trong đám và thường bị đồng nghiệp coi là con nít, nên ít khi nào nó được bàn bạc với họ chuyện này chuyện khác mà chỉ đứng nghe. Dạo này hình như đang có những chuyện lớn lao xẩy ra, nghe người ta nói đang đánh lớn ở Ban Mê Thuột, rồi lại nghe các tỉnh Miền Trung di tản. Trước đây thằng Ngộ không bao giờ để ý những tin tức về chính trị và quân sự, nhưng dạo này đi đâu nó cũng nghe người ta bàn tán, mỗi ngày là một đề tài nóng hổi, dồn dập! Đến bây giờ thì còn nghe cả tin Sài Gòn cũng sẽ di tản nữa!
Rồi một hôm, thằng Ngộ thấy mọi người chung quanh tràn vào kho ào ào như đàn kiến, mạnh người nào người ấy khuân về đủ mọi thứ, mấy người gác cổng đã chạy đi đâu hết. Người ta phá cổng, phá rào, phá cửa, lục lọi tìm kiếm những thứ quý giá, còn thằng Ngộ cũng vác được mấy bao gạo về nhà. Khi nó trở lại kho định vác một bao gạo nữa thì bị chận lại ngay trước cửa kho. Một người đeo băng đỏ, cầm khẩu súng, ra dấu đuổi mọi người về hết. Và ở trong kho, nó nhìn thấy một toán người cũng đeo băng đỏ đang đuổi những người còn lại trong kho trở ra, người nào người ấy mặt mày tiu nghỉu.
Ngộ đứng tần ngần nhìn vào kho một lúc rồi cũng quay về. Khi về đến nhà, thằng Ngộ không thấy vợ con nó đâu nữa, lúc đầu nó tưởng vợ nó đi đâu đó chơi, nó ngồi trên mấy bao gạo lấy được chờ đợi, nhưng rồi đến tối mịt vẫn không thấy con Liễu về, nó chạy đôn đáo khắp xóm cũng không thấy tăm hơi. Mụ Liến và chị vợ nó cũng không ai hay biết. Đêm đó là đêm đầu tiên nó ngủ trong chòi một mình, vừa buồn lại vừa sợ!
Sáng hôm sau có người nói với thằng Ngộ, người ta thấy vợ con nó ngồi trên xe xích lô của lão Mịch, nó để ý dò hỏi thì lão Mịch cũng mất tích và vợ con lão đang đôn đáo tìm kiếm khắp nơi! Một tuần sau thằng Ngộ vẫn không thấy vợ con về, nó đem mấy bao gạo lấy được bán cho mấy người cùng xóm lấy tiền uống rượu!
Từ khi làm nghề khuân vác nó bắt đầu uống rượu, lúc đầu mấy anh lớn ép nó, lúc đó thằng Ngộ chỉ thấy rượu là thứ nước cay sè, nóng hực, nó không hiểu tại sao cái thứ nước ấy lại làm cho người ta nghiện được. Nhưng bây giờ nó mới thấy rượu là cần thiết, càng uống nó càng cảm thấy ngọt và rượu còn gây cho nó cảm giác bừng bừng dễ chịu, nhất là dễ quên đi những bực dọc, phiền muộn. Sau khi tiêu hết số tiền bán được từ mấy bao gạo, thằng Ngộ đổi nghề, nó thuê xích lô đạp vòng vòng trong thành phố kiếm ăn.
Từ khi thành phố đổi chủ, xăng nhớt ngày một khan hiếm, phương tiện di chuyển khó khăn, nên nghề đạp xích lô đủ sức nuôi nó ngày ba bữa, thỉnh thoảng nó còn có tiền để đi nhậu với bạn bè. Nó cũng bỏ cái xóm Gà nghèo nàn của nó để về ở với thằng bạn trên Phú Nhuận. Bạn nó, thằng Huân, chỉ có hai anh em nên sống tương đối thoải mái với số tiền kiếm được hằng ngày. So với những người khác Ngộ cảm thấy mình may mắn hơn họ, vì nhiều người trước kia khá giả nay cũng phải đạp xích lô như nó mà còn phải nuôi một gia đình ba, bốn người, có khi còn đông hơn nữa! Hằng ngày nó vẫn có thể ăn cơm trong khi rất nhiều gia đình khác đã phải ăn bo bo hay cơm độn, có gia đình còn không có cơm độn mà ăn!
Một hôm thằng Ngộ đạp cuốc xe đưa một người khách về xóm Gà, nhân tiện cũng là dịp nó thăm lại xóm cũ. Dãy nhà lụp xụp hai bên con hẻm quanh co làm nó nhớ lại những ngày thơ ấu. Thằng Ngộ bồi hồi nhớ đến những ngày còn nhỏ, nó đã lớn lên trong cái xóm nghèo nàn này, tất cả những ngôi nhà trong xóm nó đều biết, đều quen, và tất cả đều có in dấu chân và hình bóng nó. Khi nó vào đến trong xóm, người nào cũng vãy, cũng gọi, hỏi nó đủ thứ chuyện như một người đi xa trở về. Gặp ai nó cũng mừng, nhưng nó không khỏi buồn khi nghĩ đến con Liễu, và con bé kháu khỉnh một thời đã nhận nó là cha. Thằng Ngộ đi ngang nhà mụ Liến, nó đã định không ghé, nhưng rồi mụ nhìn thấy, nó bắt buộc phải chào mụ, dù sao chăng nữa, mụ cũng đã từng giúp nó trong những ngày đen tối của cuộc đời!
- Sao dạo này mày đi đâu, làm gì?
- Tôi đạp xích lô, dì.
- Mày đã lấy ai chưa?
Thằng Ngộ nhìn mụ Liến nghi hoặc, nó lắc đầu.
- Thôi chuyện vợ con là cái số, tao cũng muốn cho mày tốt mà rồi cũng không được, người muốn không bằng trời muốn! Tao mới nhận được lá thư của con Liễu từ Mỹ gửi về, hồi đó nó di tản sang Mỹ với lão Mịch đạp xích lô, chắc mày biết! Lúc đầu nghe nói tao cũng không tin, nhưng bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa. Có điều bây giờ nó cũng không còn ở với lão Mịch nữa, tụi nó thôi nhau rồi. Trong lá thư nó gửi cho tao cách nay một năm có kể lại chuyện cũ, hôm ấy nó gặp lão Mịch đạp xích lô, lão bảo nó lên lão chở đi. Trong lúc rối ren nó không biết làm gì nên ngồi lên xe cho lão chở, lúc ra đến bến tàu thì tình cờ gặp lúc người ta đang lên tàu di tản, lão rủ nó đi, thế là nó theo lão vì sợ ở lại kẹt giữa hai lằn đạn khi hai bên đánh nhau.
Thằng Ngộ nghe mụ Liến kể đến đây rồi mụ ngần ngừ như muốn nói điều gì lại thôi. Ngộ cũng nín thinh, nó cảm thấy lời nói bây giờ là thừa thãi, con Liễu đi với lão Mịch hay đi với ai thì cũng vậy, điều rõ rệt là con Liễu không yêu thương gì nó!
- Thôi mày kiếm chỗ nào thấy được lấy đại đi, mày kể như con Liễu nó đã chết rồi!
- Bây giờ thì tôi thấy sống độc thân sướng hơn, vợ con thấy mà chán!

Mụ Liến không để ý thấy lời nói của thằng Ngộ như có ý trách móc. Mụ đứng lên, đi lại cái bàn ở trong góc nhà, kéo hộc bàn, lục lọi, tìm kiếm một hồi, rồi đưa ra một tấm ảnh màu:
- Đây là hình con Liễu chụp ở Mỹ mới gởi về.
Thằng Ngộ tò mò muốn biết giờ này con Liễu đã thay đổi đến mức nào. Nó cầm tấm ảnh và ngạc nhiên thấy con Liễu trong ảnh đẹp như những con nhà quyền quý vào thời kỳ trước, mặc váy đầm, đi dày cao gót, đang đứng dựa vào chiếc xe hơi bóng lộn.
Thằng Ngộ thấy như có gì ứ ở cổ, nó quay mặt nhìn ra ngoài đường, mặt trời toả ánh nắng chói chang xuống con ngõ hẹp, một cơn gió thổi đến làm bụi cuốn lên mù mịt. Nó có cảm tưởng con đường trở về xa hơn, và chiếc xích lô như là một vật nặng nề đang bám lấy nó.
Chỉ là kỷ niệm
Từ ngày được tha ra trại cải tạo, Thưởng trở lại nghề dạy học. Tất nhiên không phải là dạy ở những trường nhà nước vì không dễ gì người ta chấp nhận cho chàng dạy như vậy. Bây giờ người ta đòi hỏi hồng hơn chuyên mà! Hơn nữa, giáo viên nhà nước người ta còn đổi nghề, chạy ra ngoài chợ trời buôn bán vặt vãnh để sống qua ngày, thì chàng cũng chẳng dại gì mà đâm đầu vào đấy, để rồi lại nem nép sợ từ anh hiệu trưởng tới anh hiệu phó, và ngay cả với mấy người đồng nghiệp!
Thưởng có chút vốn liếng về Anh ngữ, mà phong trào học Anh Văn bây giờ lại lên cao, cao hơn cả thời kỳ Mỹ còn nửa triệu quân ở miền Nam, vì ai cũng cố chuẩn bị cho mình một chút vốn liếng tiếng Anh để đi nước ngoài, dù là đi chính thức hay là đi chui, nên Thưởng nghiễm nhiên trở thành thầy giáo dạy tiếng Anh, mặc dầu chàng chỉ dạy kèm tại tư gia hai, ba người. Nhiều khi Thưởng cũng hơi áy náy lương tâm, dù tiếng Anh của chàng không đến nỗi quá tệ, nhưng chắc chắn là không đủ để mang danh là giáo sư Anh ngữ, như những người học trò hay láng giềng thường gọi chàng. Nhưng dù có áy náy trong lòng, Thưởng cũng chẳng có con đường nào khác để chọn lựa. Dạy tiếng Anh dù sao cũng là cách kiếm sống dễ dàng, lại nhàn hạ. Nếu buông nghề này ra, thì chàng chỉ có một nghề duy nhất là đạp xích lô mới may ra đủ tiền để nuôi tấm thân mình, chứ chưa nói gì đến vợ con!Nghĩ đến vợ con, Thưởng không khỏi buồn lòng. Ngày chàng đi tù, Loan đi thăm nuôi được một dạo rồi một ngày một thưa dần, có khi cả năm nàng mới lại đi thăm một lần. Thế rồi bẵng đi mấy năm Loan không đi thăm mà cũng không nói cho chàng biết lý do. Nàng đi ra khỏi đời chàng một cách lặng lẽ, trái hẳn với lần nàng đến. Thưởng chợt nhớ đến cái đám cưới của mình và Loan tổ chức rình rang tại nhà hàng Đồng Khánh, hình như đến hơn ba mươi "thồi". Cả Thưởng lẫn nàng đều lộng lẫy trong những bộ quần áo đắt tiền, và cả họ hàng hai bên cùng bạn bè cũng vậy. Ai ai cũng chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc...
Ấy vậy mà chỉ một năm sau mọi sự đều đổi khác. Thân nhân họ hàng đều chạy tứ tán mỗi người một phương. Cha mẹ của Loan giờ này hình như đang ở bên Pháp, nhưng lũ em của nàng có đứa lại sang tuốt tận bên Mỹ. Còn gia đình chàng thì lại quá rủi ro! Sau vụ cải tạo công thương nghiệp, bố mẹ chàng mất hết tài sản, lại bị đẩy đi vùng kinh tế mới tít tận Tây Ninh, rồi ít lâu sau chết ở đấy!
Trở về nhà từ trại cải tạo với hai bàn tay trắng, vợ con nhà cửa không còn, Thưởng đành tá túc nhà cô em gái, trước đây cũng khá giả nhưng bây giờ chỉ còn lại cái nhà, còn đồ đạc thì đã bán dần để sống qua ngày.
Thưởng nhớ lại ngày trở về, thấy hoàn cảnh bi đát của mình chàng đã có ý định tự tử cho xong cuộc đời, nhưng rồi cũng không có can đảm để làm chuyện ấy! Lúc đầu, nghĩ không còn cách gì để kiếm sống, Thưởng đã xách mớ dụng cụ gồm kìm búa và mấy đồ đạc lỉnh kỉnh khác, kiếm một gốc cây ngồi để sửa xe đạp, một nghề mà trước đây chàng không bao giờ làm nhưng nghĩ là mình có thể làm được, hay ít nhất cũng có thể tạm được. Nhưng chỉ ít ngày sau Thưởng khám phá ra cái khả năng hạn hẹp của mình trong cái nghề tay chân này. Nghề nghiệp tuy đơn giản, tầm thường thật nhưng chàng cũng chỉ làm được những công việc lặt vặt như vá lốp, căng dây xích, còn những việc như cân vành bánh xe thì chàng vụng về thấy rõ. Sự vụng về của Thưởng làm mất thì giờ của khách hàng đến nỗi có một người khách đã bực mình nói với chàng:
- Ông dẹp cha nó cái nghề này đi, ông có biết sửa xe đâu mà cũng trưng bảng làm mất thì giờ người ta!
Thưởng thẹn đỏ mặt vì câu nói của người khách và từ đó dẹp luôn nghề sửa xe.
Nhưng bỏ nghề kéo theo sự túng quẫn về tiền bạc. Cô em gái giỏi lắm cũng chỉ có thể bao ông anh là Thưởng ngày hai bữa, chứ không thể cung cấp về tiền bạc để tiêu pha được. Thưởng phải la cà ở nhà những người bạn tù cũ để cùng nhau tìm cách sinh nhai bằng những nghề vặt vãnh hơn nữa. Nhưng rồi phong trào vượt biên trở nên rầm rộ, nhiều người đi thoát viết thư về nhà . Những lá thư từ chân trời mới gửi về khiến ai cũng ao ước một ngày nào đó được như họ. Từ đó người ta bắt đầu lục lại những sách tiếng Anh, để hy vọng khi vượt biên nếu may mắn gặp tàu ngoại quốc còn nói được mấy câu cần thiết, và cũng từ đó Thưởng trở thành giáo sư Anh văn. Thật ra, vốn liếng tiếng Anh của Thưởng không đến nỗi qúa tệ, chàng đã từng dạy Anh văn ở một trường tư thục từ trước 1975. Nhưng dạy Anh văn vào thời đó cho những lớp nhỏ cũng không đòi hỏi khả năng to lớn gì. những gì Thưởng đã từng học trong các cuốn sách Anh văn ngày xưa bây giờ phun ra lại, ngày nào cũng như ngày nào, chỉ chừng đó là hết.
Vốn liếng Anh ngữ đã không có là bao, lại bị hao mòn theo năm tháng, nên trong những ngày mới đi dạy kèm, Thưởng phải ôn bài, luyện giọng qua mấy cuốn băng cũ mà chàng mua được. Đến bây giờ thì chàng đã tự tin hơn, nhưng chỉ tự tin với học trò của mình thôi, vì học sinh của chàng cũng chỉ học những câu đối thoại đơn giản, rất đơn giản mà thôi.
Chiều nay, sau khi dạy kèm cho Thảo, trên đường trở về nhà Thưởng đâm bâng khuâng.
Kể từ khi vợ con bỏ đi biền biệt không để lại dấu tích gì, chàng đã nhủ lòng, từ đây sẽ đóng chặt mọi ngõ ngách vào trong tâm hồn, sẽ không còn vương vấn với bất cứ người đàn bà nào nữa. Thưởng còn nhớ câu Loan nói với chàng khi hai người yêu nhau: "Không có anh, em sẽ chết!". Ấy vậy mà khi không có Thưởng chẳng những nàng không chết mà còn có vẻ yêu đời hơn. Thưởng không hiểu nổi là tại sao Loan không nói cho chàng biết là nàng sẽ đi, lấy chồng hay vượt biên chẳng hạn. Tại sao nàng lại bỏ đi lặng lẽ như thế? Nếu nàng nói rõ lý do, chắc chắn Thưởng sẽ không cố giữ nàng lại mà còn cầu mong nữa là đằng khác, vì Thưởng hiểu đi cải tạo thì chẳng biết bao giờ mới được về!
Vì Thảo mà Thưởng nhớ đến người vợ cũ, một nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn. Bây giờ Loan ở đâu? Thưởng có nghe đồn, Loan bây giờ đang sống ở bên Mỹ, đã lấy chồng là người cùng vượt biên với nàng. Rồi lại có tin đồn, Loan và cu Toàn, con của Thưởng và nàng, đã chết trong chuyến vượt biên.
Thưởng vừa đạp xe vừa nghĩ đến cả Loan lẫn Thảo, trí óc hỗn độn vì những hình ảnh của quá khứ và hiện tại trộn lẫn vào nhau, làm tí nữa chàng đâm sầm vào bà bán bún rong đang đi qua đường.
Cái tai nạn suýt xẩy ra làm Thưởng chợt tỉnh, chàng tấp xe vào lề đường, khóa xe cẩn thận, rồi ghé vào quán cà phê lạ mà đây là lần đầu tiên chàng uống, vì Thưởng không thích đến những quán ăn, uống mà chàng không quen.
Khi về đến nhà thì cô em gái Thưởng đã đi chợ, mấy đứa cháu đang ngồi chơi lê la ở sân nhà hàng xóm, thấy Thưởng, một đứa chạy về nói với chàng:
- Mẹ cháu nói, mẹ cháu đi đến tối mới về.
