Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2019

Anh phải sống

Anh phải sống
Anh Phải Sống
Khái Hưng
Trên đê Yên Phụ một buổi chiều mùa hạ.
Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưong muốn lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi.
Theo dòng nước đỏ lờ đờ, những thân cây, những cành khô từ rừng về nổi lềnh bềnh, như một dãy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thật nhanh tới một nơi không bờ không bến.
Ðứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ, ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài, nói:
- Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau lắm. Mưa đến nơi mất, mình ạ!
Người chồng cũng thở dài, đi lững thững. Rồi bỗng dừng lại, hỏi vợ:
- Mình thổi cơm chưa?
Vợ buồn rầu đáp:
- Ðã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay.
Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau... Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ.
Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ:
- Liều!
Vợ lắc đầu không nói. Chồng hỏi:
- Mình đã đến nhà bà Ký chưa?
- Ðã.
- Thế nào?
- Không ăn thua. Bà ấy bảo có đem củi vớt đến, bà ấy mới giao tiền. Bà ấy không cho vay trước.
- Thế à?
Hai chữ "thế à" rắn rỏi như hai nhát bay cuối cùng gõ xuống viên gạch đặt trên tường đương xâỵ Thức quả quyết sắp thi hành một việc phi thường, quay lại bảo vợ:
- Này! Mình về nhà, trông coi thằng Bò.
- Ðã có cái Nhớn, cái Bé chơi với nó rồi.
- Nhưng mình về thì vẫn hơn, cái Nhớn nó mới lên năm, nó trông nom sao nổi hai em nó.
- Vậy thì tôi về... Nhưng mình cũng về chứ đứng đây làm gì?
- Ðược, cứ về trước đi, tôi về sau.
Vợ Thức ngoan ngoãn, về làng Yên Phụ.
Tới nhà, gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm, chị phó Thức đứng ở ngưỡng cửa, ngắm cái cảnh nghèo khó mà đau lòng.
Lúc nhúc trên phản gỗ không chiếu, ba đứa con đang cùng khóc lóc gọi bu. Thằng Bò kêu gào đòi bú. Từ trưa đến giờ, nó chưa được tí gì vào bụng.
Cái Nhớn vỗ em không nín cũng mếu máo, luôn mồm bảo cái Bé:
- Mày đi tìm bu về để cho em nó bú.
Nhưng cái Bé không chịu đi, nằm lăn ra phản vừa chưởi vừa kêu.
Chị phó Thức vội chạy lại ẵm con, nói nựng:
- Nao ôi! Tôi đi mãi để con tôi đói, con tôi khóc.
Rồi chị ngồi xuống phản cho con bú. Song thằng Bò, ý chừng bú mãi không thấy sữa, nên mồm nó lại nhả vú mẹ nó ra mà gào khóc to hơn trước.
Chị Thức thở dài, hai giọt lệ long lanh trong cặp mắt đen quầng. Chị đứng dậy, vừa đi vừa hát ru con. Rồi lại nói nựng:
- Nao ôi! Tôi chả có gì ăn, hết cả sữa cho con tôi bú!
Một lúc thằng bé vì mệt quá, lặng thiếp đi. Hai đứa chị, người mẹ đã đuổi ra đường chơi để được yên tĩnh cho em chúng nó ngủ.
Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc đời đã qua. Bộ óc chất phát của chị nhà quê giản dị, không từng biết tưởng tượng, không từng biết xếp đặt trí nhớ cho có thứ tự. Những điều chị nhớ lại chen chúc nhau hỗn độn hiện ra như những hình người vật trên một tấm ảnh chụp. Một điều chắc chắn, chị ta nhớ ra một cách rành mạch, là chưa bao giờ được hưởng chút sung sướng thư nhàn như những người giàu có.
Năm mười hai, mười ba, cái đĩ Lạc, tên tục chị phó Thức, xuất thân làm phu hồ. Cái đời chị, nào có chi lạ. Ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm...
Năm chị mười bảy, một lần cùng anh phó Thức cùng làm một nơi, chị làm phu hồ, anh phó ngõa. Câu nói đùa đi, câu nói đùa lại, rồi hai người yêu nhau, rồi hai người lấy nhau.
Năm năm ròng trong gian nhà lụp sụp ẩm thấp, tối tăm ở chân đê Yên Phụ, không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép và hai cái đời trống rỗng của hai con người khốn nạn, càng khốn nạn khi họ đã đẻ luôn ba năm ba đứa con.
Lại thêm gặp buổi khó khăn, việc ít, công hạ, khiến hai vợ chồng loay hoay, chật vật suốt ngày này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi con.
Bỗng mùa nước mặn năm ngoái, bác phó Thức nghĩ ra được một cách sinh nhai mới. Bác vay tiền mua một chiếc thuyền nan, rồi hai vợ chồng ngày ngày chở ra giữa dòng sông vớt củi. Hai tháng sau, bác trả xong nợ, lại kiếm được tiền ăn tiêu thừa thải.
Vì thế năm nay túng đói, vợ chồng bác chỉ mong chóng tới ngày có nước to.
Thì hôm qua, cái ăn, trời bắt đầu đưa đến cho gia đình bác.
Nghĩ đến đó, Lạc mỉm cười, se sẽ đặt con nằm yên trên cái tã, rồi rón rén bước ra ngoài, lên đê, hình như quả quyết làm một việc gì.
Ra tới đê, Lạc không thấy chồng đâu.
Gió vẫn to, vù vù gầm thét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm chảy quanh như thác. Lạc ngước mắt nhìn trời; da trời một màu đen sẫm.
Chị đứng ngẫm nghĩ, tà áo bay kêu phần phật như tiếng sóng vỗ mạnh vào bờ. Bỗng trong lòng nẩy ra một ý tưởng, khiến chị hoảng hốt chạy vụt xuống phía đê bên sông.
Tới chỗ buộc thuyền, một chiếc thuyền nan, Lạc thấy chồng đương ra sức níu lại cái gút lạt. Chị yên lặng đăm đăm đứng ngắm đợi khi chồng làm xong công việc, mới bước vào thuyền hỏi:
- Mình định đi đâu?
Thức trừng mắt nhìn vợ, cất tiếng gắt:
- Sao không ở nhà với con?
Lạc sợ hãi ấp úng:
- Con... nó ngủ.
- Nhưng mình ra đây làm gì?
- Nhưng mình định đem thuyền đi đâu?
- Mình hỏi làm gì? Ði về!
Lạc bưng mặt khóc. Thức cảm động:
- Sao mình khóc?
- Vì anh định đi vớt củi một mình, không cho tôi đi.
Thức ngẫm nghĩ, nhìn trời, nhìn nước, rồi bảo vợ:
- Mình không đi được... nguy hiểm lắm.
Lạc cười:
- Nguy hiểm thời nguy hiểm cả... Nhưng không sợ, em biết bơi.
- Ðược!
Tiếng "được" lạnh lùng, Lạc nghe rùng mình. Gió thổi vẫn mạnh, nước chảy vẫn dữ, trời mỗi lúc một đen. Thức hỏi:
- Mình sợ?
- Không.
Hai vợ chồng bắt đầu đưa thuyền ra giữa dòng, chồng lái, vợ bơi. Cố chống lại sức nước, chồng cho mũi thuyền quay về phía thượng du, nhưng thuyền vẫn bị trôi phăng xuống phía dưới, khi nhô, khi chìm, khi ẩn, khi hiện trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son.
Nhưng nửa giờ sau, thuyền cũng tới được giữa dòng. Chồng giữ ghì lái, vợ vớt củi.
Chẳng bao lâu thuyền đã gần đầy, và vợ chồng sắp sửa quay trở vào bờ thì trời đổ mưa... Rồi chớp nhoáng như xé mây đen, rồi sấm sét như trời long đất lở.
Chiếc thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu.
Hai người cố bơi nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi...
Bỗng hai tiếng kêu cùng một lúc:
- Trời ơi!
Thuyền đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và lạnh lùng trôi đi, lôi theo cả chiếc thuyền nan lật sấp...
Chồng hỏi vợ:
- Mình liệu bơi được đến bờ không?
Vợ quả quyết:
- Ðược!
- Theo dòng nước mà bơi... Gối lên sóng!
- Ðược! Mặc em!
Mưa vẫn to, sấp chớp vẫn dữ. Hai người tưởng mình sống trong vực sâu thẳm. Một lúc sau, Thức thấy vợ đã đuối sức, liền bơi lại gần hỏi:
- Thế nào?
- Ðược! Mặc em!
Vợ vừa nói buông lời thì cái đầu chìm lỉm. Cố hết sức bình sinh, nàng mới ngoi lên được mặt nước. Chồng vội vàng đến cứu. Rồi một tay xốc vợ một tay bơi. Vợ mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Chồng cũng mỉm cười. Một lúc, Thức kêu:
- Mỏi lắm rồi, mình vịn vào tôi, để tôi bơi! Tôi không xốc nổi được mình nữa.
Mấy phút sau, chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh ta rã rời. Vợ khẽ hỏi:
- Có bơi được nữa không?
- Không biết. Nhưng một mình thì chắc được.
- Em buông ra cho mình vào nhé?
Chồng cười:
- Không! Cùng chết cả.
Một lát - một lát nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày - chồng lại hỏi:
- Lạc ơi? Liệu có cố bơi được nữa không?
- Không?... Sao!
- Không. Thôi đành chết cả đôi.
Bỗng Lạc rung khẽ nói:
- Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!... Không?... Anh phải sống!
Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để mình xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ.
Ðèn điện sáng rực xuống bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỏ đứng bên cạnh. Ðó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy sinh vì lòng thương con.
Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng.
Tháng Ngày Qua
Nhất Linh
Ðầu hiên, về phía trông ra vườn, một cái vườn trồng toàn roi, Minh và Giao cặm cụi ngồi học.
Bấy giờ đã quá trưa. Trời trong biếc. Trên giàn thiên lý, mấy chùm hoa sẽ đưa trước gió, một vài tiếng gà gáy xa xa.
Giao đang học, tự nhiên thấy có cái cảm giác rất lạ, chàng không ngửng đầu lên mà biết chắc có người đứng nhìn chàng. Giao gấp sách lại, quay mặt ra phía vườn, thấy vợ bạn đương đăm đăm nhìn mình:

- Hú vía! Chị Minh! Tôi thoáng thấy bóng trắng trắng lại ngỡ là ma.
Người vợ trẻ của Minh hơi có ý ngượng vì thấy Giao bắt gặp mình nhìn trộm, mỉm cười nói chữa:
- Hai anh em học chăm quá, người ta đến gần mà không biết.
Lúc bấy giờ nàng đứng tựa đầu vào cái ghế dài, như có vẻ mỏi mệt, cặp môi hơi hé, hai gò má phơn phớt đỏ và đôi mắt trong trẻo, sáng sủa như ánh nắng rực rỡ mùa hè. Nàng có cái vẻ đẹp lộng lẫy quá, khiến Giao không dám nhìn lâu, nhất là không dám nhìn hai con mắt của nàng, hai con mắt huyền bí như có cái mãnh lực vô hình làm cho Giao rạo rực, náo nức cả trong lòng.
Nàng đưa ra mấy cánh hoa nhài và bảo chồng:
- Này cậu, cây nhài hôm nọ tôi mua ở chợ về, có hoa rồi đấy, cậu lấy cốc cho nước vào để cắm hoa.
Minh, mắt vẫn để vào sách nói:
- Tôi rất ghét thứ hoa nhài. Ngửi nó đâm ra nhức cả đầu.
Nhưng Giao không nghĩ thế, chàng hiểu vì cớ gì mà người vơ. Minh đem hoa đến, chàng cảm động. Từ hôm nói chuyện với Minh rằng ở trên đời chàng không thích hoa gì bằng hoa nhài, thì chàng thấy vơ. Minh mua ngay cây nhài về trồng trong vườn, tưới xới săn sóc đến luôn luôn. Hôm nay cây nhài nở mấy bông hoa đầu, vơ. Minh ngắt hoa có cái ý nghĩa gì, Giao đã hiểu.
Ðã hơn một tháng nay, Giao cố sức chống lại với cái sức mạnh của ái tình, nó như ngọn sóng gió muốn lôi cuốn chàng đi. Chàng mới có mười bảy tuổi, cái tuổi còn non nớt lại gặp ngay mối tình mãnh liệt mà éo le.
Tuy Minh hơn Giao những bảy tuổi mà hai người cùng học một lớp ở trường Trung học, Giao trọ ở nhà một người quen trong làng N, nhưng vì bên nhà Minh có vườn mát mẻ nên thường hay sang cùng ngồi học với Minh, nhân tiện chỉ bảo giúp Minh, vì Minh học lực rất kém. Thế rồi ngày một ngày hai, khi đi lại, lúc ra vào, Giao cảm vì cái sắc đẹp rực rỡ của vơ. Minh mà xem chừng vơ. Minh cũng vì cái tình ngây thơ của một cậu học trò còn trẻ tuổi đối với mình.
Nhưng hai người cùng sợ, cùng rụt rè, không dám tìm cách để gặp nhau, nhưng cũng không nỡ xa nhau, cứ để mặc cho cái mùi hương nguy hiểm của ái tình nó mê đắm cả hai người.
Giao biết, biết là có một ngày kia chàng sẽ phạm vào tội lỗi đối với bạn, chàng biết là sẽ làm một việc rất xấu, nên chàng hết sức chống lại. Có khi chàng giữ hai, ba ngày không sang nhà bạn nhưng cái vẻ đẹp kia, đôi má hồng, hai con mắt sáng kia như có sức mạnh bắt chàng không thể nào quên được. Giao lại sang, tự an ủi mình rằng ngắm một người đẹp đã tội lỗi gì đâu.
Cứ mỗi lần Giao sang ngồi học với Minh thì người vợ hay lân la đến chỗ hai người nói chuyện vơ vẩn. Một hôm Giao sang học bên nhà bạn, thấy cửa đóng, gõ thì người vợ ra mở. Nàng thấy Giao làm ra bộ ngạc nhiên:
- À anh Giao! Tôi lại tưởng có người đến hỏi nợ, đã lo!
Rồi nàng cười, cười tít đi, đôi má lại càng đỏ, hai con mắt lại càng trong, khiến Giao cuống quít, không biết nói làm sao. Nàng vừa cài then cửa vừa nói:
- Hôm nay anh Minh đi vắng!
Rồi nàng nhìn Giao như dò ý tứ. Giao vội nói:
- Thế chị để tôi về thôi, mai sang.
- Về nhà bức chết, anh cứ vào mà ngồi học... việc gì.
Rồi nàng nhìn lên cây, vỗ tay nói một cách ngây thơ như đứa trẻ vui mừng:
- Roi chín rồi, để tôi lấy sào chọc mấy quả anh ăn. Ngọt, giòn, mát như đường phèn.
Nàng vừa nói vừa chép miệng, rồi làm bộ như nuốt nước bọt thèm, nhìn Giao cười.
Giao nhìn lên cây roi thấy trong đám lá xanh mấy chùm quả nặng trĩu, sắc da mát và hồng, như muốn trêu giục người ta hái xuống ăn ngấu ăn nghiến, lại nhìn đến người đàn bà đôi má hồng, tự nhiên trong trí chàng nảy ra một sự so sánh chùm quả ngon với người con gái đẹp. Trong lúc say đắm về cách cử chỉ của nàng, Giao không nghĩ gì cả, nhưng Giao sợ, sợ không thoát khỏi! Chàng biết chàng như con cá riết con đã mắc vào lưới, không tài nào thoát, nhưng cũng giẫy giụa trước khi chịu khuất phục.
Một lát vơ. Minh đi vào, tay cầm một chùm roi, tóc xõa xuống má, nhìn Giao hớn hở.
Giao đứng ngay dậy, thì nàng cũng vừa bước lại gần sát bên cạnh: bốn mắt gặp nhau. Giao nhìn nàng thấy nàng đổi khác hẳn mọi khi: cặp môi nàng mấp máy, dưới tấm áo mỏng, ngực nàng phập phồng, hai con mắt nhìn đăm đăm vào chàng có vẻ lẳng lơ, nồng nàn như đắm tình.
Một lát, nàng sẽ nói:
- Mời anh xơi roi...
Lúc bấy giờ Giao như người mất hồn, mặt nóng bừng, không nghĩ gì nữa, như bị hai con mắt đẹp huyền bí của nàng làm tê mê... Giao khẽ để tay lên tay nàng - tay nàng còn cầm chùm roi - nàng để yên không kéo ra, cúi đầu e thẹn. Bỗng tự nhiên, nàng giật mình kéo mạnh tay ra, lùi lại một bước, kêu:
- Con sâu! Trong quả roi có con sâu...
Giao nhìn, quả nhiên thấy trong một quả roi to nhất, đẹp nhất, có con sâu từ từ bò ra leo lên tìm đường thoát. Giao vội vàng ném quả roi ra vườn. Nhưng từ lúc đó, chàng như người ngủ mê mới tỉnh: con sâu trong quả roi đã làm cho chàng biết rằng chàng sắp phạm một tội xấu xa, mà trong lúc mê man vì sắc đẹp chàng không nghĩ tới. Chàng ném quả roi xong, quay lại thấy vợ bạn đương nhấc bức mành, bước vội vào nhà như người đi trốn. Giao thở dài, cắp sách về nhà trọ, và từ đấy, chàng không tới nhà bạn nữa.
Bảy năm sau... trong bảy năm đó vì việc nhà, Giao phải cách biệt hẳn Hà Nội, phiêu lưu nay đây mai đó: trên đường đời, chàng đã gặp biết bao nhiêu là mỹ nữ, nhưng chàng không sao quên được người xưa.
Bảy năm sau, nhân về Hà Nội, chàng thuê xe xuống làng N... để thăm người bạn học mà chàng phải xa cách, mà nhất là thăm người mà bảy năm về trước có cái sắc đẹp đã làm rung động tấm linh hồn ngây thơ của chàng.
Tình cờ lúc đó lại vừa đúng tháng sáu đúng mùa roi chín.
Tuy đã lâu năm, nhưng chàng nhận ngay được ngõ vào nhà bạn, cái cổng gỗ bây giờ đã cũ, mấy cây roi có to hơn, nhưng trong đám lá xanh mấy chùm quả nặng trĩu vẫn một sắc da mát và hồng như trước.
Chàng gõ cửa, thấy trong nhà có tiếng người đi ra. Cửa mở, một người đàn bà, tay bế con, thấy Giao buộc mồm kêu:
- Anh Giao!
Nàng nhận ngay ra được cậu học trò, bạn học của chồng ngày trước.
Nàng mừng quá, chỉ nói được thế thôi rồi đứng nhìn Giao từ đầu đến chân. Nhưng Giao trông nàng lấy làm lạ, ngạc nhiên, hơi ngờ ngợ. Chàng lãnh đạm hỏi:
- Bác trai có nhà không, bác?
Nàng vừa cài then cửa vừa nói:
- Nhà tôi đi vắng.
Giao bước vào thấy cảnh sắc vẫn nguyên như cũ: vẫn giàn thiên lý ở đầu nhà, dăm chùm hoa nở, vẫn cái án thư, hai cái kỷ ở đầu hiên, chỗ mà chàng vẫn ngồi học với Minh năm nọ.
Lúc ngồi nói chuyện, uống nước với vơ. Minh, Giao cố ý ngắm kỹ nàng, vì Giao không nhút nhát như trước mà không dám nhìn lâu nữa - nhưng bây giờ còn đâu cái đẹp nồng nàn, còn đâu đôi má hồng, hai con mắt trong trẻo sáng sủa như nắng rực rỡ mùa hè...
... Tháng ngày qua... sắc đẹp tàn...
Nàng thẫn thờ nói:
- Chóng thật! mới ngày nào, bây giờ đã...

