Thứ Năm, 28 tháng 11, 2019

Phấn thông vàng

Phấn thông vàng 
Thay lời tựa
Những truyện này không có chi là truyện cả. Người ta không hiểu nhau, thường thường chỉ vì không nói cho nhau biết trước dụng ý của mình: người mua mất thì giờ tìm kiếm trong một chỗ chỉ bán hoa, và một kẻ thích những cái rộn rịp dễ dàng của chiếu bóng lại lấy vé vào xem diễn kịch.
Xin đừng tìm trong “Phấn Thông Vàng” những truyện có đầu có đuôi, có công việc, có sáng hôm trước và chiều hôm sau. Ở đây chỉ có một ít đời và rất nhiều tâm hồn, hợp lại thành bao nhiêu nghĩ ngợi bâng khuâng, không cốt để giải trí người ta, mà trái lại, để xui trí người ta thêm bận vẩn vơ lưởng vưởng.
Nếu có những tác giả trỏ cho ta thấynhững nhân vật có chân tay, mặc quần áo, ở trong nhà cửa, giao thiệp với láng giềng, nếu có những tác giả gợi chuyện thích tai ta, thì cũng có những người chỉ đưa ta vào lẫn trong một thứ mù sương... Họ không có chuyện gì rõ rệt mách cho ta nghe, nhưng họ cũng rất nhiều chuyện. Sắc màu của ngày tháng, bóng dáng của cuộc đời, những ý nghĩ làm ta nghiêng đầu những tình tứ mênh mông những cái ngẩn ngơ, những niềm thương xót, họ đều đem ra làm đầu đề kể chuyện. Mà đó nào phải chỉ là thơ trá hình ra văn xuôi! Trong những bài văn ấy không phải là thơ tản văn, không phải là bút ký; cũng không hẳn là truyện ngắn: ấy là tất cả các lối ấy hợp với nhau lại.
Vì cảnh ngoài cảm xúc tới, người viết văn đem ghi lại sự đã xảy ra; nhưng viết xong, họ thấy rằng họ chỉ chép những âm điệu của lòng mình. Mà câu chuyện vẫn còn đó để làm vì, để lấy cớ; câu chuyện cũng như một cái giá để mắc áo, một cái giàn cho hoa. Cốt nhất không ở nơi cái giá hay cái giàn, mà ở nơi gấm vóc lụa là, ở nơi chùm thiên lý và mấy con ong: Kể gì cái truyện! Chàng này, nàng kia, hay ông nọ có hệ trọng đâu! Miễn là có những ý tưởng chảy thành tràng giang, những tình cảm toả ra một bóng chiều ôm ấp một trái tim đương đập theo nhịp đời... Truyện ư? Một tí truyện ở ngoài cũng đủ gợi trăm chuyện trong cõi sống bên trong. Tâm hồn người có biết bao là chuyện!
Viết hẳn ra bút ký hay là thơ tản văn, như thế có lẽ rõ trắng rõ đen hơn. Nhưng cuộc đời đem đến những bài thơ có truyện, và những câu truyện có thơ, thì tất nhiên chúng ta cũng được ở lưng chừng trên hai biên giới.
Lối tiểu thuyết ý tưởng vẫn là một lối văn phong phú, khác với lối luận đề tiểu thuyết. Lối này dễ sinh ra miễn cưỡng, cố chấp, vì quyết hãm một câu chuyện theo một chủ nghĩa: lối kia không tranh luận một vấn đề gì cả, vẫn nơi những ý nghĩ, những tư tưởng, nhưng không ràng buộc cho thành một luận đề. Ở lối truyện ý tưởng truyện là một cái cớ để cởi mở tấm lòng; ở lối luận đề, truyện là một phương kế để chiến thắng. Truyện ý tưởng lo phải là truyện khô khan như truyện triết lý: truyện ý tưởng thường gồm các lối: truyện tâm lý, truyện tượng trưng, truyện hí lộng, truyện “kiểu cách” vừa làm duyên, vừa mỉm cười.
Với tập “Phấn Thông Vàng” tôi đã muốn làm một lãng tử không theo phép cũ, bỏ nhà như bọn “chó mèo hoang”, đi theo sức xô đẩy của tâm hồn. Trong phần nhiều “truyện” của tôi, vai chính không phải là một người, mà là một nỗi lòng một tình ý, hay một con vật, một đồ dùng. Phấn Thông Vàng: nào có chuyện gì đâu! đó chỉ là một cách gữi hương cho gió; Thương Vay: một buổi chiều len vào tâm trí; Cái Giây, Cái Giây Không Đứt: sự thực của lòng người và sự thực của ái tình; Sợ: tình yêu lớn và người yêu nhỏ gặp nhau; Chó Mèo Hoang: một bọn bị đời bỏ; Tỏa Nhị Kiều: Một nỗi buồn nhạt; Truyện Cái Giường: hai cuộc đời...
Truyện của tôi chỉ có thế. Tôi rất mong người xem sách không phải là người đi xem án mạng: chỉ muốn biết sự việc thế nào. Bây giờ thì Phấn Thông Vàng thoát rừng để bay đi; đến nơi đâu, “cái ấy tùy lòng gió”.
Hà Nội Février 1939
Xuân Diệu
Phấn Thông Vàng
Họa sĩ đến đó, trong giờ đẹp nhất của buổi chiều. Trưa đã đi, ngày chưa ngả, sắc nắng ở giữa mầu vàng héo và mầu đỏ tươi.
Ấy là một buổi chiều hè, khi nắng chín muồi nhưng còn lâu chưa rụng, ngày như đứng sững để cho sắc vàng đừng trôi chảy hay đổ xiêu; một sắc vàng không rực rỡ nhưng nguy nga, tưởng đã yếu nhưng thực mạnh thầm, lâu dài ngâm nga ở trong không khí.
Họa sĩ mê mẩn làm sao! Rừng thông to lớn, chân cây vững trồng, tiếp nhau không hết. Buổi chiều vàng, có lẽ ở đâu thì chỉ xinh đẹp; ở đây rừng thông, chiều lại thêm lực lưỡng; sự sống không phô bày rõ rệt quá như trong buổi sáng hay buổi trưa, nên thịnh vượng mà có duyên.
Dừng chân đã được một chốc, nhìn lên trời và ngắm chung quanh, họa sĩ nghe trong lòng thơ thới. Linh hồn chàng nở dãn, lập tức cái giá đặt xuống đất khung vải để vừa tầm, và hộp màu mở ra. Chàng bắt đầu họa.
Chiều với rừng lặng lẽ; nhưng sắc vàng phảng phất âm thanh, nắng là một sự hiển hiện rõ rệt và đều hòa, tưởng có thể gõ vào không khí ở trên đầu để nghe sự lặng im rung rinh, xao xuyến. Có lẽ ai nấy cũng đã gặp chàng họa sĩ tóc đen ấy chứ; nếu không thì hãy tưởng tượng đi, và luôn tiện, hãy hình dung cảnh rừng thông. Cảnh có lẽ ở bên Tàu, và người có lẽ ở bên Tây, nhưng chuyện này không cốt nơi chỗ ở, hay cốt chỉ có một chỗ ở: lòng người.
Chàng trai trẻ đứng quệt những màu lên vải, đôi mày nhíu lại chăm chú vào tranh.
Nhưng chàng không thể không cô đơn, khi thấy rừng đẹp, hình thông bóng nắng sẵn sàng làm khung cho một cảnh tự tình. Và lần này, chàng lại buồn rầu thêm một lần nữa.
Chàng không xóa được trong lòng chàng một hình ảnh. Ba hình ảnh thì đúng hơn; nhất là hình sau cùng, nõn nà mà đau độc. Thanh niên của chàng quá xấu số với tình yêu; ba cuộc tình duyên chỉ để lại cho chàng những cay đắng.
Lần đầu, người chàng yêu chỉ coi chàng như một người bạn, thua nữa, như một người anh. Lần thứ hai người ta lãnh đạm hẳn với chàng. Giá ai đâu gặp cảnh ấy, họ sẽ thôi yêu là xong. Chàng, chàng vẫn dõi theo, không chịu thả. Chàng nghĩ rằng hễ yêu thì sẽ được yêu lại, đâu biết rằng sự cố nhiên của lòng mình không cố nhiên chút nào cả, đối với đời.
Và mất bao nhiêu thì giờ, những mơ ước hão, những nhớ thương hoài, những sự gây dựng không đâu của tình yêu bất mãn. Rồi có ngày cũng phải hết: người ta đi lấy chồng.
Đến lần thứ ba. Sau khi đau khổ ê chề, lòng trẻ lại thử sống lại với mùa xuân, bởi vì mỗi khi đi vẽ ngoài đồng, họa sĩ nghiệm rằng lá non mũm mĩm quá. Chàng lại thấy tình yêu mượn hình một người tuyệt sắc, một nữ thần có tóc óng dài và thân hình như tượng xưa.
Người yêu mới cũng yêu chàng. Khi nàng ấy vừa mỉm cười đầu tiên, chàng nói: đời chàng đã tới đích; và khi nàng mở lời dịu ngọt, chàng biết tình yêu của mình đã trọn vẹn về người này. Họa sĩ mê đắm quá; nàng mới tỏ ý cùng yêu mà chàng liền tưởng đó là lời hẹn đời kiếp với nhau.
Thực chàng chỉ đợi một chút yêu trả lại để tung cả linh hồn bị nén bấy lâu, huống chi vị nữ thần của chàng "cũng yêu chàng lắm". Hai lần thất bại, chàng họa sĩ đa tình - một thi sĩ không làm thơ - đâm đầu vào tình yêu, không thể đo đắn gì, cũng như kẻ bị nhử nhiều lần, bèn quyết xông vào cướp lấy bánh.
Kẻ khác đời không khi nào giao thiệp với người thường và khỏi chếch mếch, nhất là trong chuyện tình. Họ ở cao quá chăng? Có lẽ...
"Và sắc đẹp chỉ làm bằng cẩm thạch", câu ấy dường như đúng với người giai nhân. Sau bao phen ráng hợp nhau, chàng họa sĩ phải ngậm ngùi rời nàng, không muốn kéo dài sự sai lạc của bản đàn nữa. Hai người rất muốn chung hợp, song đã không ăn ý, thì thà rời nhau để còn có thể nhớ lại mà thương nhau. Nếu cố gắn, e rồi đến ghét nhau mất.
Và chàng đi, hết chốn nọ đến chốn kia, dạo nỗi bất mãn của mình qua nghìn sông núi. Chàng tự nói đi tìm danh sơn thắng cảnh, nhưng thực chỉ đem nỗi thất vọng cùng đi giữa thế giới của cảnh và của người. Chàng thấy mệt rồi, lòng mệt mỏi và trống không như một tòa lầu bị cướp.
Chàng đã trút bao nhiêu âu yếm còn lại - còn lại nhưng vẫn nhiều lắm - cho vị nữ thần của chàng, và chàng phải thấy rằng có khi linh hồn không đi đôi với nhan sắc. Lòng chàng mệt mỏi: ba lần cho, ba lần mất, dốc cạn hết cả nhụy lòng. Những kỳ hương dị sắc của tình chàng đã trút vào đâu đâu, bay đi trong một luồng gió rủi, để chàng thất tình như một người triệu phú bỗng dưng chỉ còn hai bàn tay không.
Và chàng đi, và chàng đi, vì mỉa mai thay, chàng vẫn còn khá tiền để trả những chuyến tầu. Và may sao chàng đa tình kia lại là một họa sĩ.
Những tranh chàng vẽ, dầu rằng đẹp, song không có tinh thần sự sống, sắc mầu không hồi hộp niềm yêu. Khi người ta quá lên cao, người ta càng xuống thấp: chàng đã tin lắm, nên bây giờ chàng thấy hết, hết rồi. Chỉ còn đôi bàn tay chúng tô hình sắc một cánh thờ ơ.
Có đổi khung cảnh, mà sầu tình vẫn không thay: ba lần thất vọng! Chàng đã có tài phục sinh, nhưng còn gì đâu, sau lần mà chàng đã quyết là cuối cùng? Và những người chàng gặp trên con đường phiêu lưu vạn dặm phong trần chỉ làm chàng ghê sợ.
Hai, ba năm rồi, họa sĩ thất thơ như vậy. Và ngày ấy, đến một chỗ trong xứ lạ, chàng nghe nói có rừng thông ở kia, bền vững đã lâu đời. Mùa hè rực rỡ, chàng bèn tìm đến vẽ tranh.
Nhưng vẫn thấy lòng chàng đã hết rồi, - hay là chàng tưởng thế.
Bởi vì chiều nay, lòng chàng lại tái phục sau ba năm giả vờ chết.
Bởi vì trí ta ảnh hưởng đến lòng ta, làm sai sự thực rất sâu kín; chàng trai trẻ nghĩ rằng lòng chàng phải hết, nên lòng chàng tuy vẫn thầm còn, mà không lộ được kho sống giấu chôn.
Bởi vì chiều nay, rừng thông vừa chín, và sự tình cờ xui chàng đến đó, và cũng sự tình cờ xui ngọn gió đến đây.
Họa sĩ đương thờ thẫn kính sự lặng im của rừng thì bỗng đâu veo veo những tiếng trùng trùng điệp điệp. Gió đổ qua muôn ngọn thông, tai họa sĩ nghe muôn tiếng một lần, gồm thành một tiếng rậm và nhiều, rào rào êm ái. Và ly kỳ thay! Phấn vàng ở đâu nhẹ tuôn bay xuống, quả là một trận mưa phấn vàng, vì tiếng thông reo đã giống sẵn tiếng mưa.
Bấy giờ họa sĩ mới hiểu, nhớ lại những bài cách trí nói về màu hoa thông chín, gió tải nhị vàng đem đi, khiến dân núi gọi là mưa lưu huỳnh. Không gian đã thành một điệu vàng mênh mông: nắng vàng nhuộm vàng những cây, và phấn thông vàng lẫn vàng trong nắng.
Nhị vàng của thông. ồ! Tình yêu của thông đó chăng? Gió hơi se, rừng thông rún rẩy, tiếng ngân hữu ý, khi trời thành một sự đổi trao: muôn cây chắc đương khoái lạc vì đương sống việc ái tình, đó là nhị thông thoát hoa đực bay tìm hoa cái. Rừng thông sung sướng, ái tình tản mạn ôm ấp không gian: ấy là rừng thông đang yêu...
Tình yêu dồi dào gấp mấy của loài người! Phấn thông vàng không đi có chỗ có nơi, mà khởi hành một cuộc viễn du vô hạn. Gió chở đi qua trời rộng, nhị của thông đầu rừng lại đến gặp thông cuối rừng, và tất cả nhị của thông rừng này đi đến một rừng thông nào khác. Họa sĩ bất giác nghĩ đến những quả bắp nếp khi nhỏ chàng ăn, miệng vừa nhai, trí vừa không hiểu sao ở giữa những hàng hạt trắng tinh lại có lổ đổ những hạt đỏ khác màu. Có gì lạ? Nhị hoa bắp tẻ đã bay đến trong vườn bắp nếp. Tuy nhiên vườn nhà bên cạnh không có một cây bắp tẻ, có lẽ suốt cả làng cũng không có một vườn bắp tẻ nào, nhưng ở xa, rất xa xôi, thế nào cũng có những bắp tẻ đã cho nhị phiêu lưu, trải dặm ngàn để đến thành những hạt ngọc vàng nạm giữa những hàng ngọc trắng.
Tình yêu của loài cây xa xôi, viễn vọng như thế, không tính toán gần gũi như của loài người. Hoa thông để nhị vàng chảy ra tự trong lòng, và chỉ biết chừng nấy. Có một việc, là yêu, là gửi đi, là cho. Phấn thông sẽ đến, sẽ không đến? Kể làm chi!
Nhị vàng mênh mông tràn đầy, dư dật, cùng nhau cùng nhau viễn hành, rắc vàng khắp nơi. Phấn thông vàng đi đến sự vu vơ. Có lẽ ở đằng chân trời, một rừng thông chưa chín hoa, đang đứng chờ nhị của rừng thông này đến. Cũng có lẽ bên kia trời, chỉ có sự vô địch của một làn mây.
Gió đem đến giữa lòng ấm áp hoa cái, thì nhị sẽ thành những quả vĩnh viễn đời đời, mà gió đem vào sự trống rỗng hay vào chốn bùn lầy, cái ấy tùy lòng gió.
Vả lại, tình yêu có bao giờ mất! Phấn thông vàng không gặp hoa cái chăng, thì phấn cũng đã làm lộng lẫy không gian trong một buổi chiều nọ. Sự phung phí đã thành mỹ thuật. Trời đã thêm xinh đẹp, phấn thông vàng không hề uổng công.
Và chàng họa sĩ đã ngửng đầu hứng lấy bao nhiêu nhị vàng từ trên tỏa xuống trên mái tóc đen, và chàng đã mở lòng nhận lấy bài học ngụ trong bài thơ của phấn thông vàng. ờ, sao chàng không phung phí như thông? Sao chàng nghĩ chi đến sự thiên hạ nhận? Chàng yêu, không đủ sao? Thấp thỏi gì hơn sự chọn lựa, tính toan, yêu để mà được! Những tâm hồn như chàng phải chỉ thấy có tình yêu và không nệ đến người yêu. Chàng không xấu, không già, tuổi trẻ và sắc đẹp của chàng xứng đáng với tình yêu lắm, và lòng chàng: một suối ngọt, một vườn thơm.
Miễn lòng chàng yêu; miễn tình chàng đẹp. Gặp lòng một tri kỷ, tình chàng sẽ ấm áp, gặp sự vô tri của một người lãnh đạm, tình chàng sẽ lạnh lùng. Nhưng có bao giờ hết đẹp đâu! Sao chàng lấy cớ thất bại để giảm mất thú yêu, để làm sai lạc tình cảm? Đến hay không, đó là công việc của gió; đời là một cuộc đánh đố, thì ái tình cũng là một sự rủi may.
Mà rừng thông kia có bao giờ không trái? Hoa đã gặp hoa, tình đã gặp tình. Nhờ phấn thông rắc nhiều, nhiều quá sự cần thiết. Nếu phấn ít thì sự mất mát sẽ thua thiệt, nhưng phấn hằng hà sa số, thì vẫn có một phần khá lớn đến nơi.
Chàng thất bại ba lần: lần thứ tư sao lại chẳng là một lần thắng cuộc? Sao chàng không thử mười lần, một trăm lần nữa? Mười phen yêu, ít nữa cũng hai phen gặp, một trăm phen yêu đã cho ta hai mươi phen gặp rồi. Và vẫn cứ còn đủ một trăm tình yêu.
Chỉ sợ ta nghèo, không đủ tình để phung phí. Ta không thèm nghĩ sự thiên hạ cho lại, nhưng ta cứ cho, tự khắc thiên hạ cũng đem đến cho ta. Mà nếu thiên hạ không cho, thì đã sao chứ? Phấn thông vàng đã làm đẹp không gian, tình của ta sẽ thêu mộng cho tấm vải xoàng xĩnh của cuộc đời, bầu trời sẽ vang rộng những tiếng đàn hát, những phấn vàng của lòng yêu; và cuộc đời, nhờ bọn đa tình, sẽ kém bề hững hờ nhạt tẻ...
Trời ơi, chàng họa sĩ sung sướng quá khi nghĩ xong những điều đó, vội vàng chạy về quán trọ để rồi tìm lại cuộc đời, lăn vào sự sống mà yêu, yêu... mà cho, cho tất cả lòng tươi thắm của chàng, ba năm ròng chàng tưởng đã cạn rồi, nhưng kỳ thực vẫn là một nguồn vô tận...
Và khi những bước hồi hộp của chàng trai chạy đến cuối rừng, chàng suýt mê ngã trên cỏ xanh, vì thấy trên trời bao la, phấn thông vàng đương bay lan trong tám hướng của cõi đời.
Thương Vay
Tặng Huy Cận
Chiều lên dần dần. Tôi càng đi trời càng tối.
Những bước đi cũng đồng thời với chiều bóng dâng, xui cho tôi dễ tưởng rằng bước của tôi có quan hệ với thời giờ, thỉnh thoảng tôi đứng lại tần mần xem thử họa chăng có liên lạc gì không...
Con đường Nam Giao thẳng mà không bằng; tôi khởi sự đi trong ánh sáng, và tôi tới lần trong bóng tối, tợ hồ bên thành phố Huế là ngày, bên Nam Giao là đêm. - Tôi bắt được ý này trong trí tôi, nghe phấp phới dễ chịu. Tôi bèn đẩy cách luận lý xa hơn chút nữa, dầu không đứng cũng xong:
Thời gian chỉ là sự cử động. Nếu tôi đứng, nếu máu tôi ngừng, nếu tôi không biết đời bên trong và không hay đời bên ngoài, thời gian của tôi sẽ không còn nữa. Và nếu không có sự luôn chuyển ở trong vũ trụ, nếu mặt trời nghỉ, mặt trăng yên cùng với muôn sao đóng đinh trên bầu trời, thì sẽ chỉ còn không gian chết. Nhúc nhích là thời gian, cử động thay đổi là thời gian.
"Thời gian chỉ là sự cử động".
Tôi sực thấy rằng tôi nghĩ đã xa, và ngay lúc ấy, tôi thấy rằng tôi đi cũng đã xa; tôi mỉm cười.
Vâng, chiều lên dần dần: chiều không xuống. Đầu tiên ruộng hai bên đường thẫm lại; những bụi cây, lá không phân biệt nữa, thành những khối bóng. Chín mùi cây cau song song vụt lên, giữ sáng ở trên đầu như những cây nến khổng lồ.
ánh vàng nhạt cứ bớt mãi, có ai kéo về trời để thắp các vì sao. Tàu lá cau trỗi nhất gượng bám chút bụi mặt trời. Nhưng hết rồi. Bóng càng lên mau, càng đậm mãi, xuất tự đất đen, trong khi ở sát da trời, còn mơ hồ ánh sáng. Trí tôi thấy, tuy mắt tôi không, những lớp bóng càng ở trên càng nhạt một tý, và cái đen tối cứ lên hoài, cho đến lúc ngập cả trời cao.
Hoàng hôn... ễnh ương lên, tiếng khan khản phát từ muôn gốc cỏ, từ những ruộng sâu thũm xuống làm cho con đường tự nhiên mà cao. Tiếng ảo não, hơi phồng, như trong ấy có sự gắng sức, tiếng rậm, và nhiều, và thê lương như sự chết, làm sôi bóng hoàng hôn.
Nơi này đã khởi sự nhà quê. Những con ễnh ương rải hồn tha ma bao trùm đường vắng. Một vài chụm mẻ rải rác đằng kia.
Và đường vắng thì rải nhựa đen. Tôi thong thả đi, buổi chiều len lấn vào tâm tư, theo ngõ của hai mắt.
... Không còn cái gì rõ nữa. Bóng chập chững, mọi vật mập mờ, bảng lảng, đương rung rinh. Mây rách từ đâu lê tới những mảnh đen thất thểu, thêm vào cái cảm giác không đều; giữa không trung, dường như có những chụm bóng đặc bay lởn vởn.
Mắt tôi vẫn mở, song kết quả cũng bằng chớp mau. Cảnh chờn vờn một cách nặng nề. Tôi qua trong sự mơ hồ nó chẳng mơ màng. Tôi nghĩ cảnh, tôi nghĩ tôi, tôi nghĩ tất cả.
Và buồn, buồn. Không ai đi trên đường này. Không một người gánh gồng, hai đầu thúng nhún xuống nhún lên ngực thở thành tiếng. Không một người đàn bà vội vàng, chân trụi đập thình thịch, hai tay đánh xa để thêm sức nhanh. Cũng không cả một con chó thẩn thơ mũi cúi xuống đường, hít bóng đặc sệt như mực đen vì gần lớp nhựa.
Đoạn đường dài, nhờ chân tôi chậm. Sao tình cờ lại có sự vắng vẻ hoàn toàn thế này? Ai ở trên trời đổ xuống từng triệu thúng buồn? Có phải tôi buồn đâu. Chính trời đương làm chủ động trong màn buồn.
Tôi đến chụm nhà lụp xụp, tranh xám như lợp bằng tro. Phần nhiều đóng cửa. Những lều mở là những quán nước: ngọn đèn đỏ soi mấy chiếc bánh gói đặt thành gò nhỏ xíu, bên ống dắt đũa tre. Mới bây giờ mà đã có tiếng ru em. Nghe võng cọt kẹt, tôi nhớ những câu đố ngớ ngẩn: "ở trong nhà, có một bà hai đầu!" Tôi đoán những rui khói đóng đen thui, những cột lẳng khẳng làm rung cả nhà, mỗi lần bàn chân ngón xòe đạp vào vách đất.
Chắc một người đàn bà đang lúi húi trong bếp, phồng hết hai má thổi núi rác, nhóm lửa nấu vội cơm. Trách tép đã nóng trên lò hai bàn tay không kịp rửa, nắm vào vành đen, đỡ lên lắc cho đều, rồi lại bắc xuống. Trong khi ấy đứa con gái nhỏ ráng hơi dỗ một đứa em nhỏ hơn. Và đứa này cứ khóc thất thanh, làm bà mẹ sốt ruột. Trong gia đình nhỏ, đêm tới là một dịp rộn ràng. Đèn không có, phải sờ soạng tạo nên bữa ăn.
Mà giọng đưa em thì buồn bã như mọi giọng ru trẻ con, thấm bao nhiêu mênh mông kinh hãi của cánh đồng, bao nhiêu u uất của đêm không đủ đèn sáng, bao nhiêu thương nhớ xa xôi của những linh hồn mộc mạc, buồn xa mà không biết mình buồn.
Sao con đường sang trọng như đường Nam Giao, con đường cho khách du lịch, những nghệ sĩ, những phú ông, những quan quyền rong xe qua để đi thưởng ngoạn, sao mỗi khi đêm đến, đường Nam Giao lại rùng rợn, thê lương?
Hay chỉ vì chiều nay, tôi thấy cái gì cũng tội nghiệp? Những gia đình này nghèo khổ gì lắm đâu; đời quanh Huế cũng đủng đỉnh như đời giữa Huế, người nghèo ở đây không cực hẳn, không lam lũ, không khốn cùng. Nhưng tôi thương, thương tất cả, tất cả mọi điều, vì chiều ấy, tôi thấy cái gì cũng đáng thương.
Có phải ánh leo lét đỏ kia là buồn không; nó thường nói chuyện sợ sệt cũng như sự mập mờ, ở giữa rạ, giữa tranh, ở giữa màng nhện, bòng hóng. Có phải mấy đôi đũa vụng về kia là buồn không; chúng đã run trong những bàn tay da chai, mà đói và mệt làm cho rung rẩy; chúng đã đưa đầu vào những miệng lưỡi thô, răng cứng, hễ thèm ngọt là ăn tảng đường đen...
Đôi hôm lạ lùng, tôi nổi những cơn thương vô cớ như vậy.
