Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2019

Giòng sông Thanh Thủy 3

Giòng sông Thanh Thủy 3
Phần thứ ba
Vọng quốc
Chương hai mươi sáu
Thời cuộc biến chuyển rất mau chóng. Tháng ba năm 1945, Nhật đảo chính ở Việt Nam. Ninh sắp phải về nước ngay để đưa một đoàn đại biểu của Việt Quốc lên Trùng Khánh.
Một hôm Tường đi vắng, Ngọc nói với Thanh:
"Tôi phải về biên giới, có khi về trong nước.
Mắt Thanh sáng lên:
"Thích nhỉ. Anh đã hẹn tôi lần này tôi được về nước với anh. Nếu có thể được, tôi sẽ đưa anh về làng tôi chơi ít bữa. Rồi anh cũng đưa tôi về thăm làng Bằng, thăm người chị anh và cả anh chàng láng giềng tốt số. Thế nào anh chẳng cần gặp người anh cô Thúy, anh sẽ đưa tôi đi thăm mộ Thuý xem bây giờ cỏ mọc cao đến đâu rồi."
Thấy Ngọc có vẻ cảm động, Thanh quay mặt đi, nói giọng nửa đùa nửa thật:
"Tôi sẽ tìm cách để đưa anh gặp thẳng thằng chồng tôi và nhất là thằng tình nhân tôi để anh cho chúng nó mỗi người một phát... À, nhưng anh cho tôi mượn súng vì tôi đã được anh dậy bắn, tôi sẽ bảo là bây giờ tôi sang Vân Nam buôn bán giầu lắm. Chắc họ lại muốn bám lấy tôi để bòn của. Tôi sẽ vờ làm lành rồi cho mỗi cu cậu một phát."
"Sao chị ác thế?"
"Anh không biết tôi ác à. Còn anh? Nếu tôi giết những người ấy, tôi còn có lý, vì họ đã lừa tôi, lấy hết cả tiền của tôi, tôi phải mò sang Vân Nam gặp được anh, một người ác hơn tôi nhiều, tự nhiên giết - mà đã giết rồi - những người mình chưa từng quen biết bao giờ."
Ngọc đáp:
"Tôi bất đắc dĩ phải bắn họ vì việc khác nếu không bắn họ, họ cũng sẽ thịt tôi."
"Họ cũng nghĩ như anh. Nhưng thôi chuyện đó đã có tự ngàn xưa. Bây giờ nói chuyện ngày nay. Bao giờ anh đi để tôi sửa soạn."
Ngọc lưỡng lự một lát:
"Lần này tôi về do đường Hà Khẩu; chắc cô đã biết, các cầu phá hết rồi đường khó đi lắm, nhiều chỗ phải đi qua những cái thác, bò trên những cây gỗ mục, trơn rêu, sẩy tay một chút là chết ngay. Muốn tránh, phải đi đường cao, không phòng bị sẽ chết khát; may ra kiếm được một chỗ nào có phân trâu còn đọng ít nước cũng phải cố mà uống."
"Anh uống được, tôi cũng uống được mà nước ấy còn lành hơn là nước cà-phê cốt của anh; bò cây thì tôi bò giỏi có tiếng. Tôi có thể đi qua không cần bò, không sợ chóng mặt. Anh còn nhớ hôm tôi nhẩy lên lan can chùa Tây Sơn; tôi bỏ tay ngả người ra ngoài coi như không, chỉ có anh là nhát mới thấy tôi thế, mặt anh đã tái xanh lại..."
Ngọc ngắt lời:
"Đường nhiều thổ phỉ lắm."
Thanh cười mũi:
"Thổ phỉ nào lợi hại bằng thằng chồng cũ của tôi, tình nhân của tôi. Thổ phỉ nào bằng được anh. Tôi có mỗi bông hoa trà quý nhất đời ở Tả Quán Lầu anh cướp giựt ngay giữa nơi đô hội. Còn một thứ thổ phỉ nữa lợi hại hơn nhiều."
Thanh ngừng lại ngẫm nghĩ. Nàng định nói: "đó là Ngọc đã cướp được tim nàng..." nhưng lại nói trạnh đi:
"Ai thổ phỉ quả tim cô Phương nhậy bằng anh."
Nàng thấy nét mặt Ngọc trở nên nghiêm trang - nghiêm trang hay là cáu như hôm đi chơi ở hồ Tây Sơn.
Ngọc nói:
"Anh Ninh chỉ bảo mình tôi đi hộ tống thôi. Không có lệnh để chị cùng đi."
"Lệnh của các anh với nhau thôi, còn tôi, tôi chưa cho đầu vào guồng máy. Tôi chẳng phải theo lệnh ai cả. Anh Ninh mới liệt tôi vào ngoại vi tổ chức, tôi là cán bộ của ‘Nấu bếp phụ nữ đoàn’. Tôi đi để nấu cơm cho hai anh."
"Thôi chị ở đây làm cơm nước cho anh Tường; nhân tiện chị biết tiếng Anh chị giúp anh Tường về ngoại giao. Chị lại biết cả tiếng Pháp thông thạo, có khi phải liên lạc cả với tụi Pháp ở đây."
"Thế nghĩa là anh không giữ lời hứa, anh không muốn tôi về biên giới hay về nước."
Ngọc nói:
"Chỉ có mình anh Ninh về nước. Tôi đến Hà Khẩu rồi lại quay lên đây ngay, đợi khi công tác trạm Hà Khẩu điện lên báo tin đoàn đại biểu ra, tôi lại sẽ đi Hà Khẩu với mấy anh nữa để đưa đoàn đại biểu đi Côn Minh."
Thanh đứng dậy:
"Thế là hai lần về biên giới anh đều bỏ rơi tôi cả. Nào bây giờ đi làm tròn phận sự cán bộ đầu bếp vậy."
"Để tôi giúp chị một tay."
Ngọc ra giếng lấy nước. Nước giếng trong đổ vào chậu thau men sứ trắng trông lại càng trong hơn. Nắng chiếu xuống thành từng vòng tròn sáng mỗi lần nước bắt đầu yên chỉ còn hơi sóng sánh. Khu vườn nhỏ xinh xinh, lá cây hơi rung động. Ngọc ngắm trời rồi lại ngắm bóng mình trên nền gạch quanh giếng; chàng ngồi xuống vén hai tay áo như Thanh hôm nào rồi cho cả cánh tay để hưởng cái lạnh của nước và rùng mình một cái. Cũng như hôm Thanh giặt áo, chàng chỉ là một thanh niên đơn sơ và cuộc đời cũng đơn sơ, mọi sự chém giết lẫn nhau trong cuộc chiến tranh khốc liệt ở Đông Nam Á như không có nữa và đôi bàn tay bao phen rây máu của chàng cũng trong sạch như làn nước trong.
Bỗng có tiếng kêu "giời ơi" từ trong bếp đưa ra. Ngọc giật mình nhìn vào thấy Thanh đương đứng ở cửa, tay bưng một rá gạo. Chàng mỉm cười:
"Nước giếng trong, mát lạnh."
"Eo ơi! Thau nước vo gạo mà anh cho cả hai tay bẩn gớm khiếp của anh vào! Anh đổ ngay đi rồi múc nước rửa thật sạch cho tôi."
Thanh chạy ra nhìn Ngọc múc nước và rửa thau:
"Cũng còn may là anh chưa kỳ ghét. Thôi không khiến anh nữa. Anh lên gác ngay, tôi bắt phạt anh phải làm một bài thơ: ‘Kỳ ghét trong nước vo gạo’. Lấy vần là ‘ôi.’ 1. Anh có làm xong bài thơ hôm nay mới được ăn cơm."
Ngọc nói:
"Cần gì phải lên gác, để tôi xuất khẩu thành chương cho chị xem. Chị cứ nhặt chấu sạn xong thì tôi cũng làm xong bài thơ, nếu không xin nhịn đói."
Thanh cố nhặt sạn chấu thật kỹ để kéo dài thời gian. Thỉnh thoảng nàng ngừng tay nhìn Ngọc, thấy Ngọc lẩm nhẩm, hai môi động đậy, nàng mỉm cười rồi lại cúi xuống nhặt trấu:
"Hôm nay gạo sao lắm trấu thế. Này anh xem, hạt cuội trắng thế này, nếu tôi không tinh mắt thì thế nào cũng có anh vỡ răng. Thế nào xong chưa, sao lâu thế?"
Ngọc nhìn xuống thành giếng nói:
"Xong rồi, nhưng thơ không hay lắm."
Rồi chàng cất tiếng khẽ ngâm:
"Bàn tay rấy máu mấy năm trời
Guồng máy vô tri cuốn mãi người
Nhúng chậu nước trong vo gạo trắng
Tay chàng "châu chấu" sạch tanh hôi."
Thanh mỉm cười nói:
"Thơ anh hỏng rồi. Châu chấu có tay à!"
Tường lúc đó vừa về. Chàng bảo Thanh:
"Chị đi ngay đằng này với tôi."
"Thưa anh, em giở bận cơm nước."
"Không cần, chị với tôi hôm nay đi ăn tiệc với một số sĩ quan Mỹ. Chị nên mặc áo ta. Chị sắm sửa thì vừa."
Thanh liếc nhìn Ngọc rồi nói với Tường:
"Vâng em xin đi ngay với anh. Độ mười lăm phút thì xong. Thế bây giờ em là cán bộ ‘ngoại giao phụ nữ đoàn’; cấp bực ngày một tăng."
Nàng cất tiếng gọi Ngọc:
"Này anh hoả đầu phu. Anh vào bếp mà thổi cơm ăn. Chúng tôi đi ăn tiệc."
Ngọc nhìn Thanh lẩm bẩm:
"Thế là mất công toi nghĩ bài thơ."
Một lát Thanh xuống, trang điểm thật lộng lẫy. Nàng mặc chiếc áo Việt màu lam sẫm, cổ đeo vòng ngọc trai (Ngọc cho là giả), môi tô son nhạt, mặt chỉ hơi thoa phấn còn đôi gò má hồng sẵn nên không cần đánh phấn hồng. Thấy Ngọc ngây người đứng nhìn, Thanh đọc luôn, giọng đùa nghịch thân yêu:
"Nước trong đã sạch mùi tanh máu
Tay lại từ đây lấm lọ nồi.
Nhắc kẻ thoát ly guồng máy cũ:
Cái guồng bếp nước mới lôi thôi!"
Thanh cười tiếp theo:

"Mà lại ‘very lôi thôi’ nữa. Tôi đi dự tiệc đây."
Sáng hôm sau lúc Thanh dậy, Ngọc đã đi từ lúc nào nàng không biết.
Như mọi buổi sáng, Thanh xuống vườn nhìn lên cửa sổ bây giờ trống không. Nàng buồn nhớ Ngọc xin phép Tường đi chơi quanh quẩn nhà mấy người bạn quen rồi nhớ đến phận sự nàng lại Quân báo cáo:
"Sáng hôm nay Ninh và Ngọc đã rời Côn Minh. Tường thì liên lạc với một số sĩ quan Mỹ, hôm qua chính em đã đi dự tiệc."
Rồi Quân bảo Thanh viết tên những sĩ quan Mỹ đã liên lạc với Tường, trong đó có tên Đại uý Patty nói tiếng Pháp rất thạo và phụ trách về việc Việt Nam.
Quân cũng đã thừa biết việc đó, nhưng chàng làm như đấy là tin mới lạ, khen Thanh và dặn Thanh nên cố tìm cách lấy lòng tin hoàn toàn của Tường.
Hơn nửa tháng sau, một buổi chiều sâm sẩm tối Thanh nghe có tiếng gõ cổng. Linh tính tự nhiên báo nàng biết là Ngọc về, quả tim nàng như thắt hẳn lại và nàng lặng người đi một lúc.
"Cô Trà Hoa Nữ ra mở cổng giùm."
Thanh bỏ rớt cái bát đương rửa xuống, chạy vội ra mở cổng:
"Anh xơi gì chưa?"
Ngọc cùng Thanh lên gác. Chàng hỏi:
"Anh Tường đâu?"
"Anh đi vắng đến khuya mới về."
Ngọc bỏ cặp da xuống giường rồi nhìn Thanh yên lặng một lúc:
"Trông cô vẫn mạnh khoẻ như thường."
Thanh ngồi xuống chiếc ghế cạnh phản:
"Cảm ơn anh. Trông anh đen quá. Chắc anh đi công tác sang nước Tây Trúc về."
Ngọc cười rồi nói:
"Tôi biết ngay mà, gặp lại chị sau hơn nửa tháng, tôi đã đoán sẵn câu đầu tiên chị hỏi là anh ăn gì chưa? Y như là. Mà quả thật đúng, tôi đói lắm, nhà có cái gì ăn không?"
"Nhà ăn cơm rồi. Để lát nữa rửa xong bát đĩa tôi mời anh đi ăn mì, hay ‘cô sèo mi siển’ hay cẩu dâu 2. Hay ta lên chùa Cá ban đêm. Chùa Cá ban đêm bán ốc sống mà cũng chẳng có ma nào đến, chỉ có cảnh đẹp và mấy câu thơ Thôi Hộ:
Mặt Ngọc mai về công tác trạm
Hoa đào khép cánh oán đông phong.
Bây giờ thì chàng Ngọc đã về còn hoa đào thì đã thành quả rồi. Vậy phải đổi ra:
Lần sau chàng Ngọc về biên giới
Xin nhớ đem theo một trái đào."
Thanh nói nhà ăn cơm rồi nhưng nàng cũng cầm cây đèn dầu lạc xuống bếp lấy gạo ra giếng vo. Ngọc thấy có ánh sáng mờ mờ ở dưới vườn sau chiếu lên, vội ra cửa sổ đứng nhìn xuống. Thanh cũng ngửng lên nhưng vì trời sáng trăng mờ nên hai người không trông rõ mặt nhau. Tuy đã tháng Tư nhưng ở Côn Minh đêm quanh năm lạnh, Ngọc bảo Thanh:
"Tôi ở biên giới về tới Côn Minh thấy không khí nhẹ hẳn, đêm lại lành lạnh. Chẳng trách người ở Côn Minh vẫn thường nói: quanh năm là mùa đông, trưa nắng là mùa hè."
Nửa giờ sau, Thanh đem lên một mâm cơm nóng bốc hơi. Thanh đứng sới cơm cho Ngọc rồi đánh cháy. Nàng cũng ngồi ghé một bên phản chọn một miếng cháy vàng ròn cho lên môi nếm thử:
"Anh ăn thêm cháy, thơm giòn lắm."
Thanh vui miệng ăn mãi, bao nhiêu chỗ cháy ngon nàng ăn hết lúc nào không biết. Nàng giơ hai bàn tay rất sạch sẽ của nàng cho Ngọc xem:
"Mỗi lần anh thổi cơm, tôi thấy anh như bị một cái tội nợ. Câu thơ gì nhỉ? Câu: "Tay lại từ đây lấm lọ nồi; cái guồng bếp nước mới lôi thôi" chỉ áp dụng vào anh. Tôi ấy à, nếu tôi giết người, tôi sẽ giết anh trước nhất - điều mà tôi đã nói với anh nhiều lần - thì bàn tay tôi vẫn trắng trẻo sạch sẽ, không dây một vết máu.
Ngọc cũng nói giọng đùa đáp lại, như vậy chàng có thể nói những lời thân yêu mà không ngượng:
"Tay chị ấy à? Giết ai? Chỉ vuốt ve cũng đủ cho người khác mê hồn, chết lịm đi, chết êm ái và như lời chị đã nói linh hồn sẽ lâng lâng tan dần như hạt muối tan trong lòng nước trong. Đêm nay anh Tường đi vắng, tôi lại mới lên, chị có ra tay thật thuận tiện. Tôi sẽ được gặp lại Thuý và biết đâu không gặp cả Phương..."
Thanh mỉm cười đáp lại:
"Linh hồn tôi cũng tan theo, xem anh làm trò trống gì với hai cô ả. Anh đừng tưởng chết là thoát được tay tôi. Vì vậy tôi giết anh cũng vô ích để anh sống cho anh khổ, còn lý thú cho tôi hơn nhiều."
Vừa lúc đó Tường về. Thanh xuống mở cổng nói:
"Anh Ngọc vừa lên."
"Thế nào công việc ra sao?"
"Thưa anh, tốt đẹp cả. Anh Ninh đã qua sông Cốc Lếu. Anh lên hỏi anh Ngọc sẽ rõ hơn."
Lần này thì Ngọc không phải về biên giới nữa. Ít lâu sau đoàn đại biểu do Ninh đưa ra đến hội họp ở nhà Tường.
Thanh và Ngọc bận bịu tíu tít nhất là Thanh phải mua thêm bát đĩa và thổi nấu cho các nhân viên trong phái đoàn. Nàng phái Ngọc đi mượn một cái chảo thật to để thổi cơm cho hơn mười người ăn, tuy vậy cơm bữa nào cũng thơm dẻo. Nàng tránh lên gác khi các phái viên họp bàn. Ngọc vì địa vị không được dự, thỉnh thoảng phụ trách đưa mấy nhân viên đi gặp các đồng chí khác hoặc đi chơi đây đó. Thanh và Ngọc ăn cơm riêng ở dưới nhà. Thanh nấu cơm bằng chảo nên cháy ròn và mỏng. Nàng và Ngọc chuyên môn ăn cháy. Có khi cơm vừa bưng lên Thanh lấy thìa cạo cháy rồi đưa dần Ngọc ăn cho nóng. Có đoàn đại biểu nên cơm nhiều món ăn hơn mọi lần. Thanh hay làm ruốc rang cho Ngọc ăn với cháy vì Ngọc thích món đó.
Rửa bát đĩa vì nhiều quá nên Ngọc phải phụ giúp Thanh nghĩa là mỗi lần Thanh rửa xong, chàng đón lấy, cầm cái khăn lau qua, có khi chẳng lau gì cả cứ việc úp vào rổ để phơi. Cũng có khi chàng dúng tay vào chậu rửa bát; tuy nước nhờn nhưng được cái thú thỉnh thoảng chạm vào bàn tay Thanh. Thích nhất là khi bốn bàn tay cùng nhúng sâu xuống đáy chậu để mò những chiếc đũa còn sót lại, nhiều lúc sờ thấy rồi, Ngọc cũng lờ đi để bốn bàn tay đùa nghịch với nhau và hai người thi nhau xem ai tìm ra trước. Thỉnh thoảng Ngọc lại kéo trong túi ra một miếng cháy, để mặc Thanh lau bát.
Chàng ngồi xuống thành giếng gậm cháy, vơ vẩn ngắm nhìn nắng rung trong lá cây hoặc mấy con chim sâu bay ngang qua. Những lúc đó, chàng bảo Thanh ngừng rửa bát rồi hai người cùng ngắm những con chim nhỏ xinh xinh bay từ cành nọ sang cành kia, mổ sâu vội vàng nhưng vẫn nghiêng đầu nghe ngóng các tiếng động. Sáng nào, Thanh và Ngọc cũng thấy có một đôi chim đen, bụng trắng, đến đúng giờ lắm. Lâu dần hai con chim trở nên bạo dạn và bay là xuống đất chỗ Thanh rửa bát. Nàng cố ý quẳng sẵn một ít cơm ướt để chúng lại nhặt. Sau quen dần, Thanh cầm cả nắm cơm vứt, hai con chim chỉ hơi giật mình rồi chụm lại tranh nhau ăn ngay gần chỗ Thanh ngồi. Còn đàn chim sâu thì bao giờ cũng chỉ thoăn thoắt chuyền cành tìm mồi; tuy không có tiếng động, chúng cũng vụt bay đi kiếm mồi nơi vườn khác.
Rồi một hôm cả đoàn đại biểu cũng bay đi đâu mất như bầy chim sâu. Ngọc biết là họ bay đi Trùng Khánh. Tường và Ninh cũng bay đi với đoàn đại biểu nên giao phó căn nhà bí mật cho Ngọc và Thanh trông coi. Thế là hai người lại ở chung một nhà, một căn nhà rất kín đáo mà chưa biết ở đến ngày nào.
Đêm hôm đầu hai người thức suốt sáng nói chuyện. Thanh đã pha sẵn nước cốt cà-phê và đi mua một cái phích nước vì nàng sợ mỗi lúc phải tung chăn dậy xuống tận bếp đun nuớc. Nàng nằm trong chăn ấm bảo Ngọc:
"Báo anh biết trước là đêm nay anh đừng có lôi thôi. Ngoài chất cyanure de potassium mà anh đã biết vì có mùi hạnh nhân..."
Nàng trùm đầu để dấu nụ cười:
"Thảo nào mỗi khi uống tôi thấy anh cứ hít hít..."

