Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2019

Thương chồng

Thương chồng
THƯƠNG CHỒNG
Thân tặng Mẹ, để kỷ niệm 
những ngày nghèo khó 
ở Cẩm Giang, mẹ phải thức khuya dậy sớm 
đi cân gạo để nuôi chúng con ăn học.
N.L
Trời lạnh và gió rét. Nhung lắng tai một lúc lâu nhưng chỉ nghe thấy tiếng thở đều đều của chồng nằm bên cạnh. Sẽ nhấc mép chăn, nàng ngồi dậy rất nhẹ để khỏi làm mất giấc ngủ của chồng, đi lần ra phía cái bàn con tìm bao diêm. Nàng châm đèn, vặn bấc cao dần dần sợ ánh sáng đột ngột làm chói mắt chồng rồi lấy một tấm bìa cứng dựng cạnh cây đèn cho bóng tối rọi đúng góc nhà chỗ giường ngủ. Nhung rùng mình một cái, với chiếc áo cánh bông khoác lên vai. Kim chiếc đồng hồ quả lắc cũ kỹ treo trên vách chỉ ba giờ sáng. Còn sớm quá. Nàng kéo nhẹ cái màn treo, thò đầu nhìn vào gường ba đứa con nằm. Giữa giường, Nhung chỉ thấy hiện ra một đống chăn, không có một cái đầu nào hoặc một bàn tay nào thò ra ngoài.
- Ngủ thế này thì ngạt hơi chết.
Nhung mỉm cười gật gật đầu vì nghĩ đến ba đứa con suốt ngày đánh đấm nhau chí chóe bây giờ ôm ghì lấy nhau ngủ một cách rất yên lành hòa bình; nàng kéo lại cái màn che cho kín gió rồi ra sau nhà đun nước rửa mặt, vừa đun vừa giơ tay hơ trên bếp sưởi. Má nàng nóng ran và hồng lên vì ánh lửa nhưng hai cạnh sườn vẫn lành lạnh, nàng quặt tay kéo mép tà áo cánh bông áp mạnh vào lưng cho ấm.
Trong lòng tuy vui háo hức nhưng Nhung vẫn lo sợ: sáng hôm ấy là sáng đầu tiên nàng đi cân gạo, bắt đầu một công việc chưa làm bao giờ. Nhà túng quá rồi nếu không cân được nhiều gạo giao cho người ta, không kiếm được đủ lời để chi tiêu thì đành bó tay không biết xoay sở ra sao. Bích, chồng nàng đã gần hai năm nay đi kiếm việc nhưng làm ở đâu cũng chỉ được ít lâu lại bị người ta thải ra. Có lần Bích ra đi biệt tích sáu tháng liền; Nhung tưởng chồng mình bỏ đi hẳn. Vì cớ gì? Nàng cũng không hiểu, chỉ biết ngấm ngầm buồn khóc, nhất là những buổi tối lúc đi nằm. Thấy cái gối không của ngươi chồng yêu đặt cạnh, nàng ôm lấy gối áp vào má và hít ngửi cái mùi tóc quen thuộc. Tuy nàng cố ý không giặt áo gối để giữ lấy hơi hướng của Bích nhưng lâu dần mùi tóc của chồng nàng cũng phai lạt chỉ còn lại mùi tóc của chính nàng. Thế rồi một hôm Bích lại trở về, chiếc áo độc nhất nàng mới sắm đã thấy sờn ở hai vai, khuỷu tay. Từ đấy thỉnh thoảng có nhiều người về thăm Bích; những người nàng không hề thấy mặt một lần nào nhưng gặp Bích đã thân với Bích, như những người bạn lâu năm. Họ thì thầm bàn tán với Bích có khi cả đêm không ngủ. Tuy những người bạn đó tính xuềnh xoàng và tỏ ý chỉ thích ăn cơm với rau dưa nhưng bổn phận làm vợ vẫn buộc nàng cố sao cho mâm cơm trông tươm tất. Mỗi lần một người bạn đi, Bích chỉ thở dài trông theo. Lâu dần Nhung đoán hiểu tính cách của các bạn qua lại và biết chồng mình trước kia lên Yên Thế đi gặp Đề Thám. Bích rất hiền lành không hề gắt với nàng bao giờ; đối với người ở khi có lỗi chàng cũng chỉ dùng lời nói dịu dàng dạy có khi không nói gì cả.
Sau cuộc đi Yên Thế dò đường đất, Nhung biết là Bích có điều gì không vừa ý, nên từ dạo ấy không đi đâu nữa mà cũng không nghĩ cả đến việc đi tìm chỗ làm. Hôm nào vay đâu được ít tiền, Nhung lại mua rượu, sắm thức nhắm ngon rồi hai vợ chồng cùng uống rượu với nhau. Rượu ngà ngà say, Bích ngâm thơ cho vợ nghe; giọng ngâm của Bích nổi tiếng là hay từ lâu trong chốn bạn bè của chàng cũng như của Nhung.
Cách đây ba ngày, bà chủ hiệu Vĩnh Phát đã bỏ vốn để Nhung đi cân gạo lại cho nàng mượn cân, Nhung đã thuê được căn lều cân gạo tuy cách nhà gần cây số nhưng ở vào một địa thế rất thuận tiện.
Nhung rửa mặt xong vào nhà mở tráp đếm lại tiền, xếp đặt cho có thứ tư để khi trả tiền các người hàng xáo được mau chóng và không lầm lẫn. Nàng lấy khăn trùm đầu, tay cắp tráp tiền, tiến về phía Bích nằm, đặt lên trán Bích một cái hôn rất nhẹ cho chồng khỏi thức giấc rồi gọi người nhà dậy.
- À, thưa mợ, hôm nay mợ đi cân gạo. Nhưng còn sớm quá.
Nhung đáp:
- Càng đi sớm càng đón được nhiều hàng xáo. Chị ở nhà khi cậu và các em bé dậy phải chạy đi mua xôi ở nhà bà hai Dậu. Muối mè hôm qua chị làm khéo đấy. Nhớ lấy cậu xơi.
Trời lạnh nên Nhung phải đi thật mau cho ấm người. Ra tới dãy phố cân gạo, Nhung thấy bà phán Trình, bà trợ Thân đã ra nhưng đương sửa soạn chưa bắt đầu cân. Bỗng Nhung chớp mắt nhìn một cách ngạc nhiên vui sướng; ở trước cửa nhà bác Tẹo mà nàng đã thuê để đặt cân và đổ gạo, hàng xáo ngồi đợi đông lắm. Bà đồ Minh kế cạnh tuy chưa ra nhưng chung quanh cân bà ta không có một người nào thế mà cửa hàng cân gạo của bà đồ Minh xưa nay vẫn có tiếng là đông khách nhất. Chính lúc thuê nhà bác Tẹo, Nhung vẫn lo ngại về điều ấy và bà đồ Minh cân gạo đã lâu năm, quen thuộc nhiều, tính nết lại rất khéo léo mềm mỏng.
Nhung cúi đầu lễ phép chào bà trợ Thân và bà phán Trình.
- Con gái nuôi của tôi đấy; mợ ấy thực đảm đang. Chồng bị thất nghiệp...
Những tiếng sau cùng của bà trợ Thân, Nhung không nghe thấy vì tiếng những người bán hàng xáo nhao nhao nổi lên một loạt:
- Mợ để cháu mở hàng cho mợ.
- Mợ để tôi.
Bác Nhiêu Đạt cầm lấy cánh tay Nhung nói :
- Cháu đợi mợ mãi.
Bác Đạt đã tới thật sớm; bác mưu mô với Tráng, người Nhung thuê để phụ giúp việc, nên đã đặt hai bị gạo của bác lên trên mặt cân và bác đứng chống tay vào đòn gánh, canh không cho ai nhấc xuống. Bác vốn quen biết Nhung từ lúc Nhung chưa lấy chồng, nên nghe tin nàng cân gạo, bác vui mừng lắm và nhất quyết mở hàng cho Nhung.
Thấy mọi người có cảm tình với mình, Nhung vừa sung sướng vừa hồi hộp. Nàng hơi ngượng ngập rút trong túi ra một cuốn sổ tay và bút chì vì nàng không quen dùng bàn tính. Đưa mắt nhìn mọi người bao vây quanh mình, Nhung mỉm cười.
- Đông quá mà ai cũng muốn mở hàng, tôi biết làm thế nào?
Nhung ngồi xuống ghế, cái tráp đặt trên hai đùi dùng làm bàn viết.
- Nào, ai mở hàng cho tôi bây giờ?
Những tiếng “cháu”, “tôi” nổi lên chung quanh nàng, bác Đạt khó chịu vì không thấy Nhung nhìn mình. Nhưng bác không đời nào chịu để ai bỏ gạo của bác xuống cho người khác mở hàng. Nhung đã biết là bác Đạt có gạo để trên cân; vốn biết bác từ lâu và vẫn mến bác vì tính thẳng thắn - tuy hơi bướng - nên nàng cũng muốn bác mở hàng mình và cho đó là sự may mắn. Giá bác còn đứng ở xa, Nhung cũng gọi đến, nhưng muốn được lòng cả mọi người, nàng vẫn không nhìn bác Đạt đưa mắt và mỉm cười với tất cả mọi người.
- Ai thì tôi cũng muốn để mở hàng nhưng không biết chọn ai, vậy người nào đến trước nhất thì mở hàng cho tôi.
Bác Đạt cũng đưa mắt nhìn tất cả mọi người, nhưng lườm họ và tỏ cái đắc thẳng của mình, Nhung giơ tay xê dịch quả cân: tuy chưa quen nhìn gạo mà biết được đúng số cân nhưng nàng cũng đoán hai bị gạo của bác Đạt độ bốn mươi cân. Nàng xê quâ cân đến nấc năm mươi vẫn thấy cán cân bong lên; nàng vừa xê quả cân vừa lẩm bẩm:
- Bác Đạt còn khỏe nhỉ gánh nổi hơn năm mươi cân tây gạo.
Nhung xê quả cân đến nấc năm mươi lăm vẫn thấy cán cân bổng.
- Lạ nhỉ hay là cân hỏng?
Nàng ngửng lêu nhìn bác Đạt, bác Đạt nói:
- Thế nào ấy chứ chỗ gạo của cháu chỉ độ bốn mươi cân thôi.
Bỗng Nhung bật lên cười :
- Trời đất ơi! Thảo nào gần sáu mươi cân. Tôi có mua đòn gánh và cả người bác đâu.
Lúc đó bác Đạt mới chợt thấy mình đương đứng tựa cả người vào cái đòn gánh mà đầu đòn gánh lại chống lên mặt cân.
- Ồ, thế mà cháu không biết.
Mọi người đều nhao nhao lên, cười nói một lúc. Có tiếng người bảo bác Đạt xấu tính, nhân lúc mợ Bích mới đi cân lần đầu chưa thạo nên nghĩ mưu đánh lừa. Bác Đạt giơ đòn gánh lên, đưa mắt tìm xem người nào nói thế; nếu biết chắc là ai thì bác sẽ đập một cái mạnh vào đầu cho bõ tức, nhưng không chắc hẳn là ai nên bác đành hạ đòn gánh xuống. Nhung bật cười :
- Bác định sinh sự đánh nhau ngay trong lúc tỏi khai cân?
- Nhưng mà cháu tức lộn ruột. Nó lại dám bảo là cháu đánh lừa mợ. Thế còn trời đất nào nữa không? Thế mợ, mợ có bảo là cháu định đánh lừa mợ không?
- Thì chính bác đã nói với tôi là của bác chỉ độ bốn mươi cân thôi.
- Đấy nhé, có mợ làm chứng nhé... Cha đời vạn mớ đứa nào vu oan cho bà, nó chết hết đời cha đời ông nhà nó, cả họ xa họ gần nhà nó, chết băm chết bầm, chết đâm chết chém, chết...
Không đánh được, bác chửi vì bác nghĩ chửi thì chắc chắn lọt vào tai người nói. Nhung lại can :
- Không đánh nhau bác lại xoay ra chửi nhau thì cũng thế. Thôi, ba mươi bảy cân vào đổ gạo đi.
Hết việc bác Đạt, lại đến hai người khác cãi nhau: tuy là một người đàn ông và một người đàn bà nhưng cả hai đều khỏe ngang nhau và cùng đặt được thúng gạo và cân đều nhau, nên không ai chịu nhường ai, miệng thì nói còn tay thì ấn thúng gạo, cứ giằng co như thế một lúc lâu. Nhung mỉm cười vì thấy họ tranh nhau để được cân sớm một tí mà lại thành chạm gấp mấy không tranh nhau. Nhưng Nhung cũng không khỏi cắn chặt hàm răng, cứng cả gân người như lấy sức hộ người đàn bà khi thấy người đàn bà đã đẩy được thúng gạo của người đàn ông ra gần khỏi mặt cân. Nàng cũng muốn cho người đàn bà thắng và thấy vui thích khi người đàn bà đẩy được thúng gạo của người đàn ông xuống đất và phủi tay, sửa lại khăn, mỉm cười với nàng. Cân xong, Nhung lại thấy một người đàn bà khác đặt được thúng gạo của mình lên cân trước người đàn ông. Người đàn ông có vẻ tức lắm, nhắc thúng gạo của mình đặt trên thúng gạo người kia lấy cớ là đã lỡ lượt trước thì lượt này phải được cân. Lý người đàn bà cũng cứng: ai đặt được gạo lên cân là được cân trước. Rồi hai người cãi nhau một hồi, không ai chịu ai. Sau mọi người chung quanh đều nói người đàn ông trái. Nhung cân xong cho người đàn bà, lại đợi xem lần này người đàn ông có cho được gạo mình lên cân không hay lại bị người khác tranh mất.
Bây giờ Nhung mới biết là họ cần tranh nhau: giá nàng có gạo đem cân nàng cũng phải tranh, không phải vì sớm được một lúc nhưng bị như người đàn ông kia thì tức chết.
Thế là Nhung bận rối rít; xê quả cân, tính giá tiền, bốc gạo xem, đếm tiền trả họ và bận nhất là hồi hộp xem họ tranh nhau, xem họ cãi nhau đến vui. Được cái hôm nay giá gạo số chẵn nên nàng làm tính nhân rất nhanh, không sợ lầm. Bà đồ Minh lúc đó cũng bê tráp tiền ra cân; thấy cửa hàng Nhung đông khách và cân mình vắng không một ai, bà rẽ đến chỗ Nhung cất tiếng to và nói vui vẻ :
- Mợ Bích ơi, mợ tranh hết cả khách hàng của tôi rồi.
Nhung ngẩng lên nhìn bà đồ Minh; thấy mặt bà ta có vẻ vui một cách thực tình nàng cũng vui vẻ cười lại với bà ta; hôm nay nàng thấy ai cũng tử tế với mình.
- Bà cứ nói thế. Hôm nay khai cân ai cũng đến mở hàng cho tôi.
Nhung khó chịu là vì cửa hàng bà đồ Minh vắng khách nên bà nói chuyện luôn mồm. Nhung đã bận tíu tít lại phải chú ý lắng tai nghe rõ bà nói khôi hài về chuyện gì, nàng cũng phải cố gẳng cười gượng gạo. Chốc chốc nàng lại phải chen vào những tiếng nói hưởng ứng bà Minh mà không công phạt :
- Thế à bà?
- Thế cơ à?
- À ra thế.
- À thế đấy.
Đến chín giờ sáng thì người đến đổ gạo đã vãn. Nhung lúc đó mới thấy mỏi nhừ cả vai và cánh tay phải. Hai đùi nàng gần như bị tê liệt, nàng đứng lên vươn vai, thấy hơi chóng mặt nặng đầu và cho là vì tại xem họ tranh nhau, cãi nhau nhiều quá. Nàng định ngày mai cũng phải bắt chước các bà kia, nghĩa là cứ thấy gạo ở trên cân thì cân, đừng để ý đến mọi người. Họ muốn cãi nhau, đánh nhau, đâm chém nhau để được gạo lên cân là việc của họ. Nàng mệt một phần vì hồi hộp xem họ tranh nhau và cứ lấy gân, cứng người như là chính nàng phải tranh với họ.
Quay nhìn vào trong nhà, nàng thấy hai đống gạo trắng và đỏ đã lên đến nửa cột nhà và chân hai đống gạo đã gần chạm vào nhau. Mai có lẽ phải vây vót. Mệt nhưng Nhung cũng phải vào trong nhà, giữ miệng bao để Tráng đổ gạo. Nàng thấy Tráng chăm làm, săn sóc công việc từng ly từng tí và lúc nào cũng vui tươi, làm vừa lòng cả mọi người. Tráng nói với Nhung giọng vui vẻ :
- Chưa nhà nào một hôm mà cân được nhiều thế này, mợ ạ!
Nhung nói :
- Càng cân nhiều càng mệt vào thân, này anh Tráng giữ miệng bao; tôi mỏi tay lắm rồi.
Suốt mấy giờ đồng hồ giơ tay cân nay lại giơ tay giữ bao, làm những công việc nhẹ ấy, Nhung thấy mỏi cả hai cánh tay; nàng định tâm xúc gạo, cử động một cách khác và làm một việc nặng nhọc hơn có lẽ không mệt nữa. Thế là nàng ra xúc gạo; một lúc lâu nàng phải cởi cả áo cánh bông, và mồ hôi ra lấm tấm ở trán. Công việc ấy tuy mệt nhưng nàng thấy trong người nhẹ nhàng dễ chịu hơn và hết nặng đầu. Nàng lại ra xúc gạo không ngừng tay, làm cho Tráng cũng lấy làm lạ về sức khỏe của nàng. Bà trợ Thân và bà đồ Minh cũng chạy sang cửa hàng; Nhung làm như chưa trông thấy hai bà ấy và cứ cặm cụi xúc gạo.
Bà đồ Minh nói :
- Kìa anh Tráng, sao anh không xúc gạo lại để mợ ấy xúc?
- Bẩm bà, mợ con đòi xúc, nói cầm miệng bao mỏi tay.
Nhung rướn thẳng người lên, lấy tay gạt mồ hôi trán. Bà trợ Thân nói:
- Hôm nay mợ cân dễ đến gần trăm bạc.
- Vâng, thưa bà cháu chưa tính nhưng cũng đến gần chín mươi đồng rồi.
Bà trợ và bà đồ đi khỏi, Nhung mỉm cười sung sướng. Lúc đó nàng mới thấy đói vì từ sáng chưa ăn gì; vả lại nàng cũng mê mải với gạo quên không nghĩ đến ăn. Nàng định bụng cố nhịn đói, lát nữa giao gạo xong nàng sẽ rẽ qua chợ mua sứa vì nàng rất thích ăn sứa và Bích lại còn thích hơn nàng. Nhung vội vàng cúi xuống nhặt cái thau xúc gạo vì nàng thấy Tráng đứng mở miệng bao chờ đợi. Xúc được mấy thau, Nhung bỗng ngừng lại và mỉm cười nhìn Tráng. Tráng không hiểu tại sao Nhung lại mỉm cười với mình, chàng mở miệng bao cho thật rộng, ung dung đứng đợi, làm như Nhung thuê mình chỉ cốt để giữ miệng bao, còn việc xúc gạo nặng nhọc thì là việc Nhung phải làm. Nhung đưa cái thau cho Tráng, đứng thẳng người, vươn vai cho rãn xương cổt.
Sau một giờ làm việc cũng chỉ mới đổ hết đống gạo trắng, đống gạo đỏ vẫn nguyên. Vừa lúc đó người thư ký của bà chủ hiệu Vĩnh Phát đem năm người phu đến để khiêng gạo ra cho kịp lên toa. Nhung nói :
- May quá, tôi không ngờ cân được nhiều thế này. Ông bảo giùm phu đổ hộ chứ hai thầy trò tôi không sao đóng bao kịp. Tôi mệt quá rồi.
Giao gạo xong, Nhung thở nhẹ một cái. Nàng bảo Tráng :
- Anh cầm cái liễn đi với tôi ra chợ để tôi mua sứa và mua ít kẹo hoa cỏ 1. ở hàng chị Nguyệt cho mấy đứa bé.
Nghĩ đến Nguyệt, Tráng mỉm cười nói :
- À hàng chị Nguyệt. Mợ không cần đưa tiền, chị ta không bao giờ lấy tiền của cháu. Để cháu biếu các cậu mừng hôm nay mở hàng phát tài.
Nhung thấy Tráng không đợi nàng đưa tiền, chạy thẳng ra gốc cây đa chỗ Nguyệt ngồi bán kẹo. Nguyệt thấy Tráng chạy lại vội gắt :
- Này, lại sắp ra quấy rầy người ta có phải không?
Tráng nhận rõ là Nguyệt tuy cau nét mặt lại nhưng vẫn không giấu được nỗi vui gặp mặt chàng.
- Người ta đến người ta ăn kẹo hộ, thích chết người lại còn vờ vĩnh.
Tráng ngồi xuống mở cái quả định cho tay vào lấy một chiếc bỏng ngô thì đã bi Nguyệt đập mạnh một cái vào tay và hất ra. Tráng kêu đau và cười:
- Sao hôm nay đằng ấy ác thế?
- Đằng ấy đằng này gì? Có đi ngay cho người ta bán hàng không? Đã ế hàng lại còn đến ám. Có muốn một cái đòn gánh vào lưng thì bảo.
Tráng chợt nghĩ Nguyệt chưa biết mình có công việc mới:
- À này chị Nguyệt ạ, bây giờ tôi không đi đóng cối nữa. Mợ Bích thuê tôi trông nom cân gạo, nhàn lắm và lại có nhiều tiền, chị tha hồ bán kẹo.
- Nhàn, thảo nào mà ra đây ngồi tán hão, có cút ngay đi không.
Tráng nghiêng đầu chống cằm trong lòng bàn tay, rồi ngồi yên nhìn Nguyệt ngắm nghía từ cái lông mi, lông mày rồi lẩm bẩm đếm xem có bao nhiêu nốt tàn nhang trên hai gò má: một hai, ba... Nguyệt thấy Tráng ngắm nét mặt mình lại càng cau nét mặt lại. Ngẫm nghĩ một hồi lâu, rồi Tráng nói :
- Hừ người thế mà cũng có duyên.
Nguyệt giơ đòn gánh đập vào lưng Tráng một cái:
- Này, có đi không? Người thế là người thế nào?
Tráng vội né người ra một bên cho đòn nhẹ hơn.
- Thôi, không đùa nữa, kẹo hoa cỏ chị bán một xu mấy chiếc?
Nguyệt đặt đòn gánh xuống, hơi ngạc nhiên thấy Tráng hỏi giá như có ý mua thật.
- Một xu năm. Hôm nay kẹo ngon lắm.
- Cho tôi mua hai xu. Hai xu thì bao nhiêu nhỉ?
- Hai xu thì mười chiếc. Có thế mà cũng không tính ra.
Tráng lẩm bẩm:
- Hai xu mười chiếc. Nhưng chỗ tôi với chị, chị cho thêm hai chiếc là mười hai chiếc tất cả. Có được không?
- Ừ cho nhà anh thêm hai chiếc.
- Thế à, chị. Chị cho tôi hai chiếc à?
Tráng vừa nói vừa giơ tay bốc hai chiếc kẹo, bỏ lọt vào mồm rồi đứng ngay lên chạy đi. Nguyệt giơ đòn gánh đập nhưng không kịp, nàng vội quăng đòn gánh theo Tráng:
- Cái nhà anh phải gió.
- Thì chính chị bảo chị cho tôi hai chiếc mà.
Hai người cùng bật cười.
Thấy Tráng, Nhung hỏi:
- Kẹo đâu.
- Thưa mợ, cháu ăn hết rồi.
- Anh mua mấy xu mà ăn chóng hết thế.
- Thưa mợ không phải mua. Cháu cướp giật được có hai cái.
- Thế mà anh nói khoe mẽ kẹo không mất tiền. Thôi tiền đây anh lại mua cho chị ấy ba xu. Tôi cần phải về không trẻ nó đợi.
- Thưa mợ không cần tiền. Để cháu đến lần nữa; lần này cháu chịu đòn đau một ít, các cậu tha hồ ăn kẹo.
Thế rồi Tráng lại chạy vụt đi. Chàng rút sẵn ra ba xu khi đến gần chỗ Nguyệt ngồi, chàng xòe bàn tay cho Nguyệt thấy rõ là có tiền để phòng xa tránh một cái đòn gánh báo thù về hai chiếc kẹo lúc nãy.
- Chị bán cho tôi ba xu.
Vừa nói, Tráng vừa bỏ ba đồng xu rơi xuống mẹt. Nguyệt ngạc nhiên hết sức vì lần đầu tiên Tráng bỏ tiền ra mua kẹo; sợ Tráng mới nghĩ được mưu mẹo gì để đánh lừa nên Nguyệt vội bỏ ngay tiền vào túi áo. Nàng đếm kẹo, gói lại đưa cho Tráng và khi Tráng đi xa rồi, Nguyệt mới dám chắc là sáng nay đã thật bán được kẹo. Nguyệt nhìn theo Tráng, mỉm cười. Lúc nãy đáng lẽ gói mười tám chiếc nàng bớt đi hai chiếc Tráng ăn lừa nàng và lấy làm lạ rằng Tráng không nghĩ đến đếm lại kẹo. Nguyệt chắc lát nữa Tráng tất phải quay lại và nàng ngồi hồi hộp đợi. Tuy là tốn kẹo nhưng Nguyệt vẫn mong Tráng đến trêu đùa mình; nàng thích nhất là những lúc đánh được Tráng một hai cái đòn gánh. Nàng thấy càng đánh mạnh càng thích tay nhưng nàng vẫn giữ đà không đám đánh mạnh quá sợ Tráng thấy đau đến khó chịu tất sẽ không dám trêu nàng nữa. Nhưng lần này Nguyệt lại ngạc nhiên hơn nữa vì đợi mãi không thấy Tráng trở lại hàng mình.
Tráng giơ tay đưa Nhưng gói kẹo. Nhung hỏi:
- Chỗ này bao nhiêu?
Tráng vội vàng đáp:
- Thưa mợ cháu không biết.
- Lại cướp giật kẹo có phải không. Nhiều thế này người ta lại không đánh cho vỡ đầu ra à?
Tráng cười :
- Thưa mợ, họ chỉ đánh gẫy lưng thôi.
