Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2019

Quê hương ngày trở lại 1

Quê hương ngày trở lại 1
I- Sài Gòn - Châu Đốc - Hà Tiên:
Về Sài Gòn tôi bị lạc. Tình trạng lạc hướng kéo dài trên taxi, xe ôm, đi một mình hay cùng gia đình, bè bạn, tôi thường lẩm nhẩm trong đầu: đường này Gia Long, Tự Do đây, chắc là Lê Văn Duyệt... Nhưng khi ra đến Hà Nội, lại tịnh không có sự lẩm nhẩm nào. Hôm tới Lê Văn Hưu ăn phở, dù phố này nay đã hoàn toàn khác với trí nhớ, tôi vẫn nhận ra: Đây là Lê Văn Hưu, đi tới chút nữa rẽ ngang là phố Huế. Đèn phố Huế bẩy mươi năm qua chưa bao giờ tắt trong tôi.
Những tối gần Noël, một đứa nhỏ năm, sáu tuổi dí sát mũi vào cửa kính hàng bán đồ chơi, thèm thuồng nhìn mấy con búp bê Pháp, tóc vàng, mắt xanh mà mơ đến ngày nó sẽ được ôm một con búp bê như thế, nó sẽ chải tóc, thắt nơ cho nó như thế nào, nó chưa từng dám mơ đến một ngày sang Pháp. Hôm nay, từ phố Huế, đứa nhỏ bẩy mươi ba, bước trở lại Lê Văn Hưu, đi thêm chút nữa sẽ tới phố nhà nó: Thi Sách, số bẩy. Chợ Hôm mặc dù chỉ nuôi nó có 5 năm, từ 5 đến 10 tuổi, đã trở thành người vú chưa từng rời nó bao giờ.
Sài Gòn, hồi ấy tôi sống ở đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) từ 10 đến 18 tuổi, đã lớn, ngoài giờ học, đạp xe đi chơi suốt, thuộc lòng hầu hết các con đường, thế mà sao bây giờ lại lạc? Từ khi rời nước năm 1962, tôi về lại cả thảy bốn lần: 74, 84, 93 và 97. Trừ lần 74 không lạc, còn ba lần sau, lần nào cũng lạc. Điều nhỏ nhặt này cứ luẩn quẩn trong đầu bao nhiêu năm, bây giờ ra Hà Nội tôi mới hiểu: tại việc đổi tên đường. Hà Nội và Sài Gòn đều của tôi, chúng đã tham dự vào mảnh đời thời thơ ấu và niên thiếu, vậy mà tôi không lạc Hà Nội thời bé, lại lạc Sài Gòn thời lớn, bởi vì đường phố Hà Nội không hề bị đổi tên: phố Huế vẫn là phố Huế, Hàng Bài, Trần Hưng Đạo vẫn là Hàng Bài, Trần Hưng Đạo. Những nhân vật có công với cách mạng, không có chỗ đứng trong quận Hoàn Kiếm, trung tâm Hà Nội, mà nhã nhặn trụ vòng ngoài, trên những đường phố mới xây sau này, họ biết lịch sự sắp hàng theo đúng trật tự thời gian của lịch sử. Nhờ vậy, những ai trở lại Hà Nội, dù bẩy, tám mươi năm sau, vẫn nhận diện được ba mươi sáu phố phường, nhờ quyết định hợp lý và cận nhân tình của những người tiếp thu Hà Nội sau 1954.
Quang Trung sau khi diệt Trịnh, cũng chỉ dám đổi Thăng Long ra Bắc Thành, vậy mà Thanh Quan cũng đã giận lắm, nhiều năm sau, bà còn viết Thăng Long thành hoài cổ để lại như một chúc thư. Bởi vì con người luôn luôn gắn bó với đất nước, và đất nước của mỗi người không chỉ là nơi sinh và nơi lớn, mà còn là tiếng nói, là tên gọi những chốn thân yêu ấy nữa. Không thiếu văn nghệ sĩ đã lấy tên làng, tên tỉnh của mình, làm bút hiệu. Sự đổi tên một con đường, một thành phố, vô tình đã đụng đến ký ức xương thịt, ký ức tâm hồn của một người, của nhiều người, của một vùng, một phương, kéo theo những bi thương, phẫn nộ, vô ích. Tại sao không tránh?.
Chúng tôi về tới Sài Gòn sáng sớm ngày 2/11/2017. Vậy là hơn 20 năm xa cách (lần chót tôi rời Sài Gòn cuối tháng 9 năm 1997). Cảm tưởng lạc đưa đến sự từ chối thành phố trong mấy hôm đầu, khiến tôi không nhận được quê hương ngày trở lại, đã từng có thứ nắng thật lãng mạn, nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông. Tôi thực thụ gặp lại quê hương qua chuyến đi Sài Gòn-Châu Đốc-Hà Tiên, do một công ty du lịch tổ chức riêng cho hai Việt kiều: Cái Bè là điểm hẹn đầu tiên với sông nước Tiền Giang. Phải đến đây mới cảm được Cửu Long Giang bát ngát của Phạm Duy, tiếng hát Thái Thanh bốc khói trên chiều về bên sông như giọng thuỷ thần cất lên từ đáy nước. Chúng tôi lên thuyền nhỏ đi vào sông lạch, ở đây cách Rạch Gầm Xoài Mút không xa, nhưng tôi không dám hỏi cô lái đò "điạ chỉ" vì chắc cô cũng chẳng biết việc Nguyễn Huệ phá quân Xiêm (1785 quá xa vời), hỏi thêm lẩn thẩn. Sông lạch miền Nam vô cùng quyến rũ, tôi nghĩ chắc hai chị em Hàn Mặc Tử đi thuyền trên sông trăng Sa Huỳnh ngày trước cũng chỉ tương tự thế này, ta thay ánh trăng bằng dừa nước, bằng tất cả những thứ cây sà xuống nước mà tôi không biết tên; lòng tôi chĩu trong đáy nước. Nước tôi. Chúng tôi ăn bữa cơm trưa đầy thi vị bên con cá chiên xù, trong khung cảnh thơ mộng của ngôi nhà cổ Anh Kiệt, không xa Rạch Gầm Xoài Mút của Nguyễn Huệ.
Buổi trưa hôm ấy mưa như trút nước, khiến tôi nhớ lại thứ mưa đặc biệt miền Nam, mưa rồi tạnh ngay, trời lại nắng, như lời chào thân ái của vùng đất miệt vườn với đứa nhỏ di cư, mười tuổi, năm năm mươi tư. Chúng tôi tiếp tục lên xe đến Sa-Đéc, thăm ngôi trường cũ mà bà mẹ Marguerite Duras đã dạy học, trước khi đến căn nhà cổ của gia đình Huỳnh Thủy Lê, người tình của Duras, trở thành nổi tiếng vì phim Người tình (L'Amant) của Jean-Jacques Annaud. Căn nhà cũ gợi cảnh vàng son của cái đẹp ánh lên những gợn sóng xà cừ toả ra từ bộ trường kỷ, giường, sập gụ, tủ kinh, một chất xưa lắm, nay không còn nữa, đọng lại một mối tình sôi bỏng trong không gian, không mầu, nhưng tồn tại.
Trời lại mưa.
Mưa theo chân chúng tôi đến tận vùng đất cũ, tôi biết tên nhưng chưa bao giờ đến: Châu Đốc. Chúng tôi ở một khách sạn trên đồi cao, nằm cheo leo sườn núi Sam. Nhìn những tia nắng cuối cùng của hoàng hôn Châu Đốc chiếu lên khung cảnh tuyệt vời, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy hãnh diện vì quê hương, một cảm tưởng gần như đã biến mất trong tôi từ nhiều năm tháng: bởi đây là lần đầu tiên tôi được ở một khách sạn tại vùng đèo heo gió hút, do người mình xây, có kiến trúc đẹp, những căn nhà nhỏ thơ mộng lẩn trong bụi cây, có mỹ thuật và tôn trọng môi trường, đầy đủ tiện nghi, khó tìm thấy trên đất Pháp cái gì tương tự. Tôi không khỏi bồi hồi cảm động, trong bụng nẩy lên một niềm tự hào dân tộc sâu xa: hai mươi bốn năm trước, tôi cũng tá túc tại một khách sạn sang ở Huế, nhưng phòng tắm đầy gián, chuột; đêm ấy, tôi không sao ngủ được, nghĩ bụng không biết khi nào dân mình mới thoát vòng nhược tiểu, mới có khả năng xây dựng một căn nhà. Thế mà nay, những người Âu đến đây, cũng như chúng tôi, họ ngạc nhiên và trầm trồ khen ngợi: từ kiến trúc, bài trí, đến cách tiếp đãi lịch sự, nồng hậu, món ăn, tất cả đều top, giá lại phải chăng, chỉ bằng 1/4 giá một khách sạn tương đương như thế ở Pháp. Khó tìm thấy khung cảnh nào thần tiên hơn.
Hoa Tigôn Châu Đốc
Sự tiếp xúc với Châu Đốc sâu hơn, ngày hôm sau, nhờ thiếu nữ hướng dẫn thật sự yêu nghề, yêu đất nước. Em rành từ tên cây, tên cỏ, đến tên đất của vùng quê em, ngõ nào em cũng biết, em kể về quá khứ xa, gần: nội em xưa làm công chức cao cấp trong chính quyền cũ, bị án tử hình. Ôi quê hương yêu quý, đâu đâu cũng thấy dấu vết tương tàn, nỗi buồn làm tắt niềm vui. Em dẫn chúng tôi đi thăm Trà Sư, điểm lạ của miền đất có âm thanh Châu Đốc gióng lên như tiếng trống, thúc giục ta tiến sâu vào vùng sông nước, cây cỏ, hòa một, độc nhất vô nhị này. Trà Sư là rừng tràm bí mật và thơ mộng mà tôi đã nghe tiếng từ lâu, vì không hiểu rõ, nên vẫn đồng hoá với Rừng mắm của Bình Nguyên Lộc. Nhưng không phải: Trà Sư là rừng tràm mọc trên nước, mênh mông, bất tận, mở ra, mở ra mãi... Thuyền đi, thuyền đi, rẽ lối trên bèo, đi sâu, sâu hơn, sâu mãi, thuyền đến đâu bèo mở ra đến đấy rồi vội vàng khép lại sau lưng thành một cánh thảm xanh tuyệt vời, có lẽ vì vậy mà người miền Nam gọi bèo tây là lục bình.
Trà Sư
Châu Đốc còn là quê hương của Thoại Ngọc Hầu, vì Hầu mà chúng tôi đến đây: Thoại Ngọc Hầu hôm nay nằm trong dinh bên cạnh những ngôi mộ đá hình trái soan trắng, là mộ của gia nhân, tùy tướng. Hầu vẫn nhăm nhăm tay thương, tay kiếm, oai phong trấn giữ mảnh đất quan ải. Tôi giật mình, vừa yên tâm, vừa sợ. Châu Đốc trong trí tôi ngày trước là vùng địa đầu, rắn rít, nước độc, bây giờ là đất Trà Sư mênh mông đẹp rộng như rừng mắm của Bình Nguyên Lộc, có Thoại Ngọc Hầu sừng sững bảo vệ. Muôn đời.
Mộ Thoại Ngọc Hầu
Mộ gia nhân Thoại Ngọc Hầu
Từ Châu Đốc, chúng tôi theo con kinh Vĩnh Tế của Hầu để về Hà Tiên. Anh lái xe cho đi con đường dọc sát biên giới Miên Việt, bên kia núi là đất Miên, bên này đất Việt, anh guide bảo: mạ bên mình lá xanh hơn mạ bên kia, cô ạ. Ý anh muốn nói, mạ mình xanh hơn mạ Miên, tôi mỉm cười thầm nghĩ: Người mình chủ quan thật. Con đường đi dọc kinh Vĩnh Tế, mộc mạc, không trang điểm, còn là đường mộ chôn bao nhiêu nhân công đào kinh mở nước, họ đã nằm xuống đây. Phải đến mới cảm thấy thấm thía công lao của người trước: vừa chống trả với "quân xâm lăng" (xâm lăng hay đòi đất? Vì mình chiếm đất của người ta!), vừa làm công việc dẫn thuỷ nhập điền cho dân cư cả một vùng đèo heo gió hút.
Đến Hà Tiên, quang cảnh khác hẳn, như thể ta bước sang một "nước" khác. Nước của họ Mạc. Gia trang Đông Hồ-Mộng Tuyết tựa ở cửa ngoài. Thi sĩ Đông Hồ bị lạc lõng trong vùng đất này, dù đó là quê hương ông. Bởi ông đã "phản bội" quê hương, văn chương Đông Hồ quá chải chuốt, quá Hà Nội, quá tỉnh thành, không hợp với đất Hà Tiên, có lẽ vì thế mà ông chỉ ở ngoại thành. Hà Tiên là của dòng họ Mạc, cha con người Triều Châu. Mạc Cửu phá hoang, xây dựng, rồi dâng chúa Nguyễn. Mạc Thiên Tích, con trai ông, nhà thơ tướng quân, đã mở rộng Hà Tiên thành đất văn học. Tôi biết Hà Tiên qua vài truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc trong Nhốt gió, nói về người Triều Châu lưu lạc sang ta. Đặc biệt chú Yều, mẹ Việt, có ông cố lưu lạc sang đây, lập làng đồ gốm Chòm Sao, nhưng chú ương bướng chủ trương "bất cộng tác" không chịu "hội nhập", cứ nói, hát tiếng Triều. Nhưng rồi dần dần, chú Yều cũng "đầu hàng", chú trở thành... người Việt. Tôi không biết trong số những người Triều Châu này, có bao nhiêu Trịnh Hoài Đức? Bao nhiêu Hồ Dzếnh? Di tích còn lại của họ Mạc ở Hà Tiên là những nấm mồ trên núi Bình San: cả dòng họ Mạc đã sống, chết, bảo vệ mảnh đất này, cả dòng họ Mạc nằm đó, nhìn xuống vịnh Hà Tiên, vẫn một lòng trung với Chúa, đã ba trăm năm.
Mộ Mạc Cửu
Anh guide và anh tài dẫn chúng tôi ra tận biên giới Miên-Việt. Đứng bên cột mốc phân chia lãnh địa, bình an, một mối xúc động không tên dấy lên như thể qua bao nhiêu trận chiến tàn khốc, hồn người nằm xuống đã bảo an cho thời hiện tại trong không gian đầy nắng này. Tối đó anh guide dẫn chúng tôi tới một quán nhậu, ăn ghẹ luộc Hà Tiên, bất hủ. Sáng sớm hôm sau đi mũi Hòn Chông, phía nam Hà Tiên, thăm Hòn Phụ Tử. Tiếc thay núi cha đã bị gẫy đôi vì một trận bão, nhưng phong cảnh vùng ráng tiên vẫn tuyệt vời. Chẳng biết có phải Mạc Cửu chọn tên Hà Tiên vì khu này có người tiên hay ra vào trên sông nước? Với tôi, ông đã chọn nghiã ráng tiên, bởi khi đứng trên Hòn Chông buổi sớm, mặt trời vừa mọc, dưới biển nhấp nhô bao đảo nhỏ chen chúc, trên trời ráng tiên múa hát vạn sắc màu, cho nên Mạc Cửu đã bình trị vùng đất hoang sơ tuyệt đẹp này rồi dâng chúa Nguyễn với tên Hà Tiên.
Cột biên giới
Hà Tiên gói trọn lịch sử về tình người, về lòng chung thuỷ, vượt trên mọi tranh chấp quốc gia, kỳ thị chủng tộc. Hà Tiên nhắc nhở thời điểm lịch sử mà hai dân tộc Việt-Hoa chung sống yên bình, chia nhau, không chỉ một mảnh đất, mà cả linh hồn mảnh đất ấy.
Trên đường trở lại Sài Gòn, chúng tôi ngủ đêm tại một khách sạn ở Cần Thơ, trên bến Ninh Kiều: dòng Hậu Giang hiện ra trước mắt, vẫn Cửu Long Giang và Phạm Duy cùng trổi dậy, cuồn cuộn, dưới chân cầu Cần Thơ, uyển chuyển, thanh nhã, nổi lên trong ráng chiều. Một lần nữa tôi cảm thấy hãnh diện vì những kỹ sư, kiến trúc sư trẻ của quê hương, đã dựng lên một kiến trúc hiện đại xứng đáng bắc ngang Sông Hậu. (Cái gì đẹp thì lại có người bảo Đại Hàn hay Nhật xây đấy, nhưng tôi chắc họ không đem "thợ" sang đâu!). Từ Cần Thơ, chúng tôi trở lên Vĩnh Long, rồi xuôi xuống Mỏ Cầy gần Bến Tre thăm gia đình trước khi về lại Sài Gòn.