Nàng ngẩng nhìn lên tường thấy bóng mình in trong cái gương to để đấy, cái bóng một người đàn bà đứng tuổi, không có vẻ gì là vẻ thanh xuân, nàng chạnh tưởng tới cái sắc đẹp lộng lẫy khi xưa nay đã tàn. Nàng nhìn Giao, Giao nhìn nàng, hai người cùng một ý nghĩ như nhau.
Nàng buồn rầu, nhắc lại:
- Chóng thật!...
Rồi nàng cố gượng làm bộ vui tươi, bảo Giao:
- Bác đến may quá, vừa đúng mùa roi chín... để lấy mấy quả bác xơi.
Giao ăn roi nhìn nàng nói nửa đùa nửa thật:
- Roi vẫn ngọt, vẫn mát như đường phèn... nhưng bây giờ không có sâu nữa.
Rồi hai người cùng mỉm cười, cái mỉm cười chua chát, biết bao ý nghĩa, như nhắc hai người ôn lại chuyện xưa. Giao bùi ngùi nhớ lại cái mơ mộng ngày trước, cái mơ mộng yêu một cách thiết tha và không chánh đáng, một cái sắc đẹp mà bây giờ chàng mới biết là ảo mộng, mong manh không có giá trị gì!
Chuyện vẩn vơ một lúc, Giao đứng dậy xin cáo từ. Nàng cũng tiễn theo ra.
Lúc đi qua chỗ ngồi học ngày trước, chàng thấy trên án thư một cái cốc không có cắm mấy cành nhài mà lúc vào chàng không để ý đến. Mấy bông hoa nhài trắng như mấy cái nụ cười âu yếm nhắc lại trong trí Giao câu chuyện tặng hoa ý nhị năm xưa. Mấy bông hoa có lẽ vô tình cắm đó đã làm cho Giao có cái ảo tưởng rằng trong bảy năm nay, lúc nào nàng cũng còn nhớ đến cậu học trò, cậu học trò đã trót mê nàng vì cái sắc đẹp mà bây giờ không có nữa. Cái ảo tưởng ấy làm cho Giao man mác trong lòng.
Trước khi từ biệt, Giao nhìn thẳng vào mắt nàng như để tỏ lời cám ơn nàng trong bấy lâu vẫn để bên lòng một chút tình thương yêu chàng, chút tình ấy kín đáo hơn cái sắc đẹp kia, nhưng lâu bền hơn.
Tháng ngày qua... sắc đẹp tàn... nhưng cái hương thơm của tình thương yêu tuyệt vọng, u uẩn của nàng đối với Giao còn phảng phất không bao giờ phai.
Dưới Bóng Hoa Ðào
Nhất Linh và Khái Hưng
Trời đông mưa phùn lấm tấm. Bên kia dẫy nhà lá lúp xúp dưới chân đê Yên Phụ, nóc không cao quá mặt đường, nước hồ Tây mù mịt, bát ngát, mênh mông, như một cửa biển chìm đắm trong cảnh sương mù buổi sáng.
Ðứng nhìn xuống con đường làng lát gạch lờ mờ quanh co tựa con rắn nâu dài quặn mình lượn khúc ở giữa hai làn nước xám.
Như không nghĩ tới mùa rét, không nghĩ tới bùn lầy, hai người vận Âu phục, tay thọc trong túi áo tơi cài kín, mạnh bạo nện gót trên đường. Ðến một lối dốc, có cổng tre, cánh phên nứa, đưa tới một cái vườn trồng đầy cúc, hai người từ từ dừng bước. Tống Bình quay lại nhìn Nam Chân. Nam Chân mỉm cười khẽ hỏi:
- Xuống nhé?
- Ừ thì xuống. Nhưng...
Nam Chân chắc đã thừa hiểu ý bạn, nói gạt ngay:
- Mặc chứ!
Tống Bình ngần ngại:
- Nhưng cũng hơi quá. Luôn năm hôm đến mua hoa cúc năm lần. Chắc nó ngờ, ngượng chết!
- Nó ngờ mặc nó!... mình đi sắm tết kia mà!
Nam Chân nhìn bạn cười:
- Làm gì mà bẽn lẽn như cô dâu mới về nhà chồng thế?
- Còn anh thì làm gì mà si tình thế, để tôi phải lặn lội trời mưa rét mướt.
- Rõ khéo, ai bắt anh đi.
- Nhưng anh cứ rủ...
- Ai cấm anh không theo? Kỳ tình cu cậu cũng muốn chết đi kia! Thôi đã đến đây thì xuống.
Con đường dốc đất vàng lẫn nước, vừa lội vừa trơn. Hai người, bùn bắn lấm tấm ống quần, phải vịn vào những cọc chống hàng giậu phên nứa, mới lần từng bước xuống được vườn. Một con chó trắng ở trong chiếc nhà lá sồ ra, làm cho hai người suýt ngã.
Một cậu bộ dạng láu lỉnh trông như học trò, đầu để trần, chân đi guốc, mình mặc chiếc áo nịt đen trùm ra ngoài áo cộc trắng thong thả đi ra. Gặp khách hàng quen, cậu em nhếch mép ngả đầu chào:
- Thưa hai ông lại đến mua cúc?
Ðó chỉ là câu tự nhiên của người bán hàng, nhưng Tống Bình cảm thấy có ngụ ý rất nhiều ý tứ, liền bấm bạn, nói thầm:
- Ðấy, đã bảo mà!
Nam Chân, nét mặt thản nhiên, tươi cười đáp lại cậu bán hàng hoa:
- Phải, chúng tôi đi mua cúc. Cúc còn nở đẹp, chúng tôi còn mua mãi.
- Vậy mời hai ông vào vườn. Hai ông mua cúc ở vườn này hay ở vườn trong?
Cậu giơ tay trỏ:
- Ở tận trong kia... chỗ chị tôi đương xới đất ấy.
Hai chàng xăm xăm tiến bước. Nam Chân vừa đi vừa nói:
- Thế thì vườn trong hoa đẹp hơn.
Cậu bán hoa cũng theo liền sau. Cậu cười một cách lém lỉnh, bảo hai người khách:
- Các ông đi từ từ chứ kẻo trơn ngã.
Rồi gọi to:
- Chi. Mai ơi! Có khách mua hoa đấy.
Bỗng ở giữa đám cúc vàng, đứng dậy một người con gái chít khăn vuông, mặt trái xoan, da trắng mát. Chắc hẳn cô đã trông thấy khách mua hàng quen ở phía ngoài giậu phên. Cậu em nói sẽ với hai ông khách:
- Xin hai ông hãy đứng chờ đây một phút, cho phép cháu vào hỏi chị cháu tí việc riêng.
Dứt câu, cậu chạy vào trong vườn, ghé tai chị thì thầm:
- Chị nhớ lời em dặn nhé... Ở đời cần gì, phải chiều người lấy của chứ. Chị cứ nói thật cao, bao nhiêu người ta cũng trả.
Mai mủm mỉm cười.
- Vậy dẫu họ hỏi ngớ ngẩn thế nào, chị cũng đừng gắt như hôm qua, cứ trả lời ôn tồn người ta nhé? Bu cũng bảo thế đấy.
Mai vẫn tủm tỉm cười, hai má đỏ hây hây trước luồng gió lạnh, vẻ đẹp càng tăng bội phần:
- Ðược cậu không lo. Thế nào chốc nữa cũng có hai đồng bạc tiêu. Cậu cứ về nhà, để mình chị ở đây.
Cậu em ra tới cổng vườn còn dặn với chị cốt để hai người khách nghe rõ và không ngờ vực.
- Chị nhớ nhé! Chẳng mai phiên chợ rồi đấy.
Quay lại, cậu nói với hai người:
- Mời hai ông vào chọn hoa, đã có chị cháu, cháu xin về lấy giỏ để đựng cây.
Cô hàng hoa cất giọng oanh thỏ thẻ:
- Thưa hai ông mua cúc gì?
Nam Chân tiến lại gần, ngớ ngẩn hỏi:
- Cúc gì đẹp như... cô nhỉ?
- Thưa ông? ở vườn em, cúc gì cũng đẹp. Ông muốn mua thứ gì thì mua?
Rồi cô đăm đăm nhìn Tống Bình, hỏi sẽ Nam Chân:
- Thưa ông, ông kia là bạn ông?

- Phải. Sao
- Thưa ông, trông ông ấy bẽn lẽn như con gái.
Nam Chân cười, quay lại thấy Tống Bình vẫn đứng ở gần cổng, liền gọi:
- Này anh Tống Bình...
Sơ. Nam Chân ôn lại cho bạn nghe câu mình vừa nói, Mai hai má đỏ bừng, vội vàng cúi mặt xuống nói:
- Ấy, em lậy ông, ông đừng... đấy!
Chuyện vẩn vơ một lúc, rồi khi cúc đã cho vào giỏ, tiền đã trả, hai người đứng mãi cũng ngượng, liền tính đường lui. Mỗi người khệ nệ mang hai giỏ cúc, ra đến cổng vườn còn quay lại nhìn. Cô bán hoa đứng trong vườn cúc, cũng trông theo, nói:
- Vài hôm nữa, hai ông lại xuống mua đào nhà em, nhé!
Nam Chân chạm vào vai bạn:
- Tình không?
Ði khuất hàng rào, Tống Bình nhìn xuống hai giỏ cúc, phàn nàn:
- Nặng quá!... Thôi tôi vứt lại đây, ai muốn lấy thì lấy. Khuân về làm gì cho nhọc xác lại rác nhà. Chỉ tại anh đấy mà!
- Thôi chịu khó mang về làm kỷ niệm.
Tống Bình gắt:
- Kỷ niệm gì, nó lừa mình nó lấy tiền. Con bé ấy nó láu lắm. Tình nghĩa gì!
Hai hôm sau, Nam Chân lại ru? Tống Bình đi mua hoa, nhưng Tống Bình từ chối. Nam Chân cũng không ép, để bạn ở nhà, đi một mình. Lần này, mới đến chỗ dốc, chàng nhìn xuống đã thấy cô hàng hoa đứng ở vườn ngoài, dựa vào gốc đào, chăm chăm cặp mắt nhìn lên đường. Nam Chân dừng lại ngắm nghía. Mái tóc mây lẩn dưới vành khăn đen láy (vì hôm nay cô không chít khăn vuông). Khuôn mặt dịu dàng, nước da trắng hồng in trong cái khung tròn màu hồng phơn phớt của cây đào đầy hoa, khiến Nam Chân lại nhớ đến bức tranh Nhật Bản mà chàng được ngắm ở một hàng sơn.
Nam Chân xuống vườn. Mai ra đón, ngơ ngác nhìn lên đường hỏi:
- Còn ông bạn ông?
Nam Chân có dáng không bằng lòng, hỏi lại:
- Bạn nào
Mai bẽn lẽn, cúi đầu, thỏ thẻ:
- Ông bạn vẫn đi với ông, ông Bình ấy mà.
- Cô nhớ kỹ tên ông ấy nhỉ?
Rồi lạnh lùng chàng nói:
- Ông ấy không đến.
Mai có vẻ buồn.
Lần này, hai người tuy vẫn nói chuyện với nhau, nhưng lời cứng cỏi, nét mặt cau có. Lại thêm cậu em ở bên nhà sang, cứ đứng nói bông, thỉnh thoảng lại đưa mắt ra hiệu nhắc chị.
Nam Chân chê thứ cúc nọ hoa gầy, thứ cúc kia hoa rữa, rồi chẳng mua khóm nào.
Lúc chàng ra về, Mai theo đến tận cổng vườn. Bỗng cô quay lại bảo em:
- À cậu, cậu về thay nước hộ chị mấy chục bát thủy tiên nhé. Sáng nay chị quên bẵng đi mất.
Cậu em ngoan ngoãn lắm, vui vẻ về ngay. Nam Chân đoán rằng Mai muốn ở lại một mình để nói câu chuyện riêng gì, thấp thỏm mừng thầm. Quả thực, chàng đoán không sai.
Mai lại gần, tươi cười nói sẽ:
- Thưa ông, em muốn nhờ ông một việc, chả biết ông có giúp cho không?
- Ðược, cô cứ nói, thế nào tôi cũng giúp.
- Hôm nay, ông không mua hoa...
- Vậy cô muốn tôi muả Ừ thì tôi mua.
- Thưa ông, cái đó có hề chi, ông mua cũng đã nhiều rồi. Hôm nay ông không mua hoa, vậy em nhờ ông tiện xe cho em gửi đôi khóm cúc với cành hoa của ông... bạn ông mua hôm qua nhưng còn gửi lại.
Nam Chân tuy tức uất người, phần giận cô hàng chỉ nghĩ đến Tống Bình, phần giận bạn lẻn đi mà không rủ mình. Song đã trót hứa giúp thì chàng cũng phải nhận lời.
Lúc chàng về tới nhà, Tống Bình ra đón cửa hỏi:
- Anh lại mua hoa cúc? Lại thêm cả cành đào, đẹp nhỉ?
Nam Chân bĩu môi:
- Lại còn vờ!
Tống Bình ngơ ngác:
- Anh bảo tôi vờ cái gì?
Nam Chân dằn từng tiếng:
- Vờ cái gì! Hôm qua lẻn đi một mình... rồi mua hoa lại không đem về, bắt người ta phải hầu, lại còn vờ cái gì nữa.
Tống Bình biết rằng bạn tức giận lắm, ôn tồn phân trần:
- Thì sáng hôm qua, tôi ngồi bàn giấy với anh từ sáu giờ tới mười một giờ, anh không nhớ?
Nam Chân ngẩn người ra, ngẫm nghĩ. Nhưng lúc hiểu câu chuyện chàng lại ghen đầy ruột:
- Hừ! Con bé!...
Tống Bình hỏi dồn:
- Con bé bảo anh cái gì? Cái gì thế? Nó bảo anh đem hộ cho tôi hai giỏ cúc và cành đào này à?
Tống Bình yên lặng một lúc, rồi mủm mỉm cười, nói một mình:
- Tình tứ quá!
Trong lòng tự nhiên chàng thấy sung sướng.
Ngồi chống tay vào cằm, Nam Chân cười mát bảo bạn:
- Thế thì con bé giỏi thật, nó đánh lừa mình để bắt mình đem tặng tình nhân nó.
Hôm sau, Tống Bình thấy bạn vẫn còn tức tối, đến khẽ vỗ vai:
- Này, đi mua hoa đi!
Nam Chân quay lại trợn mắt nhìn bạn, đáp:
- Anh muốn đi thì cứ đi, tôi đi làm gì?
Tống Bình thân mật hỏi:
- Anh giận em đấy à?
Nam Chân giọng khinh bỉ:
- Vì cớ gì tôi lại giận anh? Phải! Vì cớ gì?
Biết bạn bực tức, Tống Bình kéo ghế ngồi liền bên cạnh, thong thả nói:
- Hỏi đùa anh đấy... chứ tôi không đi đâu! Chúng ta không nên đi vì hai lẽ. Lẽ thứ nhất, anh em ta không nên vì một cô hàng hoa mà đến giận nhau, có khi đến lìa nhau. Lẽ thứ hai, ta chỉ nên coi cô bé ấy như một khóm cúc ở trong vườn cô ta.
"Ta cứ để khóm cúc mọc ở vườn thì sang năm ta lại cùng nhau xuống Yên Phụ ngắm nghía, vì còn ở vườn, nó còn nằm ấy sang năm khác nẩy chồi phát hoa, chứ về nhà ta thì bất quá chơi được ba hôm tết, rồi nhị tàn cánh úa, ta chẳng khỏi ném nó vào trong chiếc xe rác qua đường.

"Vả, có lẽ chỉ ở vườn, nó mới đẹp, chứ khi trồng nó vào chậu sứ để trong nhà thì vị tất nó sẽ còn đẹp... Vậy thôi đấy nhé. Phải để dành nó đấy đến sang năm".
Nam Chân nghe bạn nói, ngẫm nghĩ một lúc rồi thở dài:
- Anh nghĩ thế mà phảị
Từ hôm ấy, Nam Chân và Tống Bình không đi mua hoa cúc nữa.
Còn cô Mai chiều chiều nhớ đến người mua hoa, vẫn đứng tựa gốc đào trông ngóng. Nhưng người đi không trở lại, rồi tết hết, xuân qua, tình cô cũng một ngày một phai như hoa đào dần dần tàn rụng trước gió...
Bóng Người Trong Sương Mù
Nhất Linh
Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nhì, riêng tôi ngồi đối diện với Trạch- một người bạn cũ, tình cờ gặp vì đi cùng trong một chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi còn là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi; bây giờ gặp lại nhau trong toa hạng nhì, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau.
Lúc nói chuyện, tôi thấy bên bạn có cái hộp khảm rất đẹp liền cầm lấy xem, rồi tình cờ mở hộp ra; bạn tôi có ý không bằng lòng nhưng vì nể tôi nên không nói gì. Tôi nhìn vào hộp thấy lạ: hộp bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đã xơ xác. Tôi hỏi bạn:
- Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quý gì mà anh giữ cẩn thận thế này?
- Vâng, bướm thường, nói cho đúng thì là một con ngài, nhưng đối với tôi... Vừa nói đến đấy, xe rầm rập đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi nói:
- Xe đi qua cầu N.G. Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đã mười năm nay...
Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện gì, liền hỏi:
- Con bướm này chắc cũng có sự tích gì đây?
- Vâng, những sự tích buồn... Chuyện đã ngoài mười năm trước độ anh đi Sài Gòn thì tôi còn là anh cầm lái tàu hoả. Chính độ ấy tôi chạy con đường này, tình cảm tôi độ ấy anh đã rõ.
- Cũng như tình cảnh tôi...
- Nhưng có một việc tôi không nói cho anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng vì cảnh nghèo, vì nhà tôi không quen chịu được kham khổ nên người mỗi ngày một yếu dần.
Về sau, nhà tôi bị bệnh nặng mà tôi thì vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan an toàn quyền. Thật là một dịp rất hay cho tôi. Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền thưa với ông Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn, đập ghế, gắt:
- Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra.
Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nhìn đến vợ mới biết rằng không đi được, dẫu mất việc làm cũng không cần.
Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi duyên cớ vì sao, tôi liền đem việc ấy ra kể cho nhà tôi nghe. Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên, bảo tôi rằng:
- Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì đâu, đã thấy đơc nhiều. Chiều mai về nhớ mua cái gì làm quà cho tôi đấy.
Tôi thấy nhà tôi cười vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Ðến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều. Lúc đó tôi có cảm giác lạ lắm: hình như tôi đi thế này, lúc về chắc không nhìn thấy mặt vợ nữa. Tôi cố định trí để cầm lái nhưng chỉ được một lúc thôi.
Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người "ét" của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi, nói:
- Ô hay! Hôm nay ông làm sao sao thé? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không hãm máy. Ông ngủ à?
Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí còn nghĩ tới người vợ nằm đợi chết một thân, một mình trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ướt đẫm cả người.
Xe đi vào khe núi, hết lên cao lại xuống thấo như có vẻ nhọc nhằn. Tôi thò đầu ra cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy, sương mù đầy trời, không nhìn rõ gì cả, chỉ một màu trắng xoá dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa. Bỗng tôi thấy ... rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng, nhưng không, hình người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người "ét" lại cửa toa, bảo ông ta nhìn rồi hỏi:
- Bác có thấy gì không?
Vừa nói xong, hình người vụt biến mất. Bác "ét" thò đầu ra và bảo tôi:
- Chỉ thấy sương mù! Ông lại mê ngủ rồi
- Không, rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sa mù nhưng vừa biến mất.
Người "ét" cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc thanh cho vào lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Ðược một lát, hình người đàn bà hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay vẫn dang thẳng như muốn ngăn đường, không cho xe chạy lên nữa.
Tôi gọi người "ét" nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy, cứ cắm đầu xúc than cho vào lò. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái hình người ấy có thật. mà ai nhìn cũng phải thấy. Tôi đến cầm tay bác "ét" kéo bác ra xem rồi bảo, quả quyết:
- Nhìn xem.!
Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt hốt hoảng nói:
- Lạ thật!... Ma ông ạ!
Xe tiến đến đâu, cái hình bóng người lui đến đấy, có lúc mờ, có lúc rõ, lơ lửng giữa lưng chừng trời.
Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ý bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự nguy hiểm.
Tôi bảo bác "ét":
- Bác này, lại có sự gì lại sắp xảy ra.
- Vâng, sao cái hình lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại.
Cái hình người trước còn vẫy tay thong thả, sau vẫy thật nhanh như người tỏ ra ý thất vọng vì bảo chúng tôi không nghe.
- Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!
- Không được, tự nhiên vô cớ.
Còn tôi lúc bấy giờ tai ù như người mất trí khôn, tôi văng vẳng như có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi:
- Ðỗ lại! Ðỗ lại!
Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái phanh như định hãm lại rồi lại không dám hãm.
Một lát sau, tôi lại nghe thấy tiếng người đàn bà, rõ hơn lần trước, giục tôi:
- Hãm lại! Hãm ngay lại!
Lúc bấy giờ tôi không biết nữa, nhắm mắt hãm phanh thật mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng, xe chạy từ từ một quãng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đã thấy người "xếp tanh" cầm đèn chạy lên hỏi:
- Việc gì thế?
Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, vì nói thật ai tin mình. Tôi trả lời một cách mập mờ:
- Chắc có sự gì lạ. Ðể tôi cầm đèn đi xem trước đã.
Lúc bấy giờ mấy ông hầu quan Toàn quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo chúng tôi. Vừa đi được một quãng thì nghe có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G
Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậy. Ðến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G bị nước nguồn chảy về xoáy gãy làm đôi.