Nhung đếm kẹo rồi nói:
- Chỗ này dễ đến ba xu, có mười sáu chiếc tất cả.
Tráng nói :
- Mười tám chiếc chứ mợ.
- Không chỉ có mười sáu chiếc.
Tráng buột miệng kêu:
- Thôi, chết tôi rồi! Con ranh nó trừ đi hai chiếc ăn cướp lúc nãy.
Nhung bật lên cưìri:
- Anh Tráng nói dối nhớ. Anh đã mua ba xu mười tám chiếc. Thôi tôi trả anh ba xu. Thế là đáng lẽ anh biếu các em kẹo lại thành ra anh ăn chặn của các em hai chiếc đấy nhé.
Nàng cho gói kẹo vào tráp, bảo Tráng bưng hộ liễn sứa. Khi đi ngang qua cửa hàng kẹo. Nhung thấy Nguyệt mỉm cười, mắt có vẻ tinh nghịch rồi cúi xuống, mặt áp vào đầu gối. Nhung bảo Tráng:
- Chị Nguyệt xinh đấy chứ. Anh có bằng lòng thì để tôi đứng lên làm mai cho; tha hồ ăn kẹo, mà các em ở nhà cũng vô số kẹo ăn không còn lo bị thiệt hai chiếc như hôm nay.
Về gần tới nhà. Nhung thấy hai đứa con lớn của mình mỗi đứa cầm một que tre đương đấu kiếm với nhau; thằng bé nhất đứng ngoài, tay cũng cầrn một cái que giữ miếng và rình. Thỉnh thoảng, nó lại xốc quần cho khỏi tụt rồi nhảy vào đâm trộm hai anh nó. Đâm trúng nó thích trí cười to, giơ cánh tay quẹt ngang mũi thò lò một cái rồi lại lùi ra xa giữ miếng. Lần sau cùng nó vội quá không kịp xốc quần, thành thử vừa nhảy vào nó bị vướng và ngã sóng soài ra giữa trận. Thấy vậy, hai anh quẳng cả kiếm nhảy ùa vào đè lên em, miệng kêu:
- Bắt được giặc rồi, Bệ hạ ôi!
Rồi chúng nó vật lộn nhau, lăn lộn trên đường khiến bụi bay lên mù mịt. Nhung mỉm cười cất tiếng nói to:
- Kẹo hoa cỏ!
Mấy tiếng hô ấy như có phép tiên làm ba ông tướng buông ngay nhau ra, cùng đứng thẳng dậy và cùng chạy thật mau về phía mẹ. Thằng bé nhất lần này không quên vén ống quần tận bẹn, chạy thục thân nhưng cũng không sao đuổi kịp hai anh; nó đứng lại và cất tiếng khóc thật to. Thế là Nhung phải chạy lại, đặt tráp xuống đất và kéo bé lại gần, lấy tay phủi bụi trắng bám đầy áo, đầy tóc, trông y như phấn bột người ta rắc lên kẹo cho khỏi dính. Nàng đưa cho nó hai chiếc kẹo; nó cho cả hai chiếc vào miệng mỗi chiếc ngậm phồng một bên má rồi đưa mấy ngón tay dính mè mút đi mút lại kỳ cho sạch mè và sạch cả bụi đường.
Nhung vừa bước vào trong nhà, quay mặt nhìn ra đã thấy lũ con nhặt gươm que và bắt đầu cuộc hỗn chiến. Nàng lắc đầu, mỉm cười; đã bao lần rồi, dùng đủ mọi phương pháp mà không sao cấm được lũ con đánh lộn nhau. Chồng nàng không khuyến khích nhưng cũng không nói gì cả, chỉ khi nào chúng nó lăn cả vào người chàng, chàng mới đẩy nhẹ chúng nó ra và khẽ nói:
- Sang giường bên kia mà chơi đi, để tao nghĩ.
Sự thực thì chàng không nghĩ gì cả; sau khi đã lên gặp Đề Thám và biết rõ ràng, chàng chán nản hết cả mọi sự. Gặp anh em đến nhà, chàng cùng anh em chỉ nói những chuyện vẩn vơ hoặc làm thơ làm phú than thân trách phận sinh không gặp thời; vì họ nói chuyện với nhau bao giờ cũng nói thì thầm nên Nhung tưởng chồng vẫn hằng lo những việc “đại sự”, mình là đàn bà không được dự bàn vào. Tình thế ấy khiến người vợ kính phục chồng và giúp người chồng có thể điềm nhiên ngồi nhàn nhã ở nhà mà không sợ ngượng với vợ cùng họ hàng nhà vợ.
Thấy chồng ngồi sưởi bên cạnh hỏa lò, Nhung vén áo ngồi xuống bên bảo chồng :
- Hôm nay cân được nhiều gạo quá. Chắc phát tài to.
Mâm cơm đã dọn lên. Nhung mời chồng ăn vã sứa trước, rồi bảo người nhà chạy sang bên bác cả Lạc mua một cặp chả nướng và hai cút rượu con hươu:
- Hôm nay phải uống rượu ăn mừng chứ?
Nhung uống một chén lớn. Nàng say loạng choạng và mặt đỏ hồng. Cất tiếng gọi mấy đứa con, nàng mới biết lưỡi mình đã líu lại nhưnng người nàng phiêu phiêu rất dễ chịu. Bích mỉm cười vì thấy vợ tuy say nói nhiều và nói huyên thuyên nhưng chỉ nói toàn những chuyện cân gạo. Nói chán rồi, Nhung ngồi lẩm nhẩm tính toán, có khi đưa bát lên gần miệng lại đặt xuống mâm. Đứa con lớn bảo đứa thứ hai.
- Mợ niệm Phật, mày ạ.
- Không phải mợ niệm Phật. Niệm Phật thì phải nam mô chứ.
Bích nói đùa:
- Mợ niệm Thần tài đấy, thần kẹo hoa cỏ ấy mà.
Nhung vì say nên tính nhẩm mãi không ra; đến chiều bà chủ Vĩnh Phát mới cho giá đích xác nên nàng phải dựa theo giá trung bình của ba ngày trước để tính đại khái. Mấy đứa trẻ ăn cơm xong lại đến khám túi mẹ xin thêm kẹo. Nhung gạt chúng nó ra :
- Yên để tao tính.
Rồi đuổi chúng nó xuống nhà dưới.
Tuy tính không ra nhưng nàng cũng quay lại phía chồng mỉm cười nói:
- Lãi được một đồng bảy hào rưỡi, cậu ạ. Một tháng được gần sáu chục bạc, bằng ba số tiền lương của cậu đấy.
Nhung ngừng lại nói chữa:
- À nhưng cân gạo chỉ có mùa, bằng thế nào cậu đi làm lãnh lương đều quanh năm.
Nói xong, Nhung lại thấy câu nói chữa phạm tới chồng hơn là câu nói trước vì chồng nàng làm ở sở nào lâu lắm chỉ ba bốn tháng là bị ngươi ta mời ra vì bất lực.
Nàng lấy keo hoa cỏ đưa Bích ăn tráng miệng, rồi dịu giọng nói:
- Nếu sau này cứ được mãi như hôm nay thì cậu chẳng cần đi Hòn Gay tìm việc ngoài mỏ than nữa. Vừa vất vả vừa nước độc.
Việc đi Hòn Gay, Bích chỉ nói sơ qua với vợ để vợ yên tâm, chứ thực ra không bao giờ chàng tính đến việc ra làm ngoài mỏ cả; Nhung cũng đoán vậy nên mới nói thế để chồng tưởng nàng vẫn yên trí là lúc nào chàng cũng hằng bận tâm lo việc nhà cửa, vợ con. Nhà càng lâm vào cảnh túng thiếu, Nhung càng phải giữ gìn lời nói, vì nàng biết chồng hay tủi thân, lỡ sơ ý phạm vào lòng tự ái của chồng thì chồng sẽ bỏ đi, cho dẫu biết là ra đi phải chết đói chăng nữa. Đã có một lần, độ ấy nàng mới ốm khỏi nên thành ra bẳn tính, nàng đã nói chồng hơi quá lời. Bích không cãi lại, luôn mấy ngày hôm sau chàng ngồi đăm đăm không nói qua với ai một lời nào. Khi lũ trẻ đến đùa nghịch đánh nhau trước mặt, chàng chỉ thở dài rồi lặng lẽ đội khăn bỏ ra đi, đến nửa đêm mới về nhà. Chiều hôm sau Nhung đi chơi về thấy Bích đương ngồi viết ở bàn, bỗng nàng thấy Bích có vẻ luống cuống, đương giấu vội tờ giấy viết dở dưới một chồng sách; Nhung đã nhìn thấy cử chỉ khả nghi ấy. Nàng đem thúng quần áo ra ngồi khâu ở trong buồng, nhất định không rời chồng nửa bước, đợi cho đến khi đi nằm. Nàng trằn trọc không ngủ; đến nửa đêm nàng ra nhấc chồng sách, rút tờ giấy đem xuống dưới bếp thắp đèn nhằm đọc. Đó là bức thư chồng nàng gửi cho một ngươi bạn ở Hà Nội nhờ tìm xem có sở cao su nào ở trong Nam cần một người thư ký, lương tháng bao nhiêu cũng được và dầu cho nước độc cũng cứ nhận và báo tin cho chàng biết ngay. Đọc xong Nhung cúi đầu, tay ôm mặt khóc nghẹn ngào. Nàng biết là nếu chồng đi mà nhất là đi vào Nam làm sở cao su nước độc thì nàng không còn đủ can đảm mà sống nữa. Nàng lặng lẽ trở vào để bức thư xuống dưới chồng sách như cũ, rồi ôm lấy Bích, đánh thức chàng dậy, vừa nức nở khóc vừa xin lỗi chồng vì những lời gay gắt mấy hôm trước. Bích cũng khóc theo, hai người áp má vào nhau cùng hòa nước mắt, rồi nhìn nhau mỉm cười làm lành. Sau việc xảy ra ấy, hai vợ chồng lại càng yêu nhau đằm thắm hơn trước.
Hôm nay trong lúc say phiêu phiêu, câu nói chữa lỡ lời lại nhắc Nhung nghĩ đến cái đêm hai vợ chồng ôm nhau cùng khóc ấy. Nhung chớp chớp thật mau nhưng không ngăn được hai giọt lệ ứa ra và ngưng lại long lanh ở khóe mắt. Nàng ngáp một cái dài làm như chảy nước mắt vì ngáp buồn ngủ rồi đưa mắt nhìn chồng và cúi mặt để giấu một nụ cười sung sướng.
- Mới đi cân chưa quen mỏi nhừ cả tay cả lưng. Sáng nay dậy sớm thành buồn ngủ quá.
Nàng vươn vai, đặt mình nằm xuống giường, áp mà trên đùi Bích và cựa quậy mấy cái như đứa trẻ thơ rúc vào lòng mẹ. Bích lùa bàn tay vào trong tóc Nhung xoa xoa, thật nhẹ. Nhung thấy có một thứ gì rộng rãi và êm êm từ trên cao tỏa xuống bao phủ lấy thân thể và cả tâm hồn nàng nữa; nàng nhắm mắt nằm yên thiu thỉu đợi giấc ngủ đến.
Bích vẫn để tay yên lặng trong tóc vợ. Đùi chàng mỗi lúc một tê dại nhưng chàng không dám động người, sợ vợ mất giấc ngủ; chàng nhìn thẳng, đầu óc chàng lúc đó không để ý đến chuyện gì cả nhưng hai con mắt chàng, có lẽ vì thói quen từ lâu, nên có vẻ như đương trầm ngâm suy tính những việc “đại sự” không bao giờ đến trong đời chàng.
Ghi chú:
1.
Kẹo hoa cỏ: một thứ kẹo mè đặc biệt chỉ riêng một vài nơi có bán.
HỜN DỖI
Mấy hôm sau, nước bỗng dưng lại bắt đầu lên, lên nhanh lắm, nước đã vào ngập cả vườn khiến Minh đâm lo. Nước lại hình như còn muốn lên cao nữa. Chàng phiền nhất là Hà, người yêu của chàng không sang đưọc căn nhà ngang, nơi chàng ở. Hai bữa cơm chàng có thể gặp mặt Hà nhưng đã từ lâu cái việc gặp mặt nhau ở chỗ đông đủ mọi người đối với chàng không có nghĩa lý gì, chỉ ở bên nhà ngang hai người mới thấy thật là gặp nhau. Cái cảnh nhà trên bây giờ cũng không như lúc thường vì nền nhà đã ngập nước và bếp đã dọn lên. Mấy bó củi lại ướt nên mỗi lần thổi cơm cả nhà như có mây tỏa. Minh buồn rầu nghĩ:
- Y như cảnh thần tiên trên núi.
Trời nóng, căn nhà lại càng nóng thêm, chàng lại không chịu được mùi khói, có lắm lúc chàng vừa ăn vừa khóc. Vì thế ăn xong là chàng đi ngay về nhà ngang. Không những chỉ có khói: ngay gần chỗ ăn cơm là cái phản chung quanh chăng dây để bốn con lợn nằm. Lại còn cái bu gà. Tuy Hà luôn tay rội nước cho phân lợn, phân gà trôi đi, nhưng vẫn không hết được mùi chuồng lợn và mùi hôi của gà. Ông Cửu buổi sáng uống nước chè cũng thấy mất cả hương vị. Cả nhà chỉ có Hoài là thích vì được chơi với lợn. Hoài đặt cho mỗi con một tên riêng và cầm cái que ngồi ở giường bên, cả ngày tìm cách dạy chúng nó. Hà nói:
- Trông mấy con gà, con lợn này, yên tâm tệ. Nước có lụt hàng tháng cũng khỏi lo thiếu cái ăn.
Nhưng câu đó cũng không an ủi được ai. Đã ba bốn hôm ăn toàn cá; không có cách gì ra chợ và chắc cũng không có chợ nữa, nên ai cũng ngán nhưng vì Hà lo xa nên mấy lần Hoài nói đến việc ăn thịt gà nàng đều gạt đi:
- Mới có một tí thế mà chú đã không chịu được à?
Câu nói ấy khiến ông Cửu tuy cũng muốn ăn thịt gà lắm nhưng không dám bảo con gái mổ gà. Minh biết là nếu chàng bảo thì tất Hà thuận ngay nhưng chàng không nói ra vì chàng hơi tức Hà không tự ý nghĩ đến việc mổ gà để làm vui lòng chàng. Thành thử có gà mà cứ phải ăn cá; ăn đủ các thứ cá mà vì hết dầu mỡ, nước mắm nên chỉ toàn luộc với muối, ăn càng ngày càng tanh hơn. Mấy hôm đầu cá nhà ai cũng ngồi câu và thích câu lắm. Minh lại may còn có đủ lưỡi câu để cung cấp cho mọi người; ông Cửu câu được con cá nào to cũng cười đùa rối rít làm cả nhà cũng vui lây. Cái cảnh mỗi người ngồi một só nhà, yên lặng rình, trông thật vui mắt. Nhưng rồi người ngồi câu cứ ít dần đi; có khi ngồi câu mà cũng không nghĩ đến rựt cá nữa. Minh thấy cả nhà không ai bảo ai mà như đương thực hành một cuộc bãi công ngầm đối với Hà. Cả chàng nữa, cũng có khi chàng thấy phao nhấp nháy mà không buồn rựt. Thành thử sau cùng chỉ còn một mình Hà là ngồi câu cá "thực" nhưng nàng không thạo cách câu nên hôm đó chỉ câu đưọc có hai con cá bương con, Hà đứng lên:
- Hôm nay phải ăn thịt gà vậy.
Nàng mở bu gà kéo ra một con gà mái. Nghe tiếng gà kêu éc. Ông Cửu ngửng nhìn rồi lại cúi ngay xuống, mỉm cười, u già đứng dậy đón lấy con gà để đem mổ. Mọi người không tự thú nhưng đều thấy là cuộc bãi công ngầm đã thành công to.
Bữa cơm hôm ấy cả nhà ăn ngon lành ít khi có. Con gà thịt lại rất mềm, chấm muối với lá chanh ăn vừa mát, vừa đậm khác hẳn thịt cá tanh và nhão nát. Minh ăn thịt gà cũng thấy ngon và ăn tăng thêm một bát cơm nhưng chàng vẫn không vui lòng và vẫn tức ngầm Hà. Mấy hôm nay chàng thấy Hà làm sao ấy; nàng không buồn để ỷ đến việc nhìn chàng và hình như nàng cũng không nghĩ gì đến chàng nữa. Sao nàng không nhận thấy là mấy bữa nay chàng đương ăn bốn bát rút xuống có hai. Ăn cá chàng đã thấy lợm giọng và nhiều lúc chàng đã tỏ ra nét mặt. Có lẽ chàng hơi gầy đôi chút. Chàng không khổ vì phải ăn cơm không có đồ ăn ngon, chàng khổ chỉ vì thấy Hà không để ý gì đến chàng cả. Hai hôm nay cả cái tiếng thân yêu của Hà gọi chàng sang ăn cơm cũng không có nữa. Nếu không là tiếng Hoài thì là tiếng u già. Vì ở trước mặt mọi người không làm thế nào tỏ cải tức của mình ra với Hà, nên chàng chỉ còn một cách là hễ ăn xong thì đứng dậy, đi về nhà ngang.
Và phần Hà thì nàng cũng tức Minh như Minh tức nàng. Nàng không sang được bên nhà ngang nữa, nàng đã tức lắm rồi nhưng sao Minh không có vẻ tức gì cả mà cũng không biết là nàng tức. Không những thế, hễ ăn cơm xong vừa bỏ đũa là Minh lại sang bên nhà ngang ngay có khi quên cả uống nước, Hà biết là Minh sợ khỏi vì có lúc nàng thấy Minh chảy cả nước mắt và thỉnh thoảng lại ngửa mặt, há mồm thở như người sắp chết ngạt, khiến Hà mỉm cười vừa thích chỉ lại vừa tức:
- Yêu nhau thì cần gì khói.
Hà nghĩ rất có thể đợi đun xong nồi nước vối, tắt hẳn bếp đợi cho nhà quang khói rồi hãy gọi chàng sang ăn cơm, nhưng chính vì nhận ra là Minh sợ khói nên nàng cứ đợi khi nào gọi xong Minh rồi mới bắt đầu bắc nồi nước. Có một lần ăn xong cơm thấy Minh sắp đứng dậy có vẻ về hiên, Hà ra chỗ bếp; củi ở trong bếp lò đương cháy đều lửa, khói rất ít thì Hà xếp lại, cố ý cho lửa tắt và khói tỏa lên um nhà. Nàng liếc mắt nhìn, thấy một làn khỏi đặc tỏa về phía Minh làm Minh cau mày, cố ngửa đầu để tránh rồi đứng lên lội về nhà ngang, Hà cúi mặt, mỉm cười:
- Thế cho bỏ tức.
Nhưng trong thâm tâm nàng lại càng tức hơn và cau mũi nhìn theo Minh đương lội qua vườn. Cả nhà trừ nàng ra, ai cũng bảo Minh sang ở hẳn bên này nhưng Minh cử nhất định không chịu. Tuy là phải nằm chật chội, nhưng đã có cái thú được gần nhau nói truyện. Thế mà Minh lại bỏ qua.
Hà cũng để ý đến Minh ăn ít hẳn cơm đi, nét mặt hơi gầy ; nàng thương hại nhưng vì thế nên nàng cứ khăng khăng không chịu mổ gà.
Có một bữa, Hà đun nước vối trước, tắt xong bếp đợi quang khói hẳn rồi cất tiếng gọi Minh, dịu dàng:
- Anh Minh ơi, mời anh sang sơi cơm.
Nàng thấy nàng muốn làm lành với Minh.
Đương ngồi bên hiên thoảng nghe mấy tiếng thân yêu ấy, Minh mỉm cười sung sướng:
- Chắc cô ả đã nhận thấy là cô ả có lỗi.
Sang bên nhà chàng lại ngạc nhiên là không thấy có tí khói nào nữa. Nhưng ăn xong Minh lại đứng lên ngay. Chàng vừa nhận ra là nhà không có khói mà chàng cũng cứ bỏ về, việc ấy tỏ rõ hơn cho Hà biết là chàng giận nàng. Hà đưa mắt nhìn Minh nhanh một cái rồi lại nhìn ra vườn vì nàng biết là nếu nàng cất tiếng bảo Minh ở lại thì Minh tất ở lại và mọi việc đều xong xuôi cả, nhưng cái tức của nàng không cho nàng có thể làm lành hơn nữa.
Nàng đợi xem. Minh có dám đi thật không. Minh không thấy Hà mời mình ở lại; nàng có vẻ không để ý gì đến việc chàng định bỏ đi, ngồi yên lặng nhìn ra vườn vẻ mặt lạnh lùng và khô khan, trông đến ghét. Chàng búng ngón tay một cái mạnh rồi quả quyết bước ra cửa. Hà đứng thẳng dậy, nàng biết nếu nàng cất tiếng nói lúc đó thì không phải là nói mời Minh ở lại nữa mà sẽ là nói một câu giận dỗi, nói ra nàng sẽ không sao giữ được nước mắt và khóc òa lên môt cách vô lý trước mặt cả nhà. Vì vậy nàng phải mím môi cố giữ yên lặng. Bữa cơm hôm sau khói lại um lên đầy nhà. Minh nhìn Hà, Hà nhìn Minh như khiêu khích. Cả Hà và Minh đều nhận thấy là sắp có truyện phải xảy ra. Vừa thấy Minh gác đũa lên bát, Hà cũng buông đũa ngay xuống rồi
ra ngồi ở trước hỏa lò, cho thêm củi và nàng cố ý chụm những thanh còn ướt để cho khói ra nhiều hơn. Nàng ứa nước mắt nhưng không biết vì tức hay vì khói. Nàng thấy phải cần có một cuộc cãi nhau với Minh mới ra thoát được cái tình trạng nặng nề mấy hôm nay; nàng rút tất cả những thanh củi ở bếp ra rồi vung vung mấy cái cho khỏi tỏa khắp nhà. Minh đưa mắt nhìn, cau lông mày và nắm chặt hai bàn tay.
U già nói:
- Những thanh ấy ướt, cô hong cho nó khô đă mai hãy đốt. Hà quăng mạnh củi xuống nước:
- Này hong mày! Thế này là hết truyện
Nàng nghe thấy tiếng Minh nói trống không:
- Sao cứ phải đợi đến lúc ăn cơm là đun nước.
Hà quay lại:
- Anh nói cái gì?
Ông Cửu ngạc nhiên về cái giọng bất thường tự nhiên có vẻ sừng sộ của con gái mình. Minh nói thong thả; giọng nghiêm nghị nhưng rất bình tĩnh:
- Cô phải nghĩ đến người khác nữa chứ?
- Người khác cái gì?
- Cô sừng sộ với ai?
- Ai sừng sộ với anh?
Ông Cửu thở hắt ra một cái đưa mắt nhìn con gái rồi lại đưa mắt nhìn Minh, như có ý bảo hai người đừng nói nữa. Ông ngơ ngác không hiểu tại sao hai người không có chuyện gì cả mà lại nói với nhau bằng một giọng giận dữ như thế và ông thấy trước là sẽ có cuộc cãi nhau to nếu còn nói thêm - Minh cười nhạt rồi cất tiếng và lần nầy lại nói với ông:
- Bác thử nghĩ xem, ngày nào cũng ăn cơm với khói cay cả mắt, ăn mất ngon. Bác xem người nào cũng đã gầy cả đi thế kia. Nước lụt không có đồ ăn không sao nhưng việc gì cứ phải hễ ăn cơm là đem nước ra đun.
Rồi chàng đổi giọng nói với Hà:
- Cô phải có ý tứ một chút chứ, không cần đợi tôi nói ra - Cô làm như cô là chủ cái nhà này, muốn tự ý làm gì thì làm, không cần đế ý đến ai cả.
Tiếng Minh mỗi lúc một to dần.
Hà đứng lên, hai má đã đầy nước mắt:
- Anh Minh! Anh nói gì thế? Giời đất ôi, khổ tôi quá, tôi đun nước chứ có làm gì ai đâu mà anh mắng tôi như mắng đầy tớ. Anh phải biết anh không có quyền mắng tôi...
- Phải, tôi không có quyền.
Ông Cửu nói:
- Thôi!
Hà nhìn cha mếu máo:
- Anh ấy không chịu được khói sao không nói ngay ra từ hôm đầu. Lỗi tại con đâu, chẳng qua chỉ tại nước lụt. Cơm không có cái ăn, anh ấy đâm cáu rồi viện cớ nọ cớ kia mà mắng... nhỏ nhen.
Mấy tiếng sau nàng nói tự nhiên thấp giọng và như là đã lỡ nói ra. Minh đứng thẳng người lên:
- À cô dám mắng tôi thế à? Phải! Thằng này là một thằng nhỏ nhen chỉ nghĩ đến cái ăn.
Hà ngồi xuống giường cúi mặt úp xuống đầu gối, nức nở khóc. Minh cầm chén nước và tuy là chén không chàng cũng đưa lên miệng như uống. Tay chàng run lẩy bẩy:
- Tôi không có thể nào ở chung nhà với một người khinh tôi. Mai tôi sẽ đi khỏi cái nhà này... Tôi mong không bao giờ phải nhìn cái mặt cô nữa. Thế là xong!
Chàng giơ tay quẳng mạnh cái chén xuống cạnh chỗ Hà ngồi, cái chén vỡ tan từng mảnh.
- Này nhỏ nhen!
Ông Cửu giật mình một cái. Ông không nghe thấy hai tiếng "nhỏ nhen" của Hà nên không ngờ Minh lại cáu đến như thế. Hoài nhìn Minh, lo lắng vì sợ Minh bỏ đi thật ; Hoài bảo Minh:
- Thôi, anh tha lỗi cho chị ấy... chị em có định nói thế đâu.
Tiếng Hà nói trong tiếng khóc:
- Chả cần phải ai tha lỗi... Khổ thân này lắm rồi.
Nàng ngửng lên, mở to hai mắt mờ lệ rồi nhìn thẳng vào hai mắt Minh, miệng há ra và môi dưới rung rung vì nức nở:
- Anh có đi thì anh cứ đi ngay, tôi không tiếc.