Khi tôi đi học, bỗng nhiên đang lật sách, tôi ngừng tay lại, nghĩ tội nghiệp mấy ông giáo dạy tôi. ờ, ông Viên, cái trán cao như cái lầu, xương xao như một tấm đá; ông Bích, miệng cười như khóc, méo một cái méo hãi hùng; ông Thinh, chốc chốc lại kéo cái quần tây, như sợ tụt; ông Lịnh, sau vài tiếng nói lại, "hơ!" "hớ!" nghĩa là: Hiểu không? Nghe chưa? Sao họ buồn cười thế?
Họ chơi, họ dỡn, họ sang trọng, lương cao, vợ tốt. Họ lại còn rầy la học trò, phân phát những cái xách tai hay những hình phạt đáng ghét. Vậy mà họ cứ đáng thương như thường.
Mãi bây giờ tôi mới hiểu rằng vì họ dị quá. Tôi còn hiểu hơn lắm nữa: vì họ là người! Một thứ ánh sáng nhạt nhạt buồn buồn bao trùm mấy ông giáo kia; tuy đương còn trẻ nhỏ, tôi vẫn cảm nghe cái không khí thẩn thơ ở trong lớp học, ở giữa cuộc đời. Và nhất là tôi đã thấy họ như những cái máy. Huống chi tôi đã nhiều lần ghét họ. Hờn ghét ấy, họ không sợ, nhưng mà tôi...
Mà chắc trong bụng của tất cả mọi người, đều có những bánh xe, những trục, những chốt và những giây thiều, để cho mọi thứ vô nghĩa; vô duyên tha hồ vặn máy!
Vậy thì chiều nay, tôi thương cảnh vật đến bao nhiêu. Tôi đi luôn đường lên Nam Giao, mang giùm những nỗi khổ của đời, đương lên hơi trong bóng đêm đã tối.
Tôi đứng lại trước đàn. Vô liêu. Tịch mịch. Dường như tôi sợ ma...
Những cây thông, mình mẩy to thêm và đen, đứng trong im phắc, tôi sợ. Tâm hồn tôi lạnh lạnh, rùng rợn vì đêm, và mang những cảm giác ảm đạm mênh mông, những ý đau, ý chết.
Tôi sợ... Như lúc nhỏ, mỗi lần đi giải ngoài sân. Trong nhà ra, thì can đảm bạo dạn, nhưng vừa quay lưng để vào, thì tự nhiên bắt chạy, như có ai xô. Chắc cái lưng tôi nó nhát, chứ không phải tôi nhát.
Vậy, tôi quay lưng, trở về thành phố, nghe gió thổi mường tượng sau mình. Được vài mươi thước, tôi mới nhớ nhìn trước mặt tôi. ở đằng kia, một bóng đen lù lù đi lại. Không ánh sáng, nên nét mình không thấy nữa; ấy là một cục bóng có hình người.
Tôi đương bận ngó hai bên đường, trông những cây phi lao đứng xĩu lá bơ phờ như giẻ rách, se sẽ than ra một lời nho nhỏ âu sầu... Khi tôi nhìn lại trước tôi, thì hình người đã gần thêm.
Bây giờ tôi mới để ý lung. Tôi bước dài bước nhưng vẫn rón rén. Bóng ấy gần thêm một chút; tôi bèn đi như thường. Tôi không dám nặng chân, sợ bóng ấy tan mất. Họ đi như đứng, lẩn thẩn như nhờ gió thổi đi, mà gió thì chỉ hơi hơi một vài thoáng. Tợ hồ chỉ thuộc về sự sống có một chút thôi.
Bóng đã gần. Một luồng tê lạnh bỗng chạy qua óc tôi. Sao một cái hình người có thể "ma" như vậy. Im lặng quá, yên tĩnh quá. Cả mình đen, chỉ cái nón xám. Tuy thế, tôi cũng đoán được những miếng vải vá nơi áo dài lổ đổ không toàn màu.
Phải rồi, một bà già. Lưng khòng chân chậm.
Mắt bà lão mở lim dim, mà bóng thì mờ thế này, thế có khác gì nhắm? Tay xách một cái rổ, không trông thấy được những thức gì trong ấy. Có chỉ là rổ không.
Còm. Dáng đi run. Lặng thinh, lẽ lặng thinh, không có một tiếng. Như ngủ. Lặng thinh.
Hình người không thật. Tôi biết không phải chiêm bao, không phải mộng mị. Nhưng tôi vẫn rất ngờ. Họ không biết rằng có tôi đi ngược đường họ. Họ không trông, họ không trách. Chỉ còn một điều tỏ rằng họ không chết, họ còn đi.
Tôi muốn giơ tay ra đụng vào mình bà lão, để quyết rằng không giả. Tôi muốn gọi lên một tiếng, làm bà giật mình, ngước chiếc nón cười lên. Tôi muốn lén bỏ trong mủng một đồng xu để xem ra thế nào, nhưng chẳng có chữ bào trong túi.
Tôi không dám đứng lại, sợ phá rầy nước đi đều, chậm của cục bóng. Tôi cứ đi luôn, lặng lẽ rón rén, như sợ nó tan đi. Khi hai bên đã xa nhau nhiều rồi, tôi mới làm theo ý muốn, đứng lại và nhìn theo.
Thôi, thế là nghĩ vẩn nghĩ vơ, nghĩ mờ nghĩ mịt. Bà già hay hiện hình của sự đau khổ? Nghèo như vậy, sao lại làm thinh mà đi, gặp khách không đón xin tiền? Cũng không nói, cũng không rên, cũng không ngừng. Cứ tha đôi chân vào mất trong tối. Chắc họ buồn lắm. Dưới nón, chỉ thấy đen. Mà gặp tôi, sao không ngước nón lên một chút? Trong cái bóng ấy, có chăng một ý nghĩ, một tình cảm gì?
Không, không phải bằng giấy. ấy một người bằng thịt, bằng xương - thịt khô và xương gầy - với một lịch sử chắc chắn khổ sở hết chín phần mười, với chút sống còn sót giữa lòng, như hòn lửa nhỏ còn lấp dưới tro.
Bà lão về đâu? Một ổ rơm nép bên đường, hay một cái chòi lạc giữa những bụi cây? Về một túp lều xa hay không về túp lều nào cả? Trên vùng hẻo lánh kia, còn nhà cửa nào nữa! Ai sẽ nấu cơm cho bà ăn? Diêm ở đâu để bà nhóm lửa? Về đâu? Ngừng lại nơi đâu?
Đêm dày thêm. Chỉ còn mực xạ. Không kẻ dẫn đường, không một chiếc gậy, bà lão mất trong u uất, lặng im, trong dấu tre, bí mật. Lòng tôi thắc mắc, lẫn kinh dị trong vô hạn xót thương.
Sự thương vay của tôi trẻ con và tưởng tượng hay chăng? Bao giờ lòng thương lại chẳng có duyên cớ ở trên cái đời cùng cực, đau đớn, khốn khổ, rách rưới, cô đơn này, mà những kẻ nghèo đói là những trang anh hùng, cắn chặt hai hàm răng ngậm giữ lấy đau thương.
Vừa nghĩ vừa đi, tôi đến trong thành phố rồi. Nhưng đèn điện sáng chói và tiếng xe ồn ào không rọi được trong tôi bấy nhiêu bóng chết.
Cái Giây
Trong thành phố, 23 tháng 9 năm 1937
Anh Hứa,
Phải, có một chuyện gì đây. Nếu không, em đã gửi theo lối con chim xanh nhỏ của chúng mình, chứ không mượn nhà bưu chính. Đường như bỏ thư vào cái thùng sắt, em có can đảm hơn là trao cho một bàn tay.
Anh Hứa, bao giờ em gọi anh như thế đâu? Em chỉ gọi "Anh", hay "Anh của em". Nhưng hôm nay, em không còn là của anh nữa rồi: em muốn dụi hết lửa và ngọn. Và nếu anh nghe giọng Thu xưng "em", chắc anh phải rụng rời vì thấy rỗng không trong tiếng ấy, như một cái hộp không đựng vật gì.
Anh còn kinh ngạc làm chi; anh cũng đừng buộc lỗi ai hết. Em không phụ anh chút nào; em chẳng đổi tình nhân. Một trái chín muồi phải rơi; cái giây giằng lâu phải đứt.
Cái giây, Ồ! chính thế, em ngẫu nhiên được hình ảnh để tả cảnh linh hồn em. Nếu không được cách so sánh này, có lẽ em không khi nào nói rõ được lòng em, và để anh tưởng nhầm mãi mãi.
Anh Hứa, anh thử lòng em chi mãi thế? Em thấy yêu anh, thì em nói rằng yêu anh. Em không hẹn trăm năm cũng như không thể muôn đời; em yêu, chỉ có việc đơn sơ ấy thôi. Chỉ có việc trước mắt là em yêu; ngoài ra, em không biết gì xa xôi nửa.
Anh để cho em yêu tự nhiên có được không; khốn nạn! Sao anh đem thước mà đo, đem cân mà lường, anh tra vạ em, anh dằn vặt em, Anh tìm "vĩnh viễn", muốn "vô cùng", rồi chằng sợi giây tình ái. Chắc anh không muốn giữ nó bền lâu dài dặc, nên anh mới đem ra giật mạnh, anh dún thử, anh căng ra, anh dùng hai cánh tay vặm của anh, anh cầm kéo hai đầu, anh ác làm chi lắm vậy!
Có bao giờ em đem ra dãi nắng, dầm mưa một cái áo tơ mà em muốn giữ; có bao giờ em dằn mạnh cái chén sứ mỏng lên bàn và hỏi: mày có chắc hay không?
Anh muốn tình yêu là một sợi thừng buộc những chiếc thuyền to hơn là những giây tơ treo vài đóa hoa mảnh khảnh. Em trách anh lắm, anh Hứa! Em tức, em buồn, anh bắt em hết yêu anh. Em chỉ muốn khóc thôi, anh ạ.
Vì nếu cái giây của chúng ta mà thực không bền chăng, ta cố giữ cũng có thể lâu hàng thế kỷ. Sao ta không cẩn thận nó, che chở, trân trọng nó, ta không mịn màng, nhẹ nhõm ở đầu ngón tay? Cần chi phải to lớn, rõ rệt như một giây neo? Không ý tứ thì vật gì cũng phải bở, phải mòn, huống chi chút tình cũa chúng ta. Em biết rồi, quả thực anh không muốn cho tình ta lâu, tuy anh cứ đi tìm cái bền vững.
Mà thế nào là bền vững, hả anh? Em chả biết đâu. Yêu nhau, nó dễ dàng bao nhiêu ! Em yêu như hút không khí vào ngực, em yêu như bước những bước hằng ngày. Em chẳng thấy khó khăn. Ta hãy theo lòng ta, cưỡng ép mà làm chi, bắt buộc mà ích gì. Rồi đến khi ta hết yêu thì ta thôi yêu, không lý sự gì cả.
Mỗi khi anh giằng dún Sợi Giây, em hãi hùng vội nắm lấy hai tay anh; nhưng anh thì mạnh, em thì yếu đuối thế này, cản anh sao nổi!
Tuần trước, một buổi mai thức dậy, em bỗng thấy lòng em rời đi dữ quá. Em biết anh yêu em lắm, quá, vô cùng. Nhưng cái giây chỉ còn là một sợi tơ. Anh tính, tám tháng trời yêu nhau, qua những trận mưa nước mắt, trải những cơn bão giận hờn, cái giây còn chi đâu nữa?
May sao anh bình tĩnh trong bảy hôm sung sướng. Em cứ buộc vào anh. Anh thấy không, chỉ một thoáng tơ, mà khéo giữ gìn, cũng lâu được bấy nhiêu mặt trời và bấy nhiêu mặt trăng. Nhưng than ôi, vừa khi qua, anh lại dún thêm một lần, nó là lần cuối.
Đứt rồi, không thể nữa, anh ạ! Em không chán anh, em biết lòng anh, nhưng em nhọc quá chừng, em thấy hết, hết. Em không hiểu em được; em muốn nói rõ. Nhưng khó quáỊ Em chỉ thấy cách nói mù mờ kia mà thôi. Em đã nói dài, em như thuyết luân lý với anh; cũng chỉ vì em ráng nói, em ráng...
Thôi hết rồi, cùng tận rồi, chúng ta chỉ còn là hai bạn xưa. Em lúc nào cũng thực thà, em nói những điều thực lòng erh cảm thấy. Anh đừng buồn mà khổ em lắm, anh hiểu dùm em, anh thương hại em cũng như em thương hại anh. Đứt rồi, anh ôi! Anh đừng nối lại làm chi. Dù khéo nối thế nào, cái giây cũng sẽ còn cái gút.
Người yếu đuối:
Thu
Người Học Trò Tốt
Anh Tư không sung sướng bao giờ. Chính anh ấy nói.
Anh có thể nói dối, nhưng ai cũng tin rằng thật, vì người ta thấy đúng như lời của anh.
Hà tất phải tả người anh Tư; nên biết qua rằng mắt anh nhỏ, cái ấy trời sinh, và sâu hoắm vào, cái này là dấu tích những đêm suốt sáng. Ðầu anh hẹp. Cả người anh: thấp bé và gầy, gầy như trong câu “mình gầy xác ve”.
Anh ấy đi học chỉ để mà đứng đầu. Nói để mà cho thấy sự đều đặn lập lại như máy. Chứ có dễ gì thượng lên ngất nghểu trên tờ giấy biên thứ lớp trong mỗi tháng, cái tên Nguyễn Trung Tư đè bẹp một chồng bốn năm mươi tên thấp kém như đồng bằng.
Bắt đầu tự lớp nhì. Làm luận Pháp văn kỳ hạch lục nguyệt, cậu Tư đã viết nổi câu này trong một bức thư gởi thăm bạn cũ:
“Chúng ta không còn ngồi trên một ghế; chúng ta không còn đọc dưới một ánh đèn.”
Dịch tiếng An-Nam nên thấy dễ vậy, chứ nguyên văn chữ Pháp! Kỳ công lần đầu thầy giáo cho mười tám điểm; chúng bạn chuyền nhau xem bài luận hay ấy, và tấm tắc khen.
Lớp nhất, Tư đứng đầu. Nhưng lạ thay! Anh không đậu bằng sơ học. Các ông giáo đấm tay xuống bàn, khi biết sự ấy; các ông đi chấm, đã bắt hỏng oan một người học trò ai nấy cũng biết rõ đức hạnh và tài năng.
Phải thú thực là Tư kém toán. Thi lần thứ hai. Cậu lại sai cả hai bài. Ông chủ khảo, nể lời xin bắt buộc của nhiều ông giáo, cho Tư một góc điểm. Ấy thế mà, ai có tin không? Tư đậu đầu Sơ học! Chuyện thực như sự thực, bây giờ ở trường Qui Nhơn có người còn nhớ rành rành. Cũng là nhờ Tư giỏi khẩu vấn. Hỏi một, cậu đáp mười, mười lăm. Ở lớp dưới, cậu học sách hai lớp trên; nghe Tư trả lời câu “vòi lấy nước” thì phải rối cả đầu của người kém vật lý học. Có ba thứ vòi: vòi hút, vòi đẩy, vòi vừa đẩy vừa hút; máy móc... vân vân...
Thủ khoa thi sơ học là thủ khoa thi vào ban Thành Chung, cái ấy cố nhiên lắm. Người này là người đứng đầu lớp nhất niên, cái ấy ít cố nhiên hơn. Tuy thế, Tư là người này, là người kia, và cũng là người nọ. Rồi từ đấy...
Rồi từ đấy, chàng đi luôn một hơi lên tứ niên, dẫu chân chàng cứ lỏng khỏng hoài. Quyển lý lịch của chàng, em chàng còn giữ đây, chứa toàn những câu khen hơn pháo nổ. Ăn ở tốt, quyết đi rồi; Tư nền nếp, thuỳ mị, không hề ganh gổ với ai. Còn học hành, Tư lại chịu thua ai chứ? Ðứng đầu luôn trong bốn năm, nghĩa là ngót bốn chục lần; không biết sao người không mỏi chân cho đến thế. Năm thứ ba, ông giáo Chính phê bằng chữ đỏ và to:
“Người đầu lớp hoàn toàn tuyệt mỹ về tất cả các phương diện, một tương lai người ta không thể hơn tốt.”
Nghe có hơi ngớ ngẩn, vì dịch sát nguyên văn. Song điều quan hệ, người ta đã hiểu rồi; anh Tư đứng đầu luôn. Cả những kỳ thi lục nguyệt. Những phần thưởng nhất đều về tay anh hết; những bàn tay nhỏ là những bàn tay to. Em của anh Tư bây giờ thừa hưởng bao nhiêu sách, lại cả bộ văn phòng tứ hữu, cả một đồng hồ đánh thức, cả một đồng hồ đeo tay. Ðứng đầu luôn, chỉ trừ một lần năm tứ niên. Người đứng thứ hai nhảy lên trên, cuộc xáo trộn bất kỳ như động đất! Song cánh anh chàng này hẹp quá, chỉ một lần rồi yên phận thứ hai.
Thành chung. Tư đậu thứ tư, với chữ kèm thêm “khá tốt”. Thế có hơi thất bại một chút, nhưng thất bại này còn gấp mấy thắng cuộc của ai ai. Ai ai, tức là bao nhiêu người học trò dở hay vừa, không được thưởng mà chẳng được khen, chen chật nhau trong số nhiều, trong vô danh, trong nhác lười, trong tăm tối.
Tăm tối? À, cái này thì không! họ nhảy trong ánh sáng, chạy giữa mặt trời, họ đuổi nhau trong tiếng ồn, lăn vùi trong sự sống. Ấy chính đời của Tư, quá biết ánh tối tăm của một ngọn đèn nhỏ học đêm, dấu trong cái hộp và che sau tấm mền. Tăm tối, ấy chính là ngực của Tư hai lá phổi lép chờ đợi vi trùng; mà ánh sáng của ngôi nhất, của chỗ trên chỉ là ánh sáng giả, sao bì được ánh sáng của sân đá bóng, của trường chạy đua!
Bởi vì Tư cày chớ không học.
Ai thấy Tư học cũng phải sợ. Anh yêu sách, mê sách, dâm sách nữa kia, nếu chỉ kể rằng tay anh không hề rời những vật đóng bằng giấy và in đầy bằng chữ. Chàng học thuộc bài nhão, nhão như người ta quết chả; chàng làm bài trắng nõn, không một thoáng mực, không một nơi giấy mỏng vì gôm.
Chí khí lớn lao, ý muốn cương quyết đã thắng được sự ốm yếu, đè nổi tính cà lăm. Tư hay nói lắp, nên phải học gấp bội, phải nhớ cho thực nhiều, phải thốt trừ hao, để câu này vì miệng cứng mà không nói ra được thì câu khác ra hộ.
Rồi ba năm học tú tài, từ thành phố nhỏ ra nơi kinh đô. Tư cũng đem theo cách làm việc não nùng ấy, vâng não nùng; những bạn chàng muốn khóc vì tội nghiệp. Nếu Tư là một kẻ ngu độn, dúi đầu sát trong sách, đến nỗi tối cả mắt và trí, thời người ta chỉ khinh thôi; cái này Tư vẫn còn sáng sủa; không, sao lại đứng đầu!
Tư không sướng. Tư khổ. Năm nào chàng cũng được học bổng, nên sợ mất nhưng bù lại, là nhà chàng khỏi lo tiền. Nhà chàng không nghèo chút nào, trái lại. Thế mà Tư chưa phỉ chí, lo lắng mãi, lo vì trời đen hay chim không hót? Lo chuyện gì không biết, tưởng như không lo thì phải chết liền. Lo khống lúc nào cũng kỹ lưỡng, tươm tất, chăm lo.
Trong ba năm chế độ học đổi khác, không quá kể phân điểm và ngôi thứ, Tư có hơi sút. Danh vọng chàng ở Hà Nội không còn vĩ đại như ở tỉnh nhà. Trí chàng đã nhụt rồi chăng? Cái ấy cũng có thể nghi. Còn kém học và tập chơi, xin đừng ai ngờ thế mà oan cho anh Tư lắm!
Tú tài “bản xứ” đâu phải chuyện vừa! Không được cái đầu to, phải thi nhiều công lớn. Nghĩa là không nhịn chút thì giờ nào cho yêu đương mơ mộng, cho thể thao hay cho vui đùa. Tư nhất thiết ghét bao nhiêu thứ đó. Tư kiêu hãnh lắm, Tư khinh những cách lêu lổng, Tư chỉ thờ sự học thôi. Không người tình nhân nào có thể si hơn người học trò tốt.
Học với hai mắt, học với hai tai, học với một đầu, học với một miệng. Trường trung học, giám thị rất nghiêm, nên khó thắp đèn riêng. Thì trong khi bạn bè ngủ thẳng. Tư lại nơi đèn chong trước nhà xí. Ở đây khá sạch sẽ, chẳng mùi mẽ gì. - Hơn thế nữa, có một lần Tư để lộ một hộp đựng bích quy (tội lỗi gì chứ?) trong ấy có hai cây nến, một cặp vợ chồng nến, Tội lỗi đã rành rành. Thầy gác hung hăng:
- Anh muốn đang đêm thắp cháy mùng, và đốt luôn cả trường, và thiêu luôn cả các bạn anh sao? Sáu giờ phạt!
Muốn ra gương, ông hiệu trưởng nhân ba lên, thành mười tám giờ. Nhưng khi người ta yêu tình nhân, thì sét có đánh, trời có đày, người ta vẫn yêu tình nhân; đã mê sách đèn thì phụ sách đèn sao nỡ? Tư chả thua; không yêu được cách này chàng yêu cách khác. - Thú thật rằng không hay cách khác đó là cách gì. Nhưng ai nói toạc cách yêu của mình bao giờ? Hẵng biết rằng bao nhiêu sử ký và địa dư đều là anh Tư thuộc cả. Thuộc cả cho đến tự nhiên học, cái kinh hãi của mọi người.
Ðỗ xong phần thứ nhất. Nghỉ hè, dịp hiếm hoi để Tư dạy học tư. Thấy Tư làm việc mê man sốt sắng như vậy, ai nấy đều chắc chắn rằng bấy nhiêu nhiệt huyết sẽ xây dựng một vĩ nhân hay một kỳ nhân cho tương lai. Tâm lý của Tư có lẽ là tâm lý của một vị thánh!
Hết ba tháng nghỉ, đến phần thứ hai, càng ghê gớm hơn phần trước, giết được người ta. Nói chi hoài đến sự học hành cày cuốc! Chỉ thêm càng buồn bã cho Tư, thương hại cho Tư. Hai tuần trước ngày thi, Tư chỉ còn là một tàu lá; tức thật, cách so sánh này dùng đã mòn quá, không còn mới mẽ để tả nổi màu xanh, dáng nhẹ, cái bộ xương anh Tư.
Và trời vàng không phụ người đọc sách, huống chi người đọc sách chăm chỉ. Tư thành ông Tú hẳn rồi. Tư lại thành ông Tú ba, nghĩa là Tư đỗ đến ba thứ: tú tài bản xứ, tú tài toán pháp, tú tài triết lý, ba cái tú tài. Bây giờ là lúc dừng chân trông khoảng đường gai, thở một hơi dài cho khoẻ ngực.
Hơi rất dài ấy, Tư đã thở liền, thở theo nghĩa đen: hút không khí vào cho đỡ lép phổi, chứ không theo nghĩa bóng nào hết. Rồi cái lo lập tức theo về nhà cùng với chàng.
Học để mà hành. Làm, làm một việc gì trong xã hội. Bay nhảy... hiển hách... phấn đấu... Từ đất ồn ào về nơi quê quán, chỗ kém rộn, kém đông, Tư đã nghĩ nhiều rồi. Hai ngày sau, Tư gửi ngay cái đơn. Cái đầu vào Huế, xin một chỗ dạy trường tư, kèm với những huy chương bằng chữ ở trong tập lý lịch. Bao nhiêu bảo đảm ấy cũng thừa để được chỗ. Nhưng muốn chắc chắn, cái đơn thứ hai, cũng được gửi vào Thần Kinh, dự kỳ thi tri huyện. Và muốn đậu phải học chữ Hán tức thì.
Bây giờ chàng Tư yêu Khổng Mạnh cũng một độ thiết tha, hăng hái... À, ra thế, chàng Tư không yêu sách vì khoa học hay văn minh Âu Mỹ; chớ nghĩ vậy mà nhầm ý của chàng. Sách nào cũng tốt miễn đậu thì thôi. Chàng học trong ngày và trong đêm, cả trưa và cả khuya, những trang giấy đen, ngòng ngoèo đến sợ. Chàng không đi chơi đâu cả; chàng có bộ cánh tây nào đâu mà diện, chàng hoàn toàn xa lạ với cái thú nện giầy chan chát trên hè phố, ưỡn ngực nở cho giải ca vát phồng lên, đi mạnh như mùa xuân, trong quần áo gọn. Tư lại còn cười một người bạn, mới ra Hà Nội năm đầu đã vội làm tây. Chàng An Nam như thế này đây; chàng khinh gắt bộ âu phục. Không biết chàng là tuổi trẻ hay cụ già.
Chàng đương tuổi trẻ, chính thế! Vì một lần, - cảm ơn mặt trăng vàng ở trên từng mây xanh, - Tư nói chuyện tình, thực đấy chuyện tình ái. Té ra chàng còn sống! May biết bao! Trước hết, chàng để thoát mấy lời đắng cay, không hiểu tại sao thoát ra bằng tiếng Pháp:
- Không ai,... khổ bằng tôi; tôi chưa thấy ai khổ sở bằng tôi...
Than ôi, anh Tư, anh Tư. Sự thật bây giờ anh mới thấy ư? Người ta thương hại anh đã lâu lắm rồi, tuy khi nào anh cũng vinh hiển, Sao anh không biết sung sướng, hở anh? Anh lo chi luôn, anh nghĩ chi hoài? Người ta rất buồn cho anh, dù anh là ba ông tú!
Tư ngó lên trời: đôi chấm sao nhấp nháy ở giữa men mỏng trong ngần. Chàng tự buông theo dư âm của một điệu đàn nhớ trong ký ức. Cũng nói bằng tiếng Pháp- chàng chỉ nói được tiếng Pháp mà thôi:
- Tôi chưa thấy người đàn bà nào đẹp... chưa thấy. Trừ có một người... Lần kia, tôi đã nghe... Tôi đã nghe những ngón tay du dương của nàng... hát trên những phím cây đàn piano... Con gái! họ bóp trái tim ta... trong lòng bàn tay của họ... A! Tôi khổ... khốn khổ...
Thế đấy anh Tư ạ! Anh đã không vui trong lúc học. Anh hiện đang buồn trong khi yêu. Nhưng anh bắt đầu sống đi! Hãy thử đốt lòng anh; nó khô từ khi nhỏ đến giờ, cố nhiên nó dễ cháy lắm.
Song le, Tư chỉ nhượng bộ cho mặt trăng trong mười lăm phút đồng hồ. Chàng thấy sự thật rõ quá. Yêu đương, chuyện viển vông, chuyện mộng mị của thi sĩ! Chàng tỉnh lắm, có thừa nghị lực để không say. Chàng can đảm, không ngủ bao giờ, theo nghĩa bóng, và theo cả nghĩa đen, nghĩa đen quá.