Một tý nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở Toàn quyền đâm nhào xuông sông sâu, chắc không sống sót một ai: tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính nhờ tôi, nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu ra sao cả.
Người "xếp tanh" mừng cuống quít hỏi tôi:
- Sao ông biết mà hãm?
- Tôi cũng không hiểu.
Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát mọi người đứng dãn ra. Quan Toàn quyền đến: ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi, cái bắt tay đầu bụi than rồi ngài tỏ lời khen.
Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối với toi cũng như không, tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao. Tôi đi trở lại và thoáng thấy con gì bám ở cái đèn để ở đầu toa, nhìn kỹ thì ra một con bướm thật to, vướng vào đèn đương đập cánh để tìm đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây.
Trông thấy con bướm, tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái hình người đàn bà lúc này là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cánh tay người vẫy.
Tôi bắt con bướm rồi định thả nó bay đi; sau nghĩ con bướm đã giúp mình được việc, nên giữ lại làm kỷ niẹm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm...
Hôm sau tôi vừa về đến cổng nhà thì thằng nhỉ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua.
Tôi không tin nhảm, tôi chắc đó là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí là linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn đêm hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm gì, tôi thoát được thân tôi mà làm gì, giàu sang phú quý bây giờ đối với tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.
Bạn tôi kể xong chuyện, đậy cái hộp khảm lại rồi thẫn thờ nói:
- Bây giờ chỉ còn lại cái xác bướm không hồn.
Tình Tuyệt Vọng
Khái Hưng
Một đêm lễ Noel. Chung quanh chiếc bàn bầu dục phủ khăn trắng trên bày la liệt các món ăn lạnh, năm người ngồi như có chiều mỏi mệt, có dáng buồn rầu. Vì thức khuya chăng? Lúc đó đã gần hai giờ sáng. Vì nghe bài thuyết giáo quá nghiêm khắc của cô B. vừ diễn ra ở nhà thờ chăng?
Tối hôm ấy, hăm bốn tháng chạp tây, cũng như mọi năm, năm người bạn vừa đi dự lễ "Nửa đêm" về, tuy trong năm người không ai theo đạo Thiên Chúa. Chẳng qua sống trong cảnh phong lưu, họ chỉ tìm cơ hội để cùng nhau yến lạc cho thỏa thích.
Nhưng sao gà vịt đầy bàn, sâm banh đầy cốc, mà chủ khách ngồi ủ rũ như chẳng muốn ăn, như chẳng buồn uống?
Người ủ rũ nhất là thi sĩ Văn Châụ Linh hồn chàng như đương phiêu diêu nơi xạ Mà chính chàng đã gây nên làn không khí lạnh lùng tẻ ngắt ấy nó lan rộng, nó bao bọc lấy cái bàn tiệc đương đầy những tiếng cười đùa vui vẻ. Chàng nghĩ thơ chăng? Chàng say rượu chăng? Ðều không phải. Chàng chỉ nhớ tới một ngày trong quãng đường đã qua, ngày bạn Tùng Thiện cưới vợ mà chàng đi phù rể.
Văn Châu còn nhớ rõ ràng buổi chiều hôm ấy lái chiếc ô tô theo con đường cong queo về một cái làng hẻo lánh đón dâụ Nghe nói trong đám phù dâu có một cô đẹp lắm, chàng nóng lòng mong cho chóng đến lúc lễ nhà thờ. Một lát, như bầy tiên nữ xuống trần, các cô ung dung yểu điệu, từ trong buồng bước rạ Bỗng Văn Châu ngây người đứng nhìn đăm đăm, không chớp mắt. Chàng không hiểu cớ gì, nhưng mới thoạt trông thấy cô dâu là chàng đã đem lòng yêu ngay, cái yêu vô nghĩa lý, nhưng nó mạnh mẽ vô chừng, tưởng như hai người vốn sẵn duyên kiếp từ đời nào, đã hen. hò cùng nhau ở kiếp này mà đến bây giờ mới gặp gỡ.
Từ bấy đến nay đã năm năm. Ðã năm năm Văn Châu ngày ngày đến chơi nhà bạn, trong lòng chôn một mối tình vô lý.
Một lúc lâu, Tùng Thiện uể oải cất tiếng hỏi:
- Ăn xong rồi ta làm gì?
- Rồi ta lại ăn!
Mọi người cười ồ. Cười, vì câu trả lời của bà Tùng Thiện có lý thú, nhưng nhất là vì bà Tùng Thiện đẹp, đẹp lộng lẫy, đẹp rực rỡ. Trong bọn năm người, trông bà lộ hẳn ra, nước da trắng hồng, đôi mắt sáng quắc như hai ngôi sao, cặp môi son cười tươi tựa đóa hoa hồng hàm tiếu.
Cái vui lúc chập tối, hầu biến mất hình như đã theo cái khôi hài của một mỹ nhân mà trở lại xung quanh bàn bầu dục. Phải có nhan sắc diễm lệ như thế thì muốn gì mà chẳng được! Muốn người buồn... người phải buồn, muốn người vui, người phải vui.
- Chị Tùng Thiện nói thì ra dáng khoẻ lắm, nhưng chỉ thấy chị ngồi nhìn đĩa, chẳng chịu đụng tới món nào.
Bà chủ vừa nói vừa cười, vừa đặt vào đĩa bà khách quý cái đùi gà thiến quaỵ Ngồi đối diện vợ, Tùng Thiện nói đùa:
- Ðã thế thì xực hết cái đùi gà, thì bắt ăn một cánh vịt nữa.
- Sợ gì!
Ngồi sát cạnh bà Tùng Thiện, chủ nhân Văn Bình mỉm cười nói tiếp:
- Thế mới thực đáng là bậc đàn chị chứ.
- Còn anh Văn Châu chỉ ngồi mà nhìn thôi à? Hay lại tìm vần thơ đấy?
- Thưa bà không. Trí tôi đang ôn lại bài thuyết giáo của nhà giáo sĩ diễn ban nẫy.
- Nghĩ tới làm gì! Chúng ta cứ yên trí rằng thế nào cũng sẽ được lên thiên đường cả là đủ rồi.
- Thưa bà, trừ tôi, vì tôi phạm một tội nặng lắm.
- Thú đi, tôi rửa tội chọ
- Tội tôi không thể thú mà cũng không thể rửa được... vì tôi chôn sâu nó ở trong lòng, tôi âu yếm nó, thờ phụng nó...
- Trời ôi! ai lại thờ phụng tội lỗi bao giờ?
- Văn Châu, bạn yêu quý của chúng ta phạm "tội khả ái" rồi mợ ạ.
- Tội khả aí! nghĩa là gì thế?
- Là tội đáng yêụ
Văn Châu đỡ lời:
- Là ái tình tuyệt vọng.
Bà Tùng Thiện nhíu đôi lông mày, ngẫm nghĩ:
- Tôi vẫn không hiểu.
Tùng Thiện mỉm cười, âu yếm nhìn bạn, rồi quay lại nói với vợ:
- Có gì mà mợ không hiểu. Thí dụ Văn Châu yêu một người đàn bà, yêu ngay từ buổi, ngay từ phút mới gặp lần đầu. Song yêu mà không bao giờ dám hé môi, vì người mình yêu có lẽ là vợ bạn thân. Ðó, tình tuyệt vọng, tội khả ái chỉ là thế.
"Này! anh Văn Châu, anh cho phép tôi thay lời người anh yêu trộm, nhớ thầm mà an ủi anh mấy câu:
"ở đời không có hạnh phúc nào cao thượng bằng hạnh phúc của ái tình tuyệt vọng... Yêu nên chiều, chiều nhưng không dám, không dám nên kính trọng, kính trọng nên càng yêụ Sướng lắm, sướng trong tinh thần, trong linh hồn, trong lý tưởng. Anh đừng tưởng anh yêu thế là có tội. Không có tội, thì anh cứ yêu, nhưng cứ yêu như thế mà thôi.
"Nếu anh lại muốn vượt qua giói hạn cái yêu suông - anh cho là suông thì nó suông, chứ thực ra nó không suông đâu! - Nếu anh lại muốn ái tình đó được hoàn toàn, - hoàn toàn như ý anh tưởng tượng. - thì ngày mà anh quả quyết phạm vào tội nhục thể sẽ là ngày đưa đám cái hạnh phúc tuyệt đích của anh. Vì nếu người đàn bà có chồng cự tuyệt anh, thì anh mặt mũi nào còn dám nhìn tới người anh kính yêu xưa nay nữa. Mà nếu người đàn bà xiêu lòng vì những lời cuồng bột tà dâm, thì thiên tiểu thuyết ái tình của anh sẽ đầy dẫy những sự khốn nạn, nhỏ nhen, nhơ nhuốc nó bắt anh tự khinh anh và bỉ người mà trước anh yêu, anh kính. Cho đến cái tình bằng hữu thiêng liêng kia cũng thành giả dối, giả dối với lương tâm anh.

"Vậy thì anh cứ yêu, cứ yêu như anh đương yêụ Yêu như thế không có tội gì hết, mà người chồng dẫu có biết, cũng chỉ thương anh chớ không ngờ vực anh đâu."
Bà Tùng Thiện nhích một nụ cười:
- Cậu rõ đáng ghét. Câu chuyện khôi hài, mà làm như người đứng diễn thuyết... Sao không thêm một tràng "vạn tuế" vào luôn thể!
- Chứ sao! ái tình vạn tuế! Bằng hữu vạn tuế!
Mọi người vỗ tay, cười vang. Văn Châu đứng dậy lớn tiếng hô:
- Thiếu niên vạn tuế!
Rồi nâng cốc sâm banh nói luôn:
- Xin uống cạn cốc nầy để mừng cho tuổi thiếu niên, cái tuổi có đủ các đức tốt, cả đức hay tha thứ... Xong rồi, tôi đọc cho các anh, các chị nghe bài đoản thi tôi dịch của Arvers sang quốc văn.
- Ðọc đi đã, rồi mới uống rượu!
- Bài ấy tôi dịch đã năm năm nay, có chỗ nào kém, các anh phủ chính cho nhé!
- Nhún mãi! mỗi cái đọc đi!
Văn Châu cúi mặt xuống nhìn bàn, đọc thẳng một hơi bài thơ đã thuộc lòng:
Lòng ta chôn một khối tình, Tình trong giây phút mà thành thiên thâu, Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu, Mà người gieo thảm như hầu không haỵ Hỡi ơi! người đó ta đây, Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân? Dẫu ta đi trọn đường trần, Chuyện riêng dễ dám một lần hé môỉ Người dù ngọc nói hoa cười, Nhìn ta như thể nhìn người không quen. Ðường đời lặng lẽ bước tiên, Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình. Một niềm tiết liệt đoan trinh, Xem thơ nào biết có mình ở trong. Lạnh lùng, lòng sẽ hỏi lòng, "Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?"
Mọi người vỗ taỵ Tùng Thiện nói:
- Ừ có thế chứ! suýt nữa anh quên mở túi thơ của anh rạ Nhưng trời gần sáng rồi, xin nhà thi sĩ nâng cốc lần cuối cùng để chúc tụng với chúng tôi cái lòng trinh tiết của bà Nodier và những tấm ái tình tuyệt vọng của nhân loại.
Ðêm hôm ấy, tuy ngủ được có trong vòng hai tiếng đồng hồ, nhưng là cái đêm khoái nhất của đời Văn Châụ Cảm phục tấm lòng quân tử của bạn, lương tâm Văn Châu như vừa trút được một khối nặng, nó đè nén đã suốt năm năm.
Nắng Mới Trong Rừng Khuya
Nhất Linh
Ðến chân đồi thông, Phương đứng lại tần ngần như e ngại.
Bên kia đồi là đồn điền của ông Hàn Trí. Chàng chắc rằng ông Hàn bà Hàn hiện còn ơ? Hà Nội, ở nhà chỉ có một mình cô con gái. Chàng đợi mãi mới có dịp may mắn như thế, lấy cớ vác súng đi săn, lần mò hơn một trăm cây số để được gặp người yêu, nhưng lúc đến nơi, chỉ còn cách có cái đồi thì chàng hết cả can đảm, trong lòng hồi hộp như người đi ăn trộm.
Bỗng tự nhiên trời nắng to, những cây trên đồi gió thổi vào như múa như reo, lá cây nhấp nháy ánh sáng như vui mừng đón chàng, giục chàng dấn bước để được gặp người mà chàng phải xa cách đã hơn sáu tháng nay. Chàng đi vòng hết sườn đồi, thấy sừng sững trước mặt ba tòa nhà gạch quét vôi vàng, chung quanh cây bao bọc. Mấy cây chò trắng mà thẳng lên cao vút như chạm đến trời xanh, xanh biếc và trong.
Chàng vừa đến cổng, tiếng chó cắn ran, trong nhà có người đi ra. Chàng làm như quen thuộc, hỏi một cách thân mật:
- Quan Hàn có nhà không bác?
- Bẩm ông, ông bà con lên Hà Nội vắng.
Chàng làm ra bộ thất vọng. Rồi cứ xăm xăm đi thẳng vào. Trong sân vì trời nắng mới, nên trên các dây thép quần áo phơi la liệt, gió thổi bay phất phơ. Sau một bức màn the, thoáng thấy bóng người con gái, chàng đứng lại. Người con gái cũng vừa nhìn ra, thốt nhiên kêu:
- Anh!
Rồi nàng ngạc nhiên chạy đến gần, giương mắt nhìn Phương, ngạc nhiên khẽ nói như người đương mê:
- Anh lên đấy ư?
Phương thấy nàng hỏi vồn vã mình trước mặt người nhà, ngượng quá không biết nói ra làm sao. Nàng hiểu ý bảo:
- Thầy đẻ em đi vắng. Ðây toàn là người nhà cả, anh đừng ngại.
Rồi nàng vui mừng cuống quít bảo:
- Anh vào đây! Anh vào đây!
Nàng gọi người nhà pha nước uống và lấy thau rửa mặt, rồi ngồi xuống trước mặt Phương, nhìn chàng, tươi cười như người sung sướng quá:
- Sao anh trông buồn thế kia?
Phương nhìn chung quanh mình xem có người nhà không, rồi hỏi nàng một cách nghiêm trọng như có ý trách:
- Anh thật chưa hiểu vì cớ gì tự nhiên em bo? Hà Nội lên đây, không cho anh biết một lời; có phải là ông Hàn bà Hàn bắt em lên đây, để không cho anh được gặp mặt em nữa không? Dẫu thế nào di nữa, sao em không có một lá thư nào cho anh cả? Vì cớ gì vậy em Minh?
- Vì cớ gì? Chẳng vì cớ gì cả. Còn gửi thư cho anh thì ở đây không có nhà dây thép, em biết gửi ai. Nhưng thôị.. Nhắc lại làm gì. Chỉ biết rằng anh gặp em được có một ngày, ta hãy vui đã, vui đi, mặc chuyện đó ở đấy. Anh vẫn còn cái tính hay nghĩ lôi thôi lắm!
Rồi nửa giờ sau nàng gọi người nhà bảo lấy đôi giày tây trắng, để nàng đi chơi rừng.
- Ta vào rừng nói chuyện thú hơn.
Phương sửng sốt:
- Người ta có cười cho không?
- Cười gì? Ở đây có ai mà cười.
- Người trong đồn điền?
- Toàn người nhà, không bao giờ họ cười em cả.
Phương thấy nàng bảo sao làm vậy, vác súng lên vai. Nàng buộc giày xong, khoác vào mình một chiếc áo lụa trắng, rồi từ trên thềm nhảy xuống sân như người điên.
Một bác người nhà cung kính bước ra nói:
- Cô yếu, con sợ cô đi chơi xa mệt.
Minh cau đôi mày, đợi Phương đi ra đến cổng, rồi khẽ mắng bác người nhà:
- Tôi cấm anh không được đả động đến sự tôi yếu hay tôi khỏe trước mặt ông này! Anh nghe chưa?
Ra đến ngõ Phương quay lại hỏi Minh:
- Em yếu đấy ư?
- Không, em cảm xoàng; đã khỏi hẳn rồi. Ta đi đường này vào rừng, rừng này lắm chim, nhiều chỗ cảnh đẹp lắm.
Rồi nàng nói, nàng nói mãi. Phương không hiểu nàng nói gì nữa, nhưng cứ được nghe tiếng nàng là đủ rồị Ðang đi, thỉnh thoảng chàng quay lại nhìn, thấy nàng tươi cười, trong lòng chàng hớn hở quên cả những nỗi nhớ thương trước, chỉ nghĩ đến cái vui chan chứa lúc bấy giờ.
Ðường bỗng tối hẳn lại: đã đến rừng.
Hai người thấy lành lạnh, ngửng lên nhìn trên đầu, cây chằng chịt, lá xanh rờn. Dưới chân, trên con đường tối mỗi khi cơn gió thoảng qua là các chấm ánh sáng thi nhau lay động như nhẩy, như múa. Trông ra xa, chỗ nào thoáng cây, ánh nắng xuống trắng xóa, rực rỡ. Phương nói:
- Không biết hôm nay, vì cảnh đẹp mà ta vui hay vì ta vui mà cảnh đẹp thế này! Nhưng đẹp mà làm gì, có được hưởng mãi đâu! Ngày mai...!

- Anh nghĩ làm gì đến ngày mai. Em thì lúc nào cũng vui, dẫu đến chết cũng vui. Tính em thế, không bao giờ nghĩ đến việc trước hay việc sau cả, chỉ biết hôm nay hai ta còn đây, gặp nhau đây, vui mừng... ta hãy biết có thế.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, đi hết chỗ rợp đến chỗ nắng, lên đèo xuống dốc mải câu chuyện không biết rằng đã vào đến rừng sâu. Chung quanh đồi núi bao bọc, trước mặt một cái thung lũng rộng chừng năm mẫu, giữa có lạch nước con đi lượn khúc, lúc ẩn lúc hiện sau mấy chòm cây lấm tấm ánh sáng.
Ðến một bãi cỏ xanh mát và sạch sẽ, Minh bảo bạn:
- Ta ngồi ở đây thôi, đi đã mỏi chân rồi.
Phương cũng nghe lời đặt súng xuống cỏ, rồi hai người ngồi cạnh nhau. Minh ngửng đầu nhìn ra cảnh vật, nét mặt hớn hở, trên má đỏ hồng, mấy sợi tóc mai phất phơ theo chiều gió. Nàng mỉm cười nói:
- Hôm nay nắng mới, trông vui tệ. Kìa anh, trên cây dọc có hai con vàng anh đẹp quá.
Không thấy Phương trả lời, nàng quay lại thấy bạn ngồi thừ ra, có vẻ tư lự, liền nói có ý gắt:
- Sao anh buồn thế? Lúc em đương vui, em không muốn thấy có người buồn bên cạnh.
- Sao lại cứ bắt người ta phải vui? Tính em lạ quá, em đã đổi khác nhiều. Anh thật không thể nhận em là người con gái thùy mị, dịu dàng trước kia nữa. Em như có sự gì rất bí mật giấu anh!... Chuyện gì! Em nói thật, anh mới có thể vui cùng em được.
- Ðấy anh lại sắp hỏi lôi thôi rồị Ðã bảo không có chuyện gì cả mà. Gặp nhau được có một ngày, vui đi anh Phương ạ. Em bảo anh rằng lần này là lần cuối cùng anh không được nghĩ đến ngày maị.. Hãy biết vui hôm naỵ.. Em, bao giờ em cũng vui.
Phương cũng phải cười, bảo đùa bạn:
- Em như người điên ấy.
- Vâng, thưa anh, em điên. Em điên vì anh mà chỉ còn điên một ngày hôm nay nữa mà thôi.
Nàng kéo tay Phương lôi dậy, đặt súng lên vai bạn rồi nhanh nhẹn đi trước, chạy thung thăng để mặc gió đưa các tà áo phất phơ, mái tóc xõa cả xuống vai, xuống cổ, như đứa trẻ thơ. Phương đi sau nhìn theo, thấy nàng thế, mỉm cười, trong lòng vui vui, quên cả những điều lo nghĩ trước.
Mà Minh lúc đó như người điên thật. Ðương đi, hễ gặp một cây dây leo là nàng níu ngay lấy, nhún mình đánh đu, gặp cây nào có quả ăn được như khế, như mơ, là nàng nhẩy lên níu cho kỳ được, sát cả tay mà không biết đau; thấy bên sườn đồi có dẫy sậy hoa phơn phớt bạc, nàng chạy ra bẻ một vài cây rồi đưa cho Phương một cây làm gậy chống. Má nàng đỏ bừng, hai con mắt thêm trong, tóc dán vào hai bên thái dương lấm tấm mồ hôi, trông nàng có vẻ đẹp lạ lùng, khác nào như bao nhiêu tinh hoa lúc đó đều phát ra cả ngoài.
Mải vui quên cả trời đã chiều. Trên đồi cao còn thừa từng mảng ánh vàng, bóng cây in dài lan từ đồi này sang đồi khác. Phương rủ bạn ngồi dựa vào một gốc cây thông. Minh suốt ngày vui đùa quá sức, chiều đến thấy mỏi mệt, ngồi thừ ra, con mắt lờ đờ, nhìn ra xa rồi lẩm bẩm nói một mình:
- Thôi chiều rồi! Hết...
Phương nghe tiếng bạn có vẻ buồn, lấy làm lạ, quay lại, thấy nàng đổi hẳn sắc mặt!
- Em Minh, em làm sao thế?
Nàng cau đôi lông mày, mím môi, như cố nén lòng mình, rồi như không sao giữ nổi, hai hạt lệ long lanh rơi xuống má. Phương ngạc nhiên hỏi:
- Em khóc đấy à?
Nàng gượng cười:
- Em có khóc đâu! Vui quá thành ra như thế đấy. Lúc này thật em sung sướng quá, trời đẹp như thế lại được gần anh, ở giữa chốn rừng sâu. Vũ trụ này là riêng của hai ta, ai mà cướp được...
Nói chưa dứt câu, nàng lại lấy tay ôm mặt nức nở.
Phương kéo tay nàng ra rồi nhìn đăm đăm vào mặt nàng hỏi:
- Em có sự gì giấu anh. Em đừng chối. Từ sáng đến giờ anh thấy em khác lắm.
Nàng cúi nhìn xuống đất thong thả nói:
- Thôi, bây giờ em cũng chẳng giấu anh làm gì nữa, em vẫn muốn cho anh biết đã lâu, nhưng em không nỡ.
Rồi nàng lấy vạt áo lau nước mắt, hai con mắt ráo hoảnh, nhìn Phương:
- Cái chết em không sợ, mà em chắc anh cũng có can đảm như em đây. Sáu tháng trước, hồi em xa anh về đồn điền, thầy thuốc bảo em mắc bệnh ho. Em giấu anh vì em tưởng lên đây khí hậu tốt chắc khỏi dần, nhưng đến bây giờ, em mới biết em không còn sống được bao lâu nữa... cho nên gặp anh hôm nay, một ngày hôm nay nữa mà thôi, em quên đi để vui với anh. Em đã làm được như thế, em đã nén lòng em đi để cho anh vui từ sáng đến giờ, mà em, em cũng đã vui, vui một lần chót, trước khi từ giã cõi đời, trước khi vĩnh biệt anh. Cảnh vật hớn hở tặng đôi ta bao vẻ đẹp, thì em cũng gượng cười để hiến anh một ngày vui cuối cùng, để gọi là tạ lòng anh đã yêu em bấy lâu...
Phương nghe nàng nói xong, tê mê, lặng người đi, nhìn nàng, không nói lên được một tiếng.
Bấy giờ trời đã sâm sẩm tối, cảnh vật dần dần ngả vào trong đám sương mù... Ngày đã tàn...
Ðôi bạn, tay cầm tay, nhìn nhau yên lặng.
Trên đầu, gió rì rào trong cành thông, như tiếng than vãn của buổi chiều.
Sóng Gió Ðồ Sơn
Khái Hưng
Năm giờ sáng. Sau hàng lan can chạy thẳng ngăn bãi cát lượn vòng theo hình bán nguyệt, rặng nhà phố Ðồ Sơn cửa chớp đóng kín như có chiều hờn giận vừng thái dương vội mọc. Những khóm thông rung rinh đương thì thầm cùng nhau câu chuyện bí mật được nghe tối hôm qua ở trên bãi biển. Cho chí làn sóng buổi chiều xô đẩy vào bờ nô đùa, gầm hét dữ dội như thế, giờ cũng như chán nản, lặng lẽ, từ từ kéo nhau xa lánh. Phố Ðồ Sơn sau một buổi nhộn nhịp, vui cười, bây giờ như đương miên man trong giấc mộng.
Trên bãi cát vàng bỗng có tiếng cười khanh khách: Ba cô thung thăng đi đi lại lại trò chuyện huyên thuyên. Cô Bạch Tuyết bảo cô Vân Lan và cô Thu Cúc:
- Hai cậu ạ, nhất định em không sợ, em cứ để hắn hy vọng hão.
Thu Cúc mỉm cười:
- Liệng hồn! Không đùa lại hóa thật!
- Tức cười chết đi, hai cậu ạ. Nếu em đưa hai cậu xem bức thu hắn gửi cho em chiều hôm qua, thì hai cậu phải vỡ bụng.
Vân Lan vội hỏi:
- Ðâu? Thư đâu?
- Rõ khéo, thư riêng của chị ấy lại đòi xem.
- Ðốt cậu đi! Riêng với tây gì? Ðây, thư đây. Cậu Thu Cúc có muốn giữ làm mẫu thì em cũng xin biếu.
Vừa nói, Bạch Tuyết vừa mở túi lấy ra một tập giấy màu tím nực những mùi nước hoa và đọc:
"Thưa Bạch Tuyết tiểu thư, Từ khi được giáp mặt hoa đào, ngày đêm tôi âu sầu tưởng nhớ. Ðã nhiều phen mượn giọt mực đen, tờ giấy tím để giải tỏ tấm gan vàng với người mắt xanh..."
Ðọc đến đây, Bạch Tuyết cười sằng sặc, đánh rơi bức thư xuống đất.
- Trời ơi, hai cậu coi, lối văn bốn màu: mực đen, giấy tím, gan vàng, mắt xanh, chỉ thiếu một màu trắng là đủ màu ngũ sắc. Ước gì khối tình của cậu Văn Hải tôi cũng được nhiều màu như thế.
Vân Lan nửa nghiêm khắc, nửa giễu cợt:

- Chị thì cứ cả đời! Có đọc nốt cho người ta nghe với không?
- Có tài thánh, thư dài bảy, tám trang thế này, ai đọc hết được?... Nhưng có một đoạn cảm động lắm, câu này thi sĩ Thu Cúc vảnh tai lắng tinh thần mà nghe:
"Thưa tiểu thư, tôi yêu tiểu thư ngay từ cái phút đầu mới gặp. Tôi theo tiểu thư như cái bóng. Một buổi chiều mùa đông tôi đứng nấp ở trước cửa nhà tiểu thư tôi chờ, tôi mong, tôi ao ước được liếc trộm dung nhan. Ðợi trong hai tiếng đồng hồ, gió bấc mưa phùn rét buốt tận xương, thì tấm lòng thành thực của tôi như động đến tâm hồn tiểu thư, khiến tiểu thư ra nơi cửa sổ nhìn xuống. Trời ơi! Tôi suýt ngất đị.. Trái tim tôi nó hồi hộp, nó đập thình thình như muốn phá ngực ra mà bay lên trước dung nhan. Tiểu thư ôn lại trong trí xem có còn nhớ cái buổi chiều đáng kỷ niệm ấy không (Bạch Tuyết làm bộ ngẫm nghĩ rồi cười, nói: không, không nhớ). Nửa người tiểu thư đứng trong cái khung cửa hình như bán thân một tiên nga vẽ trong bức tranh tuyệt bút. Tóc tiểu thư bỏ xõa như đám mây buổi hoàng hôn, hai con mắt tiểu thư lấp la lấp lánh như hai ngôi sao sáng nhất trên trời..."
Bạch Tuyết lại cười:
- Anh chàng ngày dáng chừng là một nhà thi sĩ.
Thu Cúc lúc nghe đọc thư hai mắt chớp luôn hình như có vẻ cảm động lắm. Cô dịu dàng bảo bạn:
- Sao chị vô tình đến thế? Nỡ đem tình thành thật của người ta ra mà chế giễu.
- Cậu bênh kia à? Cậu muốn yêu thì tôi nhường cho đấy. Trong thư Văn Hải nói chiều nay hắn ra,
moa” giới thiệu cho nhé?
Bỗng ở lan can có tiếng gọi:
- Tuyết! Mời hai chị về ăn sáng, con.
Nghe tiếng mẹ gọi, Bạch Tuyết cùng hai bạn vội chạy về nhà.
Chiều hôm ấy trong khi hàng trăm con người vừa đàn ông đàn bà, già trẻ, vùng vẫy nô đùa với làn sóng nhấp nhô, thì trên bãi cát trước cửa biệt thự "Dương Liễu" một chàng vận Âu phục đầu chải lật bóng loáng, đương thung thăng bách bộ, mắt chăm chăm nhìn lên cửa sổ trên gác.
Một tràng cười giòn ở sau lưng khiến chàng quay cổ lại. Ba cô thiếu nữa, đầu rẽ lệch, vận quần trắng áo màu, đứng cách chàng chỉ độ ba bước. Một cô nói như có ý trêu ghẹo:
- Thưa ông, ông muốn hỏi ai ở cái nhà ấy, mà cứ thấy ông ngửng mãi đầu lên nhìn cửa sổ?
Ấp úng, lúng túng, hai má ửng tận tai, chàng kia lắp bắp:
- Thưa cô... tôi là... Văn Hải.
Bạch Tuyết, hồi chuông điện của nhịp cười lại bấm:
- Thưa ông, còn tôi, thì tôi là Bạch Tuyết.
Thu Cúc hai ba lần kéo áo, cùng bấm chị, nhưng Bạch Tuyết như không lưu ý, cứ nghiễm nhiên vừa cười vừa nói:
- Thưa ông, chỉ có thế? Hay ông còn muốn hỏi điều gì nữa?
Chả biết nói gì, Văn Hải ngả đầu chào rồi định quay đi, thì Bạch Tuyết vẫn chưa tha, lại gọi giật lại:
- Này ông Văn Hải. Ông đánh rơi bức thư, tôi lượm được thấy có tên ông ký ở dưới, vậy xin nộp lại ông.
Văn Hải, vì có Thu Cúc và Vân Lan, nên xấu hổ quá, mặt đỏ như viên gạch nung. May sao Bạch Tuyết lại nói tiếp luôn:
- Hay ông bằng lòng cho tôi để tôi tập lối viết văn rất hay của ông thì tôi cũng xin cảm ơn mà nhận.
Văn Hải như người chết đuối vớ được mảnh ván, liền gượng cười đáp lại:
- Vâng, xin biếu cô.
- Không có điều gì quan hệ trong thứ đấy chứ?
Văn Hải đã bạo hơn trước:
- Thưa cô, cái đó tùy ở cô.
- Nghĩa là thế nào?
- Nghĩa là nếu cô cho là quan hệ thì quan hệ.
- Tôi vẫn không hiểụ.. À quên, tôi xin giới thiệu ông, hai chị tôi đây là Vân Lan và Thu Cúc cùng học năm thứ ba tại trường nữ sư phạm với tôi. Chi. Thu Cúc tôi cũng là một thi sĩ như ông.
Văn Hải ngả đầu chào. Còn Thu Cúc thì bẽn lẽn, cúi đầu, mũi giày bấm xuống cát.
- Chị rõ lôi thôi lắm! Ai là thi sĩ!
Nào Bạch Tuyết đã tha cho đâu:
- Thưa ông, bây giờ thật hết chuyện. Vậy chị em chúng tôi xin mạn phép từ giã ông, để đi dạo chơi.
Dứt lời, cô dắt tay hai bạn đi đến một đống đá chồng chất ngổn ngang, nước thủy triều tràn, giũa lâu ngày đã nhẵn bóng. Ba người vừa trèo lên ngồi vắt vẻo, khúc khích cười với nhau, thì đã thấy Văn Hải lượn lại gần, đánh bạo hỏi to:
- Thưa ba cô, ba cô không tắm?
Bạch Tuyết khom hai bàn tay đặt vào miệng làm như cái loa, rồi vừa cười vừa đáp lại:
- Thưa ông không, chúng tôi sợ cá lợn lắm!
Cụt hứng, Văn Hải lảng xa.
Thu Cúc thấy bạn quá tàn nhẫn, trách:
- Chị trêu người ta làm gì mãi thế!
- Thì việc gì đến chị?... Ðạo đức mãi! Ra ngoài này nếu không có chuyện ngộ nghĩnh như thế thì buồn chết, thà về Hà Nội còn hơn.
Thu Cúc thở dài, nói một mình:
- Vô tình đến thế là cùng!
Hai hôm sau, Vân Lan về Hà Nội. Suốt nửa tháng, chiều nào Bạch Tuyết và Thu Cúc đi chơi hay đi tắm cũng gặp Văn Hải lượn quanh. Mà lần nào, Bạch Tuyết nhận được thư của chàng cũng đem đọc cho bạn nghe. Thu Cúc thấy vậy sinh cáu, mấy lần định cự tuyệt.
Một hôm hai chị em gặp Văn Hải tay cầm cuốn sách, Bạch Tuyết hỏi đùa:
- Quyển gì đấy ông?
- Thưa cô quyển l'Amie et la Maîtresse 1.
- Bạn và bà chủ, hay bạn và cô giáo, thưa ông?
Văn Hải mỉm cười.
- Thưa ông, có hay không.
- Thưa cô, hay lắm!
- Chúng tôi đọc được chứ? Ông cho mượn nhé?
- Xin vâng.
Về tới phòng, Bạch Tuyết quẳng cuốn sách vào ngăn kéo. Thu Cúc cười, hỏi:
- Mượn về không xem thì mượn làm gì?
- Trêu nó chơi, chứ xem xiếc gì! Ðấy cậu có đọc thì đọc.... Ðọc xong kể lại chuyện cho tôi nghe với nhé. Mấy hôm nữa lỡ hắn hỏi nếu chả biết đằng nào mà trả lời thì hắn sẽ khinh chết.
Thu Cúc thong thả đáp:
- Ðược, chị để tôi đọc cho.
Tối hôm ấy Bạch Tuyết đi ngủ đã từ lâu. Một mình Thu Cúc vẫn loay hoay với pho tiểu thuyết. Mà nào cô có đọc! Cô chỉ gấp sách chống tay vào cằm ngồi mơ mộng, cảm động về những câu tư tưởng và những bài thơ của Văn Hải viết ở rìa sách. Thu Cúc nghĩ thầm:
- Ðáng thương! Con người đa tình mà đi yêu một tảng đá!
Hai giọt nước mắt long lanh ở cặp mi như hạt sương buổi sáng rung rinh trên lá... Bỗng Thu Cúc phì cười:
"Rõ mình khéo cảm động hão!
"Nhưng cũng nên bảo cho anh đồ biết mà thôi đi, đừng đeo đuổi nó mãi vô ích. Phải đấy, ta làm phúc bảo giùm! Hay ta học một bài thơ chơi"

Thu Cúc liền mở từ đầu quyển sách lại một lượt để tìm bài thơ nào tình tứ nhất thì họa.
Song những câu tư tưởng và các bài thơ viết toàn bằng chữ Pháp. Có một bài đề tặng người bạn gái, đại ý như sau:
"Ái tình là gì? Là một lời vĩnh biệt làm tan nát lòng người chăng?
Hay là nụ cười chua chát ở cặp môi thắm,
Rơi vào luồng gió nó cuốn đi trên đôi cánh hồng?
Nếu ái tình là thế, thì than ôi! Sầu thảm biết bao!
Vì tưới bằng nước mắt nhân loại.
Những bông lúa tốt tươi, những bông hoa hồng rực rỡ.
Chỉ sẽ là những vật rã rời khô héo dưới trời xanh."
Bài thơ này cũng như mọi bài khác tuy chỉ toàn bằng những ý tưởng sáo, theo trong các tập thơ Lamartine và Musset, song Thu Cúc cho là tuyệt bút, đặc sắc chẳng kém gì những bài thơ hay của các thi hào bên Pháp.
Ðọc xong, Thu Cúc mỉm cười:
"Họa lại cũng khó lòng. Thì ta cứ trả lời bằng một bài thơ quốc âm đã sao. Cốt anh chàng hiểu thôi mà, tiện nhất cho ta là phê vào đây một câu"
Sáng tinh sương, Văn Hải đương thơ thẩn ngồi trên bên chòm đá, bỗng vơ vẩn mắt chàng đặt tới một tảng đá có bốn chữ lớn viết bằng gạch non Văn Hải - Thu Cúc. Chàng nghĩ thầm, lẩm bẩm:
- Chả có lẽ lại thế.
Chàng còn đương phân vân thì con hầu nhà Bạch Tuyết lại gần đưa trả quyển sách:
- Thưa cậu, cô con bảo đem nộp cậu quyển sách cậu cho mượn hôm nọ.
- Cô nào?
- Cô Thu Cúc con.
- Thôi được.
Văn Hải vội vàng mở sách ra xem lại những chỗ mình có đề thơ, thì dưới bài "Ái Tình" thấy có phê một câu:
"Ái tình nào chỉ có thế? Nó còn ngoắt ngoéo hơn nhiều kia! - Nụ cười chua chát cũng chưa tệ chưa ác. Có khi nụ cười dịu dàng thời như đóa hoa hàm tiếu mà trái tim kẻ kia vẫn lạnh như đồng, trơ như đá."
Văn Hải xem xong, mỉm cười nói:
- Ðược, ta nghĩa ra mưu kế rồi.
Chiều hôm ấy Bạch Tuyết và Thu Cúc đương đi chơi trên bãi cát, thì Văn Hải tay cắp vài quyển sách tiến đến trước mặt cất mũ, ngả đầu chào:
- Thưa cô, vì thấy cô thích đọc tiểu thuyết nên tôi lại đưa cô mượn mấy quyển nữa. Ở đây ngoài sự tắm bể với sự xem sách dễ chả có chi là thú.
Bạch Tuyết không biết rằng Thu Cúc đã trả sách, vội vàng từ tạ:
- Thưa ông, quyển sách ông cho mượn bữa nọ chúng tôi xem chưa xong, ông hãy để thong thả.
Văn Hải cười nhạt, gằn từng tiếng:
- Thưa cô, tôi nói cô Thu Cúc kia ạ. Tôi vẫn biết cô không ưa đọc sách. Có phải không thưa cô Thu Cúc?
Thu Cúc phần thì sung sướng, phần xấu hổ, bẽn lẽn cúi đầu, không trả lời. Còn Bạch Tuyết thì tuy tức uất người nhưng cố giữ không để nộ khí biểu lộ ra nét mặt, vừa cười vừa nói một cách tự nhiên:
- Ðấy! Tôi đã bảo mà. Có sai đâu! Hai hồn thơ rồi thế nào cũng gặp nhau, cũng hiểu nhau, cũng... yêu nhau.
Thu Cúc cau mày gắt:
- Bậy! Ðùa gì mà cứ đùa quá!
Hai người nói chuyện bằng sách với nhau như thế được một tuần lễ. Mục đích Văn Hải là chỉ cốt để trêu tức Bạch Tuyết, nhưng Bạch Tuyết hình như không hề để tâm đến, gặp Thu Cúc xem sách, cô chẳng nói chi hết, đến nỗi Thu Cúc thấy bạn quá lãnh đạm, phải lấy làm ngượng và khó chịu.
Một đêm Thu Cúc thức giấc không thấy bạn nằm bên. Nhìn ra hiên thì đèn điện vẫn sáng. Tò mò, rón rén dậy, nấp xem bạn làm gì, thì thấy Bạch Tuyết ngồi ghế hai tay ôm đầu, cặm cụi đọc sách.
Bấy giờ vào khoảng một, hai giờ sáng; nước thủy triều đương lên to, ầm ầm đánh vào đống đá chân tường hoa. Gió thổi vù vù, lá thông reo, rít... Nếu vạn vật dữ dội kia im tiếng độ một phút thì sẽ nghe thấy tim của Bạch Tuyết đập rất mạnh.
Thu Cúc lại vào giường nằm. Nhưng đường kia nỗi nọ, trăm mối vấn vương, không sao ngủ được. Phần cảm động về những bài thơ của ai, phần căm tức bạn ban ngày làm ra mặt lãnh đạm đối với Văn Hải, mà đêm khuya chờ mọi người yên giấc, trở dậy lấy trộm sách ra xem.
Thu Cúc liền lại trở dậy, rón bước ra hiên, thì thấy Bạch Tuyết gục đầu xuống quyển tiểu thuyết đương khóc nức nở. Thu Cúc vốn đa cảm thấy thế động tâm thương hại, lền đến gần dịu dàng đặt tay lên tay bạn. Bạch Tuyết giật mình đứng phắt dậy hỏi:
- Ai... Chị đấy à?
- Khuya rồi, đi ngủ thôi chứ!
- Ðược, chị cứ đi ngủ trước đi. Tôi chưa buồn ngủ.
- Lại còn trước với sau. Gần sáng rồi. Mê đọc truyện thế mà làm bộ không thích tiểu thuyết.
- Rõ khéo! Việc gì đến chị?
- Chị giận đấy à?
- Ai hơi đâu!
Dứt lời Bạch Tuyết vùng vằng quay vào phòng. Thu Cúc theo sau hỏi:
- Chị giận em thực đấy à?... Có chuyện gì cho em biết với, xem em có thể an ủi được chị chăng? Can chi chỗ chị em với nhau, chị cứ giấu em thế?
Bạch Tuyết ngồi phịch xuống giường:
- Chị dấu em thì có... Sao chị với Văn Hải cùng nhau họa thơ mà...
- Vậy chị yêu Văn Hải?
Bạch Tuyết không trả lời, hai dòng lệ ràn rụa trên má.
Thu Cúc nói:
- Em xin thề với chị rằng em không có tình gì với Văn Hải hết. Chẳng qua buồn thì họa thơ chơi đó thôi.
Lòng trắc ẩn đã khiến Thu Cúc thề một câu không thực.
Thì ra ái tình thật lạ!
Hơn một năm trời, Văn Hải thầm yêu Bạch Tuyết đến nỗi mất ăn, mất ngủ, bỏ cả những việc học. Trước Bạch Tuyết còn không lưu ý đến, sau thấy anh cứ luôn luôn bên mình, thì lấy làm khó chịu, tìm hết sức trêu ghẹo cho bõ ghét.
Song từ hôm ra Ðồ Sơn, Bạch Tuyết thấy tính tình đổi khác hẳn. Khi mặt trời mọc, khi mặt trời lặn, khi ánh trăng chơi vơi trên làn sóng, khi tiếng gió vù vù thổi rạp lá thông, Bạch Tuyết đều cảm thấy trong lòng nẩy ra một mối tình vô hạn. Có buổi chiều, ngồi một mình trên mỏm đá, ngắm chiếc thuyền nhấp nhô mặt biển, Bạch Tuyết thấy trái tim đập mạnh như hồi hộp vì ai.
- Hay ta yêu? Nhưng yêu ai?
Trong khi ấy thì Văn Hải luôn luôn quanh lượn bên mình.
Ðối với chàng trước cô còn ghét, sau lãnh đạm, dần dần nói đùa trêu ghẹo. Thành thử cái lòng yêu, buổi mới nó chỉ miên man cùng vừng trăng, cùng làn sóng, nay thấy liên can tới người mình gặp giữa cảnh trăng soi, sóng vỗ.