Rồi nàng lại gục xuống òa khóc to hơn. Ông Cửu thấy con gái mình dám nói đuổi Minh đi, ông quát to:
- Hà câm ngay mồm. Đừng có hỗn!
Minh bước ra cửa:
- Đấy bác xem.
Rồi chàng hạ giọng tiếp thêm:
- Thế là hết.
Chàng bước xuống vườn rồi lội nhanh về nhà ngang.
Ông Cửu ngồi thừ ra: tự nhiên yên lành lại xẫy ra một truyện rắc rối như thế này. Hoài đi lại phía Hà lay vai gọi:
- Chị. Thôi chị nín đi.
Hà lại khóc to hơn. Hoài nói:
- Anh ấy nói thế nào thì làm theo thế. Chị phải sang xin lỗi anh ấy đi.
- Chẳng xin lỗi ai cả. Chú về bè với anh ấy thì cút đi với anh ấy.
Tuy nàng nói với Hoài nhưng nàng không biết nàng nói gì mà cũng không để ý đến câu của em. Nàng chỉ nghĩ đến chữ "sang" của Hoài. Bỗng Hà đứng thẳng dậy khiến Hoài lo sợ. Hà nhìn về phía ông Cửu:
- Con có làm gì anh ấy đâu, thế mà anh ấy ném cả chén vào người con. Giá không có thầy ngồi đây thì anh ấy có khi đánh chết con rồi... À, anh ấy tưởng bắt nạt được ai thì cứ bắt nạt... dễ thế à? Con phải cho anh ấy biết.
Nàng đi nhanh ra cửa:
- Tưởng người ta sợ à? Anh ấy muốn đánh thì cứ đễ anh ấy đánh.
Tuy nàng không biết rõ là mình nói gì nhưng nàng có cảm tưởng là sau câu nói ấy việc sang bên nhà ngang tất phải là tự nhiên. Hà bước xuống vườn rồi không nghĩ gì đến nước nông sâu, lội nhanh sang.
Hoài quay vội ra:
- Chị Hà, chị điên đấy à? Chị Hà.
Chàng hoảng sợ thấy Hà đã ra đến chỗ gốc cau và nước đã ngập cao ngang lưng, Hoài không dám đuổi theo vì chàng không biết bơi và có đuổi cũng không kịp nữa,
- Thầy ơi! Thầy ra mau.
Ông Cửu chạy ra, nhưng biết là không kịp nữa; Hà đã tới gần hiên nhà ngang; bỗng ông Cửu và Hoài giật mình thấy Hà ngã nghiêng người về một bên, hai tay đập nước bắn tung toé, chắc Hà bị sụt xuống rãnh, vì nước đã lên tới ngực nàng. Hoài gọi thất thanh:
- Anh Minh, anh Minh, chị Hà sắp chết đuối. Ra ngay anh. Mau lên, anh Minh!
Chàng thấy Minh hiện ra, lội nhanh như chạy và thoảng một cái đã nắm lấy được tay Hà kéo lên khỏi cái rãnh và vực Hà đi về phía hiên. Hoài thở dài một cái:
- Hú vía.
Chàng lắng tai nghe, không thấy tiếng ai nói hay có nói cũng nói nhỏ quá không nghe thấy. Hoài biết chắc là hai người không cãi nhau. Chàng thấy nhẹ hẳn người; việc mới xẩy ra lại là một cái cớ tốt để hai người làm lành với nhau. Chàng cất tiếng nói vói ông Cửu:
- Như thế lại tốt. Chị con hôm nay thật như người điên.
Minh đã đặt được Hà ngồi xuống ghế ; nước bắn lên ướt cả khăn cả tóc nàng; nét mặt nàng trông tái hẳn đi, không biết vì tức hay vì sợ. Việc nàng suýt chết đuối mà được Minh ra cứu khiến Hà thấy tưng hửng, bỡ ngỡ không biết xử trí ra sao. Nàng ngồi yên, thở mạnh.
Minh với cái khăn tay đưa Hà. Hà cầm như giằng lấy cái khăn nhưng không lau mặt vứt ngay khăn lên giường một cách giận dỗi rồi nàng cúi xuống thành ghế, úp mặt vào hai cánh tay, nức nở khóc:
- Thế này thì chết đi cho xong đời.
Minh đứng yên nhìn vào vai và lưng nàng rung động vì những cơn nấc. Quần áo nàng ướt dán cả vào người và đầy bùn rác. Hà đã liều thân sang với chàng và Hà đã sang đúng như trong thâm tâm chàng mong ước từ lúc bỏ đi về và ngay từ lúc cãi nhau nữa, tuy chàng không tự thú. Chàng lại cho là Hà sang để tìm dịp xin lỗi chàng. Cái tức giận của Minh biến đâu hết. Chàng ngồi xuống cạnh ghế gỡ tay Hà và kéo người nàng xoay về phía mình. Chàng thấy Hà không cưỡng lại, yên lòng theo đà tay kéo của mình, nhưng nàng vẫn giữ mặt nàng cúi xuống đất không nhìn chàng. Minh cũng không cất tiếng nói, cứ ngồi thế lâu lắm. Rồi Hà thong thả ngửa mặt lên và hai người yên lặng nhìn nhau một lúc lâu, bốn con mắt ngơ ngác phân vân như không biết vì còn tức giận hay vì đã vui sướng. Minh bỗng thấy hai mi mắt Hà hơi rung rung và Hà cũng thoáng thấy cùng một lúc hai mi mắt Minh rung rung trả lời lại nàng, như là hai người đều cùng hiểu rõ là chỉ vờ vĩnh và cả hai người đương cười ngầm nhau. Miệng nàng Minh thấy hơi nhếch ở một bên mép, thoáng như mỉm cười rất nhẹ nhưng nhẹ quá nên cũng có thể không phải là mỉm cười. Minh thì mỉm cười với nàng và nói như trong hơi thở:
- Xin lỗi em... Anh đã nóng quá. Tha lỗi cho anh đi.
Nét mỉm cười e ấp ở miệng Hà cũng lộ rõ hẳn ra là một nét mỉm cười.
- Em xin lỗi anh.
- Không, lỗi ở anh cả.
Ở khóe mắt Hà lại mộng lên long lanh hai giọt lệ: nàng chớp mắt cho nước mắt chảy xuổng má. Minh cũng chớp mắt và chàng đã thấy rưng rưng lệ, chàng hít hơi thật mạnh một cái rồi hả miệng thở dài:
- Thích quả nhỉ?
Hà gật đầu luôn mấy cái như tán thành:
- Em thấy nhẹ hẳn người. Mấy hôm nay em thật khổ quá.
- Anh cũng thế.
1950
BẮN VỊT TRỜI
Ấp cụ Án ở cách xóm Cầu Mới vài trăm thước. Cụ Án ông đã mất hơn hai mươi năm trước nên người trong xóm không ai biết mặt. Cụ Án bà thì vì liệt một bàn chân, đi lại rất khó khăn và phải chống nạng nên không ra khỏi cửa, vì thế cũng rất ít người biết mặt. Chung quanh ấp luỹ tre bao vây dầy đặc, "con gà chui không lọt"; vào ấp chỉ có một lối đi nhưng có đến ba cái cổng: ở ngoài cùng là một cái cổng gạch, ô tô đi lọt, cái cổng thứ hai và thứ ba trước kia bằng gỗ nhưng bây giờ vì đổ nên thay bằng hai cái cổng tre trống. Trước kia vì cụ Án còn ruộng ở chung quanh nên người ra vào tấp nập; gần đây cụ bán dần hết nên không mấy người vào ấp nữa; mọi người đều ngại gọi cổng, phải đợi người nhà ra mở ba cái cửa, lại đợi người nhà đóng hết ba cái cửa, rồi vào đến sân lại gặp một đàn chó dữ. Vả lại cũng không ai có công việc gì cần vào ấp. Dân xóm ngày ngày nhìn thấy cái luỹ tre cao trước mặt nhưng còn ở trong luỹ tre ấy cái nhà cụ Án ở và cả cụ Án nữa mà họ vẫn nhắc đến tên luôn thì đối với họ như là ở một thế giới xa xôi, bí mật. Mỗi ngày hai lần người nhà ra phố mua thức ăn nhưng anh người nhà lại rất ít nói và hình như có lệnh cấm không được nói chuyện với ai về công việc ở trong ấp. Mợ Ấm Hải con dâu cụ Án thỉnh thoảng lắm mới ra phố và mỗi lần nàng ra phố là cả dân phố ngừng công việc để ngắm. Họ tưởng mợ như vừa ở trên trời rơi xuống, mới ở một cảnh tiên nào hiện ra. Mợ ăn mặc rất sang, người mợ đẹp, mắt đen và sáng và nhất là nước da của mợ được họ chú ý đến nhất. Mợ đi đến cửa nhà lão Nhai thì Hai Diên ở cách đấy một nhà thì thầm bảo chồng:
- Người đâu trắng như bột.
Mợ đi qua nhà Hai Diên thì cả nhà Hai Diên lại đứng yên tắp để ngắm và lại đến lượt mẹ Liễn ở bên cạnh khen:
- Hai má như hai quả trứng gà bóc.
Hai bà cụ Huế vì ở Kinh Đô nên thường tấm tắc:
- Trắng hơn cả bà Hoàng Hậu.
Chỉ có cậu Ấm Hải là hay ra phố luôn hoặc đi chơi hay đi bắn chim nên ai cũng thấy cậu tầm thường, không có gì đặc biệt hơn người. Cũng vì thế nên Hải thấy mình tự do, đi đâu không ai chú ý, không như vợ chàng mỗi lần ra phố về lại than phiền:
- Họ cứ nhìn tròng trọc vào mình như nhìn một con vật lạ.
Có lần Hải bảo vợ:
- Thì tại em là một con vật lạ thật. Ai bảo lại ăn mặc sang thế kia.
- Thì chỉ có mỗi một bộ áo, không mặc nó thì mặc áo cánh ra phố à?
- Thế tại làm sao da lại trắng thế?
- Giời sinh ra, làm thế nào?
- Thế tại sao mắt Duyên lại đẹp thế, má Duyên lại hồng thế, môi duyên lại tươi thế?
Thế là Hải kéo vợ vào lòng, hôn luôn mấy cái:
- Mình ăn mặc thế này hôn mình tưởng như là hôm mới cưới nhau. Sao mình không mặc luôn?
- Mặc luôn thì rách.
Bỗng Duyên đẩy chồng ra:
- Cái áo gần mười năm, ôm chặt lấy người ta rách tung cả ra rồi.
Hai vợ chồng cùng cười rồi lại ôm chặt lấy nhau hơn trước và sung sướng. Hôm ấy Duyên phải ngồi cả buổi chiều mạng lại chỗ bục ở vai. Nàng sung sướng nghĩ đến tình vợ chồng yêu nhau cứ mỗi ngày một tăng. Tuy nhà bắt đầu sa sút, không có nhiều tiền để sắm sửa thêm, nhưng tiền riêng của nàng vẫn còn một ít và đồ tư trang của nàng vẫn còn nguyên, nếu tằn tiện thì cũng không phải tiêu đến nó. Hai đứa con nàng còn nhỏ, chưa phải đi học nên cũng không mấy tốn kém. Hoạ chăng tốn tiền nhất là những hôm Hải đi Hà Nội mua đạn:
- Mua đạn để toàn bắn những cò là cò.
Hải hay bắn cò vì cò dễ bắn trúng và lúc nào muốn bắn cũng có sẵn cò, không phải đi xa tìm kiếm.
Tuy là tốn tiền mà chỉ được ăn thịt cò, ăn nhiều đến nỗi bây giờ nuốt không trôi nữa phải đem cho, nhưng mỗi lần chồng hỏi tiền để đi Hà Nội mua đạn thì nàng vẫn đưa một cách vui vẻ vì thấy chồng chỉ có mỗi cái thú bắn cò ấy. Độ này Duyên lại thấy Hải hay đi bắn luôn và tuy không được con cò nào - hay được nhiều quá nhưng không dám đem về sợ vợ buồn nôn chăng - nhưng đạn thì chóng hết và hay đi Hà Nội luôn.
- Cậu lại sắp đi bắn à? Bắn luôn thế tốn đạn chết?
Ăn cơm sáng xong, thấy chồng đem súng tháo ra lau dầu, Duyên đến gần xem. Hải nói:
- Có lau hộ người ta không nào?
- Bẩn tay chết.
Hải cầm cái giẻ đầy dầu quệt mạnh một cái lên bàn tay trắng nõn của vợ:
- Bây giờ lau đi, lau súng chứ không phải lau tay, đằng nào cũng bẩn rồi; nói léo nhéo cái gì.
Duyên dí ngay bàn tay bẩn vào mũi Hải; xoa xoa mấy cái cho mũi Hải thật đen bóng. Hải cứ để yên mặc vợ xoa không nói gì.
Duyên cười:
- Người ta mới nói có thế mà đã tìm cách báo thù. Hay là chỉ cốt bắn phung phí cho chóng hết đạn để lên Hà Nội với con ranh nào...
Đương lau súng, Duyên như chợt nghĩ ra một điều gì, bảo chồng:
- Bắn, sao độ này không nghe thấy tiếng súng?
Hải trả lời ngay vì câu trả lời đã nằm sẵn ở trong óc chàng từ lâu:
- Người ta đi bắn vịt giời, ở mãi tận cánh đồng Nậu.
Duyên ngơ ngác, lấy làm phục:
- Cậu mà cũng bắn được vịt giời cơ à?
Hải nhấc cái nòng súng đưa ra ánh sáng, nhắm một bên mắt và nhìn vào vợ chứ không nhìn vào lòng súng rồi nói:
- Bắn được.
Yên lặng một lúc Duyên lại hỏi:
- Thế có trúng không?
- Không trúng.
Duyên gật gù đầu:
- Tài nhỉ.
- Tôi tài hay vịt giời tài?
Hải nhìn ra sân không có ai, vội đưa đầu ra đằng trước và hôn vào môi vợ một cái.
Duyên nghiệm ra rằng độ này chồng hay có những lúc vui vẻ đột ngột, nói đùa luôn miệng và có khi đương đêm cũng đánh thức nàng dậy:
- Người ta đương thấy thinh thích trong người, dậy đi nói chuyện với nhau cho vui đi em.
Hôm nay, thấy tự nhiên đang lau súng Hải lại hôn mình, nàng nhìn chàng nói:
- Lại lên cơn điên vui có phải không?
Bỗng nàng ngơ ngác, nét mặt yên tắp. Nàng vừa để ý đến vết dầu đen ở mũi chồng và chợt hiểu tại sao chồng lại hôn mình. Hải nhìn vào mũi Duyên rồi cất tiếng cười to.
Duyên nói:
- Đồ tiểu nhân báo thù.
Hải đáp:
- Khổng Tử đã dậy: Không nên làm cho người khác cái gì mà mình không muốn người khác làm cho mình.”
- Thế sao cậu lại làm mũi em đen?
- Câu ấy ám chỉ vào một mình mợ thôi, còn tôi hôn tức là tôi theo đúng lời thánh dậy: làm cho người khác cái gì mà mình thấy thinh thích muốn người khác làm cho mình. Mợ hiểu ý chưa?
Chàng đưa đầu ra đằng trước, chờ Duyên hôn lại, Duyên cười:
- Thánh đâu lại dậy cái câu buồn cười thế. Thánh đâu lại nói thấy thinh thích...
Duyên hôn lại chồng, vừa hôn vừa nói:
- Đằng nào mũi cũng đen rồi.
Hải cười, nói:
- Ồ, mợ làm thơ. "Đằng nào mũi cũng đen rồi", nhưng câu thơ ấy buồn lắm.
Một lúc sau, bác người nhà lên đưa Hải đôi giầy. Bác nhìn vào mũi cậu Ấm rồi lại nhìn vào mũi mợ ấm, nhưng bác không dám cười, vội vàng đi ngay xuống nhà dưới.
Hải đi giầy, đeo súng, với cái mũ đi săn đi lên đầu, nhìn cái đầu súng rồi lại nhìn vợ. Duyên cũng nhìn đầu súng rồi nhìn chồng gật đầu mấy cái, tỏ vẻ hiểu ý chồng. Hải ra tủ lén vợ lấy cuốn tiểu thuyết đút vào túi. Rồi chàng cho tay vào ngực xem đã có gói chè tàu ngon trong ấy chưa.
Duyên đứng nhìn theo chồng đi ra sân, nghĩ thầm:
- Độ này anh Hải lại dám bắn cả vịt giời. Nhưng chưa khoe với mình vì chưa bắn trúng con nào.
Nàng nuốt nước bọt vì nàng nghĩ bắn mãi thì rồi cũng có ngày trúng một con và thịt vịt trời chắc hẳn phải ngon, không như thịt cò tanh chết, cho bao nhiêu xả cũng không hết tanh, mà ăn mãi lại sợ mùi xả hơn cả mùi tanh của cò.
- Cậu Ấm đi bắn vịt giời.
- Cậu Ấm đi sang cánh đồng Nậu.
Đó là những lời trẻ con ở xóm nói với Hải mỗi lần chàng vác súng đi qua. Trước kia còn đi bắn cò, bắn chim gáy, bao giờ theo sau Hải cũng có hai ba đứa trẻ; chúng lội xuống ruộng, chui vào bụi rậm để nhặt chim cho chàng. Hải đuổi chúng đi, chúng cũng không đi. Thành thử rất khó khăn cho việc riêng của chàng bây giờ. Vì vậy chàng nghĩ ra kế đi bắn vịt trời ở tận cánh đồng Nậu, xa quá chúng không theo được. Chúng đợi mãi chưa thấy lần nào Hải xách vịt về nên chúng thất vọng và có đứa bảo Hải:
- Cậu Ấm không đi bắn cò để cháu xách nữa à? Vịt giời thì cậu bắn thế nào được?
Nghe câu ấy, Hải nghĩ bắn vịt trời dễ hơn bắn cò vì vịt trời to hơn nhưng cái khó là làm thế nào đến được gần sát nó như là đến gần cò. Cái súng cổ của chàng không thể bắn xa mà chết vịt được, chỉ trừ may ra trúng ngay đầu vịt, chứ thực ra tài bắn của chàng không đến nỗi để đến cả trẻ con cũng khinh. Súng chàng không bắn được vịt trời, biết thế nhưng chàng không nói ra cho vợ rõ và tuy những đứa bé tỏ lời khinh thị chàng cũng không nói ra để chống chế. Súng không bắn được vịt trời mà cứ đi bắn vịt trời là một sự vô lý.
Hải đi qua Xóm Cầu Mới, đi qua phố Phủ rồi đến nửa đường sang làng Nậu, tới chỗ cái quán làng Cầu có cây đa con gà, chàng ngồi xuống lấy thuốc lá hút. Hút xong chàng ngồi nghỉ, giở tiểu thuyết ra đọc và khi đã đến giờ, chàng đứng lên. Đưa mắt tìm không có con chim nào, chàng bắn chỉ thiên một phát để có chứng cớ là súng có bắn đạn. Lúc đầu chàng còn chịu khó đi đến tận cánh đồng làng Nậu vì chàng nghĩ nếu gặp vịt dẫu xa đến đâu thì xa cũng cứ bắn bừa một phát may ra trúng đầu vịt hay mắt vịt chăng. Về sau chàng thấy vô ích và đi xa quá mỏi chân, cứ đến quán làng Cầu là chàng ngừng lại. Chỗ ấy vắng, không ai biết chàng ra đấy và nếu có ai quen đi qua cũng chỉ cho là chàng đi săn mệt, ngồi nghỉ chân một lát.
Lúc trở về, Hải không đi qua Xóm Cầu Mới. Trước khi đến cầu, chàng rẽ sang con đường đi về làng Trò vì từ ở Phủ về ấp của chàng có hai con đường: con đường đi qua Xóm Cầu Mới thì có cầu và con đường đi qua làng Trò gần hơn một ít nhưng lại phải qua đò. Đi trên con đường vào làng Trò có thể trông thấy lũy tre ấp và tuy biết là đứng ở hiên nhà nhìn ra không thấy được con đường (chàng đã xem xét cẩn thận rồi) và Duyên ít khi đem con ra cổng đứng chơi, nhưng chàng cũng để súng sát vào cạnh sườn bên trái ngộ nhỡ Duyên có ra cổng ngoài nhìn về phía ấy thì ở xa không có súng không thể nhận ra chàng được. Vào làng, Hải chọn những con đường vắng nhất và tuy vác súng đi vào làng Trò để kiếm chim là một sự tự nhiên mà thấy có người tò mò nhìn, chàng cũng ngường ngượng như là người ta đã biết chàng vào đấy không phải là để bắn chim. Nhất là lúc chàng đi khỏi, nếu họ nói với nhau câu gì chàng nghe không rõ thì chàng lo sợ tưởng họ nói cạnh đến mình. Tới chỗ đường rẽ ra bến Trò, Hải cũng cứ đi thẳng. Đến tận cuối làng, chỗ có cái cổng gạch làng mở ra cánh đồng, quay lại nhìn phía sau không có ai chàng đi rẽ sang bên phải lần theo hàng dậu ruối đi thật nhanh và khi đến cổng một cái nhà tranh, chàng dừng lại, đứng sát vào cửa cho người đi ở ngoài đường cái làng không trông thấy.
Hải nhìn qua những cành tre ở cạnh cổng. Một cơn gió thoảng qua; bóng lá tre và bóng nắng chạy loang loáng trên sân đất nhẵn bóng và quét sạch. Tuy trời giá rét nhưng chàng thấy cái cảnh bóng lá tre rung động là mát và cả gió cũng mát nữa. Có hai con gà đứng sưởi nắng ở cạnh gốc đậu ván, lấm tấm hoa tím. Cả những cảnh nhỏ nhặt ấy chàng cũng để ý đến và thấy đẹp như trong một thế giới bồng lai nào.
Chàng cất tiếng gọi:
- Bác Hiên ơi!
Có tiếng kẹt cửa rồi bác Hiên gái bước ra, mỉm cười nói:
- Bẩm cậu đến.
Bác ra chống cửa tre, đợi Hải đi qua, lại hạ xuống ngay, cài chốt rồi đi vào nhà và cũng đóng ngay cửa nhà lại. Hải nhìn thấy cái giường không, thất vọng:
- Bác giai đi vắng?
- Vâng thưa cậu, thầy cháu có việc phải sang Yên Ninh.
- Thế độ bao giờ thì về.
- Bẩm cậu không biết có lẽ tối xẩm mới về.
- Phiền nhỉ, bây giờ mới độ ba giờ chiều mà đợi đến tối thì tôi không thể đợi được.
Nói thế nhưng chàng cũng cứ bỏ mũ, đặt súng, lại giường ngồi, nói với bác Hiên gái:
- Làm thế nào bây giờ?
Bác Hiên gái không trả lời câu Hải hỏi, nàng nói:
- Để cháu đi đun nước.
Hải móc ở túi ra gói chè đưa cho bác Hiên và hỏi:
- Nhà còn thuốc không?
Nhà còn thuốc nhưng bác Hiên gái đáp:
- Thưa cậu không, để cháu chạy đi mua, chỉ một lát thôi.
Hải nhìn bác Hiên một lúc rồi ngượng ngập nói:
- Nhưng tôi không biết tiêm.
- Cháu biết tiêm. Nếu cậu không chê là tiêm vụng thì để hôm nay cháu tiêm hầu cậu.
- Thôi cũng được.
Biết là sức mình chỉ hút hết hai hào chàng cũng đưa cả cho bác Hiên ba hào để bác đi mua, ăn bớt thì vừa đúng ngữ say của chàng.
Bác Hiên đi khỏi, Hải kéo gối nằm ngửa trên giường, nhìn trần nhà.
Lần đầu tiên chàng đến đây đã trên tám tháng. Hôm ấy chàng bắn chết một con chim gáy và chim lại rơi vào phía sau nhà bác Hiên. Trẻ con không có đứa nào theo nên chàng phải vào nhặt và vì tay rẩy máu chim chàng phải lại cái cóng nước gần chỗ bác Hiên trai nằm hút thuốc để rửa tay. Bác Hiên ngồi dậy rồi chào mời chàng vào uống nước và xơi điếu thuốc cho đỡ mệt. Thế là sự tình cờ đã xui chàng hút điếu thuốc phiện đầu tiên trong đời. Chàng hút luôn hai điếu nữa chỉ cốt hút nhiều một tí để có cớ trả tiền, bác Hiên khỏi từ chối. Lại vì sự tình cờ hút ba điếu là vừa đúng ngữ say (về sau chàng mới biết rõ là đúng ngữ) nên hôm ấy chàng thấy chưa bao giờ trong người sung sướng dễ chịu như thế.
Ở nhà bác Hiên đi ra, chàng đứng lại ở sân nhìn và không bao giờ chàng quên được lúc đó. Gió rét nhưng trong người chàng ấm áp; chàng ngạt mũi thấy nóng và hơi ngứa ở hai lỗ mũi phải thở mạnh luôn nhưng cả đến cái ngạt mũi cũng dễ chịu lắm. Người chàng hơi lảo đảo, lơ mơ nhưng không lúc nào trí chàng sáng suốt đến thế, óc chàng như trong hẳn ra. Cái sung sướng của chàng không phải là cái sung sướng mê man của những người đương yêu hay say rượu; từng thớ thịt, từng thớ xương, khắp người chàng thì sung sướng bàng hoàng nhưng trí chàng thì lại tỉnh táo để nhận thấy rõ hơn cái sung sướng của thân thể.
Gió lạnh rào rào trong lũy tre, lá tre rung rung, và các đầu ngọn tre ngả nghiêng trước gió, mọi cái chàng nhìn thấy rõ ràng trước mắt nhưng hình như lại ở tận đâu đâu, ở một thế giới nào khác và thế giới ấy là một thế giới sung sướng, vui vẻ.
Tối về nằm, gối đầu vào cánh tay vợ, lúc đó thuốc đã ngấm cái thú của chàng lại hơi khác. Chàng có cái khoan khoái của người đương thiu thiu buồn ngủ sau mấy đêm không được ngủ và cái thú thiu thiu buồn ngủ ấy lại kéo dài đến mấy giờ đồng hồ. Thỉnh thoảng chàng lại cựa quậy mấy cái, sợ mình ngủ thật đi mất; ngay những lúc mà chàng thiêm thiếp tưởng mình ngủ rồi thì lạ lắm, óc ngủ nhưng riêng thân thể chàng vẫn thức để cảm thấy sung sướng; cái sung sướng ấy nó cũng ngủ như thân thể chàng; đến khi chàng cựa tay, lắc đầu cho tỉnh giấc thì cái sung sướng ấy cũng thức dậy.