Trở lại Sài Gòn, tôi bắt đầu để ý đến ngôn ngữ của người miền Nam, đặc biệt những người lái taxi. Chỉ cần một câu hỏi: cô chú ở đâu về? là biết chắc chúng tôi Việt kiều, họ bắt đầu tâm sự. Một cái tên được nhắc nhở khá nhiều trong những câu chuyện taxi là Võ Thị Sáu; có lẽ vì cô này chết trẻ. Sau này tôi còn gặp lại cô ở Côn Đảo. Người taxi phân trần: Cô coi, mấy đứa nhỏ phải học trường Võ Thị Sáu, thiếu gì tên hổng xài, lấy tên con nhỏ vô học đặt cho trường học, tui hổng cho đi, tui cho chúng học tư, tốn kém mấy thây kệ. Một người taxi trẻ đưa chúng tôi từ quận Bình Thạnh về quận Nhất, qua một khu sang trọng, nhà cửa mới tinh, tuồng của các đại gia, văng tục: ĐM, chiếm đất đấy, dám xuống trỏng (miệt vườn) mà chiếm, có mà chúng chặt đầu! Tôi rợn người, chừng máu cô Quờn (ngày xưa chém chồng 36 nhát dao) đang chảy trong huyết quản anh taxi vạm vỡ này. Bấy giờ tôi mới cảm thấy những đợt sóng ngầm. Nguy hiểm. Taxi vào vùng Thủ Thiêm, sự khác biệt còn dữ dội hơn: một quần thể biệt thự sang trọng, đường phố toàn tên cách mạng mà vắng tanh, hiềm gì bác tài không dọa: Tui chở cô zô đây, chớ đây đâu phải đất "người mình". Tôi lạnh gáy. Việc hòa hợp dân tộc xem chừng không dễ dàng. Về phiá người Bắc vào Nam, các cháu tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp, cũng than: Lúc đầu đi mua hàng họ không bán bác ạ, họ bảo hết rồi, họ đuổi đi. Bây giờ đã khá hơn nhiều. Tôi nhớ lại những ngày năm tư, lũ lỏi Bắc kỳ di cư chúng tôi, chín mười tuổi học chung trường với lũ lỏi Nam kỳ. Bọn di cư học buổi trưa, khi trường trống, còn sáng và chiều dành cho học trò Nam. Ngày nào hai bên cũng viết thư "gây chiến" để lại hộc bàn, lời lẽ con nít Bắc Kỳ ăn cá rô cây; cuộc chiến âm ỷ tới hết thời tiểu học. Lên trung học, mấy con người đẹp Bình Dương chủ trương hoà hoãn với đứa di cư lạc lõng một mình trong trường đại nữ học Gia Long, chúng đình chiến, chúng thương xót, xử huề. Thế là tôi trở thành gián điệp nằm vùng, nhiệm vụ dò thám tình hình địch Trưng Vương (của mấy bà chị): năm nay lễ Hai Bà bên đó ai cưỡi voi, ai đóng Trưng Trắc? (Thời bà Nhu rất dân chủ: hai trường  chia nhau luân phiên đóng vai Trưng Trắc, Trưng Nhị, vì không trường nào chịu làm em).  Tình hình "nội chiến" những năm xa xôi ấy trở lại trong tôi, lúc này; nhưng hôm nay, bây giờ, không phải là lũ trẻ ranh mà là người lớn với nhau, âm thầm, đáng ngại.
Điểm văn hóa cuốn hút tôi ở Sài Gòn là Đường Sách, một con đường rất ngắn nằm ngang hông nhà thờ Đức Bà, ít ai nhớ tên thật, thường gọi Đường Sách. Tôi chưa thấy ở đâu có quang cảnh như thế, từ thời phồn vinh của Sài Gòn ngày trước với hai nhà sách lớn Khai Trí, Xuân Thu, hay Paris ngày nay, với nhà sách Joseph Gilbert trên đại lộ Saint Michel và siêu thị Sách-Vidéo Fnac ở Montparnasse. Đường Sách, chen lẫn giữa những cửa hàng sách là những quán cà phê, bạn mua sách rồi ra đó trao đổi với bạn bè hoặc với những độc giả khác. Hoặc bạn là tác giả, ra đó ký sách cho người đọc, trả lời những câu hỏi của họ. Hoặc chỉ đơn thuần bạn thích ngồi cà phê, nhìn ngắm những cặp vợ chồng trẻ, tung tăng dẫn con đi chơi, mua sách hình... tất cả gợi lên một không khí thanh bình, một sức sống mãnh liệt đang lên của dân tộc, tôi không biết ở dưới có giấu những ngu dốt, tham ô, tham nhũng nào không, nhưng tôi tin vào sức sống và sự an nhiên tự tại của những người trẻ đang làm sách và đọc sách ở đây, phần lớn họ đều sinh sau bẩy lăm cả.
Đường sách chứng tỏ Sài Gòn ngày nay đã khác nhiều với Sài Gòn hôm qua, không chỉ với những cao ốc, những tiện nghi, tân tiến của một thành phố thế kỷ XXI, mà Sài Gòn còn đang phục hồi phần linh hồn, tức là phần chữ nghiã, tư tưởng, đã một thời bị dập xoá. Không chỉ những sách miền Nam cũ dần dần được in lại, như những sách về tư tưởng, triết học của Nghiêm Xuân Hồng, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung... mà còn có cả sách in chui, mà còn có cả những sách hiện đại của Tây phương dịch sang tiếng Việt, cống hiến cho người đọc, ngoài Internet, một cái nhìn sâu rộng hơn về thế giới bên ngoài. Tôi không đọc những sách này, nhưng cũng đoán, tất nhiên là không thể hoàn hảo, còn nhiều lỗ hổng, có chỗ dịch sai, có chỗ bị kiểm duyệt, nhưng đây là bước đầu, rồi ta sẽ dịch hay hơn, rồi sự kiểm duyệt sẽ bớt đi, theo đà dân chủ hoá của đất nước. Người Pháp đã phải bỏ ra ba mươi năm mới có bộ sách dịch toàn thể tác phẩm của Kawabata tương đối hoàn chỉnh. Còn Dante, qua bao nhiêu thế kỷ vẫn chưa có được bản dịch Pháp văn đáng giá. Chỉ cần nhìn giới trẻ trên Đường Sách, từ người bán đến đến người mua đều trẻ cả, họ bán sách cũ mới, sách dịch đủ loại; có thể còn dịch sai, nhưng lần sau tái bản sẽ sửa cho đúng hơn, điều cần thiết là phải bắt đầu, và những người bạn trẻ này đã bắt đầu.
Chúng tôi đi thăm mộ Phạm Duy.
Duy Cường dẫn chúng tôi đi thăm mộ cha. Ông ở Bình Dương, trên một vùng đất đẹp. Trong Vườn Phạm Duy, thực hiện theo ý tưởng của Duy Cường, bên cạnh ông là mộ Thái Hằng và bia Duy Quang. Trên tượng bán thân bằng đồng đen, khắc theo ảnh chụp của Phong Quang, do điêu khắc gia Nguyễn Văn An thiết kế và Đoàn Tấn Huệ đúc đồng, ông sừng sững như còn tại thế. Trên mộ ghi Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi! bằng chính chữ của Phạm Duy. Ông đã vĩnh viễn trở về với đất nước với tiếng nói và con người. 
Mộ Phạm Duy
Vườn Phạm Duy: Mộ Phạm Duy, Thái Hằng, bia Duy Quang
Khi tôi ra đời cách đây 75 năm đã có Phạm Duy. Năm tôi lên bốn, Phạm Duy về làng với những tiếng quân hành bộ đội tràn vào sân nhà những đêm trăng sáng một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra đất Việt, bừng ngàn tiếng thanh niên tung gông phá xiềng. Đoàn người trai ra đi miệng hô lớn quyết chiến! Quyết chiến! Chân oai nghiêm đều tiến! Tôi "theo" kháng chiến từ giây phút ấy, trong vô thức chưa định hình của đứa bé lên bốn, với Khởi hành, với Đường Lạng Sơn, với Việt Bắc, với Ngọn trào quay súng, với Tiếng hát trên sông Lô... Bao thanh niên đã lên đường như thế theo tiếng nhạc tuổi xanh. Nếu không có Phạm Duy, Văn Cao... chắc gì cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công.
Nhưng Phạm Duy cũng đã sớm thấy sự tàn phá của chiến tranh, người nghệ sĩ ấy đã nghiêng mình xuống Những người thương binh, Mùa đông chiến sĩ... ông ngậm ngùi Nhớ người ra đi, thương tiếc những đồng lúa ngập vàng trong ánh hoàng hôn trên Nương chiều. Rồi Phạm Duy xuôi Trung trong những tháng ngày 1948, xót thương quê hương tan nát với những bà mẹ rách vai, với tiếng o nghèo thở dài với những chiều khô nước mắt... trong Quê nghèo, Về miền Trung, Bà mẹ Gio Linh... Tháng 5 năm 1951, Phạm Duy cùng gia đình vào thành, sự nghiệp văn nghệ của Phạm Duy sang một bước ngoặt lịch sử: từ nay chúng ta sẽ có ban hợp ca Thăng Long với Thái Thanh Thái Hằng Hoài Trung Hoài Bắc, và Thái Thanh sẽ trở thành tiếng hát vượt thời gian đem nhạc Phạm Duy trải dài trên nền đất nước, thấm vào lòng người.
Vào miền Nam, 1952 Phạm Duy bắt đầu một thiên tình sử mới với quê hương qua những bản tình ca bất hủ Tình hoài hương, Tình ca, Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam... Ở Phạm Duy tình ca, tình người và tình yêu quy thành một mối, một khối, một trái tim. Chúng ta gặp lại công chúa Huyền Trân qua nhạc Phạm Duy, chúng ta đi xuyên Việt qua nhạc Phạm Duy, chúng ta biết yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, qua nhạc Phạm Duy. Chúng ta yêu nhau cũng với Phạm Duy: ngày đó có em đi nhẹ vào đời, chúng ta cưới nhau cũng có Phạm Duy: nhìn trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới... Chúng ta giã biệt nhau cũng với Phạm Duy: ngày ấy có em ra khỏi đời rồi... Chúng ta van xin nhau cũng có Phạm Duy: Đừng xa nhau, đừng quên nhau, đừng rẽ khúc tình nghèo... Đừng cho không gian đụng thời gian... Mỗi gây phút thiêng liêng, hạnh phúc, xót xa... trong đời ta đều có Phạm Duy. Ngoài Nguyễn Du, chưa một nhà thơ, một nghệ sĩ nào đi sâu vào tâm hồn người Việt đến thế.
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, ta di tản, vẫn cùng Phạm Duy: Một ngày năm bốn, cha rời quê xa... Một ngày bẩy lăm đứng ở cuối đường... Ở hải ngoại, Phạm Duy hát cho Bầy chim bỏ xứ, Phạm Duy dựng lại thi ca Hàn Mặc Tử, làm sống lại Kiều trong âm nhạc.
Người ta trách Phạm Duy, khi ông bỏ kháng chiến về thành là phản bội cách mạng. Người ta trách Phạm Duy khi ông bỏ hải ngoại về nước là phản bội miền Nam. Nhưng người ta quên Phạm Duy là Người. Người Tự Do. Phạm Duy không có bổn phận với ai, trừ với chính mình. Phạm Duy không phải là chiến sĩ: Chiến sĩ đấu tranh dưới một ngọn cờ. Phạm Duy không phải là kẻ sĩ: Kẻ sĩ trung quân ái quốc. Phạm Duy không phải là chí sĩ: Chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, muốn dìu dắt dân tộc ra khỏi ách nô lệ, đọa đầy.
Phạm Duy là người Nghệ Sĩ: Nghệ sĩ cần tự do như khí trời để thở, để sáng tác. Nghệ sĩ cần khán thính giả, nếu không có khán thính giả, sẽ không còn nghệ sĩ. Không nên buộc Phạm Duy phải làm giống ta, bởi ta chưa sáng tạo được một tác phẩm nào, một lời ca nào, cho quê hương, đất nước, con người.
Đứng trước mộ Phạm Duy, ai đã đo được tầm vóc vĩ đại của người nhạc sĩ số một của đất nước, năm lần ba lô xuyên Việt, để lại bao nhiêu kiệt tác cho dân tộc cùng với sự vô ơn vĩ đại của lớp quần chúng bạc như dân đã chôn sống ông vì vài ba tiểu tiết, khi ông còn tại thế?
II- Côn Đảo:
Từ Sài Gòn, chúng tôi lấy máy bay ra Côn Đảo.
Chiếc máy bay nhỏ chở đầy hành khách, không một chỗ hở. Mọi người cười nói ồn ào, dường như quen nhau cả. Tôi để ý: hầu như không có người Nam, máy bay chở toàn người Bắc. Có lẽ đây là một đoàn du lịch có tổ chức, mà chúng tôi là hai người lạ duy nhất lạc vào, lại ăn mặc lôi thôi, không giống ai. Tôi đã chú ý đến đám này ngay từ lúc đứng xếp hàng ở Tân Sơn Nhất, vì ông già nhà tôi (kẻ hay than phiền nhất thế giới) lầu bầu rằng mình đến trước mà bị người đến sau lấn chỗ, lời qua tiếng lại với một người đàn ông cao lớn như Tây, áng chừng là trưởng đoàn; thế là ông Tây ta tay dứ nắm đấm định đánh: “Thằng già điên, liệu hồn, muốn chết hử?”. Tôi vội vàng líu ríu xin lỗi, vì sợ ông lỡ tay đánh thật thì ông già nhà tôi ra ma ngay.
Từ lúc ấy tôi mới quan sát phái đoàn kỹ hơn: Các ông bà đều mặc quần áo đắt tiền, cười nói oang oang như chỗ không người (y hệt bọn Tây đi du lịch các nước nhược tiểu cách đây mấy năm về trước) giọng en-nờ, e-lờ lẫn lộn. Các bà vận áo đầm đúng mốt, phấn son sặc sỡ, ví vuy-ton loại mới, tôi chắc ví thật. Thứ ví đầm này chúng tôi ở bên Pháp đã ba đời, không đời nào dám mua, vì giá nó đắt bằng một tháng lương người trung lưu, nhưng hai con cháu ngoại tôi lại chê xấu, chúng bảo chỉ tuyền một mầu nâu xỉn và in toàn chữ LV viết móc vào nhau, không có gì sáng tạo. Bây giờ nhà vuy-ton cũng thấy nhược điểm ấy rồi, họ tân trang mầu sắc rực rỡ chẳng kém gì các mác khác. Điểm lạ ở đây là các phu nhân ăn mặc sang trọng như vậy nhưng tay họ lại vác đầy đồ: Các bà cầm những bó hoa thượng hạng, hoặc lệ khệ ôm đồ lễ, vàng mã, đèn nhang. Hoa cũng sang, thứ huệ trắng như tranh Tô Ngọc Vân. Hoa này bên Tây gọi là lys, mỗi bông cũng phải gần chục Euros, tôi chẳng dám mua bao giờ, trừ khi con cháu cho. Tôi không hiểu họ đi Côn Đảo làm gì mà lễ mễ mang theo những thứ lỉnh kỉnh này, chẳng lẽ tất cả mọi người đều có thân nhân chết trong tù, nhưng không dám hỏi, một phần vì vẫn còn sợ ông Tây ta, một phần vì thấy các bà cũng không có vẻ bình dân lắm. Ra khỏi sân bay, hai chúng tôi đi cùng xe ca lớn với họ về khách sạn, trên con đường duy nhất, dọc bờ biển, quanh co đồi núi, phong cảnh tuyệt vời. Xe vừa ra khỏi phi trường chừng cây số, đã thấy một bức tường cổ, tôi đoán chừng là tường thành Catchpoole.
Di tích này gắn bó với thời điểm lịch sử khi quân Anh xâm lấn nước ta đầu thế kỷ mười tám. Theo sử thì tháng 10 năm 1702, Allen Catchpoole đem tám chiến thuyền và hơn 200 quân đến chiếm Côn Lôn, lập đồn trại, gọi là thương điếm. Y tự phong cho mình chức Toàn quyền, hùng cứ, ra vào buôn bán như ở trên đất Anh vậy. Thời đó Anh nhất thế giới, chiếm xong Ấn Độ, họ lập công Ty Anh-Ấn, buôn bán khắp vùng, thực ra thì cái công ty này là giả mạo, bidon, nó chính là bộ chỉ huy của Hoàng gia Anh ở ngoài nước trá hình. Anh, Pháp khi đi đâu buôn bán thường kéo cả hạm đội theo, trên đã có sẵn quan “Toàn quyền”, Pháp còn mang cả ông cố đạo, để uỷ lạo tinh thần binh lính và khai hóa bọn man dân bản xứ. Đến chỗ đất nào, có vẻ vô chủ hoặc có rồi mà dân cư thưa thớt, không có lính bảo vệ, là họ nhào vô, xí đại, vì họ có sẵn ca-nông, lại có đủ mặt các quan (từ quan một, quan hai, đến quan năm) điều khiển, thì bọn bản xứ man ri mọi rợ nào dám chống lại. Chuyện ông Allen Catchpoole đại khái là như thế.
Sau khi ghé Tầu, không làm ăn gì được, ông bèn xuôi Nam, đến Côn Đảo thấy phong cảnh hữu tình, dân cư thưa thớt, bèn đổ bộ vào tháng tám năm Nhâm Ngọ tức tháng 10 năm 1702, sử mình viết rõ lắm: “Giặc biển là người Man An Liệt [các cụ phiên âm chữ English] có tám chiếc tầu đến đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô Thích Già Thi [các cụ phiên âm chữ Allen Catchpoole] năm người tự xưng là nhất ban, nhị ban, tam ban, tứ ban [tức là quan một, quan hai, quan ba, quan bốn] (…) cùng đồ đảng hơn hai trăm người, kết lập trại sách, của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác”. Trước một lực lượng hùng hậu như thế, các cụ phải chịu thua lúc đầu, vả lại lúc đó Quốc Chúa mới chiếm xong Thuỷ Chân Lạp, còn đang lo bình định. Hơn một năm sau các cụ mới “phản công” và dùng mưu Khổng Minh Gia Cát: Chúa Nguyễn Phước Chu, tức Quốc Chúa, thấy bọn giặc biển bấy giờ đã đã lập xong sự nghiệp thành trì, bèn sai Trương Phước Phan (cha Trương Phước Loan) xử lý vụ này. Phước Phan mộ 15 người Mã Lai cảm tử làm kế trá hàng, vào thành Catchpoole, đến đêm nổi lửa đốt thành, đâm chết quan một, quan hai, mở cửa cho quân Việt vào. Quan ba, quan tư trốn thoát. Bắt sống quan năm, tức Catchpoole, giải về kinh, dọc đường chẳng may ông ta bị chết (các cụ không nói rõ chết như thế nào). Quân Anh từ đó không dám bén mảng tới Côn Lôn nữa. Mà cũng không dám kêu ca gì với “quốc tế”, chỉ nói đại khái là bị quân Mã Lai “làm phản”. Có lẽ họ hơi ngượng. Một nhân chứng người Anh, là Finlayson, đến Côn Lôn 120 năm sau (1822) còn tìm thấy vết tích: “Cách bờ biển độ nửa dặm [800m], chúng tôi thấy tàn tích của công ty thương mại ngày xưa đã xây dựng trên đảo này“.