Thưởng chỉ "ừ" một tiếng rồi đẩy xe đạp vào nhà. Căn nhà của Tuyết trước đây chứa đầy đồ đạc, bây giờ trống trơn, vì nàng đã đem ra chợ trời bán lần hồi hết thứ này đến thứ khác vì kiếm không đủ ăn. Thưởng đi lại cái bàn kê gần cửa sổ, cầm bình nước rót một ly đầy, ngồi dựa lưng vào thành ghế, uống một hơi cạn hết nửa ly, rồi thẫn thờ nhìn qua khung cửa. Mảnh sân xi măng trở nên chói chang hơn dưới cơn nắng trưa. Thưởng bỗng nhớ đến những ngày phơi nắng cuốc đất trong trại cải tạo, thời gian thật là dài mà rồi cũng qua. Nhiều lúc Thưởng ngạc nhiên không ngờ mình có sức khoẻ dẻo dai đến thế.Ngồi nghỉ một lúc Thưởng mới nhớ lời của đứa cháu mới nói hồi nãy: "Mẹ cháu đi tến tối mới về", chàng đứng lên lấy nồi, đong mấy lon gạo đổ vào, xả qua mấy đợt nước cho trôi hết bụi bậm và những hạt gạo mọt nổi lềnh bềnh trên mặt nước, bắc lên cái bếp dầu rồi châm lửa nấu. Cái bếp dầu duy nhất này thỉnh thoảng mới được dùng đến vì dầu lửa đắt đỏ và khó mua, nhưng bây giờ thì Thưởng cảm thấy mệt mỏi, không muốn loay hoay ngồi nhóm bếp than hay củi, nên lấy bếp dầu đun đại cho xong. Thưởng cũng chẳng hiểu tại sao mới được tha về nhà có ít tháng mà chàng đã rất ngại chuyện bếp núc, mặc dầu khi còn trong tù chàng thường phải nấu ăn trong những hoàn cảnh eo hẹp, thiếu củi, thiếu than và thiếu cả thì giờ. Ấy vậy mà mọi chuyện cũng xong xuôi cả!
Nấu xong nồi cơm Thưởng không biết làm gì nữa sau khi đã lục lọi, tìm kiếm mà không thấy có cá thịt, rau cỏ gì cả, chàng đành chờ khi cô em về muốn làm gì thì làm, vì thường nàng cũng chỉ dám nhờ Thưởng nấu giùm nồi cơm cho lũ con ăn tạm, còn thức ăn nàng sẽ mua về, sau khi đã kiếm được chút tiền.
Cũng có ngày cô em trở về với hai bàn tay không, và cả nhà đành phải ăn cơm với chút muối đậu đã được làm sẵn để trong chạn.
Vừa nấu xong nồi cơm thì lũ cháu kéo về. Căn nhà đang vắng lặng bỗng trở nên ồn ào. Có đứa chạy lại gần Thưởng hỏi:
- Cơm chín chưa cậu?

Thưởng lắc đầu rồi nói với nó:
- Cháu đi chơi một chút nữa cho quên đói, cơm chưa chín.
Đứa bé mặt tiu nghỉu bỏ đi. Thưởng gọi đứa cháu lớn nhất đến gần rồi nói với nó:
- Cơm cậu đã nấu xong nhưng một lúc nữa mới ăn được. Tí nữa cháu lấy cơm cho các em ăn, chia cho đều. Có muối đậu mẹ cháu để trong chạn đấy!
- Cậu không ăn cơm ư?
- Cậu ăn sau, bây giờ cậu đi nghỉ một chút, nhức đầu quá!
Dặn đứa cháu xong, Thưởng bước lên căn gác mà cô em gái dành riêng cho chàng. Khi đi ngang phòng khách, Thưởng chợt thấy tấm ảnh của Lâm trong khung kính treo trên tường. Thằng em rể mất tích từ những ngày đầu tháng 4- 75, chẳng biết còn sống hay đã chết!
Tấm ảnh của Lâm nhắc Thưởng đến cuộc sống cô đơn của em gái. Nó vốn lãng mạn, mê tiểu thuyết, ca hát. Lấy chồng có mấy năm mà đẻ một đàn con và bây giờ thì chồng mất tích, một nách nuôi đàn con dại, ấy vậy mà cũng xong, mặc dầu là vất vả...
Thưởng bỏ dở ý nghĩ về hoàn cảnh của đứa em vì cảm thấy mệt mỏi, rã rời. Sống bây giờ mà cứ nghĩ quàng nghĩ xiên thì rất dễ điên! Chàng nghĩ thầm, rồi bước lên cầu thang về với cái thế giới của riêng mình.
Khi lên đến nơi Thưởng nằm vật xuống chiếc giường con kê sát vách. Căn phòng tối hẳn vì mọi cửa sổ đều đóng kín. Định tâm sẽ nằm nghỉ một lúc nhưng rồi chàng ngủ quên luôn. Khi tỉnh dậy trong một khoảnh khắc chàng mất hẳn ý niệm về thời gian. Thưởng lấy tay đẩy cánh cửa sổ, mẩu sân xi măng phía sau nhà đã râm hẳn, và ánh nắng chỉ còn le lói trên mái tôn của những ngôi nhà bên cạnh. Một bụi hoa giấy nhô lên khỏi mái tôn thấp của ngôi nhà phía trước, một vài cành non vượt lên cao hơn rồi cong lại đong đưa mãi vì gió, mấy nụ hoa chưa đủ đỏ lẫn trong màu lá xanh làm cho mái tôn sét rỉ trở nên tươi mát hơn trong ánh nắng buổi chiều. Dưới sân mấy đứa cháu của Thưởng thấy chàng dậy, chạy ùa lên gác, đứa nhỏ nhất nói với chàng:
- Mẹ cháu đi đâu mà lâu quá chưa về hả cậu?
Thưởng kéo đứa cháu vào lòng, vỗ về:
- Mẹ cháu đi buôn bán chứ đi đâu, chút nữa mẹ cháu về.
- Cháu đói qúa rồi!
Tự nhiên Thưởng cũng cảm thấy đói cồn cào, chàng sực nhớ là mình đã ngủ quên, bỏ bữa cơm trưa. Thưởng nói với cháu:
- Để cậu xuống nấu cơm cho cháu ăn. Cơm buổi trưa ăn hết rồi sao?
Cô bé trả lời:
- Còn cơm, nhưng chị Hà không cho cháu ăn, nói để phần cậu.
- Thôi cháu xuống lấy cơm ăn đi, cậu không ăn đâu.
Cô bé mừng rỡ chạy xuống cầu thang, mấy đứa khác cũng chạy xuống theo.
Thưởng đến nhà Thảo thì thấy nàng ngồi sẵn ở một cái bàn ngoài phòng khách, đang hí hoáy viết gì đó. Mái tóc cắt ngắn xòa xuống che gần hết đôi má, lọn tóc hai bên khẽ đong đưa theo chiều cử động của bàn tay đang thoăn thoắt trên tờ giấy trắng. Thưởng giơ tay gõ vào cánh cửa đã mở sẵn. Thảo nhìn lên, đôi mắt đen thoáng chút bối rối:
- Mời thầy vào, em đang chờ thầy.
Vừa nói Thảo vừa gấp tờ giấy nàng đang viết dở, cất vào cuốn vở gần đấy một cách vội vàng. Bỗng nhiên Thưởng có cảm tưởng Thảo đang viết dở dang một bức thư tình, để gửi cho một người nào đó, mà chắc chắn không phải là chàng.
Một nỗi thất vọng bỗng vỡ oà trong đầu. Chàng cảm thấy mình già nua, khô héo. Còn Thảo thì mơm mởm, xinh tươi, như một bông hoa mới hé nở vào một sáng mùa xuân.
- Không còn một mùa xuân nào nữa trong cuộc đời mình!
Thưởng nghĩ thầm, nhìn Thảo thoáng qua một giây rồi cúi xuống mở cuốn sách trước mặt. Chàng đọc một đoạn trong sách cho Thảo nghe rồi nói nàng đọc lại.
Giọng Thảo đều đều, Thưởng cố lắng tai nghe nhưng chỉ cầm trí được một lúc rồi chàng không còn biết Thảo đọc gì. Đầu óc hỗn độn ngổn ngang những ý tưởng không liên quan gì đến bài học.
Thảo đưa tay lật trang sách, ngón tay trỏ đưa ra đặt trên góc tờ giấy, kéo tờ giấy lên, nhưng đôi mắt vẫn dán vào giòng chữ đang đọc. Thưởng nhìn thấy những đường gân xanh nổi trên mu bàn tay trắng mịn của nàng. Chàng quay nhìn ra ngoài cửa sổ. Một khung trời xanh hiện ra, trong vắt như không có một chút vẩn đục nào. Trời đất lúc nào cũng đẹp, cả Thảo nữa! Chỉ có Thưởng là cảm thấy mình tàn tạ, khô héo...
Giọng đều đều của Thảo bỗng ngưng bặt, Thưởng nhận ra điều ấy nên quay lại, nói với nàng:
- Hôm nay tôi bận, có chút việc nên phải về sớm, tuần sau tôi sẽ dạy bù.
- Nếu thầy bận thì để hôm khác cũng được. Em cũng đoán là thầy bận chuyện gì đó.
Thưởng giật mình, có thể cử chỉ của chàng có gì đổi khác mà Thảo đã nhận ra. Chàng chợt cảm thấy mặt mình nóng bừng, lúng túng cúi xuống trên trang sách trước mặt để tìm lời nói tiếp và giấu nỗi xúc động.
- Bố mẹ em mới nhận được giấy xuất cảnh.
Thưởng nhìn lên:
- Vậy hả, mừng quá nhỉ?
- Vâng, bố mẹ em mừng lắm! Nhưng em nghĩ, chắc còn lâu mới đi được, nhiều người nhận được giấy xuất cảnh lâu rồi mà đã đi được đâu!
- Lâu, nhưng rồi sẽ đi, còn hơn không có gì hết như...tôi!
- Sao thầy không đi chui?
- Đi chui cũng phải có tiền chứ, mấy lạng vàng một người, kiếm đâu ra!
Chắc Thảo cũng biết là mình lỡ lời, nàng chuyển sang chuyện khác.
- Mấy hôm nay nóng quá!
- Sang đến bên ấy, chắc có ngày cô sẽ nói: "Mấy hôm nay trời lạnh quá!".
Thảo cười, để lộ hàm răng trắng và đều. Thưởng nhìn thấy cả cái đầu lưỡi đỏ và những nốt chấm đầu dây thần kinh vị giác trên lưỡi của nàng.
Một nỗi thèm muốn làm Thưởng bối rối nhìn ra khu vườn phía sau. Khu vườn sau nhà Thảo cũng có bụi hoa giấy đang nở rộ, đỏ chói chang dưới ánh nắng chiều.
Đã lỡ nói với Thảo chiều nay chàng bận nên phải về sớm, Thưởng đứng lên mà lòng nuối tiếc:
- Tôi xin lỗi vì phải về sớm, cô nhớ làm bài tập tôi đã đánh dấu sẵn.
Thảo ngước nhìn chàng:
- Vâng, em sẽ cố gắng làm hết.
Thưởng nhìn nàng một lần nữa rồi quay lưng bước ra ngoài. Thảo cũng bước ra theo, tiễn Thưởng đến cửa. Nàng ngừng lại nhìn Thưởng loay hoay mở khóa xe đạp và gật đầu chào chàng một lần nữa rồi mới quay vào. Nắng buổi chiều trải dài trên con hẻm gồ ghề trước nhà Thảo. Ánh nắng hình như nhảy múa trước mặt Thưởng. Chàng cắm cúi đạp xe nhưng trong lòng tràn ngập nỗi buồn phiền. Mai này Thảo sẽ đến một phương trời mới, một nơi rất nhiều người ao ước được tới nhưng ít người có cái may mắn ấy. Thảo sẽ vui tươi bên người tình của nàng, một người tình trẻ, khoẻ mạnh và có tương lai tươi sáng. Còn Thưởng sẽ sống ở đây cho đến chết!
Nhận lá thư từ tay người bưu tá, Thưởng giật mình, nét chữ trên phong bì đúng là nét chữ của Loan, người vợ đã biệt tích nhiều năm kể từ khi chàng đi "cải tạo" ít lâu.
Thưởng vội vàng xé phong bì. Vì vội vàng chàng đã xé phạm vào lá thư. Mồ hôi chợt toát ra như tắm khi chàng bắt đầu đọc những giòng đầu tiên.
Anh,
Sau khi đã âm thầm dò hỏi nhiều người, em được biết anh đã được tha về và hiện đang sống với cô em.
Chắc anh giận em lắm? Mà giận cũng phải, vì ít có người vợ nào tệ bạc như em!
Lý do tại sao em đã bỏ đi mà không nói lời nào từ giã ư? Em hổ thẹn anh ạ! Em nhỡ mang bầu với một người đàn ông khác nên không dám gặp mặt anh nữa. Anh đã cho em mật ngọt tình yêu và cả những đắng cay. Những em hiểu những đắng cay ấy rất nhiều người phải chịu chứ không phải riêng em. Chỉ có em là yếu đuối, không đủ sức chống chỏi với những cám dỗ, đến nỗi làm chúng ta phải xa cách nhau vĩnh viễn.
Nhiều khi chính em cũng ghét em, ghét cái bản năng xấu xa đê tiện của mình. Nhưng em chỉ là con người, một con người yếu hèn anh ạ. Em cần tình yêu của anh nhưng em cũng cần những thứ khác mới làm cho tình yêu ấy bền vững được. Nhiều khi em muốn tự tử vì những thúc giục bẩn thỉu của bản thân, nhưng em đã nói rồi, em yếu đuối quá nên chỉ nghĩ thế mà không dám làm. Chính vì thế mà em khổ sở. Em mong anh tha thứ cho em.
Bây giờ thì em ở xa, xa lắm! Lá thư này em nhờ một người bỏ ở bưu điện Sài Gòn, nhưng em không thực sự ở nơi ấy, em cũng không còn ở Việt Nam nữa, chắc anh cũng đoán được là em đang ở đâu.
Ở đây em không thiếu thốn về vật chất, có thể nói là dư thừa. Nhưng em lại biết là anh đang phải sống chật vật. Đó là lý do tại sao em viết lá thư này về anh để xin anh chấp thuận cho em gửi một chút quà biếu anh. Em hy vọng là anh sẽ không từ chối.

Em tiếc là không bảo lãnh anh được, vì người ấy vẫn còn đang sống với em. Thật sự thì em cũng muốn chấm dứt những liên hệ với anh ta để đón anh sang đây. Nhưng làm như thế chưa chắc đã mang lại hạnh phúc cho anh và cho em. Em cũng không biết anh có đủ rộng lượng để chấp nhận chuyện đó không? Thật sự lòng em bối rối chẳng biết tính thế nào, vì đường nào thì thấy cũng chẳng ra làm sao!
Anh biết không, đây không phải là lá thư đầu tiên em viết đâu, em viết nhiều lá rồi nhưng lá nào khi viết xong em cũng xé bỏ, và em cũng không biết khi viết xong lá thư này em có gửi nó đi không.
Con chúng ta đã lớn lắm rồi anh ạ, thằng Thái đã cao bằng bố và giống anh lắm!
Viết đến đây em cảm thấy mệt, có lẽ em chỉ cố gắng viết được bấy nhiêu thôi, mặc dầu có nhiều điều muốn nói.
Em mong nhận được thư anh. Địa chỉ em đề trong thư là địa chỉ của người bạn em.
Em,
Loan.
Đọc xong lá thư Thưởng ngồi thừ người nghĩ ngợi. Hình ảnh Loan tưởng đã chết hẳn trong lòng chàng bỗng sống lại mãnh liệt trong dòng ký ức. Những ngày Loan còn cắp sách đến trường và những chiều hẹn hò, rồi những ngày sống bên nhau sau khi cưới. Hình ảnh Loan mà chàng còn giữ mãi trong ký ức là những buổi chiều Loan lúi húi làm bữa cơm chiều ở dưới bếp, nhiều khi Loan còn hỏi Thưởng xem chàng muốn ăn món gì để nàng nấu. Cuộc đời hạnh phúc tưởng sẽ êm đềm trôi đi cho đến cuối đời, nào ngờ chỉ trong một thời gian ngắn đã đổ vỡ tan tành!
Loan bây giờ đang sống với người chồng mới, chắc nàng cũng chăm sóc người chồng của nàng như với Thưởng ngày xưa, ở một nơi thật xa nơi này.
Trong thư Loan không nói nàng đang định cư ở nước nào, nhưng Thưởng đoán là nàng đang ở Mỹ, vì phần đông những người vượt biên đều đến nơi ấy.
Thưởng đang ngồi ôn lại kỷ niệm cũ thì cô em gái trở về. Thấy anh đang ngồi bất động trước lá thư để trên bàn. Nàng hỏi:
- Thư của ai đấy, anh?
Thưởng quay nhìn em, trao cho nàng lá thư:
- Cô đọc thì biết.
- Nhưng thư của ai mới được chứ?
- Loan.
Nàng tròn mắt ngạc nhiên:
- Của chị Loan ấy à?
- Ừ.
Cô em gái nhặt lá thư đọc vội vàng. Khi đọc xong nàng ngước lên nhìn anh thì đã không thấy Thưởng đâu.
Còn Thưởng thì chàng cảm thấy là mình cần đi, bất cứ là đi đâu, nên đã đứng lên đi ra ngoài cổng.
Nắng buổi chiều nhuộm vàng con hẻm trước mặt. Bụi hoa giấy nhà ai ở cuối xóm nở rộ một màu đỏ chói chang, nó cũng rực rỡ như những kỷ niệm một thời giữa chàng và Loan, nhưng cũng chóng tàn như nắng buổi chiều khi đã đổi sang màu vàng úa như trong lúc này.
Giữa lúc không biết nên buồn hay nên vui khi nhận được lá thư của người vợ cũ, Thưởng đạp xe qua nhà Thảo, chàng thấy thấp thoáng bóng Thảo mặc áo lụa trắng bên kia khung cửa. Thưởng ngừng xe nhìn vào, đến khi Thảo quay nhìn ra chàng lại giả vờ cúi xuống lấy tay bóp vào lốp xe rồi tiếp tục đạp xe về hướng khác.
Hơn lúc nào hết Thưởng ao ước mình quên được cả Loan lẫn Thảo.
Hàng cây bên đường
Thằng Toàn đang ngồi ở góc hiên chơi với con Thúy thì bố nó về. Thấy vậy con Thúy đứng lên nói với nó:
- Thôi tao về chẳng mẹ tao mắng, ngày mai chơi tiếp!
Nhiều lần như vậy, hễ chơi mà gặp người lớn như bố thằng Toàn chẳng hạn là con Thúy bỏ dở cuộc chơi để về nhà nó. Thằng Toàn không hiểu tại sao con Thúy lại sợ người lớn đến như vậy. Bố nó khi gặp con Thúy cũng đâu có nạt nộ gì mà con Thúy lại sợ không dám chơi nữa. Nhiều lần thằng Toàn định hỏi con Thúy là tại sao nó lại làm như vậy, nhưng lần nào nó cũng quên, còn con Thúy thì chỉ nói là nó phải về kẻo mẹ nó mắng, thế thôi!