Thế rồi nửa tháng sau chàng lại đến nhà bác Hiên và cứ đến đều đều như thế trong ba tháng. Rồi cái hạn rút ngắn xuống mười ngày, một tuần lễ; bây giờ thì cứ năm ngày chàng đến một lần và chàng cố giữ như vậy đã được hai tháng rồi. Chàng đã bắt đầu phải để ý đến tiền hút nhưng đối với bác Hiên chàng vẫn chi tiền rộng rãi vì chàng nghĩ một tháng hút sáu bẩy lần không tốn bao nhiêu; hai giờ đồng hồ chàng nằm ở nhà bác là hai giờ sống thần tiên, chàng muốn hai bác Hiên lúc nào cũng vui vẻ tiếp đãi chàng. Tiền Duyên đưa chàng đi Hà Nội và tiền mua đạn chàng đã để dành được một số; đã lâu chàng không đi Hà Nội nữa, đi chơi vơ vẩn ở các làng xa đến giờ xe lửa đêm ở Hà Nội về thì chàng cũng về nhà ga như mình ở xe lửa xuống. Đạn thì mỗi lần chỉ bắn một viên; sợ trẻ con theo đông không tiện và sợ mọi người không nghe thấy tiếng súng nên chàng bỏ bắn cò và vì thế chàng đi bắn vịt trời.
Bác Hiên gái đã đi mua thuốc về. Bác đặt lên giường cái khay thuốc và thắp đèn. Bác đi xuống nhà bếp lấy ấm nước sôi pha chè rót vào một cái chén riêng mời Hải uống.
- Xin phép cậu.
Nàng vén áo ngồi lên giường và bắt đầu hơ nướng thuốc. Hải lấy ở túi ra một cái bánh khảo nhân đỗ đen và một quả quýt mới mua ở phố Phủ. Bao giờ chàng cũng phải mua quýt, cam hay bưởi để khi về đến cổng thì cấu một ít vỏ lấy nước thơm xoa lên môi cho vợ khỏi ngửi thấy mùi thuốc phiện. Cứ thế bao lần rồi mà Duyên không để ý.
- Đàn bà tinh ranh lắm nhưng vợ mình thì ngớ ngẩn.
Hải ngồi dậy, cởi giầy rồi kéo cái chăn đắp lên chân. Chàng nằm nhìn bác Hiên gái nướng thuốc. Không biết vì thuốc có pha hay vì vụng tay mà điếu thuốc cứ thỉnh thoảng lại rớt xuống đèn. Mỗi lần có một giọt sắp rớt xuống thì môi bác Hiên lại trễ xuống một cái. Rồi nàng lại mỉm cười nhìn Hải.
Hải vẫn thấy bác Hiên đẹp nhưng lần đầu tiên chàng được nhìn kỹ nét mặt. Nằm đợi bác tiêm, Hải tha hồ ngắm: đôi mắt bác, chàng thấy có vẻ thơ ngây vì có hàng lông mi dài và cong lên; đôi môi bác có duyên ở chỗ hai bên mép lại cong xuống một tí, hai cái lúm đồng tiền thì một cái cao một cái thấp và vì thế miệng lại có vẻ tinh nghịch. Chàng giơ bàn tay như để che ánh đèn chói nhưng thực ra chỉ cốt để che nửa mặt dưới chỉ nhìn hai con mắt, rồi lại che hai con mắt chỉ nhìn nửa mặt dưới. Chàng thấy như là nhìn hai người đàn bà và bất giác bật cười làm bác Hiên lại nhìn chàng nhanh một cái tưởng như Hải chê mình tiêm vụng.
Hải nghĩ nếu lần nào cũng được bác Hiên gái tiêm thì thật an toàn. Căn nhà này ở chỗ cuối làng, đi ra đi vào không ai nhìn thấy; nhà lại chỉ có hai vợ chồng tính nết kín đáo, và không có con, không có khách, chàng nằm hút hàng giờ được yên tâm. Hai vợ chồng vì thỉnh thoảng chàng đến hút kiếm thêm được ít nhiều, nên chiều chuộng chàng hết sức. Mỗi lần chàng đến, chàng có cái ý nghĩ đã làm cho người khác được nhờ mình và cái ý nghĩ làm cho người khác vui vẻ ấy cũng cần cho cái thú hút thuốc phiện của chàng như nước chè ngon và bánh khảo.
Chàng thích nhất - và cái thích ấy hơi khác cái tính thích thông thường của những người hút thuốc - là căn nhà chàng nằm không tối hẳn và cũng không sáng quá. Tiếng gió trong lá tre, hoa nắng và bóng lá tre lấp loáng trong buồng, qua các cửa chắn song hé mở, ánh phản chiếu của nước sông phía sau chạy lăn tăn vàng trên mái nhà, tất cả những cái đó trong khi chàng say thuốc lơ mơ nằm yên, thì hoạt động quanh người chàng, tiếng gió rào rào lúc to lúc bé, ánh nắng vàng lúc sáng lúc nhạt, tất cả những cái rung rinh của thế giới ở ngoài làm tăng thêm rất nhiều cái thú yên tĩnh và thâm trầm ở trong thân thể chàng.
Hải đã hút đến điếu thứ năm và đã bắt đầu say. Trong khi cái hạn đến hút của chàng thu ngắn lại thì số điếu thuốc đúng ngữ say của chàng tăng lên. Bây giờ chàng phải hút tám điếu mới đủ.
Bỗng Hải ngạc nhiên thấy bác Hiên đặt dọc tẩu và tiêm xuống, tay ôm bụng, đôi lông mày cau lại, thở mạnh.
- Bác sao thế?
- Bẩm cậu cháu đau bụng.
- Bác đau bụng à, hút một điếu thì khỏi ngay.
Hải giơ tay đỡ dọc tẩu để bác Hiên hút; nhìn thấy nàng hút có vẻ thạo, chàng hỏi:
- Bác đã hút bao giờ chưa?
Bác Hiên nằm ngửa, đưa tay ấn vào bụng; một lúc sau bác nói một mình:
- Kiến hiệu thật, hết hẳn đau.
Rồi nàng nói to với Hải:
- Bẩm cậu, khi nào đau thì phải hút. Lúc thường thầy cháu không cho.
Nàng vẫn nằm yên ngửa mặt, hai hàng lông mi đưa lên đưa xuống, và đôi môi mở rộng để thở. Hải thấy nàng nằm yên lâu lắm; chàng nóng ruột.
- Bác khỏi đau rồi thì lại tiêm đi chứ.
Bác Hiên ngồi thẳng dậy nói:
- Chết chửa.
- Bác cứ nằm tiêm cũng được chứ sao.
- Bẩm cậu, cháu không quen nằm tiêm. Bây giờ hết đau rồi, ngồi cũng không sao.
Hải thấy nét mặt bác Hiên biến đổi hẳn: hai con mắt sáng long lanh, đôi gò má ửng hồng và đôi môi đỏ thắm lại trông như mới nở mọng ra một ít và hơi khô khô; cả mặt như bừng bừng nóng, lông mi và đôi môi rung rung vì sung sướng.
Bác Hiên đưa mắt nhìn Hải và thấy hai con mắt Hải nhìn mình có vẻ khác. Hải nói:
- Cổng trống, bác cài then rồi chứ?
- Bẩm cậu cài rồi, cả cửa nhà nữa ạ.
Câu hỏi ấy rất thường vì lần nào Hải đến cũng dặn dò đóng cổng ngoài cẩn thận, nhưng hôm nay nàng thấy mang máng câu hỏi ấy có vẻ gì khác lạ. Vừa tiêm xong điếu thuốc, nàng đưa cho Hải. Hải ngồi dậy:
- Bác hút thêm một điếu nữa.
- Thưa cậu cháu khỏi đau rồi.
- Khỏi đau cũng cứ hút cho đủ say.
Hải đặt dọc tẩu vào bàn tay nàng; Hiên đẩy ra, và trong lúc giằng co tay Hải nhiều lần chạm vào tay nàng. Sau cùng Hải nắm hẳn lấy bàn tay Hiên, kéo nàng nằm xuống và bắt hút; Hải cũng giơ tay đỡ dọc tẩu và như vô tình bàn tay chàng đặt lên bàn tay Hiên. Tuy chàng đã hơn ba mươi tuổi nhưng lần này là lần đầu tiên trong đời chàng dám tình tứ cầm lấy tay một người đàn bà không phải vợ mình. Quả tim chàng đập mạnh, mặc dầu lúc đó vì say thuốc chàng đã trở nên bạo dạn gấp mười lúc thường.
Bác Hiên hút xong đặt dọc tẩu xuống, hai mắt nhắm lại và hai môi mở rộng ra thở mạnh.
- Cậu làm cháu say quá!
Tiếng nàng nói Hải nghe ấm áp và đầy lẳng lơ. Chàng cũng cố lấy giọng âu yếm nói tiếp theo:
- Say thế mới thú chứ!
Hải nhắm mắt lại: chàng nghĩ nếu được hôn vào đôi môi một người đàn bà đương say thuốc chắc là một cái thú mê hồn nhưng tuy thèm muốn, chàng cũng không dám đi xa hơn nữa. Không phải chàng sợ; bác Hiên trai có đột ngột trở về cũng phải gọi cổng, bác Hiên gái nếu không thuận cũng không dám làm rầm. Chàng chỉ sợ nếu bác Hiên không thuận thì chàng sẽ ngượng lắm, ngượng riêng với bác ta thôi và cái ngượng ấy sẽ làm vẩn đục cả cái vui của chàng mỗi khi đến đây hút thuốc. Thà bỏ qua một cái thú trong chốc lát về nhục dục còn hơn mất một chỗ hút thuận tiện và thú vị lâu bền. Hải cất tiếng nói với bác Hiên, giọng chàng trở lại bình thường:
- Bây giờ lại tiêm cho tôi hút chứ. Tôi thì tôi chưa đủ say như bác.
Hiền cười rồi ngồi dậy. Nàng cũng thấy nóng ran cả người vì thèm muốn chứ không phải vì say thuốc. Lấy một người chồng xấu xí nghiện ngập, lại không có đứa con nào, đời nàng thiếu thốn. Tuy vậy chưa một lần nào, nàng dám có ý nghĩ bất chính với chồng; nhưng hôm nay ngồi cùng một giường với một người đàn ông đẹp trai, và con nhà dòng dõi trong một căn nhà vắng, các cửa đóng hết, không sợ ai nghi ngờ, nàng đã thấy trong lòng hồi hộp và khổ sở vì thèm muốn. "Biết đâu không có đứa con" nàng nghĩ thế để che đậy sự rạo rực về nhục dục. Chính nàng đã giả vờ đau bụng để Hải mời hút thuốc và như thế nàng sẽ bạo dạn hơn.
Hiên với dọc tẩu, bắt đầu tiêm. Nhìn Hải, nàng biết thế là hết. Nàng thất vọng nhưng cũng thấy nhẹ người vì đã giữ được trong sạch với chồng.
1949
BÚNG RUỒI
Cụ Án nghiêng người nhấc cái vung nồi cá kho dứa đặt trên cái hoả lò con nhìn vào trong nồi và hít mũi mấy cái. Lứa cá kho này cụ thấy ngon hơn mọi lần. Trong đời cụ, cụ chỉ thích nhất ăn cá kho dứa, mùa nào không có dứa tươi thì cụ nấu cá với dứa hộp và Hải đi Hà Nội mua đạn bao giờ cũng nhớ mua mấy hộp dứa biếu cụ. Độ trước khi cụ Án ông còn sống bắt cụ rời nhà quê lên ở trên tỉnh, cụ được nếm đủ các thứ sơn hào hải vị nhưng cá kho dứa cụ vẫn thấy ngon nhất. Cá kho ăn lại đỡ tốn, mỗi miếng cá bé tí cũng ăn được bao nhiêu là cơm. Vì thế hễ cứ lần nào có người biếu thì cụ lại có nồi cá kho. Biết tính cụ nên có ai biếu cụ là biếu cá và phải là cá còn tươi nguyên. Cụ tự tay kho lấy và kho xong thì cụ treo ngay trên giường cụ ngồi, vừa tầm tay với.
Cụ đậy vung nồi và tay lại cầm lấy cái que đập ruồi. Chỉ trừ lúc giã trầu ở cối, còn thì lúc nào tay cụ cũng cầm que đập ruồi. Cụ ghét và sợ ruồi lắm. Nhưng ở chung quanh chỗ cụ ngồi thì lại có đủ các thứ để nhử ruồi đến thật nhiều; ngoài nồi cá, lại có những sâu cá mắm, những chai mật ong và những quả chuối bao giờ cũng chín đen chín nát. Vì cụ bại một chân đi phải chống nạng nên ít khi cụ đi lại. Giang sơn cụ và cả đời cụ vì thế thu hẹp trong phạm vội cái giường cụ ngồi. Tất cả những thứ gì cụ cần dùng đều để ở trên giường và ở cái tủ chè cạnh giường. Chỉ trừ có số tiền cụ để dành được là cụ giấu ở chỗ khác.
Vì cụ không đi lại được nên chỉ đánh được những con ruồi ở trên giường. Để bắt ruồi chung quanh giường cụ nuôi cò ruồi, nhưng con cò không được bắt ruồi trên giường. Có con ruồi nào vừa bay đến đậu trên chiếu mà con cò định mổ thì cụ đã nhanh tay đập tranh trước; đập xong cụ hất ruồi xuống đất cho cò ăn. Lần nào con cò nhanh hơn mổ cướp của cụ một con ruồi trên chiếu là cụ lấy cán que đập ruồi đập vào đầu con cò một cái để phạt nó hỗn. Có một con cò lâu dần hiểu được chỗ đó nên không bao giờ mổ tranh ruồi của cụ; cụ thích lắm và khoe với tất cả mọi người, nhưng sau con ấy bị chó cắn chết mất.
Gian nhà cụ ngồi thành thử chia ra ba từng rõ rệt. Từng trên là cái giá treo đựng các thức ăn; từng giữa là cái giường cụ với đủ các thứ đồ dùng như ống nhổ, ống vôi, hoả lò, than củi, ấm nước, chăn gối; từng dưới cùng là cái nền nhà trống không với một con cò ung dung đi qua đi lại.
Mùa đông ít ruồi, nên con cò đứng yên lặng đầu đặt trên cánh thiu thiu ngủ dưới nắng ở chỗ bực cửa. Cụ Án đưa mắt tìm nhưng không thấy một con ruồi nào, thấy có con nhện con, cụ đập nó một cái và hất xuống đất. Con cò nghe tiếng đập, mở mắt, nghếch mỏ nhìn vào rồi lại đặt đầu trên cánh nhắm mắt ngủ. Cả cái ấp rộng, không có một tiếng động. Hai vợ chồng Hải hôm ấy sang bên Bằng thăm một người anh cả và cho cả hai đứa con đi. Bác Huệ làm vườn thì ra bới khoai ở đâu phía sông.
Cụ Án bỗng lắng tai nghe. Hình như có tiếng người gọi cổng. Tiếng gọi lần thứ hai to hơn; gọi tên bác Huệ nhưng tiếng người thì lại là tiếng người lạ, chưa từng nghe thấy lần nào. Cụ Án đã gần bẩy mươi tuổi nhưng tai cụ còn sáng lắm. Chỉ nghe tiếng gọi cũng biết được người gọi cổng là ai và ít khi cụ lầm. Lần này cụ gọi bác Huệ đến, dặn cẩn thận xem đích xác là ai và báo cụ trước rồi mới được mở cổng. Cụ nghĩ đến số bạc để dành của cụ. Nhà có súng nhưng Hải hôm nay lại đi vắng cụ cần đề phòng.
Một lúc bác Huệ vào trình:
- Bẩm cụ lớn, cậu giáo Đông ạ.
- Cậu giáo Đông nào?
- Bẩm cụ lớn, cậu giáo Đông, con cụ trợ tá Tiên Yên. Hồi cụ lớn nhà ngồi ở phủ Tiên Yên thì cụ thân sinh ra cậu giáo làm trợ tá. Cậu ấy lúc đó còn bé nhưng con cũng còn nhớ mặt.
Sự thực bác Huệ không nhớ được mặt vì ông giáo Đông không bao giờ là con ông trợ tá Tiên Yên cả. Cụ Án hết lo ngại:
- Mời ông ấy vào.
Bác Huệ mở cổng, nhìn Đông từ đầu đến chân:
- Giá đi ngoài phố gặp cậu thì cháu quả không sao nhận ra được. Cậu nói tên ra, cháu nhớ lại rõ lắm.
Bác Huệ khép cửa rồi cuống quít đưa ông giáo Đông vào. Bác mừng lắm vì bất cứ một sự gì có liên quan đến đời bác lúc đi hầu cụ Án ở các huyện phủ cũng làm bác vui sướng như được sống cái thời vinh quang đã qua.
- Bẩm cậu, quan lớn Trợ nhà ta...
Đông vội vàng đáp:
- Thầy tôi đã mất.
Nói thế, nét mặt Đông cũng buồn hiu như là cha mình chết thật rồi. Bác Huệ thấy câu hỏi của mình làm Đông buồn vội nói sang chuyện khác:
- Bẩm cậu, thuở bé cậu hay sang bên vườn hái lựu lắm.
- Bây giờ tôi cũng vẫn còn thích ăn lựu như thuở bé.
Đông nghĩ cần phải lấy lòng bác Huệ:
- Bác trẻ lâu nhỉ. Tôi trông bác vẫn y nguyên như ngày trước.
Vào đến nhà, Đông đi thẳng đến chỗ cụ Án ngồi, hai tay giơ ra đằng trước, tươi cười nói:
- Bác còn nhớ cháu không? Cháu trông bác vẫn thế, chỉ khác cái tóc bạc. Cháu về đây mấy tháng mà đến hôm qua mới biết bác là bác Án Tiên Yên. Cháu mừng quá vội vào thăm bác.
Cụ Án thì không nhớ lại một tí gì, cả đến ông Trợ Tiên Yên cụ cũng không nhớ là ai và nếu có ông Trợ Tiên Yên thì cụ có được nhìn mặt ông ta hay không cụ cũng không biết. Cụ mời:
- Ông ngồi đây.
Đông thân mật ngồi ngay xuống giường. Mắt chàng đưa nhìn nải chuối treo trên giá.
- Bây giờ bác còn nhiều chuối như trước nữa không?
Đông thân mật mở cái nồi cá, nói:
- Thơm nhỉ.
- Cá kho dứa đấy.
- Cá kho dứa thì ăn ngon lắm. Cháu vẫn thích nhất cá kho dứa. Hôm nào lại, bác cho ăn nhé.
Cụ Án nhìn Đông tươi hẳn nét mặt, nói:
- Có phải không. Yến tôi ăn nhiều lần, ăn nhạt phèo mà tốn bao nhiêu là tiền... Bây giờ ông làm gì?
Đông đưa mắt thấy bác Huệ vẫn đứng ở bực cửa:
- Thưa bác cháu dậy học.
Cụ Án rót nước chè ở cái ấm vào một cái chén đã cáu ghét.
- Nước chè mạn kinh niên đấy.
Đông nhắp một hụm nhỏ và mỉm cười. Có lẽ vì là chè mạn kinh niên nên như có mùi thiu.
Cụ Án đập một con ruồi trên áo Đông rồi gạt xuống cho con cò đứng đợi ở dưới. Đông giật mình nhìn xuống áo. Cụ Án vội nói:
- Tôi đập bao giờ cũng có ngữ chỉ vừa chết chứ không bao giờ nát con ruồi. Ông không sợ bẩn áo.
Một lúc sau lại có con ruồi đậu trên thành chén của Đông. Cụ Án giơ que rình đợi nó bay xuống chiếu để đập. Đông đưa tay hất một cái bỏ ra chiếu một con ruồi chết. Cụ Án nhìn Đông lấy làm ngạc nhiên lắm.
- Thưa bác, cách bắt ấy cũng không khó gì. Cần phải đón đầu nó, con ruồi tự khắc vào nằm trong tay mình.
Cụ Án giơ que đập thêm con ruồi một cái rồi hất xuống đất. Đông đưa mắt tìm và thấy một con ruồi đậu ở trên cái que bình vôi, giơ ngón tay búng một cái, con ruồi rơi lăn xuống chiếu. Cụ Án nhìn, mỉm cười một cách ngây thơ như đứa trẻ con:
- Hay nhỉ.
- Thưa bác, cháu mà ngồi đây một buổi chiều thì nhà này bói cũng không ra một con ruồi nào nữa.
Nhưng Đông nghĩ thầm mình đến đây không phải để búng ruồi cho cụ Án. Vẫn thấy bác người nhà cứ đứng ở bực cửa nghe chuyện, chàng tức mình lắm nhưng không nghĩ được cách nào để làm cho bác ta đi chỗ khác. Trong lúc đợi, Đông xoay câu chuyện về đạo Tin lành:
- Thưa bác, bao giờ cũng thế ở lành thì gặp hiền. Đạo Tin lành cả nước Mỹ theo, vì thế họ văn minh gấp hai nước Pháp. Cả người Tầu bây giờ cũng bỏ đạo Phật, đạo Khổng, theo đạo Tin lành, bác ạ.
Rồi Đông mở cặp rút ra mấy cuốn sách về đạo mở qua cho cụ Án xem tranh vẽ. Cụ Án nói:
- Tôi bây giờ già rồi chẳng hiểu gì cả.
Đông không cần cụ Án hiểu hay tin đạo: trông vẻ mắt cụ nhìn Đông thấy rõ là cụ đã tin mình lắm. Nhưng sao bác người nhà đứng kia lâu thế? Đông đăm đăm nhìn vào gáy bác Huệ và thầm ra lệnh:
- Đi đi! Đi đi!
Chàng có nghiên cứu về thuật thôi miên và đã có lần làm một đứa trẻ con ngủ thiếp đi. Nhưng còn nhìn vào gáy một người và bắt người ấy đi thì chàng không dám tin là công hiệu. Bác người nhà vì thế vẫn đứng yên và Đông lại phải kéo dài câu chuyện về đạo Tin lành.
Sau cùng cụ Án bảo bác Huệ:
- Bác ra dỡ nốt chỗ khoai để chốc nữa luộc một mẻ. Cậu Ấm mợ Ấm đi về chắc là đói bụng.
Đông nhẹ hẳn người. Chàng kéo dài thêm câu chuyện về đạo một lát cho cụ Án khỏi nghi rồi chuyển sang việc để dành tiền.
- Thưa bác cháu dậy học cũng không kiếm được bao nhiêu, lại cần đi nơi này nơi khác, tốn kém quá. Nhưng không đi không được, đức Chúa Trời không cho. Cũng may ông chủ nhất công ty Công Ích để dành tiền lại là một người theo đạo Tin lành, ông ấy cho cháu giữ độc quyền cả một tỉnh này. Nhờ thế cháu được ít hoa hồng, đủ chi dùng trong lúc vì Chúa Trời phải đi đây đi đó.
Rồi chàng vừa đặt tay lên cái cặp da vừa giảng giải về cách thức để dành tiền, về lợi ích của nó và thấy cụ Án chú ý nghe. Chàng rút các giấy má của hãng Công Ích ra đưa cụ Án xem:
- Thưa bác, đây là giấy để dành tiền của cụ Hường làng Trò. Cụ muốn có cái vốn chắc chắn cho cậu con út; đưa cho cậu con thì sợ cậu tiêu mất, để dành vào công ty thì tháng tháng có lãi mà nếu mở số trúng thì vốn tăng gấp đôi gấp ba ngay.
Đông mở tờ nhật trình cũ:
- Tháng vừa rồi, báo có đăng ông Tổng Nghi Xương trúng số một trăm.
Cụ Án hỏi đột ngột:
- Báo có đăng cơ à? Trúng một trăm cơ à?
Đông nhìn cụ Án ngẫm nghĩ không biết cụ Án hỏi thế thì việc đáng tin hay là cụ sợ trúng số nếu đăng trên báo, ai cũng biết cụ có tiền để dành. Chàng nói:
- Đăng trên báo là tuỳ ý riêng người ấy có bằng lòng không, còn hãng thì cần phải đăng báo để tỏ ra mình không có gì khuất tất. Mỗi lẫn xổ số có đủ hết các quan tây, quan ta ở tỉnh chứng kiến. Cụ Sứ Ê-đà...
Cụ Án nhắc lại:
- Cụ Sứ Ê-đà à? Cụ ấy có về chơi đây một lần hồi còn mồ ma ông nhà tôi. Cụ ấy bắt tay tôi làm tôi ngượng quá. Cụ ấy ăn được cả mắm tép nữa.
Rồi cụ Án nói mãi về ông Sứ Ê-đà và quên cả câu chuyện để dành tiền. Đông phải đưa câu chuyện quay về việc cũ.
- Cụ Ê-đà, thưa bác, bây giờ đứng đỡ đầu cho hãng Công Ích. Đây bác xem.
Đông vừa nói vừa chỉ vào chữ tên Edouard viết ở góc giấy. Cụ Án không biết đọc chữ nhưng cũng nhìn chăm chú vào mấy chữ dưới ngón tay Đông.
- À, cụ Sứ Ê-đà đấy à? Cụ còn sống.
Cụ Án vừa nói vừa lặng yên đập một con ruồi ở vành khay mà con cò định mổ tranh.
Đông đáp:
- Vâng, cụ ấy năm nay bẩy mươi sáu. Trông cụ cũng còn hồng hào khỏe mạnh lắm. Cụ ấy ngày nào cũng uống rượu và thỉnh thoảng lại bắt cháu hầu rượu.
Đông và cụ Án cùng ngửng đầu lên một lượt. Hải chạy vào mặt hầm hầm tức giận:
- Thưa đẻ, thế nào mà cổng ngõ lại mở tung cả ra thế kia?
Đối với tất cả mọi người trong ấp việc quên đóng cổng là một tội to lắm.
Cụ Án nói:
- Cái bác Huệ thế thì thôi.