Tường thành Catchpoole?
Đi khỏi phi trường một lúc, chúng tôi nhìn thấy một tường thành dài chạy dọc theo đường xe đi, tôi không dám chắc đây là một phần tường thành Catchpoole, nhưng cứ chụp ảnh và ghi lại đây, hy vọng một ngày sẽ có nghiên cứu sinh trẻ quan tâm tìm kiếm, may ra xác định, hoặc tìm lại được dấu vết ở chỗ khác chăng? Điều này khả thể bởi vì Côn Đảo không bị chiến tranh tàn phá, các dấu tích đã còn lại từ 1822, có thể tiếp tục tồn tại đến bây giờ.
Tôi đến đây cũng còn vì một câu trong Đại Nam Nhất Thống Chí đã ám ảnh tôi hoài: “Khoảng năm Khang Hy thứ 46 [tức năm 1707, thực ra là 1702], người Hồng Mao lại mưu chiếm Côn Lôn, nhưng không dám ở gần núi, đến ven biển mà dựng phố xá. Vì Côn Lôn là chỗ bốn bể thông với các biển, nên chúng thèm nhỏ rãi không thôi”. Tôi thích nhất câu chúng thèm nhỏ rãi không thôi, nên đọc tới đó, trong bụng nguyện thế nào cũng phải đến tận nơi xem tại sao các cụ lại bảo: chúng thèm nhỏ rãi.
Côn Đảo dân cư thưa thớt, chắc không khác quang cảnh những thế kỷ trước là bao. Chúng tôi ở khách sạn nhà nước, giá rẻ, đó là một resort nằm trên bãi biển, đầy đủ tiện nghi, nhân viên tiếp đãi lịch sự, trong phòng khách nhìn ra biển có treo bức tranh vĩ đại Đầm Sen của Monet, nhưng người vẽ lại chia làm ba tấm, lồng khung ba lần. Tôi nói với em tiếp khách: cháu nhắc ông chủ ghép lại thành một bức thì mới đẹp, nhưng thấy nó cười cười vâng vâng dạ dạ, cho xong chuyện, chứ không chú ý lắm. Biển xanh ngọc bích, bãi cát mênh mông hệt như chúng ta thấy quảng cáo trên tivi, về những nơi được gọi là thiên đường hạ giới như Tahiti, Madagascar…
Côn Đảo nước tôi cũng là một thiên đường hạ giới, và tôi thấy các cụ nói đúng: bọn chúng đi qua phải thèm nhỏ rãi.
Phong cảnh Côn Đảo
Bây giờ tôi đang ở đây, trước cảnh trời nước bao la, cát trắng mịn, biển biếc, nước trong vắt nhìn thấy đáy. Khách sạn có cả phái đoàn đi cùng trên máy bay buổi sáng, nhưng không ai tắm, chỉ có hai chúng tôi. Không cảm tưởng nào êm dịu bằng. Trưa hôm đó chúng tôi ăn đồ biển lần đầu ở Côn Đảo. Ghẹ Hà Tiên đã kinh hồn rồi, đến Côn Đảo ghẹ còn ghê hơn, mà còn thêm bao nhiêu thứ khác, tôm, cá, sò, ốc, tôm hùm, mực, rùa biển… bạn không thể nhớ hết tên, cũng không nhận diện được hết cả, bởi cơ man nào… bạn chỉ cần chỉ tay vào hồ nước, bất cứ chủng loại nào, đều tươi, nhẩy, đầu bếp vớt ra xào nấu theo thực đơn. Tôi không nghĩ có thiên đường nào khác hay hơn, trên trái đất.
Bãi biển Côn Đảo
Chiều hôm đó chúng tôi lên xe điện đi một vòng thành phố, bé tí, nhưng cảnh đẹp vô cùng, lô nhô đầy quần đảo vây quanh. Nhà tù là phần chính của thành phố, cũng gần biển, bây giờ không giam ai nữa. Nắng gió, như món quà đến từ trời thổi về an ủi những linh hồn chỉ tìm được tự do sau khi chết.
Chúng tôi định nghỉ ngơi hôm trước và sáng sau đến nghiã trang Hàng Dương thăm mộ Nguyễn An Ninh, nhưng cậu guide bảo: Ấy, cô đến đây mà không đi Hàng Dương ban đêm thì kể như chưa đi Côn Đảo. Có gì vậy em? Bí mật, cô phải đến mới biết được. Mà phải mười hai giờ đêm mới linh. Tôi giãy nảy: cô sợ ma không đi đêm đâu và giờ ấy cô ngủ từ khuya rồi. Cậu trẻ nhất định: Thôi cháu đến đón cô chú 9 giờ tối vậy, sớm quá, ít người không vui. Tò mò thúc giục, tôi gật đầu.
Đúng chín giờ, xe điện đón chúng tôi chở đến cửa nghiã trang. Chúng tôi theo chân cậu guide, một cảnh tượng âm u hoành tráng hiện ra trước mắt: hai hàng dương liễu sừng sững trong bóng tối chập chờn dẫn vào nghĩa địa, một điệu nhạc đông tây giao hưởng giữa Requiem Mozart và bát âm cầu hồn, mời gọi người sống giao lưu cùng người chết. Tôi vốn tính sợ ma từ nhỏ, bấy giờ lạnh người, nổi da gà, chân tay rã rời không muốn bước, nhưng cũng không dám lui. Cậu guide đi trước, chúng tôi bám sát theo, được một lúc, cậu dẫn chúng tôi rẽ sang một con đường nhỏ, còn rùng rợn hơn: chúng tôi đi giữa hai hàng mộ, mộ áp sát chân, vừa áp đảo, vừa quyến rũ, tôi sợ dẫm lên mả, nhạc vẫn đi theo như mời gọi, kéo mình vào sâu hơn, sâu hơn… Tôi đi như người lên đồng, như kẻ bị ma làm, đụng một đám người đi trước, họ vui vẻ như trẩy hội chùa Hương.
Cậu guide quyết giữ bí mật đến phút chót, cuối cùng, một ngôi mộ rất lớn hiện ra: Mộ cô Võ Thị Sáu, lần thứ hai tên cô trở lại, từ hôm tôi về nước. Lần này cô không bị xỉ vả là người vô học mà cô được sùng bái như một nữ thần. Mặc dù có bảng: “Yêu cầu quý khách không đặt đồ lễ lên mộ”, vậy mà trên mộ đã bầy la liệt: vàng hương, bánh trái, hoa quả, như một ngày lễ tập thể cúng cô hồn. Tôi chụp vội vài cái ảnh vì trời chưa tối mịt và mới chỉ có ít người quanh mộ, họ bận rộn sắp đồ lễ, đốt nhang; quang cảnh vừa âm u vừa lạ lùng mà thân thuộc: trong đám đồ lễ có rất nhiều nón, chừng họ thương cô ở dưới ấy trời nắng gắt.
Mộ Cô Sáu
Người đến lễ đông dần quây kín mộ, tôi để ý toàn tiếng Bắc, không thấy tiếng Nam. Hoá ra lễ cô hồn cũng phân chia Nam Bắc, ai có thánh của người nấy. Tôi nhận ra phái đoàn đồng hành trên máy bay, vẫn quần áo lộng lẫy, các bà mặc váy xoa-rê, lóng lánh kim tuyến, riêng bà Đầm ta, vợ ông Tây ta, vận bộ váy dài trắng kết voan kiểu áo cưới Diana. Ông Tây ta mặc cốt-tuym, ka-vát, đầu đội nón nỉ vành cao Maurice Chevalier, rất bảnh. Nhìn thấy chúng tôi ở đây, mắt ông thân thiện hơn nhiều, cái nhìn có vẻ bao dung, chừng như âu yếm nữa. Nhiều người vào lễ, chen nhau khấn vái, có người khấn lâm râm, có người khấn rất to, tuồng như sợ kẻ bên cạnh lấn lướt, khiến cô Sáu không nghe được giọng mình. Đại khái họ cầu cô Sáu phù hộ cho họ lên quan tiến chức, cầu cô Sáu giúp họ trúng món thầu to…, khấn xong họ hể hả đốt vàng mã như để bảo cô: đấy nhá có tiền tiêu rồi nhá, bạc tỷ đấy chứ có ít đâu, nhớ mà phù hộ đi, đừng có quên đấy. Đồ lễ đem theo xác định vị trí của họ ở nóc nào trên các đỉnh đại gia. Đêm càng khuya, người đến lễ càng đông, khói nhang vàng mã ngộp thở mặc dù trời cao đất dầy và những ngôi mộ bạt ngàn trong nghiã trang nằm im, vô chủ, không nói, không hương, không khói, không thở.
Tôi thương cô Sáu. Tôi cũng khấn cô, mong cô phù hộ, để có một người khôn ngoan đốt cho cô cái máy tính, để cô thu hết những lời thành khẩn bên mộ, chia thứ tự mà thi hành theo đúng nguyện vọng từng người, đừng bỏ quên ai, nhất là những người như ông Tây ta cầu mà không thấy thiêng là ông đánh chết mất xác. Tôi cầu cô sống khôn chết thiêng, cô còn trẻ quá, cô chả biết những dàn cảnh âm u, nhạc cầu hồn, chẳng dành cho cô đâu, mà chỉ để lôi cuốn đám khách mê tín dị đoan, đi du lịch “tâm linh”, bay từ Hà Nội vào Sài Gòn rồi đổi máy bay ra Côn Đảo, ở đúng một đêm, sáng sau lại bay về Bắc. Họ tốn bạc triệu không để viếng cô đâu mà để cầu giầu, cầu sang, cầu thăng quan tiến chức.
Sáng hôm sau chúng tôi quay lại Hàng Dương thăm mộ Nguyễn An Ninh. Nghiã trang hiện ra trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật, đẹp hùng vĩ, xứng đáng là nơi an nghỉ của hàng ngàn người tù đã ngã xuống, trải bao thế hệ. Cảm ơn ban quản lý Côn Đảo đã xây dựng nghiã trang này. Mộ Nguyễn An Ninh nằm sâu trong nghiã địa, ông mất đã hơn bẩy mươi năm, nhưng vẫn trẻ như ngày nào; muôn đời vẫn giữ địa vị lãnh đạo thanh niên qua những tác phẩm, diễn ngôn ông để lại. Tôi thích ông vì ông là nhà cách mạng trẻ, chịu chơi nhất, để tóc dài từ năm 1920. Đẹp trai, sang Pháp làm tốp-mô-đen kiếm tiến để học và hoạt động chống Pháp. Cuối tuần ra rừng Boulogne, dượt đọc đít-cua tiếng Tây cho hùng hồn vì ông nói lắp từ nhỏ. Ông còn biết tạo kiểu mẫu áo nữa: Loại cổ cao, ông thiết kế từ năm 1920, không biết năm nào thì bị Mao cóp. Đến 1968, phong trào sinh viên nổi loạn chống “độc tài De Gaulle” do Daniel Cohn-Bendit cầm đầu, sao lại cổ áo lãnh tụ Mao thần tượng, gọi là mốt mao-ít, hay mốt híp-pi. Khoảng 1980, Karl Lagerfeld, cái ông người Đức, thiết kế hàng đầu của Pháp, giám đốc mỹ thuật nhà Chanel, vừa mới chết, sao lại bọn híp-pi lần nữa, chế biến chút đỉnh, được cả thế giới khâm phục. Nhưng mà xem ra tất cả các bản sao không bằng được bản chính. Bản của Karl Lagerfeld gượng ép lắm, nhất là ông ta lúc nào cũng ra bộ trịch thượng, mắt đeo kính dâm thầy bói, tay đeo găng như người cùi, cổ áo cao quá, chẹn lại, như bị ai bóp cổ sắp lè lưỡi, chẳng tự nhiên và sang trọng như cổ áo Nguyễn An Ninh sáng tạo cách đây đúng một thế kỷ. Tôi biết nước tôi có nhiều người xuất chúng, kể cả ở Côn Đảo, nên tôi coi Tây cũng thường thôi.
Nhà tù Côn Đảo
Trại Phú Hải
Nghĩa trang Hàng Dương
Hồ Hàng Dương
Cái tôi sợ nhất là Tây nó cười. Vì tôi cũng hay đì Tây: thằng con rể và thằng cháu ngoại, một thằng Tây thiệt, một thằng Tây lai, chúng đều cao gần hai mét, mỗi lần nói chuyện với tôi chúng phải gập đôi người lại như người Nhật. Với thằng Tây thật, tôi bảo: tổ tiên chúng bay sang nước tao làm bậy, đã chiếm nước người ta rồi còn biạ, vừa đánh trống vừa ăn cướp, bảo là để giáo hoá. Tao xem ra tổ chúng mày chỉ có vài công nhỏ, trong đó việc xây trường Mỹ Thuật Đông Dương là được, còn tất cả chả ra gì, không có chúng mày nước tao cũng làm được. Thằng con rể mắt xanh mặt nghệt ra. Còn mấy đứa cháu Tây lai, thì không biết tôi nói gì mà có đứa, bố là Tây thật, mà bốn tuổi đi học mẫu giáo, nhất định nó chỉ viết tên ta. Bà nội và cô giáo gọi nó tên Tây, nó lờ đi như gọi ai, không phải nó.
Tôi sợ Tây nó cười là như vầy: Tôi sẽ không bao giờ dẫn chúng đến Côn Đảo, vì có hai chi tiết nhỏ, nếu chúng biết chúng cười không phục người mình nữa: Tiểu sử cô Sáu, trong bảo tàng, bên tượng cô, người ta ghi cô bị bắt lúc 14 tuổi, rồi bị đầy đi Côn Đảo. Sau Cô Sáu bị Tây xử tử, ở tuổi 16, 17 gì đó và trước khi chết cô còn hô to câu gì như Việt Nam muôn năm kiểu Nguyễn Thái Học. Đọc đến đây, tôi khựng lại: Tây nó làm gì bậy thì mình không biết, chứ luật pháp của nó nghiêm minh lắm: Con nít vị thành niên là không đi tù, càng không bị xử tử. Hồi Nguyễn An Ninh còn học trung học, chuyên môn đánh Tây, mà có bị bắt bớ gì đâu, bắt về bót rồi nó thả ngay, và cậu công tử Hốc Môn ta ra khỏi bót lại đi đánh Tây tiếp. Vậy nên nếu tôi đưa cả thằng Tây thiệt và thằng Tây lai của tôi đến đây, chúng đọc được cái tiểu sử của cô Sáu thì chúng cười chết.
Nguyễn An Ninh
Lại thêm một chuyện này nữa, tôi có trong tay một tài liệu quan trọng là lá thư của viên bác sĩ Pháp phụ trách trại giam nơi Nguyễn An Ninh ở (là trại Phú Sơn, trại này lúc tôi đến thăm đang đóng cửa trùng tu) gửi cho Toàn quyền Pháp ở Sài Gòn yêu cầu chuyển ngay Nguyễn An Ninh về Khám lớn để điều trị vì ông bị bệnh phù thũng trầm trọng. Nhưng khi thư đến phủ Toàn quyền thì Pháp đã bị Nhật đảo chính, không còn quyền hành gì nữa, do đó lá thư không ai trả lời, và Nguyễn An Ninh đã chết oan vì hoàn cảnh chiến tranh, không phải vì thực dân tàn ác, bỏ đói khát, bệnh tật, như ta thường viết ở khắp nơi. Nguyễn An Ninh khi ở tù khám lớn, được Tây một điều Monsieur hai điều Monsieur tức là Thưa ông theo lời Phan Văn Hùm kể. Và ở Côn Đảo ông có phòng riêng trong trại Phú Sơn vừa xây xong.
Chưa kể tôi còn nắm thêm tài liệu tốt, từ người thân của ông: Tụi Nhật cũng muốn cứu Nguyễn An Ninh, nó sai người đến mời bà Ninh đi Côn Đảo cùng với nó để khuyên ông về lại đất liền, nhưng bà Ninh không đi (sau này người ta viết rằng vì bà cực lực chống Nhật). Tôi thì tôi không tin lắm vì tôi chắc lúc đó bà chưa có lập trường chính trị rõ ràng, và cũng đã nhiều năm bà không liên lạc với chồng nữa, vậy nếu bà có lập trường thì chắc là về tình cảm.
Tôi đến Bảo tàng Côn Đảo để hỏi xem họ còn giữ di tích tài liệu gì về Nguyễn An Ninh không, cho cuốn sách sẽ viết. Ví dụ những trang Nguyễn An Ninh viết trước khi chết, gửi lại cho các con như chúc thư tư tưởng, theo lời Hồ Hữu Tường kể lại. Nhưng đã không tìm được gì. Một người nhiều tuổi, khẽ bảo tôi: Còn gì đâu cô, hồi giải phóng, người ta đốt ba ngày không hết tài liệu. Tôi ngỡ ngàng buồn bã: Tại sao đốt tài liệu Côn Đảo, nếu đốt hết thì còn gì để chứng minh tội ác Thực Dân-Mỹ Ngụy, ngoài những hoạt cảnh tân tạo, bằng thạch cao mới nặn, bầy trong tủ kính? Bây giờ nước ta nhiều khách du lịch lắm rồi, và Tây đi du lịch là nó hay tìm những di tích lịch sử có liên can đến nó. Mình làm ăn không cẩn thận, Tây nó cười cho.