Lại thêm mấy hôm trước ngồi buồn, mở một quyển tiểu thuyết của Văn Hải ra đọc, cô thấy nhan nhản những thơ tình đề ở rìa sách. Những bài thơ ấy giá hai ba tháng trước lọt vào mắt Bạch Tuyết thì Bạch Tuyết cho là gàn, là dở. Nay thì cô thấy hay, đọc lên thấy cảm động. Chỉ vì những bài thơ tình ấy nay đặt vào trong một cái khung thích hợp với ái tình.
Hai hôm sau, Bạch Tuyết thấy mình ghét Thu Cúc... Ghét rồi ghen. Người đời vẫn thế, cái gì dẫu mình không thích, khi thấy vào tay người khác mình cũng lấy làm khó chịu. Huống cái thích của người, - tuy người ấy là bạn thân, nay lại trở nên cái thích của mình.
Một buổi sáng, Văn Hải nhận được bức thư có vài dòng vắn tắt:
"Ông nên viết thư an ủi Bạch Tuyết là người đương phiền não âu sầu vì ông. Và tôi ước mong rằng chẳng bao lâu bạn thân của tôi sẽ là Bà Văn Hảị..
Thu Cúc thấy Bạch Tuyết yêu Văn Hải và thấy đối với mình, Văn Hải một ngày một thêm quyến luyến, nên quả quyết hi sinh ái tình vì bạn.
Chú thích:
1.
Bạn và tình nhân.
Véo Von Tiếng Ðịch
Khái Hưng
Một buổi chiều êm đềm ấm áp, thoáng điểm mấy hạt mưa xuân.
Công chúa Li Nương, con Ðức Hùng Vương thứ mười bốn, cùng mấy ả tì nữ theo hầu, dạo chơi ngắm cảnh trong vườn Thượng Uyển ở trên đồi cao\ Ði lâu, chân đã thấy mỏi, công chúa ung dung bước lên lầu Na Nan ngồi nghỉ, đưa mắt nhìn khắp bốn phương.
Quanh lầu, lá liễu buông mành, gió chiều khẽ đưa tha thướt. Trông ra xa, các đồi liên tiếp, như đàn rùa phủ phục nằm chầu. Trên đồi, những cây gồi, thân thẳng mà cao, ngọn cây phất phơ chòm lá xòe ra như tàn quạt. Thỉnh thoảng điểm những cây thông, gốc già giặn, lá xanh đen như mấy nét sẫm chấm phá trên nền màu non tươi. Dưới chân rặng đồi, con sông Bạch Hạc quanh co lượn khúc, ẩn, hiện bên những khóm cây rườm rà lả ngọn. Li Nương tì lan can, mắt rời cảnh vật bao la, cúi nhìn xuống cái hồ bán nguyệt, mới thấp thoáng nhô lên mặt nước một vài nõn sen mềm mại.
Bỗng nàng hé cặp môi mỉm cười, vì nàng vừa trông thấy bóng xinh đẹp của mình in trên mặt hồ trong xanh, phẳng lặng và sáng như gương. Nàng giơ tay trắng nuột vịn cành liễu non, bẻ mấy chiếc lá, thong thả bỏ rơi xuống hồ. Mặt nước rung động, hình công chúa cũng rung động. Gợn nước vòng tròn, rộng tan mãi ra, rồi dần dần biến đi như chìm xuống đáy hồ mà trả lại hình công chúa.
Li Nương vui sướng - cái vui sướng của tuổi trẻ hồn nhiên - cười khanh khách, giọng trong trẻo như tiếng con chim vàng anh đương hót ở trên cành.
- Này các ngươi! Các ngươi lại xem bóng ta vỡ rồi lại lành.
Bọn tì nữ, xúm xít quanh mình công chúa, đều cúi xuống nhìn, rồi cùng cười. Còn Li Nương thì tựa cột lầu tì tay lên lan can, hé cặp môi mỉm cười. Mấy giọt nước mưa đọng trên lá liễu từ từ rơi bám vào mái tóc búi lỏng, để trĩu xuống gáy, trông lấp lánh như những ngôi sao ló trong đám mây đen.
Bỗng mọi người đều chú ý lắng tai nghe...
Trong bầu không khí yên lặng buổi chiều tà, tiếng địch véo von ở đâu đưa tới, khi bổng khi trầm, như đến làm hoạt động một cảnh xuân đầm ấm.
Cành liễu rung rinh trước gió như chịu âm hưởng của khúc nhạc thanh tao, mà Li Nương vốn người đa cảm, cũng thấy toàn thân rung động, cặp má nóng bừng, trái tim hồi hộp...
Tiếng địch im bặt... Một người buông thở, thấy lòng nhẹ nhàng, khoan khoái.
Từ đó, trong buổi chiều tà vẫn nghe véo von tiếng địch.
Suốt năm đêm, công chúa Li Nương không chợp mắt, lòng thổn thức vì tiếng địch véo von. Chiều chiều, tiếng địch bay lọt tới thâm cung, như kể lể, như kêu van, như thì thầm trong tâm trí kẻ đa tình! Lúc lanh lảnh như nhịp cười khoái lạc, lúc thâm trầm như giọng than thở âu sầu.
Ðêm khuya thanh vắng, Li Nương mơ mộng. Tiếng địch vẫn như rành mạch bên tai. Nàng mỉm cười một mình, vì trí tưởng tượng của nàng đương cố vẽ ra một chàng thanh niên tuấn tú. Nàng lấy làm lạ, vì nhà âm nhạc nàng thấy hiện ra trước mắt giống hệt cái bóng người in trên mặt hồ bữa nọ.
Thấy công chúa kém tươi, vóc ngọc ngày một hao mòn. Vua cha lấy làm kinh hãi. Ngài cho rằng con đã đến tuổi cập kê, nên buồn về nỗi đêm xuân chiếc bóng, liền bày ra hội hè, chèo hát, thiết yến tiệc linh đình, mời hết các lạc hầu, lạc tướng đến dự, để công chúa kén chọn phò mã.
Nhưng ngắm mấy trăm yến khách, Li Nương không thấy một ai tài mạo sánh kịp người trong mộng. Nàng nghĩ thầm:
"Người thổi địch ấy đối với ta có thiên duyên, nên ta chưa gặp mặt mà đã tưởng tượng ra được."
Công chúa không chấm một ai. Các quan lạc tướng, các quan lạc hầu lại kéo nhau ai về nhà nấy. Làn không khí ở chốn đế đô lại tịch mịch như xưa.
Nhưng trong buổi chiều tà vẫn véo von tiếng địch...
Công chúa Li Nương ốm nặng.
Tiếng mõ rao khắp chốn đế đô cùng các vùng lân cận, để tìm kiếm các nhà lương y.
Song gần một năm, thầy lang đã kế tiếp nhau ra khỏi bệnh phòng mà bệnh nhân vẫn không thấy đỡ. Vì các thầy chẳng biết công chúa mắc phải bệnh gì.
Một hôm, về buổi chiều, một thầy lang già tới xin chữa bệnh. Thầy già, già lắm, già đến nỗi phải sờ soạng mới tìm thấy tay bệnh nhân để bắt mạch. Công chúa nghĩ thương tình, bèn khẽ bảo:
- Này cụ lang, cụ có muốn chữa tôi khỏi bệnh không? Nếu cụ muốn được Vua cha trọng thưởng thì có cách này khiến tôi khỏi ngay. Là ra tâu với Vua cha cho gọi người đương thổi địch kia vào thổi cho tôi nghe.
Thầy lang tuy mắt kém cỏi, nhưng tinh thần sáng suốt, hiểu ngay rằng công chúa mắc bệnh đau tim. Thầy liền đem lời công chúa tâu với Vua cha, nói khoác rằng mình mới tìm ra nguồn bệnh.
Tức thì Vua cha cho đi bắt chàng thổi địch giải tới cung điện.
Thuốc thần tiên thực! Công chúa nhác trông thấy anh chàng, các bệnh khỏi ngay, vì cái bộ dạng xấu xí lạ thường của nhà âm nhạc khiến nàng tỉnh ngộ, mà lòng thương hão nhớ huyền cũng theo hình ảnh tưởng tượng mà biến vào cõi mộng...
Nhưng trong buổi chiều tà vẫn véo von tiếng địch...
Nhà tài tử xấu xí từ khi ở điện nhà vua trở về nơi lều tranh vắng vẻ, mang theo hình ảnh Li Nương, và vì ai ngày đêm tưởng nhớ. Tiếng địch nay càng réo rắt, càng âm thầm như có chịu ảnh hưởng cái đẹp của công chúa, như muốn bao bọc ôm ấp lấy tấm linh hồn công chúa.
Ở trong cung, công chúa nghe tiếng địch, gan vàng vẫn lại thổn thức như xưa, bệnh cũ ở đâu lại ầm ầm kéo đến. Nhưng khi Vua cha cho đi bắt anh chàng thổi địch tới cung thì bệnh nặng lại khỏi dần.
Ðã như thế đến bốn lần rồi. Vua cha nổi trận lôi đình, ra lệnh cấm hết dân gian, không cho ai thổi địch.
Từ nay trong buổi chiều tà không còn đâu là tiếng địch véo von!
Hai tháng sau, công chúa Li Nương lại ốm, ốm rất nặng.
Lần này công chúa mắc bệnh, là vì đêm nào cũng nghe văng vẳng có tiếng địch bên tai, tiếng địch ảo não, buồn rầu như giọng ai kể lể tình xưa. Hễ thức giấc dậy thì tiếng địch lại im.
Năm đêm liền như thế. Bệnh tình công chúa xem ra nguy ngập.
Vua cha lại truyền cho đi tìm anh chàng thổi địch. Nhưng khi đến nhà chàng thì được tin chàng đã chết đúng năm ngày, thi thể chôn trên một ngọn đồi cao, nhìn vào trong cung. Chàng thổi địch trước khi từ trần đã dặn lại người nhà chôn mình ở đó.
Ðược tin, đức Vua lo sợ. Mà bệnh công chúa thì một lúc một tăng.
Một quan thị vệ quì gối tâu rằng:
- Xin bệ hạ cho đào mả người kia lên để công chúa trông thấy mặt thì chắc bệnh lại khỏi ngay.
Trong khi nguy kịch, nhà vua cũng phải theo lời, chứ còn biết làm sao.

Nhưng khi quật mồ lên, thi hài kẻ kia chỉ còn lại một khối tim. Cất lấy coi thì đó là một khối tim ngọc thạch. Các quan tất tả đem về trình đức Vua cha.
Vua cha giơ lên xem: trong có hình công chúa Li Nương đương ngồi lắng tai nghe một người thổi địch.
Ngài liền đem chuyện thuật cho con nghe và đưa luôn cho xem viên ngọc. Công chúa ngắm nghía trái tim thấy bóng mình trong đó, đem lòng thương kẻ chung tình. Từ từ giọt lệ rơi xuống viên ngọc... Trái tim người xưa bỗng tan ra, hòa với nước mắt của Li Nương mà biến mất.
Li Nương khỏi bệnh.
Mà từ đó, đêm đêm không bao giờ còn nghe thấy tiếng địch véo von.
Giết Chồng, Báo Thù Chồng
Nhất Linh
Liệt nức tiếng là xinh nhứt làng Nghi Hồng. Ðôi khi quán sớm, chợ chiều, cái sắc đẹp tươi tắn, cái vẻ duyên mặn mà của nàng đã làm xiêu lòng bao khách đi đường.
Nhà nàng rất nghèo. Cha mất sớm, nàng phải lo làm ăn để phụng dưỡng mẹ già, nên đã hai mươi tuổi mà không tưởng gì tới đường chồng con. Mẹ nàng nghĩ đến việc ấy vẫn áy náy không an tâm; bà mẹ phần nghĩ đến con, phần nghĩ đến mình nên hai đường chưa dứt. Người trong làng thì không ai xứng mà xa xôi thì không tiện. Năm qua tháng lại mẹ con vẫn sum vầy vui vẻ.
Tổng bên kia, cách làng Liệt một con sông, có một ông chánh tổng tuổi còn trẻ, người rất hào hoa, dân làng Nghi Hồng vẫn thường sang vay mượn. Ông chánh vốn có mươi mẫu ruộng bên Nghi Hồng, sợ đi lại không năng nên có nhờ người làng làm mối cho một người vợ lẽ để trông nom ruộng nương thay. Họ mời ông sang xem mặt Liệt, thấy nàng có chút nhan sắc thanh tao bằng lòng ngay.
Liệt nghĩ mình nhà nghèo, cũng có kiếm được tấm chồng danh giá, thấy ông chánh là người tử tế, còn trẻ tuổi, tuy phận lẽ mọn nhưng được ở gần mẹ già lại có sẵn ruộng nương của ông chánh cày cấy làm ăn, nên ngỏ ý nhận lời.
Có cheo cưới hẳn hòi, song chỉ riêng bên làng Nghi Hồng, còn bên vợ cả thì không ai biết. - Ông chánh thỉnh thoảng lại sang dâm bữa nửa tháng, lấy cớ sang thăm ruộng, thu tiền. Hai vợ chồng rất là tương đắc.
Người bên Nghi Hồng sang vay thóc gạo, vợ cả ông chánh thường bắt nọn:
- Các ông xem bên Nghi Hồng có người nào nom được và chịu khó thời các ông làm mối cho một người để trông nom ruộng nương bên ấy.
Mọi người đều thưa:
- Dạ thưa bà, nghĩ thế rất phải nhưng con gái làng chúng cháu thời toàn xấu như ma, đen như bồ hóng, chả có người nào tươm tất trông được cả. Nếu có thì chúng cháu xin hết lòng.
Người vợ cả thấy nói vậy, nên không nghi ngờ gì nữa. Liệt cũng được yên thân, mà tình chồng vợ ngày đêm khắng khít.
Bỗng một hôm nhà ông chánh bị cướp vào đốt sạch cả. Khi cướp tẩu thoát, ngọn lửa còn rực trời, người nhà không thấy bóng ông chánh, bà chánh và người con dâu, lấy làm lạ đổ xô đi tìm cũng biệt tăm. Người nói bị cướp bắt đi, người đoán chết trong đống lửa.
Hai hôm sau, người ta thấy xác người vợ và người con nổi trên sông, còn ông chánh, ông chánh cũng không còn sống vì có người tìm thấy cái áo của ông vướng vào bờ sậy.
Có người sang báo tin cho Liệt biết, nàng cứ thờ ơ như không. Mẹ nàng bảo dẫu sao cũng là vợ chồng, nên sang bên ấy chịu tang mới phải.
Nàng thưa:
- Sự cưới xin chỉ riêng bên này biết mà thôi. Con sang lễ, nhận làm vợ để chịu tang người nhà bên ấy ai biết con là ai, ngộ lỡ họ đuổi ra, có phải là nhục không? Xin mẹ cứ để con không sang là hơn.
Người trong làng trước khen Liệt thế nào bây giờ lại chê như thế. Ai ai cũng nói:
- Cái con ấy thế mà bạc, ăn ở với người ta gần một năm trời, bây giờ cứ thờ ơ, lạnh nhạt như không. Con người vô tình quá.
Liệt nghe thấy lời mai mỉa cứ thản nhiên nét mặt lại tươi lên bội phần, cười đùa luôn.
Ði đâu nàng ăn mặc cho thật gọn gàng đẹp đẽ, cái khăn vuông thắt thế nào cho thật xinh, săn sóc làm dáng để tô điểm cái vẻ đẹp sẵn có. Bà mẹ cũng không hiểu vì sao con mình lại vô tình đến thế.
Mấy tháng sau, Liệt bỏ nghề dệt vải, làm nghề chăn tằm, ngày ngày đi hái lá dâu các làng quanh đấy - trước còn mua dâu bên này sông, dần dần qua đò sang bên làng ông chánh. Lân la mỗi nhà mua một ít, hễ gặp bà cụ nào ngồi rỗi thì nàng đến vẩn vơ chuyện hão.
- Cụ này, năm ngoái chúng cháu đến nhà ông chánh mua dâu thấy nhà ngói cây mít san sát, mà bây giờ cháu đến thì không biết sao trông tiều tụy thế?
- Ấy, năm ngoái nhà ông ta bị cướp đốt phá, nó lại giết cả hai vợ chồng với đứa con.
- Khốn nạn! Ông ta vẫn là người tử tế, ai ai cũng có bụng mến.
Liệt lại đến mua dâu làng khác, gặp mấy người lại kề cà mở túi trầu nói những chuyện đâu đâu, rồi mới đá động đến:
- Gớm nhà ông chánh bây giờ cướp phá tan tành không còn gì. Tôi đến đấy mua dâu nghe họ nói đám cướp ấy to lắm. Các quan cho người về dò xét cũng không ra, chuyện ấy lại lỉm đi. Thương hại ông chánh người tử tế mà bị cướp nó giết.
- Cướp gì đấy, lại người trong tổng nó thù nó giết chớ gì - cướp với kiếc gì...
- Ấy chết bà nói khẽ chứ... mình dám đâu chắc, ngộ lỡ thì oan gia.
Bà kia lại càng nỏ mồm:
- Ở đây ai chẳng biết, còn phải giấu giếm gì... Chỉ có lão Bá Mịch làng Ngang. Hai nhà ấy họ vẫn thù hằn nhau đã lâu, nó cho mấy đứa đầy tớ giả vờ làm cướp giết phăng đi... ai biết đó là đâu.
- Sao bảo có mật thám về xét.
- Mật thám về mà làm gì. Biết, nhưng tang chứng không có.
Bây giờ Liệt chỉ còn tìm cách gần lão Bá Mịch.
Nàng lại ngày ngày cắp rổ đi mua dâu, gặp ai cũng than thở:
- Ðộ này túng quá, nghe nói có cu. Bá bên này, muốn sang vay mượn ít đồng mà không biết có ai quen đưa đến.
Họ mách có nhà bà Hậu là thân với ông Bá lắm. Hôm sau Liệt đến mua dâu nhà bà Hậu đáng độ hai, ba xu thì trả tăng lên bốn năm xu. Ngày nào cũng đến, dần dần không mặc cả, cứ hái xong là trả tiền về. Có khi lần khân ở lại nói chuyện, thấy việc gì thì làm.
- Cái sân này rác quá, bà đưa chổi cháu quét đỡ.
- Cối thóc này xay dở, bà đưa cháu xay một lúc thì xong chứ gì.
Liệt làm gì cũng nhanh nhẹn thoăn thoắt, bà Hậu thấy vậy đem lòng mến có khi sẵn cơm thì giữ lại ăn cơm, lâu lâu thân như người nhà. Hỏi đến cha mẹ nàng thì nàng nói cha mẹ đã mất lâu, ở với chú thím tận dưới làng Ðoài.
Một hôm về buổi chiều, bà Hậu thấy Liệt đến, mang cái khăn gói to, lấy làm lạ, hỏi thì nàng khóc như mưa, vật mình than thở:
- Chú thím tôi định ép tôi lấy một đứa rất hèn hạ, chỉ đáng xách dép cho tôi mà thôi. Cưỡng quá, tôi phải bỏ nhà đi, không mặt mũi nào mà lấy thằng ấy được. Bây giờ tôi đi đâu không biết, nhưng thế nào cũng phải đi. Tôi thấy có bà là chỗ tử tế nên đến đây chào bà để đi, mà đi phen này thời không biết có về nữa không.
Nói xong lại khóc, lại nói, thật là thảm thiết.
Bà Hậu mọi lần thấy nàng vui vẻ, nay thấy nàng như vậy động lòng thương, nhất định giữ lại không cho đi đâu. Liệt khăng khăng nhất định đòi đi, bà Hậu phải giấu kín khăn gói mới giữ được nàng ở đây.
Ở đấy được hơn một tháng, thấy bà Hậu nói chuyện sang vay thóc bên cu. Bá nàng xin đi theo gánh thóc.
Trước khi đi, nàng vào trong buồng trang điểm giấu bà Hậu.
Lúc ra ngõ thấy bên giậu có bông hoa hồng mới nở, Liệt bỗng nảy ra một ý hay, liền hái trộm bông hoa, trở về buồng, vò nát mấy cánh hoa, rồi xoa lên má: đôi má hồng như tăng cái sắc của nàng lên nhiều lắm.
Ông bá đương nằm ở sập thấy bà Hậu vào vội ngồi dậy. Ông vội ngồi dậy không phải vì bà Hậu nhưng chính vì thấy bóng Liệt thấp thoáng theo sau. Ông bá mới trông thấy đã mê mệt. Còn Liệt bước vào khúm núm, e lệ ngồi ở tràng kỷ, lát lát lại đưa mắt nhìn trộm ông Bá, nửa như ngây thơ, nửa như lơi lả.