Rồi cụ cất tiếng gọi bác Huệ lên. Hải lúc đó mới để ý đến Đông và gật đầu chào nhưng chàng không cất tiếng vì không biết Đông là ai và không hiểu vì lẽ gì tự nhiên lại ngồi nói chuyện với cụ Án. Đông vội thu các giấy má đút vào cặp nhưng Hải cũng đã nhìn được hai chữ Công Ích ở góc giấy.
Bác Huệ lên chắp tay đứng đợi:
- Bẩm cụ Lớn gọi con.
Thấy nét mặt đầy tức giận của Hải, Đông yên trí thế nào khi bác Huệ lên Hải cũng mắng cho một trận, nhưng chàng ngạc nhiên thấy Hải cứ đứng yên, còn cụ Án chỉ nói rất ngọt ngào với bác Huệ:
- Bận sau đừng có thế nữa.
Bác Huệ cúi đầu miệng lẩm bẩm "dạ, dạ", bác chịu nhận lỗi nhưng bác không biết là lỗi gì và cả Hải cả cụ Án cũng không ai nghĩ đến chỗ chưa bảo cho Huệ biết.
Đông thấy cụ Án "mắng" thế xong, thì cả cụ và Hải đều hết tức giận. Cụ Án nói với Hải:
- Này Ấm ạ, để dành tiền hay đáo để, chỉ tiếc là nhà không có tiền để để dành.
Đông không thấy cụ Án giới thiệu mình với Hải là con ông Trợ Tiên Yên. Cụ nói thế vô tình bảo cho Hải biết chàng đến để cổ động bán phiếu. Chàng cho thế là may, vì nếu Hải hỏi lâu về ông Trợ thì sự nói dối của chàng sẽ lộ.
Đông lấy làm mừng là đã nói kịp với cụ Án những điều cần nói. Chàng biết chắc là cụ Án có tiền để dành đúng như lời bà Ký Ân đoán. Cụ lại có tính hà tiện: cá kho dứa ngon hơn yến, nước trà thiu và những quả chuối để đã đen nát đủ chứng tỏ điều đó và như thế tất cụ tham lợi. Bác Huệ mới quên đóng cổng có một lúc mà cả nhà đã xôn xao, vậy chắc cụ lúc nào cũng lo sợ kẻ cướp. Cụ lại sợ đăng tên lên báo, như thế là cụ tỏ ý muốn để dành tiền để mong trúng số. Còn tin thì chắc là cụ tin rồi, tin vì có cụ Sứ Ê-đà.
Đông định đứng lên cáo thoái thì vừa lúc đó mợ Ấm ở nhà trên đi xuống. Nàng không để ý đến Đông, cười bảo chồng:
- Cái súng hãy còn nguyên, cậu ạ.
Đông nhìn mợ Ấm và thấy nàng đẹp không kém gì Mùi; nàng đẹp một cách phúc hậu. Mới trông thoáng và chỉ nghe mợ Ấm nói một câu thôi, chàng cũng đã biết chắc là mợ Ấm ngây thơ như trẻ con, hay ngây ngô thì đúng hơn. Lúc mợ Ấm cười, mợ không há miệng, chỉ cười ở trong mũi, nghe như tiếng gù của chim bồ câu và Đông thấy tiếng cười ấy hơi giống như tiếng rên của những người đàn bà chàng được ôm trong tay. Đông lại không định bụng đi ngay nữa. Chàng nhấc chén chè và uống hết chỗ nước chè thiu một cách khoan khoái. Chàng nói với Hải, mắt vẫn không nhìn mợ Ấm:
- Nghe nói ông bắn giỏi lắm?
Hải chưa kịp trả lời, Đông đã nghe thấy Duyên cười và cũng cười như lúc nãy. Hải đáp:
- Ở nhà quê không có việc gì thì đi săn lảm nhảm cho vui.
Mợ Ấm nói:
- Nhà tôi hay đi bắn vịt trời.
Đông thấy mợ Ấm không để ý gì đến mình; mợ Ấm nhìn chàng, rõ ràng nói chuyện với chàng nhưng vẫn coi như là chàng không có đấy hay có đấy nhưng chỉ là một người quen đã lâu lắm không cần để ý. Vì thế mợ Ấm cũng không chào hỏi gì Đông, và Đông cũng nghĩ không cần đứng lên chào. Đông nói với mợ Ấm:
- Thịt vịt trời ngon lắm, nhưng phải biết cách làm... ngon nhất là vịt trời nấu sốt cay.
Duyên ngắt lời hỏi:
- Nấu vịt trời có cần cho sả không, ông?
- Thưa bà không. Cần phải cho rượu vang hay rượu trắng. Thế thường bà nấu vịt trời với gì?
Mợ Ấm đáp:
- Thường thường ấy à? Thường thường thì tôi chỉ nấu vịt nhà.
Nàng lại cười và đưa mắt nhìn chồng. Đông thầm nghĩ mợ Ấm có vẻ hóm hỉnh chứ không ngây ngô như lúc nãy chàng tưởng. Chàng nhìn Hải và nói:
- Để hôm nào tôi đi Hà Nội tôi cũng lấy cây súng của tôi về đây cùng ông đi bắn vịt trời cho vui. Bắn vịt trời thì vui lắm nhưng phải cái lội bùn khổ. Có lần tôi đi bắn suýt bị sa lầy, phải gọi người đến kéo lên.
Chàng vừa nói vừa cười. Chàng không có súng nhưng có thể mượn súng của bạn. Bắn vịt trời ở vùng nhà quê này thì chẳng sợ ai khám. Có cùng đi bắn với Hải thì mới có dịp gặp vợ Hải luôn được. Bà Ký Ân nói mợ Ấm cũng có của riêng; nếu không có cách gì năng đi lại luôn thì không tài nào gặp riêng được một người đàn bà trẻ đẹp mà lại sống cấm cung như nàng.
Mợ Ấm thấy Đông nói đến sa lầy, sợ hãi bảo chồng:
- Thôi, cậu đừng đi bắn vịt trời nữa, sa lầy chết.
Hải cũng sợ hãi vì thấy Đông nói định đi bắn vịt với mình; vì thế chàng nói với vợ:
- Phải đấy, tôi không nghĩ đến sa lầy.
Cụ Án cũng chợt nghĩ đến chỗ mấy đứa con trước đều chết về tai nạn:
- Thôi Ấm cũng đừng đi săn nữa. Để đạn giữ trộm cướp còn hơn.
Đông thấy mình nói hớ một tí mà mưu mô thành hỏng cả. Chàng không bực mình vì câu nói làm mất dịp đi lại gặp mợ Ấm; thực ra nghĩ lại chàng thấy sự làm thân với Hải một người đàn ông là con và chồng hai người đàn bà có tiền, là một sự rất nguy cho công việc bán phiếu. Chàng sẽ tìm cách khác để có được cả người đàn bà, cả tiền. Chàng bực mình chỉ vì chàng đã cố tránh nói hớ mà vẫn không tránh khỏi. Trong nghề chàng một câu nói hớ có thể làm mất hàng chục bạc là thường. Chàng vác cặp đứng lên và từ lúc Hải về cho đến lúc đó, chàng mới lại nói với cụ Án:
- Thôi bác cho cháu xin phép. Hôm nào thong thả cháu lại xin đến hầu bác và ăn chuối, ăn cá kho.
Cụ Án hỏi:
- Ông giáo ở đâu?
- Thưa bác cháu ở ngoài Xóm Cầu Mới.
Đông nhớ lại mình đã nói chuyện với cụ Án là có hai nhà, một nhà ở phố Phủ và một nhà ở Xóm Cầu Mới; trước kia cụ không để ý đến chỗ ở của mình mà bây giờ cụ lại để ý. Đông biết chắc là cụ sẽ mua phiếu.
Chàng cúi xuống búng một con ruồi ở mép khay, vất xuống và hắt tay để bắt một con ruồi đang bay. Ruồi đang bay ít khi bắt được thế mà lần này may quá, chàng hắt có một cái đã bắt ngay được nó. Chàng cười đưa cho cụ Án xem con ruồi nằm trong kẽ tay rồi lại thả cho nó bay đi. Cụ Án nhìn rồi cất tiếng cười như trẻ con bảo con trai và con dâu:
- Ông ấy giỏi hơn cò ruồi nhiều.
Đông cũng cười sung sướng, chàng sung sướng vì cái may bắt được ruồi là cái triệu chứng báo trước sẽ lấy được tiền của cụ Án. Hai vợ chồng Hải thì không cười gì cả: thấy ông bán phiếu để dành tiền lại dám gọi mẹ mình là bác, tự xưng là cháu, đòi đến ăn chuối ăn cá kho và bắt ruồi nghịch với mẹ mình, cả hai người đều ngơ ngác nhìn Đông như nhìn một con vật lạ. Đông thì tưởng họ ngơ ngác vì phục cái tài bắt ruồi bay của mình.
NHỮNG NGÀY DIỄM ẢO
I.
- Em có thấy lạnh không?
Hiệp vừa hỏi vừa cho ngựa tiến sát bên xe, cái mình với chiếc khăn len, âu yếm quàng lên vai Diên. Diên mỉm cười thu hai tay áp vào ngực, rùng mình một cách nũng nịu:
- Nghe anh hỏi, em mới thấy lạnh. Tiện tay anh buộc khăn cẩn thận lại cho em, kẻo gió bay.
Rồi nàng nghiêng mình về phía Hiệp, ngửa cổ lên cho Hiệp buộc hộ nút khăn. Hai con mắt nàng dưới ánh nắng thu trông lấp lánh sau hai hàng mi đen và dài. Hiệp toan nói:
- Mắt em lúc này đẹp lạ!
Nhưng chàng giữ lại, vì thấy Sơn, người cháu của chàng đã ở phía bên kia đường cầm dây cương bước lên xe. Hiệp buộc vội nút khăn, ngửng hỏi Sơn:
- Cháu cho đi thong thả, kẻo đường xóc, sợ thím mệt.
Chàng giật mạnh dây cương: con ngựa trắng của chàng nhảy chồm hai chân trước ưỡn cổ, hí lên một tiếng dài.
Thấy Diên nhìn một cách tò mò, Hiệp hỏi: 
- Nhà có biết cưỡi ngựa không?
Diên lắc đầu, Hiệp tiếp theo:
- Rồi mợ sẽ tập cưỡi. Cũng không khó gì!
Tuy Hiệp thích cưỡi ngựa, nhưng chàng vẫn lấy làm khó chịu vì không có ô-tô ra đón. Chàng hỏi Sơn:
- Tài xế vẫn ốm? Ốm gì mà lâu dữ thế? Cháu đã bảo rửa xe cẩn thận rồi đấy chứ?
Sơn thấy nói đến ô-tô, nét mặt hoạt động hẳn lên, hình như ở đời chỉ có chuyện ô-tô là đáng cho cậu để ý.
- Thưa chú, cháu phải xoay trần rửa mất một ngày mới hết bùn đấy. Cháu toan lái ra đón chú thím, nhưng sợ chưa vững tay, cho ô-tô xuống ruộng. Cái xe êm lạ, đi đường này êm như trên sân đất. Chủ đổi xe cũ phải các bao nhiêu?
Diên hỏi Hiệp:
- Có phải cái xe tôi đi hôm nọ không?
- Không, đấy là xe cũ. Đây là xe mới để thỉnh thoảng đưa nhà về Hà Nội cho tiện.
Diên mỉm cười sung sưóng. Câu chuyện không được tự nhiên của hai người nói trước mặt đứa cháu đã cho Diên cảm tưởng êm ái được là vợ Hiệp một cách chính thức. Tuy không một phút nào nghi ngờ cái tình của Hiệp đối với mình, nhưng vì thói quen, Diên vẫn phập phồng lo sợ: biết bao nhiêu người đã yêu nàng, và nàng đã yêu mà bây giờ đâu? Nàng cũng biết rằng hiện giờ nàng yêu Hiệp một cách thành thực, nhưng nàng vẫn sợ lòng nàng hay thay đổi.
Mới đây lúc nhận làm vợ Hiệp, nàng đã quyết định xóa bỏ cả quãng đời đã qua và lập nên một đời mới. Nhưng chưa chi nàng đã thất vọng vì Hiệp không muốn ngỏ cho cha biết: đám cưới của hai người chỉ có một bữa tiệc mời mươi anh em bạn thân đến chứng kiến. Thế rồi Hiệp đưa nàng về đồn điền nói là để yêu nhau trong một cảnh thần tiên. Nhưng nàng thì nàng cho là đi trốn.
Vì vậy nên những tiếng nhà, tiếng mợ kiểu cách của Hiệp, tiếng kêu nàng là thím đối với đứa cháu đã làm cho nàng vững tâm và tin rằng hôm nay nàng là một cô dâu mới về quê hương nhà chồng, quê hương của nàng từ nay.
Một chiếc lá rơi vụt qua mặt Diên, Diên ngửng lên, nói:
- Rặng cây cao nhỉ.
Hai bên đường, những cây gạo lên thẳng tắp; thân cây to lớn vẫn đứng im trong khi các lá tới tấp rung động, tiếng lá rào rào lẫn với tiếng một đàn chim sáo đen, Diên tẩn mẩn đưa mắt ngắm những chiếc lá rời cành rơi mãi mói xuống tới đất.
Hiệp quay lại nói:
- Mợ làm như cả đời không được thấy cây gạo.
Diên âu yếm nhìn chồng:
- Hôm nay em trông cảnh gì cũng thấy đẹp... Nhà cho em mượn cái mũ đội cho khỏi chói mắt.
Hiệp quay lại vứt mũ vào lòng vợ. Diên giơ tay đỡ lấy, đội nghiêng trên đầu. Hiệp nhìn vợ, nói:
- Nhưng không cảnh nào đẹp bằng em lúc này.
Chàng vội để tay lên miệng, trợn mắt nhìn người cháu. Sơn tinh ý, sợ chú ngượng, nên vờ nhìn con ngựa, miệng suỵt suỵt và giật mạnh dây cương để thúc ngựa đi mau hơn. Hiệp vội chữa:
- Chúng mình trẻ con lạ.
Rồi chàng cho ngựa chạy nước kiệu, vượt lên.
Dưới chân ngựa một làn bụi gió thổi tạt ngang bay là là trên ruộng ngô non.
Diên ngồi duỗi thẳng hai tay và giao hai chân lại với nhau, yên lặng để thấy rõ nắng thấm qua mấy lần áo vào làm cho nàng ấm áp trong da thịt. Nàng thấy người dễ chịu, nhẹ nhõm; nàng âu yếm nhìn những đầu ngón tay tròn trắng và những cái móng tay nhuộm hồng bóng loáng in trên nền áo lụa xanh nhạt. Cái gì cũng sáng sủa, sạch sẽ. Lòng nàng lúc đó sung sướng, rạng rỡ như chan hòa ánh sáng thu trong.
Xe ngựa ra khỏi rặng cây, đi ngang qua mấy cái nhà tranh tồi tàn, lụp sụp bên vệ đường. Diên tự nghĩ:
- Ta sẽ khổ sở đến đâu nếu phải sống cái đời khốn nạn trong những gian nhà khốn nạn kia.
Thoáng một lúc nàng nhớ lại cái cảnh trụy lạc, nghèo khổ của nhà nàng năm năm trước đây.
Tiếng gọi của Hiệp làm Diên thôi nghĩ, nhìn Hiệp. Hiệp nói:
- Khỏi cái đồi này là đồn điền.
Diên vui mừng:
- Ồ! Thế ra sắp đến nhà rồi!
Hiệp nói:
- Cũng còn ba cây số nữa.
- Đồn điền rộng nhĩ?
- Rộng. Nhưng mà nhiều rừng ít ruộng. Đồn điền ở dưới Thanh Miện mái tốt. Thầy hiện ở đó với bác cả.
Diên hỏi:
- Đồn điền này bao nhiêu mẫu?
Hiệp nói như người đọc thuộc lòng:
- Ba trăm bốn hai mẫu, sáu sào, hai mươi lăm thước.
- Sao cậu nhớ kỹ thế?
Hiệp nói:
- Mợ cũng phải học thuộc lấy.
- Để làm gì?
Hiệp đáp:
- Đất cát của mợ mà mợ còn hỏi nhớ để làm gì?
Diên cười và nói khôi hài để che cảm động:
- Họa chăng em chỉ nhớ được mấy chữ hai mươi lăm thước, vì đúng với tuổi em hai mươi lăm.
Nàng ngước mắt nhìn Hiệp, nhắc lại:
- Hai mươi lăm... Em già rồi phải không?
Hiệp nói:
- Mợ khéo ỡm ờ lắm!
Son cũng nói chen vào:
- Thế mà cháu trông thím tưởng thím chỉ độ hơn hai mươi.
Diên cười:
- Hơn hai mươi thì khác gì hai mươi lăm.
Nhưng câu nói ngớ ngẩn của người cháu đã làm cho nàng vui sướng vì nàng biết chắc chắn rằng nét mặt nàng còn trẻ.
Xe ngựa vừa lên tới đỉnh một cái dốc. Trên cao gió thổi mạnh hơn. Diên một tay giữ mũ cho khỏi bay, một tay vén mấy mọn tóc tỏa xuống mặt, nhìn về phía tay Hiệp chỉ. Hiệp nói:
- Kia là nhà của chúng ta.
Bên một dải nước trắng lấp lánh ánh sáng, mấy nóc nhà gạch đỏ tươi ẩn hiện sau những chòm cây long não màu xanh vàng. Hiệp ngồi thẳng người lên, tấn hai chân xuống bàn đạp, đưa mắt nhìn bao quát đồn điền một lượt rồi quay lại ngắm vợ. Chàng cho rằng đất ấy và người ấy thuộc về chàng là một sự dĩ nhiên. Chàng không hề tự hỏi tại sao thế và hồn nhiên để hưởng cái thú được là chủ tất cả những thứ đó. Diên nói:
- Bây giờ nghĩ đến Hà Nội thật là xa lơ xa lắc.
Hiền đáp:
- Nghĩ đến làm gì nữa. Suốt đời em sẽ sống ở đây... với anh.
Chàng giơ tay chỉ vòng tròn những đồi ruộng, thôn xóm rải rác trước mặt bảo vợ:
- Tất cả những cái này từ giờ là thuộc về của em.
Chàng nghĩ bụng:
- Còn em thì từ nay thuộc về riêng anh.
Nhưng chàng không nói ra, chỉ mỉm cười và đắm đuối nhìn Diên.
Diên vờ không biết là Hiệp nhìn mình; nàng đưa tay vuốt tóc mai, hai mắt luôn luôn chớp và đôi môi thắm hé mở có vẻ một người đương lặng lẽ ngẫm nghĩ đến một sự sung sướng âm thầm.
II.
Xe ngựa rời đường cái đi rẽ vào một con đường dốc đất đỏ, hai bên trồng toàn long não. Sau những chùm lá rung động, thấp thoáng bức tường trắng bao bọc quanh nhà. Sơn vui vẻ luôn tay bóp còi xe ngựa, báo hiệu cho người nhà biết. Nghe tiếng mở cổng, Sơn ghì cương ngựa lại. Hiệp xuống ngựa chạy lại đỡ Diên. Nàng vin vào tay chồng lẹ làng nhảy xuống đất, rồi mỉm cười cầm mũ đội lên đầu chồng. Nàng ngửng mặt nhìn ngang nhìn ngửa, hai con mắt nàng to, lộ vẻ sung sướng, ngây thơ như mắt trẻ con.
Con đường dưới bọng cây như thêu hoa mà bóng ba người đi đến đâu làm mất đến đấy. Hiệp mê man không để ý đến mấy người nhà quê nép mình bên vệ đường, ngả non chào. Thấy hai đứa cháu ở trong nhà chạy ra reo: “Chú Tham đã về” rồi đứng lại ngơ ngác nhìn Diên, Hiệp nói:
- Thủy và Trúc không chào thím đi.
Diên không ngờ lại có một cô dâu về nhà chồng một cách tự nhiên như nàng. Nàng thấy ngay vẻ thân mật, và tưởng mình là chủ nhà này đã từ lâu lắm. Đời đối với nàng trong phút đó giản dị một cách lạ thường. Nàng cúi xuống hôn mỗi đứa cháu một cái, rồi dắt tay chúng nhẹ nhàng bước theo chồng.
Qua khỏi cổng, nàng có cái cảm tưởng rằng trời bỗng nắng to hơn; ánh sáng phản chiếu ở một cái sân gạch rộng thênh thang khiến nàng phải nhíu mắt lại cho khỏi chói. Mấy con chim bồ câu đương ăn, thấy tiếng động vụt bay lên làm tỏa ra trên nong thóc một đám bụi đục lờ, gió thổi tan ngay.
Hiệp đứng lại ngắm nghía cái ô-tô màu xanh để ở dưới gốc cây hoàng lan. Ánh sáng chiếu vào làm nẩy những ngôi sao sáng trên nền sơn và trên những gọng kền bóng loáng, Sơn nhìn chú và sung sướng khi thấy chú ngắm mãi cái ô-tô tỏ vẻ bằng lòng.
Diên vẫn dắt theo hai đứa cháu, bước lên thềm nhà. Nàng vào cái buồng khách cực kỳ sang trọng một cách thản nhiên, vì nàng đã quen sống trong những cảnh đó. Từ ngày cha mẹ nàng mất đi, mấy năm trời sống trơ trọi, nàng không hề biết qua cảnh nghèo, vì một người đẹp như nàng không thể nào nghèo được, nhưng lúc nào nàng cũng phập phồng lo ngại. Mấy năm trời, vì luôn luôn sợ cái nghèo khổ nó đến, nên nàng đã nhắm mắt đắm mình trong một cuộc đời hoan lạc tạm bợ, để khuây những nỗi ghê sợ về mai sau. Nhưng hôm nay, lần đầu tiên nàng thấy vững tâm, lần đầu tiên nàng không sợ tương lai.
Diên đặt mình xuống cái ghế bành phủ nhung màu tro, với điếu thuốc lá, đánh diêm châm hút. Nàng vòng một tay ra phía sau rồi ngả đầu vào lưng ghế, quay mặt nhìn ra ngoài sân. Trên thềm ánh nắng xiên chếch: bóng cây và bóng những nan dại dàn nho in rõ ràng ; trên nền gạch. Khói thuốc lá bay trong bóng tối thanh khiết có vẻ thanh hơn, nhẹ nhàng hơn, mềm mại lượn vòng ra cửa, rồi lẫn vào ánh nắng. Xa xa có tiếng gáy trong rừng.
Diên lim dim mắt lại thở dài một cái rất nhẹ, bỗng nàng giật mình ngước mắt nhìn lên. Hiệp đứng sát vào lưng tựa ghế, cúi mặt mỉm cười, và khẽ đặt tay vào lòng bàn tay vợ. Chàng nhìn quanh một lượt, rồi nói:
- Mọi lần, khi có công việc phải về đầy trông cảnh buồn tẻ, lạnh lẽo hết sức.
Nói đến hai chữ lạnh lẽo, chàng nghĩ ngay đến cái hơi nóng của hai bàn tay áp vào nhau:
- Mọi lần, chỗ này dùng để chứa thóc. Bộ đồ này, anh mới mua về được mươi hôm. Cứ đặt bừa vào đây, hôm nào thư thả em bày biện lại, tùy ý em muốn...
Hiệp nắm tay Diên kéo dậy:
- Bây giờ lên xem buồng ngủ của chúng ta.
Lúc lên thang gác, sau khi quay lại nhìn không thấy ai theo sau, Hiệp giơ tay quàng vai vợ và đặt một cái hôn nhẹ lên má. Tuy đã biết quãng đời quá khứ của Diên, chàng vẫn coi Diên như một cô gái trong sạch, trong sạch riêng đối với chàng: chàng hôn Diên như hôn một người vợ mới cưới, vừa kính vừa yêu. Chàng sung sướng tự nhủ:
- Nếu cái tình của ta đối với Diên cứ được như thế này mãi.
Khi nhận lấy Diên làm vợ, chàng biết rằng cái tình yêu có thể làm chàng quên được hết cả những điều tiếng xấu về Diên, chàng chỉ coi Diên như một người yêu chàng và chàng cũng hết tâm hồn yêu lại.
Có lẽ vì tại có tư tưởng ấy, nên những cử chỉ của Hiệp có vẻ nhút nhát, khiến Diên cũng phải lấy làm lạ. Nàng không ngờ một người có tiếng là chơi bời đứng riêng với nàng trong một căn buồng ngủ lại bẽn lẽn như vậy. Nàng cũng ngượng nghịu và nắm lấy tay Hiệp một cách vụng về. Bỗng nàng hiểu. Nàng bỗng thấy rõ những ý nghĩ của Hiệp về nàng lúc đó. Nàng cảm động yên lặng nhìn chồng bằng hai con mắt mở to, đã bắt đầu ướt lệ. Nàng thở dài ngẫm nghĩ: “Có thể như thế được mãi không?”
Hiệp ngạc nhiên nói:
- Em khóc đấy à, em Diên?
Diên chớp mắt thật nhanh rồi lắc đầu:
- Không, không sao, em khóc vui đấy, đùa anh một tí thôi.
Hiệp mỉm cười vuốt má vợ:
- Nhưng đừng khóc quá lại hóa khóc thật đấy.
Chàng ngây người nhìn vào cái gương tủ đứng, bóng Diên in vào tấm gương với hai con mắt đen và đôi má hồng tươi, chàng trông như cái hình ảnh hoạt động của hạnh phúc chàng:
- Nhìn bóng em trong gương anh tưởng tượng như nhìn thấy em lần đầu tiên.
Diên mỉm cười lẳng lơ ngắm bóng mình. Nàng giơ tay sửa lại mái tóc: mấy ngón tay mềm mại lùa vào trong tóc đen đã trắng lại trắng hơn. Trên cổ tay tròn trĩnh, chiếc vòng bạch ngọc Hiệp vừa mua tặng nàng hôm trước, nàng thấy trong và mát như nước mưa. Nghe tiếng động dưới vườn, Hiệp chạy ra sân gác. Diên cũng ra theo. Xã Mịch, một người đầy tớ của Hiệp đương phát giậu găng, thấy Hiệp vội đặt dao và chắp tay vái:
- Bẩm quan.
Xã Mịch nhìn Diên và cúi đầu:
- Bẩm bà lớn.
III.