Nàng tiên kia ở tận trên chót lầu của một ông tổng đốc. Chàng thư sinh gầy với sao cho tới? Hãy phai đi, dư âm của những ngón tay ca trên phím đàn!
Và đã phai rồi, dư âm của những ngón tay ca trên phím nhặt: Tư bóp nghẹn thương nhớ, như đã bóp nghẹn thanh xuân; tay chàng mạnh vô cùng, mặc những sợi gân xanh cột ràng mấy đốt xương rõ rệt.
Và đến khi Tư đậu tri huyện - chúng ta đã đoán trước - Tư rất có thể giơ tay lãnh người đẹp trên cung. Nhưng hỡi ôi chàng đã hết muốn rồi, ái tình đã ngoan ngoãn vâng theo chịu nén một bề, đã tàn rồi không nở lại nữa...
Mục đích đạt tới. Bõ công trình mười năm học mãi của Tư. Cha chàng sung sướng; các em chàng sung sướng; vinh hiển, giàu sang, muốn gì thì đã được rồi. Còn Tư? Có ai vào được trong lòng kia biết giùm sự bí mật? Vẻ mặt chàng vẫn như vậy, vẫn bấy nhiêu xương xóc, có lẽ lại thêm vài phân hư gầy, dầu đến khi chàng đã bổ làm ông Hậu.
Chàng đã theo danh hay theo lợi? Theo tiếng gọi mãnh liệt của sách hay tiếng kêu gấp rút của... của cái gì đây? Chàng làm việc để làm chi? Chàng không biết vui sướng hay sao? Bí mật! Người ta kinh hãi trước sự khó hiểu. Sao Tư chẳng sống đi, tiêu tiền đi, chơi bời đi! Người ta không tin rằng có thể có linh hồn vô lý ấy.
Thanh xuân đã qua bên cạnh chàng, trong khi chàng nhắm mắt không trông mặt trời sáng ngày ngày phân phát ánh tươi đẹp và tình mến yêu. Chàng tự đày mình trong sự học hành, trong sự chinh phục ngôi thứ, bằng cấp, và chỗ làm; và khi chàng thành công là lúc chàng thất bại hẳn.
Trời ơi, chủ nhật xuân hát ngoài kia, sao ông hậu Tư năm nay mới hăm ba tuổi đầu, không chạy ra đuổi vài con bướm?
Cái Dây Không Đứt
Trong thành phố, 24 tháng 9 năm 1937
Em Thu
Thế sao em? Em đã hết với anh? Thực chăng? Anh thấy như đã thực lắm rồi, lời của em sao mà đoạn tuyệt! Nhưng Thu ơi, anh vẫn mong còn dư lại ít nữa là một chút yêu thừa, để em còn chịu đọc những lời biện bạch sau đây, và để em còn đoán nghe sự đầy tràn trong tiếng gọi “em”, trong bức thư này mà anh tin không phải là bức cuối cùng, và vẫn gửi nhờ con chim xanh nhỏ.
Hứa không kinh ngạc đâu Thu ạ. Anh chỉ đau đớn thấy sự thực của lòng người; - nhưng mà anh cứ kể chuyện này cho em nghe, Thu nhé?
Đời xưa có một nhạc sĩ (anh chắc là Bá Nha) có một giây đàn quí báu, đẹp đẽ vô cùng. Một giây đàn xinh xắn như gồm bằng tơ bóng giăng, một giây đàn bằng loại kim hiếm hoi, đáng giá không biết bao nhiêu vàng bạc. Vì ban ngày thì chói lọi một trăm sắc, và ban đêm tự nhiên sáng có hào quang.
Nhạc sĩ biết rằng sợi tơ kia mỏng manh, chỉ nên để mà thờ, mà ngắm. Nhưng chàng cần phải đàn một điệu nhạc mới, thần tiên, kỳ ảo, làm rung động được mặt trời và xê xích được mặt trăng. Chàng thấy nhất quyết phải gảy lên Điệu Ca Lửa Nồng mà chàng đã bỏ cả tâm hồn để sáng tác.
Thế rồi dây đàn lên tiếng dưới ngón tay mê, ngón tay cảm xúc quá nên nóng như lên cơn, làm cho dây đàn cũng phải lây sự sống. Nhạc sĩ đang lúc hăng hái vì thiên tài đẩy xô, cứ nhíu mày nắn những giọng cao, rất cao, quá cao, quên cả rằng giây đàn của mình chỉ là sợi tơ bóng nguyệt.
Cho nên, cho nên dây đàn đứt, cũng như... cũng như dây của lòng em Thu...
Thu mong manh của Hứa ơi! đáng lẽ anh cũng chỉ nên ngắm nghía phụng thờ em, chứ đừng bắt em yêu mến. Giây đàn thì nhỏ mà điệu nhạc thì cao, lòng em thì yếu mà tình anh thì mạnh, tránh sao cho khỏi chếch mếch! Anh đã khờ quá! mê bản đàn nên làm đứt cả dây tơ. Nhưng em Thu ơi, em có hiểu anh chăng? Em hiểu chăng sự thực của ái tình nó khác với sự thực của lòng người: lòng chúng ta thì muốn yên, nhưng ái tình thì hiếu sự. Ta không phân biệt tình với lòng, khi lòng ta đã biếng nhác, muốn nghỉ ngơi; ta nói: tình yêu đã hết; nhưng chính tình yêu không thèm ở nữa trong một tấm lòng mệt mỏi, tình yêu bỏ mà đi đấy thôi! Lòng người và tình yêu là hai sự thực khác nhau và đối nhau; một đằng chỉ riêng ưa sự lỳ lợm, sự bình yên, một đằng muốn lay chuyển, sôi nổi, cử động. Lòng người như vật chất luôn luôn sắt đá, chích chích, chi chi. Ái tình như sự sống, làm việc luôn, nồng cháy luôn, và xây dựng cho vật chất. Phải, lòng người như đất, chỉ cốt nằm ỳ, ái tình là ý xuân, bắt sự biếng lười phải hăng hái, bồng bột lên, để sinh sắc hương, hoa quả.
Anh yêu dở, vì không hiểu lòng người; em cũng vụng yêu, vì không thấu ái tình. Mà chúng ta đã cốt “yêu nhau”, thì chúng ta phải yêu nhau theo ái tình chứ! Cái dở của anh rất đáng tha thứ, mà có lẽ lại là cái hay: anh phải đi ngược lòng người để đi xuôi theo ái tình.
Thực vậy, chúng ta đều muốn êm đềm bình tĩnh, chẳng phải nhọc nhằn. Nhưng khi đã yêu! Tình yêu có ngủ đâu!
Đó là nỗi kiếm tìm, ngờ vực, đòi hỏi, van xin, đó là sự ghen tuông, đó là cách chinh phục. Em cười anh chính vì muốn tìm sự vững bền mà lại làm nên sự gãy đổ, nhưng anh tìm cái vững bền của tình yêu, thiết tha, đỏ thắm kia, chứ cái lâu dài mà nhạt nhẽo, anh có tìm làm chi!
“Em thấy yêu anh thì nói yêu anh”, nhưng một lời nói không phải là một cái gối ta cứ dựa đầu mãi. Em yêu anh, nhưng tình em cho có phải là một gói bạc ta cất được vào rương, khoá kỹ niêm phong, bỏ vào buồng, rồi đóng cửa ngủ yên sao? Tình em cho hôm, ngày mai chắc đâu như cũ? Bảo anh không phiền hà em sao được; tình yêu mạnh hơn lễ độ, đã yêu nhau thì hoá làm rầy nhau. Em mất tự do, nhưng kẻ lấy không phải là anh, mà chính là tình của chúng ta, và anh, anh cũng mất tự do, và cũng không phải em lấy. Hai người đều vui lòng chịu sự trói buộc của tình ái, để được cái thoát ly, thoát ly khỏi mọi điều cặn bã thấp kém của đời thường.
Em Thu, em nỡ không hiểu anh đến thế ư? Em nỡ cho ra anh tra nạ, dằn vặt em, nhưng khi người ta mặc kệ nhau, thì còn đâu là yêu nhau nữa? Êm đềm, dịu dàng, ôi, nếu muốn được thế mà phải bằng phẳng như những vợ chồng ăn đời ở kiếp với nhau thì còn gì đâu.
Thu ơi, sao em không hờn anh, giận anh, ghen nghi anh cho nhiều; em không thấy cái thú giận nhau ư? Chỉ có anh quá biết thú ấy, nên mới bị em phạt quá đáng: rời anh, đứt với anh. Nhưng đáng lẽ là một cái công mới phải! Luôn luôn thắc mắc, lo toan không ngớt, xôn xao không ngừng, yêu như thế tức là đổ dầu cho đèn sáng mãi, thêm củi cho lửa không tàn, là giữ màu tươi thắm, thêm bao thú vị cho tình yêu, yêu như thế quả là xe thêm tơ chỉ cho sợi giây thêm bền, chứ đâu có phải giằng kéo sợi dây cho mỏng?
Em còn nói tình yêu là những giây tơ treo vài đoá hoa mảnh khảnh; vâng. Nhưng sự dịu dàng là mảnh khảnh hơn hay sự nồng nàn là mảnh khảnh hơn? Giữ sự dịu dàng là trò chơi, chứ giữ sự nồng nàn là một điều khó, vậy thì “đoá hoa mảnh khảnh” vốn là sự rạo rực của Hứa, chứ không phải sự bình tĩnh của Thu.
Thôi, Thu của Hứa chịu thua rồi. Anh biết lắm, em Thu chỉ nhọc một chút đó thôi, em Thu đương nhức đầu đấy chứ gì. Chỉ một ngày sau hay một tuần sau, anh lại thấy Thu nồng nàn gấp mấy khi trước, vì bấy giờ ta đã hiểu nhau.
Em Thu không phải một kẻ khác thường sao?
Em Thu không phải một linh hồn đắm say, mê mãi sao?
Có lẽ nào! Mắt em Thu lớn và sáng, và lộng lẫy thế kia mà! Không, anh quyết sự này chỉ là một cuộc bất hoà nhỏ nhặt đấy thôi. Phải không em, nếu động bất bình với nhau mà rẽ nhau ngay, hết với nhau ngay, thì ở trên đời, chẳng có cặp đôi nào cả.
Thu cười đi, em thua rồi đấy nhé. Nhưng Hứa chẳng được đâu, Thu ạ. Bao giờ cũng thắng cuộc, ấy chính là tình yêu của hai ta.
Người tha thiết:
HỨA
Thân Thể
Bấy giờ gió lên cùng một miếng trăng to. Ðã khuya, giòng sông nhẹ xao, chiếc thuyền rún rẩy một cách khoan khoái. Ðèn thành phố sắp những chấm xa.
Ở đây, tạo vật đương tắm ái tình. Người ta vào hẳn trong yêu mến vu vơ... Cây cối đu đưa, lá tre nhỏ sột soạt làu nhàu. Phong cảnh tợ hồ thanh tao, nhưng kỳ thực lẩn vẩn những chiều khơi trêu lơi lả. Gió trăng không ngây thơ; gió trăng hữu ý quá. Phong cảnh không những có linh hồn: phong cảnh đương khoái lạc..
Tuy không ngừng nói, bảy chàng trai thấy mát mẻ tràn mạn vào người. Một cái thích miên man lan ở dưới trời; có lẽ không gian quặn lại vì sung sướng. Nước. Nước xanh và chảy ánh vàng. Yên lặng. Yên lặng và đầy nhớ nhung. Không còn sớm nữa nhưng cũng chưa quá khuya; thì giờ vừa vặn...
Lòng niên thiếu tự nhiên man mác. Bảy chàng trai đã bớt hẳn tiếng cười; câu chuyện chầm chậm thay đề, cũng như chiếc thuyền khoan thai trôi vào trong xa, trong trăng, trong lòng tình tứ của đêm đẹp. Ðó là bảy chàng Tú mới đêm nay mừng sự rảnh rang và sự thi đỗ bằng một cuộc chơi thuyền suông trên sông Hương, sau khi đã ăn một bữa cơm sang và đã uống hơi nhiều rượu. Câu chuyện ầm ỹ lúc mới đi bây giờ đã nhỏ, thân mật, hệ trọng. Người ta không nói chuyện đá cầu hay chuyện mấy ông giáo nữa. Mình mẩy của tuổi thanh xuân đang nở nang bối rối; trí não đã ngủ dần theo lời ru, để cho thân thể một mình tự nghe... Những ngày hè oi ả thường cho ta một cảm giác hoan lạc ẩn trong sự lười biếng, mệt mề. Huống chi đêm trăng này, một đêm của mùa sinh sản.
Bảy chàng trẻ.
Bao nhiêu tình!
Ðính vai hề của lớp học, bỗng dưng khai đề một cách đột ngột:
- Giữa bọn mình đây, anh nào đã có tình nhân?
Lực vai hề số hai, cũng hùa theo:
- Anh nào có thì nói nghe chơi! còn tụm nhau mãi đâu mà sợ sau này bị chế diễu mãi.
Phú nhại giọng văn sĩ:
- Phải chúng ta như một đàn chim gió sắp chia rẽ, tan tác bốn góc chân trời... Ai có tâm sự thì nói đi thôi. Dưới ánh trăng cái gì đục mấy cũng hóa ra trong trẻo...
Ðính hạ giọng, thúc giục:
- Anh Nhân? Anh đã biết rồi chứ? Anh Tấn? Anh Ðịnh? Anh nào đã nếm mùi đời? Nhất là anh Tấn, anh “hoang” lắm. Cặp mắt đen ướt kia đa tình số một, anh “biết” thế nào hở anh?
Tấn bị tra khảo, vội vàng thoát nạn bằng cách đổ tội cho Khuông:
- Ðã có anh Cả Khuông ta đây, còn hỏi ai nữa?
Nghe nói đến Khuông, tức thì cả bọn ồ ạt:
- Phải đấy! Khuông! Khuông! Nói chuyện nghe đi!
Thế là sáu người kia xúm nhau bá lấy Khuông, nói rộng, tán dài,ca tụng, châm chích, hỏi han. Khuông cười lộ cả hai hàm răng. Trong một lớp học, người nào có vợ là một kỳ quan, một tý gì cũng là cớ để anh em nói đến “chị ấy”. Khuông thường phải làm ra vẻ trơ, tự mình chế diễu mình trước để anh em chán, không ai biếm một người lỳ.
Thực ra, Khuông thấy trong lòng khó chịu. Lòng Khuông có một lớp đắng cay, động đến là nhắc Khuông nhớ tới. Lần này, Khuông cũng lại cười rất vui vẻ, nhưng khi gần hết cái cười, môi trên của chàng đưa lên thêm, khinh khỉnh như cười nhạt với mình.
Hồi còn đi học - tuần trước đây - Khuông lớn tuổi nhất trong lớp: Khuông đàn anh cả trường. Hai mươi lăm tuổi của chàng điêu đứng bao phen vì thi cử. Chàng “cựu trào” lắm; chàng đã biết cái thời người đậu thành chung sẵn sàng đi làm việc và có vợ con; chàng đã xưa, và chàng đã từng trải hoa nguyệt.
Mặt chàng có vẻ tình si lắm, lông mày đen và rậm, mắt đưa đẩy rất nhanh, miệng rộng và môi dô ra, chờ đón. Tuy chàng quá tuổi, chàng vẫn còn một ít đẹp. Nghĩa là chàng không bao giờ hết đa tình.
Chàng cưới vợ rất ngẫu nhiên: một buổi sáng, Khuông thức dậy, nhíu mày để tự trách mình, rồi nửa tháng sau, một người đàn bà hiền hậu lấy Khuông làm chồng. Cưới vợ như kẻ phóng lãng cất nhà: để tự ngăn cấm... Nhưng có ngăn cấm được không? Khuông vẫn cứ đi, để góp về trong thân thể và tâm hồn bao nhiêu não nề đau đớn.
Bây giờ thì Khuông đã dừng bước; nhưng một ngày mai nào đây, biết đâu con ngựa bất trị lại không dẫn chàng đi... Dẫu sao, Khuông cũng đã được một ít khôn ngoan, chàng tự cho mình là người anh lớn của một bọn em nhỏ, các bạn chàng. Tội nghiệp! bọn trai tân ấy nhiều tưởng tượng quá; họ nói chuyện một cách ngon lành; họ ca tụng và dường như ganh tị với Khuông, cho rằng Khuông đã vào trong một nguồn khoái lạc. Họ tin chắc như thế; họ giàu cái thân thể mới của họ, họ có biết đâu...
Và câu chuyện hơi nặng, hơi thô, gia vị một thứ thầm trộm rì rào, ngập ngừng như ăn vụng, thèm muốn như trẻ con. Bởi vì bóng trăng trong cũng thở những ý điếm đàng, và trên nước chóa vòng vàng, tợ hồ một thân thể đang tắm...
Khuông im lặng. Phải, chàng đã già, so với sự mơ ước của sáu bạn chàng, chắc tất cả còn đương trinh. Bóng trăng như có vị đắng cay; khi chàng ngửa mặt lên, ánh sáng vào miệng chàng, chàng mỉm miệng lại.
Sáu chàng trẻ hoa tay múa chân, như trẻ nhỏ sắp được đi xem hát... Họ vui vẻ khoe bày những điều nghe góp được bấy lâu, hay xem lén trong sách vở rơi vào tay họ. Thỉnh thoảng giọng đổi thấp kéo ra nhè nhẹ rồi bùng lên giữa một cái thác cười. Ý chừng họ đương tiếc sao họ chỉ đẩy một chiếc thuyền suông không có đàn bà, như uống một chén nước lã. Chỉ một điều còn cứu cho câu truyện thả lỏng, là vẻ thơ ngây tự nhiên của tuổi trẻ khác hẳn với bề thô tục của những tay sành sõi sâu xa.
Khuông vô ý ngồi chệch sang một bên, như ngồi riêng. Chàng não nùng nghĩ đến cái kho từng trải nhem nhuốc của chàng. Chàng cũng chẳng làm chi quá đáng, chàng đã sống như mọi người, thế thôi; song chàng có một điểm trong sạch trong linh hồn, nó càng trái ngược với sự dơ bẩn mà nó khinh, mà thân thể chàng đã và vẫn yêu, khốn nạn! chàng tiếc sáu cái thanh niên kia, chúng sẽ hấp tấp lăn vào bụi đời. Và ngực nở kia sẽ lép, và những cánh tay kia, khi co lại, sẽ còn đâu những bắp thịt nổi như những ổ bánh mì! Và còn đâu sức lực kia, vạm vỡ, chắc chắn, phồng tròn, hiện giờ đương hoài vọng những cách tự phá!
Nếu chàng có thể hoãn lại cho lâu thời kỳ huỷ hoại đó! Sáu con đực tốt đẹp sẽ dúi vào thú vui, không lý sự gì, mảnh liệt mê điên như những con thiêu thân át hẳn vào ánh đèn tìm chết cháy, hay con bò say húc đầu và tấm vải đỏ ám ảnh, để gặp một nhát gươm.
Khuông nghĩ tới đây, bỗng giật mình. Lực đánh hai tay vào vai chàng, trong khi mọi người cười rộ.
- Anh Khuông ỷ mình có vợ, không thèm nói chuyện với chúng tôi. Anh còn trẻ chán, tội chi làm cụ già? Dạy cho chúng em một vài bài đi, anh ạ!
Khuông lại cười to một lần nữa, làm cho Lực tưởng mình nói hay, bèn thêm:
- Khuông đương nhớ vợ ở nhà quê chứ gì! Chúng tôi không có ai để mà nhớ cả. Chúng tôi thì nói nhưng anh thì làm.
Nhân câu của Lực, Khuông trả lời:
- Rồi đến lượt các anh làm thì tôi lại nói.
- Ừ, nói đi, nói đi!
Các bạn Khuông cùng cười, nghĩ bụng rằng Khuông sẽ kể cho nghe một cuộc tình nào đó, một sự tình cờ, gặp gỡ hay chính đêm tân hôn.
Nhưng đến khi nghe Khuông mở miệng nói những chuyện không vui tý nào, họ cũng không tẩy chay, không “đả đảo”. Có lẽ vì họ nói chuyện đã nhọc, đã chán; cũng có lẽ vì họ ngạc nhiên thấy một anh Khuông rất khác, bi quan, đạo đức, không phải anh Khuông thường ngày nói chuyện gái một cách thản nhiên.
Khuông hơi ngà ngà: chàng đã uống nhiều rượu; tâm hồn chàng hăng hăng ấm ấm, lại thêm sáng trăng kích thích, như xui chàng diễn thuyết hay cung khai.
Khuông nói:
- Ồ? các em bé của tôi thèm khát đến thế hay sao? Tội nghiệp! Các em còn mới mẻ thực. Thân thể! ôi thân thể của chúng ta! Tôi giết hắn đã rõ lắm rồi, các em ạ!
Bọn mình còn trẻ, còn xanh, sức lực quá giàu chỉ chờ tiêu bớt. Lửa mùa xuân sôi nổi, bồng bột lắm mà. Những điều thích thú chói lọi hào quang trước mắt mở rộng của ta. Ta vây bọc một thứ bụi vàng chung quanh những thân hình ước mơ. Ta nghĩ cái thú toại thịt là cái thú của thiên đường, ta mong được lên từng trời thứ bảy; ta ao ước, khao khát, thèm thuồng, van xin; chỉ vì các anh chưa được nếm một cái quả, nên các anh chảy nước miếng, các anh ăn trước bằng tưởng tượng. Nhưng hai tuần, một tháng sau khi đã bước bước đầu! Ðê vỡ hẳn, nước tràn ào, không ai gìn giữ nữa. Ta vồ lấy thú vui, như mất trí. Tôi biết một người chỉ tiêu trọn cái thanh niên của họ trong hai tháng mà thôi!
Và có những người, các anh nghe chưa? Sụp ngay sau nước đầu. Ai thấy mà họ không nói: một toà thân thể, một lần sức lực, nghĩ là một kho khoái trá. Song họ chỉ chắc chắn ngoài mã, mới vừa châm có một mồi lửa, thì ôi thôi, họ đã sụp đổ, ho lao...
Rồi cái choáng ban đầu tan đi, ta không ở trong sương mờ thần tiên nữa, ta nhìn thấy thân thể ta. Thân thể! Ôi! một đứa trẻ con không biết gì đau bụng, không nghĩ đến cam tích và sán lãi, không nhớ những đêm sôi quặn ruột, chỉ vòi kẹo, đòi bánh, mãi mãi, không chừa. Một đứa trẻ ham hố, chỉ được cái cam đảm yếu hèn là thèm muốn tha thiết. Ðứa bé nhai đường, đường rẻ mạt hạng, đường xấu, đường đen; rồi hết cơn ăn, nó nghe ai xát vào lợi. Và ăn mía, rách cả lưỡi! Uống sữa nóng, rốp cả miệng! Thân thể! Một thằng trẻ con!
Sau cái choáng ban đầu, ta nhìn thấy thân thể ta như một người nào khác.
Một bên nói: ngươi đừng như thế nữa. Ngươi làm ta khó chịu vô cùng. Ngươi lại làm ta xấu hổ, nhục nhã. Ðó là trường hợp anh Thuyên. Một đêm kia, anh lò mò trong một cái nhà lá tối om, sờ soạng đi tới chum nước, ngụm đầy một ngụm nước lạnh. Ðể làm gì? Ðể phun vào dưới cửa buồng, đặng mở cho khỏi kêu. Ði rón rén, sợ vấp, sợ đụng chạm, sợ té ngã, sợ bị nghe. Sợ tiếng ồn, sợ ánh sáng, sợ mình, sợ người. Ðể làm gì? Ðể nhận một cái tát tai mà không dám kêu, chỉ lo rằng cái tát kêu quá, có thể làm người ta thức dậy. May mà người con gái đần độn lại ngủ ngay, nếu la lên thì chết. Thuyên mừng rỡ, vội vàng về chỗ để sáng sớm cút ngay.
Một bên nói: “ta cấm ngươi”. Còn một bên nói: “Tôi đói! Tôi khát!” Rồi thì làm nũng, uốn éo, van xin. Người ta không nghe thì nổi lên lộng quyền tiếm vị. Và sau khi đã dằng co kình địch, thân thể bèn được như ý. Rồi thì thân thể lập tức làm người yếu, người đau “tôi mệt, tôi nhọc, chăm sóc cho tôi, tôi chết đây!” Rồi bên kia, quá lo lắng vì quá hiền từ, phải thuốc thang bồi bổ. Và ngầy ngà, trách móc: “Ta đã dặn trước, sao ngươi không chịu nghe? Bây giờ ngươi sụp ngã, khổ lây đến ta, phiền cho ta quá!” Rồi vừa an ủi, vừa càu nhàu, chúng ta nói tỷ nói tê, nói thầm nói thỉ với cái thân thể như vợ khuyên chồng.
Một buổi sáng, cái mình thức dậy, nghe mỏi mệt từng đốt xương, nghe từng khớp xương rời rã. Người ta bắt đầu bẻ ngón tay, kêu lốp rốp. Rồi đứng uốn vai, uốn lưng, hai tay vươn lên trần nhà, hai chân nhón lên, miệng ứ dài một tiếng chán nản. Và chỉ muốn lăn lại nơi gường ngủ vùi thêm một giấc khỏi phải dậy nữa, như ai đổ một đống thịt không xương. Phải đi tắm để cào bao nhiêu móng tay vào da, cho máu chạy hăng thêm một tí.
Ấy là chuyện mỗi ngày. Vài hôm bớt đi, rồi cả thân thể lại uể oải. Còn nữa: đợi ta đọc sách, mắt ta xây xẩm đi. Buồn cười cho anh Ðông...
Có ai còn nhớ thằng Ðông khi xưa, mập mạp ấy không nhỉ? Một bận nó cứ than rằng đau mắt. Nó thấy cái gì cũng mờ mờ. Tưởng vì ban đêm đèn chói, hay đâu ban ngày cũng vậy. Một người bạn cắt nghĩa cho nó: “Anh khởi sự đau mắt hột chứ gì, khi trước tôi cũng thế.” Ðông bèn cắp sổ đi nhà thương chữa mắt. Ông đốc tờ khám, ban cho Ðông một câu: “Mắt anh rất thường, rất như thường”. Ðáng lẽ phải sung sướng. Ðông lại năn nỉ: “ Không tôi đau... đau mờ...”, chưa kịp nói hết thì đốc tờ bảo:
- Mắt anh chả cận thị mà chả viễn thị, không đau gì hết. Tôi biết lắm, người ta chỉ ưng mang kính trắng để ra vẻ trí thức. Anh về đi!
Ðông tiu nghỉu. Về ngạc nhiên với tôi: “Mắt mờ thế này mà tốt”. Thằng ấy ngây thơ quá, tốt bên ngoài chớ sao; xấu bên trong, đốc tờ biết sao được, Ðông nức tiếng là “hoang”...
Nào có mờ mắt thôi đâu! lại còn thế này nữa; một hôm, một buổi chiều... ta sợ đau sốt rét vì nhiều muỗi, ta uống hai viên ký ninh. Bỗng nhiên ai đánh trống nho nhỏ đều đều vào lỗ tai; lắng kỹ: ai lắc màng tai mình, nghe bùng lên, kêu vù vù. Hai viên ký ninh, có gì mà kêu giữ vậy. Tai ta vốn đã chờ sẵn để đánh trống, vì ta quá hoang chơi...