Con Thúy đi rồi thằng Toàn cũng trở về nhà. Bố nó nhìn thấy nó ông cũng không hỏi gì. Ông mệt! Ngày nào khi đi làm về ông cũng kêu mệt, vì hình như ở trong hãng ông phải làm công việc nặng nhọc, nên về đến nhà ít khi nào ông nói chuyện với nó. Thường thì ông chui vào phòng tắm, tắm rửa qua loa rồi ngồi vào bàn, ăn một mình vì dì nó đã ăn rồi!
Thấy ông không nói gì Toàn lại lảng ra chỗ khác, thường thì ra phía sau nhà nơi có khu vườn trồng đủ mọi loại cây, nó không biết là những cây gì, vì phần đông những cây ở vườn sau chưa cây nào có quả, trừ cây chanh, nhưng chanh thì nó không thích vì chua quá!
Đi loanh quanh trong khu vườn mãi cũng chán, nó ngồi xuống bực thềm phía sau nhìn những ngọn cây ở nhà hàng xóm, thường thường chim bay về những cây đó đậu khi trời sắp tối. Giá như ở Việt nam thế nào nó cũng lấy ná bắn lên đàn chim và nó chắc thế nào cũng trúng vì chim nhiều quá. Nhưng ở đây thì không được, bố nó cấm không cho chơi ná và cũng không cho bắn chim, nghe nói bắn chim là cảnh sát bắt!
Thằng Toàn nhìn mãi lên ngọn cây có tiếng chim mà không biết chim nằm ở chỗ nào, vì lá cây rậm rạp, và nhất là bây giờ trời đã hơi tối. Ngoài tiếng chim nó còn nghe được tiếng ve sầu và cả tiếng dế. Nhiều khi những tiếng đó trộn lẫn vào nhau nó không phân biệt được gì nữa, nhất là không biết tiếng kêu phát ra ở chỗ nào.
Bầu trời phía trên cao tím dần, bây giờ nó chỉ thấy bóng đen của hàng cây in lên nền trời đã sậm màu, vài ngôi sao lấp lánh ở trên cao. Một làn gió thổi đến làm bóng cây lay động trên nền trời.
Nhìn mãi cảnh sau vườn cũng chán mắt, nó muốn trở vào nhà nhưng lại ngại gặp dì nó. Toàn gọi bằng dì vì bà là vợ lẽ của bố nó. Ông gặp bà từ ngày còn ở bên đảo, rồi hai người sang đây sống với nhau.
Thằng Toàn chợt nghĩ đến mẹ, nước mắt tự nhiên chảy ra. Bây giờ ở xóm Chùa chắc là mẹ nó buồn lắm. Khi đi vượt biên, bố nó hứa hẹn với mẹ nó khi sang đến nơi sẽ gửi tiền về ngay cho mẹ nó tiêu rồi bảo lãnh cho bà sang sau. Vậy mà bây giờ ông lại cặp kè với bà khác không nhắc gì đến mẹ nó nữa!
Một hai lần nó có nhắc về việc gửi quà và bảo lãnh cho mẹ nó, những lúc như thế ông chỉ trợn mắt nhìn nó mà không nói gì. Thằng Toàn buồn qúa mà chẳng biết nói sao. Nó biết bố nó đã mê bà này rồi và còn sợ bà ấy nữa. Nó mong chóng lớn để đi làm rồi gửi tiền giúp mẹ mà sao thấy chậm quá, chậm đến nỗi nó có cảm tưởng nó không cao hơn được tí nào, vì lần nào đứng dựa vào tường để đo cũng thấy cái đầu vừa chấm cửa sổ. Có lần nó nhới lên cũng chỉ cao hơn được chút nữa là hết. Cứ như thế này thì đến bao giờ nó mới đi làm được!
Thằng Toàn nhớ ngày mới đến đảo ở Mã Lai, hai bố con nó được chia cho khoảng trống trong ngôi nhà, kế chỗ của bà Tâm, dì nó bây giờ. Lúc đầu bố nó viết thư cho mẹ nó đều đều, ít nhất một tháng ông viết một lá thư, và mẹ nó cũng chăm viết thư cho bố con nó lắm. Trong thư bà dặn bố nó đủ điều, bà còn nói là nhớ bố con nó nữa! Nhưng từ khi quen biết bà Tâm, rồi hai người rủ nhau đi chơi, thường là ra ngoài bãi biển hóng mát, có khi đến khuya mới về. Và cũng từ đấy bố nó ít viết thư về nhà ở Việt Nam, rồi việc nhận thư của mẹ nó cũng thưa dần, sau đó ngưng hẳn. Có lần bố nó nói mẹ nó ở Việt Nam đã đi lấy chồng khác, nhưng chắc là không đúng. Nó không tin là mẹ nó lại làm như vậy. Nhiều lúc nhớ mẹ, nó muốn viết một lá thư cho bà nhưng không biết viết như thế nào, nó cũng không biết viết địa chỉ làm sao cho đúng, vì hình như đường xá ở Sài Gòn đã đổi tên hết, ngay cả tên phường nó ở hồi xưa hình như cũng thay đổi nữa. Thằng Toàn lại không có cả tiền để mua tem, thành ra dự định viết thư cho mẹ, nó không bao giờ làm được.
Ở trong phòng của dì nó, thằng Toàn nghe được tiếng động từ cái ti vi phát ra, nó đoán là bà đang coi mấy cuốn phim tập Hồng Kông thuê ở ngoài tiệm. Nó cũng thích coi phim tập vì phim nói tiếng Việt nên nó hiểu được chứ không như những phim nói tiếng Anh, ngồi coi mỏi mắt mà chẳng hiểu gì. Bố con nó mới sang Úc được mấy tháng, lại mới đi học, nên chỉ nói được mấy câu do cô giáo dạy. Còn phim trên ti vi người ta nói chuyện trên trời dưới đất nghe điếc con ráy luôn! Hơn nữa, nó cũng ít được coi ti vi vì nhà chỉ có một cái, lúc đầu còn đặt ngoài phòng khách, nhưng rồi dì nó kêu ngồi lâu mỏi lưng, nên bố nó đem ti vi vào trong phòng ngủ để bà ấy vừa nằm vừa coi.
Cũng từ khi cái ti vi được chuyển vào phòng ngủ, hầu như nó hết được coi luôn. Dì thường nói, nó không nên coi vì là phim người lớn. Hơn nữa, nó phải để thì giờ học bài. Nhưng chắc là không phải như vậy, vì khi không được coi ti vi, nó bỏ đi lang thang ở ngoài đường hay chơi với con Thúy, bà cũng đâu có nói gì.
Dù không muốn gặp dì nó, cuối cùng thằng Toàn cũng phải vào nhà vì bên ngoài đã tối hẳn. Khi đi ngang phòng khách, nó thấy bố nó đang ngồi ở cái bàn trong bếp ăn cơm. Còn dì nó thì vẫn nằm trong phòng coi phim tập như nó đoán khi còn ở ngoài vườn. Bà mê phim tập hơn tất cả mọi thứ! Thường thường mỗi khi đi thuê phim, bà thuê cả một chồng, chắc đến mười cuốn, nhiều như vậy mà bà coi một mạch hết luôn. Có khi bà coi từ sáng ngày hôm trước đến sáng ngày hôm sau mới đi ngủ. Những hôm như vậy thường vào cuối tuần, vì nếu là ngày thường thì bố nó phải đi ngủ sớm để sáng hôm sau còn đi làm, nên bà không dám thức đêm để coi. Dù sao thì bà cũng còn nể bố nó chuyện đó. Thật ra, nếu không để cho bố nó ngủ thì ông đâu đủ sức để đi làm lấy tiền cho bà thuê phim!

Có lần bố nó cự, bà la toáng lên, hai người nói qua nói lại một hồi rồi bố nó im re luôn. Rồi từ đấy chẳng những bố nó không còn cự bà ấy nữa mà còn mê phim tập mới chết chứ, nên cũng có khi hai ông bà thức suốt đêm coi luôn! Những lúc như thế thằng Toàn muốn làm gì cũng được, vì cả hai ông bà cùng ở trong phòng ngủ suốt ngày. Kể ra như thế cũng sướng. Nhưng được cái này mất cái khác. Cơm nước bà không nấu nên cả nhà ăn mì gói hoặc bánh mì. Có khi bà nấu nước sôi làm mì gói cho hai bố con nó, cũng có khi bố nó làm. Gần đây thì tự nó nấu lấy mì gói để ăn. Nếu nó không muốn ăn mì gói thì nó cũng có thể ăn bánh mì. Thứ này cũng dễ làm, chỉ việc nướng bánh mì lên rồi trét chút bơ là xong. Nhưng dù ăn gì nó cũng không thấy ngon bằng ăn cơm. Giá có mẹ nó ở đây thì bà nấu cơm hằng ngày chứ không ăn mì gói như thế này đâu! Thằng Toàn thấy bố nó đang ăn bỗng ngước lên nhìn nó, rồi lại cúi xuống ăn tiếp. Ông thường nhìn như thế mà không nói gì, nên nó bỏ vào phòng ngủ luôn. Phòng ngủ của thằng Toàn chỉ bằng nửa phòng ngủ của bố nó nhưng nó vẫn thấy rộng vì chỉ có cái giường ngủ và một cái bàn con cho nó ngồi học là hết. Lúc mới bắt đầu ngủ riêng, nó sợ ma nên trùm chăn kín mít từ chân đến đầu, nhưng rồi nó không chịu nổi vì mùa hè ở đây nóng quá. Hơn nữa, từ ngày dì nó mê phim tập nó ít sợ ma hơn vì lúc nào cũng nghe được tiếng động từ phòng bên ấy vọng sang. Nó cứ nghe người lớn nói là phải yên tĩnh mới ngủ được. Còn nó thấy ngược lại, phải ồn ào mới dễ ngủ, nhưng cũng vừa vừa thôi, còn ồn quá như những ngày ở đảo thì cũng khó ngủ thật, nhất là khi dân tị nạn đến đảo nhiều, một nhà nhỏ có khi chứa đến mấy chục người, có khi hàng trăm, lúc nào cũng ồn ào không về chuyện này cũng về chuyện khác. Có khi còn cãi nhau, đánh nhau nữa!
Nó tưởng chỉ trẻ con mới đánh nhau, cãi nhau về những chuyện lặt vặt. Ai ngờ người lớn cũng vậy thôi, có khi còn có vẻ tệ hơn nữa!
Khi thằng Toàn leo lên giường nằm, thì hình như bên phòng của bố nó cũng tắt ti vi, vì nó không nghe tiếng nói của những người ở trong phim nữa. Nó hơi ngạc nhiên vì những đêm cuối tuần như đêm nay ít khi nào bố và dì nó đi ngủ sớm. Một lúc sau thì nó nghe tiếng thì thầm của hai ông bà. Nó lắng nghe nhưng không hiểu gì vì hai người nói nhỏ quá. Thằng Toàn chợt nghĩ đến con Thúy. Mai mốt lớn lên nó sẽ lấy con Thúy làm vợ, sẽ thương yêu con Thúy chứ không bỏ vợ như bố nó đâu. Nhưng con Thúy phải hiền như mẹ nó kia, chứ nếu dữ dằn như dì nó thì nó nghỉ chơi luôn.
Thằng Toàn không hiểu sao bố nó lại đi mê bà Tâm, vì theo ý nó mẹ nó đẹp hơn bà ấy rất nhiều, mặc dầu bà ấy trẻ hơn. Hồi còn ở đảo khi bố nó mới quen bà, Thằng Toàn nghe nói là bà cũng đã có chồng nhưng không hiểu sao bà chỉ vượt biên có một mình, cũng có người nói bà ấy tằng tịu với một gã hàng xóm nào đó nên hai vợ chồng bỏ nhau. Sau đó lại bị vợ tên hàng xóm đánh cho một trận nên thân, nên cuối cùng bà phải vượt biên một mình. Chẳng biết bố nó có biết những chuyện như thế không mà lại táp phải bà này. Thứ người như vậy mà ông cũng đâm đầu vào!
Mặc dầu những tiếng động ở bên phòng của bố nó đã ngưng từ lâu nhưng thằng Toàn vẫn chưa ngủ được, nó lăn qua lăn lại hoài. Ít có đêm nào nó khó ngủ như đêm nay. Có lẽ tại vì trời nóng quá! Nó nghe người ta nói, hôm nay là ngày nóng nhất trong 7 năm qua, mà có lẽ như thế thật, vì nó còn thấy nóng hơn cả những ngày ở Sài Gòn. Bố nó có hứa sẽ mua cho nó một cái quạt máy mà vẫn chưa thấy ông mua. Chắc là ông bận lu bu nhiều chuyện quá nên quên mất. Phiền một nỗi là chỉ khi nào nóng nó mới nhớ đến quạt máy, còn không, nó cũng quên luôn!
Tuy trời nóng, nằm một lúc sau nó cũng ngủ được. Khi tỉnh dậy thì bên ngoài trời đã sáng hẳn. Nhìn qua khung cửa nó biết là mặt trời đã mọc, vì ánh nắng đã nhuộm vàng mấy đỉnh ngọn cây cao nhất ở vườn nhà hàng xóm. Bên phòng ngủ của bố nó vẫn chưa nghe thấy tiếng động, chắc ông bà còn ngủ. Toàn hơi ngạc nhiên vì mọi ngày bố nó dậy sớm lắm để đi làm, nhưng chợt nhớ ra ngay hôm nay là thứ bảy, ông được nghỉ, và cả nó nữa cũng không phải đi học.
Nghĩ đến đi học, Toàn lại nhớ đến mấy thằng bạn người Úc của nó. Tụi nó thường rủ thằng Toàn chơi chung, nhưng chơi với tụi nó không thích bằng chơi với con Thúy, nhất là trong lớp học chỉ có nó và con Thúy là người Việt. Nghĩ đến con Thúy, thằng Toàn muốn trở dậy rồi chạy đến nhà con Thúy chơi nhưng lại không dám, vì những ngày như hôm nay, nếu nó dậy sớm thì rất dễ bị bố nó mắng vì làm ông mất ngủ. Hơn nữa, mặc dầu trời đã sáng lắm cũng vẫn còn sớm quá nếu nó sang chơi nhà con Thúy vào giờ này.
Toàn nằm thêm một lúc nữa cho đến khi nghe tiếng nói chuyện nó mới trở dậy. Khi ra đến bên ngoài thì thấy bố và dì đang ngồi uống cà phê. Trong hai cái tô để trước mặt hai người chỉ còn chút nước ở dưới đáy, và mấy sợi mì gói còn sót lại. Nó không hiểu sao dì nó hay làm món mì gói đến thế. Hình như ngày nào cũng ăn mì gói, nhất là những ngày bà coi phim. Thứ đó lúc đầu ăn thì ngon thật, nhưng ăn lâu ngày chán ngắt! Nó nhớ lần đầu tiên được ăn mì gói nó có cảm tưởng sẽ ăn hoài không biết ngán. Ấy vậy mà bây giớ nó chán mì gói hơn bất cứ thứ gì. Chán thì chán cũng phải ăn vì đâu còn thứ gì nữa! Bánh mì thì ngày nào đi học nó cũng phải mang theo ăn bữa trưa rồi, chẳng lẽ bây giờ lại ăn bánh mì nữa!
Nghĩ vậy, nó đành mở nước cho chảy vào bình rồi cắm điện. Bây giờ nó đã quen công việc này nên nó có thể làm mì lấy cho nó được. Toàn rất sợ khi phải nhờ dì nó làm giúp việc gì vì thế nào cũng bị mắng. Bố nó thì dễ hơn bà một chút nhưng chỉ khi nào ông rảnh rỗi thôi, còn lúc ông bận thì vẫn bị mắng như thường! Vì vậy, hễ làm lấy được là thằng Toàn lẳng lặng làm, không nhờ dì mà cũng không nhờ bố làm giúp. Thằng Toàn xé bao mì đổ vào cái tô, sau đó đổ nước sôi lên rồi đứng đợi cho mì chín tới, thỉnh thỏang lại liếc trộm vào phòng ăn, nơi hai ông bà đang ngồi. Nó nghe tiếng dì cằn nhằn bố nó gì đó nhưng vì đứng hơi xa nên nó nghe tiếng được tiếng mất. Còn bố nó chỉ ngồi lặng thinh không nói tiếng nào. Từ khi lấy bà Tâm hình như bố nó hiền lại, ông thường ngồi yên lặng mỗi khi bị bà cằn nhằn.
Thằng Toàn thường gọi lén dì nó là bà Tâm, nếu mà bố nó nhất là dì nghe được, thế nào nó cũng bị cốc vào đầu một cái. Bà bắt nó phải gọi là "mẹ", nhưng nó ngượng miệng quá nên thỉnh thoảng lại quên. Thậm chí, gọi bằng "dì" bà cũng không bằng lòng. Nó không hiểu tại sao bà không thích tiếng đó vì nghe người ta nói phải gọi như vậy mới đúng. Thằng Toàn biết điều này lúc còn ở trên đảo khi có nhiều người Việt ở với nhau. Còn ở đây nó chẳng quen ai, trừ gia đình con Thúy, nhưng con Thúy cũng mù tịt như nó nên không thể hỏi được, còn bố mẹ con Thúy thì ít nói chuyện với thằng Tòan lắm. Hai ông bà bận suốt ngày với hai cái máy may ở trong phòng, khi nó đến cũng ít khi nào gặp được. Ăn xong gói mì là nó ra khỏi nhà. Mới sáng sớm mà nắng đã thật gay gắt. Nghe nói đến hè bố nó cũng được ghỉ gần bốn tuần, còn nó thì được nghỉ lâu hơn nhiều!
Thằng Toàn bỗng nhớ đến những ngày nghỉ hè ở Việt Nam, những ngày ấy nó cùng đám bạn bè đi khắp Sài Gòn. Từ xóm Chùa nó đi bộ lên đến chợ Bến Thành rồi lại trở về, có khi xuống tận chợ An Đông. Bây giờ nó chỉ còn nhớ đường đi đến chợ Bến Thành thôi, còn chợ An Đông thì không nhớ nữa vì phải đi quanh co, băng hết đường này sang đường khác.
Thật ra, nếu bỏ một mình, nó không dám đi đâu hết vì sợ lạc đường, nhưng hồi đó có thằng Tăng "đầu bò", nó lớn hơn hết, lại không biết sợ ai, dẫn đường nên cả bọn đi theo. Thằng Tăng- đầu- bò còn có tài xoay xở nên có khi cả bọn còn được ăn thứ này, thứ khác...