Ông Bá góa vợ đã lâu, ý muốn tìm người vợ kế, nên hôm sau mời bà Hậu lên chơi, hỏi xem Liệt là ai, người ở đâu, và nhờ bà Hậu lo giùm cho, sẽ tặng riêng rất nhiều tiền.
Bà Hậu thường đêm khuya, tỉ tê nói chuyện khuyên lơn Liệt:
- Chẳng lẽ cô cứ ở vậy sao? Lấy người trai tơ thường nhà nghèo khó cả, vả lại lấy phải những đứa vũ phu, lỡ xẩy việc gì nó thượng cẳng chân, hạ cẳng tay thì khổ. Giá đi lấy lẽ những người danh giá giàu có mà con, thời tôi tưởng cũng là sung sướng lắm chứ.
Liệt đáp:
- Bà cứ nói chuyện không đâu, những người ấy thời ai lấy đến những hạng như chúng cháu.
Bà Hậu biết nàng thuận, liền đem việc ông Bá nói lại. Liệt trước còn khăng khăng cự tuyệt, tìm cớ chê bai, sau thấy bà Hậu nói mãi, cũng làm bộ xiêu dần.
Thế là Liệt vài tháng sau đã nghiễm nhiên là vợ ông Bá. Nhưng từ hôm cưới trở đi, hễ ông Bá vào buồng thì nàng ôm bụng kêu trời kêu đất:
- Ông ra ngay, không thời nó đâm chết tôi bây giờ, tôi đau lắm... kìa có ba đứa nó theo sau ông, hai người đàn ông và một người đàn bà, nó đương cầm dao sắp đâm tôi đấy, mau lên không thời chết cả bây giờ.
Một hôm Liệt đón ngõ gọi một người thầy bói vào xem, có cả ông Bá ngồi đó.
Ông thầy bói gieo quẻ, nói:
- Nhà này như có oan hồn lẩn quất, phải lập đàn giải thoát không thì tai họa (hôm trước Liệt đã có cho tiền và dặn phải nói như thế).
Lúc thầy bói đi rồi, Liệt gọi ông Bá lại, rươm rướm nước mắt, nói:
- Ông muốn cho tôi sinh nở với ông, thời phải lập đàn giải thoát cho oan hồn ấy. Việc là việc hệ trọng, ông không nên coi thường. Nếu không thế thì cho tôi về thôi, chứ vợ chồng với nhau thế này thì cả hai đều cực cả. Bây giờ làm chay cho oan hồn đi nơi khác thì mới mong vợ chồng ăn ở với nhau được.
Liệt nói xong, lấy tay ôm mặt khóc nức nở.
Ông Bá nói:
- Oan hồn nào, chỉ cái thằng Chánh ơ? Cốc chứ gì, ừ làm chay thì làm chay.
Liền cho người đi thỉnh các sư ở vùng ấy đến, lập đàn chay giải oan, tiếng chiêng, tiếng trống rộn rịp ba bốn ngày trời. Người trong làng rủ nhau đến xem như hội.
Bỗng một hôm, Liệt đương ngồi đối diện ông Bá, giật mình như vừa nghĩ ra việc gì hệ trọng rồi nói với ông Bá:
- Tôi quên mất, bây giờ mới nghĩ rạ Ừ thì lập đàn, nhưng cúng ai, cúng ai mới được chứ?
Chuông trống long tong cả ngày thế này thì còn có nghĩa lý gì nữa.
Rồi nàng ghé vào tai ông Bá nói:
- Việc không nên hở cho ai biết. Vậy ông phải làm tờ sớ viết tên tuổi những oan hồn ấy.
- Nhưng đừng cho người ngoài biết mới được.
- Chính vậy, ông viết xong, ông đưa tôi để tôi đem lên cho vào hòm sớ, rồi chính tay tôi đốt, việc này không thể để các nhà sư được, lỡ lộ thì lôi thôi.
Tối hôm ấy, ông Bá lấy giấy viết tên tuổi cẩn thận gập lại đưa cho vợ. Liệt đã gấp sẵn một tờ giấy như thế, lúc lên đàn, gặp khi bối rối, nàng bỏ tờ giấy có chữ ông Bá vào trong yếm, đem tờ giấy trắng ra đốt.
Sáng hôm sau, ông Bá không thấy Liệt đâu, cho người vào buồng xem thì buồng không, đi hỏi khắp các nhà quen cũng không ai gặp Liệt cả.
Trong lúc đó, trên con đường đá, Liệt nhẹ bước, cắm đầu đi thật nhanh.
Ở nhà, ông Bá đợi mãi... đến trưa không thấy nàng về ăn cơm... Ðến chiều... lính trên phủ về có giấy bắt ông Bá giải đi. Các sư lục tục giải tán. Xôi, nến, chuối, vàng, oản, lổng chổng khắp mặt đất. Tin ông Bá bị bắt, vợ ông Bá trốn, đồn rầm khắp nơi.
Lão Bá lên đến phủ, quan hỏi còn một mực chối, đương gân cổ cãi, thì ở buồng bên cạnh, Liệt lững thững bước ra. Lão Bá giương mắt nhìn tưởng mình chiêm bao, định há miệng nói, thì ông phủ giơ ra trước mặt một tờ giấy trên có mấy dòng chữ. Lão Bá thấy rõ chữ mình mới viết đêm qua, không thể cãi vào đâu nữa, kêu lên:
- Trời ơi! nói giết tôi rồi!
Mấy hôm sau, lính giải lão Bá về chỉ chỗ chôn ông Chánh. Liệt gần hai năm nay nuốt lệ, gượng vui, bấy giờ trông thấy xương chồng không sao cầm được nước mắt, than khóc rất là thảm thiết.
Những người đi xem và người làng xưa kia vẫn chê nàng bạc bẽo, vô tình, thấy thế ai cũng cảm động.
Bên Dòng Sông Hương
Khái Hưng
Vị Dạ là một khu rất yên tịnh ở vùng sông Hương núi Ngự.
Chiều đến thả thuyền từ bến Đông Hà theo dòng sông đi xuôi xuống phía dưới, vượt qua cù lao Bộc Thanh, lữ khách sẽ nghe tiếng ồn ào ở trong chợ, ở trên cầu, tiếng còi ô tô, tiếng nhạc xe kéo dần dần một lúc xa, rồi bỗng có cái cảm giác vừa rời chốn thị thành huyên náo mà đi tới một nơi thôn quê tịch mịch. Đối diện với đầu mỏm cù lao ấy là xóm Vị Dạ.
Mấy tháng trước hai vợ chồng một người Bắc đưa nhau đến xóm ấy thuê nhà ở. Gia nhân duy có một tên đầy tớ. Đồ đạc chỉ trơ trọi một cái giường, một cái bàn và bốn cái ghế. Đến như sự giao dư thì vợ chồng nhà ấy ít lắm: chẳng mấy khi có người quen thuộc đến chơị Những người láng giềng thường thì thào bảo nhau: vợ chồng nhà ấy đến ở đây làm gì? Có người tò mò hỏi anh đầy tới thì cũng chỉ biết rằng ông khách lạ ấy đậu cử nhân luật, trước làm nghề viết báo và soạn sách ở Hà Nội.
Cái nhà hai vợ chồng người ấy thuê tuy nhỏ và không gác nhưng có vườn rộng bao bọc chung quanh. Chiều chiều mặt trời tà phản chiếu ánh vàng vào lá cây mít sáng loáng và gió thổi rì rào trong đám lá thông xanh tươi xen lẫn với những cành soan đầy hoa tím nhạt, càng làm tăng vẻ bí mật và khiến ai qua lại trông vào tưởng đó là một cái vườn bỏ hoang, vì cổng trước, cổng sau thường thấy đóng.
Thực vậy, thuê cái nhà ấy, Vinh sơn chỉ muốn lánh cuộc đời phiền phức để cùng người yêu được hoàn toàn hưởng hạnh phúc ái tình. Vì thế chàng mới đưa bạn vào tận Huế tìm đến ở một xóm hẻo lánh quạnh hiu.
Từ ngày ở Pháp về, và ngắm xã hội Việt Nam, từ những tục lệ bó buộc cho chí cách sinh hoạt khuôn sáo, chàng lấy làm khó chịu, tiếc cái thời kỳ ở Paris. Ở đấy, chàng đã tiêm nhiễm những cử chỉ khoáng đạt, những tư tưởng khoáng đạt, khiến chàng lúc nào cũng được khoan khoái dễ chịu, và chẳng cần phiền lụy đến ai, chẳng bị ai làm phiền lụy đến mình.
Một hôm, tình cờ chàng gặp Diễm Lan, cựu nữ sinh viên trường Sư phạm, một trang tân tiến, cực kỳ mỹ lệ, đã nổi tiếng lãng mạn khắp Hà Thành.
Rồi hai người cùng nhau lăn lóc trong cõi tình. Rồi không những Vinh Sơn không được nhà cho phép cùng người yêu kết hôn, mà lại còn bị anh em bạn bè và những người quen thuộc chế giễu, khinh bỉ.
Nghe những lời bình phẩm, chàng chỉ cười. Vì thực ra chàng chẳng cần gì trinh tiết, chẳng cần gì tứ đức tam tòng. Chàng cho những cái đó không có liên quan đến ái tình, không có dính dáng đến hạnh phúc. Yêu là yêu chứ không là gì khác nữạ Nhưng cứ bị dư luận eo hẹp rầy rà mãi, chàng cũng khó chịu.
Một ngày kia, bỗng vắng bặt bóng Vinh Sơn và Diễm Lan ở các phố Hà Nội. Hai người đã đưa nhau đi ẩn, hay nói cho đúng đi tìm một cảnh thích hợp với ái tình. Cảnh ấy là sông Hương.
Trong tháng đầu, cái nhà ở bến Vị Dạ chỉ là một tổ uyên ương. Hai người không lúc nào rời nhau, khi cùng nhau đọc sách dưới ánh đèn, khi cùng ngồi ở bực gạch ngắm cảnh hoàng hôn trên sông Hương, hay đi chơi thuyền trên làn nước trong xanh, yên lặng, êm đềm, uốn éo, dịu dàng như cô gái Thần Kinh.
Có lần giữa cảnh đêm trăng, Diễm Lan ngồi bên Vinh Sơn ở ngoài mũi thuyền, lẳng lặng hé cặp môi mỉm cười, mắt đăm đăm nhìn gợn nước long lanh như muôn vàn ngôi sao lấp lánh. Thốt như điên cuồng, nàng ôm chầm lấy đầu người yêu, vừa hôn lấy hôn để vừa nói:

- Mình ơi! Em sung sướng quá! Em ước ao trọn đời được ở bên mình trong cái cảnh thần tiên ảo mộng này.
Vinh Sơn cảm động không nói nên lời, dịu dàng đặt đầu nóng bừng vào lòng Diễm Lan, như đứa con nít mỏi mệt thiu thiu trong lòng người mẹ.
Diễm Lan đặt bàn tay lên trán Vinh Sơn, rồi như ru chàng ngủ, cất tiếng hát, hát một bài Pháp ca:
"Đôi ta sẽ cùng nhau dan díu trên làn sóng biếc dịu dàng.
Mặt nước, vì đôi ta, in bóng rung rinh các ngôi sao vàng.
Vừng trăng, vì đôi ta, chiếu ánh sáng bạc lên cánh buồm.
Và trong bầu không khí thần tiên,
Điệu hát du dương của buổi chiều tà yên lặng,
Thì thầm khuyên chúng ta yêu nhau".
Dứt câu hát, nàng vừa cười vừa cúi xuống nói nựng với người yêu:
- Mình còn sung sướng không? Mình còn ao ước một điều gì nữa không?
Vinh Sơn se sẽ lắc đầu.
Bấy giờ như đáp lại Diễm Lan, điệu hát hò đò của một cô lái xa xa theo chiều gió đưa tớị Trong khoảng đêm khuya thanh vắng, giọng hát sầu thảm như tiếng than thở của một người sắp sửa từ trần. Cặp uyên ương ngồi ôm nhau lắng tai nghe, từ từ nhỏ lụy.
Như thế hơn một tháng, mỗi ngày quyển sổ nhật ký của hai người chỉ ghi thêm có một chữ: Yêu.
Nhưng sang tháng sau tình thương yêu tuy vẫn nặng, mà cái tình nồng nàn của Diễm Lan đã thấy giảm bớt vài phần. Đối với sự thay đổi của bạn, Vinh Sơn chỉ cười nhạt. Chàng cho sự đó rất thường, và chàng đã đoán biết từ trước rằng cái ngày ấy chẳng chóng thì chầy thế nào cũng tớị Linh hồn lãng mạn của Diễm Lan chàng chỉ ví như một con bướm, một đóa hải đường, nghĩa là một cốt cách hữu tình chứa một khối tinh thần vô tư.
Một buổi chiều, Vinh Sơn đương ngồi viết truyện, thấy Diễm Lan đi chơi về, chàng vui mừng, đứng dậy xoắn xít hỏi:
- Mình đi chơi đâu về đấy? Mình cho anh thức gì thế?
Diễm Lan thở dài đáp:
- Em lên chơi bà Hường về. Bà ấy cho quà đấy.
Vinh Sơn hơi cau mày:
- Anh đã dặn em đừng đến chơi các bà quan mà em không nghe anh.
Diễm Lan bỗng bưng mặt khóc, kể lể:
- Thế thì cậu áp chế tôi quá. Cậu cấm đoán tôi, không cho tôi đi chơi đâu cả. Thế mà cậu bảo cậu thích tự do.
- Không phải thế. Em không hiểu bụng anh. Em đi chơi, nào anh có cấm? Nhưng anh không muốn em đến chơi đằng các quan, mà ở đây thì nhiều quan lắm, đi một bước là gặp quan. Chi bằng em đừng lên phố nữa là hơn. Em không nhớ chủ nhật trước em ở nhà bà Thị về rồi em buồn mãi, vì em cứ thấy người ta là bà lớn nọ, bà lớn kia, em thèm...
- Chứ sao! Cậu thì kém gì người ta, cũng thi đậu luật khoa cử nhân. Thế mà người ta thì làm quan mà mình thì...!
Vinh cười rũ rượi, ngắt câu nói của bạn:
- Mà mình thì làm dân! Em còn nhớ câu em hỏi anh ở dưới thuyền bữa nọ không? Hôm ấy hình như em hỏi anh: anh có ao ước một điều gì nữa không? Vậy anh trả lời em nhé: ngoài em ra, ngoài ái tình đôi ta ra, ngoài cái đời lãng mạn tự do ra, anh không còn thèm muốn một điều gì khác nữa.
Rồi chàng âu yếm ôm lấy bạn, ghé vào tai nàng thì thầm hát lại bài lời ca:
"Đôi ta sẽ cùng nhau dan díu trên làn sóng biếc dịu dàng.
Mặt nước, vì đôi ta, in bóng rung rinh các ngôi sao vàng.
Vừng trăng, vì đôi ta, chiếu ánh sáng bạc lên cánh buồm.
Và trong bầu không khí thần tiên,
Điệu hát du dương của buổi chiều tà yên lặng,
Thì thầm khuyên chúng ta yêu nhau".
Diễm Lan cảm động gục đầu vào vai bạn mỉm cườị Bỗng ở phía trước có tiếng còi ô tô. Nàng giật mình bảo Vinh Sơn:
- Có lẽ vợ chồng quan Hường lại chơi.
Thì ra cái mồi vinh hoa phú quý đã nhóm ở trong lòng Diễm Lan ngay từ lần đầu nàng gặp vợ chồng ông Thị. Rồi bà Thị dắt Diễm Lan lại chơi hết bà quan nọ đến bà quan kia: ai ai cũng khuyên ông cử Vinh sơn nên xin xuất chính.
Mà cái bả quang vinh lại dễ say lòng phụ nữ!
Diễm Lan nghĩ thầm rằng: "Đến như ông Thị đương ở chỗ tiền rừng bạc bể mà còn bỏ để hưởng cái sung sướng lộng lẫy ở chốn đế đô, nữa là cái địa vị của Vinh Sơn thì đã lấy gì làm vẻ vang mà cứ cố víu lấy".
Cái tư tưởng sính lên bà lớn vẫn núp trong tâm trí đám phụ nữ nước ta, dù họ tòng cổ hay tân thời, dù họ ở ở chốn khuê phòng đài các hay thuộc bọn phóng đãng giang hồ. Hễ gặp dịp có thể leo lên được cái địa vị kia thì không bao giờ họ bỏ qua.
Suốt hai tuần lễ Diễm Lan đi chơi đây chơi đó cũng chỉ có một mục đích: nghe ngóng để tìm cách vận động.
Lại luôn luôn ở ngoài phố, Diễm Lan gặp biết bao bà quan nọ, bà quan kia, áo gấm áo màu rực rỡ, hoặc ngồi trong ô tô hòm kính, hoặc ngồi trên xe nhà cao su, khiến lòng sính quan của nàng ngày ngày càng thêm bành trướng, cho đến khi lên tới nhiệt độ nằn nì khóc lóc để bắt người yêu phải làm được toại lòng ước nguyện.
Cái ổ uyên ương ngày nay đã biến thành một nơi sầu thảm: Diễm Lan và Vinh Sơn luôn luôn giận nhau, cãi nhau và chẳng còn tưởng gì đến cái cảnh đẹp trước mặt nữa.
Một hôm Diễm Lan vừa ngỏ lời rằng ông Thị sẽ sẵn sàng giúp cho công việc tiến thân của chàng thì Vinh Sơn liền gắt gỏng đập bàn, cự tuyệt.
- Tôi cấm mợ từ nay không được đả động đến những chuyện ấy nữa, mợ làm tôi đến ghét mợ mất thôi.
Diễm Lan gục đầu xuống bàn, khóc nức nở:
- Mình phải biết chỉ vì em yêu mình nên em mới muốn mình nên danh nên giá...
- Nhưng tôi không muốn, tôi không thích danh giá...
Chàng nói dứt lời, toan giơ tay tát, nhưng lại ngừng lại ngay. Rồi lấy làm hối hận, chàng vỗ về bạn, ôn tồn xin lỗi:
- Em tha thứ cho anh. Mai chúng ta ra Bắc thôi em ạ. Nếu ta còn muốn yêu nhau, nếu ta định yêu nhau mãi mãi, thì ta phải mau mau rời bỏ hẳn chốn này. Vì nước sông Hương sẽ cám dỗ lòng em mất.
Trưa hôm sau chuyến xe lửa tốc hành đưa Vinh Sơn và Diễm Lan ra Hà Nộị Khi qua cầu trên sông Hương, Vinh Sơn trỏ bảo bạn:
- Kìa mình trông, nước sông Hương mà in bóng những thành quách lâu đài thì thực hết cả thị vi, tình tứ.
Hiếu thấu thâm ý người yêu, Diễm Lan đưa mắt mỉm cười.
Và từ đó về sau hai người không bao giờ dám trở lại Huế nữa.
Ðầu Ðường Xó Chợ
Nhất Linh
Ðầu đường xó chợ!
Từ năm Thầy tôi mất, anh chị tôi rời bỏ chốn quê nhà đi tha hương cầu thực, đến ở một túp lều tranh ở ngay đầu chơ. C.. Bắt đầu từ đó, tôi bỏ cái đời cũ là cái đời một cậu con quan ăn sung mặc sướng, bước chân vào một cuộc đời riêng mới cho tôi: tôi gọi là một cái đời đầu đường xó chợ. Năm ấy tôi mới mười ba tuổi.
Cái xã hội xó chợ ấy khác hẳn với cái xã hội quý phái của tôi ngày trước: nhà gia đình bác Tèo bán bánh đúc, vợ chồng bác xã Tắc kéo xe, mẹ con nhà hai Lộ bán nồi đất.
Từng gia đình nho nhỏ lúc nhúc trong những gian nhà xiêu vẹo, tối tăm, bẩn thỉu. Trước nhà một cái rãnh dài, đầy những vỏ dưa, lá chuối, giẻ rách.
Thật là một xã hội xấu xa, mà xấu xa vì nghèo khổ quá. Tự nhiên tôi đem lòng mến những đứa trẻ cùng trạc tuổi tôi của những gia đình hèn hạ ấy: Cái Nhớn, thằng Cu, con Tẹo là bạn tôi cả. Tôi đã trông thấy chúng nó ăn cả bữa cơm có dúm muối, vài quả cà thâm hay đĩa rau sam luộc; tôi đã thấy chúng nhặt những gốc mía người ta vứt đi mà chia nhau hít cho đỡ thèm, nên tôi thương. Chiều mát tôi đi với chúng ra đồng, xem chúng đặt những cái lờ vào các lạch con để bắt tôm cá. Chúng được nhiều tôm cá, tôi cũng mừng hộ và tôi đợi đến bữa cơm của chúng để xem trong mâm có được thêm đĩa cá rôi kho hay mấy con tôm đỏ nào không.