Còn cái đầu! nhiều đêm người ta có cảm giác như sọ sắp bắn tung xương, vì máu dồn lên nhiều quá.
Không phải nhức, mà nặng, mà chật, muốn vỡ đi. Ước gì gối lên một hòn núi cao, cho máu không dồn lên được. Còn những hiện tượng nào nữa, những quảng cáo dài dặc đã nói với anh rồi. Thân thể! còn gì phiền nhiễu cho hơn?
Cũng không cần có bệnh mới đau. Tôi đã nói nhiều kẻ sụp ngay nước đầu... Và cả những lúc đương yếu như thế, thân thể có chịu nằm yên để ta chăm sóc cho đâu. Thực là trẻ con: đau mà vẫn cứ vòi quà. Trời ơi, khó ngăn cản làm sao! Thân thể ta ở trên một con đường chuồi, chỉ chực lăn xuống, xuống thấp, thấp đen, đen tối. Lấy lý gì cắt nghĩa điều ngu ngốc thậm tệ ấy? Chẳng phải có một sức mạnh vô hình, một sức mù, nhưng mạnh nó xô đẩy ta ư?
Chỉ những thanh niên như chúng ta, hay những tay bất trị mới đi ca tụng thú vui. Nếu ta rõ ta, ta sẽ đau đớn, ảo não. Mỗi lần nhượng bộ là mỗi lần thua. Rồi ta đến cái thái độ bi kịch này: ta ghét thân thể ta, và vì thế muốn lăn nhào vào cung truỵ lạc, phá đi cho hỏng luôn một thể. Dường như nói: “đã thế thì ta chơi nữa, mặc kệ ngươi đổ nát cho rồi”. Cũng như đưa một thúng bánh cho trẻ con, vì thấy nó tham ăn vô độ.
Lắm khi người ta đi chơi chỉ để thoát ly một sự quấy nhiễu.
Trong khi ta chúi mình vào, ta vẫn nghe một thứ cay đắng âm ỷ, huống chi là sau...
Ta vâng theo một sức đẩy xô, chỉ có thế!
Và các anh, các bạn! Sao không ráng lùi lại thời kỳ tự phá, giữ cho lâu những bắp thịt của ngực nở, của tay cứng, của chân vặm? Ta sẽ thấy chán chường, buồn tởm, sau những cơn đầu; ta sẽ khóc theo sau tuổi trẻ, ta sẽ thấy tủi nhục vì tự thấy ở dưới quyền áp chế của một sức mãnh liệt, xảo trá, nó để cái rát lưỡi liền sau vị ngọt ngon; ta sẽ già. Ta gì? - chính tôi đó!
Khuông cười lên một tiếng lớn, cố ý tự chế nhạo mình để khỏi ngượng về bài thuyết lý trái thời của chàng. Chàng đứng vùng dậy, vươn vai, hút một ngực đầy không khí. Và hăng hái nói:
- Khi người ta có hai mươi tuổi! Hai mươi!
Sông Hương vẫn làm duyên... Bởi một sự gặp gỡ ngẫu nhiên, phong cảnh dường như trong trẻo hơn vì đêm khuya và im lặng, cũng như linh hồn của bảy chàng niên thiếu sáng sủa cùng với trăng cao. Đêm chầy. Chiếc thuyền rộng rãi nhờ đi suông trùng trình mạnh hơn, vì gió hơi cứng.
Một tiếng gà sang sảng gáy, chói chang vang động trong bóng nguyệt linh lung. Đêm chầy... Trời trong vắt, mênh mông giăng rộng trên núi xa nghĩ ngợi và cây gần mơ yên. Anh Phú sính thơ, gật gù ngâm lên mấy câu thuộc lòng, như kể kết thúc cho bữa tiệc nói chuyện :
Tim sẽ vỡ như tiếng còi vỡ nổ,
Nếu tình cờ tìm thấy chất trong không
Bao nhẫn nhục phải chịu cùng xấu hổ,
Để được ôm một xác thịt vào lòng 1.
Nhưng Khuông chưa bằng lòng những câu thơ, tuy chàng mê tiếng ngâm mặn mà của Phú. Chàng lập tức đính chính:
- Tim sẽ vỡ hơn tiếng còi vỡ nổ, hơn chiếc bình thủy tinh chạm cán quạt ngà; nếu ta thấy bao nhiêu tủi nhục đớn đau vì thân thể ta, trái tim sẽ nổ như một cái hộp gang dòn đập dưới một ngọn búa lớn!.
Chú thích:
1.
Nguyên văn của ANNA DE NOAILLES
Sợ
Truyện ngắn tâm lý
Đôi mắt nàng nhỏ và Tàu. Mi chẻ hơi xếch lên, màu xanh trong không khi nào mở rộng để ngạc nhiên hay giận dữ. Và hẳn không có những chấm vàng điểm lửa nó làm cho người ta tưởng thấy những chiếc cổ thuyền chạy trốn "trên bể cả mênh mông".
Những lông nheo dài óng ả, uốn cong lên, chỉ thêm một vẻ tương phản đặc biệt, xui những người nhìn càng bối rối thêm. Mắt đẹp cô Phi che dấu một linh hồn luôn luôn ở trong thầm kín mơ hồ.
Mà cả đôi má hồng chỉ phơn phớt bình minh, cả nét môi chúm lại chỉ thắm vừa vừa, cả khuôn mặt nhỏ nhắn cám dỗ người, cũng á đông như cô Phi e lệ.
Phi đã mười tám tuổi, nhưng vẻ đơn giản của nàng gần như là sự ngây thơ. Thực ra, nàng cũng đã biết yêu rồi: ái tình ở xã hội đời nay làm quảng cáo khắp cả mọi nơi, người ta thở nó cùng với không khí. Lòng nàng êm, êm biết mấy, mỗi khi nàng thêu đôi chim nhạn hay một cành mai trên áo gối, và dịu dàng đan hai chữ "Ngủ ngon". Nhưng Phi nghe ái tình như một bóng trăng; lòng nàng bảng lảng sương mờ, nàng cũng không đủ chú ý để gọi tên sự mới mẻ vừa đến trong ấy.
Có một điều chắc: Phi không lả lơi, bồng bột. Nàng vừa lớn lên. Nàng ít nói, tuy hay cười, - cười vừa đủ để có duyên thôi. Nàng chỉ nhè nhẹ, thơ thới, không sâu sắc, đắm mê; nàng á đông, á đông từ đầu xuống chân, từ trong lòng ra ngoài mặt.
Và ấy đó, nỗi thắc mắc của người yêu nàng. Châu được Phi "thương", vì Châu đã bắt đầu tỏ tình một cách rụt rè ý vị. Thương hay yêu? ở Huế đây, người ta xô bồ trong một chữ nửa chừng. Kẻ tình nhân phải sờ trong giọng nói chữ thương, phải vào trong lõi của tiếng chập chựng thả một cách ngọt ngào, phải len và tìm gặp ý sâu, cũng như trong một chuyện Tàu, chàng trai rón rén luồn tay trong tay áo rộng của nàng duyên...
Châu không láu táu như rất nhiều thanh niên ở Thần Kinh, họ đưa sự chòng ghẹo đế sự vô lễ: khởi sự yêu, chàng e ấp, giữ gìn, chàng làm hèn mọn để bớt tính kiêu hãnh tự nhiên. Mà nhờ vậy, không gì hợp với lòng Phi cho bằng lòng Châu, - lòng Châu khi bắt đầu yêu mến.
Khi biết nhau, hai người chỉ cần trao đổi những lời đại khái "chúng ta trẻ, mùa xuân đẹp, và tình yêu thiêng liêng", nhưng khi sống dài ngày với nhau, trời ơi! Nàng không đồng ý với tôi nữa: mặt trời của tôi đỏ mà lại vàng, có pha một chút xanh và có hòa một chút tím, còn mặt trời của nàng thì chỉ đỏ mà thôi!
Buổi đầu từ biết đến yêu, Châu và Phi đồng một niềm dịu dàng, êm ái. Có Châu, Phi khoan khoái, thấy sự sống dễ chịu và xinh hơn. Có Phi, Châu nghe tâm hồn phơi phới như một làn gió hẩy. Châu vừa là một anh lớn của Phi, vừa là một bạn ngoan, vừa là một tình nhân. Phi yêu Châu lúc nào không biết, đến khi biết, thì Phi đã yêu rồi.
Châu thì biết lắm, chàng thấy rõ chàng yêu; cái đơn sơ của chàng chỉ là sự rụt rè, sự ngạc nhiên vì chưa tin được rằng có kẻ yêu chàng. Hai người hợp nhau lắm. Lúc đầu tiên,nhưng đôi cặp chỉ kịp nghĩ rằng người này yêu người kia, mỗi bên đều bận vì việc "có một người mến yêu", và chưa tưởng đến cách yêu mến.
Sự rung động của nàng, Phi cũng biết đó là ái tình. Nhưng nàng yêu chính vì thấy lòng nàng thích trong bầu không khí mới này, cũng gần đồng loại với cái thích dưới một sáng trăng Nàng có tình một cách vô tình, như trẻ con, như đàn bà. Nàng không viển vông, không nghĩ ngợi, nhất là không biết đến cái triết lí hứng khởi của tình yêu. Yêu là dễ, yêu là thường: một cách ăn cơm, một sự đẩy xô của trời đất.
Thực nàng không xét, không rõ; nàng phớt qua trên mặt,nàng không đến trong tim của ái tình. Vậy đó, nàng yêu như vậy đó, cũng như nàng lịa ngón tay đẩy cây kim luồn trong vải, kéo theo sợi chỉ trắng nó lẩn trong áo trắng; ngồi may mà không nghĩ rằng mình may...
Mà sao nói được thứ mù mờ trong lòng Phi, trong lòng á Đông, vâng, của xứ á Đông nhác lười, bơi trong sự mang mang diêu diếu, làm việc cũng như nằm mơ, không dò la, lục soát, không tự biết, huống chi phân chất, giải phẫu tình yêu! Chả trách Châu buồn, ngay tháng sau, khi chàng đã nhiều bận gần Phi. Nàng yêu chàng chứ sao không; không yêu sao lại tiếp chàng, dầu phải dùng đến mưu mô dấu diếm. Không yêu sao lại nhớ, sao lại nằm chiêm bao; nói như Phi, "không yêu sao lại... sao lại gì, anh biết lấy".
Mà Phi yêu Châu, đó càng là một lẽ để Châu yêu Phi càng hung. Chàng bồng bột thanh niên, sung sướng hay âu sầu, chàng đều lộ mà không che. Và bởi vậy, có lần chàng đã chịu tiếng oan: lơi lẳng.
Vẻ điềm tĩnh của Phi khiến chàng mất trí bao nhiêu lần. Phi đẹp, đẹp mà ẩn nhan sắc, đẹp bắt người ta phải tìm. Ôi, cái miếng đất ở trong linh hồn Phi, miếng đất chắc chưa ai vào được! Ôi, bí mật của bình yên! Lẽ nào lòng Phi chỉ có sự bình yên, nghỉ ngơi. Nàng không biết nàng, cho nên chàng nóng muốn biết.
Châu thường buột mồm than vãn: "Có lẽ, có lẽ ta là một linh hồn âu Tây lạc giữa thế giới ác ý, thầm trộm, dấu che này, lạc giữa á Đông mù mịt như sứ chiêm bao, đêm lửa bừng nóng để làm sôi nổi một sự thản nhiên nó không sôi nổi bao giờ, đem gió băn khoăn uổng công xáo trộn những hồ đứng sững".
Lời chua chát ấy Châu không dám ám chỉ về Phi, tuy đôi mắt u uẩn của nàng bóp lòng Châu một cách vô lý. Chàng ngó soi vào màu xa vắng của đôi mắt đẹp, làm cho Phi phải ngoảnh đầu nơi khác, và hỏi:
- Cái gì thế, anh?
Bắt đầu từ lúc này, Phi thấy Châu có hơi kỳ lạ.
Chỉ vì Châu không ngừng lại nơi sự êm dịu buổi đầu. Chàng yêu, chứ chẳng thương hay mến. Tình của chàng không như dòng sông thỏa mãn chảy vào trong một cái hồ rồi thì đứng lại để tự ngắm nghía sự bình yên. Tình chàng mãnh liệt đi phăng, tới luôn, tới trước, càng lâu càng rộng lớn, để một ngày kia ra nơi biển cả, được biết cuộc sống phong ba của những làn sóng không nghỉ bao giờ.
Chàng quan niệm ái tình như một sự tiến tới: cho thêm, đòi mãi, yêu dấu thêm luôn. Chàng không hề ghì sự mãnh liệt của lòng chàng, nó bồng bột trong rượu, trong men, trong lửa hồng đỏ mãi. Chàng biết rằng hoa ái tình dễ nở dưới ánh mặt trăng, nhưng thế nào rồi cũng phải soi ánh mặt trời mới có những màu rực rỡ nguy nga.
Phi, trái lại, chỉ có một tâm hồn đàn bà. Nàng ưa sự xinh xảo, sự vừa vặn, đều đều khuôn khổ như núi Ngự, sông Hương. Nàng thực lòng yêu "anh Châu" của nàng, nhưng tình cô thiếu nữ mơ hồ điềm đạm quá. Nàng sung sướng được Châu yêu, nhưng nàng không dám thấy Châu yêu đến bực nào. Nàng đoán rằng ở đâu đó - hay ở trong lòng người yêu nàng? - có một thế giới khác. Nàng bắt được một cảm giác riêng: tựa hồ nàng ngủ một đêm, bỗng thức dậy giữa một chân trời đặc biệt. Nàng bỡ ngỡ, nàng lưu lạc dưới trời mới mà nàng đã thấy được một cách mập mờ.
Châu tha thiết quá, tình chàng rộng lớn và sâu xa, rất dồi dào, giàu có. Phi thấy chàng không giống Phi, tuy hai người vẫn yêu nhau. Phi bất giác nghĩ đến sự mênh mông, khi nghĩ đến tình của chàng. Phi giản dị, á Đông đến nỗi nàng không tự biết nàng cơ; thế bảo nàng biết Châu sao nổi? Nếu Phi hiểu rằng đó là Châu yêu nàng rất nhiều, thì cũng không sao. Nhưng rồi nhất là Phi chỉ biết rằng có cái mới, mà không biết cái chi mới, và cảm giác ấy biến thành một cảm giác không gian: nàng tưởng mình đặt chân lên một hoang đảo nào, hay tình cờ đứng giữa sa mạc.
Một thứ ngạc nhiên điểm thêm đôi luồng rờn rợn làm nàng hơi run rẩy, mỗi khi nàng đọc thư của Châu.
Châu để cho chàng viết những lời rượu mạnh, không điều độ theo lẽ thường. Chàng nói sự băn khoăn khi thấy Phi chỉ êm đềm quá luôn luôn thành ra dửng dưng. Chàng không dấu nổi thắc mắc mỗi lần nhìn đôi mắt huyền bí. Những đoạn rối rít không có thứ lớp, nói những điều phiền phức, quanh co.
Tình yêu có biết mực thước bao giờ! Lúc nào người ta cũng quá đáng. Người ta thư thẩn một cách dễ dãi, và không hiểu vì sao những điều cỏn con, những ý vụn vặt lại bỗng dưng hệ trọng lên, có thể làm ngạt được người viết thư cũng như người xem thư. Nhưng Phi hiền lành quá, Châu mê đắm chẳng nhầm người rồi! Phi rối vì thư của Châu, ngợp vì tình của Châu. Một lần nàng nghĩ quá mau: "Dễ thường anh Châu của ta hơi điên". Rồi tuy nàng rất hối hận vì ý gở và vô lý của nàng, nàng thấy sợ...
Sợ, phải rồi! Phi sợ! Chính cảm giác mờ trong bấy lâu, bây giờ Phi mới thấy. Đó là một sự thực mà người ta không nên quên: tình yêu nhiều làm cho ta sợ.
Có phải không, tình yêu đã to lớn, mênh mông, thì có khác gì một sông to, một biển cả đâu! Người ta ngợp vì thấy tình nhiều, bởi vì bao giờ cái nhiều cũng làm ta tự thấy mình ít; ta không kịp ngó, ta cảm xúc không hết, ta thấy cái nhiều tràn ta, ngập ta, lụt đến quá cổ ta! Ta sợ khi nhiều hay nhiều trời, nhất là nhiều sắc xanh rờn rợn của không gian; huống chi nhiều ái tình, một thứ không gian và thời gian vô hình ảnh. Nếu gió mát làm ta ngợp sợ, thì sự quá êm đềm, quá thiết tha, quá yêu mến lại xui ta sợ sệt đến bao nhiêu.
Có ai thấy những đứa trẻ con xin bánh không? Nếu cho nó một cái, nó sẽ xin mười; cho nó năm mươi cái, nó sẽ ngạc nhiên, và nếu đưa cho nó cả một thùng bánh to, nó sẽ rợn rùng và sợ người cho nó.
Châu cho Phi nhiều quá, Phi nhận không kịp, nhận không hết, và linh hồn con gái của Phi không biết làm gì nhiều như thế kia, Phi không dám nhận nữa. Phi vẫn yêu Châu, nhưng tay nàng tự thấy rơi tình, cứ muốn buông ra, để được thong thả xếp vào nơi ngực. Phi sợ!
Cái sợ mập mờ, không rõ từ đâu và vì sao, nhưng cần chi biết nguồn gốc mới nghe một cảm giác? Phi không dám đưa chén nước của nàng đổi lấy một bể triều lên. Nàng sợ, nàng sợ...
Rồi một đêm, Phi nhận được một cái thư, lần này ngắn:
"Anh thắp đèn lên để chép cho em Phi - em Phi rất yêu, quá yêu - mấy dòng mà anh đã đúc trong bóng tối. Phòng của anh đóng mít bóng đọng lại đen dày. Anh ngồi trong mực, xem thử linh hồn anh có sáng không".
"Nó sáng! Nó chói sáng! Nhờ mang hình ảnh của Phi".
"Phi, em Phi! anh yêu em không biết ngần nào, khi nói câu ấy, anh tưởng ngực bóp lại để rút đời anh ra tặng em; anh yêu đứt ruột, yêu quặn lòng, điên dại, ghê gớm, yêu tưởng giết được người, yêu tưởng chết. Em có thấy máu của hồn anh trên giấy chăng?"
Trời ơi, hai tay Phi run lên, Phi sửng sốt cầm tờ giấy nét chữ có góc như gươm nhọn. Phi hoa mắt thấy hai tay đỏ máu; nàng chùi hai tay vào vạt áo dài trắng và nhìn...
Máu? Chết? Giết? Thực là quá vai của Phi, quá lòng của Phi, Phi không mang nổi. Chân Phi yếu lắm, gánh tình nhiều quá, Phi sợ, Phi sụp!
Nàng hết dám yêu Châu.
Từ đó...
Mà thôi, kể lại làm chi chuyện chia lìa, rời rẽ. Không lỗi của Châu, càng không lỗi của Phi.
Chỉ biết rằng Châu đã được một bài học khôn, giá bằng nước mắt. Và một lần, Châu nói với người bạn thân thiết tâm sự chàng:
-" Tại tôi. Tôi đương nhiều lý tưởng, đầy thanh niên, tôi hăng hái, sôi nổi quá".
- "Nàng như một cành lá hổ ngươi 1, tôi không biết dỗ dành, chậm rãi; tôi chỉ giỏi mãnh liệt, tôi không có cái thuật nhẹ nhàng".
"Không phải tôi thô, nhưng tôi động mạnh vào cây; lá hổ ngươi khép lại rồi, anh ạ!"
Một lần sau, không biết nghĩ sao, Châu cải chính lại, mặt rầu rĩ:
"Nàng như con ngọc trai, chỉ hé mở khi nước biển bình tĩnh êm đềm. Tôi quá xôn xao, tôi ưa gió sóng, nên trai đã đóng lại rồi, và than ôi! Đã giữ lòng tôi lại trong ấy".
Chú thích:
1.
Cây trinh nữ.
Cái Hỏa Lò
Mẹ của Siêu, Siêu gọi bằng má. Má Siêu xa thầy Siêu, về bên ngoại ở, Siêu con cá nhỏ giữa hai dòng nước, được về với má trong ít lâu. Siêu kể lại một kỷ niệm thời ấy. Các bạn ơi, hãy nghe chuyện một cái hỏa lò. Người ta rủ nhau đau khổ vì một ít đất nặn lại.
Khi lên sáu, không biết trời dun dủi thế nào, tôi được rời nhà thầy tôi trong hai tháng, về ở với má tôi, tại nhà bà ngoại.
Ôi thiên đường ở nhà bà tôi! Mình tôi nhẹ bông, không khi nào chịu đi từng bước, chỉ nhảy và chạy. Tôi sung sướng, tôi nở khắp toàn người, tôi sung sướng.
Một bữa trưa, cơm dọn rồi trên phản gỗ. Có cá chiên, có tôm kho, có rau và canh, có cả thịt nướng. Hôm ấy ê hề quá! Tôi đã ăn bằng mắt đến hai lần rồi. Khi bà tôi và mọi người xúm quanh mâm, tôi trèo lên phản để ăn bằng miệng. Tôi vừa cầm đũa, toan gắp thì bà nói:
- Siêu, mày không mời má mày ăn cơm à?
Tôi mới hay rằng má tôi còn ở dưới bếp. Vậy đó, mấy người đàn bà hay làm bộ, để "ăn sau" hoặc ít nữa cũng đến muộn. Hễ trong một gia đình, có dì, mợ, hay chị, ba bốn người, thì tất nhiên họ nhường lẫn nhau. "Chị lên trước đi! Em bận tay chút nữa". Thế rồi, ai cũng cố là người lên sau cùng.
Tôi chạy xuống nhà dưới: vòng hai tay lại cho có lễ phép:
- Dạ thưa má lên ăn cơm.
Má nói:
- Con lên ăn đi, má ăn ở đây.
- Không, bà bảo lên mà. Má không nghe bà giận.
- Con lên thưa với bà, má đã có thức ăn dưới này. Vừa nói, má tôi vừa bưng một niêu cơm nhỏ để trên chiếc chõng con. Thức ăn là một chén muối vừng mà tôi chắc mặn muối lắm, vì nhiều màu trắng, ít màu vàng. Xới cơm vào chén rồi, má tôi cười yêu:
- Con lên mau đi, kẻo người ta ăn hết. Hay là con ở đây ăn với má?
Không, tôi chả ăn đâu, muối vừng ngon sao cho bằng cá thịt.
Tôi đến thưa bà:
- "Má đương ăn ở dưới bếp".
Bà nói: "à phải, má mày nó muốn ăn riêng".
Ăn riêng? Một tiếng lạ. Tối đến tôi sực nhớ bèn hỏi chị Bốn, chị cắt nghĩa cho tôi hiểu: ăn riêng tức là để vốn riêng; buôn bán lấy lời, ăn cơm của má kiếm ra chứ không ăn lụy bà mãi. Chị Bốn cũng như tôi là cháu ngoại của bà, cha mẹ chết sớm, chị nương nhờ ở đây đã mười tám năm. Đủ hiểu rồi, tôi đến thỏ thẻ với má tôi:
- Chỉ có muối mè 1, thì ăn chung có hơn không. Má ăn như vậy, chắc xẵng miệng lắm.
Má xoa đầu tôi:
- Mày sang lắm nhé! Muối mè đã ngon rồi. Chớ hồi má đẻ con má ăn cơm với muối rang không thì sao. Ăn như vậy gần hai tháng. Lại còn đau nữa, đau mê man. Mà thuốc thang có gì đâu? Chỉ có nước tiểu xin của thằng nhỏ bên láng giềng, bỏ thêm một chút tiêu sọ.
Eo ôi! má tôi can đảm quá! Riêng mấy người đàn bà đẻ mới chịu khó được đến thế. Tôi dụi đầu vào cổ má, vuốt cằm và nói mơn:
- Má chịu khổ vì sinh ra con đó.
Cách mấy ngày sau, tôi đương chơi "làm nhà" trong sân bếp, gần đống gạch. Tôi lụi hụi đặt viên này, chồng lên viên khác, đã làm thành một cái lầu hai tầng. Chừng ấy sao đủ? Tôi bèn cất thêm một cái lầu nữa: có đi đi về về mới vui.
Trời nhiều mây, nên tuy còn sớm nhưng trông đã tối. Chị Bốn ôm rổ ở chợ về, hai chân vội vã, tà áo dài đen làm gió sau mình. Bảy tám con ruồi túa theo sau rổ, chị vừa đặt xuống thì chúng ồ lên.
Tôi nghĩ: "Đấy, tụi nó đến nhập đàn ruồi ở nhà mình". Tôi nhớ ngay đến cái quán nước của bà Gồng, nơi tôi thường đến mua khoai lang, và lẩm bẩm: "Khi nào bán xôi đậu đen, người ta không biết trong đĩa xôi hột nào là ruồi, hột nào là đậu. Sao họ ăn được nhỉ? có phen nuốt ruồi vào bụng chứ chẳng không. Bà Gồng phải lấy một cái chai trắng, đổ nước vào quá nửa, rồi quệt đường bên trong cổ chai. Thế là các chị ruồi mon men theo dấu ngọt, bò dần vào, cho đến lúc xa quá sẩy chân, rơi ùm xuống nước. Rồi bơi, bơi như trong hồ. Nhưng đời nào thoát được chứ! Từ mai đến chiều, bà quán được gần đầy một chai đen! Thằng con mắt nhọ nhem thấy cái kết quả ghê tởm ấy lấy làm thích chí lắm".
Chị Bốn bưng rổ thức ăn vào bếp, chị nhìn quanh, khi nhìn đến chỗ để cái hỏa lò thì cái hỏa lò đã bị má tôi chiếm rồi?
Đã tối, rối thêm. Lấy gì kho cá cho bà ăn cơm. Chị Bốn hậm hừ nói to gì đấy. Má tôi không nhịn cháu, nói lại. Nhất là trong lòng: chắc má ức, má ghen, má xẳng xớm trong lòng, vì thấy má rời nhà cửa rồi, không còn chặt chẽ bằng một người cháu ngoại. Mà hễ má giận thì tôi rất thương; má có hay đanh đá cùng ai đâu! má được tiếng là hiền hậu, thiệt thà, ai ăn hiếp cũng được.
Bây giờ sự chếch mếch tăng thêm, tôi nghe tiếng dằn vặt bát chén, tiếng đạp thúng hất nồi, tiếng cãi gắt. Khi má tôi đi nhổ miếng nước trầu, má tôi ngó tôi như người không quen biết, má không chú ý tới tôi. Lần thứ hai đi ngang qua, má nạt:
- Siêu! mày có đem chất gạch lại không? Mày khuấy thế à? Của của bà, chớ của mẹ mày đâu? Dẹp lại!
Tôi tiu nghỉu, vội vàng tháo cái nhà công phu xây dựng, đã liều mặc hai tay trầy sướt, đã quên không sợ gạch rớt giập chân. Nhà mới làm xong, chưa được ở thử, nhưng thôi! Cái vách này dỡ đi, cái cửa này lấy ra, cái mái nhà này để làm gì? Và cả tầng lầu thứ ba, hãy dẹp đi nốt!