Thằng Toàn đi dọc theo lề đường, hàng cây hai bên mới bị chặt cụt đầu trông vừa tội nghiệp vừa buồn cười. Cây nào cây ấy gần như trụi hết lá, giơ mấy cái cành bị cưa máy cắt ngang ở giữa như cánh tay người bị cụt. Nó không hiểu tại sao ở đây người ta lại làm như vậy. Hồi ở Việt Nam nó thấy hai bên đường cây nào cây ấy cao nghệu, cành lá xum xuê, xanh rì, rợp bóng mát, trông đẹp hơn nhiều. Có lần nó hỏi người ta thì nghe nói để cây khỏi chạm vào dây điện ở trên cao. Chắc là như vậy, chứ chẳng lẽ lại chặt khơi khơi, trông vừa xấu vừa mất công dọn dẹp.
Khi đến trước cửa nhà con Thúy, thằng Toàn giơ tay nhấn chuông, đứng ở bên ngoài nó cũng nghe được một đoạn nhạc ngắn do cái chuông phát ra. Nó rất thích loại chuông này, có lần nó đòi bố nó mua một cái chuông như nhà con Thúy, nhưng bố nó trừng mắt, nói:
- Nhà thuê thì có cái nào dùng cái đó, chuông với "trống" cái gì!?
Bố nó hay nói kiểu đó, nó chỉ xin mua chuông ông lại nói cả trống ở trong đó nữa, nhưng như thế là không được rồi!
Thằng Toàn vừa đứng đợi vừa nghĩ đến câu trả lời của bố. Mọi khi hễ nó nhấn chuông là thế nào con Thúy cũng chạy ra xem là ai đến nhà. Hình như bố mẹ con Thúy giao việc này cho nó, vì phần đông khách là người Úc mà bố mẹ con Thúy lại không biết nói tiếng Anh thành ra con Thúy là người tiếp mọi loại khách, chỉ khi nào có người cần gặp bố mẹ nó, nó mới gọi ra. Có lần con Thúy kể chuyện, bố mẹ nó nói, hễ có ai đến, cứ việc trả lời bố mẹ nó không có ở nhà! Nếu muốn nhắn gì thì nói với nó, nó sẽ cho bố mẹ nó biết sau. Con Thúy nói tiếng Anh "xịn" hơn thằng Toàn nhiều vì sang đây đã được ba, bốn năm rồi. Bố mẹ con Thúy lại chịu khó làm việc, ông bà suốt ngày ở trong phòng với hai cái máy may nên đã mua được nhà, nhưng cũng phải mượn nhà băng nhiều tiền lắm!
Đứng chờ một lúc không thấy con Thúy ló mặt ra, thằng Toàn lại nhấn chuông một lần nữa. Tiếng nhạc lại vang lên ở phía trong nhưng vẫn không có người nào ra mở cửa. Nó nhấn chuông thêm một lần nữa nhưng vẫn không thấy con Thúy đâu hết. Thằng Toàn ngạc nhiên không hiểu tại sao lại như vậy. Chẳng lẽ cả nhà con Thúy vẫn còn đang ngủ, mà ngủ gì vào giờ này nữa, gần chín giờ sáng rồi! Con Thúy thường nói là nhà nó dậy sớm lắm mà, còn con Thúy thì dậy muộn hơn một chút nhưng chỉ khoảng bảy giờ sáng là nó đã dậy rồi! Hay là cả nhà con Thúy đã đi đâu hết?
Thằng Toàn ngồi trước bậc thềm nhà con Thúy, ngay chỗ ánh nắng chiếu vào. Nó thấy người Úc hay cởi trần phơi nắng, nhất là ở ngoài bãi biển, có cô còn cởi hết chỉ trừ cái xi líp là chưa cởi, nằm tênh hênh trên bãi cát chỗ nhiều người qua lại. Hồi ở Việt Nam nó không bao giờ thấy đàn bà con gái làm như vậy, chỉ thấy vú của mấy bà vạch ra cho con bú mà cũng giấu kỹ lắm, chỉ để lòi ra mỗi cái đầu vú chứ đâu có như ở đây! Thằng Toàn đoán chừng chắc con Thúy khi lớn lên cũng giống như mấy cô cởi trần phơi nắng ngoài bãi biển, chứ hiện giờ ngực nó cũng tẹt lét như thằng Toàn chứ chẳng có gì. Nó biết rõ như vậy vì một lần đã thấy con Thúy cởi áo ra thay trước mặt nó. Ngồi ngoài nắng một lúc nó thấy người nóng bỏng, nên thụt lui vào bóng râm của mái hiên nhìn ra mấy khóm hoa trước nhà. Chắc bố con Thúy thích hoa nên trước cửa trồng thật nhiều loại, có thứ trông rất lạ nên nó chẳng biết gọi là gì. Có lần nó hỏi con Thúy, con bé cũng tịt lít luôn!
Chờ một lúc nữa không thấy con Thúy đâu, thằng Toàn đứng dậy định trở về nhà. Nhưng khi ra đến bên ngoài nó lại đổi ý, nên chạy ra phố ở gần đấy chơi. Nó sờ tay vào túi quần thấy đồng hai mươi xu vẫn còn nằm dưới đáy túi, nên rảo bước ra tiệm cho thuê phim video ở gần đấy định chơi "game". Nó rất thích chơi loại máy này nhưng chơi tốn tiền quá mà bố nó thì chẳng bao giờ cho tiền, nên chỉ khi nào nhặt được tiền mới chơi, mà việc nhặt được tiền rớt ở ngoài đường lại ít khi xẩy ra, thành thử có lần nó đã định lấy đồng hai mươi xu của bố nó vất ở góc bàn nhưng rồi lại không dám. Nghĩ đến chơi game, nó lại rảo bước đến tiệm cho thuê phim gần đó. Vừa đến góc đường thì con Thúy và bố nó về. Nhìn thấy cái xe của bố con Thúy là nó nhận ra ngay, cái xe màu đỏ lại bị móp ngay ở đầu, chỗ có cái đèn. Nghe nói cái xe bị móp ngay ngày đầu tiên bố con Thúy mới mua về. Không biết ông lái loạng quạng sao đó mà tông ngay vào tường nhà nó. Nhưng từ ngày đó ông lái cẩn thận hơn nên không bị móp thêm nữa.
Thằng Toàn thấy con Thúy, nó chạy ngược trở lại theo xe về nhà. Khi đến cổng thì xe cũng ngừng, con Thúy thò đầu ra nói với nó:
- Tao phải đi ngay bây giờ, mẹ tao bệnh phải chở vào nhà thương đêm hôm qua. Mày về đi, khi nào mẹ tao khỏi, tao sang.
Thằng Toàn thất vọng quay lại đường cũ để ra phố, nhưng bây giờ thì nó mất hứng rồi, không còn muốn chơi game nữa. Nhưng không ra đấy thì chẳng biết đi đâu nên nó tiếp tục đi, đến nơi thì mới biết rằng tiệm chưa mở cửa. Nó chợt nhớ ra mấy tiệm cho thuê phim thường mở cửa rất trễ. Đứng tần ngần một lúc không biết làm gì nó đành về nhà. Nếu có thằng bạn nào ở gần đây thì thế nào nó cũng đến chơi với thằng ấy, nhưng nó ít bạn quá mà thằng nào cũng xa lắc! Hơn nữa, nó chưa giỏi tiếng Anh nên chơi với tụi nó cũng chẳng thích thú gì! Thằng Toàn chợt nhớ đến mấy thằng bạn ở xóm Chùa của nó, khu xóm lao động nghèo nhưng lại có bãi đất trống cạnh trường học nên tụi nó tha hồ đem bóng ra đá với nhau. Nếu không chơi bóng thì cũng chạy vào trong xóm, tít tận phía trong, chỗ sát mé sông để câu lươn. Rồi còn nhiều trò chơi khác nữa, nó không bao giờ phải nghĩ để tìm trò chơi.
Trong xóm Chùa ngày xưa cũng có con Trâm ở cạnh nhà nó. Con Trâm nhiều khi năn nỉ nó cho con Trâm đi theo mà nó không chịu. Không phải là thằng Toàn ghét gì con Trâm, nhưng trò chơi của con trai khác con gái. Hơn nữa, có những chuyện nó không thể cho con Trâm biết được, nếu con Trâm biết, nó có thể kể cho người khác nghe là chết cả lũ! Thằng Toàn và hai thằng nữa, thằng Tư- què và thằng Bảy- lé, đã thề với nhau là không được kể cho ai biết, nên dù con Trâm có năn nỉ đến đâu nó cũng không thể cho con Trâm theo được, vì chắc chắn hai thằng kia sẽ không chịu.
Con đó cũng vô duyên, con gái mà cứ chạy theo con trai đòi chơi chung hoài! Nhưng bây giờ nghĩ đến con Trâm nó thấy tội nghiệp. Trong ba thằng chơi với nhau thằng Toàn cũng biết là mình hiền lành nhất. Còn hai thằng kia là quỷ sứ. Nhiều trò chơi hai thằng kia bày ra nó cũng không thích, nhưng rồi không dám nói gì, vì nếu có nói tụi nó cũng không nghe, còn bị chọc quê là cù lần.
Nghĩ lại chuyện đó thằng Toàn thấy hơi bực mình. Trong thời gian làm bạn với hai thằng Tư què và Bảy lé, nó thường bị hai thằng cấu kết với nhau để chơi gác nó! Giá có hai thằng đó ở đây thì thế nào hai thằng đó cũng phải chịu thua thằng Toàn, vì ít nhất nó còn biết đọc, biết viết, và bây giờ còn biết tiếng Anh. Còn hai thằng kia thì mù tịt vì tụi nó có học gì đâu, đọc chữ nào cũng phải đánh vần một lúc mới ra! Nghĩ đến đấy thằng Toàn cảm thấy hãnh diện với hai thằng bạn cũ, nhưng bây giờ tụi nó ở xa lắc, thành ra thằng Toàn có giỏi hơn tụi nó cũng không biết, nên điều nó hãnh diện cũng chỉ là hãnh diện thầm thôi. Có cũng như không!
Mấy hôm sau thằng Toàn nghe tin mẹ con Thúy chết trong nhà thương. Nghe bố nó nói, mẹ con Thúy làm nhiều quá nên kiệt lực chết. Bố nó còn nói mẹ con Thúy đạp máy may từ mờ sáng đến 12 giờ khuya mới đi ngủ. Sáng, trưa, chiều, tối, bữa nào cũng ăn uống qua loa rồi lại ngồi vào bàn máy may, cắm cúi đạp. Mà nghe nói thường thường bà cũng hay nấu mì gói cho đỡ tốn thì giờ. Có người còn nói, bà không dám uống nước, vì uống nhiều phải đi đái nhiều, đứng lên ngồi xuống nhiều lần cũng tốn thì giờ nữa!
Thằng Toàn chợt nghĩ đến dì nó, bà không làm việc như mẹ con Thúy, nhưng cũng rất bận rộn với mấy cái phim tập Hồng Kông. Có điều giống nhau giữa hai bà là bà nào cũng hay ăn mì gói! Dì nó cũng sợ nấu nướng tốn thì giờ, nên bữa trưa thế nào bà cũng nấu mì gói, hoặc ăn uống bây bạ gì đó cho qua bữa. Chỉ có bữa chiều thỉnh thoảng bà mới nấu cơm. Có lẽ tại bố nó đi làm vất vả nên phải ăn cơm mới được. Nếu không, dù hiền, thế nào ông cũng cự nự. Nghĩ đến mẹ nó nên thỉnh thoảng thằng Toàn mong bố và dì nó cãi nhau một trận rồi bỏ nhau luôn. Nhưng hình như điều ấy khó xẩy ra lắm. Khi nào tức lắm ông mới lẩm bẩm một lúc rồi đến khi bị dì nó nói lại là ông im re luôn! Dạo này thằng Toàn ít được gặp con Thúy, nó buồn vì mẹ nó chết nên không đi chơi nữa. Nhiều khi nó muốn đến nhà con Thúy nói câu gì đó cho nó đỡ buồn mà không dám. Hơn nữa, nói theo kiểu người lớn, chia buồn với nhau mỗi khi có người chết nó không quen, thành thử nó nhớ con Thúy mà không gặp được!
Ít lâu sau, nhà con Thúy treo bảng bán, nhưng không phải là bán theo kiểu thông thường mà là đấu giá gì đó. Nó không hiểu hai chữ đó là gì, nhưng nghe nói là thiếu nợ nhiều, không trả được thì thường phải bán theo kiểu đó. Khi đi ngang nhà con Thúy, nó ghé vào nhấn chuông nhiều lần, nhưng không ai ra mở cửa. Bố con con Thúy đã dọn ra khỏi ngôi nhà và đi ở đâu đó nó không biết. Thằng Toàn thấy giận con Thúy thật nhiều, đi mà không nói với nó một tiếng để nó biết lối mà tìm, nếu không tìm được bây giờ, khi lớn lên thế nào nó cũng tìm được.
Khi trở về nhìn hàng cây bị chặt cụt đầu trước mặt, nó thương con Thúy. Con Thúy cũng giống như hàng cây, bị chặt mất một phần cuộc đời. Tự nhiên nước mắt nó ứa ra.
Cái nơ hình con bướm
Vừa chạy đến đầu đường thằng Hưng trở lại ngay, nó sực nhớ con Lan đã nói với nó là sáng nay con Lan phải đi nha sĩ nhổ răng.
Thằng Hưng sợ nhất là phải đi nha sĩ, ngồi trên cái ghế cao nghệu, phải há miệng cho ông nha sĩ lấy cái khoan, khoan sè sè vào răng thấy mà ớn. Ấy vậy mà hình như con Lan không biết sợ nên hôm qua còn khoe: "Sáng mai tao đi nha sĩ nhổ răng, mẹ tao nói vậy". Trời ơi! đi nha sĩ mà nó làm như được đi sở thú không bằng. Chắc con này chưa đi nha sĩ bao giờ nên không biết sợ. Thằng Hưng định nói hù con Lan mấy câu nhưng rồi thấy tội nghiệp nên lại thôi.
Hồi còn ở đảo, gia đình nó và gia đình con Lan ở chung một góc nhà, tổng cộng là năm người tất cả: hai mẹ con thằng Hưng, con Lan và bố mẹ nó. Rồi khi biết cả hai gia đình đều được đi Úc thì mẹ nó và mẹ con Lan có vẻ thân nhau hơn. Và bây giờ thì cả hai gia đình đều rủ nhau dọn về khu Dulwich Hill này sinh sống. Nó nghe mẹ nó nói ở đây tiện, gần xe lửa, xe buýt, lại không qúa xa Marrickville là nơi có nhiều cửa hàng buôn bán của người Việt. Thằng Hưng đã được mẹ nó cho đi Marrickville rồi, dưới đó nhiều cửa hàng, đông đúc hơn trên này nhiều. Có lần nó đòi mẹ nó xuống thuê nhà ở dưới ấy cho vui nhưng mẹ nó không chịu. Mẹ nó nói đông người qúa không tốt, nó không hiểu tại sao lại không tốt, đông hơn thì vui hơn chứ có gì đâu!
Thằng Hưng trở về nhà thì mẹ nó đã vào phòng may, vì nó nghe tiếng máy kêu "rẹc" "rẹc" ở trong đó. Cái máy kêu lớn quá nên mẹ nó phải kê một cái chăn ở dưới cho đỡ rung, nhưng hình như cũng không giảm được bao nhiêu. Mẹ nó còn cẩn thận kê cái máy ở góc phòng, chỗ không gần với nhà nào ở bên cạnh vì mẹ nó sợ người ta phàn nàn là gây tiếng động lớn qúa. Mẹ nó thường vào phòng may từ sáng sớm đến gần trưa mới trở ra, lo ăn uống qua loa, rồi lại chui vào phòng may nữa. Có nhiều lần mẹ nó bắt nó phải phụ cắt chỉ nữa, nó rầu ơi là rầu, nhưng mỗi lần như vậy mẹ nó lại hứa cho cái này cái khác, nhưng cái nó thích nhất là cái xe có "remote control" thì mẹ nó lại không cho, bà nói chơi mấy thứ đó uổng tiền, số tiền đó dùng để mua qùa gửi về giúp bà nội và bà ngoại thì tốt hơn. Thấy xin nhiều lần không được nên nó không dám xin nữa.

Thằng Hưng ngồi xuống bậc thềm nhìn ra bãi đậu xe ở phía dưới. Mấy cái xe đậu ở sân đều cũ và xấu. Mai mốt lớn lên nó mua một cái thật đẹp kia. Xe thể thao chỉ có hai cửa, mới hách! Nó đã nhìn thấy mấy cái xe đẹp thỉnh thoảng chạy ngoài đường và ao ước thật chóng lớn để đi làm có tiền mua xe. Có lần nó nói điều ấy với mẹ nó, bà nói: "Muốn sau này mua xe đẹp thì phải học giỏi mới được!". Nó học cũng tạm được vì thỉnh thoảng cô giáo có khen nó, nhưng giỏi thì chắc là chưa vì trong lớp nhiều đứa giỏi hơn nó. Nó nhớ có lần nó hứa với mẹ là sẽ cố gắng học nhưng thỉnh thoảng lại quên. Nó bực nhất là mỗi khi không hiểu bài không biết hỏi ai, phải chi bố nó còn sống thì chắc nó hỏi được.
Thằng Hưng còn nhớ lần cuối cùng đi thăm bố nó ở trại cải tạo Suối Máu, lúc ra nhà thăm nuôi thấy mẹ con nó ông còn cười cười. Nó biết ông cười như vậy nhưng không vui đâu, nó còn thấy mẹ nó khóc nữa. Mà không phải chỉ một mình mẹ nó khóc, mấy bà đi thăm nuôi hình như bà nào cũng khóc!
Qua kỳ thăm nuôi ấy, ít lâu sau thì được tin bố nó chết, ông chết vì đi lao động cuốc phải trái mìn. Nó nhớ khi nghe tin ấy mẹ nó khóc mấy ngày, sau đó mới tính chuyện vượt biên. Chuyến đi ấy, mẹ con nó may mắn, vì chỉ mấy ngày sau là đến Mã Lai, không gặp hải tặc, cũng không có sóng gió gì nhiều. Nói vậy thôi, chứ từ khi ra đến cửa biển là nó thấy mẹ nó nằm dí một chỗ vì say sóng, nếu mà sóng to gió lớn thì nó không biết làm thế nào mẹ nó chịu nổi. Khi đến dảo nó mới thấy chuyện vượt biên là khủng khiếp. Nó nghe không biết bao nhiêu chuyện hãi hùng xẩy ra trên biển, nhất là bọn hải tặc Thái Lan, tụi nó giết hết đàn ông, hãm hiếp đàn bà. Chưa kể chuyện ghe bị chết máy lênh đênh trên biển cả tháng trời, không có gì để ăn cũng không có gì để uống!