Ngọc cười:
"Bây giờ chị dậy mà xem tôi nốc ngay cạn cốc này một hơi. Mọi lần tôi ngửi là ngửi mùi thơm của cà-phê."
"Nhưng anh đừng tưởng là thuốc độc chỉ có cyanure de potassium thôi. Còn chán vạn thứ khác nguy hiểm hơn nữa mà không có mùi gì cả. Anh Ngọc này, vườn sau nhà rất tiện nhưng tôi cũng không vội, để hôm nào anh sắp về Mông Tự thăm cô Phương mà ai cũng tưởng anh đi rồi, tôi sẽ chích cho anh một mũi tiêm, tôi đã mua sẵn ống tiêm và mua sẵn cả xẻng cuốc. Anh có để ý chỗ đất cát ngay dưới gốc cây không? Tôi sẽ chôn anh ở dưới gốc cây chỗ luống cải rồi ngày nào tôi cũng tưới nước mà cũng chẳng cần tưới nữa cải tha hồ tốt, nấu canh tha hồ ngọt. Anh Tường về chắc thế nào cũng khen tôi chịu khó chăm bón..."
Bỗng Thanh tung chăn xuống giường rồi cứ đứng nhìn khắp nhà như tìm vật gì. Nàng rút ở trong người ra một gói dẹt rồi bảo Ngọc:
"Anh nhắm mắt lại."
Ngọc không hiểu gì nhưng cũng nghe theo.
"Bây giờ anh mở mắt ra."
Ngọc cầm cốc cà-phê nước cốt, ngửi một lúc lâu rồi nói:
"Chỉ có mùi cà-phê chẳng có mùi gì. Thôi, chỗ này chị uống giùm, tôi uống nhiều quá rồi. Quả tim đập mạnh quá."
"Quả tim anh đập mạnh à? Triệu chứng đấy."
Thanh cầm cốc cà-phê uống một ngụm nói:
"Tôi chẳng thấy mùi gì. A nhưng hơi có mùi tanh tanh. Anh thử ngửi kỹ xem."
Ngọc cũng ngửi cốc cà-phê:
"Ư ừ, hơi có mùi tanh."
Thanh cất tiếng ngâm:
"Duyên thơm để nhiễm mùi tiền hôi tanh
Còn đâu là Ngọc là Thanh
Còn đâu là nghĩa là tình ai ơi!"
"Tôi đố anh hiểu được tại sao tôi lại ngâm câu thơ đó."
Ngọc nghĩ mãi cũng không ra.
"Bây giờ tôi bảo anh nhé. Nhưng anh phải cam đoan giữ bí mật, chỉ có tôi với anh biết thôi.
"Xin cam đoan."
Thanh ra chỗ phía cửa sổ, kiễng chân rút ở mái nhà ra một cái gói dẹp bọc giấy. Nàng mở rồi đưa Ngọc coi. Ngọc nhìn vào nói:
"Sao mà lắm thế này?"
"Đấy, chưa chi anh đã tối mắt lại rồi."
Ngọc ngồi nhỏm dậy:
"Bây giờ tôi đã hiểu câu thơ của chị:mùi tiền hôi tanh. Nhưng chị cho, tôi cũng không thèm lấy."
Thanh ngồi xuống chỗ Ngọc nằm:
"Đây là tất cả vốn liếng của tôi. Anh đếm xem."
"Tôi có bao giờ để ý đến tiền. Tôi chỉ biết là vàng lá nhưng bao nhiêu lạng, bao nhiêu cân thì tôi xin chịu."
Thanh nói:
"Bây giờ anh phải học lấy."
Nàng dịu giọng tiếp theo:
"Chỗ tiền này là của chung tôi với anh. Nếu tôi chết vì anh giết được tôi trước, thì anh xé một miếng để tôi ngậm xuống suối vàng còn bao nhiêu anh tiêu dùng về công việc của anh hay về việc cưới cô Phương, cái đó tuỳ ý; nếu anh chết thì tôi sẽ nhét vàng vào miệng anh và chôn vàng theo người rồi tôi về nước để mưu tính việc tôi đã nói với anh: cho mỗi cậu một phát."
Một tia oán hờn hơi độc ác thoáng hiện trong mắt nàng. Ngọc nói:
"Nếu vậy thì tôi mong chết trước để chị báo được thù của chị. Tôi, tôi không báo thù ai cả. Này, nhân tiện chị giết cả cô Phương đi."
"Tôi giết cô Phương làm gì. Bây giờ tôi lại gói vàng giắt vào chỗ cũ. Anh ra nhận kỹ lấy chỗ giấu."
Thấy Ngọc trù trừ cứ nằm yên, Thanh hất chăn để hở cả ngực Ngọc ra. Ngọc kêu:
"Lạnh quá."
"Anh lười chẩy thây, làm cách mạng như anh tôi thấy có một. Dậy đi anh."
Trong thâm tâm Ngọc hình như một nỗi vui còn e ấp vừa chớm nở. Chàng vẫn nằm yên, ngực hở nhưng không nghĩ đến lạnh. Chàng cảm thấy - tuy không rõ ràng lắm - là Thanh yêu chàng.
"Kìa sao anh không dậy."
"Nào thì dậy."
Thanh đưa Ngọc ra phía cửa sổ đặt chỗ vàng lá vào một kẽ dui rồi nói:
"Anh nhớ đến từ vách lên đây là bốn xà ngang, bốn là tên Tứ ấy, mà lại ở chính giữa của sổ. Anh nhớ chưa? Tôi trông anh như người mất hồn. Bây giờ anh về đắp chăn rồi tha hồ ngủ yên."
Sáng hôm sau Thanh qua nhà Quân báo cáo lấy lệ; khi trở về, Ngọc còn ngủ. Nàng pha một cốc cà-phê sữa bưng lên, lấy tay lay người Ngọc. Ngọc mở mắt nhìn Thanh rồi lại nhìn cốc cà-phê sữa mỉm cười:
"À ra mình còn sống. Hay là chiêm bao hay là đã lạc vào Thiên Thai rồi."
Thanh cũng mỉm cười đáp lại:
"Thiên Thai gì mà lại có vàng. Anh có nhớ chỗ để vàng không?"
Ngọc nói luôn:
"Anh Tứ."
Ở ngoài cửa sổ trời nắng to, gió thổi mạnh, mấy cành cây dạt về phía cửa sổ lá rung phất phới. Trên mái nhà có tiếng chim. Ngọc cho một tay ra khỏi chăn toan cầm cốc cà-phê sữa. Thanh vẫn đứng bên cạnh, một tay cầm lấy cốc xoay đi xoay lại. Ngọc định giơ tay ra và đặt tay mình lên tay Thanh. Nhưng chàng vẫn để nguyên cánh tay trên giường nói với Thanh giọng gắt gỏng:
"Tôi không đói, chị có đi chợ thì đi ngay kẻo chậm."
"Thì tôi vừa đi chợ về xong."
Tuy Ngọc nói gắt gỏng nhưng Thanh nhận thấy có một vẻ khác, một sự vui vẻ rất nhẹ thoáng trong hai con mắt chàng. Thanh ngồi xuống ghế chống hai tay vào cằm nhìn ra phía cửa sổ nắng chói, nàng lim dim mắt đón chờ gió thổi lọt vào buồng và nói bâng quơ:
"Hôm nay, trời đẹp quá. Anh dậy đi chơi chùa Cá với tôi đi. Ta lại ăn ốc sống, đến ngồi chỗ đề bài thơ Thôi Hộ. Nếu anh đói thì tôi bảo họ làm thêm mấy chục bát phở chua.
Ngọc tung chăn ngồi dậy:
"Phải đấy. Đi chơi đi. Đi chùa Cá hay ăn cơm thịt bò ở Cổng Tây cũng được."
Thanh chạy ngay xuống nhà rồi bưng lên một thau rửa mặt nước trong vắt lấy ở giếng lên. Nàng ngồi nhìn Ngọc rửa mặt và không hiểu tại sao tự nhiên chàng lại vui vẻ khác hẳn mọi ngày. Ngọc rửa mặt thật kỹ và huýt sáo luôn miệng.
Chú thích:
1.
Tiếng riêng Việt kiều Vân Nam dùng để chỉ những người xấu, xoàng, kém cỏi, v.v...
2.
Cẩu dâu: Thịt chó.
Chương hai mươi bẩy
Một tháng sau đoàn đại biểu về rồi lại vụt biến mất. Sau một hồi bận rộn, cuộc đời trở lại yên tĩnh như cũ. Hai người được Tường giao cho việc giữ căn nhà bí mật. Chỉ khác là thỉnh thoảng Ngọc đi vắng về những công việc gì Thanh không rõ. Thanh cũng lén đi nhiều lần để báo cáo với Quân. Không có gì quan trọng vì mọi việc Quân đã biết hết do ngả khác. Quân bảo Thanh:
"Cô cần phải đi với Tường hoặc Ninh và cốt nhất theo họ về nước. Chắc họ đã được Tưởng Giới Thạch hứa hẹn gì đây, có khi họ được giúp súng ống kéo người về chiếm mấy tỉnh ở biên giới."
Thanh bàn:
"Nhưng thưa anh dẫu sao Pháp với Tàu cũng là đồng minh, quân Pháp trốn sang đây rất nhiều mà toàn là thứ quân thiện chiến. Tưởng Giới Thạch nếu giúp chắc sẽ giúp Pháp về để chiếm lại Việt Nam. Anh cần phải tuyên truyền mạnh trong đám lính khố đỏ trốn sang đây với Pháp. Tụi ấy theo mình, chắc mình chiếm được các tỉnh biên giới. Anh chắc cũng đã biết Đồng Minh thoả thuận để cho Pháp trở về cai trị Việt Nam như cũ, một khi quân Nhật đầu hàng. Em đã đọc ‘bức thư gửi các đồng chí’ của trung ương trong đó tiên đoán Đồng Minh tất sẽ thắng. Ở trong nước, chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật lập nên toàn là những nhân sĩ, về mặt chuyên môn thì khá nhưng phần nhiều nhát như cáy và không biết một tí gì về chính trị. Các anh em trong nước muốn lật đổ chính phủ ấy dễ như trở bàn tay. Đấy là cơ hội tốt. Còn em, em không thể đi biên giới được vì họ không cho đi, Ngọc vẫn ở lại Côn Minh. Em chắc họ nghi em và nghi cả Ngọc nữa. Tường tinh ý lắm thế nào chẳng biết em đã quyến rũ được Ngọc vì vậy mới không cho Ngọc và em đi theo."
Quân vuốt bộ râu lơ thơ ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
"Đồng chí tiên đoán đúng đấy. Vậy đồng chí cứ ở tạm Côn Minh, dò la tin tức các kiều bào. Còn tại sao Ngọc không đi, tôi chắc Ngọc bận liên lạc với cơ quan tình báo Tàu của Đái Lập ở đây. Đồng chí cần theo dõi Ngọc; nhiệm vụ của đồng chí vẫn không thay đổi. Nhưng bây giờ trọng tâm công tác là theo dõi Ngọc đừng rời nửa bước."
Thanh ra khỏi nhà Quân, chú ý xem có ai theo dõi không. Nàng nhìn trời trong và mấy đám mây trắng rồi mỉm cười lẩm bẩm:
"Theo dõi Ngọc đừng rời nửa bước."
Nàng cúi mặt xuống rồi lại mỉm cười nghĩ thầm:
"Theo dõi Ngọc cả ngày cả đêm nữa. Cả đời cũng không sao."
Khi về tới nhà thấy cửa vẫn khoá trái, biết là Ngọc đi vắng nàng tự nhiên tức Ngọc. Thanh mở khoá lên gác rồi nằm xuống chỗ Ngọc vẫn nằm, mặt áp cái gối của Ngọc lẩm bẩm:
"Mùi tóc hôi xì."
Nói vậy nhưng nàng âu yếm áp mạnh chiếc gối vào mặt mình để ngửi cái mùi tóc hôi và thân yêu ấy. Bỗng Thanh dậy chạy ra chỗ giấu vàng; nàng ngơ ngác tưởng mình lầm, nhưng không, rõ ràng là dui thứ bốn nhưng gói vàng đã biến đâu mất. Nàng tìm mãi nhưng vẫn không thấy. Thanh lấy khẩu súng lục của Ngọc để trong ngăn kéo rồi ra đứng dựa cửa sổ chỗ Ngọc vẫn thường đứng: nàng không tiếc gì mất chỗ vốn liếng bao năm mới dành dụm được. Nàng lẩm bẩm:
"Không lẽ nào. Nhưng nếu Ngọc không trở về nữa, Tường cũng lẩn tránh thì hai người đã biết rõ mình là Việt Minh. Chắc Ngọc nhắm thế không lợi dụng mình được nên đành lấy chỗ vàng ấy vậy. Nếu độ vài ngày Ngọc không về thì... Nếu thế lần này là lần thứ ba nàng đã bị lừa mà người lừa nàng lại là người nàng yêu nhất đời."
Vừa lúc đó có tiếng chân bước lên thang gác; chắc là Ngọc vì khoá ngoài chỉ có hai chìa, nàng giữ một và Ngọc giữ một. Thanh thấy người nhẹ nhõm hẳn. Nàng mỉm cười tinh nghịch tự nghĩ:
"Dẫu sao mình cũng cứ làm như là Ngọc ăn trộm vàng."
Ngọc đứng lại ở đầu cầu thang nhìn Thanh. Thấy Thanh tay cầm khẩu súng lục chĩa về phía mình, Ngọc vội chạy lên đứng bên cạnh, yên lặng. Thanh giơ tay lên ấn khẩu súng vào bụng Ngọc:
"Vàng đâu? Chỉ có anh lấy thôi. Tôi sẽ cho anh một phát xong đời kẻ thứ ba đã lừa tôi, rồi tôi sẽ quay súng..."
Ngọc chỉ cười:
"Chị đã bảo tôi là của chung. Tôi vừa bán nó đi rồi. Cô Phương nhà khá giầu nhưng về phần tôi cưới xin cũng phải tốn kém. Vả lại chị cũng đã có bảo tôi cứ lấy tiền này cưới cô Phương."
Chàng nhẹ nhàng đặt tay lên khẩu súng:
"Chị bắn còn non tay lắm, tôi chỉ vẫy tay một cái là đạn sẽ xuyên qua ngực chị."
Ngọc né mình rất nhanh, lấy chân ngoặc vào chân Thanh. Quả nhiên Thanh ngã xuống sàn gác và khẩu súng đã chuyển sang tay Ngọc. Ngọc bật lên cười. Thanh cũng bật cười theo. Nàng đứng lên phủi áo rồi cau mày nói vui vẻ:
"Thật là trời giáng. Đau chết người."
Ngọc lại đưa Thanh khẩu súng. Thanh lắc đầu:
"Thôi tôi sợ bắn người khác rồi, chỉ trừ khi nào tôi tự tử mà không muốn tự mình bắn mình. Thế gói vàng anh để đâu?"
"Chị xuống dưới vườn với tôi."
Chàng bỏ súng vào ngăn kéo, cùng Thanh xuống nhà dưới rồi đưa nàng ra luống cải dưới bóng cây:
"Chị nhìn kỹ xem có gì khác không?
Thanh lúc đó không nghĩ đến gói vàng nữa; nàng hé môi nhìn ngắm Ngọc và những hoa nắng rung động trên người chàng.
Thấy Thanh nhìn mình, Ngọc cười bảo Thanh:
"Chắc chị cho tôi giấu vàng trong người. Chính chị đã mua xẻng cuốc về làm vườn, chính chị định hôm nào
sẽ vùi thây tôi ở dưới luống cải nên tôi mới nẩy ra cái ý kiến lấy của thay người. Như vậy lúc chị chôn tôi, chị vừa trừ được một tay Việt Quốc lại vừa tìm được ra vàng, đem đưa Quân chắc là có công lớn."
Thanh kiễng chân níu một cành cây xuống lấy tay rứt từng lá rồi thả cho bay theo gió:
"Cái gì anh cũng biết. Anh tài thật. Anh biết cả tôi có liên lạc với Quân."
"Chị cũng vậy, việc gì chị cũng biết. Chị còn tài hơn tôi nhiều."
Yên lặng một lát rồi Ngọc tiếp theo:
"Chỉ còn một thứ. Mỗi một thứ quý nhất đối với tôi thì tôi chưa biết được mà chắc chị cũng chưa biết như tôi..."
Nói xong Ngọc bỏ lửng câu, xoay ra chuyện khác:
"Chị nhìn cây cải kia, cây cải hơi héo lá ấy, ở dưới tôi chôn một cái hộp sắt đựng đầy vàng. Như vậy nếu nhà có cháy, vàng của chị vẫn còn nguyên."
Thanh bỏ tay cho cành cây bật lên cao rồi bảo Ngọc:
"Anh khôn nhưng mà ngu. Cây cải, cho dẫu để làm giống lấy hột đi nữa cũng chỉ sống được ít lâu."
"Thế chị có nhớ tên anh Tứ không? Lúc chôn vàng tôi đã đo cẩn thận, từ góc tường kia đến chỗ chôn vừa đúng bốn thước, từ góc tường phía sau chị đến chỗ chôn vàng vừa đúng ba thước, tên anh Ninh bí danh N.3. Thế tôi ngu hay là chị ngu nào?"
"Vâng tôi ngu, để tôi thổi cơm hay ta lại ra hiệu Nam Phong của anh Vân ở Kim Bích lộ ăn cơm Tây."
Ngọc chỉ cây cải héo:
"Có những chừng kia vàng, tội gì không đi ăn hiệu. Hôm nay lại hiệu cơm thịt bò Hồi Hồi, ăn xong ta lại hiệu Si Mân lên gác uống nước chè, chỗ ấy vắng tha hồ nói chuyện."
"Anh thực mâu thuẫn với chính anh. Tội gì đi tìm chỗ vắng để nói chuyện. Ở nhà này vắng nhất. Anh muốn nói chuyện gì thì nói đi."
"Tôi chẳng có chuyện gì nói cả. Nói hết từ lâu rồi. Chỉ trừ một thứ...
"Thứ gì?"
Ngọc lại ngồi ở thành giếng, nhìn bóng mình in tận cuối cùng, rồi bảo Thanh:
"Thứ ấy bí mật lắm, tôi phải giữ kín, cả đời cũng không nói được."
Thanh cũng bước theo Ngọc, đứng nhìn xuống giếng sâu:

"Các anh làm cách mệnh, lúc nào cũng bí mật nhưng kín mà hở. Tôi đi guốc trong lòng các anh và nhất là lòng anh."
Ngọc đứng lên, vươn vai rồi nói với Thanh:
"Này, hay ta đi ra cánh đồng đào. Bây giờ đào đã chín. Ăn vào thay cơm cũng được, tiên mà, ăn hoa quả càng nhẹ nhõm trong người. Đồng chí nghĩ thế nào?"
"Thống cô!" 1.
Thanh lên gác. Lần này nàng mặc quần áo Việt và đánh phấn rất nhẹ. Nàng lại mặc chiếc áo lam sẫm như hôm đi dự tiệc với Tường. Lúc Thanh xuống, Ngọc đứng ở cạnh giếng nhìn. Thanh cũng đẹp lộng lẫy như hôm nào. Cổ nàng đeo một chuỗi hạt trai. Ngọc bĩu môi:
"Lại hạt trai giả."
Chú thích:
1.
Thống cô: nghĩa là thông qua, biểu quyết tán thành một đề nghị.
Chương hai mươi tám
Đi đâu Ngọc cũng nghe họ bàn tán về hai quả bom nguyên tử. Ít lâu sau, có tin Nhật đầu hàng. Đêm ấy ở thành phố Côn Minh, dân Trung Hoa và cả dân Việt nữa đều đốt pháo ăn mừng.
Tường lúc đó về Khai Viễn, nhà chỉ có Thanh và Ngọc. Ngọc đi mua một bánh pháo nhỏ về đốt. Chàng nửa muốn ăn mừng nửa muốn ngửi mùi khói thơm để nhớ lại cảnh Tết ở quê nhà. Chàng nhớ lại những đêm giao thừa, hễ cứ mỗi lần đốt pháo là chị chàng lấy hai ngón tay bịt tai lại; chàng thường trêu nghịch đem pháo lại gần có khi quẳng cả bánh pháo vào chân để chị kêu rú lên.
Khi đốt xong chàng thấy Thanh ngồi đón hít những làn khói thơm. Nàng ngồi xuống phản yên lặng một lúc lâu rồi ứa nước mắt lấy hai tay che mặt khóc nức nở. Ngọc không hiểu Thanh nghĩ đến những đêm giao thừa, nhớ bố mẹ đã mất mà khóc hay vì nghĩ đến khói pháo thơm hôm về nhà chồng mà khóc vì tủi thân. Chàng muốn ngồi xuống cạnh Thanh kéo hai tay nàng xuống và cầm lấy tay nàng nói vào câu an ủi. Việc ấy Ngọc thấy rất tự nhiên nhưng chàng vẫn đứng yên nhìn vào hai vai Thanh rung lên mỗi lần nàng thổn thức.
Bỗng Thanh đứng dậy, hai con mắt còn ướt, nhưng miệng nàng thì vui tươi nở một nụ cười nói với chàng:
"Bom nguyên tử không sợ bằng. Đêm nay, tôi lại muốn đi chơi Tả Quán Lầu. Nhưng không đi thuyền đâu, chỉ đến ngồi ở cửa hàng trông ra hồ, nghe thiên hạ đốt pháo và mừng sắp đến ngày nước nhà độc lập và được về thăm làng cũ."
Đêm ấy trời vừa mưa xong, đường lát đá trơn nên hai người đều đi rất thong thả về phía Phục Hưng Tân Thôn. Gần tới nơi thì trời lấm tấm mưa như mưa phùn ngày Tết. Thanh và Ngọc cứ yên lặng đi, không ai nói một câu nào, qua Phục Hưng Tân Thôn cũng không để ý. Ở xa tiếng pháo vẫn nổ ran. Đường mỗi lúc một vắng. Đáng lẽ rẽ tay trái hay thuê xe đi Đại Quan Lâu thì lại rẽ tay phải về phía Lạc Hợp Thôn do lối Tiểu Tây Môn về nhà.
Qua nhà không ai bảo ai cứ đi thẳng. Tuy đã khuya nhưng vì có tin Nhật đầu hàng nên các hàng ăn vẫn mở cửa. Ngọc rủ Thanh vào một hàng mì. Các khách hàng ai cũng ngửng lên vì thấy Thanh đẹp. Thanh đêm ấy mặc quần áo ta; họ biết là người Việt nên bắt chuyện hỏi han:
"Thế là nước Việt của cô cũng như nước chúng tôi đều thoát khỏi ách người Nhật."
Có mấy người bảo nhà hàng lấy rượu ngon rồi họ quây quần chung quanh bàn ăn của Ngọc và Thanh chúc rượu mừng. Thanh cũng đứng lên đáp lễ và uống một hớp rượu. Một người nói:
"Can pây." 1.
Thanh giơ cao cốc rượu:
"Xin uống mừng nước các ông."
"Xin mừng hai ông bà cách mệnh thành công."
Thanh uống một hơi cạn chén. Người nàng nóng bừng và nàng cảm thấy mọi người đều tử tế, yêu chuộng hoà bình. Những việc giết lẫn nhau giữa Việt Minh và Việt Quốc đối với nàng lúc đó là những chuyện xa lắc xa lơ và vô nghĩa lý.
Ra khỏi hàng, hai người lại đi giữa mưa phùn. Thỉnh thoảng có người đi ngược lại đốt pháo lẻ tung lên trời. Dưới ánh đèn Thanh thấy người đó miệng há hốc... nhếch mép cười một mình như người điên. Chắc họ cũng vừa uống rượu mừng hết chiến tranh ở đâu về.
Ngọc đưa Thanh đi thẳng tới lăng Đường Kế Nghiêu gần đó. Ngọc đã hai ba lần vào với Tường về việc liên lạc. Lăng là một khu vườn thật rộng trong đó có mộ Đường Kế Nghiêu và hai căn nhà lớn, căn ngoài là nhà của Đường tiểu thơ ở cùng cô Tôn người Bắc Kinh phụ trách trông coi mộ. Cổng vườn mở rộng; căn nhà của Đường tiểu thơ đèn sáng choang. Thanh nói khẽ:
"Trông như nhà ma. Chắc họ cưới nhau."
"Đúng đấy chị ạ, họ đương ăn síu dề mừng ma Mỹ thắng ma Nhật."
Ngọc lấy tay che miệng:
"Cô dâu ma tôi biết mặt nhiều lần: phúc hậu, tử tế lắm, nhưng thân hình cũng phúc hậu mập mạp, bắp chân như bắp hoa chuối hột lại đeo kính cận thị số 5. Chắc cô dâu đương đợi tôi đến làm lễ hợp cẩn. Cô Tôn và chị là hai cô phù dâu. Ta đi vào kẻo nhà gái đợi."
"Nhà người ta vào thế nào được."
"Chị không thấy cổng mở rộng và có hai cái ô-tô nhà à? Ở đây ai vào cũng được huống hồ tôi là chú rể chị là phù dâu."
Ngọc cầm lấy tay Thanh giục đi. Thanh thấy hay hay. Men rượu khiến nàng chếnh choáng và trở nên bạo dạn, đi sát hẳn vào người Ngọc. Đến một bụi cây nàng đặt tay lên vai Ngọc:
"Đấy anh xem tôi nhìn vào cửa sổ, đèn sáng mà không có bóng một người nào."
Ngọc lấy tay ôm ngang lưng Thanh ẩy nàng đi nơi khác:
"Nhưng chúng mình không vào cứ để nhà gái đợi, trêu chơi. Chị lại đây."
Ngọc dìu Thanh đi vòng ra phía tay trái, đến một cái ghế đá cạnh bụi trúc. Hai người buông nhau ra ngồi xuống ghế đá ướt. Ánh đèn từ ở căn nhà chiếu qua lá trúc nhẹ rung động. Thanh nhớ lại câu thơ Ngọc ngâm ở cánh đồng đào khi nghĩ đến cảnh trăng năm nào cùng Thuý ngồi ở vườn sau. Nàng khẽ ngâm:
"Trăng xưa vườn cũ sáng ngời
Bóng ai hoà lẫn bóng người năm xưa."
Ngẫm nghĩ một lát nàng mỉm cười ngâm tiếp theo:
"Vườn nay đèn điện sáng ngời
Bóng ai hoà lẫn bóng người đêm nay."
Rồi Thanh hỏi Ngọc:
"Tôi quên mất rồi, trong Liêu Trai cô dâu tên là gì nhỉ?"
"Tên chú rể là Ngọc Lang còn cô dâu là con gái nhà họ Dương, kiếp trước lấy Đường Minh Hoàng nên có khi gọi là Dương Quý Phi, nhưng vì suýt làm mất nhà Đường nên Thượng đế Ngọc Hoàng cho đầu thai làm con gái Đường Kế Nghiêu và ban cho một đôi kính cận thị số 5 của động Hoa Kỳ, có ông Trụ Man 2 làm chủ động."
Thanh bật lên cười. Ánh sáng loang loáng trên áo Thanh mỗi lần gió rung lá trúc. Mặt Thanh đúng vào chỗ sáng. Ngọc nhìn rõ những hạt nước mưa nhỏ như sương lóng lánh trên tóc nàng và cả trên gò má. Ngọc biết chắc chắn là Thanh đã yêu mình, toan nói câu mà chàng thường tự nhủ trong bao lâu:
"Anh yêu em."
Nhưng chàng vẫn yên lặng. Thanh cũng định nói:
"Em yêu anh từ lâu."
Nhưng nàng cũng yên lặng, chỉ hé môi mỉm cười.
Trời vẫn mưa lấm tấm. Hai người cứ ngồi như vậy lâu lắm quên cả về, không để ý gì đến nước ở ghế đá thấm dần vào quần và nước mưa xuống ướt đẫm vai.
Chú thích:
1.
Can pây: cạn bôi. Theo tục lệ bên Trung Hoa, khi chúc nhau phải uống cạn chén.
2.
Ông Truman lúc đó là Tổng thống Hoa Kỳ.
Chương hai mươi chín
Một hôm Tường về bảo Ngọc:
"Việc hỏng cả rồi."