Mộ Nguyễn An Ninh
Còn một chuyện này nữa: đây là chuyện trong nhà: chuyện bà Phi Yến nhiều nơi truyền tụng. Bà Phi Yến được thờ ở An Sơn Miếu, một địa điểm du lịch quan trọng khác của Côn Đảo. Theo chính sử, tháng 7/1783, Nguyễn Ánh đóng quân ở Phú Quốc. Quân Tây Sơn do Phan Tiến Thuận chỉ huy tiến đánh. Lê Phước Điển liều mình cứu vua, quần thần và hoàng tộc nhiều người bị hại, Nguyễn Ánh chạy thoát ra phiá Côn Lôn (Côn Đảo).
Tháng 8/1783, Nguyễn Huệ lại sai phò mã Trương Văn Đa vây vùng Côn Lôn, nhờ bão thuyền Tây Sơn bị đắm, Nguyễn Ánh vượt vòng vây, đến đảo Cổ Cốt, rồi quay về Phú Quốc. Nghe tin Bá Đa Lộc ở Chân Bôn, Ánh sai người đến vời, trao quốc ấn cho Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh đi trốn.
Và đây là tóm tắt chuyện bà Phi Yến, ghi trên tấm bia đặt ngoài cửa An Sơn Miếu ở Côn Đảo: Bà Phi Yến tên thật là Lê Thị Răm, là thứ phi của Nguyễn Ánh. Năm 1783, Nguyễn Ánh chạy ra Côn Đảo, có ý định giao hoàng tử Cải, con bà Phi Yến, cho Bá Đa Lộc đưa sang Pháp làm con tin, bà khuyên Ánh không nên cầu cứu ngoại bang. Ánh bắt giam bà trong một cái hang ở đảo xa và đem hoàng tử Cải xuống thuyền chạy Tây Sơn, nhưng cậu bé khóc lóc đòi mẹ, bị Ánh ném xuống biển… Còn bà Phi Yến được hai thần vật là Vượn Bạch và Hắc Hổ cứu sống, sau bà lại bị một tên vô lại định cưỡng bách, bà nhẩy xuống biển để giữ tròn trinh tiết.
Chuyện Nguyễn Ánh gửi hoàng tử Cải cho Bá Đa Lộc xẩy ra cùng năm (1783) với chuyện Nguyễn Ánh gửi Hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc đem đi trốn. Vậy là năm 1783, Ánh gửi tới hai con, hai lần, cho Bá Đa Lộc?
Năm 1783, Ánh 21 tuổi. Vợ chính thức là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu, con gái quan Thái bảo Tống Phước Khuông, cưới năm Mậu Tuất (1778, lúc 16 tuổi) sinh hai con trai: Chiêu, chết sớm, và Cảnh sinh năm 1780. Từ năm 1780 trở đi, Ánh gặp toàn hoạn nạn, một mặt Tây Sơn tấn công không ngừng vì Nguyễn Huệ muốn tiêu diệt hết họ Nguyễn. Một mặt, gia đình Mạc Thiên Tứ (con trai Mạc Cửu), tuyệt đối trung thành, bị vua Xiêm nghi ngờ, giết hết cả thẩy 53 người. Chính Nguyễn Ánh phải giết Đỗ Thanh Nhơn, đệ nhất danh tướng, vì tội chuyên quyền. Quân Đông Sơn (thuộc hạ của Đỗ Thanh Nhơn) nổi loạn ở Ba Giồng. Mạn Hòe người Tây theo Nguyễn Ánh bị Nguyễn Huệ đốt cùng với tầu, chết cháy. Ánh và gia quyến chạy về Phú Quốc. Tháng 7/1783, Phan Tiến Thuận tiến đánh, Lê Phước Điển phải mặc áo bào theo Lê Lai liều mình cứu chúa. Anh em họ hàng Nguyễn Ánh bị giết cả. Ánh trốn thoát ra phiá Côn Lôn. Nguyễn Huệ lại sai phò mã Trương Văn Đa vây Côn Lôn, Ánh chạy vòng vo một hồi ở Côn Lôn rồi quay trở về Phú Quốc, hay tin Bá Đa Lộc đang ở Chân Bôn (Chantabun, Xiêm), bèn cho người vời Bá Đa Lộc về và trao hoàng Tử Cảnh cho Bá Đa Lộc đem đi trốn. Lúc đó chưa có ý định cầu viện Tây phương, Ánh chỉ sợ cả nhà bị bắt, địch giết mất con thì sẽ bị tuyệt tự. Phải hai năm sau, đến tháng 2/1785, sau khi Nguyễn Huệ phá tan quân Xiêm ở trận Rạch Gầm Xoài Mút, thế cùng cực, Nguyễn Ánh mới giục Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp.
Liệt truyện ghi rõ tên các bà hoàng, bà phi và các con của vua: Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu, có hai con, Chiêu, chết sớm và Cảnh, sinh năm 1780. Hy, hoàng tử thứ hai, không biết tên mẹ. Tuấn, thứ ba, mất sớm, tên mẹ là Chiêu Dương. Minh Mạng, tức Đởm, thứ tư, mẹ là Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu con gái Thọ Quốc Công Trần Hưng Đạt, v.v...
Không thấy ghi tên bà Phi Yến và hoàng tử Cải ở đâu, đã đành, bởi vì nếu Nguyễn Ánh “giết cả hai mẹ con”, thì khỏi nói rồi. Nhưng tôi không tin Ánh có “thì giờ” làm chuyện đó.
Từ lúc lên ngôi Vương, Ánh chạy Huệ suốt. Không thấy chỗ nào nói Ánh ra Côn Lôn nghỉ mát để lập phòng nhì. Đến lúc chạy ra Côn Lôn năm 1783, cũng không chắc Ánh có ghé vào đảo. Chưa có tài liệu nào chứng minh việc này. Mà nếu Ánh có ra Côn Lôn để cứu con rơi đi nữa, thì chắc cũng phải có vú nuôi hoàng tử, chứ đâu đến lượt vua phải tã lót, ru dỗ không nổi thằng bé, khiến nó khóc toáng lên, phải vứt nó xuống biển! Chưa kể bà Phi Yến vì khuyên Nguyễn Ánh đừng cầu viện Pháp mà bị Ánh giam trong hang tối. Lúc đó Ánh đã tính chuyện cầu viện gì đâu? Rồi bà Phi Yến lại được khỉ trắng và hổ đen cứu. Rồi bà lại xém bị tên vô lại hiếp. Rồi bà lại dại dột nhẩy xuống biển tự tử, thành ra ta không thể biết dấu tích bà đâu mà điều tra.
Người nào bịa chuyện này thực có óc tưởng tượng phong phú và chắc chắn phải ghét Gia Long và nhà Nguyễn lắm. Ghét đến độ nào? Từ lâu người ta đã lưu truyền câu Gia Long cõng rắn cắn gà nhà. Vậy câu chuyện này chỉ để biện minh cho giả thuyết vua Gia Long “bán nước”.
Tôi đọc đi đọc lại tấm bia sừng sững trước cổng Miếu, không tin được mắt mình: Một chuyện phong thần như vậy, kể lăng nhăng trên Youtube thì còn hiểu được. Vào Internet, bạn có thể thấy không chỉ một cô Răm mà còn cả mấy cô nữa, ở chỗ nọ, chỗ kia, khi vua chạy giặc, đã liều mình đem về nhà cho ăn cho uống, rồi còn liều thân hiến vua, vậy mà sau này vua vô ơn không thèm nhòm ngó. Nhưng chuyện cô Răm, được dựng thành bia, thành miếu thờ, thì có chỗ đáng ngại hơn.
Bia An Sơn Miếu
Ghét vua Gia Long đến như bọn Bissachère, Sainte-Croix ngày trước cũng không dám bịa chuyện Gia Long giết con, giam mẹ. Vậy sao tại chính đất Việt Nam, ở Côn Đảo này, hiện nay, vẫn còn tồn tại việc thờ bà thánh Phi Yến, cả mẹ lẫn con bị giết (một cách man rợ) bởi bàn tay vị vua xây dựng triều Nguyễn, mà ban Quản Lý Di Tích Côn Đảo, khi ký tên dưới những dòng chữ này, lại không nghi ngờ gì cả.
Côn Đảo có phong cảnh, khí hậu, hải sản, tuyệt vời.
Côn Đảo đã được các chúa ghi nhận là nơi bọn Tây dương thèm nhỏ rãi.
Vậy đâu cần huyền thoại, Côn Đảo vẫn là khoảng đất trời thần tiên của nước Việt ta.
III- Nha Trang:
Máy bay từ Sài Gòn ra Nha Trang đỗ tại phi trường Cam Ranh. Đường từ phi trường về Nha Trang là một xa lộ rất đẹp, không kém gì những đại lộ nổi danh trên thế giới mà tôi đã đi qua.
Trước khi về nước, tôi đã được đọc những bài báo mạng vô cùng khẩn cấp báo động việc người Tàu đang chiếm miền Nam, họ đã chiếm hết Nha Trang rồi, có một “phóng viên tại chỗ” chụp hình những cửa hàng trên bờ biển Nha Trang 100% là Tàu, y hệt như ở Hồng Kông hay Thượng Hải, vị “phóng viên” này còn cho biết, Nha Trang hiện đã cho tiêu tiền Trung Cộng. Ngoài những thông tin giật gân này lại còn có bài báo (vẫn trên mạng) mô tả chuyện người Hoa ăn thịt người, với chứng cớ đầy đủ: chụp hình mâm cỗ thịt người có món xào, món rán, món nấu ninh rựa mận, kèm bên cạnh là ảnh cô kiểu mẫu chân dài tóc mượt, mắt bồ câu, trước khi bị chặt làm cơm.
Chúng tôi đến Nha Trang không phải để kiểm tra những “sự kiện” này, vì khi về Sài Gòn và xuống miền Tây đã tìm chả ra mống Tầu nào, muốn ăn cơm Tàu, cũng khó kiếm, còn chuyện cô tốp mô đen mắt bồ câu bị cắt ra xào nấu, thì tôi chắc vị nào có cao kiến đem vụ việc lên Internet phải là người trí thức có đọc Thủy Hử và Lỗ Tấn, mới biết chuyện “người Trung Hoa ăn thịt người” mà minh chứng bằng hình ảnh. Nhưng ông (hay bà) này lại không coi chừng tụi nhà văn, họ nói vậy mà không phải vậy. Cụ Thị Nại Am kể chuyện hồi đó (tức là hồi 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc phất cờ khởi nghiã, nước Trung Hoa loạn lạc, cướp bóc, tham ô, giặc giã nổi lên khắp nơi, đi tới chỗ hẻo lánh nào cũng có quán rượu thịt người. Là cụ ấy cường điệu, muốn nói nước Tầu hồi ấy đầy dẫy trộm cướp giết người. Còn ông Lỗ Tấn nói đồng bào của ông ta ăn thịt người thì được, chứ kẻ nào không phải người Tầu dám nói như thế, vô phúc ông ấy biết được là ông ấy hiện về bóp cổ lè lưỡi ngay. Bởi ông Lỗ Tấn cũng dùng hình ảnh người Tầu ăn thịt người để chỉ một xã hội Trung Hoa hiện đại xuống dốc, người xâu xé người, chỉ muốn “ăn thịt” lẫn nhau; chuyện này áp dụng vào dân tộc Việt Nam hiện nay cũng không sai mấy đâu, tôi sẽ nói thêm ở dưới.
Chúng tôi đến Nha Trang trước hết để thăm thành Diên Khánh và kiểm chứng lại những điều người Pháp thực dân rêu rao khắp nơi và các sử gia của mình cũng y nguyên chép lại: Diên Khánh là thành Vauban do Pháp xây. Để xem tận mắt cái “thành Vauban” đó nó như thế nào.
Cửa Đông Diên Khánh, Wikipédia, có bia
Bia Diên Khánh, 2004, Wikipédia
Diên Khánh, trước kia chỉ là một đồn nhỏ có tên Hoa Bông, Nguyễn Ánh hành quân qua thấy vị trí tốt, bèn chọn làm cứ điểm địa đầu để chống Tây Sơn: mỗi lần từ Sài Gòn ra đánh Quy Nhơn có chỗ nghỉ chân và cũng là nơi rút về khi thua trận. Tháng 10/1793, Tôn Thất Hội và Vũ Viết Bảo được lệnh vua đắp thành. Theo sự mô tả của Lê Quang Định (trong Hoàng Việt Nhất Thống Địa Dư Chí) thì Diên Khánh là thành đất, cao hơn 4 mét, chu vi hơn hai cây số. Thành hình tứ giác, bên trong có núi đất, ngoài thành có hào, có cửa trại, phía trước có cầu treo bắc ngang trên hào. Thành có sáu cửa: phiá Nam và phía Đông, mỗi phiá một cửa, phía Tây và phía Bắc, mỗi phía 2 cửa.
Thành Diên Khánh cách Nha Trang khoảng 10 cây số, bây giờ còn lại hai cửa Đông và Tây là chính. Trên cửa thành có lầu. Hào đã bị lấp, không còn cầu treo, nhưng thành vẫn sừng sững, trải 224 năm sau khi đắp. Một phần tường thành còn nguyên vẹn.
Tường thành bằng đất, cao khoảng bốn mét đúng như Lê Quang Định mô tả, vững như chân vại, điều này giải thích tại sao quân Nguyễn Ánh chặn đứng được những cuộc tấn công ác liệt của Trần Quang Diệu. Hai cửa thành và phần tường thành còn lại xác định Diên Khánh không phải là thành Vauban, không có một nét gì của Vauban cả (xem hình 3, 4, 6 và 7).
Đứng trên tường thành, ta thấy rõ vị trí chiến lược của Diên Khánh: ngoài hào (đã bị lấp) và tường thành, còn một vòng thành thiên nhiên kiên cố hơn nữa, đó là vòng núi quây tròn khép kín chung quanh, bảo vệ Diên Khánh (hình 6). Sự chọn vị trí, chứng tỏ tài binh lược của Nguyễn Ánh: Tây Sơn muốn tấn công phải vượt qua những rặng núi trước, rồi mới lọt vào được vòng trong, vì thế Diên Khánh chưa bao giờ bị thất thủ như Quy Nhơn (tức Bình Định).
Khi viết cuốn Vua Gia Long và người Pháp, tôi phải đọc tài liệu để chứng minh Diên Khánh là thành đất, do Tôn Thất Hội và Vũ Viết Bảo đắp. Nhưng bây giờ đến đây, đứng trên thành đất này, thì không cần tài liệu gì cả: sự thực hiển nhiên thành đất Diên Khánh hiện ra trước mắt đúng theo lời mô tả của Lê Quang Định.
Xin nhắc lại, Lê Quang Định viết rất rõ, từ năm 1802 trong Hoàng Việt Nhất Thống Địa Dư Chí, rằng: Diên Khánh là thành đất, cao hơn 4 mét, chu vi hơn hai cây số. Thành hình tứ giác, tức là hình vuông.
Vậy mà, trên Wikipédia tiếng Việt (tôi nói Wikipédia tiếng Việt, ai cũng biết, chứ chỗ khác họ cũng in như thế) in bản đồ thành Diên Khánh hình cá chép, có nhiều góc nhọn nhô ra khỏi tường thành, đặc biệt theo kiểu kiến trúc Vauban (Vauban tạo những chỗ nhô ấy để lính canh có thể nhìn xa hơn, không bị tường thành che lấp) (hình số 5). Từ đâu lọt ra cái thành Vauban hình con cá này? Vì đứng trên tường thành ta thấy rõ: thành hoàn toàn làm bằng đất, không có sự xây cất nào, trừ cửa thành. Tôi chụp thêm tấm ảnh: đứng trên tường thành ta nhìn thấy một góc quẹo, và góc này đúng là góc vuông (hình số 7). Tóm lại, tường thành thẳng tắp không có gì nhô ra như thành Vauban và thành Diên Khánh hình vuông.
Wikipédia còn chụp ảnh cửa Đông có dựng tấm bia (hình số 1), trên bia ghi Diên Khánh là thành Vauban (hình số 2). Khi chúng tôi đến nơi, vào tháng 11/2017, thì thấy ban bảo quản di tích lịch sử thành phố Khánh Hoà đã cho dỡ cái bia ấy đi rồi, không còn dấu vết nó ở cửa Đông hay cửa Tây nữa (hình số 3 và số 4). Một quyết định quan trọng, chứng tỏ nhà chức trách Khánh Hòa rất quan tâm đến sự đúng đắn của lịch sử.
Cửa Tây Diên Khánh, tháng 11/2017, không có bia
Cửa Đông Diên Khánh, tháng 11/2017, không có bia
Khi ra Hà Nội và Sơn Tây, chúng tôi thấy ban phụ trách di tích hoàng thành Thăng Long và cổ thành Sơn Tây vẫn còn trưng bày thứ bài bản sai lầm chép lại tài liệu của sử gia thuộc địa: Hà Nội và Sơn Tây là thành Vauban do Pháp xây! Thậm chí ở Hà Nội, tôi còn được nghe một bà guide nói tiếng Pháp rất thạo, thao thao bất tuyệt về công ơn nước Pháp đã xây thành Vauban Hà Nội. Đám du khách Tây nghe gật gù sung sướng, đấy đấy, chúng mày không nhờ chúng tao khai hoá là gì? Tôi định cãi lại: bác ơi, thành Thăng Long ngày trước là do ông Nguyễn Văn Thành lúc đó làm Tổng trấn Bắc Thành đắp khoảng 1804-1805, rồi năm 1835, vua Minh Mạng cho xây lại, theo lối thành trì của nước mình đấy, chứ có Vô băng vô biếc gì đâu. Nhưng cũng chẳng nỡ phá đám bà. Vả lại lỗi là ở ban quản trị công trình Hoàng thành Thăng Long chứ có phải lỗi nhà bác guide đâu. Danh sách các thành trì xây dựng trên nước mình (Sơn Tây do Minh Mạng xây năm 1822, Hà Nội do Minh Mạng xây năm 1835) đều in trong Hội Điển cả, mà ta không chịu đọc, cứ lười biếng chép lại cái sai của Pháp mãi.