"- Thế đấy, mẹ con mình ở nhờ ở cậy, ăn chực ăn xin. Mẹ con nghèo xác xơ, chẳng có gì hết. Ai muốn đuổi mà chả được. Bơ vơ... bơ vơ..."
Siêu nghĩ thế, tủi thầm, nên tay Siêu chạm chạp. Vả lại rinh xuống thì dễ, rinh lên thì khó, nên thu dẹp rất lâu. Chết! tiếng xẳng xớm càng to, chắc bà nghe thấy mất! Má đi hỷ mũi. Vì khói hay vì khóc? Má khóc tức nhiên Siêu phải khóc lây. Siêu rơm rớm nước mắt. Nhưng Siêu ngậm miệng chặt. Khốn quá, cái gì ùn lên cổ, miệng cứ muốn phồng ra. Ráng ngậm chút nữa thôi, chút nữa thôi, cái ấy sẽ tan liền; nếu mở mồm tất phào ra mất. Đấy, đã hơi muốn hạ rồi đấy, Siêu không dám động tay chân, như những khi bưng một chén nước đầy cho bà súc miệng.
Nhưng bà đã nghe tiếng cãi cọ. Bà đi xuống bếp tay cầm cái roi. Không phải đánh Siêu đâu: đời nào? Thế đánh ai đây? Má, chắc đánh má. Siêu sợ giùm tưởng tượng đau ở mông và nghe một tiếng "trót". May thật, cổ Siêu bớt phồng một tý, nước mắt chạy đi đâu bớt một phần. Nhưng chỉ sụt một tí ti thôi; đang còn nặng cuống họng lắm.
Bà thở dài một cái, nói to mà như ngăn lại không cho tiếng ra:
"Kình lộn! Kình lộn! Bếp với lò! Dì với cháu! không biết của chi nhà bay mà bay giành nhau?"
Tiếng má và chị Bốn đáp lại cùng một lần, nói cả giây, cả lũ. Bà đến dơ roi quất chị Bốn: chị khóc hu hu, hai tay chị xoa xuýt nơi mình, chị kêu: "Tội quá, tội quá!" nhưng chị cũng chưa hết cãi. Bà giận lắm, đá ngay vào cái hỏa lò:
- Còn giành nhau nữa thôi? Giành! Kình!
Cá với lửa, với đất trộn nhau, nước vào than, kêu xèo xèo. Luôn giận, bà đổ rổ rau, bà đập trã canh, bà hất mớ tôm chị Bốn vừa bóc vỏ. Chỉ trong nửa phút, bao nhiêu thức ăn tan tành.
Nửa phút gấp ấy, cổ Siêu lại phồng lên lại, nước mắt góp mau thêm; thấy chuyện dữ, Siêu kinh hãi, không biết trong lòng Siêu đương như thế nào. Lệ đã lăn vài giọt xuống má. Nhưng Siêu găng, thế còn mạnh lắm, miệng ngậm cứng, hai hàm răng khít nhau: Siêu đương giữ một bờ đê không cho vỡ lụt. Dường như gân cốt cả người dồn lên nơi cuống họng. Ngực cũng dội lên. Bỗng Siêu nghe năm tiếng "trót" tiếp nhau: chị Bốn đã bị bà đánh thêm, đau quá; chị vừa kêu vừa khóc tầm tã. Bà thét, bà nói, chị khóc; ôi, cái hỏa lò khốn nạn, cái hỏa lò!
Bục một cái, đê vỡ rồi; bao nhiêu tiếng ào ra, hết mong, hết nín! Siêu vùng chạy một mạch, khóc ré lên. Chao ôi nước mắt, ở đâu nhiều thế này, Siêu lấy tay áo quẹt mà không dứt. Và cái ngực! Nó phồng lên! Và cái cổ! Nó kêu to, chốc chốc nấc một tiếng. Ôi cái hỏa lò ác nghiệt, cái hỏa lò bằng đất, cái hỏa lò!
Siêu nép sau một cánh cửa, khóc như gió như mưa. Siêu ngồi sụp xuống, để trút ra bao nhiêu nặng trĩu trong lòng. Siêu khóc, Siêu khóc...
Khi Siêu đã khỏe, Siêu nghe tiếng chân bà ở dưới bếp đi lên. Siêu vội lẻn trước ra sân, sợ bà thấy, sợ thấy bà. Siêu nghe cái gì mới mới trong mình. Siêu đã nín.
Nhưng Siêu buồn, buồn lắm. Còn gì nữa đâu! Nồi niêu đã vỡ cả, cá thịt đổ cả rồi; nhất là chị Bốn đương đau, má đương buồn, bà đương mệt vì giận. Biết đâu bà không khóc? Bà lại sung sướng gì sao? Ôi, cái hỏa lò, vì mày mà nên cơ sự.
Thỉnh thoảng, Siêu thít một tiếng, ở đâu trong mũi còn sót lại. Mắt Siêu như mới rửa, nước còn đọng nơi lông nheo, hễ nhíu lại mà trông ra thì thấy cây cối đến rung mờ.
Siêu đi thơ thẩn ra ngoài đường. Những người láng giềng hỏi Siêu:
- Em khóc hay sao mà hai ống tay áo ướt vậy em?
Té ra họ chưa biết ư? Cơm gạo đổ hết, nồi niêu đập cả, thế mà họ hỏi như không. Siêu không nói năng, đứng ngẩn.
Và hãy còn buồn, buồn như mọi sự đều kết liễu. Buồn như phải rời nhà bà về ở với thầy. Buồn hơn trời mưa, buồn hơn chiều tối.
Một lát, Siêu vào lắng tai nơi cửa, thấy mọi tiếng đều im lìm. Cái lặng lẽ nghiêm nghị quá, làm Siêu sợ sợ. Siêu chậm rãi bước vào, đề phòng từng bước đi, từng cử chỉ. Nơi cái bàn nhỏ, có một niêu cơm. Bà tự tay nấu lấy nồi cơm này, vì nồi trước đương sôi, thì vừa bà đến đập vỡ và bà hờn má, hờn chị Bốn, không cho ai nấu lại, để mặc cho bà nấu bà ăn. Bà chan nước mắm vào cơm, ngồi một mình uể oải. Thấy Siêu, bà nói lạnh lùng: - Siêu, đi lấy chén ăn cơm.
- Vâng, cháu đi lấy.
Đi ngoan hơn người lớn. Không chạy nữa. Tay bấu vào chén. Lỡ rơi vỡ thì sao? Và ngồi ăn.
Bụng ban nãy thóp vào để cuộn nước mắt lên, bây giờ mỏi lắm. Khi Siêu nuốt cơm vào, Siêu nghe đau đau. Cơm bà nấu cứng quá. Nước mắm ăn chẳng ngon. Ôi, cái hỏa lò, cái hỏa lò đáng ghét!
Hai hôm sau, buổi trưa, Siêu xuống bếp, chị Bốn cười rất dễ thương, nhờ Siêu một chuyện:
- Em ở đây chơi, coi giùm nhà cho chị, kẻo ai nấy đều ngủ hết. Em giữ khéo đừng cho mèo vào lục cũi. Chị đem bỏ cái hỏa lò nơi gốc cây đa, bên cạnh đình làng.
Cây đa có treo ấm và ống bình vôi. Có cái trang thờ; và ở dưới chân, có vô số hỏa lò và ông táo, cây đa to tát ấy ư? Không, không thể được. Cái hỏa lò kia không được sung sướng thế; chỉ đáng vứt nó vào đống rác thôi. Siêu bèn nắm lấy hai tay chị Bốn, hăm dọa:
- Mèo ăn hết cá, bà ngầy mặc chị; em không coi đâu, chị ở nhà đó, em không coi đâu!
Chú thích:
1.
Mè: vừng.
Suối Cá Vàng
Suối đẹp lắm, ai ơi! Suối là con mắt, suối ngó lên trời, suối thay màu sắc, khi sáng như ngày, khi tối như đêm, (suối là con mắt của đất mở nhìn lên trời), và suối trôi đi cũng như đời trôi mất.
Ôi suối của đất, suối vui và vui!
Ở thành Lâm Xanh có biết bao suối đẹp, nhưng có một suối người ta gọi là “Suối cá vàng”. Bởi vì: Suối hồng và vàng, như một con cá vàng màu ửng đỏ.
Và họ gọi Suối cá vàng cũng bởi vì: người trinh nữ xinh tươi nhất của thành Lâm Xanh mát mẻ, nàng công chúa có hai tay hồng vàng, đã tới đó múc nước vào bình ngọc, và đã nhờ suối làm chỗ ẩn thân, một chiều êm hơn mọi buổi chiều.
Và suối đã dâng lầu ngọc bích cho nàng, lầu thuỷ tinh lóng lánh minh châu.
Và từ ấy, đến giờ Tịch Dương, đến giờ phương tây mây ảm đậm màu và trái tim của mặt trời chảy máu vì phải chết một ít, công nương hát lại chuyện mình.
Hãy nghe ngọn sáo lau mơ hồ ở trong lau lách,―những ngọn lau mịn màng làm hàng lông mi cho suối xanh.
Hỡi kẻ đi qua, hãy lắng nghe, hỡi bạn đi qua, và kính trọng sự lặng im bao quát. Người hãy im lặng để lắng nghe sự với im lặng: công nương đang hát, này nghe:
“Chàng bỗng đến. Chàng, người Tôn quí của những người Tôn quí. Chàng ái tình đã đến, trong khi em múc nước suối vào bình.”
“Chàng cưỡi một con ngựa câu mình trắng, móng xanh, con bạch câu sáng sủa mạnh mẽ, móng chân xanh đạp xuống, làm cho lúa mì, lúa mạch tung bật lên.”
“Yên ngựa chàng ngồi đỏ như màu danh vọng đỏ; áo bào chàng mặc thêu lượn chỉ vàng của hạnh phúc.”
“Chàng đến bất kỳ, và nói cùng em:”
“Ta khát. Xin cho ta uống trong đôi tay hồng của nàng, cái nước hồng có ánh vàng kia: trong đôi tay hồng của nàng, đẹp quí như vàng.”
“Và em thẹn thùng, và em sợ sệt. Chàng dám nói với em người công chúa mà đàn ông gặp thì phải làm thinh. Chàng dám nói với em, người mà họ không dám nhìn thẳng vào mặt!”
“Em luống cuống, và em phải thả lưới che mặt xuống. Và bình nước em đã múc đầy, tay em để đổ cả xuống chân em.”
“Bấy giờ chàng bèn nói thêm:”
“Ta khát, khát chết vì nàng.”
“Và chàng đến gần em; em nghe trên trán em đụng cánh áo bào thêu đẹp.”
“Mắt chàng ngó làm em mê sững, nhưng con chim bồ câu cũng quyến lại con chim phượng hoàng: mắt em ngó làm chàng sững mê.”
“Và chàng ngồi trên ngựa nghiêng mình xuống van xin, và em mới dám thở một chút, nhưng mà chàng vẫn cứ không đi.”
“Ngựa chàng nhích tới, kiêu căng như ở giữa trận, hai chân trước dậm đất, muốn cướp phăng người em, và Chủ con ngựa huy hoàng lặp lại một lần thứ ba, một lần cuối:”
“- Ta khát, khát giết được người vì nàng.”
“Và chàng nắm vào em để hái em đi, và con ngựa hí.”
“Em không biết gì nữa, em lặn chìm xuống nước, mắt em nhắm lại với mắt của suối, em khuất mất trong lầu thủy tinh, và chàng, người Tôn quí của những người Tôn quí còn gọi văng vẳng:”
“- Hỡi công nương của ta, da như bông hường hồng, hỡi công nương tay vàng mặt đẹp của ta, ta sẽ lấy nàng trong cõi chết.”
“Và chàng sắp dõi theo em: nhưng em không muốn rằng chàng phải thác.”
“Thượng đế đã hóa phép cho em hiện lên mặt nước thành hình con cá đỏ có ánh vàng, và em bảo:”
“- Xin hãy nguôi lòng, hỡi chàng, người can đảm nhất, người cao quí và người đẹp đẽ nhất, hỡi chàng, thần ái tình; từ đây em như nước trôi, anh không sao giữ bắt em được...”
“Song le chiều nào, đến giờ Tịch Dương, đến giờ mà trái tim mặt trời chảy máu vì phải rời bỏ cõi đời em vẫn còn nghe lời người-rất-yêu van vỉ:”
“- Anh khát, khát chết vì tình em, khát giết người vì em.”
“Và nỗi tiếc nhớ vĩnh viễn của chàng làm em đau xé.”
“Hỡi kẻ đi qua, xin bảo giùm với chàng, xin nói giùm chàng hãy quên em, bởi vì:”
“Em muốn luôn luôn trinh tiết trong lầu ngọc tiết trinh;”
“Em muốn luôn luôn trong ngần như nước trong trẻo của Suối-Cá-Vàng.”
Suối Tóc Đẹp
Có phải không suối là một dòng tóc trôi dài; một dòng tóc óng ả, mịn màng, và mãi mãi tuôn đưa, thao thao bất tuyệt.
Hỡi kẻ đi qua, không trông thấy nơi dòng suối mơ hồ dòng tóc của một giai nhân hay sao...
Tóc nàng thực là một kho vàng linh hoạt. Tóc nàng vừa là: Tơ láng mướt của sắc mượt ong. Tơ dịu dàng của làn cát nhẹ gợn. Tơ nồng ấm của ánh sáng mặt trời. Tóc nàng dài và nhiều, khi buông xuống thì che phủ cả thân, làm một áo tơ chít chi ánh sáng.
Ở Lâm Xanh, thành tươi mát, người ta vì nàng khinh tất cả mọi tên thường đặt cho đàn bà, chỉ gọi nàng là Công-Nương-Tóc-Đẹp.
Và mỗi sáng sớm nồng giọng thư cưu, và mỗi đêm khuya chập chờn sóng ngủ, công nương cho tóc chạy dài trước ngực, làm màn che ấm ngực non, và rủ rỉ:
- Tóc ơi, tóc đẹp, ta vuốt ve tóc, tóc hãy vuốt ve ta. Ta lớn lên thì tóc cũng thêm dài, hai bên cùng một tuổi. Và làm thành lưới: bao nhiêu ái tình đã mắc lưới như chim!
Nhân một ngày lễ thiêng liêng, mọi người đều phải tẩy trần để cho thanh khiết, ngày của hương trầm, ngày để cầu nguyện, Công-Nương-Tóc-Đẹp đi tắm suối trong.
Quanh mình công chúa, có bảy vòng cây, mỗi vòng có bảy cây lá rậm. Và ngoài hàng rào cây, lại có hàng rào người: bảy vòng người giữ, mỗi vòng bảy kẻ tỳ nô. Làm thành một bức tường biết thở và biết canh, không cho mắt ngoài xem lọt.
Công nương thì tươi cười như trẻ nhỏ, lấy hoa nhài, hoa lý kết lại thành vòng, đeo vào cổ, đeo vào tay. Rồi đứng ngâm mình dưới suối, giữa một vòng nước gợn tròn, nàng rứt hoa thả rơi từng cánh. Nàng quành hai tay lên vắt tóc, hai cánh tay cong cong yểu điệu, hợp với thân hình du dương, làm đôi quai ngọc cho chiếc bình ngà.
Mảng soi gương nước, mảng ngắm bóng mình, nàng quên không nghe tiếng chuông khua giờ Ngọ. Nàng còn mải tắm, thích ở lâu trong nước mát, ngây thơ không nhớ giờ về. Mà trưa thì nắng, cho nên vòng cây cũng ủ mà vòng người cũng ngủ quên, cùng chìm say trong một giấc. Không gian yên đứng, hơi thơm nặng chĩu không lan, và thân nàng hồng phản bóng cây xanh; và mặt trời lặng lẽ như phụng thờ nhan sắc.
Bỗng nhiên lau động, công nương nghẹn cổ chỉ kêu được một tiếng ngạc nhiên. Hùm beo nào, rắn rết nào xấn xổ tới đây? Không, một người xổ ra, lại nguy hiểm hơn hùm beo rắn rết.
Hắn đứng đó, trước mặt nàng, một ngón tay đặt lên miệng, ra hiệu bảo làm thinh. Hắn mặc toàn sắc xanh để lẫn với lau xanh, lẻn vào cho khỏi ai thấy. Nơi thắt lưng, lộ một chuôi gươm. Người lạ mặt nói thong dong, ngó như cầu xin mà thực như truyền phán:
- Hỡi mỹ nữ, để cho ta ngắm tóc nàng. Tóc nàng rực rỡ như mặt trời ở dưới nước. Ta muốn lấy mặt trời ấy ở dưới nước này.
Công chúa ngạc nhiên, đôi mắt mở lớn, và đứng sững như vô tri...
Nhưng thằng người xấn đến nàng, nhạy như lửa.
Công chúa kêu to một tiếng, lấy tóc che mình cho khỏi lộ thân, kinh hãi quá nên lặng vào đáy nước.
Người kia đùa tay với lấy tóc đẹp, tóc đã làm hắn mê mà phải bạo gan. Tưởng tay được nắm làn mây, nhưng nhìn lại thì chỉ còn một mớ rong vàng, những sợi rong vàng óng ả mịn màng, lẻn qua năm ngón.
Rồi những sợi rong vàng từ ấy có luôn. Năm tháng qua mà không làm sao phai được sắc vàng kỳ ảo của mớ rong lạ lùng, như còn hình ảnh của tóc công nương, trôi chảy đâu đây, nơi dòng trong của Suối Tóc Đẹp.
Bà Chúa Vinh Quang
Vua thành Lâm-Xanh đã hái đóa hồng đẹp nhất của thành Bá-Đa là con gái một vị Đại Thần; và sinh một nàng công chúa.
Vẻ nàng thanh qui, đặc biệt hoàng vương; duyên nàng lệ kiều, tưởng như hồn nàng làm bằng hoa hồng. Nàng tuyệt đẹp : hoa hồng trên má, hoa hồng trên môi, và mắt sao của nàng cũng như có hoa hồng.
Và thành Lâm-Xanh rất tự kiêu vì có một công nương thơm như hoa hồng ấm.
Nhờ nàng tươi mà khắp chốn cùng đuợc mừng vui.
Trán nàng là sự minh mẫn, Tay nàng là sự hiền từ. Và sắp sửa mở hội linh đình, vì nàng sắp thành hôn với người yêu, hai bên đều thừa hưởng ngôi báu.
Hạnh phúc vờn như một đàn bồ câu trắng. Trên trời rớt xuống, những lời êm dịu thái bình.
Như một đàn bồ câu trắng, hạnh phúc vờn bay; nhưng tai nạn như một con diều hâu đến đuổi đàn bồ câu trắng.
Vua thành Phê đòi cho công chúa đến trong cung của người, muốn cho nàng là chúa hoa hồng đến làm chúa của những hoa hồng trong cung cấm.
Tin dữ lan đi như một vết dầu; và ở chợ búa, và ở phố phường đông như tổ ong, người ta bão nhau, người thợ thêu mách người thợ chạm và người thợ chạm mách người thợ vàng :
- Công chúa sắp phải rời ta, vì vua thành Phê ghê gớm lắm. Đã sai sứ báo trước, nếu không lấy được công chúa, thì phải biết tay. Hắn sẽ khiến xây thành cao đến mây, để vây thành của ta, bắt ta phải chết đói, chết khát.
Và nước mắt rơi trên châu ngọc của thợ vàng; trên gấm vóc của thợ thêu, trên phượng múa rồng bay của thợ chạm.
Nhưng bọn chiến sĩ nói : sao lại khóc? Hãy để nước mắt cho đàn bà, nước mắt trong trắng như ngọc trai. Chúng ta, đàn ông, phải có những ngọc đỏ, là máu. Rồi thành Lâm-Xanh sắp đặt chinh chiến, để giữ lấy nàng công chúa hoa hồng.
Rồi vua thành Phê bắt xây lũy vây bọc thành Lâm-Xanh; bức lũy mới càng ngày càng cao, chắc chắn gớm ghê, đen điu dữ ác. Vị hôn-quân chắc sẽ thắng, nên gọi bức thành bao vây là thành Đắc-Thắng.
Nhưng Lâm-Xanh cứ muốn giữ mãi công chúa, không chịu mất nàng, nên cam tâm bị vây, chịu thiếu ăn, thiếu uống.
Bảy lần mười hai tháng, vua tàn bạo kia cứ ngồi đợi qui hàng; nhưng Lâm-Xanh không chịu hàng, dầu cả thành phố đã gầy gò như một con chó rừng đói khát. Và công chúa đau lòng nhìn thấy thiên hạ đau thương.
Một đêm, nàng dạo khắp thành, thấy thần chết rình rẫm khắp nơi. Công chúa về cung, linh hồn nặng trĩu những màu tang chế, bèn lên từng lầu cao nhất để nhìn trời:
- Van đấng Thượng-đế, xin cho tôi được lời khuyên bảo của các vì sao.
"Trong bấy lâu, tôi đã nhận lòng hy sinh của dân tôi, nhưng đến đêm nay, lòng tôi không chịu nổi sự đau đớn của dân chúng. Kẻ thác đầu tiên là người đáng lẽ cùng tôi lên ngôi trị dân. Chàng cùng họ với tôi, nỗi đau ấy chỉ riêng tôi phải chịu, nên chẳng thở than. Nhưng bây giờ thì tôi phải chịu trách nhiệm về sự đau đớn của muôn nguời.
"Thượng đế! tôi đã đi các phố, thấy trẻ con nhai vú mẹ mà không có sữa, thấy những viên đại tướng phải giết bọn tỳ nô để sống, thấy các cụ già đánh nhau để dành một khúc rễ cây hay một miếng da.
"Những thống khổ ấy đã lâu quá rồi. Thượng đế! tôi còn cuỡng ý kẻ thù được nữa chăng? Xin cho tôi được một lời khuyên, từ trên sao ban xuống."
Và công nương nhìn vào đêm tối, và mắt nàng được thấy sự huyền bí của muôn sao : tinh tú chuyển đi, và trên trang sách của trời như có những hàng chữ lượn...
Suốt đêm, công chúa đọc ý thiêng của Thượng đế, và khi đến sáng, nàng truyền lại cho dân lời dạy của Trời.
- Hỡi dân của ta, này đây lời Trời dạy: Thời thống khổ đã hết. Các ngươi hãy lấy trong kho ở cung ta mớ thóc để dành cho ta khỏi đói. Hãy bắt trong vườn ở cung ta con dê độc nhất còn dành lại để có sữa cho ta khỏi khát. Hãy cho con dê ăn cả thóc, và khi nào dê mập tròn như trăng rằm, hãy đem đưa cho ông vua bạo tàn đương vây chúng ta. Thấy dê mập tròn như kia, hắn sẽ tưởng kho ta thóc lúa còn đầy, hắn sẽ nản chí mà bỏ đi. Và thành của ta lại thêm được một bức thành, và ta sẽ thêm vào tên Lâm-Xanh cái tên Đắc-Thắng.
Mọi việc đều y theo lời đoán cùa Nàng.
Nhưng cảm phục vì ơn Trời, Công chúa suốt đời ở vậy, cầu nguyệu tu hành. Và khi đến giờ cuối cùng, đến giờ nhắm mắt, dân chúng chôn nàng trên núi cao nhất phòng ngự cho thành Lâm-Xanh. Và Bà Chúa Vinh Quang muôn đời còn phảng phất hương hồn, vô hình mà ngự trị.
(Kể theo chuyện Ả Rập)
Mèo Hoang
Thà con cọp trên rừng hay đàn cá dưới biển, chúng nó sống như chúng nó sống, cứ tự nhiên, như cỏ nội, hoa đồng. Chúng không cần loài người biết đến, họ có hay không thì chúng cũng chả dính líu gì, có họ mà lại hay hơn! Chứ giống chó, giống mèo, nếu ta không nuôi thì nó biết làm sao? ừ, chúng đi làm gì?
Những chó mèo hoang không thể lại thành chó sói hay mèo rừng. Chúng đành phải thất thơ thất thểu, rách rưới, lang thang. Người ta phải nuôi, có một bổn phận phải nuôi bọn nó, nhưng người ta không nuôi. Vậy thì thôi, ai bắt người ta cho được?
Những con vật ấy đã nhiễm thói ăn cơm với cá, quen tính ở cậy ở nhờ, nương tựa, ỷ lại vào những gia đình, để bắt chước những điều văn minh. Chúng đã qua lại trong nhà cửa, đụng chạm với những bàn ghế, chung chạ với bếp núc. Và không thể tự mình lo đủ, vì đã mất bao nhiêu tài cán trời cho.
Không ai nuôi, bọn nó đi hoang; chúng bơ vơ, cực khổ, chúng đói khát, dơ nhớp, chúng thất nghiệp.
A, những con mèo mắt sao, mắt ma, mắt giếng thẳm, bí mật như xứ cổ Ai Cập! Chúng rút mình lại, kêu một tiếng rù rù đâu từ các lỗ chân lông phát ra, lấm chấm nghe như gồm bằng rận nhỏ. Chúng hư thân, mất nết lắm, cái bọn mèo!
Khi Sơn còn học vần quốc ngữ ở nhà, mỗi lúc gần bữa ăn, mẹ Sơn bảo:
- Sơn, đi lấy cơm cho mèo ăn trước, kẻo đến lúc người ta ăn, nó nhảy ngay lên, đứng trên bàn.
Cơm xéo thật rời, chan nước thịt, lại bỏ thêm cá vụn, đựng trong cái chén sắt tây mới tháng trước em Sơn còn bưng ăn. Sơn trông mà bắt thèm đi được. Thế mà con Mun lè cái lưỡi hồng chỉ liếm vài miếng, xơi hết cá rồi thôi. Nó ăn sang! Nó làm bộ! Cho ăn tử tế thì không chịu. Để rồi đi ăn vụng, sướng hơn!
Nó lại còn làm biếng nữa. Trong bốn tháng trời nuôi nó, nó chỉ bắt được có một mẩu chuột tí hon. ấy vậy mà khi xin nó về, mẹ Sơn xách tai nó giơ bổng lên cao thử xem tính nó siêng hay nhác, thì con Mun co mình lại, quắp chân vào, kêu eo éo, ngó sao dễ thương quá! Làm cho cả nhà tưởng nó sẽ siêng.
Sơn cho nó ăn cơm lâu ngày cũng chán. Sơn không chịu nổi công việc ấy nữa. Trước người ta quí nó bao nhiêu, bây giờ nó hư bấy nhiêu. Mặc xác nó! Miễn là giữ gìn các thức ăn, đừng cho nó ăn vụng. Nó muốn đói thì cứ đói, mà muốn no thì bắt chuột lấy mà ăn!
Thế rồi con Mun đi hoang, theo bạn theo bè. Nó đi lúc nào không hay, nhẹ nhẹ bốn chân cao su của nó.