"Sao lại hỏng?"
"Về phía Mỹ, Patty có nói với tôi rằng chính sách của họ là ‘hand off’ nghĩa là bỏ tay ra, không dúng vào việc Trung Hoa cũng như việc Việt Nam. Công việc liên lạc với Mỹ thế là đứt đoạn. Còn về phía Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch muốn làm chủ hẳn Vân Nam nên hứa hẹn rất nhiều với Long Vân. Lư Hán kéo quân đi, tất nhiên quân Trung ương xuống thay thế. Long Vân hết quân sẽ bị cô lập, chắc chẳng bao lâu Tưởng sẽ mời lên Trùng Khánh. Quân ở Vân Nam chú đã biết, quân cà khổ đói khát rách rưới ấy kéo về Việt Nam thì thật là cái tội nợ cho dân mình. Thật đáng buồn. Nhưng cũng may nhờ ở sự tuyên truyền đã lôi kéo được một số đông lính khố đỏ theo mình. Anh Ninh sẽ phụ trách đưa họ về nước, chia làm hai ngả, một số về Lao Kay, một số sẽ về Hà Giang. Việc tuyên truyền ấy một phần nhờ có Thanh giả làm người đi bán quà ở các trại Pháp tập trung lính Việt."
Ngọc nghĩ thầm: "Thảo nào Thanh đi vắng luôn, có khi mươi ngày không về; mỗi lần Thanh về chàng lại được Ninh phái đi các nhà đồng chí khác tuyên thệ cho anh em quân nhân". Chàng lại trách Thanh về việc ngày nào chàng cũng phải đi chợ nấu ăn nhất là lấy nước tưới mấy luống rau cải. Rau cải dưới có chôn vàng bây giờ đã nở hoa màu vàng, tươi đẹp hơn cả vàng chôn dưới gốc."
Khi nào buồn nhớ Thanh chàng lại ra Đại Quan Lâu ngồi ở phòng chè trông ra hồ. Chàng thích nhất vào lăng Đường Kế Nghiêu ngồi ở cái ghế đá hôm Nhật đầu hàng để nghe tiếng gió reo trong khóm trúc. Cũng có đôi lần Tường rủ chàng đi liên lạc với ông Hoàng Thạch về ban đêm, chàng chỉ ngồi lấy lệ nhìn ngắm Đường tiểu thơ và đôi kính cận số 5 của nàng rồi chàng từ kiếu để Tường ngồi nói chuyện một mình, ra ngồi ở cái ghế đá ngắm trăng, vơ vẩn tưởng nhớ Thanh.
Một hôm Thanh về, Ngọc nói luôn:
"Lần sau chị đi trại tập trung nào?"
"Gần đây thôi."
"Tôi sẽ đi với chị."
Thanh hỏi:
"Anh đã được lệnh anh Tường cho đi chưa?"
"Chưa. Nhưng tôi sẽ xin phép anh ấy. Thế nào anh ấy cũng cho. Tôi chỉ viện một lẽ duy nhất là về việc tuyên truyền lôi kéo người thì tôi vào bậc nhất vì tôi đã tuyên truyền được chị. Chị có bao nhiêu vàng tôi cũng tuyên truyền lấy sạch."
"Thế ngộ nhỡ bất thình lình anh phải đưa người về biên giới? Đưa tôi chẳng hạn."
Ngọc nói:
"Nếu thế thì chị sẽ đưa họ về. Các đường lối tôi sẽ chỉ bảo rõ chị. Chị lại trèo cây trơn không cần bò..."
Nói đến chữ "bò" Ngọc chợt nghĩ ra một điều, liền hỏi Thanh:
"Chị bán những quà gì cho anh em quân nhân?"
"Bán gì thì phải tuỳ cơ ứng biến. Chỉ có đàn bà mới gánh hàng được, đầu có khi đội thúng mà không cần tay giữ. Trông mặt anh thư sinh thế kia không lẽ anh đi bán sách chữ Nho cho bọn quân nhân mới sang được ba bốn tháng. Không lẽ anh đi bán bánh tây giò chả như tôi."
Thế là Thanh đã tự nhiên tỏ cho Ngọc biết mình đi bán bánh tây. Ngọc nói luôn:
"Chị bán bánh tây, còn tôi, tôi sẽ bán bánh bò tàu."
Thanh cười:
"Anh có biết cách thức làm bánh bò tàu không?"
"Tôi sẽ mua lại của người Tàu. Cứ bán được một chiếc tôi lại tự thưởng cho mình một chiếc."
"Sao lại một chiếc bánh bò tàu? Phải cắt nó mà cắt phải đều tay, đừng có miếng to miếng nhỏ."
"Tôi sẽ tập như chị tập bắn súng lục. Lát nữa chị mua cả một mẹt về tôi cắt cho chị xem."
Thanh bật cười:
"Đời thuở nhà ai bánh bò tàu lại để trong mẹt."
Ngọc nói:
"Bò tàu bò tây, để khay để mẹt không quan trọng, việc quan trọng là cứ bán xong một chiếc bánh bò là tôi tuyên truyền xong một người và họ vừa ăn tôi vừa tuyên truyền cho họ."
Vừa lúc đó thì Tường về, vẻ mặt buồn rầu.
"Việc gì thế anh?"
"Việc trọng đại: trong nước Việt Minh lên nắm chính quyền, Bảo Đại từ chức, chính phủ Trần Trọng Kim đổ."
Thanh nói luôn:
"Nếu vậy để ngày mai em trở về Mông Tự, cho bà Su nghỉ vì như anh Ngọc vẫn thường nói: ‘Cà-phê bà Su pha thì ma uống nổi’. Em sẽ cố giúp kinh tế cho Đảng để lấy tiền đưa anh em và số quân nhân đã theo mình về nước chiếm lấy mấy tỉnh ở biên giới."
Tường nói:
"Hà Giang anh Hoàng đã chiếm được nhưng rất thiếu người."
Tường quay về phía Ngọc:
"Chú có lẽ phải về Hà Giang, một số bộ đội Trung Hoa theo ngả đó về, như vậy tạm thời Hà Giang còn giữ được. Vậy chú ở lại Mông Tự đợi lệnh.
Một buổi sáng Thanh ra giếng lấy nước ngửng nhìn Ngọc đứng trên cửa sổ; nàng lấy tay chỉ vào cây cải đã tàn hoa bắt đầu ra quả, ngẫm nghĩ một lát rồi nàng nói với Ngọc:
"Anh mời anh Tường xuống đây."
Ngọc không hiểu ý Thanh nhưng cũng mời Tường xuống. Thanh chỉ cho Tường xem cây cải. Tường nói:
"Mấy luống cải chị chịu khó chăm nom xanh tốt quá. Cảm ơn chị, nhờ chị mới có những thức ăn rẻ tiền mà ngon lành."
"Em định biếu anh, biếu Đảng một thứ quý hơn cải nhiều. Anh Ngọc, anh đem xẻng cuốc lại đây."
Thanh nói như ra lệnh cho Ngọc:
"Bây giờ anh nhổ cây cải làm giống kia đi rồi anh đào lên. Nếu đào mà không có gì thì anh chết với tôi."
Đào lên độ nửa thước, Ngọc cầm lên một cái hộp. Thanh nói:
"Anh đưa anh Tường xem."
Tường vừa mở ra Thanh nói luôn:
"Đây là tất cả vốn liếng của em để dành được, em xin biếu Đảng để tuỳ ý anh chi tiêu về công việc. Em sẽ về Mông Tự mở rộng hiệu cà-phê. Tụi Mỹ bây giờ xuống Mông Tự đông lắm."
Tường cầm những thiếp vàng lá xóc xóc trong tay để ước lượng:
"Chỗ này nhiều lắm. Chị giữ lại dăm tấm về Mông Tự làm vốn. Tôi xin thay mặt Đảng cảm ơn đồng chí."
Ngọc đưa mắt nhìn Tường ngẫm nghĩ:
"Anh Tường đã xét đúng về Thanh ngay từ lúc đầu, mà mình cũng vậy."
Chàng nhìn người yêu thầm nhủ:
"Chung quy là nhờ cái ghế đá ở lăng Đường Kế Nghiêu."
Thanh lấy ở trong nhà ra chậu men sứ vẫn thường vo gạo, kéo dây lấy nước giếng rồi đổ một thau đầy. Ngọc định cho tay vào thau nhưng Thanh cản lại:
"Anh giơ hai tay bẩn của anh ra đây."
Nàng lại kéo mấy thùng nước giếng rồi đổ từ từ cho Ngọc rửa tay sạch hết đất cát:
"Bây giờ anh cho tay vào thau mà rửa. Để tôi đi lấy khăn."

Nàng chạy vào bếp rồi đem ra cái khăn mặt của nàng đưa Ngọc:
"Bây giờ thì tay anh đã sạch lắm rồi."
Hai con chim đen bụng trắng bay đến kêu chiếp chiếp, quen như mọi lần đợi Thanh vứt cơm. Đợi mãi không thấy gì chúng nghiêng đầu nghe ngóng nhìn Thanh có vẻ ngạc nhiên. Thanh cúi xuống nhặt hòn cuội nhỏ ném hai con chim rồi lấy tay hất, miệng kêu "suỵt". Hai con chim sợ hãi bay vụt đi nhưng chúng chỉ bay lên đậu ở đầu tường; một con - con cái hay con đực Thanh cũng không rõ - nhẩy dần rồi đến nép mình cạnh con chim kia. Thanh làm hiệu đuổi chúng cũng không đi. Nghĩ mãi nàng mới nhớ ra là còn một chiếc bánh bích quy; nàng chạy vào bếp nhưng tìm mãi vẫn không thấy:
"Chắc anh chàng Ngọc lại ăn vụng rồi. Thật là đồ ăn cướp cơm chim."
Nàng chạy ra nhìn Ngọc nói trống không:
"Có chiếc bánh bích quy biến đâu mất, chắc là chuột tha."
Quả nhiên lúc xuống với Tường, Ngọc đã lấy trộm nhai thật nhanh và nuốt vội chiếc bánh trước khi ra vườn cho Thanh khỏi biết. Chàng đuổi hai con chim đi:
"Thôi mai hết nhé, mai đừng đến nữa."
Hai con chim vụt bay đi. Ngọc nghĩ chắc mai nó sẽ trở lại và hơi buồn. Ngày mai chàng sẽ cùng Thanh đi Mông Tự như một đôi chim, nhưng biết đâu không bay đi cạnh nhau để tìm cái chết. Khu vườn nhỏ xinh xinh, lá cây rung động và cái giếng nước trong có lẽ không bao giờ chàng lại còn nhìn thấy một lần nữa, cuộc đời đơn sơ đã mất, thay vào đó sẽ là một cuộc đời tranh đấu, tàn ác, giết người.
Tường bảo Ngọc:
"Chú sửa soạn sẵn sàng, mai đi sớm."
Thanh nói với Tường:
"Để em đi bán chỗ vàng này, bán ở đây nhiều hiệu lớn, được giá hơn."
Nàng đi quanh quẩn tìm hiệu bán vàng rồi rẽ qua nhà Quân:
"Họ sắp theo bộ đội Lư Hán về chiếm thêm căn cứ ở biên giới. Hà Giang đã mất về tay họ. Để mai em xuống Mông Tự, ở đấy dò la việc họ chuyển vận quân đội và biết ai đi ai về dễ dàng hơn đây nhiều."
"Đồng chí phải cẩn thận. Mông Tự là đất của họ, hơi lộ một chút họ thủ tiêu đồng chí ngay."
Thanh nói:
"Em không sợ anh cứ tin là em rất kín đáo."
"Thế mai đồng chí đi sớm. Nhưng cần nhớ là tụi họ cũng ghê gớm lắm.
Thanh mỉm cười nghĩ đến việc Ngọc thủ tiêu nàng rồi từ biệt Quân.
Sáng hôm sau, Thanh và Ngọc cùng đi một chuyến xe. Nàng mặc áo Việt và đi ngang nhiên với Ngọc không cần giấu giếm. Khi xe đi qua cánh đồng, Thanh nói:
"Thế là từ đây hết cả Đào Nguyên, hết cả Thiên Thai. Lưu Nguyễn lại trở về trần tục."
Ngọc nói:
"Trần tục cũng có cái thú riêng. Tôi, tôi đã tìm được Thiên Thai ở ngay nơi trần tục."
Thanh tiếp theo:
"Còn tôi, tôi xuống trần tục mới tìm thấy Thiên Thai. À nhưng lần này đến ga Pô-Si, nếu có tỏi gà anh phải để phần tôi đấy."
"Chị không lo. Bây giờ chị đã có giấy phép của anh Tường thì ăn cả một con gà cũng được."
Tới ga Pô-Si, biết là xe ngừng lại gần một giờ, Ngọc đưa Thanh xuống nhà đồng chí Đỉnh:
"Như thế đỡ tốn công đồng chí Đỉnh bưng khay lên xe nữa."
Đỉnh đã đứng sẵn ở trước cửa nhà; thoáng thấy Ngọc chàng bảo vợ:
"Mình đi làm hay mua thức ăn. Có chú Ngọc. À, nhưng chú ấy đi với một cô nữa phải làm thức ăn gấp đôi."
Đỉnh bảo thằng nhỏ chạy đi báo các anh em khác ở chi bộ Pô-Si, rồi chạy ra đón Ngọc. Ngọc giới thiệu:
"Nữ đồng chí Kim."
Đỉnh vội vã đón lấy cái va ly Thanh xách ở tay. Thanh chào Đỉnh rồi nói:
"Lần trước tôi cũng có qua đây cùng một chuyến xe với anh Ngọc; cái tỏi gà và đĩa xôi anh đem lên ngon quá nhưng anh Ngọc ích kỷ ăn hết. Tôi phải ăn cơm với lạp xường."
Nói xong nàng cười vui vẻ. Đỉnh tuy nhiều tuổi nhưng cũng bị quyến rũ vì vẻ đẹp hồng hào và hai con mắt trong sáng sắc sảo của Thanh. Đỉnh cười bảo Ngọc:
"Thế mà lần trước chú không giới thiệu."
"Lần trước đi công tác bí mật."
Vì Đỉnh là chi bộ trưởng Pô-Si nên Ngọc phải đưa giấy công cán của Thanh cho Đỉnh coi. Trong lúc đó, Thanh đã chạy tọt xuống bếp, làm thân ngay với Thoa, vợ Đỉnh và xắn hai tay áo phụ giúp Thoa. Thoa thấy nàng làm bếp nhanh nhẹn quá không khỏi ngạc nhiên. Thanh hiểu ý nói:
"Chị không biết em là nữ cán bộ ‘hoả đầu phu đoàn’ do anh Tường lập nên à? Hơn nửa năm em vẫn làm cơm cho anh Tường xơi. Nhưng anh ấy chỉ thích ăn dưa chua, thành thử không trổ được tài."
Mười lăm phút sau, nàng đã bưng một mâm đầy thức ăn: cà-phê sữa, trứng lập là, trứng tráng, dưa, củ cải và bánh tây rán mỡ. Các anh em trong chi bộ đã đến đông đủ, người nào cũng có vẻ buồn sau khi Ngọc bầy tỏ thời cuộc trong nước cùng chính sách của Mỹ và Trung Hoa.
Thấy Thanh bưng lên nét mặt vui tươi, mọi người đều nhìn Thanh và quên cả buồn phiền. Đỉnh giới thiệu từng người một trong chi bộ. Thanh nói:
"Anh nào không vướng víu công việc ở đây lắm thì chắc sẽ được phái về Hà Giang. Có qua Mông Tự các anh nhớ ghé lại hiệu Thanh Hương. Cà-phê ngon có tiếng. Chủ nhân tiếp đãi ân cần và không lấy tiền mặc dầu tôi phụ trách tài chính cho Đảng."
Khi xe chạy, Thanh cũng giơ tay vẫy các anh em đứng ở sân ga nhưng lần này, anh em nhìn theo Thanh một cách lưu luyến. Thanh đã át được cả Ngọc:
"Thế là tôi báo thù anh được rồi. Bây giờ ta lại lập một chi bộ khác, cũng chi bộ hai người nhưng lấy tên là chi bộ vị tha’."
Tới Khai Viễn, vì có lệnh của Tường về, nên ngay buổi tối hôm đó Hán Vũ Cái, Khu đảng bộ Khai Viễn hội họp. Thanh cũng có đến dự và phát biểu ý kiến. Họp xong nàng gặp riêng đồng chí phụ trách về tài chính; nàng hỏi rõ về giá cà-phê ở Khai Viễn và sắp đặt liên lạc để đem thuốc phiện, thảo quả và bất cứ thứ gì ở biên giới Việt Nam từ Mông Tự lên Khai Viễn và Côn Minh.
Thanh bảo Ngọc:
"Thế là tôi cũng đâm đầu vào guồng máy như anh."
Tới Bích Sắc trại hai người lại ghé qua nhà vợ chồng Vĩnh. Bà Vĩnh đương lau quét nhà thấy Thanh vào bà vội chạy ra nắm lấy tay Thanh. Ngọc ngồi nghe hai người nói chuyện. Chàng lấy thuốc lá châm hút. Ở nhà hai vợ chồng già này chàng thấy xa hẳn những sự tranh đấu gay go các nơi khác; cuộc đời ở đây lại đơn sơ và Thanh với chàng trong chốc lát như thoát khỏi guồng máy khốc liệt và cũng chỉ là hai thanh niên nam nữ đơn sơ, yêu nhau rồi lấy nhau và khi trở về già cũng sẽ sống một cuộc đời yên ổn trong một thế giới thanh bình như đôi vợ chồng Vĩnh.
Lúc tiễn Thanh và Ngọc đi bà Vĩnh đứng tựa cửa nhìn theo. Lần này Thanh mặc quần áo Việt nên trông dáng người lại yểu điệu hơn khi mặc áo tàu. Gió thổi mạnh, tà áo của Thanh bay phơ phất chạm vào người Ngọc. Bà Vĩnh gật gù mỉm cười rồi bỏ vào trong bếp tiếp tục dọn dẹp. Bà bùi ngùi nhớ lại ba mươi năm trước lúc Vĩnh còn là thanh niên đẹp trai và bà còn là một thiếu nữ dáng cũng thon đẹp như Thanh bây giờ.
Lúc Vĩnh ở nhà máy trở về, cơm nước đã dọn sẵn. Trong mâm bà Vĩnh đặt một đĩa bồ dục xào mà chồng bà vẫn ưa thích nhất. Ba rót rượu vào cốc chồng âu yếm mời:

"Ông xơi tí rượu, hôm nay có cỗ bồ dục ngon quá, mua về còn nóng hổi."
Rồi bà cũng rót một ít rượu vào cốc mình, nâng cốc mời chồng, uống một hơi cạn.
Chương ba mươi
Về tới Mông Tự, Ngọc lại ngay nhà Hoạt thăm Phương.
Không may Khuê vợ Hoạt lại có nhà. Ngọc thấy Phương nhìn mình hai con mắt đau khổ và oán hận. Ngồi một lúc Phương bỏ xuống nhà dưới. Ngọc đoán là Phương xuống để khóc. Hôm sau, Ngọc cố rình lúc cả hai vợ chồng Hoạt đi vắng rồi gọi cổng. Người đầy tớ ra mở. Phương mời Ngọc vào phòng khách, kiếm cớ sai người đầy tớ đi; Phương ra đóng cửa lại rồi ngồi xuống ghế bật lên khóc nức nở. Ngọc đến đứng bên cạnh ghế, yên lặng một lúc rồi cúi xuống lấy khăn tay chấm vào hai mắt Phương. Chàng kéo ghế ngồi kề bên cạnh.
"Xin lỗi Phương. Anh vì công việc nên phải lên Côn Minh ít tháng. Bây giờ anh lại về đây. Xin Phương đừng giận."
Phương quay lại nhìn Ngọc; hai mắt đã thoáng vui:
"Cũng tại số kiếp em như vậy. Em đâu dám trách anh, em chỉ biết em đã đau khổ lắm trong mấy tháng anh đi biệt tăm tích."
Nếu Phương tỏ ý giận hay ghen tương thì Ngọc không khó chịu; nhưng Phương chỉ yên lặng, hai con mắt nàng vẫn còn hiền dịu ngây thơ như mắt một con thỏ non. Ngọc cầm lấy bàn tay Phương:
"Khi nào cách mệnh thành công..."
Chàng ngừng lại vì chàng không muốn nói dối Phương; chàng xoay câu chuyện:
"Cũng mới cách đây mấy tháng, có việc qua Mông Tự anh đến ngay thăm em nhưng không may cho anh chỉ được có một ngày mà lại đến giữa lúc anh chị Hoạt có nhà. Anh biết làm thế nào, mà anh đi vì những việc vừa quan trọng, vừa gấp, không thể nấn ná ở lại thêm đến nửa giờ chứ không nói là đến nửa ngày."
Phương để hai bàn tay mình trong tay Ngọc đắm đuối nhìn chàng. Nàng chỉ nghĩ đến hưởng cái sung sướng trong hiện tại; nàng không thể oán trách Ngọc mà cũng không có chuyện gì nói với Ngọc.
Ngọc bỏ tay Phương ra:
"Bây giờ lại được cái may trở lại Mông Tự, anh sẽ cố đến thăm em luôn."
Phương ra mở cửa vì óc vụng về của nàng chỉ nghĩ được việc sai người nhà đến một người bạn ở không xa mấy để mượn một chiếc áo cánh về làm mẫu. Nàng vừa mở cửa xong thì đã trông thấy người nhà đi tới đầu phố. Người nhà báo Phương biết là tới nơi thì bà Hoan vừa đi khỏi. Phương nói:
"Thôi để chiều lại cũng được."
Rồi nàng nói to giọng với Ngọc:
"Anh Hoạt tôi bây giờ hết chiến tranh nên..."
Khi người nhà xuống bếp Phương tiễn Ngọc ra cổng. Trời nắng to. Phương đứng dựa vào một gốc cây ở khu vườn trước. Ngọc cũng đứng lại rồi hai người nhìn nhau đắm đuối một lúc lâu. Trong thâm tâm, Ngọc thấy mối tình yêu Phương một độ lắng chìm nay lại bắt đầu nẩy nở; chàng yêu và thương cho Phương. Chàng bối rối, không biết lòng mình ra sao, tự nhủ: hay là mình yêu cả Phương lẫn Thanh. Chàng nói khẽ:
"Anh yêu em."
Tiếng nói nhỏ quá, Ngọc tưởng như không phải chính chàng đã thốt ra mấy lời đó.
Hai con mắt trong của Phương lộ vẻ ngơ ngác như mắt một con chim bồ câu trước một tiếng động bất ngờ. Khi hiểu, Phương rơm rớm nước mắt rồi quay gót trở về nhà. Nói ra mấy tiếng "anh yêu em" Ngọc đã rất thành thực với chính mình, nhưng chàng không thể không tự trách đã để những lời ấy thốt ra cho Phương nghe thấy. Ngọc nghĩ chỉ có cái chết – chết vì bệnh hay vì phận sự – mới giúp chàng thoát khỏi tình trạng giằng co và éo le của lòng mình đối với Phương cũng như đối với Thanh.
Trong sáu bẩy hôm, Ngọc tránh không đến thăm Phương, không đến ngồi trên gác nói chuyện với Thanh nữa. Chàng dự vào công việc Khu đảng bộ một cách hăng hái hoặc có khi chàng nằm lỳ ở nhà suốt ngày không nói với Việt hay Xuân một câu... Hôm nào gặp buổi khai hội có Thanh đến dự, Ngọc cố ý ngồi thật xa về phía sau lưng Thanh. Tan họp hoặc chàng đi trước hoặc ở lùi lại sau đợi Thanh đi khỏi. Có lần Thanh ra trước đứng ở ngoài đợi, Ngọc đi thẳng, mặt quay nhìn phía khác làm như không biết có Thanh chờ, nhưng chàng cũng thoáng thấy vẻ nhìn oán hờn trong mắt Thanh. Cũng có khi Thanh cau mũi và bĩu môi và tuy chính Thanh đợi chàng ra, nàng lại quay mặt đi trước làm như không trông thấy Ngọc.
Một buổi sáng Lăng rủ Ngọc đến hiệu Thanh Hương. Ngọc định từ chối nhưng lại thôi. Đương uống, nhân một lúc Lăng ra vườn sau, Thanh nói nhỏ với Ngọc:
"Anh nên đến thăm Phương luôn. Sáng mai mời anh lại sớm, tôi có chuyện cần nói với anh."
Nét mặt Thanh hồn nhiên không tỏ ý giận hay vui mừng gì cả.
Thấy Lăng sắp ra, Thanh nói vội:
"Sáng sớm mai bẩy giờ, tôi đợi. Có việc cần."
Sáng hôm sau Ngọc đến sớm vào lúc không có khách. Thanh đứng ở đầu thang gác nói vọng xuống:
"Mời anh lên."
Hai người lại ngồi vào chỗ cũ, cạnh cửa sổ. Yên lặng một lúc lâu, Thanh cất tiếng nói trước:
"Tôi đã suy nghĩ mấy hôm nay. Phương thực xứng đáng là vợ anh. Nếu anh còn bận công việc thì anh nên ngỏ ý với Phương rồi nhờ người nói với anh chị Hoạt làm lễ ăn hỏi ngay."
Ngọc liếc nhìn Thanh thấy vẻ mặt nàng lạnh lùng khác hẳn mọi khi. Thanh tiếp theo luôn:
"Tôi với anh chỉ là hai người bạn hay hai đồng chí."
Nói xong Thanh mỉm cười vẩn vơ hỏi Ngọc:
"Ý anh thế nào? Nếu cần tôi sẽ đứng ra làm mối. Tôi có quen chị Hoạt, tôi sẽ liệu nói."
Ngọc không đáp. Chàng nhìn ra phía cây, dáng tư lự. Một lát sau chàng nhìn vào mắt Thanh, nói:
"Tôi không bao giờ lấy... Tôi với chị suốt đời chỉ là hai người bạn, còn việc lấy Phương, tôi xin thú thực là tôi có yêu Phương nhưng cưới Phương làm vợ thì mặc dầu Phương đau khổ vì tôi, tôi xin thề với chị là không bao giờ lấy Phương cũng không bao giờ lấy ai cả. Tình hình Hà Giang hiện giờ đương nguy ngập; chưa có lệnh, tôi cũng cứ về để giúp sức các anh em khác chống cự lại Việt Minh. Dòng sông Thanh Thuỷ tuy tôi đã qua nhiều lần nhưng mỗi lần đứng bên bờ sông tôi vẫn thấy dòng nước ấy như ngăn cách tôi với một thứ gì mà tôi không hiểu. Đó chỉ là một linh tính, tôi không dị đoan, chị chắc đã rõ nhưng... Tôi biết nếu lần này tôi qua dòng sông Thanh Thuỷ thì không có ngày trở lại nữa, cũng như Kinh Kha không bao giờ qua sông Dịch Thuỷ lần thứ hai."
Ngọc chớp mắt luôn mấy cái rồi cầm lấy cốc cà-phê bảo Thanh:
"Tôi thương hại anh Tứ, tôi biết là tôi bị Tứ ám ảnh suốt đời. Tôi không bao giờ quên được lúc tôi... xin lỗi chị... lúc tôi lột hẳn quần đùi Tứ và trông thấy... Chị còn nhớ rõ hôm Nhật đầu hàng mấy người Tàu đem rượu đến bàn tôi với chị ngồi. Không lúc nào bằng lúc đó tôi cảm thấy người ta ai cũng tốt, cũng yêu hoà bình nhưng vì cớ gì họ giết lẫn nhau, vì cớ gì tôi giết người, hai bàn tay nhiều lần vây máu, không bao giờ sạch được, không bao giờ..."
Chàng cúi mặt, hai bàn tay ôm đầu tiếp theo:
"Nhưng tôi không hối hận. Theo như lời chị nói, đấy là kiếp tôi như thế, đấy là định mệnh. Mấy nghìn năm nhân loại vẫn không thay đổi, chắc phải có một nguyên cớ gì..."
Tiếng Thanh lọt vào tai chàng như tiếng từ thời xưa vẳng đến:
"Tôi hiểu anh, vì tôi cũng cảm thấy như thế nhưng còn hiểu rõ được duyên cớ, thì tôi tin không ai hiểu nổi. Tôi, tôi sẽ tìm một ngôi chùa nào..."
Ngọc ngửng lên. Nắng tháng Tám khiến chàng chói mắt. Cũng như trên Côn Minh, qua cửa sổ vẫn có một khu vườn rau; khu vườn tuy rộng hơn nhưng vẫn có những cành cây lá bóng loáng ánh sáng, những tấm áo phơi rung động trước gió và cả cái thành giếng gạch ướt nước loé lên những ngôi sao lấp lánh. Cuộc đời vẫn tươi đẹp đơn sơ...
Bỗng có tiếng Lăng từ dưới nhà vẳng lên:

"Chị Kim đâu? Mời chị đến họp ngay. Có tin Hà Giang thất thủ. Tất cả hơn bốn mươi cán bộ đều bị Việt Minh thủ tiêu chỉ còn sống sót được một người chạy về Ma-Lì-Pố. Mới nhận được điện tối hôm qua của chị Nam ở Văn Sơn."
Ngọc và Thanh đều đứng dậy cùng một lúc. Thanh nói:
"Anh cứ đi báo các anh em. Tôi sửa soạn rồi lại ngay trụ sở."
Ngọc mắt vẫn nhìn qua cửa sổ nhưng không để ý đến khu vườn. Cuộc đời lại hết đơn sơ, toàn những sự chết chóc, giết hại lẫn nhau. Cái guồng máy bắt đầu quay. Người chàng choáng váng: Bốn mươi anh em bị bịt mắt đưa đi trong đêm tối, đến một cái huyệt lớn hay biết đâu chỉ là một cái rãnh hay một vực sâu giữa hai quả núi. Họ chắc bị tháo giầy đi chân không, áo quần bị lột hết để những người khác mặc thay, hoạ chăng chỉ còn lại mỗi người một chiếc quần đùi...
Thanh hỏi Ngọc:
"Này anh, tôi sẽ tình nguyện về Hà Giang. Anh thuộc đường, anh sẽ đưa tôi về như anh đã đưa Nghệ và Tứ. Còn bao nhiêu anh em rải rác ở biên giới Việt, chúng mình sẽ tìm cách đưa họ sang đất Tàu."
Ngọc không nói nhưng trong bụng nghĩ thầm đã sắp đến ngày thoát khỏi mối tình éo le giữa chàng với Phương và Thanh.
"Chị cho tôi một cốc cà-phê phin nữa. Uống xong tôi đến họp trước, chị đóng cửa hàng hay nhờ bà Su trông coi, tuỳ ý. Chị sẽ tới sau tôi một lát."
Lúc Ngọc đến, anh em trong Khu Bộ đã gần đủ mặt. Một lúc sau Thanh cũng tới. Anh Khu Bộ trưởng đọc điện văn của Nam ở Văn Sơn gửi về. Thanh đứng lên giơ tay:
"Tôi xin tình nguyện về tận Hà Giang dò xét tình hình. Tôi về được vì chưa ai biết tôi gia nhập hàng ngũ, tôi chỉ là một người làm ăn buôn bán lương thiện. Nhưng đường về Hà Giang tôi chưa đi bao giờ xin anh em cử một người thông thạo đường lối để đưa tôi về Thanh Thủy."
Không cần bàn cãi, mọi người đều nói ngay:
"Đã có anh Ngọc."
Sau khi nghe qua tình hình, Thanh và Ngọc xin về trước, nói là để bàn định cách thức đi. Thanh hẹn ba hôm nữa sẽ khởi hành. Anh giao thông viên nói không cần đi bộ từ Mông Tự đến Văn Sơn vì vấn đề đi nhờ xe Mỹ về Văn Sơn rất dễ. Hiện nay hết chiến tranh có những đoàn xe đi không để đem các vật liệu ở trường bay Văn Sơn về.
Ra đến ngoài Thanh nói với Ngọc:
"Tôi với anh chẳng cần phải bàn luận gì. Tôi về thu xếp hàng cà-phê còn anh... anh nên lại báo cho Phương biết và từ biệt Phương."
Ngọc đến ngay nhà Phương vì biết chắc Hoạt và Khuê đương bận họp. Chàng không vào nhà, đứng ở khu vườn trước cửa, Phương chạy ra vui mừng nói:
"Sao lâu không thấy anh đến."
Ngọc yên lặng một lát rồi nói:
"Anh đến đây để từ biệt em. Hà Giang vừa thất thủ. Bốn mươi anh em đã bị Việt Minh thủ tiêu. Anh phải đi ngay về biên giới để đón các anh em nào sống sót đưa sang đất Tàu."
Phương nhìn chàng ngây thơ. Tâm hồn nàng bình tĩnh như khu vườn nắng. Những việc giết chóc lẫn nhau như những việc xa lắc xa lơ không liên can gì đến nàng cả trừ có việc Ngọc sắp phải đi. Nàng nói với Ngọc:
"Em không hiểu việc các anh định làm. Có một điều cần là anh cứ ở bên phía biên giới Tàu, đừng về nước. Anh đón các anh em rồi đưa về đây. Còn thổ phỉ thì không ngại lắm vì em nghe người ta nói có bộ đội Tàu kéo về ngả Hà Giang. Anh có đi thì đi với họ."
Nhìn Phương Ngọc thấy lòng mình thản nhiên như không. Chàng nói với Phương một vài câu để nàng yên tâm rồi từ biệt ra đi. Phương giơ tay vẫy, chàng cũng vẫy vẫy mấy cái rồi rảo bước về phía hàng Thanh Hương.
Tự nhiên chàng hết băn khoăn vừa đi vừa thổi sáo miệng. Phương cũng như bà Vĩnh, hai người đều sống một cuộc đời không bận rộn, yên lành; chàng ghé qua thế giới của họ thấy vui vui, êm ả trong lòng nhưng chỉ thế thôi. Còn Thanh, tâm hồn Thanh là cả một thế giới mông lung muôn mầu sắc, rất khó hiểu nhưng có một sức quyến rũ lạ lùng.
Ngọc cho cuộc đi với Thanh về Hà Giang như một cuộc đi tìm kiếm thiên thai. Thân chàng dù có bị guồng máy nghiến nát nhưng linh hồn chàng theo lời Thanh vẫn thường nói, sẽ tan đi như hạt muối trong nước hay biến thành một niềm vui hoà loãng trong cái mênh mông của hư vô. Phạm Lãi, Tây Thi chết đã mấy nghìn năm nhưng tâm hồn hai người vẫn còn tồn tại trong tâm hồn nhân loại. Tan đi là còn mãi mãi, sống đấy nhưng cái tan rữa đã ngầm ngấm bắt đầu. Hai mươi năm sau thân hình đẹp đẽ của bà Phương sẽ biến thành bà Vĩnh và sau cùng còn lại một bộ xương trắng nằm trong lòng đất lạnh. Thể xác Tứ bây giờ chỉ là một bộ xương khô dãi mưa nắng song hình ảnh Tứ vẫn còn lại được vài chục năm nữa trong tâm trí người vợ thân yêu.
Nghĩ vậy Ngọc lắc đầu để xua đuổi sự ám ảnh về Tứ. Tự nhiên chàng thấy trong người bồng bột muốn làm một việc gì rất nguy hiểm bên cạnh Thanh và tình yêu Thanh chàng lại thấy dần dần dâng lên tràn ngập trong lòng.
Hàng cà phê Thanh Hương lúc đó rất đông khách nhưng toàn khách người Tàu, bà Su và Thanh đương bận tới tấp. Ngọc lên thẳng trên gác ngồi đợi. Một lát sau Thanh lên một tay bưng cốc cà-phê:
"Đây là cà-phê tự tay tôi pha lấy không phải cà-phê bà Su pha mà sợ. Thế nào anh đã đến thăm cô Phương của anh chưa?"
"Có, tôi vừa đến thăm nói mấy câu để cô ấy yên tâm."
Thanh nhìn Ngọc thấy hai mắt chàng sáng hẳn lên và nét mặt lộ một vẻ sung sướng khác thường, nàng không thể lầm được. Thanh nghĩ thầm:
"Chắc hai anh chị đã ngỏ lời yêu nhau rồi. Vợ chồng Hoạt chắc còn bận họp, hai cô cậu tha hồ mà tự do nói chuyện."
Nàng thấy nhói ở tim, nhìn kỹ má Ngọc xem có vết son đỏ nào không, nhưng tuyệt nhiên không có dấu vết gì. Mặt Ngọc hơi tái lại nhưng ngầm có một nỗi vui háo hức hình như Ngọc vừa quyết định xong một việc rất quan trọng trong đời. Ngọc quên cả uống cà-phê, bàn tay chàng đặt trên bàn nắm chặt lại. Thanh ngồi yên đợi Ngọc bắt đầu câu chuyện. Một lúc sau Ngọc gạt cốc cà-phê sang bên cạnh để đưa người ra đằng trước như để nói thầm với nàng điều gì. Thanh nghĩ "dưới nhà toàn người Tàu việc gì cần nói thầm" nhưng nàng cũng nghiêng người sát lại gần Ngọc và lắng đợi. Ngọc nói khẽ nhưng giọng quả quyết:
"Tôi đã quả quyết rồi. Tôi không ở bên này biên giới, cũng không lẩn lút về phía Hoàng Su Phì. Tôi sẽ ở về hẳn tỉnh Hà Giang với chị."
Thanh kêu lên:
"Anh muốn tự tử à? Tôi về được vì không ai biết tôi là ai, còn anh, Việt Minh biết rõ anh lắm rồi. Anh muốn tôi chết với anh sao?"
"Chị Thanh, bốn mươi người, thêm một người nữa cũng vẫn thế. Chị sợ chết thì chị ở lại phía bên này sông Thanh Thuỷ, tôi sẽ đưa dần người sang, nếu còn."
"Tôi sợ? Anh tưởng tôi sợ à? Nếu anh đã nói vậy thì tôi sẽ sang bên kia sông Thanh Thuỷ, nghe anh nói thì có một bến đò buôn hàng lậu và một cái cầu sắt bắc ngang sông Thanh Thuỷ: cầu sắt hiện giờ chắc quân Việt Minh gác nghiêm nhặt lắm. Rồi anh xem, tôi sẽ cùng anh đi qua cầu nếu có sao thì...
Tuy Thanh bỏ lửng câu nói nhưng Ngọc hiểu ngay nàng định nói: "Nếu có sao thì cùng chết".
"Cùng chết". hai chữ ấy vang lên như những tiếng reo vui ghê rợn. Hai người yên lặng nhìn thẳng vào mắt nhau một lúc và cùng nghĩ thầm: "Yêu nhau đến bực ấy sao". Ngọc nói thản nhiên:
"Cái đó tuỳ chị, tôi đã quyết tâm và không vì lẽ gì mà lùi bước."
"Cái đó tuỳ ý anh, còn tôi, tôi sẽ đi thẳng qua mặt lính gác, ngang nhiên như người đi chơi mát. Rồi anh xem. Tôi sẽ qua dòng sông Thanh Thủy bằng cầu sắt. Dòng sông Thanh Thủy là của riêng tôi vì tên tôi là Thanh."
"Này chị Thanh, tôi không dị đoan nhưng xin chị chớ bén mảng đến dòng sông Thanh Thuỷ. Thanh là tên chị, Thuỷ là nước, chị chắc sẽ bị hại ở đấy và người chị sẽ tan thành nước."
"Vâng thì cho nó tan đi. Hồn tôi sẽ theo dòng Thanh Thuỷ trôi vào Thiên Thai... mà chỉ có một mình."

Nàng quay đi để giấu nụ cười:
"Tôi đã đọc kỹ năm bài thơ Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai của Tào Đường. rong đó chỉ có hoa đào, hoa mai, chó và chim hạc với gà... tuyệt nhiên không có châu chấu!"
Chương ba mươi mốt
Sáng hôm sau Ngọc đến hiệu cà-phê Thanh Hương thật sớm xem Thanh đã thu xếp xong với bà Su chưa để giục nàng khởi hành ngay. Thanh nói:
"Ba hôm nữa tôi mới đi được vì cần phải đợi mấy nơi trả tiền."
"Hay là chị sợ nên trù trừ. Nếu vậy tôi đi trước."
Thanh không nói gì, nhìn ra ngoài mỉm cười. Nàng sắp phải rời bỏ khu vườn quen thuộc và thân yêu mà đi chuyến này không chắc đã có ngày về. Nếu nàng sơ ý để cho Khu Đảng bộ Việt Quốc Mông Tự biết là nàng ở trong hàng ngũ Việt Minh thì rất có thể dọc đường nàng sẽ bị thủ tiêu hoặc ở Văn Sơn như Vương Đức năm trước, hoặc ở Ma-Lì-Pố và có khi chính Ngọc sẽ giết nàng ở ngay chỗ chàng đã giết Nghệ. Thanh toan thú thực với Ngọc ngay nhưng Ngọc chỉ là một liên lạc viên; lệnh trên ban xuống, dù có cảm tình với nàng hay yêu nàng nữa, Ngọc cũng phải tuân lệnh chỉ trừ trường hợp Ngọc theo Việt Minh một việc nàng chắc không bao giờ Ngọc làm và chính nàng cũng không muốn làm, không muốn Ngọc làm."
Nàng dịu dàng nói với Ngọc:
"Đi chuyến này chắc đâu có ngày về, ngoài việc thu tiền nợ tôi còn muốn ở lại ít ngày để đợi xem mấy nụ hoa lựu kia có nở không. Từ nay không còn mong ăn lựu ngon nữa. Cái guồng máy bắt đầu quay. Tôi chui vào đấy là lỗi tại anh Tường và nhất là lỗi tại anh..."
Thanh nghĩ thầm thật ra nàng đã chui vào guồng máy một lần rồi và đã bị lừa nhưng chưa thoát khỏi. Còn lần này nữa, hiện giờ nàng biết là đã đi đúng đường nhưng rất có thể nàng sẽ bị hại vì sự lầm lỡ trước. Có một điều là nàng đã chui vào hai guồng máy quay ngược chiều nhau; guồng cũ nàng đã tìm cách gần thoát khỏi, guồng mới nàng cho cả người vào hăng hái đầy tin tưởng nhưng rất nguy hiểm.
Nhưng sự nguy hiểm, Thanh không những không sợ mà lại cảm thấy mê đắm và có một sức quyến rũ khiến nàng có thể coi cái chết như không. Trước kia nàng đã trách Ngọc không tranh đấu cho một lý tưởng mà chỉ vì sự chán nản của cuộc đời vì cái chết của Thuý, bây giờ nàng cũng tranh đấu vì cảm tình riêng; còn lý tưởng Thanh lại nhớ đến câu của Pascal chỉ có khác là dẫy núi Pyrénées nay biến thành dòng sông Thanh Thuỷ.
Nàng nói tiếp giọng tinh nghịch đùa bỡn:
"Hay là chúng mình cùng chui ra đi tìm Thiên Thai ở ngay cõi trần."
Ngọc mỉm cười:
"Nếu tôi chui ra thì tôi sẽ lấy Phương. Nhà Phương giầu, tôi lại sẽ tìm một việc làm hay đi bán bánh bò Tàu. Hơn hai mươi năm nữa tôi với Phương sẽ biến ra hai ông bà Vĩnh. Phương làm bánh bò Tàu khéo lắm. Chắc tôi giầu to. Vàng của chị đã hết, tôi sẽ trả lại chị số vàng, trả đúng số."
Thanh chạy xuống nhà dưới đem lên cốc cà-phê:
"Xin lỗi anh, sáng nay cô hàng đãng trí quên chưa lấy cà-phê cho khách hàng. À nhưng nói làm gì đến chuyện vàng, anh còn nợ tôi hai chục cốc cà-phê. rước khi đi anh lo trang trải xong món nợ ấy đã."
Ngọc nói:
"Về Thanh Thủy tôi sẽ trả nợ chị đủ số. Một bộ áo của tôi, một chiếc áo len, đôi giầy hài sảo, một khẩu súng chắc là đủ tiền trả vài nghìn cốc, ấy là không kể bông hoa trà bây giờ cánh đã vàng như vàng của chị và còn quý hơn vàng nhiều."
Chàng uống một hớp cà phê rồi hai người nhìn ra ngoài cửa sổ. Cuộc đời lại giản dị đơn sơ như khu vườn chói nắng. "Nắng tháng tám nám vỏ bưởi". Ngọc lại để tâm trí phiêu diêu tưởng nhớ đến chị. "Bây giờ chắc chị đã có chồng, em cầu chúc chị gặp được hạnh phúc ở đời". Bỗng một ý nghĩ thoáng vụt đến. Từ lúc gặp Thanh mãi đến phút này chàng mới nhận ra là Thanh giống chị chàng từ dáng điệu đến cử chỉ: cả hai đều cao bằng nhau, tuy hơi béo nhưng béo lẳn, người thon và khỏe mạnh, làm việc gì cũng lanh lẹ, mắt trong và sắc sảo mà nhất là khi cau mũi hay bĩu môi sao mà giống nhau thế.
Bóng một đám mây vừa bay khỏi, bức tường ngoài vườn lại càng sáng chói hơn khiến Thanh nhíu mắt, mũi hơi cau lại. Ngọc nói:
"Chị cau mũi thêm một tý nữa để tôi xem."
Thanh nhìn Ngọc:
"Anh thích tôi cau mũi."
"Tôi thích cả chị bĩu môi nữa."
Thanh cười:
"Có anh hay cau mũi bĩu môi thì có. Từ nãy đến giờ cứ uống một ngụm thì anh lại cau mũi và bĩu môi một cái. Cà-phê sáng nay do bà Su pha. Chắc anh đương rủa ngầm tôi sáng nay đãng trí pha cà-phê như bà Su. Cái gì chứ cái ăn, uống thì anh sành lắm. Về Hà Giang rồi anh xem, ăn gì, ăn đạn ấy. Tha hồ mà cau mũi. Có lẽ tôi không về Hà Giang nữa đâu vì đã lâu tôi bói Kiều đúng ngay vào câu: "Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu". Hôm qua tôi tức mình bói lại một lần nữa thì gặp ngay câu: "Thôi, con còn nói chi con. Sống nhờ đất khách thác chôn quê người". Bà Su nghe bấy nhiêu lời... Đấy hai lần thánh đã dậy, tôi chắc không về Hà Giang được đâu, đi dọc đường chắc bị thổ phỉ giết, thổ phỉ ấy là anh chứ ai vào đấy. Tôi cũng sẽ như Tứ còn trơ lại bộ xương trắng ở một khe núi trên đất Tàu, có khi ngay ở chỗ bộ xương Tứ, để có bạn cho vui. Nhưng theo câu bói sau có lẽ đúng hơn. Tôi sống nhờ đất khách tức là đất Tàu và anh còn thương hại tôi đôi chút nên chôn tôi chứ không bỏ xương trơ khe núi. Hôm nào đi anh nhớ đem theo một cái xẻng hay cái cuốc vác trên vai rồi vừa đi vừa hát: "Hồn nước muôn năm sống cùng non nước". Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng. Dù khó thế mấy quyết đào quyết cuốc, vùi chôn kín mít cái cô đồng chí lôi thôi.
Ngọc cũng bật lên cười:
"Mà lại ‘very lôi thôi’ nữa. Chị không lo tôi sẽ chôn chị như chôn vàng ở vườn nhà anh Tường, nhưng lần này đừng có hòng có ai đào lên nữa."
Chương ba mươi hai
Hai ngày sau, Ngọc đương ngồi trên gác với Thanh thì có một người vào hiệu. Bà Su vì sớm quá nên chưa sang. Thanh phải xuống tiếp khách. Nàng ra phía cầu thang nhìn xuống, hỏi bằng tiếng Tàu:
"Ông xơi cà-phê phin hay cà-phê đen?"
Nàng quay lại nhìn Ngọc nhanh một cái rồi bước xuống cầu thang. Có tiếng guốc của Thanh, rồi tiếng đĩa đặt lên bàn rồi tiếng thìa khoắng đường trong cốc. Ngọc nghĩ thầm:
"Ông Tàu nào mà ít nói vậy."
Bỗng chàng sinh nghi, đi rón rén rồi nhìn xuống khe sàn gác. Chỉ nhìn thấy một cái bàn không, chàng đi thật nhẹ ra nhìn qua một khe hở khác. Chàng thấy Thanh đứng bên cạnh bàn một người Tàu mặc bộ áo cánh đã bạc màu và người ấy giơ tay gãi trán không nói gì. Thanh đưa tay ra như đón lấy tiền. Người Tàu uống một ngụm nhỏ rồi rút ra một cái ví lấy tiền nhưng Ngọc cũng thoáng thấy gấp trong tờ giấy bạc quan kim một hay hai (chàng không phân biệt rõ lắm) tờ giấy. Thanh vội vã cầm lấy giấy rồi đút ngay vào túi áo cánh; tờ giấy quan kim vẫn còn để nguyên trên bàn. Người khách uống vội vàng mặc dầu cà-phê nóng bốc hơi rồi cất tiếng hỏi Thanh:
"Bao nhiêu thế cô hàng?"
Thanh đưa trả người khách tờ giấy quan kim nói:
"Ông làm ơn cho tiền lẻ tôi không có giấy nhỏ đổi lại."
Ngọc thấy người khách đưa Thanh tờ giấy quan kim, uống cạn cốc cà-phê đứng dậy nói:
"Tôi chỉ có tờ giấy này thôi cô cứ cầm lấy cả cũng được. Tôi mở hàng mà."
Khi người khách đi khỏi, Ngọc lại rón rén về ngồi nhẹ xuống ghế, không một tiếng động nào. Chàng quay mặt nhìn ra khu vườn sau, rút bao thuốc lá châm hút và đưa mắt nhìn theo làn khói. Thanh lên gác ngồi xuống ghế nói:
"Sáng hôm nay hên quá, có bao nhiêu tiền còn lại ông ta đưa hết để mở hàng. Chắc tay giầu sụ, bộ quần áo Tây sang ghê."
Ngọc suy nghĩ rất nhanh và hiểu hết. Chàng bảo Thanh:
"Có hai con bọ ngựa đuổi nhau ở đầu tường trông đến hay. Chị có biết con bọ ngựa có gì khác thường không?"
Thanh nói:
"Anh lại hỏi một người như tôi đã từng học rất nhiều về thảo vật học khi còn ở trường thuốc. Con cái lớn, con đực nhỏ, xong việc rồi nếu anh chàng không chạy kịp thì cô nàng xực anh chàng ngon lành lắm."

"Cái đó thì tôi không biết nhưng anh Lễ thường ví mình như con bọ ngựa vì hôm nào chị thử mà xem, con bọ ngựa không bao giờ lùi cả."
Thanh mỉm cười:
"Thế nghĩa là thế nào anh cũng về Hà Giang, tôi cũng là con bọ ngựa mà tôi lại đi trước anh đi qua cầu sắt, không lùi. Anh chỉ được cái nói mẽ: nếu về một mình chắc anh đi qua bến đò buôn lậu, thấy bên kia sông Thanh Thuỷ có biến anh lại lùi ngay, bọ ngựa gì anh. Anh suốt đời chỉ là châu chấu. Thấy Việt Minh chắc anh sẽ nhẩy lung tung, không nhẩy về ngả Hà Giang được anh lại nhẩy qua sông Hoàng Su Phì hay Quản Bạ. Nhẩy mãi cũng có ngày Việt Minh tóm được rồi nó đào nó cuốc, nó chôn kín mít cái anh châu chấu lung tung. Thôi bây giờ để tôi pha hai cốc cà-phê rồi cùng ngồi uống ngắm cảnh từ biệt vì ngày mai tôi nhất quyết đi mà đi không tính ngày trở lại.
Ngọc cau mũi nói:
"Chị bảo tôi là khách hạng quý nhất, tiền đã trả trước từ lâu. Thế mà chỉ vì một anh xạ-phang chị đã quên bẵng đi. Tôi từ lúc đến chỉ ngồi trơ như phỗng.
Khi Thanh bưng hai cốc cà-phê lên, Ngọc rút thuốc lá mời Thanh. Nắng đã bắt đầu chiếu vàng một góc tường và lấp lánh trên những lá cao cây lựu. Nụ hoa lựu từ đêm qua đã nở nhưng vì ở thấp nắng chưa chiếu tới nên những cánh hoa trắng trông mát dịu. Hai con mắt Thanh, Ngọc thấy trong mát và tươi như hai cánh hoa ướt sương, má nàng bớt hồng có vẻ lành lạnh.
Ngọc nghĩ nếu lúc đó bỏ được tính nhút nhát thì chàng sẽ áp má chàng vào má Thanh; hai người chắc sẽ kề má để cho hai tâm hồn bấy lâu ngăn cách sẽ truyền thấm lấy nhau, gặp gỡ nhau ở đôi làn da lạnh như hai hạt muối trắng cùng tan đi hoà lẫn nhau trong lòng nước.
Ngọc giật mình như vừa tỉnh mộng bảo Thanh:
"Thế chị xuống mời bà Su sang thu xếp với bà ta. Tôi cũng về để sửa soạn và từ biệt hay vĩnh biệt cô Phương của tôi."
Ngọc ra ngay bưu tín cuộc đánh mật điện lên Côn Minh báo cho Tường biết chàng đã có chứng cớ rõ ràng Thanh là một cán bộ lợi hại của Việt Minh, ngày hôm sau chàng sẽ cùng Thanh đi Văn Sơn và dọc đường chàng sẽ tìm cách thủ tiêu Thanh.
Lúc trở về Ngọc ghé qua nhà Hoạt. Chỉ có mình Phương ở nhà. Chàng nói:
"Sáng sớm mai anh đi Văn Sơn. Chúc em ở lại mạnh khoẻ và cần nhất là đừng lo buồn gì về anh. Độ mươi hôm nữa anh sẽ về, anh chỉ đến Ma-Lì-Pố nghe ngóng tin tức rồi quay trở lại ngay."
Phương dặn:
"Anh nhớ đem áo len của em đi mặc. Anh có cần gì không. Em có vốn riêng anh cầm đi mấy tấm vàng lá."
Rồi nàng chạy vào buồng trong. Ngọc đứng lại một mình lẩm bẩm:
"Lại vàng."
Phương ra đưa chàng hai tấm. Ngọc từ chối:
"Dọc đường đã có công tác trạm. Anh cần gì nhiều thế. Em cho anh mượn cái kéo."
Chàng lấy kéo cắt đôi một tấm vàng, giữ một nửa còn bao nhiêu đưa trả lại Phương. Biết là lần này đi không trở về nữa nhưng chàng vẫn thản nhiên như khi từ biệt Phương mọi lần. Phương tiễn chàng ra cổng, giơ tay vẫy vui vẻ. Ngọc lặng nhìn Phương một lúc rồi quay mặt bỏ đi. Được tin chàng chết chắc Phương cũng buồn khổ ít lâu nhưng chàng chắc chỉ độ một năm sau Phương sẽ quên chàng. Nàng lại trở về sống cuộc đời êm ả và dưói bóng mát kia nàng lại đứng tựa vào gốc cây đắm đuối nhìn âu yếm một chàng thanh niên khác, không lôi thôi như chàng.
Ngọc quay lại nhìn Phương mỉm cười:
"Bà Vĩnh tương lai."
Rồi chàng vừa đi vừa hát khe khẽ "Hồn nước muôn năm sống cùng non nước... Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng..."
Ngọc cảm thấy trong người nhẹ lâng lâng. Tình yêu Phương đã chết hẳn trong lòng chàng rồi và chàng cũng không còn bứt rứt thương hại Phương nữa. Chàng chắc Phương sẽ sống một cuộc đời sung sướng yên ổn; tâm hồn nàng không thể có những giông bão như tâm hồn Thanh. Kiếp sống của nàng lúc nào cũng yên ổn như mặt hồ; tình Phương yêu chàng chẳng qua chỉ như làn gió thoảng qua làm mặt hồ gợn sóng lăn tăn trong chốc lát.
Ngọc tạt qua nhà Minh hỏi tin tức về việc đi xe của bộ đội Mỹ từ Mông Tự về Khai Viễn, Văn Sơn. Trong thâm tâm chàng chỉ mong ngày mai không có đoàn xe nào và bộ đội Mỹ đã lấy hết vật liệu ở trường bay Văn Sơn về rồi. Như vậy chàng sẽ được đi bộ với Thanh theo con đường tắt trong sáu bẩy hôm mới tới Văn Sơn. Minh báo cho chàng biết là còn xe và xe rất vắng khách, sáng mai bẩy giờ khởi hành rồi đưa cho chàng hai tấm giấy phép:
"Tôi có người Mỹ quen cho biết có một đoàn xe đi qua Khai Viễn chỉ nghỉ lại trong trại binh độ nửa ngày. Thế nào, anh đưa chị Kim đến bên này sông Thanh Thuỷ rồi chờ tin tức..."
"Không tôi sẽ sang. Tuy đã có khẩu hiệu và giấy của anh Tường cấp cho chị Kim nhưng chỉ có tôi là có thể tìm kiếm nhà các anh em vì tôi thuộc đường lối."
"Tôi e anh đi không ngày về."
Ngọc cười:
"Tôi muốn nhờ anh một việc riêng. Nếu trong mười lăm hôm không có điện ở Ma-Lì-Pố hay Văn Sơn tức là tôi đã bị họ thủ tiêu; nếu vậy anh đến thăm anh chị Hoạt anh cố tìm Phương báo tin là tôi đã về hẳn trong nước, bình an vô sự."
Minh nói:
"Chị Kim thực can đảm, còn anh thì liều lĩnh. Anh đi cùng chị Kim tức là anh giết chị Kim đấy."
Bất giác Ngọc nghĩ đến bức điện tín và việc chàng dự định giết Thanh ở dọc đường.
Chương ba mươi ba
Thanh và Ngọc lên ngồi riêng một xe cam-nhông. Phía trước chỉ có một quân nhân Mỹ lái xe. Anh em không ai ra tiễn vì sợ lộ. Ngọc mặc áo nhà binh không phù hiệu còn Thanh mặc chiếc áo tàu màu lam xẫm. Khi qua phố hai người ngồi xoay mặt vào trong, đợi khi đi khỏi mấy nhà gần sân bay mới ngửng lên và nhìn nhau mỉm cười. Gió thổi mạnh làm xõa cả tóc Thanh xuống trán. Ngọc cũng bỏ mũ nhà binh ra. Hai người biết là cùng đi đến chỗ chết nhưng trong lòng lại vui hớn hở. Thanh nói:
"Thích quá. Xe Mỹ đưa chúng mình vào Thiên Thai."
Ngủ trong trại binh Mỹ ở Khai Viễn được già sáu tiếng đồng hồ, ba giờ sau đoàn xe đã khởi hành.
Lúc qua chỗ đèo cao nhỏ hẹp, đường vẫn trơn như năm trước. Thanh lấy tay chỉ xuống vực sâu thẳm. Nàng ngồi lên thành xe rồi ngả người bỏ cả hai tay ra:
"Nhẩy xuống đây một cái thì tới Đào Nguyên ngay."
Ngọc vội vàng kéo chân Thanh rồi đẩy Thanh một cái ngã vào trong xe. Người tài xế Mỹ thấy tiếng động cất tiếng hỏi. Thanh đáp luôn bằng tiếng Anh:
"Tôi chán đời định nhẩy xuống đây để tự tử nhưng ông này cứ bắt tôi sống để chịu khổ."
Rồi Thanh rũ ra cười. Người lính Mỹ cũng có tính khôi hài:
"Nếu cô định tự tử thì để tôi mời người lính Tàu này xuống xe rồi tôi chỉ rẽ tay lái sang bên trái. Tôi sẽ cùng cô tự tử vì bây giờ hết chiến tranh, không bao lâu tôi sẽ về nước gặp bà vợ tôi, tôi còn sợ hơn là cả bọn Nhật."
Thanh đến gần chỗ cửa sổ, lật cái bạt che gió lên rồi nói chuyện với tài xế, mỗi lúc một thân mật hơn. Ngọc kêu Thanh:
"Chị cứ nói chuyện với tài xế, họ đãng trí một tí là chết nghẻo cả ba."
"Vâng thì thôi vậy, nhưng anh nhát gan lắm."
Ngọc đâm cáu, nói như ra lệnh:
"Đồng chí phải nhớ là đồng chí ở trong chi bộ tôi. Chưa làm xong phận sự, đồng chí chưa có quyền chết. Tôi cũng vậy."
Thanh bĩu môi:
"Anh nên nhớ tôi không phải đồng chí của anh mà cũng chưa từng ở trong chi bộ anh. Tôi vẫn là cán bộ hờ ở trong chi bộ ma, chi bộ Ích kỷ và chi bộ Vị tha."
Rồi nàng quay nhìn Ngọc cười vui sướng:
"Anh không có quyền cáu với tôi, ra lệnh bắt tôi theo."
Thấy Ngọc cứ nhìn mãi xuống vệ đường, Thanh đến ngồi gần sát Ngọc và cũng nhìn xuống:
"Anh tìm cái gì thế?"