Tôi quý nhà chức trách Khánh Hoà, đã bỏ cái biển ghi Diên Khánh là thành Vauban, là vì vậy.
Bản đồ một kiến trúc Vauban, 
được gán cho Diên Khánh, Wikipédia
Vị trí chiến lược của Diên Khánh
Đường thành Diên Khánh, góc vuông
Cách cửa Tây của Diên Khánh vài trăm mét có nhà thờ Hà Dừa rất đẹp, nhưng không mấy ai biết đến. Hà Dừa là một trong những ngôi nhà thờ cổ hiếm hoi còn sót lại, bên trong hoàn toàn kiến trúc theo lối Việt: ghế ngồi của các thầy giảng là ghế bành, chạm khắc lối xưa. Những cột gỗ cao vút của nhà thờ còn nguyên, chắc bằng gỗ lim, đánh bóng mầu huyết dụ, tuyệt đẹp, chứng tích của sự giao lưu văn hoá Pháp-Việt, thể hiện qua kiến trúc nhà thờ tây phương làm theo lối đình chùa của ta, đặc biệt ở Việt Nam. Nhà thờ hơi tối vì cửa đóng kín có lẽ để cản ánh sáng, nhờ vậy mới giữ được đồ gỗ cổ còn tốt nguyên. Vì thiếu ánh sáng nên ảnh chụp không rõ lắm, phải đến đây, nhìn tận mắt mới thấy sự khéo léo và vô cùng tế nhị trong nghệ thuật đồ gỗ của dân mình. Ra Bắc, tôi sẽ còn thấy một kiệt tác nữa, thật hoành tráng là nhà thờ Phát Diệm ở Ninh Bình.
Nhà thờ Hà Dừa
Điện thờ Hà Dừa
Bên trong nhà thờ Hà Dừa
Nha Trang hiện nay là một thành phố tân tiến, những dấu vết hoang sơ của một Nha Trang ngày về, mình tôi trên bãi khuya… trong nhạc Phạm Duy, đã xa rồi. Một thế hệ trẻ đang lên, thế hệ của những người xây dựng nên thành phố mới này.
Chúng tôi ở khách sạn sát bờ biển, trên đường Trần Phú, khu đông vui nhất, có thể ví với đại lộ Lối dạo của người Anh (Promenade des Anglais) ở Nice. Nha Trang có nhiều điểm giống Nice: Nước biển cùng mầu ngọc bích trong vắt như pha lê. Vịnh Nha Trang hình bán nguyệt hơi giống Vịnh Thiên Thần (Baie des Anges) ở Nice, nhưng bãi biển Nice toàn sỏi, đi đau chân, Nha Trang cát mịn, vuốt ve chân người. Bãi biển không chỉ ngừng ở Nha Trang mà chạy dài suốt dọc bờ biển Khánh Hoà. Bãi biển Khánh Hoà, không chỉ ngừng ở Khánh Hoà, mà chạy dài suốt cả miền Trung… Hơn hai ngàn cây số bờ biển, chưa kể đảo và quần đảo, đó là lợi thế du lịch có một không hai của đất nước ta.
Đường Trần Phú, không có hiệu Tàu
Vịnh bán nguyệt Nha Trang
Ngoài cát trắng, miền Trung còn dẫy Trường Sơn chạy dọc bờ biển, tạo những vũng, những khe, những cồn cát, những mỏm đá… phong cảnh tuyệt vời, trùng trùng điệp điệp, như thể trời đất ban cho vùng quê nghèo đất cầy lên sỏi đá đầy bão táp lụt lội này một nguồn lợi thứ hai để sinh sống. Và dường như người mình hiện nay đã nắm bắt được nguồn lợi thiên nhiên đó: Những khách sạn và những resort mọc lên như nấm. Tất nhiên nhiều người không thích vì cho rằng đã triệt tiêu quang cảnh cũ. Hoặc chê là làm bậy phá hoại môi trường. Tôi không rõ lắm về vấn đề sinh thái nhưng thấy rõ ràng những khách sạn, những resort này cung cấp công ăn việc làm, cho bao nhiêu thiếu nữ, không còn phải nhúng chân xuống ruộng bùn đầy điả cấy lúa dưới nắng mưa, cũng không phải chạy sang Hồng Kông, Ma Cao kiếm chồng. Họ làm việc trong phòng lạnh của các khách sạn đắt tiền, thường thường mỗi em làm hai job, ở hai khách sạn khác nhau, lương đủ sống.
Trong khách sạn, bạn chạm trán với nhiều người da vàng, phần lớn là Tầu, không phải Nhật. Các cô chiêu đãi thấy chúng tôi bèn nói tiếng Anh, tôi bảo phải nói tiếng Việt chứ, em cười: cháu tưởng cô người Tầu, vì ít có khách Việt vào đây. Đến Nha Trang mới thấy sự sang trọng của những khách sạn lớn, loại như thế này, ít thấy ở Pháp, lại với giá rất phải chăng, khoảng độ bốn mươi, năm mươi đô la một phòng, kèm bữa sáng đầy đủ các thức ăn tây ta, tha hồ mà chọn. Ngày trước đến Thái Lan tôi đã khâm phục, bây giờ thấy mình cũng làm được như thế, tôi rất mừng. Nha Trang cũng là nơi tổ chức những hội thảo, cho nên khách sạn có những phòng khánh tiết mênh mông, tôi hỏi em tiếp viên: có dùng đâu đến những phòng này, em bảo có chứ cô, những hãng lớn họ thuê để hội họp, thường xuyên.
Về sau, tôi nhận thấy: Mỗi thành phố có một loại du khách ngoại quốc: Hội An đầy Nhật. Hà Nội đầy Pháp và Nha Trang đầy người Hoa, như thể những người ngoại quốc này đã chọn ưu tiên miền đất du lịch đã gắn bó với họ từ trước. Hội An gắn bó với người Nhật là phải, vì đây là thành phố do người Nhật đến buôn bán dựng nên phố Nhật từ đầu thế kỷ XVII. Còn Hà Nội gắn bó với người Pháp cũng dễ hiểu vì Hà Nội là thủ đô của Đông Dương Pháp.
Riêng người Hoa, theo lịch sử, có thể gắn bó với ba nơi: Chợ Lớn, Biên Hòa và Hà Tiên. Năm 1679, các tướng người Minh gốc Quảng Tây là Long Môn, Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Cao Lôi Liêm và Trần Bình An, chạy nhà Thanh, đem 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung (tức Tư Hiền) vào Đà Nẵng “xin làm tôi tớ”. Chúa Nguyễn Phước Tần không nỡ từ chối, nhưng ông lấy cớ “ngôn ngữ bất đồng” nên cho họ vào đất Đông Phố (tên xưa của Gia Định) lúc đó còn thuộc nước Chân Lạp khai hoang và lập nghiệp và chuá ra lệnh cho vua Chân Lạp phải đón tiếp. Những người Hoa này đóng ở Bàn Lân (thuộc Biên Hoà), họ xây dựng nên vùng Biên Hoà, Chợ Lớn ngày nay. Một đám khác, gốc Quảng Đông, tức là đám Mạc Cửu, thời chúa Nguyễn Phước Chu (1691), chạy xuống phiá nam khai khẩn vùng đất Hà Tiên rồi dâng chuá (1708).
Nhưng có lẽ người Hoa đi du lịch hiện nay không tha thiết lắm với lịch sử hoặc vì họ không biết tổ tiên họ đã đến những vùng này lập nghiệp, nên họ chọn Nha Trang là nơi biển đẹp, nước ấm và gần đất Tầu. Anh guide cho tôi biết: tháng 11-12 là tháng của người Nga và người Tầu “xuống” Nha Trang tắm biển. Còn mùa hè, người Âu mới sang. Vậy du khách ở đây, nếu da trắng là người Nga mà da vàng là người Tầu, mùa đông chạy cái lạnh ở nước họ.
Chúng tôi ngạc nhiên vì không thấy một cửa hàng Tầu nào trên đại lộ Trần Phú, ven biển (hình số 11). Đi vào mấy phố bên trong, lác đác có vài tiệm chen lẫn với những cửa hàng ngoại quốc khác. Buổi tối, chúng tôi xuống đường tìm quán ăn dọc bờ biển, một thanh niên lái xích lô điện dừng lại mời: Cô chú đi ăn phải không? Lên xe con chở sang bên kia, khu người mình, rẻ lắm, chỗ này họ bán cho Nga, Tầu, mắc mà dở. Chỉ mất có 20.000 đồng tiền xe, đi dọc bờ biển chừng hai ba cây số, là tới khu hàng quán người Việt, bình dân, đông đảo, hải sản thật tươi, mừa mứa, ngon và rất rẻ. Ở đây, chỉ có người Việt và một số người Nhật, chứ không có người Tầu. Hoá ra thế giới đã chuyển hướng thật rồi: bây giờ người Nhật không còn đứng đầu nữa, mà là người Tầu. Điều này tôi đã nhận thấy rất rõ ở Pháp, ngày trước các nơi buôn bán, bảo tàng… người ta đều đề thêm tiếng Nhật, bây giờ họ bỏ tiếng Nhật, đề tiếng Tầu, và ở các cửa hàng lớn như Au Printemps, Galeries Lafayette, những mác sang đều có người bán hàng nói tiếng Tầu nữa.
Dường như đây là quy luật chung, đâu cũng thế: dân Paris không lên đại lộ Champs Élysées hay dân Nice không đến Promenade ses Anglais sắm đồ hay ăn hiệu, họ dành những chỗ sang trọng đó cho người ngoại quốc, ưu tiên là khách Ả Rập và Tầu (ngày trước là Nhật). Ả Rập và Tầu mua các dinh thự ở đại lộ đẹp nhất thế giới Champs Élysées, ở công trường Vendôme, quảng trường Concorde. Tầu mua hải cảng Hy Lạp, mua cả những vùng lâu đài và đất sản xuất rượu vang và mua phi trường Toulouse của Pháp… cũng không thấy người Pháp than phiền gì và họ cũng không lo Tàu, Ả Rập chiếm nước Pháp.
Nước ta lại còn có cả kinh nghiệm từ bao đời trước: chúa Nguyễn giang tay đón nhận người hàng ngàn người Minh Hương, cho vào phần đất chưa phải là Việt Nam, và nhờ người Minh Hương khai phá mà ta có những thành phố Biên Hòa, Hà Tiên… Dĩ nhiên ta không quên việc người Tầu chiếm Hoàng Sa, nhưng một vùng có dầu hoả thì làm sao cản được lòng tham của con người? Côn Đảo chỉ có vị trí chiến lược và hải sản quý mà còn bị Anh chiếm. Hiện nay, ta không có phương tiện làm một cuộc chiến với Tầu, vậy phải tìm cách khác, tức là khai thác khả năng tiêu dùng của những du khách rủng rỉnh đến từ lục điạ Trung Hoa. Người Pháp đã làm và dường như Nha Trang cũng đang nhìn thấy khiá cạnh ấy, ta nên khuyến khích hơn là đạp đổ, tẩy chay.
Ngày trước, bên cạnh Sài Gòn là Chợ Lớn, toàn Tầu là Tầu, cần gì ta “dô” Chợ Lớn. Ăn cơm Tầu, dô Chợ Lớn. Cha tôi làm nghề Đông y, phải mua vị thuốc bắc, cũng vô Chợ Lớn. Trước cửa nhà tôi, bên kia đường có chú Tầu, chúng tôi gọi đùa là chú Chệt. Chú Chệt hiền khô, chú bán chạp phô, trong căn nhà trệt rộng chín mét vuông, vừa làm cửa hàng, vừa là chỗ ăn chỗ ngủ. Khi lấy vợ, chú làm thêm cái gác lửng. Chú sống căn cơ, suốt đời chỉ quần đùi, may-ô, hai đứa nhỏ con chú ở trần, quần xà-lỏn, đầu trọc lốc, đầy mụn lở. Chú hà tiện nước, ít tắm, thường ngồi trước cửa tiệm vo ghét khô búng ra đường. Người chú bốc ra sự nghèo khổ, đáng thương vô cùng. Thế mà mẹ tôi kể, khi cách mạng vào, khám nhà chú, lòi ra bao nhiêu ký vàng, chú bị lôi sộc đi, vì tội tư sản mại bản. Uất quá, chú tự tử. Ngoài chú Chệt, trong xóm Bàn Cờ, tôi còn quen mấy chú Tầu khác, bán mì, bò viên, bò khô. Có tiền là tôi phóng ra đánh ngay một chầu. Các chú ấy nay đã phiêu bạt cả, hồn ở đâu bây giờ? Không ai còn cái thú ăn quà vặt rất Tàu ấy nữa. Khi về Sài Gòn, chúng tôi muốn tìm một quán ăn Tầu, cũng không kiếm ra.
Thời Chợ Lớn gần chúng ta, nhưng xa hơn nữa là thời Gia Long, các quan đại thần giúp vua dựng nước như Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh… đều là học trò của Võ Trường Toản, đều là người Minh Hương cả: Trịnh Hoài Đức, tác giả Gia Định Thành Thông Chí, một thứ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của miền Nam. Lê Quang Định, tác giả Hoàng Việt Nhất Thống Địa Dư Chí, cuốn sách địa dư đầu tiên của nước ta, viết từ năm 1802, sau này Hoàng Lê Nhất Thống Chí dựa vào rất nhiều. Nhờ Lê Quang Định mô tả thành Diên Khánh mà ta biết được thành Diên Khánh hình vuông, đắp đất, là sản phẩm hoàn toàn Việt Nam.
Tôi thật không hiểu từ đâu phát xuất sự căm thù người Tầu hiện nay. Nói rằng từ vụ Hoàng Sa, Trường Sa ư? Chắc không hẳn thế. Tôi có người bạn quen biết đã hơn bốn mươi năm, anh vẫn thường chuyển cho tôi những thông tin giật gân, kiểu miền Nam đã bị Tầu xâm chiếm, trong nước bây giờ họ bán gạo plastique, Tầu đã chiếm xong Nha Trang, về nước ăn xoài thấy ngọt, hóa ra bên trong hột bằng plastique, đừng có dùng nước mắm Phú Quốc, làm toàn cá thối Formosa, phải ăn nước mắm Thái Lan; chớ ăn bún, bánh tráng của Việt Nam bây giờ làm bằng plastique…
Cái vụ hột xoài bằng plastique ai nghĩ ra thì xin bái phục là thiên tài. Khi tin về gạo plastique từ bên Mỹ tràn sang Paris, nghe mọi người xì xào; tôi mới hỏi: nước mình một năm hai vụ luá, có nơi tới ba, cần gì phải làm gạo plastique cho tốn kém, họ trả lời ngay: không, có phải mình đâu, Tàu đấy, Tang Frères đang yết bản ai mua phải gạo plastique mang đến đây họ đổi cho cơ mà. Tôi bèn ra Tang Frères hỏi: ông có bán gạo plastique à? Người Tầu trợn mắt nhìn tôi khinh bỉ như Tây thuộc địa nhìn mọi cà răng căng tai, không thèm trả lời, nguýt dài một cái rồi quay đít đi ngay.
Khi cao trào chống Tầu lên đến cực điểm, ở trong nước có người đưa ra ý kiến bất hủ: vì tổ quốc, kêu gọi bỏ học chữ Hán. Tôi thương anh Tạ Trong Hiệp, sinh thời anh đã dành 10 năm (1983-1993) để cộng tác thành lập bộ sách song ngữ đồ sộ Di Sản Hán Nôm Việt Nam Thư Mục Đề Yếu (Catalogue des livres en Hán Nôm), ba tập, 2642 trang, khổ 25x16cm, do nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, in năm 1993. Đây là công trình chung của Viện Hán Nôm và Viện Viễn Đông Bác Cổ ghi lại Thư mục Hán Nôm từ đời Lý Trần đến ngày nay.
Trong bài Dẫn luận giáo sư Trần Nghiã, Viện Trưởng Viện Hán Nôm cho biết: Các kho sách Hán Nôm lần lượt được thành lập, từ khi người Việt dùng chữ Hán và chữ Nôm để ghi chép. Nhưng từ thế kỷ XI trở về sau các kho thư tịch Hán Nôm công cũng như tư xuất hiện mỗi lúc một nhiều. Những kho sách nổi tiếng đã từng hiện diện tại Việt Nam được liệt kê ở đây gồm 14 kho, bắt đầu là Nhà bát giác chứa kinh, thành lập năm Tân Dậu (1021) dưới triều Lý Thái Tổ và sau cùng là Thư Viện Viện Cổ Học, thành lập năm 1922.
Viện Hán Nôm quản lý 5038 đầu sách và khoảng 30.000 đơn vị tư liệu. Các phông sách Hán Nôm ở nước ngoài gồm có: Nhật, Ý, Anh, Thái Lan, Hoà Lan, và Pháp. Tập sách Thư Mục Đề Yếu này kê khai nội dung tất cả những sách hiện còn giữ ở Viện Hán Nôm Hà Nội và một phần ở Pháp và các nước ngoài. Một di sản văn hoá mênh mông như vậy, ta đã dịch được bao nhiêu cuốn ra quốc ngữ? Anh Tạ Trọng Hiệp mất năm 1996. Anh Ngô Đức Thọ, một trong những người có công đầu về việc dịch sách chữ Hán sang quốc ngữ, mới mất ngày 30/4/2019. Nếu từ nay, sinh viên không ai học chữ Hán nữa, thì làm sao ta có đủ chuyên viên để dịch chín thế kỷ văn học nước ta sang quốc ngữ mà đọc?