Nhưng một sáng sớm cách đó ít lâu, ở đống gỗ đầu hiên, Sơn nghe có cheo chéo những tiếng mèo kêu, nhão ướt và inh ỏi. Thằng Được, một đứa ở nhỏ, kể lại với Sơn, giọng quan hệ bằng chuyện sinh hoàng tử:
- Con mèo bụng to gần sát đất vẫn đến nhà ta; hôm nay đẻ rồi. Năm con! Nó gầy xóp ve, không có sữa nên con nó la nheo nhéo.
Thế có gì hay? Song thằng nhỏ nói giọng rất thầm kín làm cho Sơn tò mò.
Sơn chạy ra xem. Mấy mẹ con ở trong hốc nào, tìm mãi không thấy, chỉ nghe tiếng rên la. Bọn mèo sơ sinh thi nhau réo to, trẻ con khóc không bằng. Sơn thương ngay. Thực lòng Sơn tội nghiệp chúng nó lắm.
Và Sơn liền được dịp che chở: chính trưa hôm ấy con mèo mẹ đến luẩn quẩn dưới bàn ăn cơm. Không biết nghĩ sao nó cứ đụng vào ghế Sơn ngồi. Sơn biết ý, lén bỏ xương cá xuống đất. Cái ấy cấm ngặt. Mẹ Sơn đã dặn: "Đừng bỏ xương xuống, nhớp nhà, và dậm lủng chân". Nhưng con mèo và cả gia đình nó đương đói đây này, quí hóa gì cái xương mà tiếc với nó?
Mẹ Sơn bắt được Sơn bỏ cả nửa con tôm xuống dưới bàn. Bà nhìn theo xuống, thấy con mèo. Bà nói:
- Mày nhịn ăn mà nuôi nó! Làm thế nó quen môi đến hoài, rồi rũ lông vào đồ ăn cho người ta ho lao!
Ăn phải lông mèo thì ho lao! Ghê chưa?
Mẹ Sơn còn giảng với những người khác:
- Không phải vậy là thương chứ. Đồ mèo hoang, chỉ tổ ăn chùng!
Tuy thế, sau bữa ăn trưa, Sơn lén vét một chén cơm cho con mẹ khốn nạn. Sơn lại còn nói mơn nó:
- Ăn đi, ăn mau, về mà cho con mày bú!
Có phải tội nghiệp hay không? Mấy con mèo mới đẻ, nhỏ yếu, khát sữa, rúc miệng nhai nát vú mẹ mà chẳng nước gì. Trách sao bọn nó đừng la. Nghĩa là nó khóc theo tiếng của nó.
Tuy mẹ Sơn nói hung hăng, nhưng bà không rầy Sơn tốt bụng của bà nữa. Ngày nào con mèo lạ cũng được no. Bà lại còn vẽ cho Sơn:
- Cho nó vừa vừa, kéo nó bỏ dư, uổng hột ngọc trời. Người ta nói "ăn như mèo ăn", con lấy chi nhiều cơm vậy?
Rồi thì một hôm - chúng nó vào như mèo chả ai biết mà để ý - toàn chùm mèo con nằm gọn trên cái ghế mây. Chúng lại dỡn nhau, con này nhảy lên con kia, làm dáng, khoe duyên, nằm xuống, đứng lên, ngừng lại, chạy vòng, tưởng đâu nhà của Sơn là nhà của chúng.
Đẹp nhất có con tam thể. Ba màu óng ánh, trắng, đen, vàng. Chao ôi, sao nhỏ nhẻ, mũm mỉm, yếu ớt, dễ thương! Sơn nhịn không được, bồng nó vào tay, vuốt ve, nưng nịu. Chị của Sơn, cô Thư mười hai tuổi, bấy lâu hờ hững, hôm nay lại âu yếm hơn ai. Cô nhỏ bồng lên mà thương, thương lộ rõ nơi bàn tay mơn lông, thương quấn quít nơi hai chân nhảy nhót, thương giòn giã nơi miệng nói, thương, thương!
Mẹ Sơn ban đầu nghìn nghiêm hai chị em:
- "Mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì giàu". Bay liệu đấy! Cơm đâu mà nuôi sáu cái miệng chỉ giỏi ăn mày?
Chị Sơn nũng nịu:
- Mẹ ạ "chó vào nhà thì nghèo, mèo vào nhà thì giàu" chứ! Có phải không mẹ! Phải không Sơn, câu tục ngữ xuôi hơn, đúng hơn chứ?
Mẹ tát yêu vào mặt chị. Giỏi thực! Chị Thư học đâu mà nhiều tục ngữ thế? ứng đối như trạng Quỳnh.
Rồi nhà lăng xăng lên vì những tiếng "meo... meo..." của năm sáu con mèo và của hai đứa nhỏ gọi mèo. Cho ăn, tắm rửa, chăm sóc, vuốt lông, dỡn, đùa, nhìn, vui quá!
Một lần mèo chạy vào chỗ cát, mũi còn ướt, nên dính cát đầy. Sơn phủi không hết, đem cào rửa, đến nỗi rách da non, thấy cả thịt hồng, Sơn lẻn vào buồng mẹ, lấy ve dầu tăng dót 1 ra bôi.
Thấy mũi mấy con mèo nhỏ vàng khè, chị của Sơn lè lưỡi xuýt xoa, tưởng như mũi mình đương bị rát. Nhưng Sơn giảng nghĩa cho chị:
- Chị ạ, mèo nó không biết rát như ta đâu.
... Lòng sốt sắng nguội dần, nhất là trong lòng con trẻ. Mấy con mèo càng ngày càng khuấy nghịch. Chị Sơn ngồi tập khâu vá, thì chúng tung rối cả cuộn chỉ; Sơn học, thì một con nhảy lên nằm gọn trên vở mới, nhớp tờ giấy trắng tinh. Cho ăn chung thì phải lấy cả cái đĩa to, đĩa ấy bận đơm cơm cho người nhà; cho ăn riêng thì phải bốn năm cái chén; mà bỏ cơm giữa đất, thì phải quét nhà.
Và càng lâu, càng lớn, chúng ăn càng tợn; mà thức ăn chúng lại kén chọn như ông hoàng. Nhà Sơn có giàu, có sang đâu!
Đã mấy lần, Sơn nghe thằng Được cau có. Bởi vì mèo ăn hết cơm, hết cá, hết phần của nó đi. Nó ăn sau nên nhà trên ăn còn thừa món gì, thì mèo đã hưởng trước nó, đến lúc bưng xuống thì bao nhiêu đĩa đã sạch bong. Và, hỡi ôi! Mèo lại còn ăn lẫn của nó nữa! Một hôm, mẹ Sơn cho nó một miếng cá - ngon lắm, cá thu - nó chưa ăn, chạy ra giếng xách nước; trở vào: đau đớn chưa mèo phỗng mất của nó rồi!
Té ra bọn mèo này ăn vụng! Rau nào sâu nấy. Chị Sơn đã bắt đầu nghĩ cách người lớn:
- Đồ con chửa hoang, làm sao mà nên được! Hư là phải. Cái giống mèo hoang...
Thấm thoát qua nửa tháng. Bọn mèo hành hung, rối loạn. Giường nào cũng leo, bàn nào cũng trèo, ghế nào cũng ngồi, không còn thứ bậc chi nữa. Nhỡ mình chúng có bọ chét, có phải lây sang người ta không? - Và ăn vụng cũng không chừa; quen môi chúng càng gian giảo gắt. Lại còn la inh ỏi; ban sáng, ban trưa, ban đêm người ta ngủ, lúc nào cũng mè nheo.
Con mèo mẹ ra gương xấu trước nhất. Phải trị. Đầu tiên, mẹ Sơn bảo đánh, Sơn lấy một cái lạt tre mỏng như cái tăm. Lần thứ hai một cái que lớn hơn. Lần thứ ba, cái cán quạt lửa. Lần thứ tư, con mèo lỳ lợm quá. Sơn phải dùng cả đến cái thước gạch. Thế mà mẹ Sơn còn mắng:
- Mày đánh không thấm da nó! Phải đánh mạnh, đánh chết đi cho chừa!
Sơn đánh không nỡ tay. Sao lại bắt Sơn làm công việc trị mèo ấy? thằng Được liền vội vàng bái lĩnh. Nó thi hành ngay với chiếc guốc, với cây củi. Nó cứ đánh bừa, gặp cái gì trong tay, là nắm lấy mà đánh mèo, không biết nó có thù gì to lớn thế. Sơn xin nó đừng đánh, nó không nghe. Sơn bảo nó đánh nhẹ, nó chỉ cười. Thấy mà đau giùm cho mấy con mèo; thằng nhỏ nhẫn tâm quá! Nhưng mèo hư tột bậc, cứ ăn vụng hoài. Sơn không có lý gì để bênh vực. Chị Sơn đã bỏ chúng, chỉ còn Sơn bịn rịn, - sao lòng Sơn lại yếu hơn lòng đàn bà?
Bây giờ ai đánh mèo, Sơn không dám cản, ai đập guốc nhằm chân mèo, Sơn chỉ nói nhỏ trong miệng: "tội chưa" - Bọn mèo ơi, ngoan lên thử nào! Bay hư hỏng thế này thì xấu hổ cho Sơn, người đã rước bay về; bay làm cho Sơn không thể giữ bay ở lại mà nuôi nấng.
... Gió nồm bỗng thổi lên: thả diều sướng biết mấy! Sơn không giữ mấy con mèo nữa, ngày độc ác ấy, mẹ Sơn bảo thằng Được bỏ lũ mèo ở miếng đất hoang tận đầu thành phố, rất xa, cho chúng khỏi tìm cách về. Cách giải thoát này hoàn toàn nhất, không còn kế nào hơn. Còn nhớ thằng Được - thằng nhỏ sao nỡ quên rằng nó cũng tập tàng như rau tập tàng, đẻ ở bên ruộng kia, nếu không đẻ nơi đống gỗ - Thằng Được xách một tay hai cái tai, một tay ba cái; bọn mèo van nỉ, nhưng nó thì cười. Và con mẹ thì nó mượn một đứa nào đó ôm theo. Nó còn thêm:
- Tao vứt đủ cả sáu chúng mày hủ hỉ mẹ con với nhau. Đừng mong về ăn vụng nữa?
Tiếng "ăn vụng" kéo Sơn lại với niềm sắt đá; Sơn phải nhớ sự thật; nhớ bao nhiêu điều hại bọn mèo đã gây ra; dầu Sơn có thương đến đâu, cũng không ôm mấy con mèo lại được.
Ngày nay lớn lên. Sơn không chỉ thương sáu con mèo xấu số đã cùng sống với chàng trong một thời hạn, ghi lại nơi tay chàng một cảm giác mịn màng ve vuốt, lưu lại nơi mắt chàng cái ký ức của những con mắt tinh ma.
Chàng nghĩ đến tất cả những con mèo sống trong lối, lút trong đêm, trùm trong bí mật ghê sợ của một cuộc đời vô định, khác xa những con mèo sang trọng trong những gia đình trưởng giả, nằm chuốt lông trên chiếc gối bông êm ấm, hình bóng loáng như hàng lụa bao ghế hay gạch hoa lát nhà.
Nhiều phen Sơn đứng trên gác trọ, nhìn bao nhiêu nóc nhà chen lấn, lúc nhúc, gập ghềnh. Những nét ngớ ngẩn vì rắn rỏi, những đường gãy hẳn một cách thô bạo, mái bằng phẳng hay trồi lên sũm xuống vì lợp kiểu âm dương, vôi mốc rêu, ngói cũ càng, những màu nâu hay đỏ, những sắc xám hay xanh: tất cả làm nên một cảnh tượng kỳ dị, buồn cười, một cảnh tượng riêng khác.
Sơn nói: đó là thế giới của bọn mèo hoang. Chúng chui trong ống khói đen, nằm trong máng khô nước. Chúng đi nhẹ như sự rụt rè, chúng nhảy mau, chúng lượn nhanh, chúng vọt cao, chúng bổ thấp. Chúng khinh luật thăng bằng, chúng không sợ chiều dưới, và không nể chiều trên. Chúng không thể ngã chúng không thể té. Có phải chúng nó sống trong một cái đời ở trên cuộc đời hay không?
Song chúng tìm đâu ra ăn? Bảo là ăn vụng, thì tiện quá; cái hay, cái khó ở nơi cách ăn vụng. Đánh cắp thế nào? Rình mò ra sao? Chờ ban trưa, đợi ban tối? Nào có dễ gì ăn vụng! Người ta không chịu mất một con tôm to hay một miếng thịt nhỏ mà không báo thù bằng một thanh củi nặng làm gãy xương sườn. Có nhiều đêm, Sơn được gặp hai chấm sáng trong bóng đen, thôi miên, ám ảnh. Có những chiều, Sơn bắt gặp một thoáng mèo vụt qua rồi biến không biết nào nơi đâu. Có những trưa, Sơn trố mắt tha hồ trông những con mèo hoang gầy bẹp như không có bề dày, ngủ phơi dưới nắng.
Dầu đói khát, dầu phải tìm vỏ tôm hay xương cá ở nơi thùng rác, dầu phải đánh cắp những bộ ruột gà người ta vứt đi, dầu khổ sở thế nào, nhưng con mèo hoang vẫn giữ lấy vẻ quý phái – quý phái chứ không trưởng giả. Cách đi đứng, cách nhai nuốt, cách nâng nhẹ những vật thừa thãi đều có duyên của những bà hoàng sẩy ngôi hay những cung nữ hết thời. Chúng bước dè dặt, không muốn dính mình vào đất dơ, chúng có cái đặc tài giữ chân cẳng trơn tru, dù phải dậm qua nhớp nhúa. Và hễ thong thả, chúng liền tỉ mỉ tắm gội. Những cơn đói không bắt chúng lành tính sạch sẽ; tuy là mèo hoang, chúng vẫn còn là mèo.
Và họ cũng không chừa cắn nhau, những bà tướng có râu mép. Họ không bỏ hẳn cốt hùm beo của giống giòng. Chân gầy của họ khéo dùng những móng trắng mỏng, nhọn quấn lại, giữ bén và kỹ hơn gươm trong chuôi.
Họ bấu nhau thì ít, gừ nhau thực nhiều. Họ gậm gừ, tiếng khô như khát, tiếng xóp như đói. Những tiếng căm giận, uất ức, đen ngòm, mếu máo như tiếng khóc của đứa hài nhi. Chốc chốc hai tiếng kình địch xoắn lại như quặn lấy nhau, nghe sợn sùng giữa đêm tối.
Tiếng gào của bọn mèo hoang, xui ta tưởng đến những bãi tha ma, những quỷ địa ngục. Ta thường gọi "Mèo ma" những thứ mèo tợ hồ không phải là sự thật, những thứ mèo có lẽ là giả, là yêu tinh. Và ý chừng, tuy ta không nói rõ với trí ta, ta vẫn tin mờ mờ rằng đó là yêu tinh hiện hình giả dạng.
Mèo hoang! Chuyện hồ ly thuở xưa chắc hẳn chỉ là bịa đặt; chỉ có các ngươi, chỉ có bọn mèo hoang mới thực là hồ ly tinh!
Chú thích:
1.
Tenture d'iote
Chó Hoang
Bọn mèo hoang tuy thế mà còn sướng. Chúng chẳng sinh ra để sống ngoại hạng, sống ngoài biên là gì. Chúng cao, chúng nhẹ, chúng ở thượng tầng như những nóc lầu chúng xem tợ đất bằng, như những chim sẻ chúng bắt ăn. Chúng có thuật tàng hình, biết làm một xứ riêng, ở đó mà meo, mà gào, mà khóc lên những tiếng hãi hùng cho bọn trẻ con - như Sơn khi còn nhỏ.
Bọn chó hoang mới thực khổ.
Bọn nó trung thành quá nên cứ luẩn quẩn chung quanh người. Bọn nó hiền quá, thật thà quá để người ta đánh một cách dễ dàng, rồi kêu những tiếng đau đớn như bị gãy xương và vỡ trái tim. Gồm bằng những con chó nhà nghèo, chủ đói không có ăn, huống chi là chó. Gồm bằng những mẫu chó đẻ bên bụi cỏ, lọt lòng ra rúc hết vú mẹ không được một chút sữa khô. Gồm bằng những con chó người ta quên nuôi, vì một ngày kia trong nhà bỗng có mười con hoàng anh hay một con vẹt. Gồm bằng những con chó người ta không đem đi, lúc đổi chỗ ở: chúng yêu quá, nương mùi tìm chủ, song đường xa thẳm, hơi đã bay theo gió mấy lần.
Gồm bằng những con chó già. Gồm bằng những con chó đau. Và biết đâu? Gồm bằng những con chó cứng đầu, ghê roi vọt và sợ đọa đày, bằng lòng chết khổ để theo tự do, như chó sói.
Ban ngày, chúng đi lang thang, không biết dùng mình làm việc gì. Chúng không phải là loài biếng nhác. Nhưng không có sân, không có nhà mà giữ để sủa cho sướng miệng. Bây giờ chúng dám đâu hùng hổ với người ăn mày! Bởi vì chúng cũng đương đi ăn xin. Nhưng chúng chỉ có đôi con mắt để mà trông thôi, chúng không có lời để mà nói. Chúng chỉ có một bộ xương rất rõ, đếm được từng cái một, không hề che lấy bằng mảnh giẻ nào; nhưng chúng không thể van xin: "lạy ông, lạy bà, nhón tay làm phúc". ồ! lắm phen chúng ngứa miệng quá. Song lẽ nào lại quáu lên giữa đường, ở ngoài trời không; loài người sẽ đánh cho im, và chửi như... chửi chó!
Những con chó nhà vẫn thường đến nhập đàn với chúng. Trong đôi giờ, chúng được quên rằng chúng là "hoang". Cả năm sáu con ngửi lông nhau, liếm mặt nhau. Một con theo đuôi một con, khác chi một người theo chân một người để xin tình ái. Chúng đứng hai con với nhau; sau khi đã mơ lẫn nhau rồi, hai bên ngơ ngẩn hai đường, mỗi đằng nghĩ một ý riêng...
Họ không kể đến xã hội loại người; còn giữa bọn họ với nhau, thì họ không biết mắc cỡ. Họ rất tự nhiên. Bởi thế mới bị người ta đến quăng đá, ném đất cho, khuấy phá làm rầy, phạm vào tự do của họ. Bảo họ vào giữa sa mạc mà yêu nhau hay sao?
Cũng rất nhiều lần cắn nhau dữ tợn, ồn ào. Những con yếu - đó là những con "hoang" - bị nhổ cả từng vạt lông, da sùi trắng hay cháy ứa máu hồng. - Nói hồng cho đẹp vậy thôi chứ máu của loại chó khô khan, đói khát, gầy gò, chỉ có thể bầm tím. Và có lẽ họ không còn máu để chảy nữa kia!
Đó còn lúc khá. Lúc này mới chịu không nổi cho bọn vẩn vơ; tới giờ ăn, những con vật mập mạp, đầy đủ, béo tròn liền bỏ chạy về mừng ông chủ cũng béo tròn, đầy đủ mập mạp, đuôi ngoắt lia lịa, đầu quấn quít vào những ống quần. Chủ đánh cái nhẹ vào mỏ ác, và một đứa nhỏ ngoa mồm lên:
- Ấy, thưa cha, con Vàng nó chạy ra chơi với chó hoang, bẩn cả bộ lông rồi!
- Thầy ạ, con Vện nó muốn hư như lũ chó hoang.
- Con Ba Tô! Mày không được chạy rông như chúng nó.
"Chúng nó" thì đương ngơ ngác nhìn theo. Đầu chúng cần được cọ vào một bàn chân; sườn của chúng nhớ một bàn tay ve vuốt. Và nhớ nhất, là cái bụng lép đáng thương, rỗng như những ngày trống không ở dọc đường.
Chao ôi đói, đói, đói không rên được, đói đi không nổi, đói lử cả người, đói... Bọn họ lẩn thẩn lơ thơ, tìm những cái xương không thể rớt xuống tự trên trời, kiếm những miếng cơm mà đất không làm cho mọc lên. Trời ơi, được một cái xương to mà giòn, nhai nghe rào rạo! Ôi chao! Mùi thơm ngào ngạt ở trong bếp nhà kia đưa ra cùng với khói ngon lành! Nếu vào được ở dưới một cái bàn ăn, há hờ những hột cơm rớt xuống! Những cậu bé vụng về và hào phóng, mới tập cầm đũa hay ăn quà đã no, các cậu đi đâu vắng cả? Sao không làm mưa cơm xuống đầy đất, những hột cơm có ướt nước cá, nước thịt, nước tôm! Các cậu rất xa xỉ, các cậu đạp cả chén cơm cho đổ ùa, các cậu há miệng rất hẹp, cố ý vãi cho con chó hai phần thìa cơm. Khi suốt ngày xơi bánh đã quá no, các cậu bưng chén cơm ra hè, mượn con chó của các cậu ăn giùm cho, rồi khoe với mẹ rằng các cậu giỏi lắm. Ôi, những cậu bé hay thương người như vậy, sao các cậu chỉ ở trong nhà!
Ước mơ... Nhớ nhung... Thèm thuồng. Và đói!
Húc mũi vào đống rác. Lè lưỡi trên bụi cỏ. Cào đất lên như những con gà. Con chó hoang cũng vẫn nhớ rằng không có gì trong ấy đâu, rác và cỏ, và cả đất nữa đều bị nó lục soát mấy mươi phen rồi. Nhưng tìm để mà tìm, để an ủi này lừa dối cơn đói mà thôi. Vả lại biết đâu ông trời của loài chó lại không rủ lòng thương mà cho gặp gỡ?
Chiều chiều Sơn đi chơi, thỉnh thoảng gặp một con chó ngẩn ngơ giữa đường vắng, kiếm gì ở dưới đất, mùi dư hay hương thừa, vết không thấy của một miếng thịt hay bóng vô hình của một ngày qua?
Gặp Sơn nhiều lần nên con chó quen người; nó đã đi sau, hít hơi của Sơn một cách ngọt ngào mà Sơn không để ý tới. Rồi một bận, nó cứ theo lỳ lấy Sơn, đuôi phe phẩy. Chắc bấy lâu, nó không được mừng ai, đuôi nó cần được dùng vào tình quyến luyến. Ai bảo rằng tâm hồn nó lại không đồng một cảnh khát khao yêu mến, như cô gái hay chàng trai trong tiểu thuyết tình?
Thú thực rằng Sơn có hơi sợ chó. Đứng xa xem thì được; lại gần, nghe con chó giơ hàm răng, thè lưỡi ướt liếm vào hai chân, Sơn nhột và sợ. Khi nhỏ, học bài "Con chó dại", Sơn ghê rợn và hễ gặp con chó nào đuôi bỏ thõng, mắt ngơ ngác, Sơn liền nghĩ ngay rằng nó cắn chết người. Bây giờ, tuy Sơn biết con chó ấy không dại, nó chỉ "hoang" thôi; Sơn cũng đương còn chút sợ thuở xưa; con vật theo chàng, chàng cuốn chân, vội vàng nạt nó một tiếng lớn. Chàng muốn ù té chạy. Nhưng lại e nó rượt theo cắn chàng.
Cái ấy không cấm chàng hết lòng thương con vật bơ vơ. Sơn thấy con chó buồn. Nó buồn lắm. Không ai thương nó hết,- nó biết đâu rằng Sơn không dám vuốt ve nó. Sơn sợ tuy rằng thương. Nó chỉ cúi gầm đầu xuống. Nó đi thất thểu không lanh lợi. Thỉnh thoảng nó ngẩng lên nhìn cái gì đâu đâu. Rồi nó lại cúi xuống đường, vừa theo mãi lấy Sơn.
Nó buồn lắm. Nó đương buồn, hoặc có cớ, hoặc không cớ. Mà chắc trong hồn loài vật, nỗi buồn mới thực là vô căn, không hiểu bởi vì đâu và cũng không rõ là thế nào.
Con chó kia còn biết dùng buổi chiều của nó để làm gì? Nó không biết. Nó không có thú tiêu khiển nữa. Nó một mình, - à không, nó đi theo Sơn.
Và Sơn thì theo những ý nghĩ rất thương xót, đớn đau. Người ta buồn thì có thể đi chơi, ít nữa người ta cũng tự biết, chứ con chó sau chân Sơn, nó chỉ đương ngơ ngẩn, không hiểu cái gì lạ thế đè nặng nó như một lớp. Nó khó chịu, nó ngơ ngác, nó cầu cứu với Sơn.
Nhưng Sơn không thể bồng nó vào tay, nựng nịu, mơn trớn nó. Sơn thương chứ không mến. Sơn tội nghiệp, nhưng lòng chua xót vô vị của Sơn không giùm cho con chó được tý gì.
Rồi Sơn muốn dứt khoát cái dây tình cờ đến buộc lấy chân Sơn. Sơn đi nhanh để con chó hoang không theo kịp. Bấy giờ con vật bèn chạy lúp xúp, ô hay! Sao nó dính vào Sơn như thế!
Nó còn chạy theo chàng một quãng xa, như ai bắn nó, đuôi ngoắt hoài, mũi không thôi ngửi vào chân Sơn, cách tỏ âu yếm giống hệt của loài người: người ta hít hương da thịt của bàn tay, của cánh tay, của đầu với tóc, với má, với cổ họng có những hốc nhỏ chứa mùi thơm...
Con chó hoang đã đứng dừng, ngực lép thở mau mau, cái lưỡi thè ra một chút. Sơn đi nhanh quá, Sơn cũng không thèm quay lại nhìn nó cơ mà. Nó biết người ta ghét nó, nên phải dừng lại và trông dõi người đi.
Nó đã xin lòng thương. Nó được lòng thương nhiều lắm, ngập cả tâm hồn người đã đành tâm bỏ nó. Nhưng nó không được nghe trên lông những ngón tay chạy dài, những ngón tay lượn ngược. Lấy hai chân, lấy một chân đè lên mình nó mà mơn trớn nó cũng được; nhưng không!
Sơn não nùng bước đi, nhưng người ta đau đớn ngoảnh mặt tránh một cách thê thảm. Cũng như lòng Sơn, chân Sơn không thể nào nhẹ được, tuy chàng nhất định không ngoảnh lại, sợ gặp đôi mắt thảm thiết của cái linh hồn đầu đường xó chợ kia. Sơn rùng mình, vì chàng thấy mình đương dẫm lên tình của một con chó rách, dẫm lên trái tim tội nghiệp của một con vật tồi tàn. Và Sơn hoa mắt đi, tưởng chân mình dính xương máu nát tan như xương máu của một con chó bị ô tô nghiến.
Ðứa Ăn Mày
Thằng Miêng cũng chỉ là một con chó hoang hay một con mèo hoang. Sơn biết thế rõ lắm. Mỗi lần thấy dáng bộ thất thơ không cửa không nhà của một con mèo hay con chó, Sơn lại thương thằng Miêng, đứa em xấu số, bị nhà bỏ, và cũng bỏ nhà, đi hoang.
Truyện dài lắm. Dài lắm lắm. Sơn không dám nhớ lại. Những sự khổ xúc xích với nhau thành một cái vòng luẩn quẩn, sờ đến khâu này, tức nhiên động tới khâu kia. Chỉ biết rằng bọn chó mèo hoang làm cho Sơn đớn đau: chúng động tới những hình ảnh tồi tàn, thất thiểu của thằng Miêng, - những kỷ niệm mà Sơn gắng đẩy vào một chỗ vắng vẻ, quên lãng nhất của lòng mình.