Tiếng máy may của mẹ nó vẫn chạy "rẹc" "rẹc" trong phòng. Máy rống lên từng hồi dài ngắn khác nhau theo cái nhấn chân của mẹ nó. Hồi ở Sài Gòn nó chưa nhìn thấy lọai máy này, nó nặng đến nỗi mỗi khi cần chuyển từ phòng này sang phòng khác là mẹ nó phải gọi cả bố mẹ con Lan sang giúp, còn nó và con Lan thì chẳng làm được gì nên bị đuổi ra chỗ khác chơi.
Thằng Hưng nhớ hồi mới gặp con Lan ở đảo, con bé suốt ngày chạy đi chơi với con Cúc và con Mai. Thằng Hưng không ưa con Cúc và con Mai mấy, hai đứa hay rủ con Lan đi chơi thật xa, chẳng mấy khi nó chơi với thằng Hưng được lâu. Ðang chơi với thằng Hưng mà hai đứa kia rủ đi là nó đi ngay. Có lần nó đã định nghỉ chơi với con Lan nhưng rồi thấy khó qúa. Con Lan nó có cái gì ấy mà thằng Hưng cảm thấy quyến luyến khó mà xa được. May cho thằng Hưng là gia đình con Lan cũng được đi Úc lại ở gần gia đình nó nữa.
Ngày còn ở đảo, thằng Hưng cũng có mấy thằng bạn, thằng Trần, thằng Thịnh, thằng Trung, nhưng mới chơi thân được một chút lại chia tay, mỗi đứa đi một ngả. Thằng Trần , thằng Thịnh nghe nói được đi Mỹ, còn thằng Trung được đi Pháp. Ði Mỹ thì chắc vui hơn Úc vì nhiều người thích đi Mỹ lắm . Nó cũng thích đi Mỹ nhưng mẹ nó lại thích đi Úc nên nó đành chịu. Hơn nữa gia đình con Lan cũng đi Úc nên nó cũng không phàn nàn gì. Sang Mỹ mà không có con Lan thì buồn chết.
Ngồi trước thềm nhà một lúc thằng Hưng đâm chán nên lại đứng lên đi ra khu phố buôn bán gần đấy. Nó cũng có thằng bạn người Úc là David, nhưng nhà thằng này ở xa qúa nên nó không thể đến chơi. Có điều nói chuyện với thằng David không đã cái miệng bằng nói chuyện với con Lan vì nó chưa biết nhiều tiếng Anh. Còn nói chuyện với con Lan thì cả hai đưá đều tán dóc tía lia được. Cái miệng con Lan dẻo quẹo, cái môi mỏng mỏng, xinh xinh, lại còn rành tiếng Việt hơn cả thằng Hưng nữa. Bố con Lan dạy thêm cả tiếng Việt cho nó vì ông sợ nó quên, còn mẹ thằng Hưng thì không dạy được, hơn nữa bà còn bận may. Mẹ nó chăm lắm, bà ngồi hì hục may suốt ngày ở trong phòng. Có lẽ mẹ nó buồn vì tiếng Anh không biết,cũng chẳng biết đi đâu chơi nên cắm đầu vào may, vừa có thêm tiền vừa đỡ buồn. Ðấy là nó nghe mẹ con Lan nói với bố con Lan như vậy, nên chắc mẹ nó cũng giống như mẹ con Lan thôi.
Ra đến ngoài phố thằng Hưng rẽ vào tiệm cho thuê băng video mà chủ là người Việt, trong đó có đặt máy "game". Nó thích chơi game lắm, nhưng lại không có tiền nên chỉ đứng nhìn mấy đứa khác chơi. Thỉnh thoảng nó cũng có đồng hai mươi xu mẹ nó cho nhưng chỉ bỏ vào máy chơi một chút xíu là hết ngay, nó chơi dở nên không chơi được lâu.
Thằng Hưng đang đứng ở tiệm cho thuê băng thì nó thấy bóng cái xe màu đỏ của bố con Lan, Nó đoán là con Lan đã đi nha sĩ về rồi, nên chạy trở ngược đến nhà con Lan, nhưng khi đến nơi nó mới biết là mình nhầm, vì nhà con Lan cửa vẫn đóng, cái xe màu đỏ của bố nó cũng không có ở nhà, thằng Hưng thất vọng đứng tần ngần một lúc rồi trở về nhà. Ðến lúc này thằng Hưng mới thấy thèm được đi học, dù sao cũng có bạn. Bạn của nó ở gần đây thì chỉ có mỗi con Lan thôi, mà nó lại không gặp được!
Thằng Hưng đi dọc theo con đường để về nhà nó, nó đi chậm lại vì về nhà cũng chẳng biết làm gì. Khi đến cạnh ga Dulwich Hill thì nó thấy một cái xe lửa chạy vụt qua mà không đậu lại. Thỉnh thoảng nó cũng được mẹ nó dẫn đi Cabramatta bằng xe lửa, nó thích lắm nên vẫn thường đòi mẹ nó dẫn đi chơi. Ở dưới Cabramatta còn đông người Việt hơn và phố xá cũng vui hơn cả Marrickville nữa, nhưng mẹ nó thỉnh thoảng mới đi một chuyến. Khi nào đòi mà mẹ nó không muốn đi là bà khất lần hay nói bận không đi được. Mà mẹ nó bận thật vì suốt ngày bà ngồi may, nếu nó phải ngồi suốt ngày ở một góc phòng như mẹ nó là nó ngủ gật ngay.
Khi quẹo vào nhà, thằng Hưng mới để ý đến một cây lá đỏ ở ngôi nhà phía bên kia hàng rào, lá của nó đỏ như lưả, đỏ rực rỡ một góc vườn, mà khi mới nhìn thấy nó giật mình, rồi ngạc nhiên, là tại sao một cây lạ lùng đến như vậy mà đến bây giờ nó mới thấy!
Vừa lúc ấy, mẹ thằng Hưng ở trong nhà nhìn thấy nó lên tiếng gọi:
- Con vào nhà mẹ nhờ một tí.
Nó "vâng" , rồi chạy vào. Mẹ nó nói tiếp:
- Con chạy sang nhà con Lan mượn cho mẹ cái kéo cắt chỉ, kéo của tao để đâu mất rồi. Hay con đi tìm cho mẹ xem nó ở đâu. Nhà có một chút xíu mà tao tìm mãi không ra!
Thằng Hưng vào phòng may của mẹ nó, phòng tối như bưng vì mẹ nó đã đóng hết mọi cửa sổ và cửa ra vào, chỉ có một ngọn đèn của cái máy may là còn đang sáng, nó phải bật cái đèn ở giữa phòng lên. Thằng Hưng lại gần cái máy may thì nó thấy cái kéo cắt chỉ nằm phơi mình giữa cái hộp bằng nhựa, nơi mẹ nó hay cất các đò đạc lỉnh kỉnh liên quan đến việc may vá . Nó hớn hở đưa ra cho mẹ nó:
- Con tìm thấy rồi.
Mẹ nó ngạc nhiên:
- Con tìm thấy kéo ở đâu?
- Con tìm thấy trong thùng nhựa cạnh cái máy may ấy.
Mẹ nó chép miệng:
- Ấy, bây giờ tao thế đấy! Có khi đang cầm cái kéo ở trong tay mà lại đi tìm kéo cũng nên. Cũng có khi nó sờ sờ trước mắt mà lại không thấy.
Thằng Hưng bỗng nhìn mẹ nó lo ngại, nhưng rồi mẹ nó lại vào phòng may để làm việc nên nó cũng quên ngay cái kéo cắt chỉ và tính hay quên của mẹ nó. Sực nhớ có bài tập cô giáo giao cho về nhà làm, nên nó lấy bài ra ngồi ngay ở cái bàn hai mẹ con nó thường ngồi ăn để làm bài, thỉnh thoảng lại nhìn ra mong con Lan sẽ đến chơi với nó. Một lúc sau vì mải làm bài tập nên nó cũng không còn nhớ đến con Lan nữa.
Ngày hôm sau thằng Hưng mới gặp con Lan. Mới nhìn thấy thằng Hưng, con Lan cười, thằng Hưng nhận ra ngay cái răng hà của con Lan ở trước cửa đã bị nhổ mất, làm con Lan có vẻ gì là lạ.
- Mày nhổ răng có đau không?
Con Lan nhăn nhó:
- Ðau lắm! Cái ông nha sĩ ông ấy cầm cái kim chích dài lắm, tao sợ qúa khóc thét lên bị mẹ tao đánh cho một cái, rồi ông ấy nhổ cái răng của tao lúc nào tao không biết.
Thằng Hưng làm ra vẻ thành thạo:
- Nhổ mà mày không biết thì đâu có đau.
Con Lan đành thú nhận:
- Không đau lắm nhưng mà sợ, thôi bận sau tao chẳng đi nha sĩ nữa đâu.
Thằng Hưng nhớ đến những lần nó đi nha sĩ, hình như còn ghê hơn cả những điều con Lan nói. Vậy là con Lan còn hên, tưởng là hôm nay cái mặt của nó xưng lên như cái mâm rồi chứ.
Thằng Hưng chợt để ý đến cái nơ hình con bướm con Lan đang cài trên mái tóc của nó. Con bướm, thân màu vàng, cánh xanh, được kết bằng loại vải có kim tuyến lóng lánh. Thằng Hưng biết con Lan thích cái nơ hình con bướm này từ lâu lắm rồi, và chắc hôm qua nó mới vòi mẹ nó mua được! Thằng Hưng cũng thấy con bướm đẹp, đẹp hơn cả những con bướm thật mà nó thường nhìn thấy, nhưng có lẽ cái nơ hình con bướm chỉ đẹp khi cài lên mái tóc con Lan thôi, vì khi tháo ra thì nó không thấy đẹp nữa.
Rồi bỗng thằng Hưng để ý đến cái váy đầm mới con Lan đang mặc. Ðã thế con Lan còn đi cả giày mới nữa. Chà! hôm nay con này diện quá, cái gì cũng mới hết, lại đẹp nữa! Thằng Hưng nhìn lại quần aó nó đang mặc, nó bỗng tủi thân vì hình như thứ gì nó mặc cũng là đồ cũ, tuy không xấu nhưng so với con Lan thì kém xa! Nhưng thằng Hưng cũng quên ngay chuyện quần aó, nó rủ con Lan:
- Mày đi ra phố chơi với tao không?
Con Lan lắc đầu:
- Thôi tao không đi đâu, chút xíu bố tao về là tao phải đi ăn giỗ với bố mẹ tao.
Thằng Hưng hỏi:
- Rồi mấy giờ mày về?

- Tao cũng không biết, nhưng có lẽ khuya lắm mới về. Mỗi lần đi đâu mà có uống rượu là bố tao về trễ lắm, sợ cảnh sát phạt vì uống rượu mà lái xe.
Thằng Hưng không nói gì, nó bỗng buồn vì như thế là nguyên cả ngày hôm nay nó lại không có bạn. Con Lan sẽ đi chơi cả ngày ở nhà bác nó mà thằng Hưng không đến được. Nó bỗng ao ước được đi ăn giỗ cùng với con Lan nhưng nó biết ngay ao ước như vậy cũng là viển vông thôi!
Thằng Hưng bỗng nhớ về con đường Thánh Mẫu của nó ở ngã ba Ông Tạ. Con đường lồi lõm, bụi bậm, mà nó rong chơi khi còn ở Việt Nam. Nó nhớ đến vườn xoài của nhà thờ Chí Hoà ở cuối đường, mà nó cùng vài thằng bạn và cả con Thúy nữa thỉnh thoảng vẫn lén vào hái trộm. Nó nhớ có một lần sau khi đã lẻn vào hái được mấy qủa xoài xanh, khi chui ra váy con Thúy bị vướng vào hàng rào, nó phải giúp con Thúy gỡ mãi mới được.
Không biết bây giờ thằng Khôi, thằng Dũng và cả con Thúy có còn chui vào vườn nhà thờ để hái trộm xoài nữa không. Mùa này hình như cũng là mùa xoài ở Việt Nam.
- Mày thích ăn xoài chín hay xoài xanh?
Con Lan bị hỏi bất ngờ, đang sửa lại cái nơ ở trên đầu, quay lại nhìn thằng Hưng:
- Bộ nhà mày có xòai à?
- Không.
Thế sao mày hỏi tao thích ăn xoài chín hay xoài xanh?
- Tao hỏi chơi thôi, vì hồi xưa khi còn ở Việt Nam, thỉnh thoảng tao chui vào vườn xoài nhà thờ Chí Hòa hái trộm xoài xanh đem về mấy đứa ăn với nhau. Xoài xanh ăn ngon lắm, mày ơi!
- Ăn xoài thì tao thích nhưng tao không thích ăn xoài hái trộm đâu.
Hai đứa đang nói truyện thì bố con Lan về. Con Lan thấy vậy vừa chạy vào vừa nói với thằng Hưng:
- Thôi tao đi đây, bố tao về rồi.
Thằng Hưng chưng hửng, nó giận con Lan, con bé này ham đi ăn giỗ qúa, nó không biết là khi nó đi chơi vui vẻ như vậy thì thằng Hưng lại phải chơi thui thủi một mình rồi lại mong nó chóng trở về.
Ra đến cổng nhà con Lan thằng Hưng quay nhìn lại, bụi hoa trước cổng nở một màu đỏ rực rỡ dưới ánh nắng, nó nhìn thấy con Lan và mẹ nó đang leo lên xe và rồi xe lăn bánh, lao vút đi. Thằng Hưng bỗng nhớ bố nó. Giá bố nó còn sống chắc giờ này ông cũng lái xe đưa mẹ con nó đi chơi, biết đâu cũng lại đi ăn giỗ như con Lan bây giờ.
Con Lan đi ăn giỗ rồi mấy hôm sau cũng không thấy về, ngày nào khi đi học về thằng Hưng cũng ghé nhà con Lan và ngày nào nó cũng thấy nhà con Lan đóng cửa, nó nhấn chuông mấy lần nhưng chẳng thấy ai ra mở. Ðứng chờ một lúc không thấy con Lan, thằng Hưng chán nản về nhà mình.
Mấy ngày sau nữa thì nó được biết: Ngay cái ngày con Lan đi ăn giỗ, khi băng ngang đường trước nhà bác nó, nó đã bị một chiếc xe đụng phải và phải nằm nhà thương ở mãi khu dưới đó. Nghe nói nó bị thương nặng lắm, không biết có sống nổi không.
Nghe tin con Lan bị thương thằng Hưng khóc, nó cũng không ngờ là nó khóc. Khi nhận ra mình khóc thằng Hưng vội lấy khăn lau để giấu nỗi xúc động của mình nhưng nước mắt vẫn cứ chảy ra, nó phải cố kiềm hãm lắm mới được.
Hôm đó thằng Hưng nói với mẹ là nó mệt, rồi leo lên giường trùm chăn kín hết đầu nằm khóc. Thằng Hưng nhớ mãi hình ảnh con Lan khi nó nhảy tót lên xe lúc bố nó về đón mẹ con nó đi ăn giỗ, mái tóc của con Lan và cái nơ hình con bướm ở trên đầu nó nữa như vẫn lấp lánh trong trí nhớ của thằng Hưng.
Thằng Hưng dự định ngày mai sẽ xin mẹ nó cho đi theo để thăm con Lan, nó cầu mong cho con Lan chóng khỏi để trở về nhà. Hai đứa tiếp tục chơi với nhau và nó sẽ không bao giờ bắt nạt con Lan hay làm cho con Lan buồn nữa.
Nhưng ngày hôm sau thằng Hưng chưa kịp đi thăm con Lan thì nó đã nghe tin con Lan chết, nó lặng người, rồi nước mắt cứ như thế chảy ra và nó cũng không cần giấu giếm nữa. Mẹ nó thấy vậy cũng khóc theo nó. Cả ngày hôm đó thằng Hưng không biết mình như thế nào nữa. Nó không ngờ đời con Lan lại ngắn ngủi thế! Mới cách nay ít ngày con Lan còn cười cười, nói nói với nó mà bây giờ đã chết!
Từ ngày con Lan chết, mỗi lần đi ngang nhà con Lan, thằng Hưng lại nhìn vào nhà, nhìn vào mảnh sân xi-măng mà con Lan hay nhảy nhót ở trên đó, và nhất là nhớ lại hình ảnh con Lan với cái nơ hình con bướm ở trên đầu, cả mái tóc của nó và con bướm đều lóng lánh dưới ánh nắng.
Bây giờ cái nơ hình con bướm đó ở đâu? Có còn đính trên mái tóc của con Lan và nằm yên trong đáy mộ?
Thằng Hưng lại thấy cay cay ở mắt, ngôi nhà con Lan và cả hình ảnh của nó nữa cũng mờ đi.
Một buổi trưa
Con Nga vội vàng thu hết sách vở bỏ vào ba- lô rồi rời lớp học. Cái ba- lô đã nhẹ bớt vì phần ăn trưa nó đã ăn hết, thường thì nó lén mẹ nó đem thêm bánh ngọt cho con bạn người thổ dân học cùng lớp, vì mỗi buổi trưa khi hai đứa ăn thì con Sharon chỉ có mỗi khúc bánh mì, chẳng thấy nó có bánh ngọt hay trái cây ăn tráng miệng gì cả, thế là con Nga lại phải chia bánh ngọt hay trái cây cho nó. Ở trong lớp nó thích chơi với con Sharon hơn cả và con Sharon cũng có vẻ thích nó lắm, chỉ có con Sharon là hay dạy nó tiếng Anh và không bao giờ cười nó mỗi khi nó nói sai, có điều nó không hiểu tại sao mẹ nó không thích nó chơi với con nhỏ này. Con Nga biết con bạn người thổ dân của nó đen đủi, xấu xí, nhưng điều đó thì đâu có quan trọng gì, miễn là nó tốt với mình thì thôi. Con Nga vừa đi vừa nghĩ đến bạn thì vưà lúc ấy Sharon từ đâu chạy lại:
- Tao cho mày cái này.