"Tôi tìm xem cái kính của Tứ có còn không?"
"Anh tìm làm gì. Chắc ai đi qua đã nhặt mất cái gọng vàng còn đâu mà tìm?"
Ngọc nhìn thẳng vào mắt Thanh hỏi:
"Sao chị biết kính anh Tứ gọng vàng?"
"Sao tôi lại không biết. Tứ là nhân tình của tôi. Cái kính ấy chính tôi cùng Tứ đi chọn mãi ở Côn Minh. Tôi đã phải bỏ tiền ra mua biếu Tứ để làm kỷ niệm. Bây giờ kính cũng mất, người cũng mất, à, người vẫn còn, một bộ xương trắng mà chỉ mình anh biết chỗ. Tôi bắt đền anh đấy. Hôm nào đi qua chỗ ấy thế nào anh cũng phải đưa tôi đến. Tôi sẽ chôn cất cho tử tế. Đến Ma-Lì-Pố anh phải đem theo một cái xẻng. Nếu anh hứng chí thì anh chôn tôi luôn thể, cùng một huyệt để tôi với Tứ được gần nhau trọn đời... trọn đời chết. Mấy nghìn năm sau có tay khảo cổ nào đào thấy chắc cho là chúng tôi cùng tự tử và tự tử xong thì cùng nhau lấp đất, vùi kín ngộ nhỡ có ai một trong hai người sống lại thì người ấy khỏi đi tìm một cô hay một cậu nhân tình khác."
Nói xong Thanh cười. Thấy Ngọc cứ nhìn mình nàng tiếp theo:
"Mặt tôi có gì lạ mà anh nhìn mãi thế. Anh bảo ở đây phong cảnh đẹp lắm. Hay ta cùng ngắm cảnh. Có phải kia là nhà người Mèo anh nói mãi với tôi là anh muốn đến đấy ở không? Đúng rồi, có bụi tre mai lớn ngay cạnh. Hay là chúng mình bỏ cả công tác, đến đấy ở, cục ta cục tác với nhau như những con gà trong bài thơ Thiên Thai của Tào Đường: ‘Vãng vãng kê minh nhan hạ nguyệt’ mà tôi tạm dịch là: ‘Trong nhà mèo hai con gà dưới bóng trăng đêm đêm gọi nhau’. Nhưng không xuôi, mèo đói thì mèo xực cả gà."
Ngẫm nghĩ một lát thì Thanh lại nói:
"À bây giờ nói đứng đắn không đùa nữa. Hôm nọ anh băn khoăn mãi về điều tại sao người ta lại giết hại lẫn nhau từ mấy nghìn năm không thay đổi, tôi nghĩ ra rồi: chẳng qua là vì cần xực nhau cả, mèo đói mèo sực gà, gà đói gà sực châu chấu, châu chấu đói châu chấu sực cỏ. Bây giờ anh đã đói chưa?"
Thanh vừa nói vừa lấy trong túi vải ra hai chiếc bánh mì và một hộp pa-tê nhỏ. Ngọc đỡ lấy rồi bẻ bánh mì ăn với pa-tê một cách ngon lành. Đi hết đèo, người lính Mỹ cũng đỗ xe lại lấy hộp đựng các thức ăn ra.
Thanh nói:
"Đấy anh xem nếu lính Mỹ không có hộp đồ ăn họ sẽ sực tôi trước vì tôi chân tay không mà họ có súng Thompson, nếu anh không có bánh mì anh sẽ sực tôi vì anh có súng lục, chỉ có tôi đành chịu, có ít vàng giắt trong người không lẽ gặm vàng mà sống nổi. Cá lớn nuốt cá bé, từ mấy ngàn năm trước đến giờ vẫn vậy."
Ba giờ chiều, xe qua các đèo sau cùng trước khi tới Văn Sơn. Ngọc chỉ tay xuống thung lũng:
"Chị trông, con đường kia là con đường Mã Quan đi Hoàng Su Phì. Giữa thung lũng là dòng sông Lô chẩy qua Văn Sơn về tận đất nước nhà; chính con sông ấy năm ngoái nước dồn về khiến tôi phải ở lại nhà chị Nam sáu hôm, chị phải ăn ruốc xót ruột mất mấy hôm. Chắc độ bốn giờ thì tới Văn Sơn, tôi sẽ đưa chị ăn ‘cô sèo mi siển’ trước khi đến nhà chị Nam."
Gió trên đèo thổi mạnh. Thanh lấy chiếc khăn tay buộc phủ khỏi đầu cho tóc khỏi xoã xuống mắt và che gió lạnh. Chiếc khăn nhỏ quá, Thanh loay hoay buộc nút ở cằm không được:
"Anh buộc hộ tôi."
Thanh ngửa mặt chờ đợi. Ngọc cũng loay hoay buộc mãi nhưng chiếc khăn vẫn nhỏ quá. "Để chị lấy khăn tôi rộng hơn". Chàng phủ khăn lên đầu Thanh, choàng kín cả hai má và nhét tóc vào khăn; chàng cố ý để thừa một ít tóc lơ thơ trên trán và sửa lại chỗ tóc ở má cho nét mặt đỡ trơ và đẹp hơn.
Tay chàng lần đầu tiên chạm vào làn da mặt Thanh, vào đôi gò má ửng hồng như hai trái đào Côn Minh sau một ngày phơi nắng. Chàng xoay đầu Thanh về phía mình và áp lòng bàn tay vào hai má lạnh của Thanh:
"Má chị lạnh quá. Tôi khôn nên lúc nào cũng thọc hai tay vào túi. Chị không biết đèo này cao nhất vùng, gió thổi mạnh và rét lắm nhưng được cái đường dễ đi."
Ngọc làm như chỉ để ý đến câu nói nhưng tay chàng vẫn áp mạnh vào má Thanh. Chàng cảm thất hơi nóng của hai bàn tay chàng truyền sang má Thanh và hơi lạnh của má Thanh thấm vào lòng bàn tay chàng như hoà lẫn với nhau. Ngọc buông tay ra, nói:
"Bây giờ thì chị tha hồ ấm mặt và hết ngứa má."
Thanh nhìn xuống thung lũng rộng, có con sông chẩy giữa, quanh co lượn khúc. Nàng hé môi mỉm cười sung sướng vì chàng đã thừa biết ý định của Ngọc. Má nàng tuy có ấm hơn trong lòng bàn tay nóng của Ngọc nhưng vẫn còn những sợi tóc lơ thơ xoã ra ngoài khăn; mỗi lần xe chạy vòng, gió lại thổi hắt vào khiến nàng thấy ngưa ngứa một cách dễ chịu ở gò má và khoé môi. Nàng nói với Ngọc:
"Chưa bao giờ tôi thấy một cái thung lũng đẹp như thế này. Hay thôi chúng mình ở lại đây. Tôi đã đi học trường thuốc, tôi lại học cả đỡ đẻ, tôi sẽ tranh hết khách của chị Nam. Chúng mình sẽ giầu to. Lúc nào muốn về nước thì đi đường Hoàng Su Phì qua Pakha, tôi sẽ biến thành người Lô Lô còn anh sẽ là một chàng công tử lên Pakha nghỉ mát hay anh biến thành anh chàng gì ném thằng tình nhân phụ bạc của tôi xuống thác như ném ông ‘ba đi ghệt’ trong truyện ‘Một đêm trăng’."
Lúc gần tới Văn Sơn vì đường trơn nên xe Mỹ phải đỗ lại, đợi xe ở sân bay ra kéo về. Thanh cảm ơn rồi bắt tay người lính Mỹ từ biệt.
"Bye bye! "
Ngọc giơ ngón tay cái lên nói:
"Tinh hao."
Chương ba mươi bốn
Hai người vác túi đi bộ một quãng khá xa, qua một cái cầu đá rồi rẽ về phía tay trái. Khi qua nhà Nam, Ngọc kéo mũ xuống đi thẳng. Nam ở trong nhà nhìn ra nhận được ngay Ngọc:
"Ô kìa, ai như chú Ngọc. Chú Ngọc ơi chú quên nhà hay sao?"
"Em định đánh một đòn bất ngờ."
Ngọc vẫy Thanh. Thanh cũng vào theo. Nam chưa hiểu là ai nhưng một người đã đi với Ngọc nếu không là cán bộ Việt Quốc thì cũng là Việt Minh trá hình, nàng cần phải đón tiếp niềm nở. Khi lên trên gác, Ngọc giới thiệu:
"Đồng chí Kim."
Thanh đưa Nam coi giấy phái nàng đi công tác do Tường ký và dấu đóng Hải ngoại Bộ, lại kèm theo giấy của Khu bộ Trưởng Mông Tự phái nàng về xem xét tình hình Hà Giang do nghị quyết của một hội đồng đặc biệt trong có thêm mấy dòng yêu cầu đồng chí Nam ở Văn Sơn và hai đồng chí Tính, Hân ở công tác trạm Ma-Lì-Pố hết sức giúp đỡ về mọi mặt. Nói xong Thanh cho giấy vào túi áo cánh trong. Tự nhiên Ngọc và Thanh mỉm cười: cả hai người cùng trong một lúc đều nghĩ đến hai tờ giấy khác nhau. Thanh nói với Nam:
"Anh Ngọc nói dối chị đấy. Lúc còn trên xe anh ấy bảo em đi ăn cô-sèo-mi-siển đã rồi mới vào chị. Thế mà cũng dám mở mồm nói với chị là đánh một đòn bất ngờ. Anh Ngọc có cái tài đặc biệt là lúc nào cũng nghĩ đến ăn. Bán áo da Mỹ đi để ăn phở cừu; ở ga Pô-Si ăn cả một đĩa xôi với một cái tỏi gà sống thiến, em ngồi ngay bên cạnh mà anh ấy để em nhịn đói rồi anh ấy lại nói là không giới thiệu các anh em chi bộ Pô-Si vì công tác bí mật. Công tác bí mật của anh ấy có mỗi một môn là công tác ăn và bí mật ăn mảnh, giấu kín cả anh Tường, anh Ninh."
Nam bật cười rồi ngồi nói chuyện với Thanh thân mật như hai chị em ruột. Thanh bảo Nam:
"Để em thết chị với anh Ngọc cô-sèo-mi-siển vì tên em là Kim nên có nhiều vàng lắm, em lại phụ trách về tài chính cho Đảng. Nhưng em chưa đói đâu. Để lát nữa ăn trừ cơm."
Thanh đi dọn dẹp nhà cửa quét gác sạch sẽ rồi xuống xếp lại phòng khám bệnh của Nam. Nhưng nàng tinh ý không tỏ cho Nam biết là nàng đã học qua trường thuốc sợ chạm lòng tự ái của Nam. Ngọc nói:
"Trong khi cô Kim xếp dọn, tôi với chị vào đảng bộ trình giấy, sợ hết giờ họ đóng cửa."
Đến một nơi vắng, Ngọc ngừng lại bảo khẽ Nam:
"Em có bằng cớ chắc chắn rằng Kim tức Thanh là một cán bộ Việt Minh mà lợi hại gấp mấy lần Nghệ nữa. Trong người Kim có hai tờ giấy do Quân cấp để về Hà Giang, muốn lợi dụng em để biết hết tổ chức của anh Ninh đặt từ Quản Bạ tới Hoàng Su Phì rồi báo cho Việt Minh biết. Lại thêm mấy chục anh em nữa bị Việt Minh thủ tiêu. Em có chứng cớ rõ ràng."
Nam suy nghĩ một lát rồi nói:

"Tôi, tôi cũng thấy Kim lợi hại lắm. Kim về phía mình thì giúp việc rất đắc lực, nếu là cán bộ Việt Minh thì là một tai hại ghê gớm lắm. Hay để đêm nay tôi cho hắn ngửi thuốc mê rồi lục túi xem hai tờ giấy kia là giấy gì."
Ngọc đáp luôn:
"Không được, chị không biết là Thanh đã học trường thuốc gần hai năm. Chị khó lòng cho hắn ngửi thuốc mê. Hắn tỉnh ngủ lắm mà lại khoẻ hơn chị nhiều. Chính hắn cho tôi biết thuốc giết Nghệ là cyanure de potassium. Bây giờ hắn đương xếp dọn những lọ thuốc của chị. Hắn cũng đã biết chuyện chị giết Vương Đức, nếu hắn là Việt Minh thì bao nhiêu thuốc độc, thuốc mê của chị đều hóa ra nước lã hoặc biến thành thuốc tiêm bổ tì bổ thận."
Nam cũng phải bật cười. Ngọc nói:
"Việc ấy chị để tôi lo liệu. Tôi sẽ bắn hoặc bóp cổ Thanh ở dọc đường. Chị phải làm như không nghi ngờ gì cả. Cần nhất là Thanh không nghi ngờ gì chị và nhất là nghi ngờ tôi vì vậy tôi phải nhiều lần tỏ ý yêu Thanh; một lần ôm ngang lưng ở lăng Đường Kế Nghêu và khi tới đỉnh đèo gần Văn Sơn, mượn cớ buộc khăn tay cho tóc Thanh khỏi bay tôi đã áp hai tay tôi vào má Thanh rất lâu... Thanh tưởng tôi mê thực; còn tôi vì muốn lừa một tay lợi hại như thế, tôi đã mê Thanh thành thực, nếu không Thanh sẽ biết ngay. Nhưng chứng cớ đã rõ ràng lắm, tôi yêu Thanh nhưng tôi phải giết Thanh."
Đêm ấy Thanh nằm với Nam còn Ngọc ngủ giường bên cạnh. Thanh nói:
"Đêm nay thức suốt đêm nói chuyện chơi đi. Anh Ngọc cũng có nói chuyện với em về chị nhưng chỉ nói về công việc thôi, thí dụ như việc Vương Đức, em thấy chị thật là can đảm có một. Nhưng còn vì lẽ gì chị sang đây gia nhập hàng ngũ cách mệnh thì em không được biết một tí gì. Em cũng sẽ kể chị nghe duyên do tại sao em sang Vân Nam, việc ấy anh Ngọc đã biết rõ lắm mà em cũng biết rõ về việc cô Thuý chết. Thật là một chuyện thương tâm. Nhưng cũng may là anh Ngọc nhờ công việc nên quên được Thuý và nay mai chắc chị phải về Mông Tự ăn cưới anh Ngọc lấy cô Phương em anh Hoạt."
Nam đáp:
"Rất tiếc vì ngày mai tôi phải đi Sim-lồ-Chai cách Văn Sơn năm cây số đỡ đẻ. Tối nay cần ngủ."
"Thế để ngày mai em cùng đi giúp chị một tay. Em cũng biết đỡ đẻ. Chị có mỏ vịt không, forceps ấy mà; trường hợp khó cần thứ đó mới cứu được mạng người. Em cũng biết làm forceps."
"Thế thì tối nay chị cần đi ngủ sớm."
Thanh nhìn sang giường Ngọc nói:
"Em thức suốt đêm, hôm sau vẫn như thường. Anh Ngọc còn tài hơn. Thế mời chị ngủ vậy, chúng em cần bàn tính công việc nhưng hai giường kê sát cạnh nhau thế này, chúng em chỉ thì thào thôi để khỏi quấy rầy chị."
Nói vậy nhưng vì đi xe suốt một ngày nên Thanh ngủ lúc nào không biết. Nửa đêm, Thanh sực thức dậy và có mùi éther thoảng qua mũi. Nàng mở mắt rồi gọi Nam:
"Chị Nam ơi, không khéo chuột chạy làm rơi vỡ chai éther của chị rồi."
Nàng giơ tay sang bên cạnh, không thấy Nam đâu vội gọi to:
"Chị tỉnh ngủ thật, éther có đổ nhiều không?"
Tiếng Nam ở cầu thang vọng lên:
"Không sao cô ạ, chỉ vỡ có lọ nhỏ thôi.
Tiếng hai người làm Ngọc cũng sực thức giấc. Nam tới gần giường tay cầm cây đèn dầu lạc."
"Chết chửa, chị xuống nhà mà chị dám đốt đèn ngộ nhỡ lọ to vỡ thì cháy nhà rồi còn gì."
Ngọc quắc mắt nhìn Nam thầm trách Nam không nghe lời mình. Chàng thấy rõ là Nam tuy đã thủ tiêu được Vương Đức nhưng đối với Thanh còn non dại nhiều. Một ý nghĩ từ thâm tâm nổi lên mà chàng không tự thú là nếu Nam có đánh được thuốc làm Thanh mê và hai tờ giấy đó là giấy của Quân cấp đi nữa, chàng cũng tìm cách huỷ bỏ giấy ấy đi để cứu Thanh đã rồi sau sẽ liệu. Trong lúc đó, Thanh ngồi dậy nhìn Nam rồi lại nhìn Ngọc, nàng lấy tay đẩy cánh cửa sổ mở ra đường. Con đường nhỏ nên các nhà trước cửa rất gần. Nàng nói:
"Mở cửa ra cho bớt mùi éther khó chịu quá."
Thanh biết là Nam lại muốn giở cái trò thủ tiêu nàng như thủ tiêu Vương Đức. Nàng biết là Ngọc không dự vào việc đó vì nàng dậy rồi Ngọc mới thức giấc, mắt còn ngái ngủ nàng không thể lầm lẫn được. Nhưng nếu Ngọc không dự vào việc âm mưu ám hại nàng thì sao Nam lại biết được nàng có liên lạc với Quân. Hay là chính Tường mới đánh điện về Văn Sơn ra lệnh cho Nam. Bỗng nàng sực nhớ ra: chiều hôm qua Nam và Ngọc rủ nhau đến Đảng bộ trình giấy. Chắc là Ngọc hôm ngồi trên gác đã nhìn thấy người của Quân đưa giấy công cán cho nàng."
Lúc Thanh mở cửa sổ nàng định kêu thật to là cháy nhà, hàng xóm sẽ chạy sang. Nhưng bây giờ nàng đã biết đích xác là Ngọc rồi, nàng không cần gì nữa. Ngọc, người mà nàng chắc sẽ yêu trọn đời, một người có tâm hồn đẹp đẽ như nàng đã hiểu rõ trong bao lâu ở gần, Ngọc mà lừa nàng nữa thì nàng không còn biết tin ai, không biết sống để làm gì! Thanh ứa nước mắt, cố giữ khỏi khóc thành tiếng rồi quay mặt vào phía trong. Nàng nói
"Buồn ngủ quá."
Nàng cố sức nằm yên không động đậy. Nửa giờ sau, có người lay vai nàng rồi tiếng Ngọc nói khẽ:
"Gần sáng rồi. Dậy nói chuyện chị Kim."
Thanh không trả lời, làm như đã ngủ say; nàng chỉ còn đợi có một cái chết, nước mắt ứa ra chảy xuống má ngưa ngứa nhưng nàng không dám gãi; nước mũi làm tắc hai lỗ mũi, nàng đành há miệng thở.
Thanh đợi, đợi mãi cái mùi thuốc mê, đợi mãi miếng bông Ngọc sẽ đặt khẽ lên mặt rồi nàng sẽ thiêm thiếp dần: cảnh đi chơi cánh đồng đào ở Côn Minh, cùng Ngọc ngồi dưới bóng hoa đào, cảnh đêm trên hồ Tây Sơn cùng Ngọc ngắm con đường rắc hoa bạc như đưa hai người vào Thiên Thai và hôm Nhật đầu hàng, nàng ngà ngà say được Ngọc ôm ngang lưng mình, ánh đèn sáng từ nhà Đường Tiểu thư chiếu qua rặng trúc rung động trên áo Ngọc mỗi lần gió lao xao trong lá, tất cả những cảnh đó hiện ra rất nhanh trong đầu óc nàng.
Nằm yên lâu quá người nàng tê dại, kiến bò ở bắp đùi nhưng nàng vẫn phải để yên chân không động đậy.
Dưới đường có tiếng mở cửa ở mấy nhà gần đây, rồi một tia ánh sáng mờ mờ lọt qua khe hở vách gỗ. Trời đã tang tảng sáng. Thanh lúc đó mới xoay người, vươn tay chân nói, nói:
"Ngủ thêm được một giấc ngon quá."
Thanh quay mặt lại và thấy Ngọc ngồi ở cạnh giường bên như chờ đợi. Ngọc bảo Thanh:
"Nhà gần đây có một đùa trẻ lên cơn sài, chị Nam phải đi từ lúc gần năm giờ sáng, chưa về. Tôi ngồi đợi định gọi chị dậy nói chuyện cho vui nhưng thấy chị ngủ thiếp đi, tôi đành ngồi chờ. Để tôi đi pha cốc cà-phê chị uống cho tỉnh."
Ngọc xuống nhà dưới một lúc rồi đem lên hai cốc cà-phê nóng. Thanh đã lau khô nước mắt, ngồi tựa vào vách ván. Gió thổi qua khe hở khiến nàng thấy hơi lạnh ở cổ. Bỗng Thanh lạnh cả người: rõ ràng từ quá nửa đêm đến giờ không có ai đến gọi cửa mời Nam đi. Chắc Nam ngồi ở dưới nhà đợi sẵn, pha cà-phê rồi bỏ thuốc độc để Ngọc bưng lên nàng uống. Trong hai cốc để ở bàn một cốc cà-phê thường Ngọc uống còn một cốc có thuốc độc để phần nàng. Ngọc tiến về phía giường Thanh rồi đặt trước mặt nàng một cốc cà-phê đặc, vẻ mặt vui tươi.
"Chị xơi cho tỉnh. Hôm nay tôi là chủ hiệu và chị là khách. Chị phải trừ đi một cốc vào số cốc tôi còn nợ chị."
Nói xong, Ngọc ngồi xuống giường bên cạnh nhìn Thanh. Thanh cầm cốc lên:
"Cùng uống cả cho vui."
Nói vậy nhưng Thanh không đợi Ngọc, nàng đưa cốc lên môi, không lưỡng lự, không ngửi mùi cà-phê, uống một hơi cạn nửa cốc.
"Cà-phê anh pha khéo quá, lại ngon hơn cả cà-phê của tôi pha nữa. Hay tại tôi khát."
Rồi nàng dốc dốc uống thêm một hơi nữa, nước cà-phê ứa ra hai bên mép. Nàng lấy tay cho vào túi rồi quờ quạng quanh chỗ ngồi:
"Cái khăn tay của tôi đâu rồi. Anh cho mượn khăn anh để tôi lau miệng."