Sơn hiểu vì sao có sự liên tưởng ấy. Nhưng Sơn không dám hiểu kỹ; Sơn còn trẻ tuổi quá. Sơn nhát gan, không dám trông thẳng một cảnh ngộ éo le. Sơn cố ý để mù mờ trong lòng, cho lòng nhẹ bớt. Nhưng có một chuyện, nhất là một chuyện...
Năm ấy, Sơn học năm thứ hai ban thành chung trường Vinh, mười sáu tuổi đầu. Sơn có học bổng, được ăn ở tại trong trường trái với thằng Miêng học lớp tư, vẫn ở nhà cha mẹ. Một chiều thứ năm, Sơn cùng bọn lưu học sinh đi dạo, có thầy trợ dẫn đi. Sơn mới tắm rửa xong, đã soi gương rất lâu, chải tóc thực đẹp, với bao nhiêu đỏm đáng của chàng trẻ mới lớn lên.
Sơn không có tiền: các bạn khác thì đi giầy, mặc quần lụa áo hàng rất sang trọng. Cậu chỉ mang một đôi guốc; quần của cậu bằng vải không tốt mấy. Nhưng thợ giặt nhà trường đã là quần rất phẳng; và cậu có được một cái áo xuyến của người cô may cho, cái áo xuyến Sài-gòn. Ấy thế mà Sơn hoá ra xinh đẹp, đáng yêu thêm; cậu đi dọc đường, bước hăng, tự ngắm nghía mình trong tưởng tượng. Cái áo xuyến Sài-gòn láng mướt đẹp quá. Cô của Sơn đã may cho hết một chục bạc. Nhờ nó mà những chiều thứ năm Sơn ra vẻ học trò sang, đến nỗi đôi người bạn ngượng nghịu không dám lại gần. Anh em cười đùa Sơn, và Sơn cũng cười đùa, vô tâm sung sướng. Cả đoàn học sinh cùng đi.
Ðến bãi biển, gần nhà thương thành phố. Mấy cây tra-tây lá biếc và dày, để thõng những chùm trái tròn xanh. Hái xuống mà ăn thì ngon lành biết mấy! chắc vừa ngọt vừa chua. Sơn lén ngừng lại, trong khi anh em luôn đường đi thẳng. Sơn một mình đến gần cây tra tây, sắp trèo hái.
Trời muốn chiều. Dưới gốc cây, ở giữa cát vì nhớp nên đen, có lẫn những viên phẫn dê bé và tròn như hạt thuốc tể, một đứa nhỏ, một thằng ăn mày nằm ngủ. Tay nó co lại dưới đầu làm gối. Chân nó vì lạnh gió nên cũng co lại; mặt nó khuất vì cả mình nó rút cong như con tôm. Áo quần nó bằng vải đen, nhưng cái dơ bẩn lộ trắng hẳn ra cùng những vệt mồ hôi khô, thứ mồ hôi người ta gọi “mồ hôi muối”, vì mặn lắm và đọng trắng như nước biển.
Thằng nhỏ nằm xây lưng ra ngoài đường. Cổ đầy ghét. Tóc dài phủ tai, xuống ót, làm thành một cái đuôi nhọn. Tồi tàn, gớm ghiếc, hôi hám; một đứa ăn mày. Sơn tự hỏi:
- "Con nhà ai ban ngày đến nằm ngủ ở nơi đây?”
Khi ấy Sơn còn trẻ lắm, tính hay thương người, nên Sơn hay bâng khuâng lẩn thẩn như thế.
Sơn tò mò trông kỹ hơn. Chân Sơn động vào cát; thằng nhỏ bỗng thức dậy, ngửa mặt ra nhìn. Thì hỡi ôi! đó là thằng Miêng!
Ðó là thằng Miêng. Thực Sơn không ngờ rằng thằng Miêng lại có thể ngủ ở đó; nếu Sơn ngờ trước, thì Sơn đã nhận ra ngay là nó, chứ không đợi phải nhìn lâu.
Sơn bị mất hồn, không tin hẳn rằng thằng Miêng em Sơn nằm đó. Miêng ngửa hẳn thân mình, còn chưa tỉnh giấc; mắt nó mở đỏ ngầu, lẫn bao nhiêu kinh sợ trong nửa tỉnh nửa mê. Hai tròng mắt ngày thường đã ngơ ngác, bây giờ lại càng thảm hại như mắt một con vật bị săn riết, cùng đường. Trời ơi, hai con mắt của thằng Miêng, Sơn quên đi mà không được! Cặp mắt lạ quá, thảm quá; thế mà lúc ấy nó vừa đỏ vì ngủ, vừa trắng vì đói, vừa xanh vì sợ, vừa bàng hoàng trông thấy Sơn nên lác đi. Sơn nhớ lại mà khóc mất thôi! Sao bao nhiêu hình ảnh éo le lại rủ nhau đứng trong hai con mắt của Miêng, của một thằng nhỏ!
Mặt của Miêng nhem nhuốc. Miệng thì hở môi trên, để lộ hai cái răng cửa lớn và vàng khè. Một bên mép, nước dãi chảy trong khi ngủ thành đường còn ướt.
Sơn điếng người. Miêng lòm khòm ngồi dậy, hai tay dụi mắt, có vài hột nhỏ dính trên lông nheo. Nó còn ngơ ngơ; nhưng vì sợ anh, người đã thường đánh nó ở nhà, nên đứng dậy. Sơn nắm chéo áo nó, giũ cho cát rơi xuống. Sơn thở dài, giọng nói như chết:
- Thế thì thôi...
Sơn không biết cái gì ở trong đầu Sơn. Sơn còn lặng người, chưa cảm xúc được, vì cảm xúc nhiều và mạnh quá. Sơn bước đi, dẫn thằng Miêng đi theo. Sơn nghẹn ngào hỏi:
- Miêng, mày bỏ nhà đi mấy hôm?
Thằng khốn nạn không nói, cúi gầm đầu xuống. Sao lại bắt nó phải trả lời? Nó khổ, không đủ sao? Sao còn bắt nó phải xưng tội nó.
Sơn đã định thăm một người bạn đau tay; Sơn bèn đem Miêng vào nhà thương, ở gần đó. Sơn để nó đi trước, không cho nó đi sau, sợ nó trốn; tay Sơn liệu chừng sao cho dễ giơ ra nắm lấy áo nó, nếu nó vùng chạy. Sự mỉa mai ác độc: Sơn mặc quần là, áo xuyến, đi guốc đội mũ, ra vẻ học trò; còn thằng Miêng...
Sơn nói với em - em của Sơn như thế ư? - nói những gì, Sơn không nhớ nữa. Nhưng khi vào đến phòng Vệ, người bạn thân thiết, Sơn bỗng oà khóc. Em Sơn như thế đấy! Ai cũng tưởng là đứa ăn xin! Nằm ngủ trên cát nhớp, nơi đại tiện của những con cừu, con dê; áo quần gớm guốc, bụng đói xếp ve, thân hình gầy gò chẳng đáng một xu nhỏ!
- Miêng! Miêng ôi...
Sơn gọi thằng Miêng, và bỗng nhiên đánh mạnh vào lưng nó một cái, nghe một tiếng thụi! Lòng căm giận của Sơn lại phát ra bằng sự đau đớn của Miêng: thằng nhỏ khóc bật ra, vì nó đau tức nơi chỗ đánh, Sơn giận nhà và giận nó. Vì sao? Vì sao? Sơn không cần phải trả lời. Cả một quá khứ éo le, không thể nói ra được, lại rõ rệt trong trí não. Sơn thương thằng Miêng nghe chết một đoạn ruột. Cậu văng tay lên một cái, và đã đánh thêm thằng Miêng một cái nữa rồi!
Thằng Miêng khóc, van lạy:
- Tội quá! Tội quá! Anh ôi!
Sơn thấy nói đau, càng tức thêm, Sơn tức nó đã xui cho mình phải đánh nó, bèn tát nó luôn mấy cái, chúi cả đầu. Thằng Miêng khóc rú lên: tiếng khóc nó đâm vào lòng Sơn; Sơn cũng khóc theo. Một cậu nhỏ mười sáu tuổi, một thằng bé mười hai tuổi, hai đứa phải đâu là người lớn để sửa lại một cảnh đời? Chỉ có nước mắt, và những cơn quặn lòng, ruột gan xoáy lại.
Rồi thì Sơn nghe đau nơi lưng, nơi mặt của mình, vì thằng Miêng đau nơi mình nó. Cậu học sinh vò hai bàn tay dữ tợn vào nhau. Hễ nhìn cái hình dạng tội tình của em, cậu khổ não vô cùng và khóc, bởi tính dễ khóc. Thằng Miêng tủi phận lại càng thút thít hơn.
Sơn cổi áo dài, lấy áo cụt mặc lót trong mình đưa cho em, - chỉ là cái áo ngắn, không có cánh tay - bảo em thay mặc. Áo giặt trong trường, trắng toát, mà quần Miêng và cả mình nó thì đen đỉu. Nhưng biết sao? Sơn không mặc quần đùi, nên không có để nhường cho hắn.
Miêng cuộn cái áo đen nặng mồ hôi thành một cục. Sơn đã bình tỉnh hơn, van nó, an ủi, cầu khẩn nó, và nhờ Vệ sẽ đưa nó về nhà. Lớn lao gì cho cam! Học lớp tư mà đã nên thân dơ bụi.
Cái đồng hồ phòng gác nhà thương bỗng đánh bốn tiếng, Sơn biết mình đã trốn hàng quá lâu, chắc sẽ bị phạt. Sơn vội vàng dặn dò em, dỗ dành nó, xin nó đừng đi hoang nữa; dẫu sao ở nhà vẫn còn hơn...
Sơn dặn Miêng phải tắm rửa và giặt quần áo đi; còn cái áo của Sơn, thì Miêng sẽ giữ lấy mà mặc. Sơn thở dài một tiếng: không có một xu mà cho em.
- Em ơi, em về nhà; anh vào trường, em ạ!
Lời nói nhỏ và nghẹn, Sơn vội đi đến chỗ anh em bạn chơi cách mấy trăm thước.
Không ai ngờ gì cả. Bọn thiếu niên cười đùa vui sướng. Gió biển mát, tung cả cái áo xuyến đẹp của Sơn lên. Một người bạn hỏi Sơn, cho sự ấy là một điều chưa từng thấy:
- Sơn mày ăn mặc hay thực! Không có áo cánh lót trong, mà lại mặc áo dài.
Tặng Thế Lữ
Tỏa Nhị Kiều
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị kiều
Mỗi lần đến chơi nhà Phan, một cái gác thuê ở một phố hẻo lánh, tôi phải đi qua "nhà dưới", qua một mảnh sân nhỏ, trèo một cái cầu thang, đi một đoạn nữa, rồi mới tới lầu ngà của anh bạn âm thầm. Giá Phan ồn ào, nghịch ngợm, ranh mãnh lên như người ta thì hơn. Để mà được một chút vui tươi chứ! Đằng này Phan lại rất nhịp nhàng với tất cả chỗ anh ở, khiến cho tôi bùi ngùi quá, mỗi khi đến thăm anh.
Tôi biết nói cái gì trước bây giờ? Cái gì cũng buồn như nhau: con đường sắc xanh không rải nhựa, dãy phố lặng lẽ, gian nhà không chút đặc biệt của ông chủ, căn phòng không sáng sủa của bạn tôi, và nhất là ở tầng dưới, nơi tôi thường đi qua, có hai cô gái thế nào ấy. Và cái gì cũng lỡ cỡ; chúng nó xấu hẳn đi, buồn hẳn đi có được không? Mọi vật đều buồn một cách lưng chừng, xui lòng tôi cũng không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải chịu ngùi ngùi một cách vô lý.
Đoạn đường chạy qua đó không đủ rộng để làm một đường phố, cũng không đủ hẹp để làm một ngõ hẻm; đá không chịu lởm chởm, mà chỉ hơi gập ghềnh. Nhà không chịu xấu, không chịu tối, mà lại chưng một vẻ phong lưu nghèo nghèo một tí. ánh sáng không chịu sáng; giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi chiều dài. ở chợ Hàng Da đương náo nhiệt bao nhiêu, thế mà vừa đi một trăm bước để vào con đường này, cuộc đời bỗng quạnh hiu làm cho nhà cửa ngơ ngẩn.
Và nhất là hai cô gái con ông chủ nhà dưới. Nhất là hai nàng Kiều không kiều diễm, mà người ta cũng chẳng chịu khóa hẳn để tôi thương xót cho được vẹn toàn.
Hai cô ở trong một gian nhà có đủ sập gụ, tủ chè, câu đối, hoành phi, có đủ cả bộ bàn ghế Vân Nam chạm chim trái và nạm cẩm thạch. Nhưng tôi chỉ trông qua cũng biết không phải là giàu.
Quỳnh và Giao, hai tên ngọc đặt cho hai người hiền. Họ ngây ngây thơ thơ (chứ không được là ngây thơ), học lặng lẽ và ngơ ngác; ấy là hai hột cơm.
Mỗi lần đi ngang qua, tôi nhanh chân như lủi trốn, nhưng tôi vẫn đủ thì giờ thấy hai cô gái. Màu áo họ rất thanh đạm, vì nhạt nhẽo nên buồn buồn. Cô Quỳnh trẻ hơn, áo mới hơn cô Giao một chút - tôi quên không nói rằng tôi biết tên hai cô là nhờ bạn tôi.
Phan, cái anh chàng khó hiểu làm sao! Anh rất ít nói, và cũng ít làm. Kiểu mặt á Đông, mắt nhỏ và dài, không biết chứa những gì trong vẻ mập mờ kín hẹp ấy. Tôi lạ cho anh hết sức. Sự lặng lẽ của anh là một thứ hư vô, và tôi cảm như không có anh Phan.
Đôi khi Phan lên cầu thang, tôi gặp được nơi khóe môi anh một chút nhíu da giống như một phần sáu của nụ cười. Thấy thế, tôi vui vui, và hơi nghĩ ngợi.
Tôi nghĩ đến Quỳnh, cô em hiền lành quá, với đôi mắt yên ổn và như không. Cô hơi xinh. Mặt cô tròn. Hay nhíu đôi mày cong, cô có vẻ trẻ con lắm. Cô hiền lành đến nỗi tôi thấy xót thương. Tôi không nghe cô nói một câu gì,- có lẽ chỉ vì tôi không có dịp nghe cô nói.
Biết đâu Phan chẳng đồng điệu với Quỳnh, hai sự "như không" gặp nhau. Chắc cái khóe môi hơi nhích kia biểu hiện một cảm tình kín đáo.
Rồi nhân đó, tôi nghĩ đến cô chị. Dường như cô có một tật nhỏ nơi chân: bước của cô cao thấp không đều. Và dường như cô mang một nỗi buồn không ngớt. Cô giống cha cô, mà cha cô thì chẳng khôi ngô chút nào. Trái lại, mắt ông tròn như hai chấm mực, miệng ông hơi quạu, đôi môi giơ tới trước như kình với ai. Ông thường ngồi chéo chân trên sập giữa nhà, và tôi hằng gặp ông đeo kính, tuy không thấy ông cầm sách. Một lần ông đã cự tôi, vì tôi gấp rút vào gác trong, không kịp xin phép ông. Và từ đó, tôi càng thương ông lắm.
Cô Giao giống con người đứng tuổi ấy, thực bất lợi cho cô. Vì cô không dữ - tôi xem qua thì biết - mà mặt cô lại mang những nét không hiền.
ấy đó, Quỳnh và Giao, hai Kiều rất dửng dưng không e lệ nép vào dưới bụi hoa nào cả, và cũng không đẹp một chút, nhưng bởi một hội ý tiêu tao, đã khiến tôi nghĩ ngay đến câu thơ phong tỏa của người xưa.
Bởi vì hai cô ngồi trong một buổi chiều rất đỗi ngẩn ngơ, một buổi chiều triền miên của sự vật và của linh hồn, một buổi chiều trong nhà và trong tâm lý. Lạ quá! Tôi như cảm nghe sự mờ nhạt của cuộc đời, khi trông hai cô.
Dầu tôi vui đến đâu, khi bước vào nhà ấy, tôi cũng nghiêm nét mặt, bước khẽ, sợ động không khí. Hễ vào nhà thì phải cất mũ, tuy thế, trong cử chỉ thường lệ ấy, tôi tưởng như tôi đương chào ai, đương chào một cái gì, một đám tang hay một nỗi đau thương.
Tôi không thấy có một người đàn bà đứng tuổi, nên tôi nghĩ rằng ông chủ góa vợ, hai cô mồ côi. Nhưng một lần, tôi bỗng gặp bà chủ. Và tôi chỉ quen được thấy hai người con gái, nên tôi nghĩ rằng ông chủ không có con trai; nhưng tôi lại nhầm to: gặp hai người thiếu niên đi với Phan, tôi hỏi ra mới biết đó là anh của hai Kiều.
Và hỏi thêm ra, tôi hay rằng ông chủ nhà là một người làm việc nhà nước đã về hưu. Ông còn mấy cậu bé gửi học ở Nam Định. Gia đình họ đông đúc thế, và chắc cũng khá đủ tiền bạc; sao tôi lại bày những cớ rất gở, lại giả sử trong trí tôi những điều nhầm tưởng, những chuyện không lành?
Nhưng sao nhà ấy lại bao trùm trong một bầu không khí nhạt tẻ, không ánh nắng, chẳng hương người? Sao lại có hai nàng con gái kia, ngơ ngác kia như không biết sống?
Tôi biết hai cô không có việc gì làm. Họ chẳng mấy lúc đi chơi. Họ để cho ngày tháng qua. Họ là hai cái cây - họ lại còn thua hai cái cây, bởi vì còn ra hoa, ra trái, chứ đời con gái của họ, họ biết làm gì? Không sắc, không duyên, và cũng không tiền; chỉ có hiền lành.
Giá họ đừng hiền lành như thế thì hơn, giá họ đàng điếm, hung dữ, trơ trẽn, lẳng lơ tôi sẽ được vui vì thấy họ có việc. Tôi sẽ được cười nếu thấy họ đi đua xe đạp, tôi sẽ được thản nhiên, nếu thấy họ đỏm dáng chòng ghẹo bất cứ người nào.
Tôi ước được gặp họ chửi mắng người ở, đánh đập con sen tôi mong họ ngoa mồm lên, lay động hai cặp môi đắp son đỏ choét. Tôi muốn mặt họ bự phấn, tôi cầu cho họ làm bộ làm tịch, lố lăng bao nhiêu cũng được; thà họ làm cho tôi ghét còn hơn làm cho tôi thương.
Nhưng không! Hai cô buồn buồn ngồi đó, trên trường kỷ, chờ đợi một sự gì xẩy đến. Phố vắng, nhà cũng vắng: hai người anh đi chơi luôn, bà mẹ về nhà quê, ông cha lặng lờ hết ra lại vào. Hai cô cũng hết vào lại ra.
Cô em có một chờ đợi: là chồng. Nhưng có lẽ cô cũng hơi biết rằng nỗi mong ấy gần với một viễn vọng. Còn cô chị? Tôi nghe bạn tôi bảo rằng cô đã có một đời chồng: chồng cô đã ly dị với cô. Hỡi ôi! cô Giao còn biết gì để mà trông ngóng.
Tôi thương hai cô như hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh, khi chiều giăng lưới qua muôn gốc cây. Buổi chiều của hai cô mờ nhạt và kéo dài; hai cô lẫn trong mù sương. Đáng tội nghiệp nhất là hai cô không sầu tư, không có một nỗi chán nản gớm ghê, nó xui ta cầu xin cái chết. Không, hai cô là hai cô gái, chỉ biết buồn mờ, buồn lặng, nhưng buồn lâu. Hai cô là hai cánh đồng...
Nhiều lần, theo một liên tưởng mau chóng, tôi nghĩ đến những cụ già còn đôi chút sức lực, ngày ngày quanh quất giữa bàn ghế trong nhà. Cứ tự nhiên im im như thế, các cụ ăn, ngủ, mà may thay! Trong lúc ấy, thì giờ qua... Cho đến khi các cụ hết ở trong nhà với sự buồn tẻ. Cái chết đã nhận những linh hồn kia, cái chết đã là mục đích.
Tôi lại rất nhớ những khi xế trưa, nắng ngả vào bếp nhà tôi. Lửa tắt, than lạnh, chỉ đôi con ruồi lơ thơ đậu dưới đất thỉnh thoảng bay lên kêu vo vo. Nắng vàng phai lặng, chán nản làm sao! Lúc ấy, mọi người đều cảm thấy mơ hồ nỗi nhạt nhẽo của ngày này tiếp theo ngày nọ. Đến nỗi một người đơn giản như mẹ tôi cũng buột mồm nói: "Cơm mai rồi cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm".
Mà nhà ai lại chẳng thế! đứa nào mộc mạc nhất cũng đã từng buồn bã khi làm bữa cơm chiều. Ai lại không nghe, ít ra một lần, nỗi đìu hiu của cái Ao Đời bằng phẳng. Chúng ta nhảy múa, gào khóc quay cuồng để cho có việc; nếu không, ta sẽ thấy một sự vắng vẻ vô cùng thê lương. Và dù siêng năng đến đâu, đôi lúc ta cũng bắt gặp ở đây hồn ta một nỗi trống không rất tuyệt vọng.
Có phải vì vậy mà tôi thương hai cô gái kia chăng? Không biết. Tôi không thấy rõ duyên cớ; tôi chỉ thương mà thôi, thương một cách thành thực và dễ dàng. Tôi đã cảm giùm cho hai kẻ ngơ ngác, và lặng thinh ngắm một cảnh tà dương.
Bởi vậy tôi đã nảy ra một ý: đến nói chuyện với hai Kiều. ít nữa tôi cũng là một viên sỏi, một cục đá đến rơi xuống trên mặt nước phẳng lỳ của ngày nọ. Tôi định tâm làm cho hai cô tức, cáu, đem tặng hai cô hạnh phúc thấy mình cũng được xẳng xớm rầy la một người khác. Tôi vừa ra vẻ láu táu, ráng lấy một bộ mặt bướng bỉnh. Tôi giả sử tôi là một người đến chọc ghẹo hai cô, và sự kém giáo dục của tôi để tôi vô lễ.
Tôi đã quên với lời và cử chỉ của tôi lúc ngừng lại nơi nhà dưới, khều cho hai cô nói chuyện với tôi. Nhưng tôi rất nhớ sự vồn vã của hai người, trả lời lại như đối với một vị cứu tinh. Hai cô có bao nhiêu ngọt ngào của lòng mình thì đem ra ngoài, lời hai cô hiền lành hơn trẻ nhỏ. Cái duyên dáng mà hai cô có thể có, hai cô đều phô bày ra hết để tiếp chuyện với tôi. Tôi đã thấy mắt cô em ướt hơn ngày thường...
Thế là thất vọng! Tôi muốn họ hung tợn, họ lại thêm hiền lành, cái hiền hậu nó làm tôi khó chịu quá. Tôi sợ sợ, tự biết mình không thể an ủi được cảnh trống không của đời họ. Công việc ấy tôi không dám làm; tôi chỉ có lòng thương, mà họ, họ cần tình yêu.
Tôi mong ở Phan, anh bạn "như không" của tôi, nguyền ước cho cái khóe cười của Phan hằng nở vì cô thiếu nữ: một lần nọ tôi sung sướng thấy Phan đi xem diễn dịch, và Quỳnh và Giao cũng đi...
Nhưng từ cái chiều xảy ra cuộc nói chuyện, tôi ngại ngùng, lành lạnh trong cảm giác, không đến thăm Phan để khỏi qua nhà hai cô. Sau hai tuần, khi đến tìm Phan, tôi ngẩn ngơ hay tin rằng Phan đã đổi chỗ ở.
Thư Tình, Mùa Thu
Ðây là tám bức thư tình của một người trẻ gửi cho một người trẻ. Này, bạn đọc! hôm nay mùa thu đã rõ rồi đấy. Tôi biết lòng bạn run run lành lạnh, nho nhỏ ngân nga vì hơi heo may. Tám bức thư tình. Một kho ấm áp! Bạn đừng ngay thẳng quá. Những bức thư hờ như thế, bỏ quên trong ngăn kéo, ta bắt được tội gì không xem? Ðây tôi đọc cho bạn nghe, - hay là tôi chép lại.
Ừ, xem, ta xem đi. Ngoài kia mưa bay mảnh khảnh dịu dàng, chẳng biết là mưa hay là sương nữa... Còn gì thú hơn xem bức thư tình, tay nhẹ nhẹ nâng như không dám cầm mạnh, sợ dập mất chữ của người yêu dấu! Ồ! đọc những lời hò hẹn tiêu tao, trong khi Mùa-Êm-Ái đưa mây, quạt gió ngoài trời! Ồ! buông mình vương vít trong lưới chỉ của lời tơ, thấy mình là một con chim si vui lòng bị nhốt trong lồng tình ái, và nghe mình đập cánh du dương trong vòng giam hãm, và ngoài xa, ngoài rộng, đất trời cũng lịm trong lồng mùa thu...
Ðọc thư tình! Trong mùa thu! để thấy ngón tay cảm động như đàn trên phím giấy, để nghe những chữ những tiếng mở ra như những hộp đựng ngọc, hé ra như những cánh môi. Một làn gió nhỏ đến tự chân trời xa xôi, thổi mơn man vào giấy: thế là tai ta, đã chờ sẵn, vội vàng nhầm tưởng giọng nói thân yêu. Ôi một bức thư tình!
Thế mà đây chúng ta có những tám bức. Giấy mỏng như cánh chuồn chuồn. Hương nhẹ như rất xưa. Hẳn là của một chàng trai nào mười tám xuân xanh, hai chân cao, cái đầu thẳng, trái tim non ở trong ngực mới, cảm mùa thu. Cảm tình yêu đương, và thấy thu về, lòng đòi yêu mến. Chàng ta đã đan lời rất dịu: những bút tích ấy hôm nay lạc vào tay ta. Của ai? Của bạn chứ còn của ai nữa! Bạn hãy thử dim mắt, ngó vào bên trong và đọc thầm những bức thư sẵn có trong lòng bạn: bạn sẽ thấy cũng bấy nhiêu chữ và bấy nhiêu tình.
Bạn ơi, nghiêng đầu bạn bên đầu tôi, ta cùng đọc những bức yêu đương mà tình cờ nhặt được. Cứ cho mùa thu làm dáng ngoài kia; chốc nữa, khi đọc xong, ta sẽ lau một khung kính mờ và nhìn ra trời đất. Bấy giờ mùa thu sẽ càng ý nhị hơn nữa, đến bên vai ta nhẹ nhẹ ôm..
I/
Cái “thư” lần đầu.
Sợ sệt và ngại ngùng như sẽ có một điều không hay xảy đến vì sự bạo gan.
Bước đầu sẽ dẫn tới đâu?
Ước gì dẫn tới... lòng của bạn!