Con Nga tròn mắt ngạc nhiên, chưa kịp nói gì, thì Sharon đã kéo Nga đến một gốc cây gần đấy, chìa cho nó một hộp bánh bọc giấy rất đẹp.
- Ai cho mày thế?
Con nhỏ vênh mặt:
- Của tao chứ ai cho, tao mua tặng mày đấy, hôm nay là sinh nhật của mày mà!
Nga cảm động rớm rớm nước mắt, sinh nhật của nó chính nó không nhớ, mẹ nó mặc dầu rất yêu thương nó cũng không nhớ, ấy vậy mà con bạn người thổ dân của nó lại nhớ, nó ôm con Sharon hôn một cái trên má:
- Cảm ơn mày, ngày sinh nhật tao chưa ai cho tao qùa, trừ mày.
Đến phiên con Sharon há hốc mồm ngạc nhiên:
- Bộ mẹ mày cũng không cho mày qùa sao?
Nga lắc đầu:
- Mẹ tao bận lắm, với lại người Việt Nam ít chú trọng đến sinh nhật , nhất là đối với trẻ con.
Sharon cười:
- Thật ra tụi tao cũng ít chú trọng đến sinh nhật nhưng đối với bạn bè thì phải nhớ đến sinh nhật của người ta kẻo người ta giận.
Con Nga bỗng giật mình:
- Nếu nhỡ tao quên sinh nhật của mày thì mày có giận không?
Sharon cười:
- Tao hiểu mày rồi thì tao không giận đâu.
Con Nga bóc lớp giấy màu gói ở bên ngoài hộp kẹo, rồi sau đó nó mở nắp hộp ra,nó ngạc nhiên vì trong hộp, kẹo còn được bọc bằng nhiều loại giấy màu rất sặc sỡ, nó bóc ra một cái đưa cho bạn nó, nhưng con Sharon lắc đầu:
- Quà tao mua cho mày mà.
- Nhưng mày phải ăn, không tao giận đấy!
- Tao ăn chứ, nhưng mày ăn trước đi.
Con Nga lủm một cái kẹo vào miệng, sau đó nó bóc cho Sharon một cái y hệt cái nó đã ăn.
Không đứa nào bảo đứa nào, hai đứa cùng ngồi xụp xuống cạnh gốc cây ăn hết hộp kẹo rồi mới đi về. Con Nga sực nhớ ra hỏi Sharon:
- Tiền ở đâu mà mày mua qùa cho tao?
Con Sharon cười:
- Bộ mày nghĩ rằng tao không có tiền à?
- Tao không nghĩ thế, nhưng tao thấy mày mua quà tốn tiền quá nên nói vậy thôi.
- Không mua qùa cho mày tao cũng tiêu hết, mấy cái máy "game" nó ăn hết tiền của tao!
- Thì mày đừng có chơi nữa.
- Nhưng khổ nỗi tao thích chơi qúa thì làm thế nào bây giờ, nhiều lúc tao muốn chặt cái tay của tao đi để tao khỏi chơi mà không dám!
Con Nga trợn mắt nhìn nó sợ hãi:
- Thôi mày đừng có khùng khùng, điên điên cái kiểu đó tao nghe tao sợ lắm!
Sharon lại nhăn răng ra cười:
- Tao nói chơi thôi, có tiền không chơi rồi bố mẹ tao cũng mượn đi mua rượu uống hết!
Con Nga nhìn Sharon thương hại.
- Mày nói bố, mẹ mày đừng uống rượu nữa.
Con Sharon cười sằng sặc:
- Ông bà ghiền rượu cũng như tao ghiền chơi "game" vậy đó, làm sao mà bỏ được!
Đi đến đầu đường thì hai đứa chia tay, con Nga đi lủi thủi một mình về nhà, nó vừa thương vừa giận con Sharon, bấy lâu nay nó cứ tưởng bạn nó không được mẹ nó cho tiền để mua qùa, ai ngờ bao nhiêu tiền nó đem đổ vào mấy cái máy hết!

Về đến nhà thì con Nga thấy mẹ nó đang ngồi khóc ở góc phòng, còn bố nó đang ngồi hút thuốc ở phòng khách, con Nga ngơ ngác không hiểu chuyện gì, nó cũng không dám hỏi, lủi thủi kéo lê cái ba- lô vào nhà trong. Chị nó thấy nó về, kéo nó vào trong bếp:
- Vào đây tao lấy cơm cho mà ăn, sao hôm nay mày về muộn thế?
- Hôm nay sinh nhật em, bạn em nó mua cho em hộp kẹo.
- Đâu? Hộp kẹo đâu?
- Hai đứa tụi em ăn hết rồi, bây giờ còn no lắm, em chưa ăn cơm đâu.
- Không ăn thì thôi, đi tắm rồi thay quần aó đi, người mày lúc nào cùng dơ hầy! đừng có quấy mẹ mà ăn đòn đấy, nhà mất hết tiền rồi!
Con Nga sợ hãi hỏi chị nó:
- Tại sao vậy hả chị?
Chị nó ghé tai nó nói:
- Mày có biết cái bà chủ hiệu bán thực phẩm Á- đông không, cái bà mỗi khi gặp mày hay vuốt tóc mày rồi khen mày ngoan, bà ấy trốn rồi! Bao nhiêu tiền bố mẹ dành dụm được đưa cho bà ấy, thế là mất tất cả!
Chị nó cũng chỉ nói được chừng đó rồi nghẹn ngào không nói được nữa, nó muốn hỏi thêm mà không dám, đành lủi thủi lấy quần áo rồi vào phòng tắm. Con Nga bỗng nhớ con Sharon, giá bây giờ có nó ở bên cạnh chắc sẽ đỡ buồn hơn.
Khi nó tắm xong trở ra thì mẹ nó đã hết khóc, bà vào trong bếp rồi vãy nó lại:
- Sao hôm nay con về muộn thế, cả nhà chưa ai ăn uống gì cả, con đói thì cứ lấy cơm mà ăn, đừng chờ mẹ, mẹ chưa ăn bây giờ đâu.
Con Nga định hỏi mẹ nó về việc mất tiền nhưng nó lại không dám, nó cũng không muốn kể cho mẹ nó nghe về chuyện gói qùa bạn nó cho vì nó biết mẹ nó cũng chẳng thích nghe chuyện ấy. Con Nga biết nếu nó không ăn cơm thì mẹ nó sẽ băn khoăn mãi, nên nó đành xới một bát cơm rồi gắp thức ăn để lên trên, sau đó ra bàn ngồi ăn một mình.
Ngoài vườn, mấy cánh hoa mướp nở buổi sáng đã bắt đầu héo nhưng lá của nó vẫn xanh um, những qủa mướp treo lủng lẳng nó mới nhìn thấy hôm qua giờ không còn nữa, nó chắc bố nó đã hái rồi! Nó nhớ lần đầu tiên được ăn mướp từ khi đến Úc, nó nghĩ nó sẽ ăn mãi mà không biết chán, nhưng bây giờ thì nó chán qúa rồi, mà không phải chỉ một mình nó chán, cả nhà nó hình như không còn ai thích như lúc đầu nữa, ấy vậy mà mùa nào hình như nhà nó cũng trồng mướp!
Giàn mướp khiến con Nga liên tưởng đến nghỉ hè, vì ở đây chỉ mùa hè mới trồng được mướp, bố nó nói thế! Kể ra nghỉ hè cũng thích thật, chẳng phải lo học bài, làm bài gì cả nhưng lại nhớ bạn nhớ bè, nhớ cô giáo, nhưng người nó nhớ nhất vẫn là con bạn người thổ dân của nó. Chợt nhớ đến nghỉ hè lòng nó bỗng nao nao, vì ngày nghỉ cũng gần đến rồi! Nhớ mùa hè năm ngoái, nó được theo bố nó đi câu cá suốt đêm, cần câu của nó là câu được nhiều cá hơn cả, bố nó nói: "Con gái sát cá", chẳng biết có đúng không, nhưng dù sát cá như lời bố nó nói nó cũng không thể nào thức suốt đêm như bố nó được, nên chỉ nửa đêm là nó chui vào xe ngủ một giấc, đến sáng mai tỉnh dậy thì đã thấy nằm ở nhà rồi.
Nghĩ ngợi lan man từ chuyện này sang chuyện khác cũng không làm nó quên được chuyện bố mẹ nó mất tiền, nó ngóai cổ nhìn ra phòng khách thì không thấy bố nó đâu nữa, chắc bố nó đã đi về việc đó, vừa rồi chị nó còn nói cho biết là nhiều người mất lắm chứ không phải là mình nhà nó, không hiểu tại sao nó không thấy tiếc số tiền bố mẹ nó mất, nhưng nó rất buồn khi thấy mẹ nó khóc. Con Nga chợt nhìn mẹ nó thì thấy bà đang lúi húi làm gì đó ở trong phòng may, đối với mẹ nó, hình như lúc vui cũng như lúc buồn mẹ nó đều may được, nó chợt thương mẹ nó, lúc nào hình như bà cũng quanh quẩn ở trong phòng may, ấy vậy mà bao nhiêu công lao đổ ra bị người ta cướp hết! Con Nga mong thật chóng lớn để đi làm kiếm tiền giúp mẹ nó, nhưng nó cũng biết rằng ngày ấy còn xa lắm!
Khi ăn xong, con Nga vội vã đi về phòng mình, vì trong giờ phút này nó rất ngại nhìn thấy mẹ, đúng hơn là chứng kiến mẹ nó khóc đối với nó là một cực hình còn hơn là nó gặp chuyện gì buồn phải khóc nữa. Vừa lúc ấy thì chuông điện thoại reo, nó chạy trở ra cầm ống nghe lên, người gọi lại là cô nó ở mãi tận Melbourne, nó gọi mẹ nó rối rít nhưng không ngờ bà lại gắt:
- Làm cái gì mà la hét om sòm như vậy?
Con Nga cụt hứng, nói nhỏ hẳn đi:
- Cô Oanh ở Melbourne gọi lên.
Mẹ nó không nói gì, đi lên cầm điện thọai nói chuyện một hồi rồi đi về phòng may, mẹ nó nói chuyện với cô nó nhỏ quá nên nó không nghe được hai người nói gì, nhưng nó đoán là liên quan đến chuyện tiền nong. Con Nga không muốn nghĩ ngợi về những chuyện người lớn nữa, nên lấy mấy tấm ảnh nó chụp chung với con Sharon ra xem, nó thích nhất là tấm con nhỏ cười rộng miệng, hàm răng của nó thật trắng. Con Nga nhớ ngày mới đến khu Redfern này, ai nghe nói cũng chê là khu nhiều thổ dân, thế này thế khác...nhưng riêng nó thì nó lại thích ở khu này, ít nhất nó cũng có con Sharon là bạn thân của nó. Nghĩ đến Sharon, con Nga lại nhớ đến con Liễu bạn nó khi còn ở Việt Nam. Con Liễu hơn nó đến hai tuổi, lại cao lớn nên đứa nào bắt nạt con Nga là chết với con Liễu, nó đánh cho một trận còn bắt lại xin lỗi con Nga nữa. Bây giờ ở đây tuy không ai bắt nạt con Nga, và con Sharon cũng không to con để đánh cho đứa nào dám bắt nạt nó một trận, nhưng con Sharon luôn luôn tử tế với nó, lại còn giúp nó nữa trong những ngày Anh văn nó còn kém, tự nhiên con Nga muốn gọi điện thọai cho Sharon để nói chuyện với nó, nhưng rồi sực nhớ ra nhà con Sharon không có điện thoại, nó cũng không hiểu tại sao nhà nào hình như cũng có điện thọai mà nhà con nhỏ này lại không có, hình như có lần nó đã hỏi thì con Sharon nói là tiền bố mẹ nó uống rượu còn không đủ lấy tiền đâu mà bắc điện thoại!
Mãi nghĩ vẩn vơ từ chuyện này sang chuyện khác con Nga ngủ quên lúc nào không biết, đến sáng ngủ dậy nó mới nhớ là tối hôm qua nó đã quên không đánh răng. Trước đây đã có những đêm nó quên như vậy nhưng bao giờ mẹ nó cũng nhớ gọi nó dậy đi đánh răng rồi mới cho đi ngủ, chẳng hiểu tại sao tối hôm qua cả mẹ và chị nó đều quên luôn!
Hôm ấy con Nga cũng đi đến trường trễ hơn mọi ngày, một điều ít khi xẩy ra. Mặc dầu đi học hơi trễ so với mọi ngày nhưng khi đến trường thì cũng chưa tới giờ vào học, nó gặp con Sharon ngay cổng trường, Sharon ôm lấy nó hỏi:
- Sao mày đi trễ thế?
- Tao cũng chẳng biết tại sao, tối hôm qua tao còn ngủ quên không đánh răng nữa.
Con Sharon cười:
- Tưởng gì, tao quên không đánh răng hoài, đâu có sao. Thấy mày chưa đến tao lại sợ mày bệnh không đi học được.
Con Nga chợt nhớ ra việc nó định gọi điện thoại đêm qua nên nói với bạn nó:
- Sao mày không năn nỉ bố mẹ mày bắc điện thoại đi, có điện thoại tụi mình nói chuyện với nhau lúc nào cũng được.
Tự nhiên Sharon hơi rớm nước mắt:
- Cảm ơn mày, nhưng không được đâu, đã có một lần nhà tao có điện thoại, nhưng rồi không có tiền trả nên người ta lại tháo đi, bây giờ thì không bao giờ nữa, phải chờ đến khi tao lớn thì tao sẽ bắc.
Hai đứa còn đang mải nói chuyện thì chuông vào lớp. Ngồi trong lớp thỉnh thoảng hai đứa lại nhìn nhau cười. Có lần con Nga hỏi Sharon sau này lớn lên nó làm gì, con nhỏ trả lời ngon lành: "Mai mốt tao làm bác sĩ!" Con Nga không biết nó nói thật hay nói chơi, nhưng nó cũng có thể làm bác sĩ lắm chứ, nó học chưa phải là nhất lớp nhưng cũng không thua kém ai, vái trời cho nó làm bác sĩ thật để nó giúp người thổ dân của nó. Con Nga đã xem nhiều phim về người thổ dân, nên nó hiểu, là dù thế nào chăng nữa, người thổ dân ở trong khu vực này cũng văn minh hơn ở những nơi khác rất nhiều!
Thế rồi mùa hè đến, ngày cuối cùng hai đứa cùng bịn rịn, muốn nói thật nhiều mà rồi chẳng nói được gì, vì hình như có điều gì đó cần nói thì lại không biết nói thế nào. Bữa tiệc cuối năm học mọi người ăn uống ngon lành thì hai đứa chẳng thiết gì, rủ nhau ra ngồi dưới gốc cây đại nói hết chuyện này đến chuyện khác, nhưng rồi nói chuyện gì cũng lại quanh quẩn chuyện chia tay. Gần đến giờ chia tay thật thì con Sharon đột ngột ôm con Nga rồi hai đứa đều khóc, con Nga cũng không ngờ là nó khóc, nó không muốn khóc tí nào, nhưng rồi thấy con Sharon khóc thì nó không giữ được nữa. Cô giáo thấy hai đứa khóc cô quay đi chỗ khác, không hiểu cô cảm động hay muốn để cho hai đứa được tự do muốn làm gì thì làm.
Buổi tối hôm đó con Nga trằn trọc mãi mới ngủ, nó mơ thấy con Sharon đi trên con đường dốc cạnh nhà thờ, rợp bóng cây si, mái tóc của nó được buộc bằng sợi cao su, lúc lắc cái đuôi mỗi khi nó đi và lóng lánh ánh nắng chói chang của những ngày mới vào hè. Trong giấc mơ con Nga thấy cả bố mẹ con Sharon nữa, hai ông bà đang ngồi uống rượu cạnh ga xe lửa Redfern. Khi tỉnh dậy, con Nga vô cùng ngạc nhiên, vì từ hồi quen con Sharon đến giờ nó chưa bao giờ gặp bố mẹ con Sharon, con Nga định khi nào gặp bạn sẽ nói điều đó cho nó biết, chắc nó cũng ngạc nhiên lắm!
Vào một buổi trưa giữa hè thì con Nga nhận được điện thoại của Sharon, lúc đầu nó nhận không ra, đúng hơn nó không tin là con Sharon còn nhớ số điện thoại của nó, và hơn nữa còn giữ được tiền để ra điện thoại công cộng gọi. Hai đứa chỉ nói với nhau mấy câu là con Nga vội vàng thay quần aó chạy ra ga Redfern là nơi hai đứa hẹn nhau để đi chơi. Con Nga phải nói dối mẹ nó mới được cho đi và được cho tiền để tiêu. Từ ngày mẹ nó bị mất tiền, bà chi tiêu rất tằn tiện nên chỉ cho nó có mấy đồng, cứ như mọi khi thì thế nào nó cũng xin được mấy chục. Cũng may là nó cũng để dành được mấy chục nên có đủ tiền để đi chơi với bạn nó.

Vừa gặp nhau là con nhỏ liến thoắng:
- Tao mới bắt được mấy chục nên rủ mày đi chơi.
Con Nga nhìn bạn nó giễu cợt:
- Thế mấy cái máy "game" nó không nuốt của mày à?
Con Sharon cũng cười:
- Không, kỳ này thì tao không cho nó nuốt mà cho mày nuốt, lâu không gặp mày tao nhớ mày ghê!
- Tao cũng nhớ mày. A! Tao quên nói cho mày nghe, có hôm tao nằm mơ gặp mày
và cả bố mẹ mày nữa.
Con Sharon bĩu môi:
- Thôi đừng xạo! Mày gặp bố mẹ tao hồi nào mà nằm mơ thấy được!
- Tao cũng không biết nữa, nhưng rõ ràng là tao nằm mơ thấy cả mày lẫn bố mẹ mày.
- Thôi được rồi! Tao tin mày, mà thật ra bao giờ tao chẳng tin mày! Bây giờ tụi mình tính đi đâu đây?
Con Nga hỏi lại:
- Mày tính đi đâu?
- Tao cũng không biết nữa, hay là tụi mình đi xem chiếu phim, sau đó thì đi ăn nhà hàng, sau đó nữa thì đi vòng vòng rồi lại ăn nhà hàng, đến tối thì về. Mày xin mẹ mày đi đến mấy giờ?
Con Nga lưỡng lự:
- Tao không biết nữa, nhưng tao nói dối mẹ tao là tao đi chơi với cô giáo nên chắc không sao đâu.