Khi tôi đi Việt Nam về đến Paris, anh bạn trí thức lớn mà tôi đã nhắc đến ở trên, vẫn tiếp tục gửi những loại thông tin bài Trung Quốc, bài hàng hoá Việt Nam. Tôi bảo thôi ông ơi, đừng có gửi những tin bậy bạ mãi, ông về nước mà xem tận mắt đi, làm gì có. Thế là anh nổi đoá choảng cho tôi một trận: Này, bà mới về có một lần làm sao mà biết được hết, tôi về gần hai chục lần rồi, tôi làm việc với họ bao nhiêu năm trời, tôi quen toàn những người có điạ vị cả… Thế là tôi tịt luôn, tôi đâu có quen lớn như anh, tôi mới ngộ ra rằng: hóa ra tôi không biết là anh về nước đã gần hai chục lần, anh kín tiếng thật, hoá ra anh âm thầm “làm việc” với “tư bản đỏ”… nào đâu tôi có biết. Anh sang Pháp đã lâu, như tôi, từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, anh không phải đi tù cải tạo, anh không phải vượt biển, vậy mà sự căm thù của anh thật là sâu sắc… phải chăng chỉ để che dấu câu chuyện anh về nước “lậu”?
Anh học trường Tây, anh có coi cái tiếng Việt ra gì, anh không bao giờ đọc Bình Nguyên Lộc, nhà văn sinh ở Tân Uyên, đất của người Minh Hương, đã đứng trên tất cả mọi tranh chấp, dị biệt, suốt đời biện hộ cho tình nhân loại, cho sự yêu thương hòa hợp giữa các dân tộc: Việt, Hoa, Chàm. Bởi vì Bình Nguyên Lộc đã biết trước, nếu chỉ còn hận thù thì sớm muộn, mình cũng sẽ trở thành người Trung Hoa ăn thịt người của Lỗ Tấn của Thị Nại Am.

IV- Phú Yên
Từ Nha Trang chúng tôi đi dọc bờ biển Phú Yên lên Quy Nhơn, qua Vạn Giã, Đại Lãnh, Tuy Hòa… cảnh đẹp vô cùng, bao ghềnh đá, đầm, vịnh, mỏm, bãi… không bút nào tả hết được.
Phú Yên là vùng đất địa đầu phía Nam mà chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1600-1613) đã chinh phục đầu thế kỷ XVII. Biên giới phía Nam lúc bấy giờ tới Đèo Cả. Năm 1611, Nguyễn Hoàng mới đặt phủ Phú Yên, cho Văn Phong (không rõ họ) làm Lưu thủ. Năm 1629, dưới thời Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), Văn Phong làm phản, bị Nguyễn Phước Vinh (con trai Mạc Cảnh Huống và con rể Chúa Sãi, vì có công nên được đổi thành họ Nguyễn Phước) dẹp tan. Chúa Sãi lập thêm Trấn Biên (Khánh Hòa ngày nay). Nhà thờ Hà Dừa ở Nha Trang, có phong cách của những nhà thờ đầu tiên trên đất Việt (theo sự mô tả của giáo sĩ Cristoforo Borri ở dưới) vì có những cột toàn bằng gỗ lim, thổ sản vùng này.
Gành Đá Đĩa ở Phú Yên là một thắng cảnh rất lạ, đó là một quần đá, có đến hàng vạn điã đá chồng chất lên nhau, với những hình thù kỳ dị ngoạn mục.
Bãi biển Đại Lãnh
Đầm Ô Loan dưới chân đèo Quán Cau 
thuộc địa phận huyện Tuy An, Phú Yên
Gành Đá Đĩa
Nhưng về di tích tôn giáo, đáng kể là nhà thờ Mằng Lăng.
Nhà thờ Mằng Lăng ở Phú Yên, không cổ như Hà Dừa, nhưng bên cạnh nhà thờ có một cái hang là nơi thờ phụng á thánh André Phú Yên và lưu trữ một bản cuốn sách song ngữ Việt-La Cathechismus (Phép giảng tám ngày) của Alexandre de Rhodes, xuất bản tại La Mã năm 1651. Tinh Việt in lại tại Sài Gòn năm 1961. Bản lưu trữ ở đây là bản in ở Sài Gòn, những chữ quốc ngữ cổ đã bị sửa, không viết theo bản gốc, nên đối với việc nghiên cứu ngữ học, không có nhiều giá trị.
Nhà thờ Mằng Lăng lập trên địa phận được coi là quê hương của á thánh André Phú Yên, người thầy giảng bị tử hình đầu tiên ờ Đàng Trong. André là tên thánh, Phú Yên là tên quê quán. Sau này linh mục Cadière tìm được tên Lý, không biết là tên hay họ, sẽ nói đến sau. Nhưng ở Phú Yên, người ta không tìm được tên thật của người thầy giảng Việt Nam đầu tiên bị hành hình ngày 26/7/1644, ở tuổi 19, tại Thanh Chiêm (Dinh Chàm) thủ phủ tỉnh Quảng Nam (nay không còn nữa, nhưng thuộc điạ phận Phước Kiều, Hội An), mà Alexandre de Rhodes đã tham dự, và ông viết bài tường thuật việc này để đánh động dư luận và ông đem thủ cấp của André về La Mã để báo cáo với Giáo hoàng tình trạng người Việt muốn theo đạo, nhưng các chúa Đàng Trong và Đàng Ngoài đán áp dã man, và đây là chứng cớ.
Nhà thờ Mằng Lăng
Gần đây có phong trào tôn vinh tột độ Alexandre de Rhodes, coi ông là cha đẻ của chữ quốc ngữ, đã mở mang đầu óc cho dân ta, nhờ chữ quốc ngữ mà ta đến được với thế giới bên ngoài, tiếp thu được văn minh Tây phương… Người ta tổ chức đi hành hương sang Iran, đến viếng mộ Alexandre de Rhodes như đi lễ Đền Hùng, đền Đức Thánh Trần…
Vì vậy cần tìm hiểu lại xem Alexandre de Rhodes là ai? Ông có công gì với nước Việt và người Việt? Nhưng muốn hiểu rõ hành trình của de Rhodes, phải trở lại giai đoạn trước khi de Rhodes đến Đàng Trong, tức là thời kỳ đầu tiên đạo Thiên Chúa truyền vào Việt Nam và sự phát sinh ra chữ quốc ngữ.
Bài viết này chia làm hai phần: Phần đầu trình bày Ký sự của giáo sĩ Cristoforo Borri (1583-1632), người đến Đàng Trong năm 1618, và là tác giả duy nhất mô tả kỹ càng xã hội Đàng Trong thời chúa Sãi và thời kỳ truyền giáo đầu tiên ở nước ta, giai đoạn trước khi Alexandre de Rhodes (1651-1660) đến Đàng Trong (12/1624). Phần thứ hai, trình bầy hành trình của Alexandre de Rhodes ở Đàng Trong và Đàng Ngoài và sự vận động của ông với Roma sau khi rời Việt Nam.
Ký sự Đàng Trong của giáo sĩ Cristoforo Borri
1- Cristoforo Borri
Khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa (1558), ông lập Dinh ở Ái Tử rồi sau đổi đến Trà Bát (1570), thuộc Quảng Trị, gọi là Cát Dinh. Lúc đó không gọi là kinh đô, vì kinh đô là Đông Kinh (tức Thăng Long) mà người Âu phiên âm thành Tunkin rồi Tonkin, nơi vua Lê ngự. Nguyễn Hoàng còn trở lại Bắc năm 1569, chầu vua Lê và năm 1572, viếng Trịnh Kiểm mất. Năm 1593, ông lại ra Bắc giúp Trịnh Tùng dẹp nốt dư đảng nhà Mạc, rồi bị Trịnh Tùng cầm chân ở Bắc trong 8 năm (1593-1600). Trong thời gian này, con trai thứ sáu của ông là Nguyễn Phước Nguyên quản trị Thuận Hóa và Quảng Nam. Năm 1600, Nguyễn Hoàng về lại Thuận Hóa, giữ khoảng cách với miền Bắc, xưng chúa tức Chúa Tiên (1600-1613). Sau khi ông mất, Nguyễn Phước Nguyên lên ngôi tức Chúa Sãi (1613-1635). Đến năm 1626, Chúa Sãi mới lập Phủ ở Phước Yên, thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Khi Cristoforo Borri đến Đàng Trong, năm 1618, thì chúa Sãi chưa ở Huế, mà chắc cũng không còn ở Quảng Trị nữa, vậy có lẽ ông ở Dinh Chàm, là thủ phủ Quảng Nam, nơi con trai trưởng của ông là Nguyễn Phước Kỳ làm Trấn Thủ.
Khi Alexandre de Rhodes đến Đàng Trong, lần đầu vào cuối năm 1624, chúa Sãi vẫn còn sống, nhưng khi ông đến Đàng Trong bốn lần sau, từ 1640 đến 1645, thì đã sang thời chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648), con trai chúa Sãi.
Như ta đã biết, trước thế kỷ XVII, đã có những giáo sĩ đến Việt Nam, nhưng không có chủ đích truyền giáo và cũng chỉ ở một thời gian ngắn nên chưa có đạo Gia Tô ở Việt Nam. Đạo Gia Tô chỉ bắt đầu phát triển khi các giáo sĩ Dòng Tên đến Touran (tức Tourane, Đà Nẵng) năm 1615. Tháng 3/1626, tức là 10 năm sau, giáo sĩ dòng Tên người Ý Giuliano Baldinotti mới đến Tunkin (Đông Kinh).
Ba giáo sĩ Dòng Tên đầu tiên đến Đàng Trong là: linh mục Francesco Buzomi (Ý), linh mục Diego Carvalho (Bồ) và thầy giảng Antonio Dias (Bồ), đến Cửa Hàn (Đà Nẵng) ngày 18/1/1615.
Francesco Buzomi (1576-1639) ở Đàng Trong lâu nhất, ông đã xây dựng nền móng đạo Thiên chúa, ông dựng ngôi nhà thờ đầu tiên ở Đà Nẵng, nhưng ông không nói được tiếng Việt, phải giảng đạo qua thông ngôn. Năm 1639 chúa Thượng Nguyễn Phước Lan phái ông về Macao lo công việc cho chúa, rồi ông bị bệnh và mất ở Macao năm đó.
Diego Carvalho (1576-1624) chỉ ở Đàng Trong một năm, năm 1616, ông trở về Nhật truyền đạo, và theo lời kể của Borri, ông bị ném xuống hồ nước lạnh, dầm gió tuyết, chết cóng ngày 22/2/1624, tại Nhật.
Antonio Dias (Bồ) ở lại Đàng Trong đến 1639, thì bị chúa Thượng Nguyễn Phước Lan trục xuất.
Sau khi Carvalho sang Nhật, Francesco Buzomi ở lại Đàng Trong với người trợ giảng, ông đã ráo riết hoạt động và đã thành công: xây được nhà thờ đầu tiên ở Đà Nẵng. Macao bèn gửi linh mục Francesco de Pina (1585-1625) người Bồ, sang trợ giúp. Francesco de Pina, là người Âu châu đầu tiên nói thạo tiếng Việt, ông đã theo cách ghi lại tiếng Nhật của các giáo sĩ Dòng Tên ở Nhật, để viết tiếng Việt theo mẫu tự la tinh (a, b, c….). Theo linh mục Đỗ Quang Chính, năm 1620, các tu sĩ dòng Tên tại Hội An đã soạn thảo một cuốn sách giáo lý bằng “chữ Đàng Trong”. Chính Francesco de Pina đã dạy de Rhodes tiếng Việt khi ông này đến Đà Nẵng tháng 12/1624. Ngày 15/12/1625 linh mục de Pina bị chết đuối ở Vịnh Đà Nẵng, thi hài ông được đem về chôn tại Đà Nẵng.
Francesco de Pina
Nhưng một biến cố chẳng lành xảy ra, việc giảng đạo bị ngừng, các giáo sĩ ở trong tình trạng khẩn cấp. Năm 1618, Macao bèn gửi linh mục Cristoforo Borri (1583-1632), người Ý và linh mục Pietro Marches (tức Pedro Marquez) (1613-1670) người Bồ lai Nhật, sang trợ giúp.
Cristoforo Borri là một nhà bác học, quê ở Milan. Qua sáu tháng học tập, ông đã nói chuyện và “giải tội” bằng tiếng Việt. Nhập dòng Tên ngày 16/9/1601. Năm 1615, ông đi Đông Á truyền giáo. Năm 1618, ông cùng với Pedro Marquez, giả làm bồi tàu, đi thuyền Bồ từ Macao đến Đàng Trong. Trong danh sách các giáo sĩ đến Việt Nam, ông là người thứ chín. Sau khi thiết lập xong cơ sở đạo Gia Tô ở Đàng Trong, năm 1622, Borri rời Nước Mặn (thuộc Bình Định), sang Macao, rồi về Ý. Sau ông bị trục xuất khỏi giáo hội, ông kiện và thắng kiện. Ông mất bất ngờ ngày 24/5/1632, một cái chết được gọi là “tai nạn” ở Roma.
Cristoforo Borri là tác giả tập Ký sự nổi tiếng về Đàng Trong, xuất bản lần đầu năm 1631, tại Roma, rồi sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản in trên BAVH, quyển 3-4, 1931, do Đại tá Bonifacy dịch và chú giải. Bonifacy là giảng viên môn lịch sử bản xứ tại Trường Đại Học Hà Nội, và là đặc phái viên của trường Viễn Đông Bác Cổ.
Tập Ký sự Đàng Trong có tên đầy đủ là (Ký sự của Tân phái bộ Tu sĩ dòng Tên ở Vương quốc Đàng Trong). Đây là tác phẩm đầy đủ nhất về con người, sản vật, xã hội, chính trị Đàng Trong, đồng thời ghi lại lịch sử những bước đầu tiên của đạo Gia Tô ở Việt Nam.
Đối với chữ quốc ngữ, tác phẩm của Borri còn có ý nghiã nguồn cội: trong 5 năm ở Đàng Trong (từ 1618 đến 1622) ông đã học tiếng Việt và ghi lại những chữ quốc ngữ, đầu tiên hết là những điạ danh: Sinua (Thuận Hoá), Cacciam (Kẻ Chàm, Quảng Nam), Quamgua (Quảng Nghiã, tức Quảng Ngãi), Quignin (Quy Nhơn), Renran (phiên âm tên sông Đà Rằng, tức Phú Yên), rồi dần dần ông viết những câu ngắn: Dàdèn, Lùt, Dàdèn, Lùt (Đã đến lụt, đã đến lụt )… Ông coi Balaciam (nước mắm) là thứ gia vị thực phẩm của Trời, chỉ một vài giọt đủ tăng thêm giá trị thức ăn không đâu có được. Ông cho sầu riêng là trái cây tuyệt vời trần thế. Borri thấy người Đàng Trong phần đông đi chân đất (có ít người đi xăng đan, kiểu dây buộc như mốt bây giờ) ông và các giáo sĩ cũng quen đi chân đất, sau này về lại Macao, không chui chân vào giày nữa. Ông mô tả bữa ăn xem ra không khác bây giờ: ăn cơm trắng với các món ăn, gắp bằng đũa. Người mình thời đó đã uống chìa (trà). Có hai thứ Đông y và Tây y, uống thuốc Tây không khỏi quay sang thuốc Ta lại khỏi. Ông chứng kiến một người Âu bị bọ cạp cắn, thuốc tây không chữa được, chờ chết. Mời thầy ta đến, thầy thuốc sai thổi một nồi cơm, để nạn nhân ngồi lên trên trùm chăn kín mít, nước cơm xông lên, vết thương xẹp dần, nạn nhân thoát chết.
Về chính trị và học thuật, Borri nhận xét: “Người Nhật trọng binh bị hơn văn chương, người Hoa trọng văn chương hơn binh bị, còn người Đàng Trong chuyên chú đến cả hai ngành. Đàng Trong có nhiều học viện ở đó có những giáo sư, những học phái, học vị, được khảo hạch qua các kỳ thi, giống như bên Tàu. Người ta dạy những môn, dùng các thứ sách của Khổng tử, Lão tử, tác giả những triết thuyết sâu sắc. Khổng Tử được họ kính trọng như Aristote đối với Âu châu. Những kinh sách này đầy dẫy những điều uyên bác. Họ dùng nhiều năm để học hiểu tính chất của một câu, một lời nói, một chữ, và cách người ta viết chữ đó. Tuy nhiên, đối với họ quan trọng nhất là triết học tinh thần, đạo đức, kinh tế và chính trị.”
Borri cho rằng tiếng Việt dễ học vì không cần chia động từ, vì vậy chỉ trong 6 tháng ông đã biết nói và nghe xưng tội, nhưng muốn làm chủ ngôn ngữ này thì phải 4 năm. Borri mô tả chúa Sãi luyện quân: người Việt vớt súng ống của những thuyền Hòa Lan hay thuyền Bồ gặp bão tạt vào bờ, nên họ rất sành sử dụng những loại súng này. Mỗi khi có tàu Âu ghé vào hải cảng, những thủy thủ của chúa liền thách đố pháo binh của người Âu, những người Âu này biết rõ không thắng nổi nên luôn luôn tránh những cuộc thách đố đó. Vì họ luyện tập không ngừng nên họ bắn trúng đích hơn người Âu, trong khi, họ chỉ có những khẩu đại bác (tồi) mà họ bắn trúng hơn người Âu với súng hỏa mai có tầm nhắm tối tân hơn.