Quả Diên đoán không sai, ông giáo Thái chính là người nàng quen; tuy vậy lúc ông giáo đứng dậy cúi đầu chào, nàng cũng cúi đầu chào lại một cách rất nghiêm trang, như đối với người chưa quen biết bao giờ. Hiệp giới thiệu vợ mình với Thái bằng tiếng Pháp. Thái cúi đầu một lần nữa. Trước cái vẻ đẹp lộng lẫy tươi thắm của Diên, chàng bối rối và thấy quả tim đập mạnh.
Diên hơi khó chịu vì Thái là người có biết nàng và có lẽ cũng không lạ gì quãng đời quá khứ của nàng; nhưng cái khó chịu ấy chỉ thoảng qua nhường chỗ cho cái cảm giác thú vị rằng sắc đẹp của mình đã làm một người luống cuống, và từ nay trở đi, cái tình của mình với Hiệp ở chốn quê hẻo lánh này có được một người thứ ba chứng kiến.
Diên tinh nghịch liếc mắt nhìn hai cô gái nhà quê xinh xắn đứng nép sau một cái cột, vừa ngắm Diên từ đầu đến chân vừa thì thầm bàn tán. Diên chỉ nghe lõm bõm một vài tiếng nhưng nàng cũng đoán ra được lời nói của hai cô gái quê:
- Người đâu mà đẹp như hoa.
Mấy người đàn bà chăm chú nhìn đôi dép quai và những móng chân nhuộm đỏ của nàng, có lẽ cho là một cảnh lạ từ thuở bé chưa được thấy.
Hiệp nhìn những người nhà quê rồi ngắm và có cái cảm tưởng rằng Diên không phải người cùng giống với họ; Diên thuộc về một nhân loại cao quý, trên nhữngngười kia xa lắm.
Diên thấy ai cũng nhìn nàng và cho nàng đẹp, nên vừa nói vừa cười để lộ hai hàm răng trắng nhỏ và đều. Nàng nũng nịu đứng sát vào Hiệp, ngước mắt nhìn Hiệp và hỏi chuyện vẩn vơ. Nàng thấy tiếng nàng trong trẻo, đài các. Tuy hai cô gái xinh xắn đã thôi không nói chuyện, chỉ đứng yên dương mắt nhìn nàng và Hiệp, nhưng bên tai nàng như văng vẳng câu:
- Rõ thật là tốt đôi quá, sung sướng như tiên.
Thái từ lúc nãy vẫn cúi đầu giở sổ, vờ tìm tòi để khỏi ngượng. Diên hỏi, lấy giọng thân mật:
- Bác giáo đã xong công việc chưa? Mời bác sang xơi chén nước.
Thái mỉm cười cảm ơn. Hiệp giục:
- Thì bác cử để đấy. Cho họ đợi.
Một người đàn bà nhà quê có vẻ sợ hãi tiến lại gần Thái nói van lơn:
- Bẩm ông thương cho.
Thái xua tay:
- Thương gì? Hãy trả nốt chỗ cũ đi đã.
Thái gập sổ lại. Người đàn bà mếu máo:
- Ông không thương thì cả nhà năm mẹ con nhịn đói. Từ sáng ngày chưa có hột cơm trong bụng. Xin ông nghĩ lại.
Thái mỉm cười:
- A thế ra chị đi vay về để ăn. Đẻ vừa vừa chứ!
Hiệp và Diên lấy làm khó chịu, đi lảng ra ngoài. Thái cũng ra theo. Hiệp vừa đi vừa bứt những lá ở giậu dâm bụt, có vẻ nghĩ ngợi. Chàng bỗng lẳc đầu mấy cái khẽ rồi đứng lại rút thuốc lá mời Thái và lấy một điếu hút. Chàng nhìn bóng những cành hoàng lan lướt thướt đưa qua lại trên bức tường trắng, thở dài một cái và thấy mình nhẹ nhõm như người vừa xua đuổi được một ý nghĩ nặng nề.
Thái đi lùi lại và vô tình ngắm Diên bước một cách chậm rãi trước mặt, Thái ít khi về Hà Nội nên hình dáng người thiếu nữ tân thời và mùi nước hơa thơm bay trong gió đem lại cho chàng cái hương vị thanh thú của chốn phồn hoa bấy lâu xa cách. Chàng thờ thẫn ngắm mái tóc đen quấn lỏng rơi lệch xuống một bên cổ, những nét tà áo rung chuyển trước gió nhịp nhàng rủ xuống chiếc quần lụa bạch mỏng, nhẹ và gót chân xinh xắn mỗi lần ấn lên; trên đế giầy lại ửng hồng như thẹn. Diên không quay lại, nhưng có cái cảm giác rằng Thái đương nhìn mình. Đột ngột nàng nói:
- Quái lạ, trông ông giáo quen quen như đã có gặp ở đâu một lần mà không nhớ ra.
Thái đáp:
- Thưa bà, đã lâu lắm. Hồi mười năm về trước, khi cụ nhà còn làm Tri phủ ở Xuân Trường là quê chúng tôi.
Tuy hai năm trước đây, Thái vẫn luôn luôn gặp Diên, nhưng chàng vờ không biết để Diên khỏi ngượng.
Diên như cất được một gánh nặng, tươi cười mời Thái ngồi vào bàn nước:
- Bác uống nước trà với đường? Một viên hay hai?
Diên vừa hỏi vừa gắp đường bỏ vào chén của Thái. Nàng ân cần hỏi:
- Bác vừa đi đâu về?
- Tôi lên trên ấp Hạ trông coi họ vỡ mấy mẫu đồi để trồng cà phê.
Hiệp ngẫm nghĩ: “Vỡ mấy cái đồi mà đi vắng gần tuần lễ. Thôi chắc là lên trên ấp với cô nào đấy chứ gì?”
Thái vừa khuấy đường vừa thẫn thờ nói như người kể lể:
- Ở đây những khi nào buồn quá, tôi đánh ngựa rồi vác súng đi. Có khi đi vài ba ngày, gặp đâu thì ngủ đấy... Bây giờ có hai bác về ở đây thì còn gì vui bằng.
Chàng nhìn vào trong buồng khách rồi lại nhìn ra vườn.
- Vườn mùa thu trông tiều tụy quá. Bác thích cây gì để tôi về dưới tỉnh mua?
Diên mỉm cười cám ơn:
- Tôi thích nhất hồng, nhưng về mùa thu, hồng lại không có hoa.
Nàng quay lai phía chồng nói:
- Vườn mà không hoa thì tẻ ngắt.
Hai người nhìn nhau và cùng nghĩ đến cảnh trơ trọi của Thái.
Trong lòng tràn ngâp tình yêu, Hiệp và Diên không hiểu sao trước kia trong bao năm đã sống nổi những ngày lẻ loi và cùng bùi ngùi thương cho thân phận Thái, ý tưởng thương hại ấy đã làm cho Hiệp và Diên êm ả, ấm áp trong lòng vì đã nhắc Hiệp và Diên nghĩ đến cái sung sướng hiện thời của riêng hai người.
Hiệp duỗi thẳng hai chân và ngả đầu vào lưng ghế. Qua khung lá nho đen, chàng thấy lộ ra một khu vườn cảnh với con đường viền tóc tiên, trên rải đá cuội trắng toát. Trong ánh sáng thu, một sợi tơ trời nhẹ lướt qua.
Hiệp thốt ra một câu bằng tiếng Pháp:
- Đời đẹp lạ thường!
Diên ngửng mặt, cầm một viên đường đưa lên miệng, vô cớ mỉm cười, Thái nhìn Diên và thấy có một sức mạnh vô hình bắt chàng chăm chú vào đôi môi đương âu yếm ngậm lấy viên đường trắng. Thái nói tiếp câu của Hiệp.
- Có lẽ vì cảnh đẹp.
Ngoài sân những người nhà quê gánh thóc đi qua từng lũ, nói chuyện ồn ào. Ánh nắng thu trong càng làm rõ vẻ bẩn thỉu của những bộ quần áo rách rưới đã bạc màu, càng làm tăng vẻ khốn nạn của những bộ mặt tiều tụy, hốc hác vì nghèo đói.
IV.
Từ hôm về quê, Hiệp và Diên lần đầu tiên dậy trước khi mặt trời mọc. Lúc hai người xuống đến chuồng ngựa thì Thái đã đứng đó sai bảo người nhà đóng yên ngựa.
Diên rét run đứng sát vào chồng, hai tay bưng lấy má và miệng xuýt xoa. Thái cầm cương dắt một con ngựa trắng nói với Diên:
- Con ngựa này chạy khỏe và êm nhưng phải cái hơi dữ.
Chàng cười và nói tiếp:
- Nhưng bà chị tôi bây giờ đã cưỡi ngựa thạo rồi không sợ ngã như hôm nào.
Diên cũng cười theo:
- Tôi cưỡi ngựa lại có phần giỏi hơn cả nhà tôi đấy.
Nhìn vào bếp thấy có lửa đỏ, Diên hỏi:
- Quay gà đấy phải không?
- Không, đấy là đun nước. Đồ ăn và các thứ tôi đã buộc vào yên ngựa, đủ hết rồi. Hai bác cứ việc yên tâm đi.
Được biết Diên và Hiệp muốn vào rừng săn, Thái dậy từ ba giờ sáng để bảo người nhà sắp sửa. Chàng làm những công việc đó vì thích, chứ không phải vì bổn phận hay vì muốn chiều lòng Hiệp. Mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, chàng vẫn sống một đời hiu quạnh, thiếu thốn tình yêu thương dịu dàng. Từ hôm có Diên về đến nay, chàng thấy công việc của chàng làm có thú vị hơn, chàng thấy cần có một người để chàng chiều chuộng và hết lòng săn sóc đến. Diên đối với chàng không phải là người thiếu nữ tân thời, có vẻ đẹp lộng lẫy làm chàng ngây ngất nữa; hơn hai tháng trời sống gần nhau, cảm vì lòng tử tế của Diên, chàng bắt đầu coi Diên như một người bạn gái, như một ngươi chị mà chàng kính mến.
Dĩên khoan khoái và hơi lấy làm lạ rằng ai cũng tìm cách chiều mình, ai cũng kính trọng mình nữa. Nàng cầm lấy dây cương, giơ tay đập vào cổ con ngựa mấy cái, rồi lẹ làng nhảy thoắt lên mình ngựa.
Ngồi trên mình ngựa cảm thấy cái khỏe mạnh của mình, nàng đưa mắt nhìn ra chân trời điểm sao thưa và mơ màng nhớ lại những buổi sáng mùa đông lạnh lẽo ở Hà Nội, mỏi mệt trở về nhà sau một đêm mê man với những thứ nhục dục. Nàng như còn trông thấy rõ trước mặt cái cảnh những đầu phố vẳng với một, hai người phu xe đứng ủ rũ đợi khách chơi đêm.
Thấy Hiệp đã nhảy lên ngựa giục đi, nàng hỏi Thái:
- Bác không đi cho vui?
Thái đáp:
- Tôi bận lên coi đẵn gỗ trên rừng chàm.
Một lát sau chàng nói tiếp:
- May ra gặp hai bác cũng chưa biết chừng.
Chàng từ chối vì biết rằng Hiệp và Diên chỉ mượn cớ đi săn để vào rừng, chàng đi sẽ bất tiện cho hai người.
Hiệp và Diên qua khỏi một cái suối đến một khu rừng cây cao vút. Diên ngửng mặt lên hỏi:
- Rừng gì mà đẹp thế này? Lá cây to quá nhỉ!
Hiệp đáp:
- Rừng “teck”.
Diên cắm đầu thúc ngựa phóng nước đại, chân ngựa dẫm lên những đám lá khô nghe rào rào khiến Diên quay lại bảo Hiệp:
- Em tưởng như là ngựa dẫm lên những chiếc bánh đa nướng giòn.
Hiệp không đáp, mải ngắm ánh sáng trên cao rọi xuống lướt mau trên tấm áo hồng của Diên và trên mình con ngựa trắng, về phía xa, in lên nền cây xanh sẫm những chiếc lá nhỏ lăn tăn rơi xuống không ngớt như một trận mưa vàng.
Diên bỗng ghì cương ngựa đứng dừng lại đợi Hiệp tiến lên. Hiệp cho ngựa mình đứng sát cạnh ngựa Diên rồi giữ chắc lấy dây cương nghiêng mình giơ tay phải nhẹ ôm lấy Diên kéo về phía mình. Diên nghiêng nón, vừa giơ ra đôi má đỏ ửng, lẳng lơ đợi chồng hôn. Nàng mỉm cười nói:
- Mệt nhưng mà thú quá.
Hai ngươi cố ghìm cưong cho ngựa đứng yên kề má nhau, yên lặng nhìn xuống một cái thung lũng nhỏ. Bên một dòng suối, mấy nóc nhà tranh ẩn trong nương sắn trông êm đềm như một bức tranh vẽ cảnh đời xưa. Diên nói:
- Giá chung mình được ở trong cái nhà tranh kia mà yêu nhau suốt đời thì thú biết bao.
Hiệp cười nhạt, đáp:
- Mình vẫn hay có tính đứng núi này trông núi nọ. Đó là nhà ông khóa Điền trước kia giàu có nhưng bây giờ nghèo xơ nghèo xác.
- Ta vào chơi đấy đi... để hưởng cảnh nghèo trong ít lâu cho nó lạ.
Hiệp lắc đầu nói:
- Không thể nào chiều ý em được, vả lại anh đã thấy đói, chứng mình sang bên kia, có một chỗ thú lắm.
Hai người phải xuống dắt ngựa lần theo một con đường nhỏ. Đi được một quãng, bỗng Diên kêu lên một tiếng:
- Có lẽ em dẫm phải gai.
Hiệp vội vàng quỳ xuống cỏ, nhấc chân vợ lên và tháo quai dép ra xem.
- Không việc gì, em ạ. Chắc em dẫm phải hòn sỏi nhọn. Em đã hết đau chưa?
Diên nũng nịu:
- Hết đau rồi. Anh lồng giầy vào cho em.
Hiệp vẫn gìữ bàn chân Diên, lấy tay xoa nhẹ để phủi sạch những hồn sỏi nhỏ bám vào da.
- Một người có bàn chân xinh như em không thể nào vất vả nghèo khổ được.
Diên cười:
- Anh lại biết xem cả tướng chân nữa kia à?
Bỗng nàng ngừng bặt, chau mày nhìn chăm chú; trong cỏ có để một cái rổ rách đựng một bát cơm đầy nén chặt mấy quả cà héo đen, bữa ăn của người đàn bà đang bắt cua dưới ruộng. Thoáng trong một giây nàng nhớ đến những bữa cơm khoai nàng phải ăn cho khỏi chết đói, hồi cha mẹ nàng mới mất. Nàng ngẫm nghĩ từ bấy đến nay mình không nghèo nữa là chỉ nhờ ợ cái sắc đẹp, song cái sắc đẹp một ngày kia sẽ tàn. Nàng vội xua đuổi ngay cái ý tưởng ngờ vực mà lần đầu tiên, từ hôm về với Hiệp, nàng mới thấy vụt qua trong óc.
- Cái gì thế, mình?
Diên tươi cười đáp:
- Không. Anh xem tướng thế mà đúng đấy. Em không bao giờ phải khổ sở nếu...
Nàng xô chân vào giầy, ngửng lên và cầm tay chồng kéo dây:
- ... Nếu anh cứ mãi mãi yêu em như thế này.
Qua khỏi mấy khu ruộng, hai người lại lên ngựa. Đi được một quãng, Diên hỏi chồng:
- Sắp đến chưa? Em mệt quá rồi.
- Sắp đến nơi.
Trèo qua một cái đèo, hai người thả ngựa cho ăn cỏ, rồi tháo túi đựng các thức ăn. Diên ngả nón. sửa lại mái tóc và lắng tai nghe:
- Róc rách có tiếng suối chảy đâu đây mà nhìn không thấy.
Hiệp xách túi đồ ăn bảo Diên:
- Thôi ta ra suối mà rửa mặt rồi ăn cơm.
Đến nơi Hiệp chọn một chỗ có bóng cây bên bờ suối và trải trên cỏ một tấm vải trắng trong lúc Diên ra suối vốc nước rửa mặt.
- Nước lạnh buốt cả tay, mình ạ.
Hiệp nhìn ra nói đùa:
- Và trôi cả phấn.
Diên tháo giầy lội xuống suối. Nàng cúi nhìn nước gợn bọt và vẩn cát bên cổ chân, rồi đứng yên đợi cát lắng dần, bàn chân nàng lai lộ rõ ra dưới làn nước trở lại trong. Một con cào cào xòe cánh xanh đỏ bay bám vào áo Diên.
Nàng vồ lấy và bắt chước hồi còn nhỏ cầm hai càng con cào cào giơ lên và hát nghêu ngao:
Cào cào giã gạo cho nhanh,
Tao may quần đỏ áo xanh cho mày.
Nàng xắn cao hai ống quần, lội ra giữa dòng nước suối, quay lại hỏi Hiệp:
- Ở chỗ này hay có người qua lại không?
- Không có ai đâu, tha hồ. Để tôi nhắm mắt lại cho mình khỏi thẹn.
Bỗng có tiếng ngựa hí và tiếng sột soạt trong lá cây, Hiệp hỏi:
- Ai đấy?
Có tiếng hỏi lại:
- Ai đấy?
Diên luống cuốn kêu:
- Chết!... Ai như anh Thái.
Nàng vội quay trở lên bờ, nhưng không kịp. Thái đã đến nơi và dừng ngựa bên suối. Chàng cố giữ vẻ tự nhiên, nói với Diên:
- Chị đừng ra quá. Ở đây có cái vực sâu lắm.
Diên vẫn đứng yên dưới suối đáp lại:
- Chỗ nào ở vùng này, anh cũng thuộc cả?
- Nhất là chỗ này. Vì mùa hè tôi vẫn tắm ở đây luôn.
Diên đăm đăm nhìn Thái ngồi trên mình ngựa; không biết tại sao lúc đó, nàng thấy Thái giống một tình nhân cũ của nàng, một tình nhân đã vì quá yêu nàng mà tự tử ba năm trước đây, nay như đột ngột hiện ra với nàng giữa cảnh núi rừng hùng vĩ. Trong một lúc nàng quên cả Hiệp, nhìn Thái bằng hai con mắt thèm thuồng và thấy Thái ngồi vững trên lưng ngựa có một vẻ đẹp cứng cáp khỏe mạnh khác thường. Nàng lấy làm thẹn với ý nghĩ của mình, vội lấy giọng thân mật như chị nói với em, hỏi Thái:
- Anh coi đẵn gỗ chưa?
Thái đáp:
- Tôi vừa ở trên rừng chàm về. Toan vào đây nghĩ, lại gặp ngay được anh chị, tình cờ quá.
Thái đã nói dối: Chàng không lên rừng chàm coi đẵn gỗ bao giờ.
Sau khi Hiệp và Diên đi, thì chàng cũng cưỡi ngựa vào rừng. Chàng muốn gặp mặt hai người, nhưng lại sợ; từ sáng đi lang thang khắp các rừng, chàng thấy việc đi tìm Diên là một cái thú lạ, nhưng chàng không đám phân tích lòng mình để xem vì sao lại là một cái thú.
Diên bảo Thái:
- Anh ở đây ăn luôn thể. Có đủ ba người ăn.
Thái buộc ngựa và đến giúp Hiệp bầy các thức ăn lên tấm vải. Diên lại gần nói:
- Hai ngài làm giúp hộ, tôi mệt quá.
Rồi nàng đặt mình xuống bãi cỏ, nằm ngửa nhìn trời, hai tay quặt ra phía sau đặt dưới đầu làm gối. Nàng lim dim mắt, thở mạnh một cái, nói:
- Cỏ ngoài nắng thơm la.
Mấy cây cẩm lai cành lá xòe ra ngay trên chỗ Diên nằm, nhưng vì cao quá mà lá lại thưa, nên Diên tưởng như bóng cây không chiếu được tới đất. Lá nhỏ lăn tăn và xếp đều in lên nền trời trông tựa như một bức thêu hoa trên nền lụa xanh màu lam nhạt. Một con bướm trắng bay lăng quăng trong cành cây rồi bỗng như chiếc lá rụng là là rơi xuống chỗ Diên nằm.
Hiệp xếp xong gọi vợ:
- Xin mời nàng tiên dưới suối lại uống rượu vang.
Diên vừa cười vừa lại ngồi sát cạnh chồng. Nàng nhìn đồ ăn nuốt nước bọt và cầm cốc để lên môi:
- Mời hai ngài.
Vì mặt Diên vừa rửa xong không có phấn nên Thái thấy nàng lộ vẻ đẹp riêng khác mọi ngày thường - có cái hương vị mát mẻ của rau nguồn mới hái. Hiệp lấy làm khó chịu về dáng điệu lả lơi của Diên khi đưa cốc lên môi khiến chàng nghĩ đến rằng trước kia với những người khác, nàng đã có cái dáng điệu đó. Chàng không trách gì Diên cử chỉ của nàng rất tự nhiên, thẳng thắn, chàng khó chịu chỉ vì có Thái ngồi đó.
Suốt bữa cơm, Diên luôn luôn cười đùa: hơi rượu bốc lên làm nàng đỏ bừng má và quên cả giữ gìn trước mặt Thái. Hiệp ngồi yên không nói gì Diên tinh nghịch nhìn chồng:
- Hôm nay nhà ít lời nhỉ?
Hiệp đáp lại vắn tắt:
- Tôi uống rượu vào không hay nói lôi thôi.
Thái hiểu ý, ăn vội vàng cho xong rồi đứng dậy cáo từ:
- Xin lỗi hai anh chị, tôi phải về sớm, còn bận việc ở nhà.
Khi Thái đi rồi, sau một lúc yên lặng khó chịu, Diên nói:
- Tính nết mình lạ quá.
Hiệp đáp:
- Mình bây giờ trách cả tôi đấy à?
Câu trả lời có vẻ trịch thượng làm Diên tủi thân.
Nàng nén giận, dịu dàng nói:
- Mình không nên thế. Mình không nên để anh Thái anh ấy giận,
- Nhưng tôi có làm gì đâu. Anh ấy giận thì tôi cần gì.
- Không phải thế. Nhưng không nên làm mất lòng một người đã chịu ơn mình. Nên thương người ta thì mới phải.
Hiệp nhìn vợ nói thong thả:
- Thương, mình thì ai cũng thương.
Diên rơm rớm nước mắt, cười nhạt, nói:
- Ra mình nghi cả cái tình yêu của em. Sao mình nỡ nói những câu tàn ác như thế. Em đã muốn quên...
Hiệp biết mình đã nói quá lời:
- Anh trót lỡ lời, xin lỗi em. Em yêu anh, tin ở anh thì em đừng nghĩ xa gần, tranh lòng vì một câu nói lỡ...
Chàng âu yếm đặt đầu Diên vào vai mình, rút khăn lau nước mắt, nói như van lơn:
- Anh xin lỗi em... Khổ quá! Chứng mình hóa điên hay sao? Em đã biết anh không có em thì anh không sống nổi.
Diên giơ hai tay ôm vòng lấy cổ Hiệp:
- Em cũng vậy.
Nàng nhìn thẳng ra trước mặt, thì thầm kể lể:
- Có anh thì em mới sống được đến bây giờ, em mới thấy sống là vui. Nếu một ngày kia, anh không yêu em thì em không biết sống ở trên đời này làm gì nữa... Em sợ lắm, anh ạ.
- Không, em không sợ...
Hiệp nhìn Diên ngạc nhiên vì chưa thấy lúc nào nàng đẹp như lúc đó. Chàng mê man nói:
- Trời, em đẹp quá. Yêu em quá không biết nói làm sao nữa!
Diên và Hiệp đều lấy làm lạ rằng câu chuyện vừa xảy ra như đã kích thích hai người yêu nhau đằm thắm hơn lên.
Hiệp cầm lấy tay Diên lẩm bẩm:
- Anh không sao tưởng tượng lại có thể sung sướng được đến như thế này!
Diên nhắm mắt lại gục đầu vào cổ Hiệp, nói tiếp:
- Những lúc sung sướng em cứ nhắm mắt lại để nhận thấy rõ cái sung sướng của mình hơn.
Hiệp lay cho Diên mở mắt ra và mỉm cười nói:
- Em nên mở mắt ra nhìn kỹ lấy cảnh chỗ này, để sau dễ nhớ lại một kỷ niệm êm đềm nhất trong đời chúng mình.
Lúc bấy giờ đã quá trưa. Trời im gió, ánh nắng lấp lánh trên dòng suối như những ngôi sao sáng trôi sau cỏ thưa.
Hiệp và Diên lắng tai nghe: trong bài cỏ trước mặt có tiếng chim hót ríu rít. Đưa mắt nhìn mãi, Diên thấy lộ ra trên cỏ cái đầu một con chim sơn ca rung động thật nhanh, lông bờm và lông cổ sù ra. Con chim đột nhiên bay vụt lên cao, vừa bay vừa hót. Hai người đưa mắt nhìn theo; con chim mỗi lúc một nhỏ, nhỏ dần chỉ còn là một chấm đen lớn lên trời, song tiếng hót ríu rít trên cao nghe vẫn rõ. Một con chim nữa ở trong đám cỏ cũng vụt bay lên, trong khi khắp các nơi tiếng của những con chim khác cùng nổi ran một loạt như khúc hòa nhạc để tiễn đưa. Bỗng chim ở trên không rơi thẳng xuống, như một hòn đất ném từ trên cao; khi gặp con bay sau thì hai con dìu cánh vào nhau, rồi là là xuống cạnh suối. Chim đã khuất trong cỏ nhưng tiếng hót vẫn còn ríu rít mãi chưa thôi.
Diên ngây thơ nhìn chồng hỏi:
- Chúng nó làm gì thế, mình?
Hiệp đáp se sẽ:
- Đó là hai vợ chồng con chim sơn ca...
- Chỉ có tình yêu làm mình thấy đời là qúy và sống ở đời là vui.
BÁC HÒA HÀNG CƠM
Bến Cháy có độ mươi nóc nhà và trong đó có hàng cơm của bác Hòa. Mỗi lần Căn kéo xe đến vùng lân cận đấy, vì xa Xóm Cầu Mới đêm tối không về được nên thường phải ngủ trọ ở hàng cơm bác Hòa, sáng hôm sau đón khách mới để khỏi phải kéo xe không về. Vì bến Cháy xa, nên hoạ hoằn lắm mới có khách.