Con Sharon cười toe toét:
- Vậy tao là cô giáo của mày, sướng quá!
Nhưng khi vừa nói đến đấy con nhỏ chợt buồn ngay:
- Nhưng sao mày không nói đi chơi với tao mà lại nói dối là đi chơi với cô giáo?
Con Nga hơi bối rối nhưng nó bình tĩnh lại ngay:
- Nói đi chơi với mày cũng được, nhưng không xin được tiền để tiêu.
Con Sharon vỗ vào túi nó:
- Tao có tiền đây.
- Tao đâu biết là mày có tiền.
Con Sharon không nói gì nữa, hai đứa nắm tay nhau đi vào ga mua vé.
Vào một buổi trưa mùa hè gia đình con Nga đột ngột dọn đi nơi khác, chị em con Nga cũng không được bố mẹ nó báo cho biết trước, nên nó không thể nào gặp mà từ giã con Sharon được, và đấy là điều nó cảm thấy khổ sở nhất, con Sharon sẽ nghĩ gì về nó, nó đâu phải là đứa vô tình mà đến nỗi không gặp bạn để nói một câu. Nó nguyện với lòng mình là thế nào cũng phải tìm gặp bạn nó một lần dù là gia đình nó di chuyển đến đâu.
Phần con Sharon, đến ngày tựu trường nó buồn bã vì thiếu con Nga, nó không biết một tí tin tức nào về bạn nó vì thế nó còn hy vọng con Nga sẽ trở lại. Nhưng rồi hy vọng mỗi ngày một lạt, rồi thì nó tuyệt vọng hẳn. Thỉnh thoảng nó lại đến gốc cây đại, nơi hai đứa thường ngồi trước đây, và ngồi ở đó rất lâu.
Viên kẹo
Nghe thằng Tuấn reo hò ầm ĩ khi về đến nhà, mẹ nó hỏi vọng ra:
- Cái gì thế?
- Chú Khoán ở Úc mới về!
Mẹ nó nghe được, bực mình, gắt:
- Chú ấy về thì kệ chú ấy, mày làm cái gì mà ầm ĩ cả lên!
Thằng Tuấn cụt hứng, tiu nghỉu! Nó tưởng ai cũng mừng khi nghe tin chú ấy về chứ!
Thằng Tuấn ngạc nhiên không hiểu tại sao mẹ nó lại ghét chú Khóan, nó thì không những không ghét mà còn thích chú ấy nữa. Vừa rồi chú ấy chả cho nó kẹo là gì!
Tưởng mang lại tin vui cho mẹ nó, ai ngờ lại bị mẹ mắng thằng Tuấn lẩn đi ngay. Mỗi khi bị mẹ mắng là nó lẩn đi, chẳng dại gì mà ở lại để bị mẹ nó chửi thêm. Nó ra ngoài ngõ định đến nhà con Liên ở phiá bên kia đường rủ nó đi chơi, nhưng vừa đến nơi thì thấy con nhỏ diện váy đầm ngồi sau cái xe Honda của chị nó, có lẽ là đi đâu đó! Nhìn thấy chị con Liên nó lại nhớ đến anh Tứ ngay. Anh Tứ cũng ở nước ngoài về nhưng ở tận bên Mỹ kia, Anh Tứ còn sang hơn cả chú Khoán, Mỹ mà! Hôm ấy anh Tứ thấy nó đứng ở cửa nhìn vào đã vốc cho nó một vốc kẹo! Cũng là kẹo anh mua ở đây thôi, nhưng ít khi nào nó được cho nhiều kẹo đến như thế! Thằng Tuấn nghe nói anh Tứ lần sau về sẽ cưới chị con Liên, chắc là con Liên tha hồ ăn kẹo!
Định đến nhà con Liên mà con Liên lại đi, nó đành lang thang ra ngoài phố. Đi ra ngoài phố vào giờ này thì nó không thích lắm vì không có bạn. Nó chợt nhớ đến thằng Đồng, bỗng dưng dọn nhà đi mất tiêu luôn không thấy trở về nữa, mà cũng không ai biết gia đình nó đi đâu. Chẳng lẽ nó cũng ra nước ngoài! Sao thấy người ta ở nước ngoài nhiều quá mà nhà nó cứ ở đây mãi. Thằng Tuấn cũng muốn ra nước ngoài lắm, mỗi lần nhìn thấy những tấm ảnh từ nước ngoài gửi về nó lại ao ước, nhưng nghe nói bây giờ không đi được nữa rồi, chẳng thế mà mấy người đã sang đến đảo ở mấy năm mà bây giờ còn bị gửi trả về!
Thằng Tuấn lần trong túi, còn một cái kẹo chú Khóan cho lúc nãy, nó lấy ra, bóc nốt cho vào miệng. Nó không hiểu sao nó không để dành được gì cả, có cái gì là phải ăn cho bằng hết mới được. Như cái kẹo còn lại trong túi nó định để dành cho con Liên đấy chứ, nhưng con nhỏ đi chơi rồi nên nó ăn hết luôn!
Con đường Thoại Ngọc Hầu buổi chiều dày đặc người đi lại, có lẽ buổi chiều con đường này râm mát nên người ta đi nhiều, nó cũng lủi vào con đường ấy. Thấy đông, thấy vui thì nó đến vậy thôi, chứ thật ra nó cũng không biết vào đấy để làm gì. Dạo này hàng quán hai bên lại mở ra nhiều, nghe nói nhà nước "đổi mới" gì đó nên được buôn bán lại, nhưng hình như vẫn chưa bằng ngày xưa, đấy là người lớn nói vậy, chứ đối với nó thì như thế đã đông và vui lắm rồi!
- Ê, Tuấn!
Thằng Tuấn giật mình nhìn quanh quất, thấy thằng Định đang nhe răng cười với nó:
- Tao định đến nhà mày, thôi nhân tiện đây tao với mày đi luôn!
Thằng Tuấn ngạc nhiên, không biết là đi đâu mà thằng này lại nói là đi luôn, nhưng nó biết thằng Định luôn luôn có những mục bí mật mà thường cuối cùng nó mới tiết lộ, thằng Tuấn muốn biết ngay nên kéo tay thằng Định hỏi:
- Mà đi đâu mới được chứ?
- Nhà thờ Chí Hòa.
- Thôi tao không đi nhà thờ đâu, đi vòng vòng ở đây vui hơn.
Thằng Định liền xỉ vả nó:
- Mày ngu "thí" mồ, tao biết mày là quỷ nên mày sợ nhà thờ lắm, nhưng tao không kéo mày đến trước cung thánh đâu, đến vườn xoài nhà thờ thôi. Ăn xoài chịu không?
Một lần thằng Tuấn đã được ăn xoài nhà thờ Chí Hoà do thằng Định hái trộm rồi, bây giờ mà không đi thế nào nó cũng xỉ vả nữa, mặc dầu giờ này mà ăn xoài xanh thì nó cũng không thích lắm vì vừa mới ăn mấy cái kẹo chú Khoán cho rồi. Thằng Tuấn còn đang lưỡng lự thì thằng Định kéo nó đi, thằng Tuấn đành theo thằng Định, hơn nữa, giờ này nó cũng không biết đi đâu!
Thật ra hái trộm xoài của nhà thờ Chí Hòa chỉ là kế hoạch buổi tối của thằng Định chứ không phải bây giờ. Mục đích của nó đến nhà thờ vào giờ phút này là chỉ để thăm dò khu vườn xoài trước, đến tối mới ra tay.
Khi biết được dụng ý của nó, thằng Tuấn buột miệng nói:
- Mày đúng là thằng gian ác!
Thằng Định nổi sùng chửi nó:
- Ông rủ đi cho ăn xoài mà còn nói ông gian ác. Bận sau cho mày nhịn luôn!. Biết thằng Định đang nổi sùng, nó im luôn. Chơi với thằng Định lâu nên nó biết, mỗi khi nó xưng "ông" với thằng nào là nó sắp lên cơn. Nhưng thằng đó được cái tốt là biết nhận lỗi của mình ngay mỗi khi nó làm mất lòng bạn bè, chính vì thế mà nhiều thằng thích nó.
Khi đến nhà thờ Chí Hoà thằng Tuấn và nó đi dọc theo hông nhà thờ để nhìn vào vườn xoài. Giờ này nhà thờ vắng hoe, thằng Tuấn thấy vậy bàn góp:
- Hay lẻn vào lấy ngay bây giờ đi.
Thằng Định ra mặt "chỉ huy":
- Không được, vào giờ này là chết, ban ngày ban mặt mày làm gì người ta thấy hết, có chạy đằng trời!
Hai thằng trở lui đến gốc cây lớn gần cuối bờ tường ngồi tán dóc. Cả hai thằng đều nhắc đến thằng Đồng và đều thắc mắc không biết thằng Đồng giờ này ở đâu, tại sao nó đi mà không nói cho bạn bè biết! Hai thằng cũng nói chuyện về mấy người Việt kiều từ Úc và Mỹ về, qua chú Khoán và anh Tứ mà cả hai thằng đều biết. Nhưng nói chán thì cũng hết chuyện, hai thằng giải tán. Trước khi về, thằng Định dặn:
- Tối nay tám giờ mày đến nhà thằng Quân, nhà nó gần nhà thờ hơn hết, từ đó tụi mình mò vào vườn xoài rồi cũng trở về nhà nó luôn. Nhà thằng Quân chỉ có mấy chị em nên không sợ bị người lớn bắt gặp. Với lại chị em nó cũng thích ăn xoài xanh lắm, mình bắt tụi nó ở nhà làm nước nắm đường sẵn để khi về đến nơi là "làm thịt" liền.
Thằng Tuấn thấy thằng Định đã "lên" kế hoạch hết rồi nên nó không có ý kiến gì, nó cũng phải nhận là thằng Định có tài chỉ huy, đặt kế hoạch đâu vào đó, nên yên trí ra về.
Vừa về đến nhà thì mẹ nó gọi:

- Tuấn! Con ra ngoài chợ Ông Tạ mua cho mẹ một chai nước mắm.
Vậy là nó phải ra đường Thoại Ngọc Hầu một lần nữa. Lần trước nó đi chơi thì không thấy ngại, còn bây giờ là đi có việc nên nó ngại vô cùng. Hơn nữa đi vòng vòng với thằng Định ra ngoài nhà thờ Chí Hoà nó cũng chán chân rồi! Nhưng mẹ nó bảo đi là phải đi, nhưng bây giờ thì nó chỉ muốn cho xong việc nên nó chạy. Vì vội vàng, hấp tấp nó đã đánh rơi cái chai xuống hè xi măng trên đường Thoại Ngọc Hầu, cái chai thủy tinh vỡ tan tành. Thằng Tuấn hoảng hồn, lúng túng, nhưng chỉ một giây sau là nó nhận ra ngay là không có cách gì cứu được cái chai vỡ, nó toan bỏ đi, nhưng bà bán hàng ngay chỗ cái chai vỡ la lối om sòm, bắt nó phải nhặt hết mảnh chai rồi mới cho đi. Thằng Tuấn rầu ơi là rầu! Kỳ này về chắc thế nào cũng bị mẹ nó chửi cho một mẻ! Nó đã toan bỏ chạy, nhưng nghĩ lại, nó còn phải qua lại con đường này nhiều lần. Tí nữa biết đâu nó chả phải xách cái chai khác đi mua một lần nữa. Hú hồn là nó chưa mua nước mắm chứ mua rồi mà đánh vỡ thì chắc khó sống với mẹ nó! Thằng Tuấn lúi húi nhặt những mảnh thủy tinh vỡ cho vào thùng rác, bà chủ nhà gần đấy còn cẩn thận cho nó mượn chổi để nó quét cho sạch mảnh chai. Làm xong công việc nó mới lủi thủi về nhà.
Thấy mặt nó, mẹ nó hỏi:
- Nước mắm đâu?
Thằng Tuấn đành thú thật:
- Con đánh vỡ chai mất rồi!
Mẹ nó tưởng nó đánh vỡ cả chai nước mắm nên gầm lên:
- Tiên sư nhà mày, sai có việc như vậy mà không xong, bây giờ lấy gì mà nấu nướng đây?
Thằng Tuấn cũng biết mẹ nó hiểu lầm nó đánh đổ cả nước mắm, nó đã định im luôn, để mẹ nó chửi ít câu rồi nó có một món tiền đi uống nước mía với bạn bè, nhưng rồi thấy nét mặt đau khổ của mẹ, nó không nỡ, không ngờ chai nước mắm đối với mẹ nó lại quan trọng đến thế!
- Con chỉ đánh vỡ cái chai không chứ chưa có nước mắm.
Câu nói đã gỡ gần hết tội cho thằng Tuấn, mẹ nó tươi tỉnh ngay:
- Vào trong bếp lấy cái chai khác mua ngay cho tao, lần này mà mày đánh vỡ nữa thì chết với tao, cầm cho chắc vào!
Buổi tối hôm đó sau khi ăn cơm xong là thằng Tuấn lẩn đi ngay, mẹ nó hay thấy mặt đặt tên lắm nên nó phải đi sớm, nếu không đến giờ đi mẹ nó lại sai việc này việc khác là hỏng hết!
Nó đi luồn vào ngõ Sao Mai rồi mới đi dọc theo đường Bành Văn Trân xuống khu nhà thờ. Con đường đã tróc hết lớp nhựa trên mặt để lộ lớp đá lổn nhổn ở bên trên. Vội vàng thế nào nó vấp vào cục đá, đau điếng, nó phải nhảy cò cò một đoạn rồi mới đi bình thường lại được. Nói là bình thường là chỉ đi thôi, chứ bây giờ mà nó phải chạy thì chắc không chạy được! Nó cũng hơi lo, với cái chân này mà tối nay đi hái trộm xoài, rồi đến khi bị đuổi không chạy được mà bị bắt, thì không biết nó làm thế nào để thoát được trận đòn của mẹ nó. Mẹ nó ít khi nào đánh nhưng khi bà đã đánh thì trận nào ra trận ấy chứ chẳng phải chơi! Từ khi bị vấp nó đi cẩn thận lại, nhưng dù cẩn thận cái chân đau hình như rất d bị vấp trở lại, nó đành phải đi bằng gót cho an toàn. Đến bây giờ thì nó chắc rằng đêm nay nó không đi được với tụi nó rồi, chân như thế này mà đi thì chỉ có nước chết thôi! Thằng Tuấn bỗng thấy lo lắng, không phải cho cái chân của nó, nhưng thằng Định sẽ nói là nó nhát, không dám đi rồi làm bộ là chân đau. Nhát thì nó cũng có nhát thật nhưng nó lại rất ghét bị mang tiếng là nhát!
Chân đã đau mà con đường lại gập gềnh, còn đèn đường chỗ sáng chỗ tối. Cũng may là đêm nay có điện nếu không thì con đường còn khó đi hơn nữa! Nhưng mới nghĩ đến đó là nó nhận thấy nó kém thằng Định một bậc, thằng này nó không cần đèn, chẳng những thế nó còn cầu cho không có đèn nữa để nó làm những điều ám muội một cách d dàng!
Khi nó đến nhà thằng Quân thì thằng Định đã có mặt ở đó rồi, thấy nó đi cà nhắc thằng Định giu:
- Mày lại làm bộ để khỏi đi chứ gì?
Thằng Tuấn tức quá giơ cái ngón chân cái đã xưng lên cho nó xem, thằng Định cười:
- Tao nói đùa thôi, nhưng đêm nay tụi mình không đi hái xoài nữa, chị Nguyệt có khách nên không thể dùng nhà thằng Quân được. Khách này cũng sang lắm, từ nước ngoài về lận, nên tao với mày sẽ đi ra ngoài phố chơi. Hôm nay tao đãi mày một chầu bò biá trước cửa trường Thánh Mẫu, xong tụi mình đi uống nước mía.
Thằng Tuấn nghe nói mừng rơn, thật tình nó không thích cái trò hái trộm xoài tí nào, nhưng chơi với thằng Định nên nó bắt buộc phải theo thôi. Nó lấy làm lạ không hiểu thằng Định lấy tiền ở đâu mà chẳng những bao nó ăn bò bía lại còn bao cả uống nước mía nữa. Từ hồi nào đến giờ nó có bao giờ có đồng tiền nào đâu!
Nó hỏi thằng Định:
- Tiền đâu mà mày nói mày khao tao lung tung vậy, cho tao coi tiền tao mới tin.
Thằng con nhà Định kéo ra một nắm tiền dí vào mắt nó:
- Cái gì đây? "Ông" nói mà mày dám nghi ngờ à! Ông nói cho mày biết, ông còn bao mày ăn được cả phở nữa kia, nhưng mày nói thế thì ông không thèm cho mày ăn nữa!
Nhìn thấy nắm tiền trên tay thằng Định, thằng Tuấn ân hận ngay, nhưng vẫn thắc mắc là tiền đâu mà thằng này có, chẳng lẽ nó đi ăn cắp tiền của người ta, hay nhẹ nhất cũng ăn cắp tiền của mẹ nó?
- Nhưng ở đâu mà mày có tiền?
- Chú Khoán cho tao tiền.
- Bộ mày xin chú ấy tiền à?
- Ừ!
Thằng Tuấn không ngờ nó ừ một cách ngon lành. Đó là điểm mà thằng Tuấn thua hẳn thằng Định. Thằng Định dám xin người lạ bất cứ cái gì mà nó muốn. Theo nó, nếu muốn thì cứ xin, không cho thì thôi, đâu có mất mát gì. Nó cũng đã xin xoài ở nhà thờ, nhưng rồi ông bõ giữ khu vườn nói là ông không có quyền cho nên nó đành ăn cắp vậy!
- Mày nói sao mà chú ấy cho tiền.
- Xin mà muốn có kết quả mày cũng phải tìm lúc thích hợp. Tao gặp chú ấy ở nhà con Liên, chú ấy cũng muốn lấy chị con Liên nữa, nên tao xin chẳng lẽ chú ấy không cho. Khi xin rồi tao mới thấy là mình xin ít quá, gía lúc đó tao xin cỡ mười đô la chú ấy cũng cho. Có vậy mới chứng tỏ là chú ấy ngon lành chứ, mày!
Đến nước này thì thằng Tuấn phục thằng bạn nó thật. Thằng Tuấn lấy làm lạ, một thằng thông minh lanh lợi như nó mà không học giỏi, kỳ thi nào nó cũng đứng gần chót! Tuy vậy, nó cũng mừng, quen được một thằng biết xoay xở nên đôi khi cũng được nhờ:
- Vậy bao giờ mày cho tao ăn bò bía đây?