Chúa Sãi có hơn trăm chiến thuyền, lại có đại bác trên bộ, nên càng muốn đối đầu với Chúa Trịnh vì ông nghĩ mình nắm chắc phần thắng, nhất là chúa buôn bán thường xuyên với Nhật mua được nhiểu mã tấu rèn luyện rất tinh vi của Nhật. [Theo Baldinotti, lực lượng của chúa Trịnh mạnh gấp bốn lần, chúa Trịnh có 500 chiến thuyền. Nhưng ta biết, chúa Trịnh Tráng luôn luôn đánh trước và lần nào cũng thua]. Chúa lại giúp đỡ người Miên, chống lại quân Xiêm. Vì lẽ đó mà khắp nơi, trên biển trên bộ đều vang danh sự hiển hách của quân đội Đàng Trong. Ông viết thêm: Quân kỷ và chiến thuật ở Đàng Trong, giống hệt như ở Âu Châu, cùng cách xếp đặt các đội ngũ, cách chiến đấu, tấn công hay triệt thoái như nhau. Chúa cấm tàu Hòa Lan cập bến cảng vì “ông biết rõ những người Hòa Lan là bọn cướp biển công khai, họ đã cướp phá vùng biển và ông đã cho họ những bài học đích đáng” [Những điều này phù hợp với chính sử của ta: chúa Sãi, năm 1585, khi còn là hoàng tử, đã đánh tan 5 chiến thuyền Hòa Lan ở Cửa Việt. Rồi đến năm 1643, chúa Hiền Nguyễn Phước Tần, cháu nội chúa Sãi, lúc đó còn là Thế tử Dũng Lễ Hầu đã phá 10 chiếc tàu Hòa Lan ở cửa Eo, tức Thuận An].
Borri kể rõ lịch sử truyền giáo ở Đàng Trong.
Khi cha Carvalho đi Nhật rồi, cha Buzomi ở lại Đàng Trong với người trợ giảng, ông bắt đầu giảng đạo ở Đà Nẵng, mặc dù không biết tiếng và không có thông ngôn, ông chỉ biết vài tiếng để mua bán. Những giáo sĩ trước đến đây (không thuộc Dòng Tên) chỉ thu phục được mấy người ủng hộ miệng chứ chưa phải là con chiên; nhưng thay vì hỏi: Có muốn theo đạo Chúa không? Thì người thông ngôn của họ lại dịch ra là: Có muốn thành người Bồ Đào Nha không? Sở dĩ cha Buzomi nhận ra điều đó vì chính mắt cha nhìn thấy ở chợ, giữa hai màn kịch, có một kẻ mặc áo Bồ bước ra sân khấu, bụng phình tướng giấu một đứa bé bên trong. Y cho đứa bé thoát ra khỏi bụng và hỏi nó có muốn trở lại bụng mình không bằng câu: “Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam?” (Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng?) đứa nhỏ trả lời: “Có”. Thế là y lại cho nó chui vào trong bụng y, rồi y lại cho nó ra, và lại hỏi nguyên câu hỏi đó. Trò này lặp đi lặp lại nhiều lần, khán giả cười bò. Cha Buzomi lúc ấy mới nhận ra cái câu lặp đi lặp lại nhiều lần này: “Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam?” cũng chính là câu mà những người thông ngôn dùng để hỏi những ai muốn theo đạo Chúa không, (Lúc đó người Việt chưa phân biệt rõ người Hòa Lan với người Bồ Đào Nha, nên cho Hoa Lang và Bồ là một).
Cha thấy cái sai lầm cơ bản đã reo rắc ở đây, khiến nhà trò chế giễu: theo đạo Thiên Chúa chỉ là việc chui vào bụng người Bồ, nghĩa là theo Đạo thì không còn là người Việt Nam nữa mà trở thành người Bồ Đào Nha. Cha bèn tìm cách hãm ngay sự sai lầm tai hại này, bằng cách dạy cho những ai đã rửa tội những bổn phận phải theo, và những ai muốn vào đạo phải biết thế nào là thánh lễ rửa tội, thế nào là một con chiên. Cha đổi câu hỏi thành: “Muon bau dau chritiam chiam [Muốn vào đạo christiang chăng?]. Và cha đã làm hết sức mình, với sự sốt sắng, với lòng nhân từ, chỉ trong ít ngày, đã thấy kết quả, cả về mặt biến đổi những người chỉ mới vào đạo miệng, lẫn những người muốn thực thụ nhập đạo Thiên Chúa.
Buzomi có công đầu trong việc truyền giáo ở Đà Nẵng. Rồi ông đi khắp nơi, ông giảng đạo qua những người thông ngôn có trình độ và ông đã thành công. Ông đã thu phục được nhiều người quyền quý theo đạo ở Cacciam (Kẻ Chàm, tức Dinh Chàm) là nơi Chúa ở. Borri kể tiếp: Cha Buzomi đã hết sức vận động khiến triều đình ban cho cha một mảnh đất để xây nhà thờ, xây nhanh lắm, tất cả con chiên đều góp phần vào, người góp công, người góp của. Cha cũng được một nơi làm nhà ở, tốt, sạch, để giáo huấn dân tộc này niềm tin thánh chúa.
Tất cả những việc này sở dĩ làm được là nhờ sự giúp đỡ của một bà quý tộc, bà đã rửa tội và lấy tên thánh là Giovanna [Jeanne]. Không những bà bỏ tiền ra xây nhà thờ và nhà ở cho cha, mà bà còn dựng nhiều bệ thờ và phòng nguyện ngay trong dinh cơ của bà.
Tiếng đồn vang đến Macao, Cha Tỉnh (tức là cha bề trên) thấy cần phải gửi ngay một linh mục trẻ, và một thầy trợ giảng, người Nhật, cùng đến, để sau khi học tiếng, ông có thể giảng đạo, không cần thông ngôn. Linh mục trẻ này chính là cha Francesco de Pina (1585-1625), người Bồ, đã từng học Thần học với cha Buzomi. Tuy năm thứ hai này không gặt hái được kết quả dồi dào bằng năm thứ nhất trong việc thu phục con chiên, nhưng kết quả cũng không nhỏ, và kẻ thù đã nhìn thấy và cố gắng vùi dập, gây ra cuộc đàn áp lớn. [Cuộc đàn áp lớn này chính là sự tranh chấp đầu tiên giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo]. Theo Borri: các ongsaij (ông sãi, hay ông sư) họp nhau lại, đặt câu hỏi: tại sao thánh thần lại giận giữ làm hạn hán mất mùa để cho dân chết đói đầy đường? Và họ kết luận: là vì ta cho người ngoại quốc vào giảng cái đạo không hợp với luân thường đạo lý [không thờ cúng tổ tiên]. Và họ đã xin Chúa dẹp ngay cái đạo đó đi để làm đẹp lòng thần thánh. Chúa Sãi không tin dị đoan, Chúa vẫn quý chúng tôi, nhưng ông không thể cưỡng lại lòng dân vì sợ có loạn, chúa bèn gọi các linh mục lại, và thành tâm nói với họ rằng: các ông phải đi đi, và sớm rời đất nước này càng sớm càng tốt. Các giáo sĩ sửa soạn lên tàu, nhưng bị gió mùa thổi ngược lại, và bị dân chúng ngăn cấm không cho họ trở lại đất liền, phải ở trên bãi cát, chịu đựng nóng, gió [Lào] khắc nghiệt, và tuyệt vọng nhìn thấy nhà thờ Turon (Đà Nẵng) bị đốt cháy. Nhưng con chiên đã tận tình giúp đỡ họ, nhất là đức bà Giovanna.
Tin này truyền đến Macao, Cha Tỉnh quyết định gửi người đến trợ giúp trên chiếc tàu Bồ sắp đi Đàng Trong, vì vậy Cristoforo Borri, người Ý và Pietro Marches (tức Pedro Marquez) người Bồ lai Nhật, được gửi đi Đàng Trong. Họ cải trang làm bồi, đi trên tàu Bồ đến Đà Nẵng. Đến nơi, bại lộ, bị bắt, nhưng cùng lúc đó trời nổi mưa, dân chúng cho rằng họ đem mưa đến, nên tha tội cho họ, để quay đầu vào việc mùa màng.
Borri quyết định đi tìm cha Buzomi và ông tìm đến Đức bà Giovanna (Jeanne) bà cho biết, cha Francesco de Pina với cha người Nhật, đã được những người Nhật có đạo bí mật dẫn về Faifo (Hội An). Cha Pietro Marches, rất thạo tiếng Nhật, muốn đi Faifo, và ở đấy, chúng tôi đã gặp lại cha Francesco de Pina, vẫn sống giấu diếm, nhưng được người Nhật trông nom rất tử tế và ông vẫn giảng đạo. Gặp lại nhau chúng tôi mừng rỡ vô cùng, vì chúng tôi rất thân nhau và cùng ở trong giáo đoàn Macao.
Trong 15 ngày chúng tôi được người Nhật tiếp đãi một cách đế vương, và chúng tôi còn biết được tin mừng: hiện cha Buzomi đã được cứu nạn: Trong khi ông đang khốn khổ ở trên bờ biển Đà Nẵng với một mụn nhọt ác tính trên ngực, tưởng chết, thì không ngờ quan trấn thủ Pulucambi (Bình Định ngày nay) đến Turon, thấy người này đau đớn quá, trông như cái xác thoi thóp, động lòng thương cảm, ông hỏi người này là ai, vì sao lại rơi vào sự bất hạnh như thế này. Người ta thuật lại cho ông tất cả tình huống đã xảy ra, rằng: người ta đã gán cho ông ta và những bạn đồng hành cái tội làm cho trời hạn hán, khiến dân chết đói, nên họ bị chúa ra lệnh trục xuất. Quan trấn thủ cười: Làm sao có thể gắn cho vị thầy tu ngoại quốc khốn khổ này cái điều chẳng dính dáng gì đến ông ta? Và ông ra lệnh khiêng thầy tu xuống thuyền, dẫn về vùng ông cai trị, cho ở trong tư dinh và mời những thầy thuốc danh tiếng và giỏi giang nhất trong triều đến chữa, lại sai các con trai ông tận tình chăm sóc cha Buzomi trong vòng một năm, cho đến ngày khỏi bệnh. Mọi người đều kinh ngạc thấy một vị quyền quý, vì lòng bác ái vị tha tự nhiên, đã xử sự cao đẹp như thế với một người lạ ngoại quốc.
Cha Buzomi ở Pulucambi cách hải cảng Turon một trăm năm mươi dặm; cha Marches ở lại Faifo (Hội An) làm cha bề trên, tương tế những người Nhật, cùng với cha de Pina; còn về phần tôi (Borri) tôi trở lại Turon để phục vụ những người Bồ, làm lễ, giảng đạo và nghe họ xưng tội.
Tôi cũng học tiếng Đàng Trong và tìm được cách, nhờ sự giúp đỡ của người thông ngôn, khuyến dụ thêm được những tín đồ mới trong đám những nhà vọng tộc, và nhất là chấn chỉnh và củng cố niềm tin của những người đã rửa tội.
Sau khi cha Buzomi hoàn toàn bình phục, ông được quan Trấn thủ Pulucambi dẫn về Quảng Nam, chúng tôi lại tụ tập nhau ở Hội An. Rồi cùng quyết định: cha Marches ở lại Faifo với thầy giảng Nhật để giảng đạo. Ba người kia và thầy giảng Bồ theo quan trấn thủ về Bình Định.
Borri kể tiếp: Các cha Buzomi, de Pina và tôi rời Faifo đi Pulucambi cùng với quan trấn thủ. Trong suốt cuộc hành trình, ông đã đối đãi với chúng tôi một cách lịch lãm và nồng hậu không thể tả, cho chúng tôi ở cùng với ông, cách xử sự không có động cơ nhân đạo nào giải thích nổi, mà phải công nhận đó là do sự an bài của Thượng đế.
Ông dành riêng một con thuyền lớn cho chúng tôi và những người thông ngôn, còn hành lý lại có một chiếc thuyền khác chở. Với tiện nghi như thế, chúng tôi đi trọn 12 ngày, sáng rời, tối cập bến, bởi tất cả các bến cảng đều gần gụi các thị trấn, hay tỉnh thành lớn của tỉnh Quanghia [Quảng Ngãi] và ở tỉnh này, quan trấn thủ cũng có quyền như ở tỉnh Pulucambi.
Mỗi lần chúng tôi mở miệng xin điều gì, là được ngay, khiến chúng tôi như có uy tín đối với quan trấn thủ. Khi về đến tư dinh cũng vậy, ông nói với gia nhân: “Ta đã nói chuyện nhiều và nhiều lần bàn luận với những người này, ta hiểu rõ đạo giáo mà họ truyền giảng, ta thấy không có đạo nào chân thực bằng, và cũng không có con đường nào khác ngoài con đường họ đi, để đạt tới cứu rỗi.” Tuy vẫn là quý tộc, Đức ông diễn tả như thế, đã trở thành lệnh sứ truyền của Phúc Âm, trước sự ngạc nhiên và kinh hãi lớn lao của người nghe, bởi ai cũng biết ông rất thận trọng (trong lời nói).
Tám ngày sau, ông ra lệnh xây cho chúng tôi một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi ở thành phố Nước Mặn [Xin nhắc lại: Tỉnh Pulucambi gồm cả ba thành phố Nước Mặn, Nước Ngọt, và Qui Nhơn, tức là tỉnh Bình Định ngày nay]. Sau khi nhìn qua những chỗ ở trong dinh ông, gồm độ hơn trăm nóc nhà, ông nói với chúng tôi chọn một căn sạch sẽ nhất (có thể) làm nhà thờ, và bảo cho ông biết để khi cần đến ông sẽ cho. Ông cấp cho chúng tôi tiền bạc để tiêu dùng và sai tiếp tế thực phẩm ăn uống đầy đủ cho cả “phái đoàn” gồm các tu sĩ, các thông ngôn và người hầu cận.
Sau đó quan trấn thủ bảo chúng tôi chọn chỗ để xây nhà thờ để ông đến xem và ước lượng các phiến gỗ, cột, kèo… cần thiết. Chỉ ba ngày sau, chúng tôi được báo tin “nhà thờ đã đến”. Không hiểu “đến” bằng cách nào, chỉ biết theo chỗ chúng tôi chọn thì nhà thờ không thể lớn và sẽ có nhiều cột để dựng. Lúc đó chúng tôi mới hiểu, ở nhà quê, chỗ dinh ông có sẵn một đội ngũ cả ngàn người bắt tay vào việc. Mỗi cột lớn, được ba mươi người lực điền khênh, còn những người khác, người thì mang đầu cột, mang kèo, mang rui, mang các mảnh ván, mang ghế, mỗi người cầm một thứ gì đó, kéo nhau vào nhà chúng tôi để giữa sân. Ông kiến trúc sư đến, ông đo dây thừng và lượng lại các khoảng cách đâu đó xong rồi ông bảo những người khênh cột đến, mỗi cái được trồng đúng nơi chốn của nó, sau đó ông gọi tiếp các mảnh khác và người ta cứ tuần tự đem đến lắp xong, theo đúng trật tự răm rắp, chúng tôi ngạc nhiên và kinh hoàng, chỉ một ngày, họ đã dựng xong nhà thờ! Nhưng có lẽ làm vội quá nên nhà thờ hơi bị nghiêng về một phía. Quan trấn thủ biết tin gọi ngay kiến trúc sư ra lệnh phải sửa không sẽ bị chặt chân, muốn cần bao nhiêu thợ cũng được. Ông kiến trúc sư bình tĩnh bảo họ tháo nhà thờ ra từng mảnh và dựng lại hoàn hảo trong một thời gian rất ngắn.
Nhưng chẳng may cho phái đoàn giáo sĩ: quan trấn thủ, sau một buổi cưỡi voi đi săn bị cảm nắng nặng, ông qua đời. Phái đoàn không còn trợ cấp, rơi vào tình trạng thê thảm. Rồi phải quyết định: Vì không còn cấp dưỡng và cũng không truyền đạo được, linh mục de Pina trở về Faifo, nhờ người Nhật quyên góp cứu trợ; vì ông biết rõ tiếng Việt, ông nói thông thạo tự nhiên, cho nên ông đã không bỏ lỡ cơ hội để truyền giáo cho người Vìệt. Cha Buzomi đi Đà Nẵng, đem theo người thông ngôn giỏi nhất, để xin người Bồ cứu giúp. Tôi và hai người trợ giảng ở lại Nước Mặn, tìm cách sống sót cho tới khi nào nhận được sự giúp đỡ của Macao.
Tôi ở lại Pulucambi, cô đơn sầu não. Bỗng một ngày, trước cửa xuất hiện một đàn voi với đoàn tùy tùng gồm nhiều ông bà quyền quý. Sau cùng bà lớn xuất hiện, đài các trong quần áo nữ trang sang trọng. Tôi ra tiếp rước, mới biết bà là phu nhân sứ thần của vua Đàng Trong gửi sang Cao Miên, sứ thần người gốc Nước Mặn. (Theo Bonifacy, chúa Sãi gả con gái cho vua Miên Chey Chettha II (Brah Jaya Cestha), nhờ bà, mà vua Prãh Chey Chettha cho xây Tòa sứ Việt Nam và Thương cuộc ở vùng Sài Gòn hiện nay).
Sau khi chào hỏi, phu nhân đại sứ nói ngay cho Borri biết chủ đích của bà: Bà đến đây vì đã nghe tiếng đồn rất tốt về ông, về đạo mà ông truyền giảng, và theo bà chỉ có con đường đó là con đường cứu rỗi mà bà hằng nguyện ước, và bà mong được ông rửa tội.
Tôi khen ngợi quyết định của bà nhưng cáo lỗi là chưa thể thực hiện ngay đưọc, bởi vì tôi có biết chút ít tiếng Việt nhưng không đủ để giảng đạo pháp, và khuyên bà nên đợi cha Buzomi đi Turon trở về trong ít ngày nữa với người thông ngôn giỏi, như vậy bà sẽ được thụ pháp đầy đủ, như bà mong đợi. Nhưng bà nhất quyết muốn làm ngay, mượn cớ chồng bà hiện đang ở trong triều có thể về tới bất cứ lúc nào và bà sẽ phải theo chồng lên thuyền đi sang Miên, biết đâu trên đường đi chẳng gặp sóng gió, mắc nạn, rồi không bao giờ bà còn dịp quy đạo nữa. Borri đành phải bắt đầu giảng đạo pháp cho bà, may mắn thay, vài hôm sau cha Buzomi trở lại với người thông ngôn và bà đã chuyên cần học trong hai tuần lễ, thuộc hết giáo lý đại cương. Và một ngày đẹp trời, ngày đẹp nhất của đời tôi, tôi đã làm lễ rửa tội cho tất cả 25 người phụ nữ xinh đẹp, xiêm áo lộng lẫy, được các đức ông quyền quý tháp tùng, tại nhà thờ Nước Mặn, đi đầu là đại sứ phu nhân, dưới tên thánh Orsola (Ursule tiếng Pháp). Sự kiện đó làm rạng danh chúa, với số con chiên đầu tiên, mở cửa cho Hội truyền giáo ở Đàng Trong (Mission de Cochinchine).