Lúc kéo xe qua, thấy bác Hòa ở trong ngửng mặt nhìn ra, tự nhiên Căn thấy vui vẻ như là vẫn mong đợi được gặp mặt nàng từ lâu, tuy những lúc thường Căn không bao giờ nghĩ đến bác ta cả. Chàng cũng thấy thích là đến gần nửa năm không gặp mà bác ta nhận ngay được mình, nét mặt bác tươi hẳn lên tỏ vẻ vui mừng:
- Bác Căn lát nữa ra đây nhé!
Rồi bác Hòa chào người khách ngồi trên xe:
- Ông Chánh đi Hải Phòng về.
Căn để ý đến chỗ Hoà hỏi mình trước rồi mới chào ông Chánh sau. "Khách nhớ nhà hàng, nhà hàng không nhớ khách". Thế mà bác Hòa lại nhớ cả tên mình và gọi mình không chút lưỡng lự như quen thuộc từ đã lâu lắm.
Hòa ngồi nhìn theo cho đến khi cái xe khuất sau bụi tre đầu con đường rẽ vào làng Me. Bây giờ đã chiều, mà con đường ra ga ngập nước, rất có thể không có khách nào đêm nay. Hòa bế đứa con lên bốn của mình, đặt ngồi trên cái ghế đẩu rồi đi thổi cơm chiều.
Hoà goá chồng đã gần bốn năm nay từ trước khi đẻ đứa con đầu lòng. Lần đầu tiên gặp Căn bác đã thấy mình mê ngay không để ý gì đến chỗ nàng hơn Căn đến sáu bẩy tuổi. Vừa làm cơm Hoà vừa loay hoay xếp đặt cách thức tiếp đãi Căn. Nàng nghĩ:
- Kéo ông Chánh đến tận làng Me, ra đến đây chắc vừa tối.
Thổi cơm xong, trời đã tối, nàng lên đèn mà cũng chưa thấy Căn ra.
- Ngộ có việc gì ngăn cản không ra được chăng?
Nàng nhìn về phía bụi tre, ngồi yên đợi. Một người khách vác một cái tay nải vào ngồi ở ghế, lật bát nước chè. Hoà rót nước xong mới nhận thấy mình không đon đả chào hỏi gì người khách như lúc thường. Nàng nhìn người khách ngẫm nghĩ, cố nhớ xem người này đã có lần nào đến ngủ trọ chưa. Đã nhiều đêm nhà chỉ có mình nàng với một người khách đàn ông, nên nàng đã quen rồi và tuy có một vài người khách sàm sỡ song nàng không bị sa ngã bao giờ; nhưng nàng vẫn không ưa những đêm như thế vì sáng hôm sau nàng không khỏi thấy ngường ngượng với những người bên hàng xóm. Nàng cũng biết là họ cho nàng làm cái nghề cơm này không hợp với cảnh một người đàn bà goá, nhưng không làm thì không có cách gì nuôi thân nàng và nuôi con. Nhưng lần này thì nàng lại chỉ mong cho ông khách này không ngủ trọ ở đây.
Hoà nghĩ nếu hỏi ông ta thì biết ngay nhưng nàng không hỏi. Nàng thấy người khách nhìn vào trong nhà, rồi lại nhìn cái tay nải. Uống xong bát nước người ấy một tay cầm lấy đầu tay nải một tay móc túi lấy tiền. Lúc giơ tay nhận tiền nàng thấy bàn tay mình hơi run run. Bỗng nàng thấy người khách đến đường cái đứng dừng lại một lúc, lưỡng lự rồi quay trở vào.
- Bác bán cho một bao diêm.
Hoà thở nhẹ một cái. Lần này thì người khách đi thẳng. Cái sợ có người khách ngủ trọ và cái vui thoát được người khách lại làm cho nàng hồi hộp hơn. Tuy đã quá giờ đóng cửa, nàng cũng đợi một lúc lâu mới dám đóng. Nàng trải cái chiếu mới lên giường, bưng mâm cơm đặt ở giữa, rồi lấy một chai rượu con và hai cái chén đặt ở cạnh mâm. Nàng ra sau nhà múc một chậu nước đặt trên ghế, cạnh chậu vắt sẵn cái khăn mặt mới. Nàng đưa mắt nhìn mâm cơm và cái chậu thau. Tuy thường thường nàng vẫn bưng mâm, thau hầu khách như thế nhưng chỉ đêm nay nàng mới thấy là nàng nghĩ đến công việc mình làm, đến từng cử chỉ một. Mâm cơm sang bằng mâm cơm dọn cho người khách sang nhất.
Dọn cơm xong, nàng vào buồng, lục rương lấy ra cái váy sồi và cái áo the hoa mà nàng đã mặc hôm cưới, rồi nàng thay quần áo và lấy gương ra soi ngắm nghía mặt mình. Nàng thấy nàng đẹp và mím môi ngắm nghía mình một lúc lâu. Rồi nàng đi ra ngoài nhà, ngồi đợi và nghe ngóng tiếng bên ngoài. Thằng Lương con nàng vẫn ngồi yên trên cái ghế đẩu. Nó gọi mẹ đòi ăn nhưng nàng bảo nó đợi; con nàng còn thức thì nàng ăn cùng mâm và uống rượu với Căn tự nhiên hơn. Bỗng Hoà đứng dậy cầm một cái chén ở mâm cơm đem cất đi; nàng thấy để đến hai cái chén có vẻ lộ quá.
Có tiếng xe lăn lạch cạch ở đầu phố, Hoà ngồi thẳng người lắng tai nghe. Nàng cũng có cái cảm tưởng như là ngày trước lúc nàng ngồi đợi chồng về ăn cơm. Rồi nàng mỉm cười ngẫm nghĩ:
- Nhưng mà chồng trước ngồi trên xe cơ!
Cái xe mỗi lúc một gần và đỗ lại ở sân rồi có tiếng nón quạt. Hòa cất tiếng hỏi:
- Sao về muộn thế?
Tiếng nàng có nhiễm vẻ trách móc một cách thân yêu và nàng vừa nói vừa lắng tai nghe tiếng của mình. Hoà đứng lên mở cửa, đợi Căn vào rồi thong thả cài then. Căn đưa mắt nhìn mâm cơm sang và cái chậu thau với chiếc khăn trắng còn mới nguyên, không phải để dành cho hạng khách phu xe ăn cơm dưa cà như chàng.
- Hôm nay có khách nào thế?
- Không có khách nào cả.
- Thế mâm cơm?
Hoà yên lặng và lấy tay chỉ vào Căn rồi lại chỉ vào mình như người câm làm hiệu. Căn thấy là lạ cũng không nói, chỉ gật nhanh một cái và mở to mắt để tỏ vẻ ngạc nhiên. Chàng cũng thấy thích bắt chước Hoà làm người câm. Hoà gật gật đầu một lúc mấy cái. Căn mỉm cười nhìn nàng một lúc và nàng cũng mỉm cười lại, rồi nàng cất tiếng nói nhưng rất khẽ:
- Hôm nay nhà tôi có giỗ.
Căn nhìn vào mâm cơm:
- Thảo nào, thảo nào cơm sang thế này.
Lúc đó chàng mới để ý đến bộ quần áo khá sang của Hoà, không phải quần áo để mặc lúc thường nhật. Hòa nói:
- Bác đến vừa may.
Nàng chỉ cái thau nước, bảo Căn:
- Mời bác đi rửa mặt cho mát.
Thấy vẻ mặt ngơ ngác của Căn nàng tiếp theo:
- Hôm nay bác là khách đến ăn cỗ cơ mà. Phải thịnh soạn một tí chứ.
Căn lau mặt thong thả, rồi cầm chậu thau định đem đổ. Hoà đã chạy ngay lại đỡ lấy chậu thau. Căn giằng lại:
- Bác để tôi rửa chân. Hôm nay ăn cỗ cơ mà.
Không có guốc đàn ông, Hòa đưa cho Căn đôi guốc của mình. Căn rửa xong chân đi vào, vừa đi vừa gõ guốc xuống nền đất cho kêu coong coong; chàng thấy hơi là lạ ở hai bàn chân sạch và hơi man mát, đã lâu lắm mới lại đặt chân lên guốc. Trước mặt chàng dưới ánh đèn lại có mâm cỗ sang, lại có cả rượu nữa. Nét mặt Hoà dưới ánh đèn đương nhìn chàng đi lại, chàng thấy có vẻ êm dịu và vui lắm. Lúc nãy mới trông mặt Hòa chàng vui vui trong lòng không phải vì chàng coi Hòa như một người đàn bà mà chàng thấy muốn yêu: ngay từ lần đầu tiên gặp Hòa, Căn để ý đến nàng không phải vì nhan sắc, Hoà không đẹp lại hơn tuổi nhiều quá. Nhưng nét mặt người bán hàng cơm ấy có cái gì hợp với chàng lắm; chàng mới nhìn đã thấy thân ngay như một người chị cả hiền từ và tốt bụng.
Căn cười lên một tiếng rồi nói:
- Nào bây giờ ăn cỗ của bà chị.
Chàng ngồi lên trên giường, xếp bằng tròn rồi chống tay vào đùi, cúi mặt nhìn mâm đồ ăn, cười xòa một tiếng. Hòa lấy hai tay bưng bát đũa cho chàng rồi rót rượu vào chén trước mặt Căn.
- Mời bác xơi tí rượu. Cả ngày đi chắc mệt.
Căn mỉm cười vì lần đầu được người hầu hạ mình cung kính như thế, và chàng thấy hơi có cái gì lạ trong những cử chỉ hơi quá lễ phép của bà hàng cơm.
- Bà cũng xơi một chén chứ?
- Tôi không biết uống.
- Uống một tí thôi không sao.
Căn bước vội xuống giường với cái chén rồi rót rượu đưa cho Hòa:
- Mời bà.
Hoà cầm lấy chén, tay run run.
- Nể bác quá.
Bỗng Căn cảm thấy có cái gì khang khác ở trong nhà.
Hòa hỏi:
- Cái gì thế bác?
Căn quay nhìn đứa bé ngồi trên ghế đẩu; đứa bé ngồi xếp bằng tròn trên cái ghế, yên lặng, hai mắt mở to. Bấy giờ chàng mới nhận ra là từ lúc chàng mới vào nhà nó cũng ngồi yên như thế. Đầu nó lại cạo trọc nên trông như một nhà sư đương ngồi tụng kinh. Hoà hiểu ý Căn, vội nói:
- À thằng Lương.
Rồi Hoà nói cho Căn biết là tìm được cách ấy tiện cho nàng lắm; những lúc bận tay nàng cứ đặt nó ngồi trên cái ghế đẩu và nó cứ ngồi yên thế hàng giờ đồng hồ. Hễ nó xuống đất là vớ được cái gì nó đập cái ấy ngay. Cả vùng này ai cũng gọi nó là "sư cụ".
Căn cười đứng lên bế nó:
- Mời sư cụ lại xơi cơm với chúng cháu.
Rồi Căn đặt nó ngồi cạnh mình. Hòa vui mừng vì thấy Căn có vẻ thích đứa bé lắm, Căn vừa ăn vừa gắp cho đứa bé ăn. Chàng đã uống đến chén thứ hai nên cười đùa với đứa bé vang cả nhà. Hoà vẫn chưa nhắp một hụm rượu nào. Nàng không dám tự mình uống, còn Căn thì mải chơi với đứa bé nên không nghĩ tới mời nàng.
- Thôi bác đưa cháu đây, tôi cho nó ăn rồi cho nó đi ngủ.
Nàng thấy con nàng như cướp mất cả Căn. Lúc đặt xong đứa con đi ngủ, ở trong buồng bước ra, Hoà đứng dừng lại: Căn ngồi che lấp ánh đèn xoay lưng về phía nàng, một bên má và một bên cổ hơi hồng hồng; nàng đứng lại nhìn trộm Căn lâu lắm và có cái cảm tưởng như người ngồi ở mâm là chồng nàng đương ngồi đợi nàng ra ăn cơm. Nàng thong thả đi ra phía giường, đi thong thả lắm, và vén áo nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh mâm, mặt cúi xuống. Không phải nàng ngượng nên có những dáng dấp ấy, nàng làm thế chỉ vì nàng thấy thích làm thế. Nàng nhớ lại độ mới lấy chồng, có một đêm ở trong buồng ra, chồng nàng cũng ngồi ăn cơm xoay lưng vào nàng che lấp ánh đèn như Căn hôm nay.
- Mời bà xơi rượu đi chứ. Chén còn đầy nguyên thế kia?
Hòa cầm lấy chén rượu rồi ngửng nhìn Căn:
- Mời bác.
Nàng nhắc chén uống một hụm to rồi ngừng lại. Nàng thoáng vẳng nghe lời của chồng nàng một hôm nào nói với một người bạn trong khi hai người bàn về một chuyện trai gái gì đó:
- Cố nhiên, đàn ông thì bao giờ họ từ chối.
Rồi nàng dốc chén uống một hơi cạn, khiến Căn mở to mắt nhìn một cách kinh hãi:
- Bà uống rượu giỏi nhỉ.
Hoà thở hà một tiếng mạnh, giơ tay vuốt ngực, mỉm cười:
- Tôi sợ uống rượu lắm nên phải uống thế cho chóng xong đi.
Nàng đã say bàng hoàng nên mạnh bạo hơn, mời Căn và giục Căn ăn luôn miệng. Có lần tìm được một miếng ngon, nàng gắp bỏ vào bát Căn, dịu giọng nói:
- Bác xơi.
Rồi nàng hỏi về Căn, về gia đình Căn:
- Sao lâu lắm bác không kéo xe về vùng này?
Căn mỉm cười nói:
- Nếu cứ đến đây có cỗ ăn như thế này thì tôi muốn đến luôn, nhưng ít khách về vùng này lắm.
Thấy Hoà hỏi về nhà mình, chàng sực nghĩ đến chồng bà hàng cơm, và hơi lấy làm lạ là nhà có giỗ mà ông ta lại đi vắng:
- Ông nhà đi đâu giờ chưa về?
Hoà hơi khó chịu vì câu hỏi ấy đã cho nàng biết là Căn không để ý gì đến nàng; tuy mấy lần trước Căn đến ngủ trọ nhà có đông khách nhưng nếu Căn để ý một tí tất phải nhận ra là nàng đã goá chồng.
- Thầy cháu mất đã lâu, ngay từ khi chưa sinh cháu Lương.
- Thế à?
Tuy không nhìn thẳng nhưng Hòa nhận thấy có vẻ gì khác trên nét mặt Căn. Căn đưa mắt nhìn chung quanh nhà rồi lại nhìn ra cửa. Nàng biết là Căn đã để ý đến sự nàng goá chồng và cả nhà hôm nay chỉ có mình nàng với chàng.
Căn cũng để ý đến chỗ đó; thấy một đêm ngủ chung nhà mà chỉ có mình với một người đàn bà góa, Căn cũng thấy hơi bất thường và thấy hồi hộp trong lòng. Hai người lại ngồi ăn cùng một mâm và uống rượu với nhau nữa. Căn nhắc chén để lên môi nhìn trộm nét mặt Hòa một lúc, lần này chàng uống một hụm khá to hơn mọi lần.
Căn cũng không hỏi thêm về cái chết của chồng Hòa. Chàng mong bữa cỗ giỗ hôm nay không phải là bữa cỗ giỗ chồng bà ta và vì nghĩ thế chàng mới để ý nhìn lên bàn thờ. Nhìn kỹ bàn thờ, Căn cúi đầu vờ gắp đồ ăn để tránh cái nhìn của Hòa và để chàng có thể mỉm cười được một cái cho tự nhiên. Căn muốn uống cho thật say.
Ăn xong, Căn đứng lên giúp Hòa dọn mâm. Chàng lại rửa bát nhưng Hoà nhất định từ chối và sau cùng vì Căn cứ nhất quyết, nàng phải để Căn cùng rửa bát đĩa với mình. Tay hai người hễ có dịp là đụng vào nhau và nhiều lúc đụng vào nhau lâu hơn là sự cần bắt buộc; như là lúc cất bát đĩa vào chạn, việc ấy đáng lẽ chỉ một người làm tiện hơn, nhưng Căn cứ đứng cạnh rổ bát cầm từng chiếc một đặt vào tay Hòa để nàng cất, cất từng cái một, vào trong chạn bát.
- Ăn cỗ có khác. Lắm bát đĩa quá. Tôi mỏi cả tay.
Nhưng Hoà cứ yên lặng giơ tay đón, không cản Căn. Căn nói tiếp:
- Bà bảo không biết uống rượu, thế mà vẫn không đánh vỡ một đĩa nào. Tài thật.
Cất xong bát đĩa, Hòa cầm đèn đưa Căn lên nhà rồi nàng ra đóng nốt cái cửa sau xuống bếp. Căn nhà như chật hẳn lại.
- Bây giờ mời bác đi nghỉ.
Hoà lắng tai nghe bên ngoài. Cả phố chắc nhà nào cũng đã ngủ; không có tiếng trẻ con chơi đùa nữa. Nàng ra lấy chổi phất trần quét giường, đặt cái gối ngay ngắn ở giữa rồi đứng lên giường mắc màn. Chiếc màn nâu dầy, nên ngồi ở ngoài Căn chỉ nhìn thấp thoáng bóng nàng. Chàng chăm chú để ý đến từng cử chỉ một của Hòa trên giường. Sao nàng lại giắt màn lâu thế. Chiếc màn vá rất nhiều mảnh nhưng vẫn còn nhiều chỗ hở. Nàng không cần phải giắt một cách quá cẩn thận như thế. Như lúc khác thì Căn đã cất tiếng nói đùa một câu về chỗ đó, nhưng chàng chỉ ngồi yên và chàng lại cố giữ mình không cất một tiếng nói nào. Sau cùng một bàn tay Hòa lộ ra ở cửa màn:
- Thôi mời bác đi nghỉ. Đêm đã khuya rồi.
Nghe tiếng Hoà nói một cách thong thả và ấm cúng, từ trong màn đưa ra, Căn biết là nếu chàng đi vội một tí để đến lúc đến cửa màn vừa gặp Hoà ở trong màn bước ra thì hai người tất sẽ cầm lấy tay nhau tự nhiên. Nhưng Căn vẫn ngồi yên ở giường không nhúc nhích.
Hoà bước xuống đất đi về phía Căn ngồi và nhắc lại:
- Mời bác đi nghỉ.
Rồi nàng ra chỗ chõng nước, cúi xuống loay hoay xếp dọn các thứ, yên lặng không nói gì với Căn nữa. Căn vào giường đặt mình nằm, cầm cái quạt phe phẩy. Chàng tự trách mình sao đối với Hoà chàng lại nhút nhát thế. Chàng biết là nếu cứ nói đùa luôn với Hoà chắc rất dễ dàng có dịp cầm tay nàng nhưng tự nhiên chàng lại sợ không dám nói đùa với Hòa nữa. Như những lúc hút thuốc lào, chàng rất có thể nhân cái cớ hút vào thì mê man bất tỉnh để đùa Hòa và thử ý nàng, nhưng bao nhiêu cơ hội chàng đều bỏ qua. Lại còn lúc Hòa bỏ màn nữa, sao chàng không chạy đến tranh bỏ màn, để đến nỗi bây giờ phải nằm suông thế này. Thật là bực mình.
Xếp dọn xong, Hòa cầm cây đèn rồi rón rén đi về phía giường Căn, đi thật nhẹ bước như sợ Căn đã thiêm thiếp ngủ. Nàng đặt đèn ở cái ghế cạnh đầu giường Căn. Căn liếc nhìn tự hỏi:
- Tại sao lại phải để đèn ở đây?
Chàng thấy Hòa nhìn nhanh về phía giường rồi cúi xuống. Chắc nàng định tắt đèn, chàng nghĩ thế và toan ngồi thẳng dậy. Nhưng Hoà không tắt đèn và vì thế Căn cứ nằm yên; nàng thong thả vặn cho thấp ngọn đèn, nhưng nàng không vặn bé quá đợi cho ngọn lửa đứng yên rồi đi về phía buồng. Căn lắng tai nghe nhưng không thấy nàng đóng hay khép cửa buồng lại. Căn lại nhìn ngọn đèn và ngẫm nghĩ:
- Nhà không có giỗ lại nói dối là có giỗ để ngồi uống rượu với mình, nhưng sao một người đàn bà goá đêm hôm nhà không có ai, rất có thể vờ say rượu, nhưng sao uống nhiều mà vẫn tỉnh và cố giữ cho tỉnh rượu. Lại còn cái ngọn đèn!
Ngọn đèn tuy vặn nhỏ thật nhưng nếu Hoà có ý gì thì không đời nào lại để đèn như muốn ngầm bào chàng cứ ngủ yên đi đừng có nghĩ ngợi lôi thôi. Nhưng tại sao nàng lại không đóng cửa buồng riêng lại, như thế chắc chắn hơn là để đèn sáng.
- Hay là buồng không có cửa?
Căn ngồi thẳng lên và nhìn về phía cửa buồng. Rõ ràng có cánh cửa. Căn ngồi lâu lắm nhìn vào chỗ bóng tối trong buồng ở sau cái cánh cửa mở rộng như muốn mời chàng vào. Chỉ đứng lên đi một vài bước rồi đứng lại ở cửa gọi bác ta, và tuỳ theo tiếng bác ta trả lời lại là có thể biết chắc được. Không có gì nguy hiểm cả. Nếu bác ta trả lời lại tỏ vẻ ngạc nhiên về cử chỉ của mình thì có thể nói là...
Căn loay hoay nghĩ xem viện cớ gì cho tự nhiên nhưng loay hoay nghĩ mãi mà không tìm ra được cớ gì cả; chẳng lẽ đêm hôm lại đến gọi một người đàn bà góa dậy chỉ để than phiền là màn thủng nhiều chỗ mà trí Căn lúc đó lại chỉ nghĩ ra được có cái cớ màn thủng. Căn mỉm cười một cái rồi lại nằm xuống và đành tự an ủi mình bằng cái thú đợi Hoà ra; không có hy vọng gì lắm nhưng chỉ còn cách ấy thôi; như thế chàng lại có thể nếu giấc ngủ đến thì cứ ngủ đi không tai hại gì. May ra được một giấc mơ mà nếu ban đêm giấc mơ không đến thì lúc biết trời đã sáng rồi không phải băn khoăn nữa.
- Hay là mình tắt đèn đi.
Căn thấy việc tắt một cái đèn mà nàng cứ muốn để cho sáng một cách vô lý cũng đủ khiến cho nàng nghĩ ngợi chú ý mà không có gì nguy hiểm cho chàng cả. Căn đưa mắt nhìn ngọn đèn toan ngồi dậy. Bỗng chàng thấy thoáng có bóng Hoà ở cửa buồng, rồi Hoà đi về phía giường chàng. Căn vội vắt tay lên che ngang mắt để có thể nhìn nàng mà nàng không biết. Quả tim chàng đập mạnh.
Hoà từ lúc vào buồng vẫn không nằm xuống; nàng ngồi yên ở cạnh giường, người hơi nghiêng về một bên vì như thế nàng có thể trông qua cửa buồng nhìn ra chỗ Căn nằm. Ánh ngọn đèn mà nàng định tâm đặt ở phía bên kia chiếc màn khiến nàng nhìn thấy Căn rất rõ ràng. Lâu lắm Căn không phe phẩy quạt nữa, có lẽ Căn đã ngủ rồi chăng. Nhưng không Căn chưa ngủ vì nàng thấy Căn hơi quay đầu như ngước nhìn ngọn đèn. Câu nói của chồng vẳng bên tai nàng; nhưng từ tối đến giờ nàng thấy Căn say rượu mà vẫn nghiêm trang quá. Nếu Căn có gì thì sao lúc nàng đến cạnh giường vặn nhỏ đèn, Căn không cất tiếng hỏi một vài câu để nàng có thể đứng lại lâu hơn. Căn có thể vờ say rượu nhưng Căn vẫn cố giữ đứng đắn. Dẫu sao Hòa cũng biết chắc là nếu bây giờ nàng lại bước ra tìm cớ lấy một vật gì để đến gần chỗ giường Căn nằm và hỏi Căn một vài câu chuyện thì chắc Căn sẽ biết ý nàng. Nhưng Hòa vẫn ngồi yên và đợi.
Bỗng nàng thấy Căn ngồi dậy nhìn về buồng mình. Hòa vội ngồi thẳng lên để che mặt khuất sau cánh cửa, tưởng như Căn có thể nhìn thấy mình được, quả tim nàng đập mạnh và Hoà lặng người đi, nhắm mắt lại, lấy tay sờ xuống chiếu rồi đặt mình nằm xuống cố tránh để không có một tiếng động nhỏ nào. Một lúc lâu, Hòa lại hơi mở mắt nhìn ra phía cửa buồng nhưng vẫn không thấy Căn vào. Nàng ngồi dậy nghiêng người nhìn và vừa lúc đó thấy Căn lại nằm xuống. Nàng đứng thẳng lên rồi đi ra phía cửa buồng như người đi trong một giấc mơ; nàng dừng lại một lúc trước ánh sáng ở nhà ngoài rồi đi về phía giường Căn. Nàng dừng lại ở cạnh giường rồi giơ tay mở một bên mép màn nhìn vào trong. Căn lúc đó đương nằm vắt tay ngang trán nên nàng không biết rõ Căn nhắm mắt hay đương nhìn mình. Không thấy Căn động đậy, Hoà ngồi xuống cạnh giường, ngồi rất nhẹ; nàng thả tay bỏ rơi cửa màn, hất nhẹ một cái cho hai mép cửa màn khép lại rồi nàng nhắm mắt và đặt mình nằm xuống cạnh Căn. Nàng thấy một bàn tay Căn đương đặt lên vai nàng. Nàng mở mắt ra thấy Căn đương nhìn mình hơi mỉm cười; nàng giơ tay nắm lấy bàn tay Căn đương đặt trên vai mình và mỉm cười với Căn. Lúc đó nàng không còn thấy ngượng gì nữa. Căn cũng vậy, và cả hai người đều cảm thấy như là thân nhau đã từ lâu rồi.
Căn cất tiếng nói trước:
- Nằm sát vào đây.