Người mà tôi quý nhất hồi đó là chi. Hiên, vợ một người phu xe ở xế cửa nhà tôi.
Nguyên anh chị tôi được lĩnh một cái ty bán thuốc phiện, nên chi. Hiên thường lui tới mua thuốc cho chồng. Lần đầu tôi trông thấy chị ta, tôi đem lòng thương hại ngay. Bây giờ tôi mới rõ rằng tôi có cái cảm tình đó vì chi. Hiên còn trẻ, xinh và có duyên, lại lấy phải anh chồng nghiện ngập, xấu xí.
Nhưng chi. Hiên thì không nghĩ như tôi. Cả ngày chỉ cặm cụi ngồi đan lờ trong khi chồng đi kéo xe vắng. Hôm nào chị bán lời được một hào, chị mua cho chồng một hào thuốc thì chị lấy làm vui vẻ, sung sướng lắm.
Chị không nghĩ gì đến thân chị, có cái ao nâu đã bạc, đã vá tay, vá vai, vá lưng mà chị không chịu để dành tiền may áo mới.
Trí non nớt của tôi không sao hiểu được các hành động của chị đối với một người chồng nghiện ngập, hèn hạ như thế.
Một hôm, tôi sang bên nhà chị, thấy chị ngồi gục đầu vào cánh tay, bên cạnh mấy chiếc lờ đan dở. Tôi vào chị ngẩng lên nhìn, hai con mắt như có ngấn lệ. Tôi vừa định quay ra thì chị tay vẫy tôi lại gần nói khẽ:
- Này cậu, cậu có một hào, cậu cho tôi vay vài hôm tôi trả.
- Tôi làm gì có tiền cho bác vay! Bác vay làm gì?
Chi. Hiên lẳng lặng chỉ vào trong buồng. Tôi hỏi:
- Bác trai đau phải không? Ốm hay sao mà rên dữ thế?
- Cậu ạ, hai ngày hôm nay, nó lên hai cơn sốt rét, không đi kéo xe được. Nhà không có tiền, tôi phải nhịn cơm từ hôm qua, nhưng nguy nhất là hết tiền mua thuốc. Ðã ốm mà cơn nghiện lên thì chết mất. Hay cậu về nhà ăn cắp ở nhà một hào chỉ cho tôi vay.
Tôi mỉm cười, lắc đầu:
- Chiều tối bác mang tiền lại mua thuốc, tôi thêm cho ít nhiều thì họa may... còn tiền thì tôi không thể nào có được.
Vừa lúc ấy con gà trống to của anh chị tôi nuôi lởn vởn đến bên cạnh mẹt vừng của chi. Hiên phơi trước cửa. Chi. Hiên tay xua con gà miệng nói đùa:
- Giá được con gà này mà bán thì chồng tôi tha hồ hút.
Ðã khuya, nhà tôi đóng cửa đi ngủ, bỗng có người gọi mua thuốc.
Tôi nhanh nhẹn cầm cây đèn Hoa Kỳ ra vì tôi biết chắc đấy là chi. Hiên mua thuốc cho chồng.
Qua khung cửa bán thuốc, một cái bàn tay thò vào cầm một cái vỏ hến trong có một hào chỉ đã nhẵn mặt. Chị tôi cầm lấy đồng hào nhìn đi nhìn lại rồi nói:
- Ðưa hào khác thì bán, hào này nhẵn mặt lắm không tiêu được.
Tôi lo lắm, và tôi chắc chi. Hiên đứng ngoài còn lo gấp mấy. Tôi vội bảo chị tôi:
- Thôi, chị cứ nhận cho người ta, mai trả nhà đoan cũng được.
Tôi không dám nói rõ vì tôi biết chị tôi ghét vợ chồng nhà này lắm.
Khi chị tôi cân thuốc xong, quay lưng đi, tôi vội cầm cái que thuốc rỏ thêm vào trong hến một giọt. Lúc đưa cho chi. Hiên, tôi bảo khẽ:
- Thêm cho rồi đấy nhé.
Tôi vừa đóng xong cái cửa bán thuốc thì ở ngoài bỗng có tiếng kêu:
- Chết tôi rồi, cậu cho mượn cái đèn, đổ hết cả rồi!
Tôi đưa đèn ra xong rồi nhìn qua khe cửa thấy một cảnh tượng không bao giờ tôi quên được: hến thuốc đổ sấp xuống đất, thuốc bắn tung ra thành từng chấm đen nhánh. Chi. Hiên cúi xuống lật cái hến lên; cái hến chỉ còn rây một ít thuốc; trong lúc hấp tấp chị lấy ngón tay quệt thuốc dưới đất cho vào hến, nhưng thuốc lẫn cả với đất còn hút gì!
Không làm sao được, chị nhặt cả những hòn đất có rây thuốc để vào bàn tay - rồi chị cứ ngồi đấy khóc thút thít. Sau thấy chị tôi giục đem đèn vào, tôi phải để mặc chi. Hiên ngồi khóc trong bóng tối. Tôi vừa đặt mình xuống giường nằm thì vẳng có tiếng người cãi nhau, tôi chắc là ở nhà chi. Hiên, chồng chị đương đánh mắng chị ta.
Sáng hôm sau, tôi sang nhà chi. Hiên sớm, thấy chị ngồi dựa vào tường, đầu tóc bù xù, vẻ người mệt mỏi, trên trán có một chỗ sưng tím lên. Tôi không thấy cái lờ nan đan dở để đấy, liền hỏi:
- Bác bán lờ đi rồi phải không?
- Không, tôi cất ở dưới bếp.
- Thế hào chỉ hôm qua?
Chị ta thấy tôi hỏi đường đột, nhìn tôi có vẻ sợ hãi, nói một cách hoảng hốt:
- Tôi vay của... Không! người ta trả nợ tôi.
- Bác mà có người nợ tiền?
- Ấy nợ cũ ... đã lâu.
Vừa nói đêm đấy thì nghe bên nhà tôi có tiếng người nói to, con nhỏ nhà tôi chạy ra ngơ ngác, như tìm một vật gì. Tôi hỏi thì nó trả lời:
- Nhà mất con gà, con gà trống thiến to nhất...
Chi. Hiên hỏi tôi:
- Con gà nào thế cậu nhỉ?
- Ấy con gà hôm qua nó sang đây mổ vừng của bác ấy.
- Chi. Hiên thốt nhiên nói:
- Chết tôi rồi! Gà nhà cậu?
Tôi hỏi:
- Làm sao mà chết?
Chi. Hiên luống cuống như định nói lại thôi, nhưng cái trí non nớt của tôi đã hiểu rõ, đã đoán ra hết. Tôi ngắm lại chị ta thấy vẻ mặt tái mét, nửa vì đói, nửa vì lo mà tôi đem lòng thương hại vô cùng. Vì hết lòng với chồng phải đi ăn trộm gà lại bị chồng mắng. Tự nhiên tôi muốn tìm cách chống chế cho người đã ăn cắp gà nhà tôi. Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo chị ta:
- Ðược! Bác đừng lo, bác để mặc tôi!
Rồi tôi về nhà chạy thẳng ra cổng sau nhìn xuống sông, bảo chị tôi rằng:
- Nhà mất gà phải không, thôi đừng tìm nữa vô ích, hôm qua tôi thấy con gà giống con gà nhà ta đậu ở dưới thuyền buôn nồi đất. Bây giờ họ đi họ cuỗm đi rồi. Còn biết ai mà hỏi.
Tôi lấy làm tự đắc rằng đã tìm ra một kế hay và rất mừng cái kế đó hiệu nghiệm, vì chị tôi coi như mất hẳn con gà rồi, không cho người đi tìm nữa.
Tôi còn bé không hiểu rằng giúp đỡ một người ăn cắp thế là tốt hay xấu, tôi chỉ biết rằng trong lòng tôi lúc bấy giờ vui vẻ lắm, vui vẻ vì cứu thoát được một người khổ sở, đáng thương.
Về sau, tôi càng ngày càng cách biệt với cái xã hội đầu đường xó chợ ấỵ Ðến nay đã gần hai mươi năm, cái cảnh đời cũ đã lờ mờ trong trí nhớ, nhưng câu chuyện của chi. Hiên thì không bao giờ tôi quên được.
Cái đời đầu đường xó chợ ấy ngay từ thuở còn nhỏ đã dạy cho tôi hiểu rằng: muốn cho người ta dễ có lòng thiện thì phải làm thế nào cho người ta khỏi nghèo khổ, mà một xã hội nghèo khổ thì bao giờ cũng dễ thành một xã hội xấu xa.
Nước Chảy Ðôi Dòng
Nhất Linh
Nước xuôi dòng, buồm thuận gió. Hai bên bờ sông hai dãy đồi dài, sương buổi chiều đã lờ mờ phủ chân đồi; trên ngọn đồi vài rặng thông như mấy vết mực nhạt... trời lạnh và trăng trong...
Sinh ngồi ở ngoài khoang thuyền kéo cổ áo lên che cho khỏi lạnh, quay ra phía sông vơ vẩn nhìn cảnh nước trôi, trăng giải. Chàng lặng yên để tâm trí phiêu lưu, không nghĩ gì, không vui, không buồn, có cái thú bình tĩnh vô tư.
Sinh lên chơi người quen ở Phả Lại, khi trở về, nhân có chiếc thuyền nâu cũng xuôi nên xuống thuyền, bao giờ đến nhà thì đến, vì chàng không vội gì. Mà Sinh cũng không bao giờ biết vội. Chàng là con quan, nhà giàu có, nên sống một cuộc đời nhàn nhã, cứ để năm tháng đi qua hết ngày nọ đến ngày kia... đi qua như dòng nước chảy xuôi.

Sinh đương ngồi vơ vẩn, bỗng nghe trong khoang có tiếng cười nói rất thanh tao. Sinh lấy làm lạ, vì lúc xuống thuyền chỉ có hai vợ chồng người lá đò đã già. Sinh quay lại thấy một người con gái trạc độ mười tám tuổi, mặc chiếc áo tứ thân vá vai đã cũ, chiếc khăn vuông đã bạc màu, tóc rũ xuống mà rối bời, nhưng nét mặt xinh đẹp tuyệt trần, hai con mắt trong và sáng, trông thanh tao có vẻ con nhà khuê các. Sinh ngạc nhiên, giương mắt nhìn. Người con gái không để ý, không chút e lệ, ngây thơ nhìn Sinh, hơi mỉm cười, sẽ nói:
- Mời ông vào xơi nước.
Trên chiếc chiếu trắng, Sinh thấy có để ấm nước và khay gỗ đựng mấy chiếc chén sứt miệng. Người con gái rót nước vào chén, hơi lên nghi ngút, mời Sinh uống, rồi lại lui về khoang cuối thuyền, vừa cầm lái vừa đun bếp. Sinh cầm chén nước lên nhưng không uống, vẫn đăm đăm nhìn theo: dưới ánh lửa, hai con mắt người con gái lại càng sáng, đôi má lại càng hồng.
Sinh ngẫm nghĩ:
- Quái, không lẽ hai vợ chồng lái đò cục kịch thế kia lại có người con gái thanh tao như vậy. Cái thân kia phủ tấm áo đã bạc rách, nghĩ kể cũng đáng thương, đôi má kia nỡ nào để chịu gió sương mà hai tay kia tháng ngày dầm nước lạnh, mó cá tanh, sao cho xứng đáng.
Sinh đến gần chỗ đun nước, bảo người con gái:
- Trên thuyền có củi, cô cho mấy thanh củi to để tôi ra sưởi; đi thuyền không quen, chân tay tôi giá lạnh giá cả.
Người con gái rút ở dưới khoang thuyền mấy thanh củi, rồi nói:
- Thưa ông, ông chịu khó ngồi róm lửa lấy mà sưởi, cháu còn mắc cầm lái.
Sinh tò mò hỏi chuyện:
- Cô ngồi cả đêm thế không lạnh sao?
- Thưa ông, quen đi... vả lại cháu chỉ ngồi đến nửa đêm, thầy cháu đi ngủ sớm, nửa đêm lại ra thay.
Sinh nói đùa:
- Cô có lạnh vào mà sưởi, để tôi ra cầm lái cho.
- Ông cầm không quen, đâm vào bờ thì chết!
Cô nói xong cúi mặt, mỉm cười. Sinh giơ hai tay lên sưởi, nói:
- Thuyền này to mà sao ít người thế cô?
- Chuyến về, xuôi nước thuận gió, chúng cháu không phải lấy thêm người chở đò.
- Làm nghề này về mùa rét vất vả lắm nhỉ?
- Chúng cháu quen đị..
- Cô xuống làm dưới thuyền này được bao lâu?
Người con gái ngửng lên, hình như lấy làm lạ cho câu hỏi vẩn vơ nhưng cũng trả lời:
- Chúng cháu làm nghề này từ thuở bé; thầy u cháu đã già, tuy nghề vất vả nhưng vẫn phải làm, vì không làm không có cái ăn.
Sinh nhìn kỹ tay người con gái, thấy tay tuy nhỏ nhắn, xinh xắn nhưng làm lụng nhiều nên đã sàm sạm đen, nhiều chỗ thành chai, tự nhiên đem lòng thương; tự sự thương một người con gái đẹp đến sự yêu tưởng không xa lắm. Sinh nhìn vào mặt người con gái hỏi vẩn vơ:
- Cô cả đời ở dưới thuyền chắc buồn lắm nhỉ?
Bấy giờ ngoài mặt sông bóng trăng rọi xuống như sắc hoa bạc trên làn sóng... còn ngoài xa thì sương đêm mờ mờ, chiếc thuyền như đi trong một thế giới mơ mộng, mà trong cái cảnh như thực hư ấy, Sinh tưởng chừng đương ngồi đối diện một người tiên nữ trá hình làm người con gái chở đò...
- Cô vào ngồi đây sưởi cho đỡ lạnh, bây giờ đương ở giữa sông thì bẻ lái thẳng mặc cho thuyền nó đi.
Người con gái nghe lời, vào ngồi bên lửa giơ tay sưởi. Sinh để tay lên tay người con gái nói:
- Tay cô lạnh giá cả, tội nghiệp quá!
Nhìn đến cô bé thì cô bé vẫn điềm nhiên như không, cho Sinh sờ tay mình là tự nhiên, cười nói một cách ngây thơ:
- Ngồi đây ấm quá nhỉ, nhưng ấm quá chốc nữa ra lại lạnh.
- Ấy cứ ngồi bên tôi là ấm.
Người con gái lại cười một cách ngây thơ. Sinh âu yếm hỏi:
- Cô em năm nay bao nhiêu tuổi?
- Mười tám hay mười chín tuổi, tôi cũng chẳng nhớ.
- Thế cô em tên gọi là chi?
- Tên tôi là Duyên.
Sinh ngạc nhiên:
- Tên cô là Duyên à?
- Vâng tên tôi là Duyên, có gì mà ông lạ.
- Lạ vì tên tôi là Kim, tên hai người chắp lại thành Kim Duyên.
Người con gái như không hiểu, hỏi:
- Kim Duyên nghĩa là thế nào?
- Là cô với tôi có duyên với nhau.
Cô bé cười ... nhưng vẫn cái cười ngây thơ như trước.
Sinh nói mấy câu ngụ ý, người con gái đều không hiểu cả, chỉ trả lời bằng mấy câu mộc mạc, hay cười một cách ngây thơ. Sinh càng nhìn người con gái càng thấy xinh đẹp, cái vẻ đẹp lộng lẫy dẫu ai trông thấy cũng phải cảm, huống chi như Sinh ngồi đối diện tha hồ ngắm nghía, trên trời dưới nước, riêng mình một tuyệt thế giai nhân.
Nhưng Sinh lấy làm chán nản vì không ngờ tấm linh hồn chất phác, mộc mạc ấy lại có thể ẩn dưới cái hình sắc đẹp đẽ đến như thế, khác nào chiếc áo nâu bạc rách bao phủ lấy tấm thân ngà ngọc, tuyệt mỹ kia.
Sinh ngồi sát vào người con gái: cô con gái không nói gì, vẫn một nét mặt thản nhiên, hai con mắt xinh đẹp vẫn một vẻ vô tình. Sinh nắm lấy tay người con gái, nhìn thẳng vào mặt, âu yếm hỏi:
- Cô Duyên...
Cô bé, khẽ hất tay ra, gọi to:
- Thầy ơi, sắp đến đống mía rồi, thầy ra mà kéo dây.
Sinh đứng dậy lùi vào trong khoang, vờ cầm chén uống nước - nhưng mãi cũng không thấy ông cụ lái đò ra. Sinh biết người con gái lúc nguy cấp vờ gọi cha cầu cứu, lại toan đến gần chỗ người con gái ngồi, nhưng chép miệng nói một mình:
- Vô ích! Ra làm gì? Ích lợi gì? Một người con gái xinh đẹp đến thế mà ta không thể nào yêu được, mà người đó cũng không thể nào yêu ta, không biết yêu là cái gì! Còn làm xiêu lòng người để mua vui một lúc thì không nỡ... thôi chỉ thế này thôi, chỉ thế thôi để gọi là giữ cái kỷ niệm một đêm đông trên thuyền cùng người con gái đẹp. Rồi sau đây... cuộc đời mỗi người đi về mỗi ngả...
Sinh giở chăn đắp, ngủ một giấc, tờ mờ sáng hôm sau mới dậy. Lúc bấy giờ thuyền vừa đến làng Sinh. Sinh từ giã hai vợ chồng lái đò và người con gái lên bờ. Người con gái còn đứng trên mũi thuyền trông theo, gió trên sông đưa mấy tà áo nâu bạc phất phơ... Sinh lát lát quay cổ trông với lại để thu vào trong trí nhớ cái hình ảnh của một người con gái đẹp chắc không bao giờ Sinh lại còn thấy một lần nữa.
Nhưng một sự tình cờ lại làm cho Sinh gặp người con gái ấy một lần thứ hai... từ lần gặp gỡ trước đến bây giờ đã mười năm.
Trong mười năm ấy Sinh đã lấy vợ, đã có con, cuộc đời vẫn đi như dòng nước chảy.
Sinh một hôm, bận chút việc phải đi đò liền gọi một chiếc thuyền đánh cá thuê chở. Một người đàn bà, bế con ở trong khoang thò đầu ra hỏi:
- Ông muốn thuê thuyền...

Sinh nhìn kỹ người đàn bà, sửng sốt buột miệng nói:
- Cô Duyên!
Người đàn bà cũng ngạc nhiên:
- Ông biết tên tôi?
- Cô không nhớ saọ.. Cô không nhớ người đi đò từ Pha? Lại mười năm về trước...
Sinh nhìn người đàn bà thì người ấy vẻ mặt ngẩn ngơ như không hiểu, không nhớ rạ mà Sinh thì không thể lầm được.
Người đàn bà không để ý đến Sinh, quay mặt vào trong khoang nói:
- Thầy cháu ra có ông khách hỏi thuê thuyền.
Người chồng đi ra, đầu quấn chiếc khăn nâu, mình mặc áo cộc nâu, quần vuông lá tọa, vẻ mặt xấu xí, nói:
- Mời ông xuống, chúng cháu chở...
Sinh ngồi xuống ở mũi thuyền, nhưng vẫn nhìn đăm đăm vào người đàn bà; mười năm đã qua, mà trông vẫn phảng phất như người con gái năm xưa. Tuy đã đứng tuổi nhưng vẫn một vẻ đẹp lộng lẫy, tươi tắn như khi còn là con gái. Sinh nhìn người đàn bà, nhìn đến người chồng, đến đứa con trong lòng mẹ, nghĩ đến cái mơ mộng của mình mười năm về trước, thở dài lẩm bẩm:
- Cuộc đời! Cuộc đời người ta như thế đấy! Mà chỉ có thế! Ta tưởng người con gái đẹp thì không thể nào sống trong cảnh nghèo hèn được, ta ái ngại, ta thương... nhưng người con gái đẹp mà ta thương đây không biết mình là khổ, không bao giờ nghĩ đến xem mình có khổ không, vô tình thản nhiên sống theo cảnh đời họ... như dòng nước sông kia chảy trong lòng sông.
Sinh bùi ngùi, cúi mặt ngắm dòng nước, ngắm mấy cái rác, tan tác mỗi cái trôi về một phía... khác nào hình ảnh cuộc đời của Sinh với cuộc đời của người con gái chở đò, mỗi bên đi về mỗi ngả, không bao giờ gặp nhau.
Người đàn bà không để ý đến Sinh, vẻ mặt thản nhiên như không biết mình vui hay khổ, không biết mình là xinh đẹp, như không bao giờ nghĩ đến rằng người đẹp như mình có xứng đáng với cái cảnh đời ấy không... vô tình khẽ cất tiếng hát ru con:
... Nước chảy đôi dòng...
... Con sông Thương... nước chảy đôi dòng...
Ngày 22 tháng 12 năm 1932
Tình Ðiên
Khái Hưng
Ánh sáng vàng úa của vừng thái dương đỏ chót như còn do dự ở chân dẫy tre già cao vót, rì rào, kẽo kẹt.
Luồng gió mát về chiều vừa đánh thức xóm Hồng Thủy miên man ngây ngất trong bầu không khí nồng nực của buổi trưa mùa hạ. Nào tiếng cười đùa của các cô gánh nước xúm sít nhau bên bờ giếng, nào tiếng ca hát của bọn mục đồng cưỡi trâu bò về chuồng, nào tiếng cãi cọ của trẻ con đuổi chạy quanh mấy gốc đa già trên tòa miếu cổ.
Bỗng trẻ con rời bỏ gốc đa, kéo ùa ra đường và cất tiếng reo:
- Cô điên! A! Cô điên!
Trên con đường hẹp ngoằn ngoèo lượn theo cái lạch nhỏ, bờ trồng cây, lá xanh um, một người con gái chừng mười tám tuổi, tóc bỏ xõa, đương vừa đi vừa lẩm bẩm nói một mình.
Thấy lũ trẻ chạy, reo cười, cô đưa bàn tay lên xua, ra hiệu bảo im đi, rồi lại lẳng lặng cúi đầu đi thong thả như đương cặm cụi theo sau một vật gì, một cái xe chẳng hạn. Bọn trẻ trỏ tay bảo nhau:
- Cô ấy đưa đám ma đấỵ
Một đứa nói:
- Sắp đến huyệt rồi.
Quả thực, khi đi đến cái rãnh xẻ để tát nước vào ruộng, người con gái đứng dừng lại, đăm đăm nhìn, như ngắm người ta đương hạ cái áo quan xuống huyệt. Nước mắt cô từ từ nhỏ giọt. Một lát sau, cô quỳ xuống bới đất lấp kín rãnh, rồi nằm phủ phục, khóc nức nở, không ra tiếng. Ðứng xúm xít chung quanh đàn trẻ thi nhau cười như nắc nẻ.
Bỗng cô ngước mặt lên nhìn lên, mỉm cười, rồi như nói với ai đứng bên cạnh:
- Em cảm ơn anh... anh thương em quá... Ðương lúc em đau đớn mà anh lại đến an ủi em thế nàỵ.. Vâng, em xin tuân theo lời anh dạỵ
Chỗ này cô đổi giọng ồm ồm bắt chước tiếng đàn ông:
- Em nghe anh, không nên buồn nữa, không nên khóc nữa.
Rồi cô lại mỉm cười nói giọng tự nhiên, làm như hai người chuyện trò với nhau vậy:
- Không em có buồn nữa đâụ Ở trên đời còn có anh thì em không bồ côi bồ cút đâu mà sợ.
Có lúc cô đứng lặng, hé cặp môi son chú hết tinh thần như đương nghe ai se sẽ thì thầm bên tai.
Ðã hơn một tháng nay, từ hôm cô về làng Hồng Thủy ở với bác để điều trị bịnh thần kinh, chiều nào cô cũng nhắc lại những cử chỉ, những ngôn ngữ như thế, đến nỗi bọn trẻ con trong làng cứ tới giờ ấy là xúm nhau đứng sẵn ở gốc đa bên miếu để chờ cô đi qua. Chúng biết trước rất rành mạch hết mọi sự sắp xẩy ra, từ việc làm cho chí lời nói của cô. Mà hôm nào cũng chỉ đi đến chỗ đương xẻ là cô lại quay về. Trước kia những người tát nước còn ngăn cản không cho cô lấp đất. Nhưng sau thấy cô khóc lóc lạy van khẩn khoản, họ đem lòng thương hại, để mặc cô muốn làm gì thì làm, chờ khi cô đi khuất, họ lại khơi rãnh ra.
Lúc trở về nhà cô đi mau hơn, nết mặt vui tươi, cười cười, nói nói như được cùng người yêu chuyện trò thân mật.
Bỗng khi đến gần nhà, cô lại bưng mặt khóc.
Bọn trẻ thấy cô đang cười, mà khóc ngay được thì cùng nhau cười vang xóm. Như không nghe thấy gì, cô chỉ nức nở nói một mình:
- Vậy ra anh lừa dối em... Anh bỏ em... chơ vơ một mình... một bóng... anh đi lấy vợ.
Một hôm đắp xong cái mồ tưởng tượng, cô ngước mắt nhìn lên vừa nói dứt câu: "Em cám ơn anh" thì bỗng cô ngừng bặt.
Trước mặt cô, một trang thiếu niên vận Âu phục đứng nhìn cô có vẻ thương hại, đau đớn. Cô ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi:
- Có phải anh Linh của em Cúc đây không?
Chàng mỉm cười gật sẽ.
Cô cúi mặt xuống nũng nịu:
- Anh bỏ em, anh đi mãi.
Chàng đuổi bọn trẻ đi theo trêu ghẹo, rồi đưa cô Cúc về nhà.
Ông bác cô ra đón chào khách:
- Cảm ơn ông, cháu nó ốm đã mấy tháng nay. Thuốc uống đã nhiều mà vẫn không chuyển. Tôi lo quá, cậu mợ cháu chết đi chỉ được có một mình cháu.
Chủ nhà mời khách ngồi chơi uống nước. Trong khi ấy thì cô Cúc chú mục đứng nhìn hai người nói chuyện. Chủ hỏi:
- Thưa ông, ông học trường thuốc, vậy ông có biết căn bệnh này không?
Khách đáp:
- Ðầu đuôi bệnh trạng ra sao, xin cụ kể lại cho tôi nghe xem.
- Thưa ông, nào có gì đâu. Hồi tháng hai năm ngoái...
Thấy cô Cúc đứng lắng tai nghe chuyện, khách bảo sẽ chủ:
- Giá Cụ bảo cô ấy vào trong nhà đã rồi hãy nói chuyện thì hơn.
Khi Cúc đã ngoan ngoãn theo lời bác lẳng lặng vào buồng, cu. Tú Vụ liền kể cho khách nghe cậu chuyện sau này:
"Cúc bồ côi cha từ năm lên mười. Mẹ cô nhà cũng khá, cho cô đi học, và hiện cô đang theo học năm thứ ba trường Sư phạm. Mẹ cô có mình cô nên rất mực chiều chuộng, mà cô thì cô yêu quý mẹ lắm.
Bỗng tháng hai năm nay, mẹ cô ốm. Hơn một tháng cô hết sức trông nom, đến nỗi người cô sút hẳn đi. Nhưng bệnh ho của mẹ cô một ngày một trầm trọng, rồi đến đầu tháng tư thì mẹ cô chết.