Thanh đỡ lấy chiếc khăn Ngọc đưa, âu yếm nhìn vào hai con mắt thân yêu của Ngọc mà nàng chắc chỉ lát nữa không bao giờ còn thấy lại. Biết mình sắp ứa nước mắt khóc, Thanh lau qua miệng rồi đưa khăn chấm hai mắt, nàng đặt tay lên ngực, ho lên mấy tiếng, để mặc nước mắt trào ra. Người nàng hơi choáng váng; thuốc chắc bắt đầu ngấm. Thanh vo tròn chiếc khăn rồi áp vào miệng; qua làn nước mắt nàng nhìn Ngọc chỉ thấy một hình bóng lờ mờ. Bỗng nàng khóc nức nở. Tiếng khóc tuy nhỏ và nghẹn ngào ú ớ vì có khăn che nhưng Ngọc cũng thấy. Chàng nhìn Thanh ngạc nhiên nói:
"Chị làm sao thế?"
Chàng kéo chiếc khăn ở hai tay Thanh ra:
"Chị khóc đấy à? Sao thế."
Thanh lấy tay gạt nước mắt và nhìn thẳng vào hai mắt Ngọc. Không, hai con mắt kia vẫn là hai con mắt yêu nàng không ngầm một ác ý gì ở trong. Thanh nhếch mép mỉm cười:
"Không hiểu sáng hôm nay làm sao tôi cứ muốn khóc. Tôi nghĩ đến Phương mà thương hại. Nếu tôi bị thủ tiêu, anh trở về được một mình thì điều mà tôi mong hơn hết là anh cưới ngay Phương, đừng chậm trễ hơn nữa. Tôi biết rõ Phương yêu anh lắm và tuy anh hay nói đùa bỡn về tình yêu ấy, nhưng trong thâm tâm anh vẫn yêu thương Phương hơn cả mọi người. Có lẽ sáng nay nghĩ rằng anh đi không trở về nên tôi chạnh lòng vì Phương mà khóc."
Nghe Thanh nói xong, Ngọc biết chắc không phải vì Phương mà Thanh khóc một cách khổ sở như vậy. Nhưng vì cớ gì? Ngọc yên lặng suy nghĩ, mắt vô tình nhìn vào cốc cà-phê uống cạn đặt trên giường. Bỗng nhiên chàng hiểu hết. Việc Nam định đánh thuốc mê Thanh đã thừa biết là Nam định thủ tiêu nàng như thủ tiêu Vương Đức. Thanh biết nên Thanh không thể nào ngủ say được. Không có ai gọi cửa mà chàng lại nói là Nam đi vì có người đến mời chữa bệnh và nhất là cốc cà-phê. Thanh chắc là chàng đã mưu mô với Nam bỏ thuốc độc vào cà-phê. Nhưng Thanh vẫn cứ uống không ngần ngại. Thanh khóc chỉ vì biết chàng muốn giết mình và Thanh cũng có một ý nghĩ như chàng hôm nằm nghỉ ở chân đèo ông Tháo. Trong óc Thanh nổi bật lên một ý nghĩ: Thanh đã yêu chàng đến một mực độ cao nhất của tình yêu cũng như chàng yêu Thanh.
Biết là Nam không còn ngồi dưới nhà nữa, Ngọc cầm lấy khăn lau mắt, lau má Thanh cho sạch hết nước mắt. Chàng ra bàn lấy cốc cà-phê của chàng đổ một ít vào cốc cà-phê của Thanh, xoay cốc đi mấy vòng cho chỗ còn lại tan hết rồi uống một hơi. Chàng lại đổ thêm một lần nữa và rốc cốc uống cạn.
Hai người yên lặng không nói gì. Thanh thấy mình tỉnh dần. Tiếng Nam ở dưới vọng lên:
"May đứa bé không việc gì. Không phải sài uốn ván. Tôi chắc là bệnh giun. Lát nữa cho một liều thuốc giun là khỏi ngay."
Thanh cũng cất tiếng hỏi to:
"Chị đã về đấy à? Mấy giờ chị phải đi Mã Quan đỡ đẻ?"
Nam bước lên gác nhìn vào hai cốc cà-phê:
"Cô pha hay chú Ngọc pha. Chú Ngọc pha thì có ma uống được. Độ chín giờ thì tôi đi."
Tình cờ Nam dùng đúng câu của Thanh và Ngọc vẫn dùng về bà Su nên hai người bật cười. Nam không hiểu gì nữa. Chính nàng đã pha cà-phê và dặn Ngọc lấy một ít bột nhân ngôn cho vào một cái cốc sứt miệng. Bây giờ chính cái cốc ấy Ngọc lại đương cầm trong tay và uống chỗ cà-phê còn lại một cách ngon lành, dốc ngược cốc lên uống hết cả cặn. Uống xong Ngọc nhìn Nam nói:
"Em pha mà chị Thanh khen ngon, mà em uống cũng thấy ngon. Chị cứ trông hai cốc thì đủ biết, dốc không còn một giọt nào."
Thanh đứng dậy xếp chăn cả hai giường, điệu bộ vẫn nhanh nhẹn như thường. Nàng cất tiếng hát vui vẻ: "Việt Minh nó đào nó cuốc, vùi chôn kín mít cái anh châu chấu...".
Rồi nàng xuống nhà dưới rửa mặt.
Nam ngồi xuống cạnh Ngọc nói nhỏ, giọng hơi cáu:
"Sao chú không làm theo lời tôi dặn?"
Ngọc đáp lại, giọng cáu hơn:
"Chị đã làm bại lộ việc của tôi. Bây giờ Thanh đã rõ hết, việc tôi trở thành rất khó. Chị đừng trách là tôi đã không báo chị hay trước, vả lại chị không có phận sự dúng tay vào việc này. Tôi sẽ đánh điện ngay lên báo cáo anh Tường."
Nam mở to hai mắt long sòng sọc và hung ác:
"Chú biết vì lẽ gì mất Hà Giang không? Vì lẽ gì bốn mươi cán bộ thiệt mạng, trong số đó có anh Phấn đặc phái viên của Hải Ngoại Bộ. Cái gương tầy liếp đó. Anh Hoàng chỉ vì mê gái, nữ đồng chí Quỳ. Quỳ cũng đẹp như Thanh, có ở đây với tôi hai tháng, cũng con người nham hiểm nhưng còn kém Thanh một bực. Bây giờ chú lại muốn Việt Minh thủ tiêu thêm mấy chục anh em nữa, trong đó có cả chú. Tôi khuyên chú nên đưa Thanh tới bên này sông Thanh Thuỷ, rồi quay trở về nếu chú không đang tâm hạ thủ Thanh dọc đường."
"Chị đừng vơ đũa cả nắm. Đối với tôi công việc là công việc. Tình yêu là tình yêu. Chị thử nhìn vào mắt tôi, chị sẽ hiểu."
Vừa lúc đó Thanh lên, đi nhẹ không một tiếng động. Mặt nàng tươi sáng như là không có chuyện gì xẩy ra.
"Thế nào chị Nam, ta đi ăn cô-sèo-mi-siển rồi sửa soạn là vừa."
Thanh xách cái cặp da nhưng đi rất mau, Nam theo không kịp. Tới Si-lồ-Chai vừa đúng lúc người đàn bà dở dạ đẻ. Thanh chuẩn bị sẵn mọi thứ cần dùng. Quả nhiên phải dùng đến mỏ vịt. Nam lo sợ luống cuống. Thanh cầm lấy cái mỏ vịt nói với Nam:
"Chị để em giúp một tay."
Nàng bình tĩnh như không, cứu được đứa bé. Ông chủ nhà mời hai người ở lại ăn cơm trưa. Lúc tiễn ra về, ông đưa Nam một gói tiền lớn và cám ơn mãi. Nam nói:
"Bây giờ về kẻo chú Ngọc mong."
Thanh cười nói:
"Anh ấy thì mong ai. Trưa nay chắc anh ấy đánh hết ba bát phở chua. Họ đưa bao nhiêu chị?
"Gấp ba mọi lần vì ông ta nhà giầu lại hiếm con trai. Hôm nay chúng mình đi may quá, đã cứu được đứa bé mười phần chết chín mà lại là con trai. Nếu anh em trong nước ra được, tôi đỡ lo tiền."
Thanh vui vẻ nói:
"Qua Ma-Lì-Pố em có ít vốn cũng giúp một số để anh Tính chi dùng vì chắc có nhiều anh em ra theo ngả ấy."
Về tới nhà Ngọc đương ngủ trưa. Nam và Thanh yên lặng nằm xuống giường nghỉ, phần vì chuyện lục đục đêm trước, phần vì vất vả trong công việc đỡ đẻ, lại đi về lúc giữa trưa nắng gắt.
Nam nhìn Thanh nằm ngửa mắt lim dim gò má ửng hồng vì nắng. Nàng gọi khẽ:
"Chị Kim."
Thanh quay lại. Nam đặt tay mình lên tay Thanh, nhìn Thanh một lúc nói giọng dịu dàng:
"Cám ơn chị." 

Chương ba mươi lăm
Nam đưa tiễn Thanh và Ngọc ra tận chiếc cầu đá trước kia đã tiễn Nghệ. Nàng giơ tay vẫy Thanh rồi lủi thủi trở về. Tự nhiên nàng thấy thương Thanh; biết tính quả quyết của Ngọc nàng chắc đi dọc đường, Thanh sẽ bị Ngọc thủ tiêu vì như Ngọc đã nói: chàng có chứng cớ chắc chắn Thanh là nữ cán bộ lợi hại của Việt Minh. Nam hối hận. Đúng như lời Ngọc nói, nàng không được dự vào những công việc không liên quan tới việc nàng phụ trách đón tiếp các anh em qua lại, có đủ giấy má.
Chiều hôm ấy, bưu tín cuộc đưa nàng một bức điện từ Côn Minh gửi về. Đó là một bức mật mã. Nàng lấy cuốn tra mật mã ngồi loay hoay dịch ra nguyên văn:
"Chắc chắn Thanh không phải Việt Minh. Thủ tiêu Thanh tức giết oan một mạng người, hại cho công việc cùng tính mệnh các anh em ở biên giới. Ngọc phải tuyệt đối tuân theo lệnh này. Chị Nam đánh điện ngay đi Ma-Lì-Pố báo Ngọc rõ nếu Ngọc đã rời khỏi Văn Sơn. Nếu cần phải theo kịp Ngọc báo tin.
Ký: Tường"
Nam ngồi lặng người đi một lát. Đuổi theo Ngọc, nàng có thể bỏ hết công việc nhưng không biết Ngọc đi đường trên hay đường dưới, ngủ trọ ở đâu; vả lại nàng có đi thì cũng chỉ mấy giờ đồng hồ nữa trời đã tối. Nàng ra ngay bưu tín cuộc gọi điện thoại về Ma-Lì-Pố và báo cho Tính lệnh của Tường. Nam cũng còn hy vọng vì lần trước đi khỏi Ma-Lì-Pố Ngọc mới ra tay thủ tiêu Nghệ. Đường từ đây về Ma-Lì-Pố không có chỗ thuận tiện chỉ trừ Ngọc đưa Thanh theo đường dưới qua đèo ông Tháo.
Quả nhiên, Ngọc đưa Thanh theo đường dưới, đúng như Nam dự đoán.
Ngoài bi-đông nước của Ngọc, Thanh mua sẵn mấy quả dưa chuột cho vào túi vai đeo. Dốc trên đèo ông Tháo quả đúng với tin đồn thật là một cái dốc tai ác. Thanh để đầu trần, đường lại vừa dốc vừa nắng, gần một cây số không có bóng mát nào.
Ngọc trêu nàng nên đi thật nhanh và bỏ xa Thanh. Thỉnh thoảng chàng ngừng lại đợi Thanh đến, Thanh thở hổn hển, mồ hôi ướt đẫm trán, hai gò má và cả mặt nàng đều đỏ hồng. Tới chỗ Ngọc đứng nàng cũng dừng lại mỉm cười ngượng nghịu, lấy hai tay hất tóc ở cổ lên cho mát. Mái tóc nàng nóng bỏng mà hôm đó lại không có một ngọn gió nào, nàng xoã cả tóc cho rối bời. Ngọc trông như một con ma dại.
"Anh cho tôi mượn mùi-soa của anh che đầu."
Ngọc lấy bi-đông nước, tu cạn chỗ còn lại rồi dốc bi-đông vẫy vẫy để tỏ cho Thanh biết là không còn một giọt.
"Gần đây có suối nào không anh?"
"Chị trông thì đủ biết, đồi cao lại phẳng như thế này đào đâu ra nước. Cỏ không có, những vũng nước phân trâu cũng không có nữa."
Thanh lấy ra một quả đưa chuột lớn cắn rồi nhai ngấu nghiến một lúc hết.
"Hừ, mát ruột quá. Ngọt bằng mười lần lựu Mông Tự. "
Trong túi vải, Thanh còn một quả nữa nhưng nàng nói với Ngọc:
"Thế là nước cũng hết, dưa cũng hết, từ đây tới suối còn bao lâu nữa?"
Ngọc cởi áo ngoài cho vào túi quàng rồi trả lời:

"Còn đi nửa giờ nữa. Xuống dốc lại nguy hiểm hơn lên nhiều. Nếu tôi đi một mình, tôi chạy vèo xuống chỉ độ mười phút. Thế nào chị Thanh, chị còn thích đi biên giới nữa không?"
Thanh ngồi xuống đất nói:
"Đi thế này thú chứ, còn hơn là nấu bếp nhiều. Anh ngồi xuống đây nghỉ chân đã. Tôi thì ăn no mát ruột, bao giờ tới hàng cơm thì tới mà cũng chẳng cần vào quán cơm tốn tiền. Sáng nay tôi đã nắm cơm sẵn, đem nhiều ruốc lắm... Thế nào anh không cho mượn mùi soa à?"
Ngọc lấy cái khăn mùi soa của mình trải xuống đất rồi ngồi cạnh Thanh. Thanh nói trống không:
"Phong lưu công tử nhỉ?"
Nàng lấy chiếc khăn nhỏ của nàng trùm lên tóc:
"Không có gió cần gì buộc. À, nhưng thế này tiện hơn."
Thanh hất tóc ở sau gáy lên, lấy khăn buộc túm lại, để một ít tóc xoè ra trán thành cái mái hiên che nắng. Nàng cho tay vào túi lấy ra quả dưa chuột cuối cùng, nhìn trộm Ngọc một cái rồi đưa lên môi. Nàng thấy Ngọc giật mình toan giằng lấy. Thanh giấu nhanh quả dưa ra sau lưng:
"Tôi đã nói trước là không có thổ phỉ nào tàn ác như anh. Y như rằng."
Ngọc vội vàng nhấc người kéo chiếc khăn gấp tư rồi lại dùng làm quạt phe phẩy vào má Thanh. Thanh ngửa má đón lấy những hơi gió không lấy gì làm mát lắm ấy rồi mỉm cười:
"Thổ phỉ nịnh đầm."
Ngọc nói:
"Đấy chị xem thổ phỉ cũng biết dùng lối ngoại giao muôn mặt của anh Tường. Nhưng không ngoại giao gì nữa, quả dưa để dành đến lúc xuống hết dốc có suối trong bóng mát, ăn cơm nóng với ruốc xong, chị ăn một nửa tráng miệng như thế công bằng nhất."
"Công bằng thổ phỉ! Nước suối trong là của chung mọi người, lát nữa anh cấm tôi uống được à?"
Thanh vừa nói vừa ăn dưa một cách ngon lành. Ăn gần hết một nửa nàng lấy giấy bịt đầu cắn giở rồi nhét vào túi vải, đầu có giấy cho xuống dưới. Nói đúng ra là hai tờ giấy do Quân cấp. Nàng mỉm cười tinh nghịch, nghĩ thầm:
"Tài thánh Ngọc cũng không ngờ được đó chính là hai tờ giấy của Quân cấp cho. Ngọc có giằng lấy túi vải rút quả dưa ra thì hai tờ giấy vẫn nằm yên trong túi."
Rồi nàng nói với Ngọc:
"Thích nhỉ!"
"Chị bảo ăn dưa chuột một mình thích hay thích thổ phỉ nịnh đầm hay thích đèo ông Tháo."
"Tôi thích đèo ông Tháo, lần về thế nào cũng qua đây một lần nữa. Nào ta đi thôi. Mười một giờ rồi.
Thanh đi trước để mặc Ngọc loay hoay mãi mới quàng được túi lên vai. Xuống cái dốc gần như dựng ngược, không trông thấy chân đèo, nàng chạy phăng phăng; quay cổ nhìn lên Ngọc còn ở tít trên đèo cao."
Tới chân đèo một dòng sông chảy ngang. Tuy là sông nhưng vì nước cạn nên chỉ có một dòng nhỏ chảy ở phía bên kia; về phía chân đèo là một bãi cát trắng khô. Thanh chạy lên bãi cát bốc hơi nóng. Chắc ít người qua lại vì ngoài vết chân nàng tuyệt nhiên không có vết chân nào khác. Thanh đưa mắt nhìn thấy bên kia sông có một vòm cây um tùm. Nàng nghĩ thầm:
"Chắc Ngọc thủ tiêu Nghệ và Tứ ở trong những bụi cây kia. Ở đây xa làng xóm, một phát súng có thể kết liễu đời nàng, có khi không cần súng nữa, Ngọc chỉ vờ hôn mình rồi bóp cổ mình cho đến khi..."
Thanh tháo hài sảo lội qua dòng nước trong và nông, nhìn thấy rõ đáy. Lúc đó Ngọc cũng vừa xuống tới bãi cát, nói to:
"Chị đợi tôi với. Chị có thấy cái vòm cây phía tay phải không? Ở đây ngồi ăn cơm thật tuyệt."
Thanh ngừng lại vì bờ sông lở và rất cao. Tìm được chỗ víu, Thanh cất người trèo lên; ở xa xa có một căn nhà lợp ngói đã cũ. Nàng định trèo hẳn lên bờ rồi chạy thật nhanh đến căn nhà, vừa chạy vừa gọi to vì có mấy người đi lại ở một thửa ruộng gần đó. Nhưng Thanh lại bỏ tay níu, tụt xuống đứng ở giữa dòng đợi Ngọc đến. Ngọc có vẻ mừng rỡ đến gần chỗ Thanh đứng:
"Chị Thanh. Nước trong không? Chị muốn uống nước, rửa mặt tha hồ. Để tôi đứng cuối dòng khỏi làm vẩn đục nước của chị."
Thanh vén tay áo lên, cúi xuống cho cả hai tay ngâm trong nước rồi sấp nước lên tóc lên mặt.
"Mát quá. Trời nắng thế này mà sao nước lại mát, anh Ngọc nhỉ?"
"Tại nước chảy mạnh. Nhưng chỗ vòm cây kia vừa có bóng râm mát, lại có những hòn đá rất đẹp, ngồi đấy tha hồ rửa mặt rửa tay. Nếu chị muốn tắm, tôi sẽ nằm xuống cỏ, vờ nhắm mắt lại. Khi nào chị tắm xong tôi sẽ nhắm mắt thật."
"A, ngoài việc thổ phỉ ăn uống, thổ phỉ tim cô Phương, anh còn kiêm cả thổ phỉ nhìn nữa. Thôi bây giờ tôi đói rồi, ta ra chỗ vòm cây anh nói để ăn cơm. Nhưng ăn cơm bên cạnh cảnh hai bộ xương tôi thấy mất cả ngon.
Ngọc nhẩy lên bờ trước rồi cúi người cầm lấy tay Thanh kéo lên. Tới nơi Ngọc đưa Thanh đến đứng chỗ thảm cỏ đã ngồi với Nghệ và Tứ:
"Bây giờ chị thử đi tìm xem trong các bụi rậm có xương xẩu gì không?"
Thanh nhìn qua cũng biết các bụi rậm không có gì. Nàng bảo Ngọc:
"Anh chắc đổi chỗ luôn, nếu cứ một nơi thì ‘đống xương vô định đã cao bằng đầu’."
Ngọc nói:
"Chị thấy chỗ này có tốt không? Bóng thật mát mà nền cỏ rất phẳng; ăn xong chị muốn nghỉ trưa cũng được. Bây giờ chị hãy nằm nghỉ một lát đợi đúng ngọ ăn cơm thì vừa."
Chàng lấy cái túi vải đặt làm gối rồi mời Thanh:
"Chị nằm nghỉ."
Ngọc ngồi xuống bên cạnh, lưng tựa vào gốc cây. Thấy Thanh miệng cứ lẩm bẩm chàng hỏi:
"Chắc chị nghĩ thơ."
Không tôi nhại Kiều. Để tôi ngâm anh nghe nhé. Ở đây thì không có ma nào rình nghe trộm, tha hồ ngâm to những câu thơ tuyệt diệu của tôi."
Rồi nàng cất tiếng ngâm:
"Đống xương vô định đã cao bằng đầu!
Tội chi để tiếng về sau,
Ngàn năm ai có khen đâu giết người.
Sẵn nơi bóng mát cùng ngồi,
Nắm cơm gói ruốc, hai người cùng ăn,
Cùng nguyền giữ tấm lòng Nhân.
Tình yêu Tổ Quốc, tình thân bạn bầy;
Thành công tìm chốn am mây
Đôi lòng gửi với cỏ cây trọn đời..."
Ngọc hạ thấp hai hàng mi, lặng yên nghe tiếng ngâm trong, ấm áp và hơi buồn của Thanh. Thế là mộng chàng ôm ấp hơn một năm đã thành sự thực. Qua lời thơ, Ngọc đã hiểu được rõ Thanh; chàng ngâm lại hai câu "Cùng nguyền giữ tấm lòng nhân, tình yêu Tổ quốc tình thân bạn bầy" để tỏ cho Thanh biết là lòng chàng cũng nghĩ như Thanh. Chàng thấy Thanh hơi hé đôi môi ngước mắt nhìn mình. Ngọc nghĩ lúc đó nếu chàng cúi xuống, làm như sửa lại cái túi vải để Thanh gối cho êm đầu hơn thì chắc Thanh sẽ thuận, nhưng cũng như mọi lần khác, có một thứ gì ngăn chàng lai: hai tâm hồn đã gặp nhau và tình yêu thanh cao quá. Hôm đến thăm lăng Đường Kế Nghiêu ôm ngang lưng dìu Thanh đi, nghĩ lại chàng cũng thấy đã phạm một tội làm vẩn đục tình yêu giữa hai người. Chàng nói để che cảm động:
"Đi hài sảo sạn dính chân, ra suối đi chị Thanh, rồi giở cơm nắm ra ăn thì vừa."
Thanh ngồi dậy:

"Sao tôi không thấy đói, chắc có lẽ vì muốn báo thù anh uống hết cả bi-đông nước, nên phải cố nuốt vội vàng một quả rưỡi dưa chuột nên đâm ngang dạ. Tôi ra rửa chân thôi, không tắm đâu, sợ thổ phỉ."
Ngọc bật cười. Hai người ra ngồi trên những hòn đá nước chẩy uốn quanh. Thanh rửa mặt rồi cúi xuống nước gội đầu nhưng vẫn để nguyên tóc ướt. Nàng thả chân cho dòng nước đẩy dần đi; một lúc sau nàng lại gạt chân ngược trở lại, để những vòng sóng tròn nổi lên chung quanh bắp chân rồi nhìn Ngọc cười vui vẻ ngây thơ như một cô bé lần đầu tiên được thấy suối chỉ muốn nghịch nước. Thực ra đây là lần đầu tiên Thanh được vầy nước ở một dòng suối. Bận giúp cha mẹ trông nom cửa hàng lại lấy chồng sớm nên nàng không được đi lên mạn ngược; lúc sang Vân Nam thì đường xe lửa chưa phá, nàng chỉ được trông thấy suối hoặc thác trong chốc lát. Nàng bảo Ngọc:
"Anh đưa khăn tôi giặt cho vì lúc nãy anh ngồi lên chắc là bẩn lắm. Trải trên đá phơi độ một lát, khô ngay... Anh Ngọc này, nghĩ lại tôi mới thấy lòng mình nhân nhưng khó mà nhân được nếu còn ở trong cái guồng máy. Hoạ chăng chỉ có một cách tìm nơi am thanh cảnh vắng."
Ngọc nói:
"Chị mà là sư nữ thì cũng khó lòng yên thân, một là các chàng công tử sẽ quấy rầy cô sư trẻ hai là chị nhập vào đoàn Phật giáo cứu quốc của Việt Minh. Tốt nhất chị hoá thành cô Mèo hay cô Lô-Lô lên ở tít trên đỉnh núi cao, còn cách sống thì không lo vì chị biết nghề chữa thuốc và đỡ đẻ. Thỉnh thoảng tôi sẽ lên núi đưa chị giấy công tác của anh Tường hay của chi bộ trưởng Vị Tha. Làm cô gái Mèo đi bộ leo núi chắc giỏi lắm, chị sẽ giữ việc liên lạc như tôi rồi chị tuyên truyền người Mèo vào giúp việc; người Mèo bắn súng hoả mai tụi Tây cũng phải sợ. Chị sẽ lập một đạo quân Mèo rồi bắn giết người như ngoé. Chị chắc còn nhớ vụ người Mèo nổi loạn năm nào... Cái guồng máy lại quay tuy là guồng máy Mèo hay guồng máy Lô Lô. Chị giỏi Kiều chắc còn nhớ mấy câu thơ ở cuối sách: ‘Đã mang lấy nghiệp vào thân’. Chị làm cái gì cũng tài lắm mà chữ tài lại liền với chữ tai một vần. Chẳng qua là định mệnh là số kiếp; giá chị chỉ như cô Phương, hiền lành như con thỏ non, nhưng nghĩ kỹ có tài còn đỡ, thỏ non rất dễ bị người ta ăn thịt, làm civet–lapin..."
Thanh quay lại:
"Anh bây giờ cũng đâm ra triết lý triết lung."
Rồi nàng cất tiếng ngâm: ‘Thiện căn ở tại lòng ta. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài’ và bảo Ngọc:
"Nhưng lòng tôi lại ác lắm, phải nói ác căn ở tại lòng ta mới đúng, mà như anh đã nói lại có tài nữa...
Ngồi nghỉ một lúc bây giờ đã thấy đói rồi. Ta vào ‘bóng mát ta ngồi, nắm cơm gói ruốc hai người cùng ăn’, no bụng nói chuyện gì cũng lạc quan hơn."
Tuy đã no nhưng Ngọc cũng ghé vào hàng cơm hai chị em cô Thổ ở Sin-Chang. Cô lớn ngửng lên nhìn Ngọc rồi chạy ra đon đả.
"Vừa đúng một năm chẵn mới lại gặp cậu. Cậu xơi gì?"
Thấy Thanh cùng ngồi xuống một bàn, cô Thổ nói tiếp bằng tiếng Tàu vì tưởng là người Vân Nam:
"Cậu này tôi vẫn gọi đùa là cậu ‘Quân không phải quân, dân không phải dân’."
Thanh tiếp lời cô Thổ bằng tiếng Vân Nam:
"... tức là cách mệnh An Nam. Nhưng ông này đâu có phải cách mệnh. Đó là chính tông thổ phỉ. Mà thổ phỉ trái tim các thiếu nữ thì nhạy nhất. Cô nên đề phòng."
Để muốn khỏi lộ, lúc ngồi uống nước chè và ăn bánh, Thanh toàn nói tiếng Tàu với Ngọc.
Đi mau nên bốn giờ chiều Thanh và Ngọc đã tới quán ngủ trọ ở Chong-Sin-Kiêu. Ngọc đưa Thanh ra cái suối năm ngoái ngồi nói chuyện với Tứ rồi chàng quay về ngay để Thanh tắm. Lúc Thanh trở về Ngọc lại ra suối.
Đêm hôm ấy hai người thức nói chuyện rất khuya mới đi nghỉ. Thanh không đi quen nên thấy hai đầu gối mỏi rời và chân phồng lên ở những chỗ cọ xát vào quai hài sảo.
Sáng hôm sau Ngọc có ý đi muộn để Thanh ngủ trưa, lúc đến dòng suối có nhiều rau cải soong thì vào quãng mười một giờ trời nắng gắt Thanh chắc khát và uống nước suối mới ngon. Thấy Thanh đau chân đi chậm, Ngọc cũng đi chậm lại. Lần này, cái bi-đông nước chè đem theo hai người thay phiên nhau uống. Trước khi đi Thanh đã ra phố xem có dưa chuột mua phòng xa Ngọc trêu mình nhưng kiếm mãi không hàng nào có.
Đến mười giờ thì cái bi-đông đã cạn, Thanh nói:
"Thôi bây giờ lại giải tán chi bộ Vị tha quay trở lại chi bộ Ích kỷ. Tôi nhận thấy mỗi lần tu, anh tu gấp hai tôi. Vị tha gì anh! Chi bộ hai người tốt hơn hết là chia làm hai chi bộ một người, như thế chi bộ nào cũng vừa ích kỷ vừa vị tha."
"Không được, phải đợi khi tới Ma-Lì-Pố tôi đánh điện xin phép anh Tường đã. Giải tán một chi bộ đâu phải là chuyện chơi."
Thanh cau mũi:
"Biết đâu đã tới Ma-Lì-Pố. Hay có đến thì chỉ còn một chi bộ và một người. Bây giờ tôi khát quá rồi, làm thế nào bây giờ?"
Đi độ hai cây số nữa, Thanh reo lên:
"Suối, suối."
Nàng chạy ra nằm rạp xuống bờ cỏ rồi gục mặt vào nước. Lúc ngửng lên nàng thấy Ngọc cũng nằm rạp xuống cỏ. Ngọc hỏi:
"Chị có nhớ bài thơ: ‘Quân tại Tương giang đầu, Thiếp tại Tương giang vĩ’ không?"
"Thơ với thẩn gì anh! Anh cho tôi mượn cái bi-đông đây. Lần này tôi giữ bi-đông, tôi uống hai lần thì anh uống một lần. Đường sá tôi không biết, anh cậy thế làm tôi suýt chết khát mấy lần rồi."
Ngọc uống một ngụm rồi quay nhìn Thanh:
"Tôi lại xuất khẩu thành chương đọc chị nghe. Chị đừng tưởng thơ tôi kém thơ chị."
Rồi chàng ngâm bài thơ đã thuộc lòng và đã làm từ năm trước:
"Suối rừng một dải nước trong,
Người đầu suối, kẻ cuối dòng, ai ơi.
Bờ xanh, người sát cạnh người
Đôi lòng cùng uống nước xuôi một dòng."
Thanh nói:
"Thơ dịch hay đấy chứ, chắc lại cóp bài dịch của ai cũng như bài thơ ‘Đêm trăng thoảng có ai trong gió’. Anh thì chỉ biết có ăn, ‘ăn cắp’ cả văn thơ người khác. Hai chữ ‘đôi lòng’ tôi mới thoáng đọc hôm qua, anh đã thổ phỉ ngay rồi."
Ngọc cười:
"Phải đấy, nói đến ăn tôi lại nghĩ đến rau cải soong. Phía trên kia nhiều lắm."
Đến chỗ nhiều rau, Ngọc lấy tay đẩy các cây cải đến trước mặt Thanh:
"Cán bộ phụ nữ hoả đầu phu! Rửa đi.
Thanh rửa xong cây nào lại cho vào miệng nhai. Nàng nói:
"Rất tiếc ở đây không có ga Pô-Si, không có tỏi gà."
"Chị cố rửa thật nhiều, độ nửa giờ nữa thì đến hàng cơm cô Quảng Đông. Mình sẽ gọi một đĩa gà quay."
Thanh nói:
"Anh thật có số đào hoa. Hết cô Phưong đến hai chị em cô Thổ xinh đẹp; bây giờ lại cô gái Quảng Đông chắc còn xinh hơn. Cả chị Nam nữa, anh đừng tưởng giấu được tôi."
Lúc tới Nicou-yang, cô gái Quảng Đông đương đứng ở cửa hàng chạy ra đón chào Ngọc. Thấy cô hàng cũng khá xinh, lại nhớ mặt người khách hàng sau một năm xa cách, Thanh nhìn Ngọc mỉm cười và nháy mắt một cái.
Cô hàng bưng lên một đĩa gà xào thơm tho. Ngọc lấy rau cải soong ra bảo cô hàng trộn dầu dấm. Thanh chỉ ăn thịt gà thôi vì nàng vẫn đóng vai người Tàu, tuy thèm rau mà đành phải nhịn.
Rời khỏi hàng ăn, hai người đi thong thả phần vì Thanh đau chân, phần vì con đường đẹp quá, đi quanh co men theo nửa chừng sườn những đồi đất đỏ mọc toàn thông.

Đến một chỗ cao nhất, quá Song-Ku-Kô, Ngọc bảo Thanh ngồi xuống hòn đá bên vệ đường, lấy tay chỉ:
"Chị trông phía xa có một dẫy núi cao cây cối rậm rạp, hai bên có hai quả núi thấp hơn trơ trọi. Dẫy núi có nhiều cây là núi ở trong nước. Tuy chị chưa được sờ vào cỏ trên đất nước nhà cho mát tay như ý mong mỏi nhưng chị đã trông thấy nước Việt Nam rồi."
Thanh nhìn theo ngón tay chỉ của Ngọc, hỏi:
"Có phải dẫy núi kia không, nhưng sao anh biết?"
Ngọc đáp:
"Tôi đã đi qua đây đến chục lần. Đấy là dẫy núi bên kia sông Thanh Thuỷ. Ở bên ta có sở Kiểm Lâm cấm ngặt chặt cây, ở bên này mạnh ai người nấy đốn rừng, không có luật lệ gì cả."
Thanh nhìn dẫy núi một lúc rồi nói với Ngọc:
"Thảo nào tôi trông có cái gì khác khác."
Ngọc thấy Thanh ngồi yên lặng lâu lắm. Trời đã về chiều nắng tắt dần trên các ngọn đồi. Một cơn gió lành lạnh từ ở phía dẫy núi rậm cây thổi lại. Thanh nghĩ thầm:
"Gió này cũng là gió từ trong nước thổi ra."
Nàng ngồi thẳng lên hít mạnh làn gió, cảm thấy như phổi nàng đương thấm nhuần không khí của quê hương. Ngọc đứng mãi cũng chồn chân; chàng tháo túi quàng vai rồi ngồi xuống cạnh Thanh. Hai người trầm lặng sợ nếu cất tiếng sẽ làm huyên động một thứ gì rất cao đẹp thiêng liêng. Thỉnh thoảng gió lại thổi tới chỗ hai người ngồi như từ rất xa đưa đến, như đã xào xạc trong bụi tre ở cổng làng cũ làm rung rung những tà áo và lành lạnh trong lòng những người thân yêu bấy lâu xa cách.
Ngọc nhìn Thanh; hai mắt nàng mở to hình như hơi ướt lệ. Chàng đứng lên nói giọng đùa:
"Nếu có ngày trở lại đây tôi sẽ đem theo ít sơn viết lên hòn đá này mấy chữ: Hòn Vọng Quốc."
Chương ba mươi sáu
Trời xâm xẩm tối. Thanh và Ngọc tới công tác trạm Ma-Lì-Pố. Hân đương đứng tựa cửa nhận ngay ra Ngọc. Thấy Ngọc chỉ tay về phía công tác trạm, quay mặt nói chuyện với một thiếu nữ mặc áo Tàu, Hân hiểu ngay chạy ra đón, nhưng đáng lẽ nói với Ngọc như mọi lần, Hân lại nhìn Thanh, reo lên:
"Cô Thanh! Cô Thanh!"
Ngọc không hiểu tại sao Hân lại biết tên Thanh và nét mặt Hân tỏ vẻ mừng rỡ rối rít mất cả bản tính điềm tĩnh xưa nay. Hân hỏi Thanh:
"Cô có phải đồng chí Kim không?"
Thanh gật đầu nhưng nàng ngạc nhiên hết sức vì Ngọc chưa giới thiệu nàng; vì cớ gì ông già tóc bạc kia lại biết nàng và gặp nàng lại tỏ vẻ vui mừng cuống quýt, hai tay run run giơ ra đỡ lấy cái túi vải.
Lúc đó Ngọc mới giới thiệu:
"Lão đồng chí Hân giúp việc ở công tác trạm. Đây là đồng chí Kim."
Hân nói:
"Chúng tôi đợi mãi, sao bây giờ chú mới tới."
Ngọc đáp:
"Tại đồng chí Kim đau chân với lại chúng tôi ngồi chơi mãi ở hòn Vọng Quốc."
Hân chẳng hiểu hòn Vọng Quốc ở đâu lẩm bẩm:
"Làm gì có hòn Vọng Quốc. Từ ba giờ đến giờ chúng tôi ở đây chỉ vọng cô Kim."
Tính nghe tiếng cũng chạy ra và cũng như Hân làm như không biết Ngọc là ai, reo lên:
"Chị Thanh!"
Rồi không nói thêm nửa lời chàng bỏ chạy thật mau ra bưu tín cuộc, gọi điện thoại về Văn Sơn. Vừa gọi xong đã có tiếng Nam ở trong máy nghe vì Nam ở Văn Sơn cũng sốt ruột bỏ cả khách chữa bệnh ra ngồi đợi sẵn ở bưu tín cuộc chờ Tính gọi điện thoại về. Nghe xong Nam đánh điện ngay đi Mông Tự dặn Lăng cấp tốc báo Tường ở Côn Minh biết là Thanh đã tới Ma-Lì-Pố bình yên vô sự. Nam trở về nhà trong người như dứt được một gánh nặng; nàng lẩm bẩm:
"Tốn bao nhiêu tiền giây thép. Lấy tên là Kim có khác, thảo nào đắt như vàng."
Hân đưa Thanh và Ngọc lên gác, hỏi Thanh:
"Cô đã đói chưa. Nếu đói thì tôi đi làm thức ăn ngay trong khi đợi chú Tính ra bưu cuộc về."
Thanh đáp:
"Chúng tôi chưa đói đâu. Hôm nay ăn gì đấy, ‘bô’ để tôi xuống bếp giúp ‘bô’ một tay. Tôi là nữ cán bộ của hoả đầu phu của anh Ninh, nổi tiếng là giỏi nhất vì đoàn chỉ có một mình tôi."
Lại đến Hân ngạc nhiên vì Thanh gọi ngay mình là bô. Thanh cười tiếp theo:
"Tôi có tính hay làm nũng vòi quà. Bây giờ để tôi xuống bếp lục xem có những thức ăn gì - dưa chua hay tàu xì tôi đã ngấy lắm rồi - Bô chạy đi mua cho tôi dăm bát phở chua hay phở cừu nếu có và mươi cái tỏi gà. Bây giờ không gọi bô là bô nữa mà gọi là bố. Tôi xin nhận làm con gái nuôi của bố bắt đầu từ hôm nay, con gái nuôi độc nhất của bố."
Rồi nàng xuống bếp bưng lên một chậu nước đầy nhìn Ngọc:
"Mời đồng chí rửa mặt."
Nàng quay lại phía Hân:
"Bố thắp cho con thêm một cái đèn nữa. Hôm nay phải ăn mừng con mới và bố mới."
Hân tủm tỉm cười, lấy cây đèn lớn nhất.
Lúc Tính về thì đã thấy Thanh thân mật cười nói vui vẻ với Hân như hai bố con thật, lâu ngày mới gặp nhau. Công tác trạm mất hết cả vẻ lạnh lẽo âm u mọi ngày.
Khi Thanh đương ở dưới bếp làm cơm, Ngọc hỏi nhỏ Tính và Hân:
"Từ lúc tới tôi nghĩ nát óc vẫn không hiểu thêm tí gì?"
Tính kể cho Ngọc nghe việc Tường đánh điện về Văn Sơn, nỗi lo lắng của Nam, sự chờ đợi của chàng và Hân, nhất là nỗi lo sợ của hai người khi đợi mãi không thấy ai tới, yên trí là Ngọc đã thủ tiêu Thanh hoặc chính Ngọc đã bị Thanh bỏ thuốc độc vì Nam có nói Thanh đã học qua trường thuốc lại rất tinh khôn lợi hại. Ngọc lúc đó mới vỡ lẽ, chàng nói:
"Tôi có chứng cớ chắc chắn, mắt tôi đã thấy rõ ràng người của Quân cấp giấy cho Thanh, hai tờ tất cả. Tờ kia chắc là cấp cho tôi. Quân muốn dùng Thanh để cùng tôi về Hà Giang dễ dàng liên lạc với số cán bộ bí mật rồi Thanh sẽ báo cáo cho Việt Minh biết tên người cùng địa chỉ. Nếu Thanh phản thì ngoài tôi ra còn thêm mấy chục cán bộ nữa bị giết. Thân tôi không cần nhưng nếu tôi lầm thì tội tôi còn nặng hơn Hoàng. Nhưng tôi đã biết Thanh từ hơn một năm nay: Thanh không thể là cộng sản được, cũng như tôi không thể là cộng sản. Anh Tường còn sáng suốt hơn tôi nhiều vì anh ấy chỉ mới quen Thanh được vài tháng. Song bổn phận tôi cần phải báo cáo với anh Tường trước khi đi. Hồi năm ngoái anh Ninh cũng đã xét đúng về Thanh và chịu chia sẻ trách nhiệm với tôi về việc Nghệ. Bây giờ tôi đã được anh Tường cho phép, việc ấy phải làm đúng theo lệnh của Hải ngoại Bộ. Tôi sống hay chết bây giờ không phải là việc cần để tâm. Việc chỉ có thể hỏng nếu Thanh không đủ đương đầu với Việt Minh nhưng Thanh còn nhiều thủ đoạn và khôn khéo gấp mấy tôi. Thanh có thể đối phó được..."
Thanh bưng lên và mọi người đều ngạc nhiên thấy rất có nhiều thức ăn. Hân nheo mắt cười:
"Con gái giỏi hơn bố nhiều."
Sáng hôm sau, Ngọc ra đảng bộ Trung Hoa trình giấy má. Hân tiễn Thanh và Ngọc một thôi đường. Lúc chia tay Hân nói:
"Con gái tôi đi có thể không về nữa. Phải hết sức đề phòng. Tôi có một thứ quà rất quí đợi cô ra sẽ đưa. Lúc đó tha hồ làm nũng, tha hồ vòi."
Hân tủm tỉm cười, tiếp theo:
"Lúc ra nhớ đưa cả chàng rể của bố ra. Về cùng về mà ra cùng ra cho đủ đôi."
Thanh nguýt Ngọc một cái:

"Chàng rể gì cái anh chàng này. Ích kỷ số một. Thôi bố ở lại, vợ chồng chúng con đi. Hôm nào thư thả mời bố về Hà Giang..."
Thanh kiễng chân hôn một cái thật kêu lên trán Hân rồi vẫy tay nói tiếng Pháp:
"A bientôt, papa!’ 1.
Hân quay về vừa đi vừa lắc đầu:
"Con gái tôi Tây quá."
Khi Hân đi đã xa Thanh cười bảo Ngọc:
"Ông ‘via’ của em đã bằng lòng rồi đấy. Chắc ông cụ chỉ thách một tấm vàng lá cắt đôi anh vẫn giấu kỹ trong ví để làm kỷ niệm."
Ngọc cũng cười đáp lại:
"Tôi đâu có phải hạng người cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Với lại tôi còn đợi ý kiến cô Phương. Tôi rất mến Hân nhưng không phải vì thế mà làm rể hờ lấy cô con gái ma của Hân. Nào bây giờ chị quyết định hẳn đi, theo lối buôn lậu hay qua cầu sắt."
"Tôi đã nhất quyết từ lâu, đi qua cầu sắt. Lính Việt Minh gác cầu chắc cho tôi là một người đàn bà Tàu theo chồng sang Việt Nam, còn anh chắc họ cho là một tên lính đào ngũ trốn sang Việt Nam đem theo một bà vợ Tàu xấu như ma nhưng trong người đầy vàng."
Ngọc nói:
"Nếu vậy đi bộ mười lăm cây số nữa qua khỏi chỗ..."
Thấy Ngọc ngập ngừng, Thanh tiếp theo:
"Qua chỗ hai bộ xương khô. Phải đấy lát nữa anh đưa tôi rẽ qua, không có xẻng cuốc thì tôi sẽ lấy tay bới cát để chôn tình nhân của tôi vậy."
Hai giờ sau sắp qua chỗ ấy Ngọc đi chậm lại, trù trừ. Chàng không thể đang tâm nhìn lại chỗ mà chàng đã phạm một tội lớn nhất trong các tội. Nhìn Ngọc vẻ mặt buồn rầu tư lự, Thanh hiểu ngay. Thấy có một con đường mòn rẽ về phía tay phải đi qua một khu rừng tuy nhỏ nhưng rậm rạp, Thanh biết ngay là chỗ ấy. Nàng bảo Ngọc:
"Tôi mỏi chân quá rồi, vào đây nghỉ một lát đã may ra có suối tôi rửa mặt cho mát rồi lấy thêm nước vì cái bi-đông của anh xem chừng muốn cạn."
Ngọc nói:
"Sao chị ác thế? Câu ‘cùng nguyền giữ tấm lòng nhân’ của chị để đâu?"
Thanh đoán là nếu Ngọc muốn thủ tiêu mình thì chỗ này là chỗ tiện nhất. Nàng lại có cái cảm giác giống như cảm giác khi ở nhà Nam nàng nằm giả vờ ngủ nghe tiếng Ngọc gọi khẽ nàng rồi đưa nàng cốc cà phê. Hôm ấy có lẽ Ngọc chưa tiện ra tay vì biết nàng đã học trường thuốc nhưng ở đây Ngọc muốn giết nàng dễ như không, có khi không cần tốn một viên đạn. Việc đón tiếp vui vẻ của Hân, việc Ngọc trù trừ không rủ nàng rẽ vào con đường nhỏ này biết đâu không là những mưu mô đã xếp đặt trước. Thanh quả quyết bước vào con đường nhỏ đi vòng một quãng tới chỗ bãi cỏ có bóng mát mà nàng đoán là chỗ Tứ và Nghệ đã ngồi xuống nghỉ và uống cà-phê. Thanh tháo túi ở vai ra rồi ngồi tựa vào gốc cây nhìn Ngọc đi tới. Trí nàng nghĩ thật mau: cũng có thể chưa phải lúc; Ngọc muốn lợi dụng nàng để về Hà Giang, đi lại tự do ở biên giới nhờ tấm giấy của Quân cấp. Nàng vui vẻ nói với Ngọc:
"Chỗ này mát quá. Anh ngồi xuống đây nghỉ một lát nữa. Để tôi đi tìm xem có suối không."
Thanh nói rồi đi luôn; nàng đi vòng vào phía trong. Qua những cành cây, một dòng suối chảy ở tận dưới vực sâu ánh nước lấp lánh như những ngôi sao trông như trôi mà vẫn đứng nguyên một chỗ. Bãi cỏ hẹp dần; Thanh để ý nhìn kỹ ở cách mươi thước có một số cành cây cụt nhưng vết sước đã đen lại. "Đích rồi". Thanh rẽ cành lá tiến về phía những cành cây cụt ngọn. Tới nơi Thanh cúi xuống; sườn núi như một bức vách thẳng; ở tận dưới xa có mấy tảng đá lớn nằm ngổn ngang cạnh bờ suối. Thanh định níu tay vào một gốc cây nhưng cây bị mối xông đã mọt; nàng ngồi xuống rồi chống hai tay thò đầu ra ngoài nhìn thấy chân vách núi cùng mấy cành khô vút ngổn ngang giữa hai tảng đá lớn. Dưới một cành cây lớn có ba ống xương trắng dài cạnh những mẩu xương vụn. Đã học qua nên Thanh biết ngay đấy là ống chân và bàn chân người. Nhưng chân Tứ hay chân Nghệ? Tứ cao hơn Nghệ, hai ông xương dài kia chắc là xương của chân Tứ. Thanh ngồi yên lặng, hai tay chống đã mỏi nhưng nàng không để ý. Trí nàng nghĩ gì nàng cũng không biết; nàng chỉ thấy một cảm giác trống không và rộng bao la, trong đó hiện ra rõ hơn hết một câu hỏi:
"Vì cớ gì?"
Tuy tự hỏi nhưng nàng cũng không nghĩ đến trả lời. Cảm giác trống không và rộng bao la biến đi lúc nào nàng không hay và một nỗi buồn thương dần dần dâng lên trong tâm hồn nàng. Thanh không biết nước mắt ứa ra từ bao giờ; nàng khóc, nức nở khóc mà không rõ khóc vì thương ai, thương Tứ, thương cho chính nàng hay thương chung cho số kiếp con người.
Đợi mãi không thấy Thanh trở lại, Ngọc biết là nàng đã tìm được mấy ống xương chân của Tứ và Nghệ. Đã hơn một năm lá cây chắc đã khô và rụng hết. Chàng đi gần như chạy ra chỗ vách đá: Thanh ngồi ôm mặt, lưng rung rung, hai vai đưa lên đưa xuống. Biết là Thanh khóc chàng ngồi xuống bên cạnh, kéo tay nàng cầm trong tay mình:
"Chị cố tìm ra chỗ này làm gì. Những việc như thế chỉ có cách quên đi là hơn. Chị đã biết những nỗi đau khổ của tôi về Tứ trong một năm nay rồi. Còn về Nghệ tôi cũng đau khổ nhưng việc cần làm vẫn phải làm."
Thanh nhìn Ngọc qua làn nước mắt. Nàng thấy đã đến lúc nói cho Ngọc hiểu hết nhưng miệng nàng chỉ thốt ra được câu:
 "Em là cán bộ Việt Minh."
Thanh rút ở túi áo trong ra hai tờ giấy và đưa Ngọc xem. Ngọc nói:
"Tôi biết cả rồi."
Thanh nghĩ thầm không có cơ hội nào bằng cơ hội này để nàng biết rõ lòng Ngọc đối với nàng, biết một cách chắc chắn không mảy may nghi ngờ, không dựa vào những lời nói mơ hồ hay những cử chỉ cũng mơ hồ như vẻ mặt sợ hãi của Ngọc ở lan can chùa Tây Sơn, như hôm ở chùa Cá má Ngọc chạm vào má nàng, hơi nóng hai người truyền lẫn sang nhau, việc chàng ôm ngang lưng nàng trong khi choáng váng say rượu ở lăng Đường Kế Nghiêu, bởi vì đây, nàng đem cả sự sống chết để đổi lấy một câu trả lời âm thầm nhưng chắc chắn hơn cả lời Ngọc nói ra thành tiếng: "Anh yêu em".
"Tôi đã tuyên thệ gia nhập Việt Minh từ lâu. Tôi biết anh sẽ giết tôi ở đây nhưng trước khi chết tôi muốn tỏ cho anh biết là một cán bộ Việt Minh can trường, không sợ chết. Trước khi anh ra tay tôi cần nói rõ ý định của tôi và nói thẳng với anh rằng anh đừng hy vọng gì lợi dụng được tôi. Anh đã biết thừa sự liên lạc của tôi với Quân, việc Quân cấp giấy cho tôi, mà anh đã trông thấy tận mắt qua khe hở sàn gác, lúc tôi lên anh vờ vĩnh ngắm hoa lựu nở; bằng chứng đã sẵn, anh đã định liệu báo cho Tường biết là dọc đường anh sẽ thủ tiêu tôi. Việc mưu mô với Nam đánh thuốc mê tôi ở Văn Sơn... Nhưng anh không biết khi ở nhà Tường, bao nhiêu biên bản các cuộc hội họp sau khi đoàn đại biểu ở Trùng Khánh về tôi đã cóp được hết... Anh có để ý khi trở về, đoàn khi về mất một người... người ấy đã chạy theo Pháp. Cái anh chàng mắt sâu râu rậm tay lúc nào cũng cầm cái ba-toong... nhưng nói thế anh đủ rõ... đấy là chuyện cũ. Bây giờ ..."
Thanh ngừng lại.
"Bây giờ tôi có nhiệm vụ - cũng như nhiệm vụ Nghệ nằm dưới kia – đưa anh về Hà Giang để phá tan hệ thống tổ chức bí mật của Ninh. Bây giờ việc ấy anh và anh Tường đã khám phá ra được. Kể các anh cũng giỏi. Anh và Nam định mưu sát tôi nhưng anh Tường đã trông xa hơn vì anh cho là anh ấy và anh đã được cảm tình của tôi. Hôm nay chưa chắc anh giết tôi vì có lệnh anh Tường ở Côn Minh về bảo dùng tôi để anh đi lại tự do cứu thêm được những người còn ở trong bí mật... Có đúng thế không?"
Ngọc nhìn Thanh kinh ngạc không hiểu sao Thanh lại biết đúng như vậy. Thanh không đợi Ngọc trả lời, tiếp tục nói:
"Tôi đưa anh về Hà Giang. Có nhiều cách làm anh phải chỉ chỗ các đồng chí của anh. Nếu anh gan dạ, mà tôi biết anh gan dạ lắm, thì anh sẽ bị giết. Bây giờ chỉ có hai đường thôi, một là tôi giết anh, hai là anh giết tôi."
Thấy Ngọc cho tay vào chỗ giắt bao súng, Thanh nói tiếp luôn:
"Anh không cần tốn đạn, anh chỉ đẩy tôi một cái xuống dưới chân vách đá này..."
Thanh ngồi thẳng lên, ngả người về phía vực thẩm, mắt nhìn Ngọc như chờ đợi... Ngọc rút khẩu súng ra rồi đặt vào lòng Thanh. Yên lặng một lúc, thấy Thanh không cầm lấy súng, chàng thản nhiên nói:
"Tôi đợi chị."
Thanh cầm lấy khẩu súng mân mê trong tay một lát rồi đưa trả lại Ngọc.
"Bây giờ tôi với anh cùng về Hà Giang nếu có chết thì cùng chết."
Nàng cúi xuống vách đá, nhìn hai ống xương dài của Tứ rồi đứng lên nói:
"Chúng tôi sẽ gặp anh."
Hai người ra chỗ gốc cây quàng túi lên vai rồi rẽ ra đường lớn, yên lặng rảo bước đi, không ai nói với ai một tiếng nào. Đến chỗ rẽ xuống bến đò, Ngọc lấy tay chỉ một con đường mòn:
"Đây là đường xuống bến đò buôn lậu."