Rồi chàng cho tay xuống đặt lên đùi nàng, nhưng chàng ngạc nhiên thấy nàng bẻ gập tay chàng lên, có vẻ giận. Tuy thế Căn lại thấy chính nàng tự ý nằm sát vào Căn và đặt tay lên người chàng, rồi nàng lại gục đầu vào ngực chàng, cựa quậy đầu mấy cái như đứa bé nằm trong lòng mẹ. Rồi nàng lại ngửa mặt nhìn Căn nói:
- Này.
Mắt nàng mở to và Căn thấy nàng không nói thêm gì nữa.
Chàng hỏi:
- Này... cái gì?
- Lạ lắm cơ, nhưng mà thẹn lắm không nói được.
Căn đặt tay lên người nàng nhưng lần này cũng bị nàng bẻ tay gập lên. Căn nói:
- Thẹn gì, nằm với nhau như thế này còn thẹn gì.
Chàng thấy Hòa nắm mạnh một cái vào người mình rồi nói:
- Thế này nhé, đằng ấy phải thề làm theo thế nhé. Thề đi đã.
Căn mỉm cười thấy hơi là lạ:
- Tôi xin thề. Nhưng thề cái gì mới được chứ!
Tay Hòa đưa lên vuốt má Căn:
- Nào thì nói, thế này nhớ. Tôi với đằng ấy bây giờ coi nhau như hai người bạn, ở với nhau cả đời. Nhưng không bao giờ...
Nàng ngừng lại, tìm lời nói. Căn hỏi:
- Không bao giờ cái gì?
- Thôi không cần nói, đằng ấy hiểu rồi... Thỉnh thoảng đằng ấy lại đến đây, tôi làm cơm cho mà ăn, xong rồi đến đêm lại nằm với nhau nói chuyện suông như thế này và thề không bao giờ... Đằng ấy hiểu rồi chứ?
Căn lại thấy người nàng đè mạnh vào người chàng. Căn mỉm cười một mình, rồi nhìn Hòa gật gật.
- Tôi hiểu rồi! Tôi thề không bao giờ...
- Đằng ấy thề rồi cơ mà; đã thề rồi mà thề lại thì hỏng. Đằng ấy có thích thế không?
- Thích hay không thích nhưng đã thề rồi cơ mà.
- Thế thì được. Bây giờ tôi nói cho mà nghe.
Căn cảm thấy có cái gì là lạ trong người đàn bà goá này nó như kích thích chàng bằng một cái thú khác thường và mới mẻ. Hoà ngỏ cho Căn biết là nàng đã mê ngay Căn từ lần đầu tiên gặp, nàng tả những nỗi buồn vui của nàng khi Căn đến và đi. Căn ngạc nhiên thấy khác hẳn lúc thường, nàng nói chuyện khéo lắm, nói về những chuyện yêu thương và nàng nói có duyên tệ khiến Căn lúc nghe thì không nhịn cười được lúc thì cảm động phiêu phiêu cả người. Chàng thấy mình mê Hòa nói chuyện, mê cả cái giọng nói của nàng nữa, lúc thủ thỉ chuyện trò có một thứ duyên đầm ấm. Như về hôm đầu tiên chàng đến hàng cơm, nàng nói:
- Con mắt đằng ấy cứ mỗi lần nhìn người ta thì lại khiến người ta hết cả hồn cả vía, rủn cả người đi như là cua gặp ếch hay là ếch gặp rắn. Đổ cả nước sôi lên ngón tay mà hôm sau mới biết là bỏng. Bỏng đến mấy hôm mới khỏi, đau chết người nhưng mà thích đáo để. Đến hôm khỏi là thấy tiêng tiếc và nhớ đằng ấy hơn. Một tháng sau, đúng ra là ba mươi ba ngày, đằng ấy lại đến. Lại muốn rót nước sôi vào ngón tay một lần nữa, nhưng không dám, sợ đau. Nhưng lần này thì mê đặc rồi. Sao lần thứ hai đến lại cứ hay nhìn người ta luôn thế, nhìn trừng trừng như là chính đằng ấy mê tớ chứ không phải tớ mê đằng ấy. Hỏi thực đằng ấy chắc cũng mê đằng này?
Nàng lay lay vai Căn giục trả lời; chàng mỉm cười, gật:
- Ừ, cũng phải nói là mê đặc.
- Thế sao không đến luôn.
- Không có khách thì đến thế nào được.
- Đằng ấy nói dối rồi, nếu cũng mê đặc thì trời long đất lở cũng đến được. Mình đi rồi, mình là mình ấy chứ không phải là mình này, mình này đêm ngày ốm tương tư buồn thờ thẫn đến nửa tháng, cơm chẳng buồn ăn, đầu tóc bơ phờ, mặt xanh xao làm hàng xóm người nào hễ nhìn mình là có vẻ nghĩ ngợi, có vẻ lo lắng; nhưng không phải họ lo đằng này chết đâu, họ muốn đằng này chết lắm, hạng đàn bà goá mà cứ ngủ chung với khách trọ đàn ông, chung nhà này, rồi chỉ ông vua bếp là biết rõ, biết đâu không chung giường chung chăn, chung một trăm thứ bà dằn nữa. Họ có vẻ lo lắng là vì họ lo mình có thai, đẻ ra một lũ "sư cụ" nữa, mỗi "sư cụ" ngồi ở một ghế đẩu, để tụng kinh sám hối cho bà mẹ hư thân.
Nói đến đây nàng gác chân lên đùi Căn:
- Nói chứng minh có ông vua bếp, đêm nay là đêm đầu tiên ngủ với khách trọ. Bây giờ thì họ nghi không oan nữa.
Thấy tay Căn đặt lên đùi mình, Hoà cầm lấy bẻ gập cánh tay đưa lên đặt trên vai. Căn nhận thấy nàng có sức khoẻ lạ thường những lúc nàng cầm tay chàng bẻ gập lên.
- Này nếu đằng ấy cứ nhất định muốn có sư cụ thì tuyệt tình nhân nghĩa ngay bây giờ cho mà xem. Tôi sẽ hô hoán đánh thức cả xóm dậy. Họ sẽ chạy đến và từ giờ trở đi cả xóm ai cũng phục goá này đoan chính; xưa nay họ vẫn lấy làm lạ là bao nhiêu lần ngủ chung với khách trọ mà không xẩy ra một chuyện lung tung to tiếng nào, vì thế họ chắc chỉ toàn xẩy ra những chuyện lung tung lặng tiếng, chết điếng người đi.
Căn véo vào tai Hòa một cái:
- Con khỉ. Cứ nói chuyện thế thì ai chịu nổi.
- Đã thề rồi cơ mà?
Nói thế Hòa lại ôm người Căn chặt hơn.
- Bây giờ đằng này kể cho đằng ấy nghe về chuyện các bác khách trọ định tán tỉnh đằng này. Nhiều chuyện hay lắm cơ. Nhưng thôi để hôm khác. Bây giờ nói chuyện riêng chúng mình đã. Này mình không biết goá chồng khó chịu lắm cơ. Nhất là mỗi buổi chiều đến, trời tranh tối tranh sáng, lên đèn ngồi ăn cơm một mình nó lạnh lẽo thế nào ấy. Thành thử chiều nào tôi cũng nhớ mình.
Rồi nàng cất tiếng hát rất khẽ. Căn thấy giọng nàng hát hay quá:
- Sao đằng ấy hát hay thế. Hát nữa đi.
- Chuyện! Lúc còn con gái, đằng này có đi hát đám mấy năm. Lấy chồng thì thôi.
Căn nói:
- Tôi cũng biết hát.
Rồi chàng cũng cất tiếng hát theo giọng "gửi thư".
- Ồ đằng ấy hát lại hay hơn tôi nhiều. Tối nào chúng mình cũng hát cho nhau nghe. Thích quá nhỉ.
Căn mỉm cười:
- Tối nào cũng hát? Mai tôi phải về cơ mà. Đằng ấy làm như chúng mình là vợ chồng rồi.
- Thế này không là vợ chồng à. Lại thích hơn là vợ chồng nữa.
- Chết chửa hát thế này ai nghe thấy thì chết.
- Không sợ ai nghe thấy đâu. Đầu nhà này thì cách vườn rau, đầu nhà kia thì cách cái ao. Chúng mình tha hồ tự nhiên. À nhân nói đến chuyện vợ chồng tôi lại nghĩ đến độ ấy, cứ chiều chiều nhớ mình, tôi lại ngồi nhìn về cuối phố, nhìn con đường đi Phủ Lệ. Hễ thấy cái xe tay nào từ phía ấy đi đến là lại chết lặng người đi một lúc. Sao gặp bao nhiêu khách trọ mà tôi không thấy một người nào nhìn vừa mắt cả. Nhìn mình đầu tiên tôi muốn mình là chồng tôi ngay.
Giọng nàng Căn thấy trở nên nghiêm trang:
- Nhưng tôi nghĩ, này đằng ấy đừng cãi vội, tôi nghĩ tôi già rồi năm nay đã hai mươi sáu (nàng nói bớt đi hai tuổi) nên cứ tương tư muốn lấy mình thì tương tư đến chết mất. Thấy độ ấy mình nhìn tôi hình như có vẻ yêu, nhưng tôi không dám mong hão. Thế rồi một hôm tôi nghĩ đến cô Thúy Kiều...
Căn hơi ngơ ngác:
- Cô Thúy Kiều?
- Đằng ấy không nhớ giai đoạn tái hồi Kim Trọng à?
Rồi nàng khe khẽ ngâm:
- Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
- Đằng ấy nhớ Kiều nhỉ?
- Chuyện! Đọc mãi.
Căn ngạc nhiên:
- Đằng ấy đọc được truyện?
Hoà cười và cũng muốn khoe với Căn:
- Thuở bé tôi học mãi chữ nho, thầy tôi là ông thầy đồ.
Hoà thấy bàn tay Căn đương nắm lấy vai mình tự nhiên thả lỏng ra, nàng biết là Căn ngạc nhiên lắm khi biết nàng là con gái một ông đồ. Nàng nói tiếp:
- Thôi bây giờ nói về Thúy Kiều, Kim Trọng. Hai người lấy nhau, nhưng cả đời chỉ là bạn suông như chúng mình bây giờ. Thế rồi tôi nghĩ đến cách có được mình làm chồng, nhưng chỉ riêng hai người biết với nhau thôi. Tôi chỉ mong thỉnh thoảng được mình đến nằm với nhau nói chuyện như hai vợ chồng... nhưng cũng suông như Thúy Kiều, Kim Trọng.
Hoà bíu chặt lấy hai vai Căn, mở to mắt nhìn thẳng vào mắt Căn:
- Ngờ đâu, bây giờ... như thế này... có được anh làm chồng. Chồng của em đây.
Căn thấy hai con mắt nàng ướt nước mắt, chàng lay vai nàng một cái như để hỏi. Hòa cúi mặt xuống chiếu, mím môi lại như cố giữ cho khỏi khóc, nhưng nước mắt lại trào ra nhiều hơn. Căn giơ hai bàn tay ấp lấy hai bên má nàng và nhìn thẳng vào hai con mắt long lanh ướt. Hai con mắt Hoà, chàng mới nhận ra là cũng có vẻ đẹp riêng, lòng chàng cũng đã đổi khác, chàng bắt đầu đã thấy hơi hơi yêu Hòa như yêu một người vợ. Chàng ngạc nhiên vì cái may được gặp một người đàn bà lạ lùng như Hoà và sao nàng lại nghĩ ra được cái lối vợ chồng kỳ quặc nhưng rất lý thú này. Tuy nàng lúc còn con gái đã đi hát mấy năm, goá chồng mà lại thường ngủ cùng nhà với khách trọ đàn ông, tự nhiên lại đến nằm cạnh chàng trước cử chỉ và lời ăn tiếng nói đĩ thoã, nhưng Căn vẫn tin là ngoài chàng ra nàng chưa biết một người đàn ông nào khác, đúng như lời nàng nói. Nàng lại là con gái một ông đồ. Trong lòng yêu của Căn có lẫn thêm lòng trọng nể Hòa. Chàng dịu giọng hỏi:
- Em... tên con gái em là gì nhỉ?
Nghe Căn gọi mình là em, nàng thấy nàng như trẻ hẳn ra. Lúc nãy xưng em với Căn nàng thấy ngượng mồm lắm, thế mà Căn lại gọi nàng là em được mà giọng vẫn tự nhiên. Nàng cho là nàng tuổi cao nhưng nét mặt chắc còn trẻ. Nàng đáp lại và lần này nàng có ý nói dằn vào mấy tiếng nàng xưng em với Căn:
- Em ấy à? Tên em... em tên là Xuân.
- Tên em là Xuân à? Thích nhỉ. Thảo nào mà nét mặt em còn xuân thế.
- Giễu nhau làm gì, đằng này già rồi còn gì nữa.
Hoà cãi lại để cốt gợi Căn nhắc lại lần nữa là Căn thấy nàng còn trẻ.
- Đằng ấy hai mươi sáu cơ mà. Tôi trông tôi tưởng chỉ độ hai mươi hai.
- Thật à? Cha đời đứa nào nói dối nhé!
Căn lay vai Hòa một cái, gật gật nhưng chàng tránh không cất tiếng thề. Hòa nói:
- Này ban tối lúc ăn cơm, uống rượu rồi dọn giường bỏ màn, tôi tưởng y như là đám cưới chúng mình. Thế mà hoá ra đám cưới thật...
Nàng lấy chân cặp chặt lấy người Căn và kéo đầu Căn đặt vào ngực mình:
- Thích quá nhỉ, bây giờ quả nhiên em có người chồng nằm cạnh.
Căn úp mặt mình vào hai bầu vú của Hòa và thấy có mùi hăng hắc của vải yếm mới nhuộm nên chàng nhắm mắt lại và mỉm cười nghĩ thầm:
- Thế này mà lại bảo là nằm cạnh.
Bỗng Hòa bỏ người Căn ra ngồi dậy mở màn đi xuống đất. Nàng ra cạnh chõng nước lấy ấm rót vào chén. Nàng uống thong thả vừa uống vừa đưa mắt nhìn quanh. Cái mái nhà, cái cột nhà, bức tường đã lở nhiều chỗ và cái giường trong đó có một người đàn ông nằm; đứng riêng một mình ở ngoài nhìn vào nàng nhận thấy rõ ràng hơn đấy là sự thực và nàng lại cảm thấy mạnh hơn cái sung sướng nó đương thấm trong khắp thân thể nàng và làm run run ở bàn tay cầm chén nước. Nàng ngừng uống, nghiêng tai nghe ngóng, hai mắt yên lặng mở to, ngạc nhiên, ngơ ngác trước sự sung sướng của mình.
Nàng rót chén nước khác rồi đi lại phía giường:
- Anh dậy xơi nước.
Căn ngồi dậy toan giơ tay đỡ, thì Hòa ngồi xuống, nghiêng người cầm chén đưa lên môi Căn và dốc chén cho Căn uống. Nàng ôm lấy người Căn và ngửi thấy mùi mồ hôi ở lưng áo Căn xông lên. Nàng thấy ngồi ôm nhau lại có một cái thú là lạ hơn là nằm ôm nhau.
- Anh xơi thuốc.
Nàng đem cái điếu lại, dịt thuốc và đánh diêm cho Căn hút. Chồng nàng trước kia cũng nghiện thuốc lào, tuy nàng không ưa gì mùi thuốc nhưng nàng cũng thích Căn hút để có mùi thuốc ở trong màn.
Khi Căn say, nàng đặt đầu Căn vào ngực, ôm lấy lưng chàng đợi chàng tỉnh. Căn mở mắt mỉm cười và cứ nằm yên thế trong lòng Hoà. Có một thứ gì êm dịu từ ở người Hoà đưa ra bao phủ lấy chàng. Nằm dựa đầu vào ngực Hòa, chàng chỉ nhìn thấy cái cổ nàng và một bên cằm; chàng giơ tay khẽ bá vai Hòa và làm hiệu để nàng cúi xuống nhìn mình. Chàng muốn nhìn hai con mắt của Hòa để xem lại là có đẹp không. Chàng lại thấy đẹp hơn và nét mặt nàng nữa chàng cũng bắt đầu thấy có một vẻ đẹp kín đáo, một thứ duyên riêng mà trước kia chàng chưa nhận thấy.
- Thôi chỉ còn mấy giờ đồng hồ nữa thôi.
- Cũng chẳng sao. Thế một hai tháng sau đằng ấy lại đến nhớ.
Căn gật gật:
- Đến sớm hơn cũng chưa biết chừng.
- Đừng đến nhiều quá, người ta sinh nghi.
Chính nàng, nàng phải định tâm trước là một hai tháng mới gặp Căn một lần; định trước thế nàng không sợ buồn những lúc xa Căn lâu và thất vọng vì Căn chẳng đến.
Căn hỏi:
- Này, sao lúc nãy đằng ấy lại để đèn sáng.
Hòa cười:
- Không để đèn sáng thì làm thế nào biết được ông khách trẻ này ngồi dậy, nhìn trừng trừng vào cửa buồng người ta, quả tim cu cậu chắc đập như trống làng, cu cậu muốn mò vào lắm nhưng lại sợ, nên lại đành nằm xuống vuốt bụng thở dài. Đối với một ông khách trọ thế mà bây giờ được bà hàng cơm tự ý đến nằm xuống bên cạnh thì còn gì ngon hơn nữa. Vì nghĩ thế nên đằng này mới đủ bạo để đến nằm bên cạnh đằng ấy. Lúc buông màn, sao mình không để ý là tôi ngồi lâu lắm ở trong màn.
- Có, nhưng không dám vào.
- Lúc ấy em đợi đằng ấy đến. Em thấy như là trước kia mỗi buổi tối buông màn đợi chồng về. Nhưng lâu lắm, lại phải chuồn ra và tức cu cậu lắm.
Căn cười rồi ngồi dậy:
- Đằng ấy để đèn sáng cũng láu đấy, mưu mô của đằng ấy có vẻ chắc chắn nhưng giá nếu đằng ấy lúc đó mà tắt đèn thì có phải đã thành vợ chồng sớm hơn được đến nửa giờ.
Hoà nghĩ ra:
- Ừ nhỉ, lúc đó mình cứ sợ tắt đèn mà cu cậu vẫn còn nhát thì thật là hết. Chẳng lẽ tắt đèn, không thấy có gì rồi lại ra thắp đèn lại. Vô lý và thẹn chết. Nhưng mình không nghĩ ra là tự nhiên đem cái đèn đặt bên cạnh giường khách trọ rồi lại thổi cho tắt; ông khách trọ cho dẫu ngu độn như đằng ấy đi nữa tất cũng phải hiểu chứ?
Hoà đặt Căn xuống giường, để chàng gối vào đầu tay mình rồi nói:
- Thôi bây giờ ngủ đi. Phải ngoan đấy.
Nhưng cũng đến hơn nửa giờ sau hai người mới ngủ được.
Lúc Hòa tỉnh dậy thì đầu Căn vẫn đặt trên cánh tay nàng. Hòa kéo tay ra rất khẽ để Căn không thức giấc, rồi nàng ngồi dậy, nghiêng người, chống hai tay nhìn ngắm Căn ngủ. Nàng mỉm cười với Căn và hất hất cằm mấy cái như điệu bộ nói với một đứa trẻ con. Sau một giấc ngủ, tỉnh dậy nhận rõ Căn nằm đấy, nàng có cái cảm tưởng như độ nào đẻ thằng Lương, sau một cơn mê man nàng được cái thú lần đầu tiên ngắm đứa con nằm cạnh mình. Nàng cầm hai tay Căn kéo ngồi dậy:
- Dậy đi thôi, mình.
Căn thức giấc và bốn mắt nhìn nhau một lúc như ngơ ngác hỏi nhau không biết nằm mê hay sự thực. Hòa mỉm cười cúi mặt xuống rồi gục đầu vào ngực Căn.
- Tôi đi làm cơm mình ăn sớm rồi về, như thế cả xóm không biết là mình ngủ đây đêm qua.
Căn nói:
- Phải đấy, như thế độ năm mười hôm nữa tôi lại đến được mà không sợ gì.
Tuy thích nhưng Hòa cũng vội cản:
- Không được, nhiều nhất cũng chỉ một tháng một lần thôi.
Rồi nàng xuống bếp lấy nước đem lên cho Căn rửa mặt. Nàng đi vào buồng lấy gạo thổi cơm. Khi Hòa đi ngang qua trước mặt Căn, Căn ngừng rửa mặt, gọi:
- Này.
- Gì thế mình.
- Không có gì cả.
Chàng mỉm cười vì chàng gọi thế chỉ cốt Hòa quay mặt lại để chàng nhìn. Chàng nhận thấy nét mặt Hoà sáng nay lại đẹp hơn lên một tí.
Bữa cơm hôm nay tuy không sang như hôm qua, nhưng cũng nhiều thức ăn. Bữa cơm hôm nay lại khác hôm qua ở chỗ hai người không ngồi hai bên mâm mà lại ngồi cả về một phía. Ăn cơm uống nước xong, sắp đến lúc Căn phải đi, hai người đều trở nên tư lự ít nói. Căn cầm tay Hoà bảo ngồi xuống giường, rồi chàng ngồi xuống cạnh. Cả hai đều không nghĩ đến ôm lấy người nhau hay nhìn nhau nữa; họ ngồi thế lâu lắm, rồi Căn nói:
- Tháng sau không có khách đến đây tôi cũng đến.
Chàng lấy làm lạ là lúc từ biệt nhau lại không tìm được câu gì thân yêu để nói. Hòa ban đêm nói chuyện khéo thế mà bây giờ cũng không buồn nói gì cả như băn khoăn nghĩ ngợi gì. Căn thấy nàng cứ nhìn vào buồng luôn. Ngồi một lúc lâu rồi Hòa đứng lên đi vào buồng. Căn nghe có tiếng mở hòm rồi có tiếng nàng gọi chàng vào.
- Cái gì thế?
Căn vừa hỏi vừa bước lại phía góc buồng tới chỗ Hoà đương đứng. Hoà yên lặng đặt vào tay Căn mấy đồng bạc đồng:
- Mình cầm lấy.
Từ lúc nghe tiếng lục rương, Căn cũng đoán biết nhưng chàng cũng giật nẩy mình một cái:
- Chết chửa tôi không lấy đâu.
Thấy Căn cứ khăng khăng từ chối mãi, Hòa nói có vẻ giận:
- Vợ chồng mà sao mình lại cứ ngại. Đằng ấy hai cha mẹ đều nghèo, mình cầm lấy giúp thêm ít nhiều cho em vui lòng. Em không giầu nhưng cũng có vốn để dành. Gọi là có ít tiền của cô nàng dâu mới mà!
Nàng nói đùa rồi cất tiếng cười để cho Căn khỏi ngượng khi nhận lấy tiền. Căn biết là nếu nhất định không lấy, Hòa sẽ tủi thân tưởng là chàng nghĩ nàng cho tiền chàng như thế là khinh chàng. Hòa tiếp theo:
- Nhưng đừng nói thầy bu là của em nhé!... Hừ, nói đến hai tiếng thầy bu sao mà ngượng mồm thế!
Căn mở nắp cái ví dây lưng và mặc dầu không muốn lấy, tay chàng cũng run run khi cho tiền vào ví.
- Năm đồng bạc. Cả một cái vốn liếng to.
Từ thuở bé đến giờ, Căn chưa bao giờ có một cái vốn to như thế. Ra đến cửa buồng sáng, Căn thấy Hoà đứng lại, và quay mặt đi đưa vạt áo lên lau mắt. Rồi nàng ngửa mặt hai con mắt còn ướt chớp mau có vẻ tươi cười nhìn chàng:
- Thôi mình về. Tháng sau lại đến nhé.
Nét mặt Hòa lúc đó Căn thấy đẹp hẳn và chàng lấy làm lạ sao trước kia chàng lại không nhận thấy; lòng chàng lúc đó cũng cảm thấy đã yêu Hoà mê man.
Hoà ra mở cửa, nhìn hai bên rồi làm hiệu cho Căn ra. Căn vác áo xe rồi đi về phía cửa. Lúc sắp bước ra chàng ngừng lại nhìn Hòa. Hòa đứng nép sau cánh cửa, yên lặng nhìn lại chàng rồi nàng sẽ hất cằm một cái và mỉm cười như nhắc lại lời hẹn. Căn gật gật đầu rồi bước ra ngoài phố. Trời đã sáng nhưng các nhà ở bên còn đóng cửa hết. Căn kéo xe thật thong thả và vì nhớ đường có nhiều cỏ nên tiếng kêu cũng không đến nỗi to lắm. Sao lòng chàng lại vui một cách dồn dập đến thế.
Đi đã xa và khuất hẳn không trông thấy bến Cháy đâu nữa, lại thấy cả quãng đường vắng ấy không có bóng người, Căn ngừng xe lại. Chàng đặt xe bên đường, rồi lên ngồi trên xe, chân bắt chữ ngũ, ngả lưng vào thành xe ngửa mặt nhìn trời và mỉm cười. Chàng cho tay mở cúc cái ví rồi nhắm một bên mắt nhìn vào trong và mỉm cười một cái nữa.
- Cuộc phù thế nhân sinh ơi! Năm đồng bạc!
Chàng thong thả rút từng đồng bạc ra, vừa rút vừa đếm:
- Một, hai, ba, bốn, năm...
Chàng như đếm cái sung sướng của mình.
Đồng bạc nào cũng còn mới nguyên cả. Căn nghĩ chắc tiền Hòa để dành và xem tình trạng cửa hàng Hòa, thì số tiền để dành của nàng cũng không quá hai ba chục bạc. Thế mà Hòa lại cho chàng những năm đồng bạc, đó là triệu chứng chắc chắn là Hòa yêu chàng lắm.
Căn tung những đồng bạc lên cao rồi giơ tay đón bắt và sóc sóc trong lòng bàn tay. Các đồng bạc sáng sủa kêu coong coong nghe rất vui tai. Rồi Căn yên lặng ngẫm nghĩ về cuộc tình duyên mới mẻ với Hòa, mắt vẫn không rời những đồng bạc; cuộc tình duyên ấy cũng đầy hứa hẹn và chắc nịch như những đồng bạc trắng của nàng, nó đương đè nặng trên lòng bàn tay chàng, đến thích.
Nhất Linh
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...