Cô thương xót khóc lóc không ai khuyên can nổi. May sao có một cậu, cậu Linh, sinh viên trường Ðại Học, khi còn mẹ cô, vẫn khi tới chơi nhà, vì chàng thấy cô có nhan sắc thì đem lòng thương trộm yêu thầm. Trong khi đau đớn, khổ sở, ngày ngày có chàng đến an ủi, Cúc cũng nguôi dần.
Sang tháng sau, nghĩa là cách đây hai tháng, chàng vừa tốt nghiệp trường Cao đẳng ra, liền về thẳng nhà, bo? Cúc trơ trọi ơ? Hà Nội. Cái ngày mà Cúc được tin Linh cưới vợ là ngày bệnh điên của cô bắt đầu phát."
Khách nghe câu chuyện, buồn rầu, ngồi ngẫm nghĩ. Cu. Tú thấy chàng không nói gì, lại hỏi:
- Vậy ông cho nó là bệnh gì?
- Thưa cụ, cô Cúc chắc bị một định kiến thôi miên.
- Ông tính có thể chữa được không?
- May ra thì được... Phải chữa mẹo.
Rồi chàng ghé vào tai cu. Tú thì thầm:
- Từ nay trước mặt cô Cúc, xin cụ gọi tôi là Linh, và cụ dặn người nhà cùng những người quen thuộc cũng vậy.
Cu. Tú mỉm cười, không hiểu:
- Nhưng tôi sợ nó biết tên thực ông là Giao rồi.
- Cụ không sợ. Tôi mới gặp cô ấy lần này là một.
- Thưa ông, ông có thể giảng nghĩa cho tôi hiểu không?
- Thưa cụ, bây giờ tôi chưa có thể giảng nghĩa được, sợ tiết lộ bí mật. Ðể chờ khi cô Cúc khỏi đã hãy hay.
Cu. Tú lại mỉm cười:
- Cách chữa bí mật thế kia à?... Nhưng ông còn ở chơi nhà lâu không?
- Thưa cụ, còn những một tháng kia. Chắc đủ thì giờ.
Từ đó, chiều chiều Cúc đưa cái đám ma tưởng tượng của mẹ tới chỗ đường xẻ lại gặp Giao mà cô vẫn tưởng lầm là Linh.
Mấy hôm đầu, Giao còn để vậy cho Cúc đắp mộ, cùng khóc lóc rồi ngước cặp mắt âu yếm bảo chàng:
"Vậy ra anh Linh của em không lừa dối em đấy chứ?"
Chàng cầm tay cô, mỉm cười nhìn vào mắt sẽ đáp:
- Khi nào anh Linh của em lại nỡ lừa dối em.
- Thế anh chưa lấy vợ chứ?
- Chưa em ạ!
- Thế anh chờ em chứ?
- Cái đó thì đã cố nhiên. Khi nào em khỏi hẳn thì anh sẽ cưới em làm vợ.
- Nhưng em có ốm đâu mà anh bảo em khỏi?
Giao cười:
- Em không ốm, nhưng mà em còn mê man tinh thần. Kìa em coi, cô con gái đẹp, ai lại đi nằm xuống đất để đến nỗi lấm láp thế kia? Mà ai lại đi chân không như thế kia bao giờ?
Cúc bẽn lẽn nhìn xuống chân, lấy tay phủi bụi bám vào quần áo.
Dần dần Cúc đã biết chăm đến sự điểm trang, chân đi dép da láng, quần áo chải chuốt, tóc vấn cẩn thận.
Một hôm, cô vừa toan quì xuống đắp mả, thì Giao giữ lại bảo:
- Nếu em muốn anh yêu em thì em đừng vầy đất nữa kia.
Cúc mỉm cười, cặp mắt sáng quắc nhìn Giao:
- Nhưng em có vầy đất đâu? Em đắp mồ cho mẹ em đấy chứ.
- Em quên à? Mẹ mất ơ? Hà Nội kia mà?
Cúc ngơ ngác:
- Thế đây là đâu?
- Ðây là làng ta và chỗ này là cái rãnh xẻ để tát nước.
Cúc ngần ngừ có ý nghi hoặc, nhưng hình như sợ hãi người yêu, nên không dám đắp đất nữa.
Nhờ về những ống tiêm thuốc bổ, và nhất là nhờ về tình âu yếm dịu dàng của Giao, bệnh thần kinh của Cúc một ngày một thuyên giảm. Rồi nửa tháng sau, tuy Cúc vẫn còn mê sảng, nhưng sự đi theo đám ma hình như đổi hẳn ra một cuộc đi chơi mát của đôi bạn trẻ. Vì tình nhân loại, Giao một ngày một thêm đằm thắm, thân mật. Còn Cúc thì ngày một thêm chăm chỉ đến sự điểm trang.
Một hôm, chàng đến hơi trễ. Cúc y phục chỉnh tề, quần trắng, áo trắng, mái tóc rẽ lệch, đương đi đi, lại lại, băn khoăn khó chịu ở trước cửa. Vừa thoáng thấy chàng ở đàng xa, cô chạy vội lại, trách:
- Sao hôm nay anh đến muộn thế? Em giận lắm. Ðã đến giờ đưa đám rồi.
Giao nét mặt nghiêm nghị, đáp sẽ:
- Nếu em không bỏ cái tính giận dữ đi thì anh không yêu nữa đâu. Nhất là em không được quên rằng mẹ em mất đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến rủ em đi chơi mát, không phải đi đưa đám. Em cố nghĩ lại xem.
Không biết Cúc có nhớ ra không, nhưng vì sơ. Giao không yêu, nên khi thấy chàng hỏi lại rằng đã nhớ ra chưa, thì cô tươi cười đáp liền:
- Em nhớ ra rồi. Mẹ em mất những bốn, năm tháng trước.
Giao gật:
- Em Cúc của anh ngoan lắm. Vậy mai hễ gặp anh thì em phải nhắc lại cho anh nghe cấu ấy, anh sẽ yêu thực nhiều, nhé!
Hôm sau, Giao lại đến trễ hơn, nhưng không những Cúc không tức giận, cô lại còn vui vẻ đến chào chàng, rồi như đứa học trò nhỏ, ôn lại câu chàng dặn:
- Mẹ em chết đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến rủ em đi chơi mát, chứ không phải đi đưa đám. Vậy anh có yêu em không?
Giao cười, lấy tay đập se sẽ vào má Cúc:
- Anh yêu em lắm.
Câu trả lời khiến Giao ngẫm nghĩa, mỉm cười.
Rồi câu ấy ngày nào chàng cũng nhắc đi nhắc lại, nhắc đi nhắc lại vì lòng nhân từ hào hiệp đối với một người khốn khổ.
Một hôm ngồi một mình, chàng bỗng buộc miệng như nói với người trong mộng:
- Anh yêu em lắm!
Chàng ngơ ngác nhìn quanh phòng như sợ hãi một sự huyền bí. Vì chàng nhận rằng câu ngẫu nhiên ấy nó ở tự đáy trái tim, tận cùng linh hồn thốt ra và không còn ngụ một ý nghĩa nhân từ hào hiệp nữa.
Hôm ấy chàng đi thong thả trên con đường đất ngòng ngoèo lượn theo cái lạch nước nhỏ. Lòng chàng bối rối, sự buồn rầu lộ ra nét mặt.
Chàng có ngờ đâu từ thương tới yêu, con đường lại ngắn đến thế. Cái lòng thương nhân loại, thương những sự yếu hèn, đau đớn của loài người, chàng có ngờ đâu lại trở nên tình ái!
Song chẳng lẽ yêu một người điên, tuy người điên ấy là một trang thiếu nữ tuyệt sắc! Phải chăng chàng chỉ yêu cái hào nhoáng bên ngoài?
Không phải. Quyết là không phải.

Chàng vừa đi vừa cố phân chất, cố giải phẫu những tính tình của chàng như chàng đã đem khoa học mà tìm căn nguyên bệnh thần kinh hệ của Cúc. Khi chàng đã đưa tư tưởng đi ngoắt ngoéo hết các con đường khúc khuỷu trong tâm trí, thì chàng mỉm cười, vì trong lúc mê muội, chàng chỉ nhận ra được có một điều là chàng yêu.
Cái tình yêu ấy, cỗi rễ ở lòng thương mà ra cũng có, nhưng nhất là ở sự tìm thấy một linh hồn khác thường, linh hồn dịu dàng, chất phác ngớ ngẩn của một cô gái điên. Mà ba cái tính tình dịu dàng, chất phác, ngớ ngẩn ấy lại rất dễ cảm động lòng người.
Nhớ lại những câu nói tự nhiên của Cúc chàng cảm thấy hay hay, nũng nịu vừa như tiếng trẻ thơ, vừa như giọng âu yếm của ái tình.
Chàng thực yêu rồi, yêu một cách vô lý, nhưng yêu một cách nồng nàn và vơ vẩn. Mà chỉ còn một tuần lễ nữa là chàng đã phải từ biệt người chàng yêu. Biết đâu khi chàng đi rồi, bệnh điên kia đã thuyên giảm bội phần, đã hầu như khỏi hẳn, lại không nặng như xưa? Xa sự dịu dàng, xa sự âu yếm của chàng thì Cúc khó lòng khỏi được. Rồi cái thân mềm mại kia đáng lẽ phải chứa một linh hồn lanh lợi sẽ không còn đựng một mẫu trí thức cỏn con.
Chàng nghĩ thế thì chàng càng thấy buồn, càng thấy khổ, càng thấy thương, càng thấy yêu. Cái nhân loại bé nhỏ, hèn yếu mà xưa kia chàng vẫn muốn đem hết tâm trí, đem hết tinh thần ra thương yêu, nay đối với chàng hình như chung đúc cả vào cái thân thể mảnh dẻ của cô gái điên.
Bước thong thả, hai tay chắp sau lưng, chàng băn khoăn tư lự. Bỗng vừa rẽ một chỗ đường ngoặt, chàng thấy sừng sững trước mặt chàng cô Cúc, vận quần áo đại tang. Cô ngả đầu, lễ phép chào chàng, rồi buồn rầu cất tiếng run run nói sẽ:
- Thưa ông, tôi...
Cô chỉ nói được có thế. Nước mắt cô ứa ra, khiến cô nghẹn lời. Giao vội hỏi:
- Có sự gì thế em? Em Cúc của anh... của anh Linh?
Cúc đưa khăn tay lên lau nước mắt, lạnh lùng bảo:
- Ông nói dối! Ông không phải là ông Linh. Ông không thể là ông Linh được!
Hai giọt nước mắt ngập ngừng dưới cặp mi, Giao lo lắng, khổ sở, đăm đăm nhìn Cúc. Cúc bỗng cười ngất, cái cười khoái lạc mà Giao cho là cái cười vô nghĩa lý, vô ý thức của người điên. Chàng sung sướng cũng mỉm cười, vì chàng cho là tri thức của Cúc tuy còn đương ở vào giữa chỗ tự tri và vô tri, nhưng đã hơi chịu xét đoán. Hy vọng lắm rồi!
Nhưng nếu ông thầy thuốc hy vọng, thì người yêu liệu có hy vọng được không? Giao mỉm cười, cái mỉm cười của ông thầy thuốc, của nhà khoa học. Phải, nếu Cúc biết suy xét, biết nhận rõ sự thực hư thì liệu Cúc có còn giữ mối cảm tình đối với người mà Cúc nhận lầm là Linh nữa không? Ông thầy thuốc lại mỉm cười, cái mỉm cười tự cao, tự đại. Giao nghĩ thầm: "Ta hãy bỏ lòng ích kỷ mà mong cho Cúc khỏi hẳn bệnh đã."
Ngắm Giao có vẻ tư lự, Cúc hình như cố nhịn cười mà nhắc lại lời chàng dặn bữa nọ:
- Mẹ em mất đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến để rủ em đi chơi mát, chứ không phải đi đưa đám. Vậy anh có yêu em không?
Cô nói dứt câu, bẽn lẽn cúi xuống nhìn dòng nước chảy. Giao cười ra dáng đắc chí, trả lời:
- Anh yêu em lắm chứ!
Hai người yên lặng đi bên cạnh nhau. Bỗng như vì sự sung sướng xúc động tâm hồn, Cúc lim dim cặp mắt như mộng, cất tiếng nói:
- Này anh ạ! Em chỉ muốn suốt đời được cùng người yêu ở trong cái cảnh dịu dàng, êm ái này. Anh hãy trông: con đường quanh co dưới bóng lá cây um tùm, bên dòng nước trong như lọc, thực Tạo hóa đã riêng gây nên để tặng hạng người biết yêu thưởng thức.
Giao mỉm cười:
- Em làm thơ đấy à? Anh xét ra có hai hạng người thích ngâm vịnh và có tài ngâm vịnh, là hạng người thi bá và hạng điên rồ.
Cúc nghiêng cái đầu hơi rung động, mái tóc se sẽ lung lay trước cơn gió chiều. Và nàng hỏi lại:
- Vậy anh cho em là người điên hay là thi sĩ?
- Em vừa là điên vừa là thi sĩ?
Cúc cười ngất:
- Thế thì anh lầm.
Cô ngẫm nghĩ mấy giây, rồi nói tiếp:
- Nhưng không, anh nói đúng đấy: vì xét kỹ thì em điên thực, mà khổ cho em, em lại tự biết em điên.
Giao sửng sốt nhìn Cúc lấy làm lạ rằng lời nói của người điên sao lại có luận lý đến thế. Chàng ngờ vực, lẩm bẩm: "Không có lẽ". Nhớ lại những câu hỏi thứ nhất của Cúc, khi Cúc mới gặp chàng ban nãy, Giao càng nghi lắm. Nhưng bây giờ thì sự nghi hoặc của chàng làm cho chàng sung sướng. Chàng mỉm cười, nghĩ thầm: "Có lẽ thế chăng?"
Ðêm hôm ấy ở ấp Hồng Giang và ở làng Hồng Thủy có hai người thức suốt sáng.
Hôm sau, mặt trời vừa rạng đông, trên con đường từ ấp tới làng, quanh co bên cái lạch nước nhỏ, đã thấy Giao thung thăng bách bộ. Chàng tới Hồng Thủy làm gì sớm thế? Ðến chàng, chàng cũng chẳng biết tại sao.
Tới cổng nhà cu. Tú Vụ, chàng đã toan đi qua không vào, nhưng có cái mãnh lực gì nó giữ chân chàng lại. Chàng mỉm cười, chép miệng rồi gọi cổng.
Gặp chàng, cu. Tú vui mừng, nhưng không thể không lấy làm lạ về sự đến chơi sớm quá như thế. Chừng chàng cũng đoán được ý nghĩa của cụ, nên nói chống chế ngay:
- Thưa cụ, hôm nay tôi lại sớm là vì thứ thuốc bổ này cần phải tiêm vào buổi sáng.
Cu. Tú chắp tay cung kính trả lời:
- Xin cảm ơn ông. Mời ông ngồi chơi để tôi gọi cháu nó ra.
Cúc nằm ở buồng bên cạnh nghe rõ tiếng Giao, trong lòng mừng rỡ, nhưng vờ ngủ mê mệt hai, ba tin gọi cũng không dậy. Là vì đêm hôm trước, không chợp mắt, cô sợ sự mệt nhọc làm mất vẻ kiều mị của cô, nên cô muốn tránh mặt người yêu. Còn Giao nghe có tiếng gọi mà Cúc vẫn ngủ mê thì gạt đi mà nói rằng:
- Thôi để lát nữa tôi trở lại cũng được.
Cu. Tú lấy làm ngượng, đáp:
- Thế thì làm phiền ông quá. Ông để tôi vào đánh thức cháu dậy.
- Không nên, cụ ạ. Phải để cho cô ấy nghỉ chứ. Người mắc bệnh thần kinh hệ cần nhất là phải ngủ nhiều.
- Cảm ơn ông, tôi không biết lấy gì trả ơn ông cho xứng đáng. Thực ông đã cải tử hoàn sinh cho cháu. Bệnh cháu mười phần đã khỏi đến quá chín rồi.
Giao mỉm cười:
- Thưa cụ, có gì mà cụ phải nói đến ơn với huệ? Bổn phận của loài người là phải cứu giúp lẫn nhau, khi mình có thể cứu giúp được. Nếu cô Cúc qua khỏi cái tai nạn này thì tôi sẽ sung sướng suốt đời. Há chẳng phải cụ là ân nhân của tôi sao?
Chàng biết mình nói hớ, - mà câu nói hớ ấy chàng có ngờ đâu đã khiến ở buồng bên Cúc cười thầm - nên nói chữa ngay:
- Vì cụ đã giúp tôi được có cái hân hạnh, cái hạnh phục làm nổi một công cuộc gọi là có ích cho đời.
Trong năm hôm sau chót, Giao và Cúc luôn luôn cùng nhau dạo chơi bên dòng nước. Hình như hai người đều tưởng đến ngày ly biệt sắp tới, nên tình bè bạn càng thêm thân mật. Có hôm buổi sáng sớm, không hẹn hò mà hai người cùng lang thang dưới rặng cây, rồi gặp nhau ở giữa đường. Tuy hai người không hề ngỏ ý với nhau, nhưng cùng hiểu rằng thời giờ gặp gỡ chỉ còn có trong ít bữa, những buổi chiều ngắn ngủi sao đủ giải tỏ nổi lòng yêu?
Mà câu chuyện thì có gì đâu! Quanh quẩn chỉ nước cùng trời, chỉ cây cùng cỏ, vì cái mục đích nói chuyện để giúp bệnh nhân biết tự suy xét theo lối khoa học nay không còn ở trong ý nghĩ của Giao nữa. Nay chàng nói chuyện là vì một lẽ khác hay đúng hơn, chẳng vì một lẽ gì nữa.
Ðối với chàng thì câu chuyện ấy là câu chuyện thường, câu chuyện tự nhiên, câu chuyện để có chuyện. Song trái lại, về phần Cúc thì có khi cô lại phải cố ý nói ngớ ngẩn một vài câu để chàng tưởng rằng cô thỉnh thoảng vẫn còn điên. Cô muốn thế để đứng trước mặt Giao cô đỡ bẽn lẽn, cái bẽn lẽn tự nhiên của một cô gái tơ đứng trước mặt một chàng tuổi trẻ.
Chiều hôm nay là một buổi chiều từ biệt của hai người. Ngày mai, Giao phải rời Cúc để vào trường thuốc.
Cúc vừa gặp Giao, cảm động quá, buộc miệng gọi:
- Anh Giao!
Hai cặp mắt nhìn nhau. Hai linh hồn, hai trái tim: một ý tưởng.
Sự yên lặng kể lể biết bao nỗi thương yêu!
Dịu dàng, âu yếm, Cúc đặt đầu vào vai Giao, ngước mắt nhìn lên mỉm cười.
Giờ lậụ. Giao ghé tận tai Cúc thì thầm:
- Chúng ta điên.
Cúc cười khẽ gật.
Nhất Linh - Khái Hưng
Theo https://vietmessenger.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...