Ba hôm, - bốn hôm chứ - bốn hôm không thấy Chi, sao mà dài ghê quá. Chỉ có cho tôi nói rằng nhớ Chi vô cùng không? Tôi muốn đến Chi, nhưng sợ mất thì giờ của Chi. Và không dám lạm một tấm lòng tốt.
Chi đẹp quá.
Sáng như tuổi trẻ.
Sáng như mặt trời.
Và khi ngó mặt trời người ta quáng mắt, tối mắt đi. Người ta không trông thấy gì nữa.
Trừ ra cảm giác của sự rực rỡ, và cảm tình của lòng mến yêu.
Giấu sự giàu có về tiền tài, việc ấy còn dễ.
Chứ giấu sự giàu có của lòng ta, sự ấy làm sao được? Nhất là khi ta thấy luyến ái một người, tự nhiên lòng ta đầy tràn hân hoan và cũng tối tăm lo ngại.
Tôi không thể giấu...
Xin Chi hãy trông...
Trước hết, hãy trông sự buồn cười của bức thư trao bằng tay, sau bao do dự.
Và hãy trông nguồn rung động mới, xui lòng Tịnh sống nhiều lên, cũng như ngực Tịnh thở hăng lên.
Và hãy trông, nhất là hãy trông mùa thu mới tới, chứa đầy nhớ nhung;
Và sau cùng, nếu Chi không yêu Tịnh, thì hãy xem như chưa hề có tờ giấy này.
II/
Cái “thư” số hai.
Viết trước khi xa nhau, dầu chỉ là trong hai mươi hôm.
Ðể nghe lòng tôi bịn rịn rất dịu dàng, vì có những sợi giây bắt đầu vương buộc.
Ồ! làm sao nói được những cảnh yêu phấp phới nhẹ nhàng trong lòng Tịnh!
Mà nói làm chi?
Chỉ im nghe sự cảm thông chảy từ lòng Tịnh sang lòng Chi, theo một dòng suối vô hình.
Hai mươi hôm, Chi thân yêu của lòng Tịnh!
Hơn nửa tháng, có phải là ít đâu! Ngần ấy thì giờ cũng đủ để người ta đi vòng quanh thế giới.
Và vòng quanh trái tim của một bạn yêu, chắc cần ít thời giờ hơn, ―nếu hai bên đồng nặng tình cảm với nhau.
Trong bấy nhiêu ngày ở xa Chi, Tịnh cầu mong cho kỷ niệm của Tịnh được vòng quanh lòng Chi, ít nữa là hai mươi lần.
Và hai mươi lần, Tịnh sẽ tưởng tượng làm giấc chiêm bao...
III/
Xa Hà Nội rồi.
Không gần Chi nữa...
“Dịp may hiếm có” để gửi thư cho Chi một cách đường hoàng, viện cớ rằng Chi đương ở Bắc, và Tịnh đã về Nam.
Nhưng cũng là một dịp để tha hồ nhớ.
Chiều ở đây đẹp lắm!
Có tiếng sóng đến gần nhà.
Có gió vào trong phòng, và có mùa thu giăng màn trước cửa sổ.
Biển đã bắt đầu đổi tiếng, sóng thu đã reo lên.
Thành phố nhỏ của Tịnh nằm trên một lưỡi cát dài.
Trời muốn lạnh, Chi có nghe chăng?
Nếu không gặp nhau, ta chịu sao nổi những ngày buồn sắp tới?
Gió thu lẻn vào lòng người rất giỏi; che kín áo cũng chẳng ăn thua gì. Nhưng tình yêu lẻn vào lòng người lại còn giỏi hơn gió thu. Và bấy giờ thì thực ấm.
Mà lắm khi tình yêu chẳng thèm lẻn vào đâu! Nàng công chúa ấy vào trong cung của ta theo cửa Ngọ Môn, đi rất thẳng đường, và cửa nào cũng không dám cưỡng lại.
Trong cung lòng anh,
Có ngôi vàng quý;
Em là hoàng hậu,
Anh chẳng dám làm vua...
IV/
Mấy chiếc thuyền nằm im trong vũng mới buồn bã làm sao!
Có cái gì rất thu trong cảnh nước và thuyền yên lặng.
Trời êm như hồ.
Én nhỏ như mũi kim.
Mây biếc và xa như những mảnh núi bỗng dưng biết bay!
Mặt trời hiền hậu như một tấm gương đã cũ
Chiều thu... Chiều thu...
Tịnh được hưởng cả cái xa xôi của sự cách xa.
Biết rằng ta yêu nhau nên bằng lòng xa cách.
Cũng như lùi lại đằng sau để thấy một bức tranh đẹp hơn và rõ hơn lên.
Tịnh ở xa để thấy ái tình nổi bật từng nét yêu đương.
Gửi Chi nỗi niềm nhớ nhung trông ngóng.
Mênh mông như chân trời này đến chân trời kia.
V/
Một trận gió tới đột nhiên, và từ ấy, mưa xuống không dứt.
Chiều qua đến nay, lòng ngập trong mưa...
Thư này mang đến cho Chi một nỗi lạnh lùng run rẩy,―của trời đất thì ít, của lòng Tịnh thì nhiều.
A, thương nhớ nào đâu bay qua với mây, hùa theo với gió, thương nhớ nào đâu vơ vẩn với trời như những con chim lạc, rủ nhau tìm vào chỗ trong lòng anh?
Ba cái thư, mười hai ngày rồi.
Chỉ còn ba hôm nữa, ba hôm!
Tịnh không ở được đến hai mươi ngày; trời ơi, ngựa chạy nơi ngực anh đây!
Tịnh chỉ ở nửa tháng.
Lòng Tịnh gấp ra nhìn Chi một chút, nhiều chút đê mê, đê mê...
Nếu có thể đẩy thì giờ cho nó chạy nhanh lên nữa!
Ồ, gặp Chi, ngó Chi, chứa hai tròng mắt đầy em!
Trái tim chồm lên như con ngựa sắp chạy thi,―gớm, sao mà gió lạnh thế!
Chi ơi, Chi ơi, Chi ơi...
Tịnh đây!
VI/
Thôi chết rồi, Chi đi chơi xa chưa về.
Em Chi, Tịnh vội ra để thấy em, sao em lại đi vắng? Anh nhớ em nhiều quá. Anh gấp ra để được nhìn em.
Tàu đến ban chiều. Anh chờ đến tối. Chiêm bao mộng mị. Anh chờ đến sáng. Rồi anh chờ đến trưa. Và bây giờ trời đã chiều.
Chi ơi, đi mau về đây với anh!
VII/
Ồ! Chi của tôi, của tôi!
Nhớ nhá, chiều nay chúng ta bơi thuyền.
Ta sẽ cho mái chèo vào giữa lá sen, và nói;
“Ðây là những lá sen,
“Ðã rách vì không còn mùa hè;
“Hỡi mùa thu yêu dấu!
Chúng ta sẽ chắp lá sen tàn, may áo rét và mặc cho ngươi.”
Cửa sổ nhà em khép lại như những mí mắt buồn ngủ.
Lỗi của gió, của mưa, của mù.
Anh cứ đi qua luôn, ngừng lại một chút, rồi thẳng đường đi...
Lỗi của đôi chân không biết trái lệnh lòng yêu sai khiến.
Mùa thu! Mùa thu! Ai không nghe, như chàng trai kia, tiếng kêu vời vợi của không khí? Ai không run nỗi hàn của tâm lý trước khi run nỗi rét của da thịt? Lạnh lùng sắp tới, lòng ai không rộng thêm, bỗng dưng có một khoảng trống cứ to dần. Ai không cần góp nhiều tình, thực nhiều tình, như người ta cất sẵn than củi để phòng mưa gió?
Bức thư tình trong mùa thu, ai sẽ viết cho tôi, cho cô, cho anh, cho bạn? Ai cũng vậy, hễ mùa thu đến là cần thiết rất nhiều âu yếm, như trong ngực bỗng dưng có đến năm sáu trái tim. Ai may thêm áo, ai mặc thêm những lớp áo tình cho muôn lòng người rét mướt? Một bức thư tình là một khuôn nhung ấm; những cặp tình nhân đừng quên!
Truyện Cái Giường
Tôi là một cáỉ giường hư bỏ trong nhà chứa đồ cũ. Tôi buồn lắm. Cái nhà nhỏ như một cái hộp lớn, tồi tàn, dơ bẩn, bụi đâu trên mái cứ rơi chầm chậm xuống phủ mình tôi. Và màng nhện! Chúng giăng qua sườn tôi, tự do quá.
Nhất là không có ai bén mảng. Lâu lắm, họa chăng một người đầy tớ mở cửa để ẩy vào một cái ghế rách hay một cây đèn tồi. Rồi vội vàng đóng ngay, dáng khinh khỉnh vì sợ bụi. Trời ơi, chịu sao nổi cảnh hiu quạnh đường này! Dầu gãy, dầu hư, tôi vẫn mong được loài người đụng chạm. Tôi, xưa kia đã từng nâng da, đỡ thịt, tôi đã nhận sự sống của loài người lây qua mình tôi.
Mà bây giờ không có sự gần gủi của người. Thực là cô đơn, vắng vẻ.
Tôi có chuyện của tôi chứ, Tôi đâu phải là cái vồ lớn dựng nơi kia, nó chỉ có một lịch sử: suốt đời giơ đầu gỗ của mình đập lên trên búa, trên rìu. Tôi biết nhiều lắm. Nhưng mà tôi chưa nói đó thôi.
Nào, cái bàn hư, cái ghế hỏng, cái cũi mọt, và các người nữa, chiếc xe con góa bánh, hai cây đèn chảy dầu, năm cái thúng trật vành, và mọi vật linh tinh lủng củng, hãy nghe tôi tự thuật. Làm thinh hoài chỉ tổ cho mọt nó ăn!
Tôi vào trong nhà này đã lâu lắm. Mười bốn năm. Tính thử xem, việc đời biết bao thay đổi!
Xưa kia, tôi đẹp, tôi mới. Tôi lại đẹp nhất, mới nhất, không một kẻ nào cũng loài có thể sánh được kiểu tối tân của tôi. Suốt tỉnh nhỏ; người ta đều biết tiếng cái giường ở tiệm đồ gỗ X... Bao nhiêu người thèm thuồng đã đến mặc cả, nhưng túi tiền không đương nổi; và bao nhiêu người đã trằm trồ nhưng không hề dám mộng, chỉ đành tới nhìn tôi để lại về ngũ trên chiếc chõng tre.
Bỗng một hôm, một người thanh niên đến ngắm nghía tôi, hai mắt sáng. Vài câu hỏi, một nụ cười, một cái gật đầu. Và ông chủ tôi mừng quýnh lên, vì đã tưởng chẳng ai dám lãnh quí vật về nhà, bởi vì cao giá quá.
Ôi vênh vang kiêu hảnh trên chiếc xe bò nó kêu như xe thắng trận; ôi sung sướng đi qua giữa phố, khiến nghìn con mắt phải ngước lên cho tới, để ngợi khen tôi và ganh tị chủ mới của tôi! Mặt trời hôm ấy đỏ vàng, ánh buối sáng chạy lượn trên mình ngời chói. Hồi hộp khi nghe tiếng thở của phu kéo, mơ mộng khi nghĩ đến cuộc đời mới đương chờ tôi, và rung rinh mỗi khi xe gặp một khoảng đường gồ: sao sự sống linh đình mà vui tươi thế!
Thế là tôi đã thành một cái giường thực-sự, chính thức, một cái giường toàn vẹn, sẵn sàng, để cho người ta sống, chứ không phải để mua bán. Phải đợi hai tuần, cái mùng mới mới may xong, và phải đợi thêm một tuần, mới xong một cặp gối mới: ngót một tháng mới hoàn thành.
Cái thiên-chân mờ mờ của tôi cũng cho tôi đoán hiểu. Hai người chủ mới, một đôi vợ chồng trẻ, đã muốn trả thù cho sự tàm tạm khi lấy nhau. Khi được một số tiền lớn đầu tiên, họ liền thay chỗ nằm, bỏ cái lều xoàng xĩnh không xứng với giấc mộng ái ân, mà vào một cung điện khá đẹp, khá sang, knông hổ với tình yêu thứ nhất. Với sự nghiêm trang riêng của tuổi trẻ, họ để dành tôi, chờ cho xứng gối, xứng màn, và chờ một đêm thứ bảy; xem thấy sự thẳng thắn rất lành của họ, tôi cũng dường như thêm bề thế, vững vàng.
Cái mùng trắng tinh, xốp như bọt sóng trắng; chiếc chiếu có hơi lòe loẹt, nhưng ta phải nhớ tuổi trẻ là tuổi sắc màu; và cặp gối thi vị biết bao! Cái gì có đôi cũng là thi vị, huống chi đã một đôi gối, lại trên mỗi chiếc có một đôi chim chuyền luyến cành mai, và trên cành, không biết bao nhiêu là đôi hoa nở...
Công dụng của tôi bắt đầu từ một đêm thứ bảy, trong khi bóng trăng đi vào cửa sổ, đến bên mình tôi. Mà đời tôi tưởng cũng như đến đêm nay mới thực bắt đầu; loài người đến truyền sự sống qua thân mình tôi, một đêm trăng ngời đầy những lời dịu ngọt.
Trong phòng nhỏ, tối với sáng không ngược nhau mà lại giao hòa với nhau; cái giường hiển hiện dưới một thi vị thần tiên, xứ của Đêm tưởng chừng như chỉ gồm lại gần đây, ở nơi cái đồ đạc khác thường nó là nơi của giấc ngủ.
Không bao giờ tôi quên lần đầu tôi thức dậy! Mơ hồ trong vật chất của tôi, tôi bỗng nghe chút gì xao động; vật chất như được hồi tỉnh, có một ánh mong manh, yếu đuối đợi vào cái đêm dày đặc của sự vô tri.
Trước lần ấy, tôi cũng có một thứ thấu-hay, nhưng thô kệch biết mấy! Chỉ sau khi được nâng sự sống hiền hòa, son sẻ của loài người, tôi mới thấy rõ: đời chỉ có ỷ nghĩa với tôi mỗi khi đêm về.
Ấy là một nỗi ngất ngây dìu dịu lúc khởi sự có ánh đèn trong bóng hoàng hôn chập chừng. Tiếng khua riêng trong nhà, gây nên vì bóng tối, sự rộn rịp nhỏ làm đất chuyễn tiếng chân, tiếng bát đũa và tiếng chó gà, tất cả sự ồn ào thầm kín lúc đêm sang đều động tới tôi rất mạnh. Lúc ấy người ta, bận vì bữa ăn, không xem gì đến chiếc giường, nhưng tôi, tôi sắp sửa giấc ngủ: nghĩa là tôi hồi hộp thấy cái ánh linh hồn của tôi lại trở về... Hoàng hôn, tức là bình minh của tôi!
Rồi trong khi các trẻ nhỏ xúm quanh cây đèn hoa kỳ, học bài nghêu ngao, bàn tay cần mẫn của bà chủ đến chăm sóc chỗ nằm, và nhất là chăm sóc tôi, nơi nằm quí giá nhất.
Một giờ của đêm qua là một giờ của đời tôi đến. Với những cái giường, thời khắc nào huyền ảo cho bằng Đêm! Những đồ đạc vững chải và nghênh ngang kia được soi dọi bằng bóng tối. Chúng lộ nguyên hình là những cõi riêng, những xứ sớ, chứ không phải những vệt kềnh càng chỉ chiếm hết cả chỗ trong phòng.
Không gì khổ sở cho những cái giường bằng ánh ban ngày. Dù chúng đẹp tới đâu, chúng vẫn có vẻ trẽn trơ, ngờ nghệch. Dường như người ta không hiểu trong khi mọi người làm việc, sao lại có sự lười biếng đang ỳ ỳ nằm đó, họa chăng để làm bạn với kẻ ngủ ngày hay kẻ yếu đau. Sự sáng tỏ bất lợi cho chúng. Tiếng ồn ào không một chút du dương.
Chúng như những con vật sống ban đêm, bị ánh ban ngày bắt được. Chúng đã thành vô dụng, và hóa vô duyên. Chúng đã lạc vào trong ban ngày, nên ngẩn ngơ, dơ dáng.
Nhưng đêm đến! Gỗ không chỉ là gỗ nữa; cái giường mở rộng như một cõi mơ...
Ở trong nhà tù bụi bặm này, chứa những dân đã bị đời thải, tôi xin hỏi riêng những vật bằng gỗ: có vật nào đã từng cảm thấy sự sống rạo rực chạy trong mình hay chưa?
Chỉ có cái giường, chỉ có tôi mới được những giây phút lạ lùng ấy. Nương bóng huyền bí của đêm, cái gì cũng huyền ảo; những vong hồn có thể hiển hiện, và những chút hồn thầm của mọi vật cũng được hiện ra.
Huống chi tôi được đỡ lấy mùa xuân vào lòng, mùa xuân của hai sinh vật trẻ trung, tốt đẹp. Tôi đã nhận sức nặng của hai sự sống ; loài người có biết chăng tôi đã khoan khoái bồng họ như người mẹ hiền bồng hai đứa con?
Rồi những đêm đông, khi mưa rào rào đánh tạt vào tường, khi ngoài trời nước xuống tứ vi, đem nỗi lạnh lùng, ướt át, ấy là khi những lòng xanh nghe máu ào tới, rạo rực, ấm áp vô cùng. Ấy là khi người ta càng quí trọng sự gần nhau, kéo chăn kín đầu, không bỏ lọt một chút hơi thở. Ấy là khi bồi hồi xúc động, cái giường hoàn thành một tổ chim. Tôi đã nghe mình tôi được trở lại với đời rừng; tôi là bằng cầy chứ không phải là bằng gỗ : trong những mạch đã khô, đã cứng, tôi tưởng nghe máu cây lại chạy lại, tôi bàng hoàng nhớ tưởng thấy mình lại có da tươi, thịt mát, máu nâu...
Và mơ màng như còn phảng phẩt sống trong rừng, bởi vì gỗ đã bắt chước người, nao mình, chuyển nhựa. Tôi thiêm thiếp cùng vơi hai người chủ, linh hồn ngân nhẹ và vật chất ngân êm...
Mà cái bàn nào, cái tủ nào bì được Cái Giường!
Cái bàn thì khô khan, cái tủ thì trưởng giả; cái bàn học giữ vẻ lạnh lùng của những chồng sách nặng; cái bàn ăn mang vẻ thô bỉ của cả thịt, mắm muối; cái tủ thì cao ngông nghênh và có thói tư bản, khư khư giữ chặt quần áo, bạc vàng. Cái hòm, cái rương cũng đồng mang những khối bụng to tướng tham lam; còn nói gì những cái ghế, chúng bị người ta ngồi lên trên mặt...
Chứ cái giường, ôi chao! còn gì thân mật, ấm cúng, ái ân hơn? Người ta nằm lên giường, người ta lăn vào giường như cầu xin một sự ấp chở che, như rơi dịu vào một cõi lòng chìu đón... Phải, khi nào buồn ngủ hay mệt mỏi, hay yếu đau, người ta mới đi nằm, cho nên cái giường thành ra xứ sở của nỗi mê man, của sự chập chờn, của niềm tê liệt, nghĩa là cái giường gồm thâu bao nhiêu huyền bí của thân thể, của linh hồn... Có phải không, người ta đến nơi bàn, hay là đi mở tủ một cách rất khô khan bởi vì quá thực tế - chứ khi đặt lưng xuống giường, người ta có cảm giác mơ hồ như đương chìm dần trong một biển đen mờ, xanh nhạt; dần dần người ta lịm dưới một lớp sóng ngủ triền miên. Ôi! nằm trên giường hay là trôi trên nước, hay là bơi giữa nguyệt, bay trên mây? Mờ mờ, nhẹ nhẹ, linh hồn người bảng lảng mù sương, ngao du cõi mộng. Trong khi ấy, chân tay vẫn sờ soạng nơi mình gỗ của cái giường, và người ta nhầm chăn chiếu với da thịt của một nàng tiên...
Chỉ cái giường là biết được hao nhiêu thầm kín của con người, chứng cho muôn nỗi lòng vu vơ, ban ngày bị đè nén, lấn át vì công ăn việc làm, ban đêm mới được người ta mở ra nâng niu ngắm nghía. Cái giường mục kích sự yếu đuối của kiếp người, bao nhiêu tình thẹn, ngần nào tình e, ngần nào là tức thầm, hao nhiêu là tủi vụng, tất cả niềm thổn thức mà trái tim che dấu đều chờ đêm thanh cạnh vắng, tuôn trào bằng nước mắt trên giường. Chăn chiếu như ru, gối màn như dỗ người ta, ấp ủ bên lòng, và chỉ có ở trên giường, người ta mới dám khóc...
Hãy tội nghiệp cho những thân thể mệt nhọc kia, nhờ giấc ngủ mà được sống đời cây cỏ, ẩn vào giấc ngủ để nguôi cuộc đời chật vật, để tìm quên lãng, nghĩ ngơi.
Cái giường phải chăng là một bà mẹ hiền từ, ẵm bồng lấy con người, vuốt ve, xoa dịu? Cái giường ở với con người gần hết nửa đời, rộng lượng nhất và nâng niu nhất. Từ khi rời cái nôi và bớt tiếng khóc, người ta đã nghĩ lưng, trong lòng một cái giường. Rồi từ ấy, đêm đêm, cái giường nhận lấy ta, ban cho bao nhiêu ân ái sướng vui.
Nào những đêm thao thức của tuổi dậy thì, nào những mộng cuồng bạo của thời thanh niên, nào những bóng trăng vào hồn mình, nào những hơi gió thổi qua má... Nào những đêm vui, nào những đêm cưới, nào hạnh phục của thân thể, sum vầy của lứa đôi. Nào những phen nhớ ai, người ta nằm ngó trăng, những lần dỗi nhau, nguời ta xây hai cái lưng mà chẳng nói... Nào những lúc chỉ ốm xoàng mà người ta cũng sợ chết, nằm trên giường và rứt từng cuống chiếu cho có việc làm; nào những cơn đau bất tĩnh, bà mẹ rất tận tâm cũng phải ngủ thiếp, người ta nằm một mình giữa khuya và giữa giường, mộng mị mê man... Rồi đêm tiếp đêm như ngày tiếp ngày, cái giường, càng lâu càng thấy rắn hơn, vì thịt càng lâu càng nhăn, xương càng lâu càng rõ... Nào những đêm ho khù khụ, nào những đêm chảy mồ hôi... Rồi đến một lần, lần cuối cùng, người ta ráng sức mở hết đôi mắt lờ đễ nhìn ánh sáng, nhưng dần dần đời cứ tắt, tiếng cứ câm : người ta chết... ở trên cái giường.
Lúc nào thân mật, lúc nào thảm thê, cái giường cũng sẵn sàng nâng đỡ. Cái giường biết im lặng và biết làm ồn, biết kêu khoái lạc và cũng biết than van; Cái Giường! Vật bằng gỗ nhưng xứ bắng mơ, chia nửa đời với con người, nhận biết bao nhiêu sự sống!
Thế mà tôi là một cái giường. Sở dĩ tôi tìm cớ vênh vang, là để bớt nảo nùng cho số phận bị ruồng bỏ. Mười bốn năm trời, đời của tôi chẳng mấy chốc mà già với đời của người. Mọi vật đều thay bậc đỗi ngôi, sự dâu bể của cuộc đời, cho đến gỗ cũng phải chịu.
Xưa kia, tôi đẹp, tôi mới. Bây giờ tôi cũ, tôi xấu, tôi hư. Những hình dáng thuở trước tân thời, bây giờ lại cỗ hủ. Tôi đã thấy những chiếc chiếu dần dà rách, những cái gối dần dà mềm nhũn, những cái chăn dần dà mòn thủng, những cái màn hư hỏng từng miếng một, để lọt muỗi vào. Chiếu, chăn, màn, gối, lần lượt tiếp nhau vào cỏi tan nát; cái giường ở lại làm sân khấu cho sự đổi thay.
Hai người chủ càng nằm càng phát đạt, sự giàu sang cứ đến rất đều nhịp, lòng người bởi thế cũng đều nhịp mà tùy thời. Người ta mấy mươi lần bắt tôi đổi chỗ, mang từ phòng này sang phòng khác, đặt hết lối giọc đến lối ngang. Ban đầu tôi là chỗ nằm của ông chủ bà chủ. Rồi sau năm năm, một cái giường nguy nga tráng lệ đến làm bật hẳn sự hèn kém của tôi. Tôi thành chỗ nằm của những người khách đến ở vài ngày. Rồi tôi lại được thành chỗ nằm của một bọn trẻ con, mình chúng nhẹ song những cách tàn phá của chúng thì rất nặng. Chúng trèo lên mình tôi, và đi guốc, đi giầy lên, và nhẩy nhót đùng đùng, và đánh lộn nhau ầm ỹ.
Tôi càng cũ đi, sự hư hỏng càng đến gấp, cũng như một người càng già, những sự yếu đuối càng rủ nhau ùa đến thật nhanh. Đoạn sau này, mỗi tháng, đem đến một sự xiêu vẹo, mỗi ngày một sự mòn mỏi, rồi bỗng chốc hiện ra nào mộng hư, nào chốt gãy, nào là ván thủng, chân què. Rồi tôi run lên như một kẻ già, gỗ kêu rang rắc như một ông cụ rũ xương; tôi lòng khòng yếu đuối, mọt đến ăn tôi, cọt kẹt suốt đêm ngày...
Từ nhà trên tôi đã xuống nhà giữa, rồi tôi lại xuống nhà dưới, rồi cuối cùng tôi xuống nhà bếp, hứng lấy khói bụi mồ bóng làm chỗ ngủ, cho đầy tớ. Rồi thì đầy tớ cũng không thèm tôi nữa : tôi thì già quá mà nhà họ lại giàu thêm. Cuối cùng, họ đẩy tôi vào đây, tôi sẩy vào đây, Khi họ mang tôi lên vai vứt ra khỏi cuộc đời, bao nhiêu xương xóc của tôi đã kêu to lên một lần cuối cùng, và tôi biết rằng tôi đã hết.
Thôi, thế là hết. Người ta dựng tôi trong nhà chứa đồ bỏ này, bắt tôi chờ đợi cái gì đây?
Bụi trên mái rơi xuống hay chỉ là bụi của tháng ngày dần dà lấp chôn mọi vật? Cái giường không còn mong gì nữa; xưa nay cái giường đã để cho thiên hạ nằm, bây giờ đến lượt nó, cái giường muốn nằm. Nằm nghỉ trên cái gì đây?. Lửa đâu?. Lửa đâu?. Sao không tới thiêu đốt mình ta, cho ta được thành ra khói, ra hơi, để bay lên trời thẳm, để chuyển lưu trong kiếp luân hồi.
Lửa hồng ở đâu?. Ta nhớ rừng xanh! ta nhớ đời cây!. Ta muốn về quê hương, quê hương chung của muôn vật, muôn loài, ở đó tất cả đều như nhau, không phân biệt gì nữa.
Lửa hồng ở đâu?. Lửa hồng ở đâu?.
Xuân Diệu
Theo https://vietmessenger.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...