- Ngay bây giờ, để chờ thằng Quân xem nó có đi được không, nếu nó không đi được thì cho nó nhịn, tao với mày thôi. Tao tính rủ con Liên đi nữa nhưng coi bộ mấy hôm nay nó ăn muốn ứ hơi rồi! Có chị đẹp cũng đỡ, hết anh Việt kiều này đến anh Việt kiều khác đến thăm thì nó muốn ăn gì mà không được! Tiếc là tao không có bà chị nào hết thành ra tao đành ăn ké vậy. Mày có chị đấy, xúi bà ấy lấy Việt kiều đi rồi cho tao ăn ké với.
Thằng Tuấn trề môi:
- Bà chị tao bà ấy gàn mày ơi, bà ấy chê mấy ông Việt kiều khi còn ở Việt Nam có ông một chữ cũng không biết, đi được mấy năm trở về ông nào cũng khoe chủ hãng với giám đốc không thôi. Mấy ông làm như người ta ngu hết, mấy ông muốn nói gì thì nói!
Thằng Định cười:
- Vậy là tao hết được ăn ké nhà mày. Coi bộ thằng Quân nó cũng no ứ hơi rồi. Tao với mày đi làm một bụng đã!
Hai thằng ra khỏi nhà thằng Quân, cả hai đều vui, thằng Tuấn quên cả cái chân đang đau, đến khi vấp một lần nữa nó mới chợt nhớ ra, lại đi bằng cái gót khập khing ra ngoài khu phố ở xa xa, thấp thoáng ánh điện màu. Nó chợt nhớ đến lúc nó định nói dối mẹ nó là đã đánh vỡ chai nước mắm để lấy tiền tiêu với bạn bè, và chợt thấy lòng vui hơn vì thoát được giây phút đen tối ấy.
Bên kia cánh đồng
Chạy lên đến đỉnh con dốc thì một cánh đồng mở ra trước mặt. Gió từ cánh đồng thổi về mát rượi, thằng Đồng đứng thở vì mệt, nó đảo mắt nhìn quanh khu vực. Cũng không đến nỗi hoang vu như nó tưởng. Xa xa ngoài kia có những mái nhà tranh lẩn khuất sau hàng cây, nó còn nhìn thấy cả người đi lại ở đằng ấy nữa. Giá được ở đấy thì cũng đỡ, ở tận đây, muốn đi đến đấy cũng mất cả tiếng đồng hồ, dù vừa đi vừa chạy!
Mấy hôm nay bố mẹ nó dọn lên khu vực này, đúng là không có ai ở chung quanh hết! Đồng không mông quạnh, mà thật ra cũng chưa phải là đồng mà chỉ là khu rừng chồi, có một con đường mòn duy nhất đi qua khu nhà nó ở, thế là hết! Lâu lắm mới lại thấy có người đi ngang, khi đi thì đi người không, khi về thì gánh hoặc vác củi hay cây chặt được, chẳng có chợ búa trường học gì, thậm chí nó không có một thằng bạn nào hết, suốt ngày thui thủi một mình.
Lúc đầu nó cũng không biết gia đình nó lại ở trong cảnh heo hút như vậy, nó hết chạy đi hướng này lại chạy đến hướng khác để xem có ai gần nhà nó không, và cuối cùng thì nó khám phá ra chỉ có một cánh đồng và xóm nhà lá khi qua con dốc này, thế thôi!
Bố mẹ nó từ thành phố lên đây, tại sao ông bà lại chọn khu vực này để sống thì nó không biết. Nó có hỏi, bố nó không nói, cả mẹ nó cũng vậy, chỉ nói con còn nhỏ không nên biết làm gì! Nhiều khi nó nghĩ mà tức, đang ở thành phố ngon lành, Sài Gòn chứ có phải thành phố nhỏ đâu, thì lại dọn lên đây. Bố mẹ nó lớn rồi nên không cần bạn thì không nói làm gì, còn nó, nó phải có bạn mới thích, không gì buồn bằng không có bạn! Không biết bố mẹ nó có biết điều đó không mà lại bắt nó sống như thế này!

Nó nhớ, sau nhiều ngày thầm thì bàn tính, bố mẹ nó bán tất cả những đồ đạc nặng rồi di chuyển lên đây, đi như đi trốn chứ không phải là đi đàng hoàng nữa! Từ ngày đó gia đình nó sống trong cái chòi tranh giữa khu rừng chồi này!
Đứng trên con dốc nhìn vào khu nhà phía bên kia, thằng Đồng muốn chạy đến đấy xem có gì không nhưng đi một mình thì nó hơi sợ. Nó lại ao ước có một thằng bạn, chỉ một thằng thôi cũng đủ cho nó lúc này. Hai đứa vừa đi vừa chơi, vừa tán dóc hết chuyện này đến chuyện khác thì đoạn đường từ đây đến đó chẳng bao xa. Ngày còn ở Sài Gòn, nó và mấy thằng nữa đã từng đi bộ từ khu Ông Tạ xuống tít tận chợ Bà Chiểu, đoạn đường đó nó nghĩ xa hơn đoạn đường này. Nhưng đi trong thành phố thì xa cũng hoá ra gần, luôn luôn có người này người khác đi bên cạnh mình, nhất là lại đi với mấy thằng bạn thân thì nó có cảm tưởng nó có thể đi hoài được.
Thằng Đồng ngước nhìn mặt trời, rồi nhìn cái bóng của nó, nó biết vẫn còn sớm, thế là nó lại cắm đầu chạy. Lần này nó chạy xuống dốc nên dễ như chơi, nhưng vì dễ quá nên nó suýt nữa nhào đầu vào cái tảng đá ở cuối con dốc, nó hoàn hồn đi chậm lại, nhưng một lúc sau nó lại chạy.
Con đường chạy giữa cánh đồng lúa đang nặng hạt, những gié lúa trĩu xuống làm thân nó cong lại, có gié cong hẳn xuống gần sát đất. Một vài con cào cào đậu trên bãi cỏ ven đường khi nó đi ngang vụt bay lên, cánh nó đập xành xạch một cách nặng nề rồi lại đậu lại ở một chỗ khác cũng không xa chỗ cũ là bao.
Khi còn ở thành phố, thằng Đồng chưa bao giờ thấy cánh đồng lúa, nó chỉ nhìn thấy qua tranh vẽ hay hình người ta chụp, nhưng nhìn cánh đồng thật trước mặt nó thấy đẹp hơn nhiều. Khi đi đến một mương nước chảy qua cánh đồng nó đứng lại vớt nước lên rửa mặt, nhân tiện nó rửa cả tay chân. Khi nó chao chân dưới nước nó mới thấy một đàn rồng rồng đang bơi, nhưng chỉ một lóang đàn cá biến mất và nước trở nên đục ngàu. Vì mải nghịch nước, nó lội xuống mương định tìm đàn rồng rồng lúc nãy nhưng bùn làm nó lún sâu xuống, suýt nữa ướt cả cái quần đùi nó đang mặc. Còn đang ngẩn ngơ tiếc đàn cá con mà nó mới nhìn thấy thì một thằng cũng chỉ bằng tuổi nó đeo cái giỏ ở bên hông đi đến, nhìn thấy thằng đó, nó hỏi:
- Mày làm gì đó?
Thằng kia ngạc nhiên nhìn thằng Đồng:
- Bắt cua chứ làm gì, mày!
Thằng Đồng năn nỉ:
- Mày cho tao bắt với.
Thằng kia hỏi:
- Giỏ của mày đâu?
- Tao không có, tao bắt cho mày.
Thằng kia càng ngạc nhiên hơn, và rồi chưa kịp nói gì thì thằng Đồng chợt nhớ ra nên nói tiếp:
- Á, mà không được đâu, tao phải về xin phép bố mẹ tao đã, với lại nói bố mẹ tao làm cho tao một cái giỏ, tao sẽ ra đây bắt cua với mày. Mày tên gì?
- Ba, tao tên Ba. Còn mày?
- Đồng.
Thằng Đồng hỏi tiếp:
- Nhà mày ở đâu?
Thằng Ba chỉ vào cái xóm mà thằng Đồng định đến.
- Hôm nào tao đến chơi nhà mày được không?
- Được, nhưng tao ít khi ở nhà lắm, sáng sớm là tao phải ra đồng làm việc rồi, đến tối tao mới về!
Chiều hôm đó nó đã không đến cái xóm mà lúc đầu nó định đến mà ở lại chơi với thằng Ba. Nó đứng lân la ở trên bờ xem thằng Ba bắt cua, nhưng một lúc sau thì nó quên luôn cái việc về nhà có thể bị bố mẹ nó đánh đòn, nên nhào xuống mương bắt cua với thằng Ba. Nó không biết bắt nên không được nhiều, thằng Ba phải chỉ nó mãi nó mới bắt được. Có một lần nó bị một con cua kẹp chảy máu tay, nó kêu vang trời, thằng Ba phải giúp nó gỡ ra và chỉ nó cách cầm con cua để cua khỏi kẹp, bây giờ thì nó biết rồi, khó mà con cua có thể kẹp tay nó được. Chẳng những bắt cua nó còn bắt ốc nữa. Bắt ốc thì dễ, không bao giờ sợ bị ốc cắn. Nhưng có một lần, một con rắn ở đâu bò ra bơi trên mặt nước, thằng Đồng sợ quá gọi thằng Ba vang cánh đồng mặc dầu hai thằng đứng rất gần nhau, thằng Ba cũng giật mình khi nghe thằng Đồng gọi, nó quay lại và hiểu ra ngay, vội chạy theo con rắn và rất lẹ làng nó bắt con rắn cho vào giỏ của nó.
Việc bắt rắn xẩy ra rất nhanh khiến thằng Đồng phục thằng bạn mới của nó quá. Riêng nó thì vẫn còn sợ, nó run run hỏi:
- Mày không sợ rắn cắn à?
Thằng Ba tỏ ra thành thạo:
- Con này là rắn nước, hiền, với lại nếu mày biết, nó không cắn được. Đừng chộp đầu nó mà nó cắn chết. Một tay cầm cái đuôi nó kéo lại, tay kia vuốt thật nhanh cho xương sống nó dãn ra. Nhưng mày chưa biết đừng bắt rắn, có nhiều con độc lắm, cắn chết người như chơi! Khi nào gặp rắn, gọi tao, tao bắt cho!
Buổi chiều vui qua nhanh, khi thấy mặt trời sắp lặn thằng Đồng tìm khúc rạch nước còn trong, nó tắm vội vã rồi nói với thằng Ba:
- Thôi tao về, ngày mai mày còn ra đây bắt cua nữa không?
- Không, bắt chỗ này thế là hết rồi, phải đi chỗ khác rồi mai mốt mới trở lại đây.
- Mai mốt là bao giờ?
- Tao cũng không chắc, khoảng nửa tháng, nhưng tao thường bắt ở trên cánh đồng này, thấy mày ra tao gọi.
Chia tay thằng bạn mới trở về thằng Đồng mừng khấp khởi trong lòng. Tối hôm đó nó kể cho bố mẹ nó về thằng bạn mới của nó và đòi bố nó đan cho nó một cái giỏ để đi bắt cua. Bố nó có hứa mua cho nó một cái, nhưng bố nó cũng nói thật là không biết mua ở đâu, vì thứ đó ngoài chợ thường không có bán mà bố nó lại không biết đan. Thế là vẫn không chắc là nó có cái giỏ hay không!
Đêm hôm đó ăn cơm xong nó đi ngủ sớm, mà thật ra ở đây đêm nào cũng đi ngủ sớm hết vì khi mặt trời lặn là tối hù ngay, không lên giường thì cũng chẳng biết làm gì. Nó nằm trên giường nhìn ra khoảng rừng trước mặt. Một khoảng rừng chồi mờ mờ dưới ánh trăng non, thỉnh thoảng lại có con cò hay vạc bay qua một cách lặng lẽ, nó bỗng nhớ đến Sài Gòn những đêm đèn sáng trưng và cả những đêm không có điện nữa. Những đêm cúp điện thì cũng tối hù thật, nhưng càng cúp điện thì có khi lại càng vui, vì ở trong nhà nóng quá mà lại không có quạt điện nên mọi người đều đổ xô ra ngoài sân hay trước cửa ngồi nói chuyện với nhau. Còn nó và mấy thằng bạn thì không thiếu gì những trò chơi trong bóng tối.
Tự nhiên nước mắt lại chảy ra, nó nhớ đám bạn của nó. Thằng Định, thằng Tuấn, con Liên, bây giờ tụi nó làm gì? Mấy đứa đó chắc giờ này vẫn đang chơi dù Sài Gòn có cúp điện hay không? Tụi nó có bao giờ nhớ đến thằng Đồng, bạn chúng nó hồi xưa, bây giờ đang phải nằm giữa khu rừng hoang vu này, không có gì hết! Không cả những tiếng động. Chưa bao giờ trong đời nó thèm nghe tiếng động như lúc này, tiếng động gì cũng được miễn là những tiếng động đó phát ra từ những sinh hoạt của thành phố tấp nập chứ không phải là tiếng chim kêu vượn hú như ở đây! Vừa nằm nó vừa nghĩ đến những hàng quán hai bên đường Cách Mạng Tháng Tám. Nghĩ đến những đêm, một trong những thằng bạn của nó có tiền, cả bọn rủ nhau ra ngoài phố làm một bụng gì đó rồi về nhà ngủ một giấc ngon lành! Bây giờ nó nằm đây với cái bụng rỗng, chẳng những thèm ăn mà còn thèm bạn nữa!
Nhưng nằm một lúc chán mắt thì nó cũng ngủ, nó ngủ một giấc không biết là bao lâu nhưng khi nó thức giấc thì ở ngoài gió dữ lắm, gió rung rinh cả cánh rừng và nó tưởng căn nhà chòi bay luôn. Rồi sau đó thì mưa, mưa dột tứ tung hết, nó không hiểu bố nó làm sao mà lại để dột đến như vậy!
Đêm hôm đó cả nhà nó thức hết, trùm áo mưa nhìn ra ngoài, sấm chớp như muốn xé bầu trời ra làm nhiều mảnh. Ở Sài Gòn cũng có những trận mưa dữ dằn, gây lầy lội nguyên cả khu vực, nhất là khu nhà nó ở cạnh con rạch Nhiêu Lộc, nhưng nhìn nước dâng lên lúc đó nó chỉ thấy vui chứ không sợ. Còn ở đây mưa làm nó sợ hãi ngồi co ro trên giường. Nhưng rồi nó cũng không nhớ là mưa bao lâu thì ngớt và nó nằm xuống để ngủ tiếp vào lúc nào. Có điều sáng hôm sau nó dậy muộn hơn. Khi nó dậy thì trời vẫn còn âm u, rồi mưa lại rả rích rơi, bố nó phải đội mưa leo lên mái chòi sửa lại cho đỡ giột, cũng may là bố nó có mang được mấy tấm tôn lên đây, thế là bố mẹ nó kéo tấm tôn lên che ngay chỗ giột. Tuy đã có tôn căn chòi vẫn không hết giột hoàn toàn nhưng cũng đỡ hơn trước nhiều. Giá mà bố nó lợp tôn ngay từ đầu thì cũng không đến nỗi như đêm hôm qua. Khi cái mái chòi đã tạm được thì đồ đạc trong nhà cũng đã ướt hết rồi, cả nhà nó đành chịu trận, đốt lửa trong chòi hơ cho quần áo khô, nó cũng phụ bố mẹ nó những công việc mà nó có thể làm được. Tai họa là trận mưa kéo dài, dai dẳng hết ngày này sang ngày khác, nó chưa bao giờ thấy trận mưa nào dài như thế! Những lúc bó gối ngồi nhìn ra ngoài nó chỉ muốn khóc nhưng không dám khóc trước mặt bố mẹ nó. Bây giờ ở đây nó sống như thế này, lũ bạn nó ở Sài Gòn dù mưa hay nắng vẫn đủ thứ trò chơi. Nhưng mưa mãi thì cũng đến lúc hết mưa. Một buổi sáng khi nó ngủ dậy thì cả khu rừng đã chan hoà ánh nắng, bầu trời và cây cỏ đều có vẻ xanh hơn, rực rỡ hơn, ngay cả đất cũng thẫm màu hơn. Nó muốn chạy ra cánh đồng trước đây nó bắt cua với thằng bạn mới của nó nhưng rồi mẹ nó sai nó làm hết cái này đến cái khác nên không thể đi được, thành ra nó vừa làm vừa sốt ruột. Mãi đến gần trưa mới hết việc nên nó chạy ù ra cái dốc. Qua mấy ngày mưa lớn leo lên dốc khó hơn khi khô ráo rất nhiều, chân nó phải ghì xuống đất, còn tay nó phải bám vào những cây nhỏ mọc hai bên mới leo lên được đến đỉnh. Khi đến đỉnh dốc thì khung cảnh nó thấy cách đây mấy ngày biến mất. Nguyên cả cánh đồng chìm trong nước mưa, thỉnh thoảng nó mới nhìn thấy những ngọn lúa trồi lên khỏi mặt nước. Con đường nhỏ chạy giữa cánh đồng cũng biến mất. Bây giờ cánh đồng thành một cái hồ nước lớn. Cái xóm nhà thằng Ba vẫn còn, nó còn có cảm tưởng nhìn gần hơn trước. Nó nhìn rõ những mái nhà tranh ở bên đó, nhìn được cả người ta đi lại nữa. Thằng Đồng cố giương mắt nhìn về phía ấy xem có thấy thằng Ba hay không, nhưng một lúc sau thì chẳng những nó không nhìn thấy rõ hơn mà còn mờ đi. Nó ngồi bệt xuống một phiến đá trên đỉnh dốc tìm mãi trên mặt nước xem chỗ nào là chỗ nó và thằng Ba bắt cua mấy hôm trước, nhưng cuối cùng thì nó đành chịu. Tự nhiên nước mắt nó ứa ra, rồi nó khóc. Nó có cảm tưởng mình nó bị nhốt ở phía bên này, còn tất cả mọi người ở phía bên kia, trong đó có cả Sài Gòn và đám bạn bè ngày xưa của nó. Ngồi chán nó lại thất thểu trở về, chưa bao giờ nó thèm được về Sài Gòn như bây giờ, hay ít ra cũng được sống ở bên kia cánh đồng trong đó có thằng Ba và những người khác.
Cao Xuân Lý
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...