Hai người cứ đi thẳng theo con đường lớn về cầu sắt Thanh Thủy. Đi độ dăm cây số nữa tới Biên-Pao-Ka, Ngọc đưa Thanh vào một nhà quen. Chàng định nghỉ lại đấy một đêm, một đêm cuối cùng ở đất Trung Hoa trước khi cùng Thanh đi vào chỗ chết.
Chú thích:
1.
Sẽ gặp bố, một ngày gần đây.
Chương ba mươi bẩy
Người vợ đi vắng ở nhà chỉ có người chồng mắt loà. Ngọc đưa tiền bảo người chồng gọi cô bé nhà bên cạnh đi mua ít trứng gà và sang làm cơm giúp.
Thanh ngồi yên ở bực cửa mắt nhìn ra khu vườn không nghĩ đến việc phụ giúp cô bé thổi cơm, làm các thức ăn. Vẻ mặt nàng nghiêm trang. Thế là điều nàng đã hằng mong mỏi muốn biết nhất trong đời, nàng đã biết rõ. Ngọc yêu nàng, chắc chắn yêu nàng cũng như nàng yêu Ngọc. Cùng với nỗi vui tràn ngập cả tâm hồn nàng thấy dần dần xen vào một sự chán nản lạ lùng. Nàng không thiết gì, không thiết cả sống nữa. Điều mà nàng tìm kiếm nàng đã thấy, đời nàng không còn mục đích gì, như đến đây là hết, chỉ còn sự trống rỗng mông mênh. Thanh nhìn Ngọc đứng dựa ở cột nhà bếp, thản nhiên hờ hững như nhìn mặt người xa lạ, không có liên quan gì đến mình. Tình yêu Ngọc nàng nhận thấy rõ đến đây đã chết hẳn trong lòng nàng. Nàng bảo Ngọc:
"Ăn xong ta cần phải sang Thanh Thuỷ ngay."
Ngọc bàn:
"Để sáng mai tiện hơn vì từ Thanh Thuỷ còn phải đi bộ hai mươi cây số nữa mới tới Hà Giang. Mà từ đây về cầu sắt cũng phải hai tiếng đồng hồ nữa."
Như cái máy, Thanh nói:
"Tôi có linh tính là cần phải sang ngay."
Nàng đứng dậy cho tay vào túi áo rồi gọi Ngọc lại gần:
"Đây giấy của anh. Cần phải giữ riêng lỡ hai người lạc nhau. Còn túi vải thì anh gửi lại nhà này. Đem sang không tiện."
Ăn cơm xong Thanh giục Ngọc đi ngay.
Đến bốn giờ chiều hai người đi khỏi Bắc Bảo nơi có bộ đội Tàu đóng, xuống một cái dốc cao đi một thôi đường nữa thấy hiện ra cái lô-cốt bỏ hoang, bên kia dòng sông Thanh Thuỷ nước chẩy xiết dưới chiếc cầu sắt.
Thanh tiến lên trước và khi qua chỗ lính Việt Minh nàng cứ đi thẳng, thản nhiên như một người Tàu vẫn thường qua lại cầu đã nhiều lần. Ngọc đi sau Thanh mấy bước. Vì bộ đội Tàu vẫn thường qua lại nên lính gác để hai người đi qua tưởng như một người lính Tàu cùng sang với vợ. Họ chỉ hơi lấy làm lạ là người lính Tàu trẻ ấy lại có cô vợ nhan sắc như vậy.
Thanh quay lại nói với Ngọc bằng tiếng Vân Nam:
"Đi mau một chút kẻo tới nơi thì trời tối."
Ngọc cũng đáp lại bằng tiếng Vân Nam:
"Ngày kia tôi phải về. Đội trưởng chỉ cho phép thế thôi."
"Cũng kịp chán lo gì."
Hai người nói chuyện phòng xa người lính gác biết tiếng Tàu chăng.
Đi được bẩy cây số hiện ra một cái làng nhỏ, chung quanh có những thửa ruộng lúa chín. Dân Thổ trong làng đương đập lúa ở giữa những cái cót uốn tròn. Văng vẳng có tiếng người hát. Trời về chiều, mặt trời đã gần lặn chiếu vàng cánh đồng lúa. Ở một cái lạch suối có mấy cô gái Thổ đương rửa chân tay, cười đùa nói chuyện vui vẻ. Việt Quốc qua, Việt Minh lại nhưng đời sống của dân vẫn tiếp tục như thường. Vẫn là cảnh hoà bình xa hẳn sự giết chóc lẫn nhau vừa mới xẩy ra cách đây không lâu ở Hà Giang. Trên một thân cây có một tờ giấy dán bị xé rách gần hết, Ngọc còn đọc được mấy chữ viết tay đã nhòe đề: "Tuyên cáo của Việt Nam Quốc..."
Bỗng Thanh đứng dừng lại hỏi Ngọc:
"Từ đây về nhà người đồng chí Thổ của anh, đường đi ra sao? Có phải qua chỗ lính gác nữa không?"
Ngọc đáp:
"Không phải qua. Nhưng còn đi đường nào tôi không rõ.
"Anh thử hỏi đường mấy cô rửa chân kia, chắc họ biết. Đêm ta về đấy ngủ. Như thế tiện nhất, tôi đã nghĩ kỹ rồi. Còn như hỏi họ bằng tiếng Việt hay tiếng Thổ là tuỳ ý anh. Lính Tàu ở biên giới thiếu gì người Thổ, thiếu gì người biết tiếng Việt."
Ngọc rẽ xuống bờ ruộng, đi về phía mấy cô Thổ đứng. Lúc trở lại, Ngọc bảo Thanh đi được nhưng phải quay về Thanh Thuỷ; khi cách cầu sắt độ một cây số thì có đường tắt.
"Thế thì ta quay trở lại."
Gần tám giờ tối mới tới. Nhờ có ánh trăng mười tư nên đi không khó khăn gì. Ngọc gọi cổng rồi hai người lên cầu thang. Long có nhà, đương ngồi với bà mẹ gần bếp lửa. Sau khi hỏi hết tình hình, Ngọc cho Thanh biết là Việt Minh chưa kịp nghĩ tới làng này và chính Long là người đứng lên tổ chức Đoàn Thanh niên Cứu quốc sẵn sàng ủng hộ Việt Minh, để làm bức bình phong che đậy tổ chức bí mật. Đã liên lạc được với các anh em từ Thanh Thuỷ đến Hoàng Su Phì, Pakha và Bảo Hà còn ở trong Việt Quốc. Ngọc giới thiệu Thanh với Long rồi đưa giấy của Quân cấp cho Long coi.
Vì đêm trời lạnh, Thanh ngồi gần lửa cho ấm nhưng không bắt chuyện với bà mẹ Long. Nàng vẫn có dáng tư lự và tránh không nhìn Ngọc. Ngọc tuy thấy thái độ của Thanh khác hẳn nhưng chàng cho là vì đương làm việc trong một hoàn cảnh nguy hiểm đặc biệt, tinh thần căng quá độ nên Thanh không vui cười tinh nghịch nữa và cũng không dám nghĩ đến những sự yêu đương.
Ngọc dặn Long cho ngay một ít anh em hơi lộ qua bến đò buôn lậu sang công tác trạm Ma-Lì-Pố rồi sáng sớm hôm sau cùng Thanh đi Hà Giang vào ra mắt Tỉnh đảng Bộ trưởng và đưa trình giấy của Quân. Thanh biết chắc là Quân chưa liên lạc được với Hà Nội, mà dẫu có liên lạc được cũng còn lâu mới có chỉ thị của Tổng bộ lên tới Hà Giang. Hai người yêu cầu cấp giấy để đi lại tự do từ Đồng Văn về Hoàng Su Phì. Sau khi đã báo cho một số cán bộ lộ liễu và dặn cách thức sang đất Tàu liên lạc với ai, Thanh và Ngọc trở lại Hà Giang.
Gần đến tỉnh, Thanh dặn Ngọc:
"Anh làm như về chậm, rồi đi ngay đến nhà đồng chí Long đợi tôi ở đấy. Tình hình ra sao tôi sẽ báo anh ngay."
Thanh lại nhà riêng Văn, nhân viên phụ trách mật vụ của Việt Minh. Nàng đã mượn được của bọn chị em trong phụ nữ cứu quốc một bộ quần áo ta. Tuy về Hà Giang nước độc nhưng nàng vẫn giữ được sức khỏe, đôi má không đánh phấn cũng vẫn ửng hồng như hồi còn ở Mông Tự. Hỏi chuyện lân la nàng đã biết được rằng Tuyên Quang đã liên lạc được với Quân qua Hà Nội và biết rõ nhiệm vụ nàng cốt dụ Ngọc về để đi sâu vào tổ chức bí mật của Việt Quốc ở biên giới. Nàng nói:
"Công việc đã tiến hành khả quan. Tôi đã biết gần hết chỉ còn miền Hoàng Su Phì..."
Văn ngắt lời:
"Tôi còn đương dò xét vì sao nhiều cán bộ Việt quốc do tôi điều tra ra, đã bỏ đi đâu mất từ hôm Kim về đây. Tôi e đồng chí bị Kim đánh lừa."
Thanh cười:
"Họ sợ thì họ chuồn. Có một số đã sang Ma-Li-Pố vì lúc tôi đi với Ngọc đến thì họ đã chuồn mấy hôm trước rồi."
Yên lặng một lúc rồi Văn nói:
"Còn tên Long ở gần Thanh Thuỷ nữa. Hắn đứng ra tổ chức Thanh niên Cứu quốc nhưng sự thực thì... tôi định cho người đi bắt anh ta đêm nay."
Thanh ngắt lời:
"Long ấy tôi biết rõ hơn đồng chí nữa. Đấy là đầu mối để lùng ra hết thẩy tụi nó từ Thanh Thuỷ tới Hoàng Su Phì. Tôi đợi Kim rồi sẽ cùng đi với Long. Bắt Long chỉ bắt được một người. Mai Kim về tôi sẽ đi ngay rồi tôi báo cho đồng chí tóm cả một xâu dài."
Nàng lại cất tiếng cười:
"Nếu mai Kim không về đồng chí sẽ cho đi với tôi một cán bộ mới ở vùng xuôi lên như vậy họ không biết mặt, tôi sẽ giới thiệu là người của Kim. Khẩu hiệu của họ, Kim đã nói hết cho tôi hay. Thôi bây giờ tôi về nhà bà chủ giây thép nghỉ. Hôm nay bà ấy làm tiệc mừng tôi mới về.

Thanh đứng lên vươn vai, hai mắt nàng sáng long lanh nhìn Văn. Nàng về nhà dây thép nói với ông bà Sự vì bận công tác gấp nên không dự tiệc mừng được. Nàng đổi ra mặc bộ áo Tàu lam sẫm rồi đi thẳng về phía Thanh Thuỷ. Lính gác biết nàng nên không ai hỏi giấy. Tuy vậy nàng cũng thấy tim đập mạnh. Ra khỏi trạm lính gác Thanh đi mau gần như chạy. Trăng hạ tuần, trời lại có mây, ánh sáng chỉ mờ mờ song nàng cũng nhận ra được đường cánh đồng cạnh làng Thổ lúa đã gặt hết qua luỹ tre thấp thoáng có ánh đèn nhà ai. Lúc tới làng Long ở thì gần mười một giờ đêm.
Thanh gõ cửa theo hiệu đã định sẵn. Bà mẹ Long ra mở cửa nói là Long đi vắng hôm sau mới về. Thanh dặn bà mẹ cho người đi ngay báo Long tạm ẩn nấp rồi tìm cách sang Ma-Li-Pố. Nàng đánh thức Ngọc dậy:
"Biến rồi. Cần phải đi ngay sang đất Tàu."
Ngọc hỏi qua tình hình nhìn đồng hồ đeo tay rồi nói:
"Nhưng bây giờ một giờ sáng, lấy cớ gì mà qua cầu."
Thanh ngồi xuống suy nghĩ trong khi Ngọc mặc quần áo nhà binh Tàu:
"Được anh cứ đi với tôi. Chúng mình sẽ nói là sang gặp lão tri huyện Khai Hóa để điều đình về việc họ đào mốc lấn sang đất mình. Anh cởi áo nhà binh Tàu ra chỉ mặc áo len với sơ mi thôi."
Trong khi đó thì Văn cảm vì sắc đẹp của Thanh nên muốn đợi khi bà chủ nhà dây thép ăn tiệc mừng xong sẽ kiếm cớ ghé qua để uống cà-phê và gặp mặt Thanh nói chuyện. Lúc tới nơi, Văn ngồi nói chuyện với hai ông bà chủ dây thép, uống hết cốc cà-phê nhưng tuyệt nhiên không thấy Thanh ở trên gác xuống. Chàng hỏi:
"Đồng chí Thanh hôm nay mới về chắc mệt, ăn tiệc xong chắc đi ngủ sớm."
Bà Sự cười nói:
"Các anh chỉ khéo vờ vĩnh. Chị Thanh đi công tác gấp thành thử vợ chồng chúng tôi bị ế cơm."
"Thế à?"
Văn chợt hiểu ngay. Chàng kiếu từ rồi ra trạm gác đường đi Thanh Thủy hỏi mấy người lính gác:
"Có ai qua đây không? Có nữ đồng chí Thanh đi qua đây không?"
Lính ở bóp gác nói:
"Tôi không biết tên nhưng có cô gì ở đoàn phụ nữ, hôm nọ diễn kịch ở chợ... cô ấy mặc áo Tàu vừa đi qua đây độ gần một giờ đồng hồ."
Văn gọi hai người lính ở trong bóp ra:
"Hai đồng chí đem súng đi ngay với tôi. Đi ngay có việc khẩn cấp."
Chương ba mươi tám
Thanh và Ngọc tới cầu. Lính gác giữ lại hỏi. Ngọc đưa giấy ra nói:
"Chúng tôi phải sang ngay gặp viên tri huyện Khai Hoá ở Ma-Lì-Pố để điều đình về việc họ xe dịch mốc số 13. Cần phải đi sớm để sáng mai gặp viên Tri huyện, chiều mai về ngay báo cáo cùng đồng chí Tỉnh Bộ Trưởng. Đây là đồng chí Thanh, ở với tôi bên Côn Minh đã lâu năm tiếng Tàu thạo lắm."
Lính đòi xem giấy của Thanh. Cả hai người không những có giấy của Tỉnh Đảng bộ Hà Giang lại có cả giấy ở Côn Minh cấp nên lính chào rồi để hai người đi.
Vừa qua khỏi cầu được quãng xa, quay lại thì có ánh đèn pin ở bên kia sông Thanh Thuỷ rọi sang rồi tắt ngay. Một tiếng súng nổ vang trong đêm thanh vắng. Vì có ánh trăng mờ và mầu trắng chiếc áo len cùng màu vàng nhạt quần nhà binh của Ngọc nên lính bắn luôn hai phát nữa. Thanh mặc áo lam sẫm lẫn với cỏ nên Văn không trông thấy.

Đến phát súng thứ ba Ngọc ngã khuỵu chân xuống. Chàng cố bò đến chỗ có một mô đất dài chạy theo dọc đường. Ngọc nói:
"Chị đừng ra, chị đừng ra!"
Nhưng Thanh đã chạy đến vực chàng lên, tay ôm ngang lưng rồi dìu chàng về mô đất. Văn trông thấy một bóng sẫm bên cạnh bóng trắng mờ của áo Ngọc. Chàng đoán ngay đó là Thanh, miệng lẩm bẩm:
"Quân phản bội" rồi ra lệnh cho lính bắn:
"Nhắm thật kỹ."
Một phát súng nổ. Thanh nói:
"Em cũng bị rồi."
Nàng giơ tay trái ôm lấy ngực nhưng tay phải vẫn nắm chặt lấy vai Ngọc. Chân nàng chắc không việc gì vì nàng vẫn dìu Ngọc rất nhanh về phía mô đất, lấy thân hình che cho Ngọc. Hai người vừa đi khuất sau mô đất thì tiếng súng ở bên kia sông bắt đầu im.
Thanh đặt Ngọc ngồi tựa vào thành đất, hai chân Ngọc duỗi thẳng; máu ra ướt cả ống quần và hơi loang lên áo sơ mi. Nàng vén dần ống quần Ngọc lên nhưng vì chỗ bị thương ở trên cao nàng không biết là ở bắp đùi, ở hông hay ở bụng dưới. Nàng nắn vào bụng và hông, hỏi Ngọc:
"Anh có thấy đau không?"
Ngọc lắc đầu rồi hỏi:
"Chị bị thương ở đâu?"
"Chắc tôi bị ở cạnh sườn."
Thanh cởi áo ngoài ra và giơ tay trái lên rồi cúi nhìn xuống máu đỏ loang cả một bên áo cánh. Không may, lúc đó mây đen ở đâu kéo đến nghịt trời, ánh trăng gần như không có nữa, trông ra chỉ một màu trắng đục như sương mờ. Thanh nhìn kỹ thì quả là sương đêm bắt đầu xuống bao phủ quanh hai người. Thanh nói:
"Anh dựa đầu vào đây rồi để yên chân đừng động đậy. "
Nàng giơ tay phải để Ngọc tựa làm gối rồi cả hai đều yên lặng. Một lúc sau Ngọc nói:
"Bị thương ở đâu cũng chẳng quan trọng. Bây giờ không có súng bắn sang nữa, nhưng biết đâu tụi Việt Minh không qua cầu rồi cho mình vài báng súng. Nhưng rất có thể tụi họ tưởng chị không việc gì mà hai người đã đi đến đây chắc có thể chạy rất xa rồi; có khi họ tưởng chúng mình chạy đi báo bộ đội Tàu đóng ở Bắc Bảo."
Ngọc rút súng lục cầm sẵn ở tay:
"Họ tất cả có vài ba tên lính, nếu họ sang đây, chưa chắc đã một tên lính nào về được. Mây đen phủ kín mặt trăng và sương bắt đầu xuống là một lợi thế cho mình. Chúng ta sẽ chống cự đến viên đạn cuối cùng; nếu có bị chắc họ sẽ phải khiêng chúng mình qua cầu và chôn ở bên ấy. Việt Minh có bao giờ chịu đào đất để chôn người. Sẵn những cái hố của tụi Nhật họ chỉ việc ẩy mình xuống rồi lấp qua. Tôi với chị thế là vô hình chung được chôn cùng một huyệt."
Thanh cởi hẳn áo ngoài của nàng ra, bảo Ngọc xé thành từng tấm dài rồi quấn chặt lấy chân Ngọc từ hông xuống tận đầu gối. Còn một nửa, nàng bảo Ngọc quấn quanh ngực mình. Hai người mệt lả cùng dựa vào thành mô đất, đầu Ngọc vẫn gối lên cánh tay Thanh. Ngọc ngả đầu về phía má Thanh, khẽ nói:
"Tôi thấy mệt lắm."
"Tại anh mất nhiều máu quá."
Yên lặng một lúc rồi Ngọc nói nhỏ dần:
"Tôi không sống được... trước khi chết tôi định nói một câu với chị, đã bao lần tôi định nói nhưng lại thôi..."
Thanh nghiêng đầu, má nàng gần chạm má Ngọc:
"Tôi đã hiểu, nhưng câu ấy đừng bao giờ anh nói ra; tôi cũng đã rất nhiều lần muốn nói với anh đúng câu anh định nói nhưng không bao giờ tôi nói. Có một điều lạ, chính tôi cũng không hiểu tại sao; chắc anh còn nhớ hôm tôi khóc ở chỗ Tứ bị giết rồi đến ở nhà người Tàu loà không? Hôm ấy chắc anh cũng nhận thấy tôi như người mất hồn; xin thú thực với anh là lúc đó tôi thấy... tôi thấy tình tôi yêu anh đã chết hẳn rồi. Đêm nay tôi mới biết là tôi đã lầm, khi tôi đi nhanh như chạy từ Hà Giang đến Thanh Thuỷ, chân vấp vào đá đến chảy máu mà không hay để báo tin anh biết là có biến..."
Sương mù xuống một lúc một dầy. Hai người như xa hẳn, thoát hẳn mọi thứ, cùng ngồi yên đợi cái chết. Ngọc nói:
"Này chị, tôi còn nhớ hôm ở Tả Quán Lầu bàn đến lúc phạm nhân trước khi chết cần nhìn một thứ gì đẹp, nghe một điệu nhạc hay những tiếng ngâm thơ."
"Để tôi sẽ ngâm anh nghe bài thơ anh làm khi bắt đầu biết yêu... mà có lẽ anh và cả tôi nữa đều nghe lại lần cuối cùng trong đời."
Thanh để hết cả tâm hồn khe khẽ ngâm, tiếng thoảng nhẹ như hơi gió trong đêm trăng sương mù:
"Đêm sương thoảng tiếng ai trong gió,
Lòng hỏi lòng biết có hay không?
Hay chăng tiếng vọng mơ mòng
Của lòng mình nói cho lòng mình nghe..."
Tiếng ngâm dứt đã từ lâu nhưng dư âm còn vang mãi trong hồn Ngọc. Tự nhiên chàng nghĩ đến hôm đi chơi hồ, Thanh ngâm bài phú Xích Bích và nói bây giờ còn đâu Tào Tháo, Chu Du nhưng câu thơ hay của Tô Đông Pha và ánh trăng trên dòng sông Xích Bích thì còn mãi mãi. Chàng nghĩ Thanh và chàng có thể lát nữa sẽ chết; Việt Quốc, Việt Minh ám hại lẫn nhau cũng không còn nữa. Nhưng tiếng ngâm của người yêu thì như mãi mãi bàng bạc trong không gian của những đêm sương lạnh.
"Chị có thấy lạnh không?"
Thanh chạm má mình vào má Ngọc; nàng thấy hai làn da thấm hơi lạnh lẫn nhau như hai linh hồn cùng hoà làm một để lát nữa tan đi trong cái mênh mông của hư vô.
Trời đã sáng màu sương trở thành trắng đục rồi tan dần. Trên một vài cây thông nắng đã bắt đầu lao xao ở những đầu lá đọng sương. Thanh cúi xuống nhìn chỗ vết thương của Ngọc rồi nói:
"Anh bị thương ở đùi thì không chết đâu. Tôi cũng chỉ bị đạn sướt qua ngoài sườn không sao."
Ngọc hỏi:
"Thế bị ở đâu mới chết?"
Thanh mỉm cười:
"Bị ở tim."
Sương đã tan hết, trời cao và rộng bao la. Hai người cùng yên lặng nhìn màu xanh của nền trời không vẩn một đám mây, ngơ ngác như lấy làm lạ rằng còn được trông thấy ánh sáng của thế gian. Ngọc nhấc đầu khỏi cánh tay Thanh, xoay mặt về phía nàng rồi nắm chặt hai bàn tay người yêu trong tay mình, nói:
"Không có chị thì tôi đã chết rồi."
Thanh mỉm cười rất nhẹ rồi đáp lại:
"Không có anh thì tôi cũng không sống được."
Nàng mím miệng cắn một bên môi; chiếc răng cửa mỗi lúc cắn một mạnh hơn cho đến khi môi nàng rơm rớm máu. Hàng lông mi dài và cong của nàng thong thả hạ thấp xuống, hàng mi dưới lại vòng lên như cười và con ngươi nàng hơi rung rung sáng. Mắt nàng Ngọc cảm thấy như đương ngắm một thứ gì đẹp lắm. Ngọc định cúi xuống hôn vào hai con mắt thân yêu ấy, hai con mắt mà chàng cảm thấy như là biểu hiệu cho sự sung sướng của cả một đời chàng. Một lúc sau Thanh ngước mắt hỏi:
"Nếu chúng mình sống sót thì chúng mình sẽ làm gì?"
Ngọc đáp:
"Thì lại chui đầu vào cái ‘guồng máy’."
Thanh ngẫm nghĩ rồi gật đầu, mắt thoáng một tia vui tinh nghịch:
"Nếu không có guồng máy nào nữa em cũng phải cố bịa ra một cái để em với anh có chỗ chui vào."

Nhất Linh
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...