Rồi sau đó, cha Borri lại tính đúng ngày nhật thực, càng làm cho nhóm giáo sĩ có uy tín thêm trước mắt Chúa Sãi, thế tử Kỳ và triều đình. Những ngày tươi sáng trở lại: Cha de Pina và cha Marches di Faifo giảng đạo. Nhà thờ Đà Nẵng trước bị đốt nay được các cha dòng Tên cùng con chiên xây dựng lại. Trong tình trạng tốt đẹp đó, Borri rời Đàng Trong năm 1622, để về Âu Châu. Đến cuối năm 1624, Alexandre de Rhodes sang Việt Nam.
Trong những ân nhân của các giáo sĩ, đáng kể nhất là quan trấn thủ Bình Định, hiện chưa biết ông là ai, cần phải nghiên cứu thêm. Borri chịu ơn hai phụ nữ quyền quý, thứ nhất là đức bà Giovanna [Jeanne, tiếng Pháp] và sau đến phu nhân sứ thần Đàng Trong ở Cao Mên, dưới tên thánh Orsola (Ursule tiếng Pháp). Ông không cho biết gì thêm về thân thế hai người này.
Linh mục Cadière đã nghiên cứu và ông rất khâm phục bà Minh Đức Vương Thái Phi, tên thánh là Marie, ông viết: “Bà Marie! Một khuôn mặt thật quyến rũ. Tôi đã say mê trong nhiều năm tháng”. Nhưng ông không nói bà Marie có phải là bà Jeanne hay không, tuy nhiên cuộc đời, hành động và thời kỳ sống của hai người này rất giống nhau, ta có thể cho hai người này là một.
Cadière quyết đoán bà Marie tức là Minh Đức Vương Thái Phi, bà phi của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Điều này giải thích uy quyền của bà, tại sao bà có nhà thờ ở trong cung, bà xây nhà thờ cho Buzomi và bao che cho tất cả những giáo sĩ từ Buzomi đến Alexandre de Rhodes. Bà Minh Đức Thái Phi là mẹ của Nguyễn Phước Khê, em út chúa Sãi. Sau khi chúa Sãi băng hà, Hoàng tử Khê sẽ là cột trụ của triều đình, tuyệt đối trung thành với chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648), cháu ruột. Ông sẽ bắt mẹ phải phá nhà thờ của mình, sẽ nói đến sau.
Cadière phân biệt bà Marie với bà Marie-Madeleine, vợ quan trấn thủ Ran Ran (Phú Yên), bà Marie-Madeleine không ở trong triều mà đi đi về về giữa Quảng Nam và Phú Yên, bà đã che chở và giúp đỡ giáo xứ Phú Yên rất nhiều. Tóm lại, hai bà Marie và Marie-Madeleine ở cùng thời và cùng sống lâu như nhau.
Chúng tôi đoán: quan trấn thủ Phú Yên là Nguyễn Phước Vinh, con rể chúa Sãi, người đã giúp chúa Sãi thu phục Trấn Biên tức Khánh Hòa năm 1629, đã nói ở trên. Nếu đúng như vậy, thì bà Marie-Madeleine là con gái chúa Sãi.
Tuy nhiên tất cả những điều này cần được kiểm chứng lại, có thể là đề tài nghiên cứu cho sinh viên ban sử học.
V- Quy Nhơn:
Vịnh Quy Nhơn, cửa vào Đầm Thị Nại ở tận cùng phía trái
Quy Nhơn có bề dày trọng đại của lịch sử.
Đến Quy Nhơn, chúng tôi ở khách sạn M.T. trên bờ biển. M.T. là tên một chuỗi khách sạn mọc trên toàn thể đất nước, ông chủ có lẽ là người gốc dân tộc (ngày trước gọi là người thiểu số) hay ông sinh ra ở miền núi rừng M.T. Bây giờ ông trở thành triệu phú. Ở nước ngoài thì người ta ca tụng ông tay trắng làm nên sự nghiệp (như bin-ghết) còn ông ở Việt Nam, nên ông bị coi là tư bản đỏ, nhờ “đút lót” bọn “tham nhũng” mà nên. Du khách đến miền duyên hải nước ta gần như đương nhiên được ở khách sạn trên bờ biển, nhưng khách sạn M.T. thường có địa điểm tốt, thức ăn ngon và nhân viên tiếp đón lịch sự, vì thế mà thành công.
Khách sạn của chúng tôi nhìn chéo vào cửa đầm Thị Nại. Điều thật bất ngờ. Bởi đầm Thị Nại là nơi tôi ao ước được đến ít nhất một lần trong đời, để xem bề thế của nó, nơi đã xẩy ra bao nhiêu cuộc chiến ác liệt trong lịch sử, từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX do vị trí chiến lược hiểm yếu nhất vùng Bình Định. Và Bình Định, tức Quy Nhơn hay Đồ Bàn là cột trụ của cuộc di dân mở nước từ Bắc xuống Nam của dân tộc ta.
Đầm Thị Nại
Gần ta nhất, Thị Nại là nơi xảy ra hai trận đánh lịch sử, giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn: Thị Nại 1792 và Thị Nại 1802. Trận 1802 là trận quyết liệt, có thể coi là trận Xích Bích của Gia Long, quyết định sự thống nhất đất nước.
Sự mênh mông và vị trí kín đáo của đầm Thị Nại giải thích tại sao, năm 1800, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng, chỉ huy quân Tây Sơn, lại chọn nơi này đóng đại bản doanh để tiến đánh thành Bình Định (tức thành Quy Nhơn) nơi Võ Tánh và Ngô Tòng Châu cố thủ, từ 1799.
Từ balcon của phòng chúng tôi, nhìn ra cửa đầm Thị Nại, một cảm tưởng không thể diễn tả giữa khâm phục và kinh hoàng của kẻ hậu duệ “nhìn về” trận địa lịch sử oanh liệt và đẫm máu giữa hai thế lực đối đầu của tổ tiên mà mình không thiên bên nào, không mong ai thắng ai bại. Muốn được như vậy, cần phải hơn hai trăm năm. Bởi hiện giờ tôi vẫn chưa thể đi thăm Quảng Trị, vì máu xương như vẫn còn đọng, còn tươi, chưa hề siêu thoát trên những dòng chữ Phan Nhật Nam.
Tháng 3/1773, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ khởi binh ở ấp Tây Sơn, chiếm Quy Nhơn, mưu đồ diệt nhà Nguyễn. Năm năm sau, Quy Nhơn sẽ trở thành kinh đô của Nguyễn Nhạc: Tháng 6/1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Thái Đức, xây cung điện trên vùng đất cũ của thành Đồ Bàn, tức thành Quy Nhơn.
Sau khi Quang Trung băng hà (16/9/1792), từ năm 1793 đến 1799, Nguyễn Vương tiến đánh Quy Nhơn ba lần. Lần đầu, Nguyễn Nhạc cầu cứu cháu là Cảnh Thịnh đóng ở Phú Xuân, nhưng tướng của Cảnh Thịnh sau khi thắng trận, uy hiếp Nguyễn Nhạc, khiến ông uất ức mà chết năm 1793. Đến lần thứ ba, tháng 7/1799, Võ Tánh chiếm được Quy Nhơn. Nguyễn Ánh vào thành, đổi tên là Bình Định, để Võ Tánh và Ngô Tòng Châu (tham tri bộ lại) ở lại trấn giữ và cai trị.
Tháng giêng năm 1800, Tây Sơn bắt đầu phản công: Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đem đại binh thủy bộ chiếm Thị Nại rồi vây thành Bình Định. Nguyễn Vương tính kho lương thực trong thành đủ dùng một năm, định củng cố lực lượng, năm sau sẽ giải vây Bình Định.
Tháng giêng năm 1801, quân sư Đặng Đức Siêu hoàn tất chiến thuật: đánh hỏa công triệt hạ hải quân của Võ Văn Dũng đóng ở đầm Thị Nại, để tiến lên phá vòng vây của Trần Quang Diệu bao quanh thành Bình Định, giam chặt Võ Tánh và Ngô Tòng Châu cố thủ trong thành.
Từ khách sạn, tôi nhìn thấy cửa biển mở vào đầm Thị Nại xa xa, bên phía trái: Đấy là chỗ đại quân Nguyễn Ánh sẽ tiến vào đầm để tiêu diệt toàn bộ hạm đội Tây Sơn đêm 27 rạng ngày 28/2/1801.
Về phía Tây Sơn, để chắn địch, Võ Văn Dũng dùng ba chiến hạm đại hiệu, có giàn đại bác nòng lớn và hơn trăm thuyền chiến đóng chặn cửa biển Thị Nại, khít khao, không ai có thể lọt vào nếu không biết mật khẩu. Cửa đầm còn được canh giữ bằng bãi Nhạn Châu (nay là Bãi Nhạn) bên trái và núi Tam Toà bên phải, đều đặt giàn đại bác và nhiều súng lớn, mục đích tiêu diệt mọi ý đồ thâm nhập.
Làm sao vào được?
Bên trong đầm, đóng toàn bộ hải quân Tây Sơn do Võ Văn Dũng làm tư lệnh. Trên bờ là bộ binh, bao vây thành Bình Định. Tất cả thuỷ bộ dưới quyền Tổng tư lệnh của Trần Quang Diệu.
Phía quân Nguyễn, Nguyễn Vương đích thân làm Tổng tư lệnh, tiên phong có Nguyễn Văn Trương, Tư lệnh hải quân (nguyên là tướng Tây Sơn, đem thuyền binh về theo Nguyễn Ánh từ năm1787), Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy, điều động quân cảm tử.
Quân của Nguyễn Vương từ Cù Mông tiến về Thị Nại chiều 27/2/1801, sau khi tập trận, lần này Vương không dùng thuyền đại hiệu, chỉ dùng ga-le và thuyền nhỏ. Thuyền chỉ huy của Vương đậu ở cửa biển Thị Nại, ngoài tầm đại bác Tây Sơn.
Đến chiều tối, đầu tiên hết, Nguyễn Vương ra lệnh cho đội Túc Trực của Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy (1.200 quân cảm tử) đổ bộ lên bãi cát, ngang tầm đảo Hòn Đất, đi trong yên lặng, đến chiếm giàn đại bác ở bãi Nhạn Châu.
Nguyễn Văn Trương bắt được lính tuần của Tây Sơn, biết mật hiệu vào cửa biển.
10 giờ đêm, Trương sửa soạn 60 ghe đại bác để xung kích ba chiến hạm đại hiệu Tây Sơn đóng chặn cửa biển.
10 giờ 30, Nguyễn Văn Trương bắn phát súng hiệu đầu tiên: Nguyễn Vương hạ lệnh Tổng tấn công.
Đại bác Tây Sơn từ đồn Tam Tòa nã xuống như mưa, gây kinh hãi. Quân cảm tử của Lê Văn Duyệt xông trận, trèo lên thuyền Tây Sơn đốt phá, tấn công.
Võ Di Nguy trúng đạn, mất đầu. Quân Nguyễn hoảng sợ. Lê Văn Duyệt chém đầu thuyền trưởng địch, hô tiến lên. Nguyễn Vương thấy quân sĩ chết nhiều, ra lệnh tạm lui, nhưng Duyệt thề chết chứ không lùi.
Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương, dùng mật hiệu, bằng thuyền nhỏ, tiến sâu vào hậu quân Tây Sơn ở cuối đầm, đốt đồn thuỷ và những ga-le đang chuẩn bị tiếp chiến. Hàng ngũ Tây Sơn rối loạn: đầu quân nhận đại bác của bãi Nhạn Châu (đã bị quân Nguyễn chiếm), lại tưởng hậu quân (bị Nguyễn Văn Trương đốt phá) làm phản.
Nhưng quân Tây Sơn vẫn can trường chống trả mãnh liệt.
Quân Nguyễn dùng hoả công của Đặng Đức Siêu đốt thuyền. Hai bên đánh giáp lá cà. Đến 4 giờ sáng lửa tràn lên tất cả các thuyền, tầu, chiến hạm. Đến rạng đông, một phần lớn đã nổ trên không trung với tất cả thuỷ thủ.
Nguyễn Ánh thiệt hại khoảng 4.000 quân, Tây Sơn mất 50.000 quân và toàn thể hạm đội bị tiêu diệt (gồm 1.800 chiến thuyền lớn nhỏ. 6.000 đại bác, và đủ loại vũ khí đạn dược và vàng bạc châu báu). Võ Văn Dũng điên dại lăn vào đống tro tàn.
Trận Thị Nại kéo dài 12 tiếng từ 10 giờ đêm 27/2/1801 đến 10 giờ sáng 28/2/1801. Có ba người Pháp lần đầu tiên tham dự cuộc chiến là Chaigneau, Vannier, và de Forçant, họ lái ga-le hộ vệ Nguyễn Ánh, đậu ở cửa biển. Nhưng người Pháp (thuộc điạ) sẽ viết lại lịch sử rằng trận Thị Nại là chiến công của Pháp.
Toàn thắng ở trận Thị Nại, nhưng Nguyễn Ánh vẫn không thể nào đánh lên Quy Nhơn để giải cứu Võ Tánh và Ngô Tòng Châu. Vương viết thư giục Võ Tánh tìm đường máu thoát ra ngoài. Võ Tánh trả lời: Người làm tướng không bỏ thành. Chúa công nên nhân cơ hội quân Tây Sơn tập trung toàn lực ở đây mà đánh chiếm lấy kinh đô. Biết khó phá được quân Trần Quang Diệu (sau Huệ, Ánh chỉ sợ có Diệu), Vương nghe lời khuyên của Đặng Đức Siêu đánh ra Quãng Ngãi, Quảng Nam, rồi chiếm Phú Xuân.
Ngày nay đứng trên cầu Thị Nại, nhìn xuống đầm nước mênh mông bát ngát như biển cả, ta không khỏi ngậm ngùi, tưởng đến bao nhiêu bộ xương còn đọng lại dưới đáy đầm của hơn năm mươi ngàn quân hai bên đã hy sinh, cho một lý tưởng nào, không rõ, nhưng chắc chắn cho sự trung thành tuyệt đối với một mầu cờ mà họ đã chọn. Và mầu cờ ấy, của Tây Sơn hay của Nguyễn Ánh, đối với chúng ta ngày nay, không có nghĩa lý gì. Đó là sự phi lý của lịch sử.
Sau trận Thị Nại là trận Quy Nhơn: Võ Tánh và Ngô Tòng Châu, bị bao vây trong một năm rưỡi, lương thực đã cạn, phải giết ngựa, voi, để ăn dần. Ngoài thành, quân Trần Quang Diệu vây ba vòng, không lối thoát.
Tường Tử Cấm Thành Hoàng Đế
Trận Quy Nhơn chính là sự phục thù của Tây Sơn sau chiến bại Thị Nại: Ngô Tòng Châu uống thuộc độc tự tử. Võ Tánh chôn cất Tòng Châu, rồi viết thư cho Quang Diệu yêu cầu tha cho quân lính, đoạn nộp thành, tự thiêu ở lầu Bát Giác. Trần Quang Diệu vào thành, chảy nước mắt nghiêng mình trước thi hài cháy đen của Võ Tánh, tha cho quân Nguyễn về làm ruộng, cử hành đám tang Võ Tánh trọng thể.
Cửa vào Tử Cấm Thành Hoàng Đế
Tất cả xẩy ra trong lòng thành Hoàng Đế của Nguyễn Nhạc, tức Quy Nhơn hay Bình Định. Năm 1814, vua Gia Long dọn thủ phủ sang thành mới gần thành phố Quy Nhơn bây giờ, nay thành này không còn lại gì, ngoài chiếc cổng tượng trưng, mới được dựng lại.
Rời Thị Nại, chúng tôi đi tìm thành cổ Quy Nhơn, nơi Võ Tánh và Ngô Tòng Châu tử thủ. Thành cổ cách Quy Nhơn khoảng 27 cây số về phía tây bắc, chính là thành Hoàng Đế.
Cột cờ
Bên trong thành Hoàng Đế
Tường Long Phượng
Nghê chầu, di tích thành Đồ Bàn
Thành dựng trên nền Đồ Bàn mà ngày trước vua Lê Thánh Tông đã san bằng, nay chỉ còn lại hai con nghê chầu, và gần đó là tháp Cánh Tiên, di tích duy nhất còn lại của Đồ Bàn xưa. Nhưng vết dấu vết Quy Nhơn đầu thế kỷ XIX, khi Võ Tánh và Ngô Tòng Châu tử thủ, rất rõ.
Nhìn Lầu Bát Giác (vừa trùng tu) nơi Võ Tánh tự thiêu sau khi nộp thành. Đứng trước ngôi mộ bề thế hình nửa trái địa cầu, của tướng quân, và ngôi mộ chữ nhật, bé hơn, của cai cơ Nguyễn Tấn Huyên gieo mình vào lửa chết theo chủ tướng, một thứ âm khí thiêng liêng trộn lẫn hùng khí, như còn phảng phất đâu đây, mặc dù đã hơn hai thế kỷ trôi qua, gieo cho ta cảm tưởng lạ lùng như mình đang sờ được lịch sử, đang thở không khí lịch sử, bởi nó luôn luôn hiện diện.
Lầu Bát Giác, nơi Võ Tánh tự thiêu
Mộ Võ Tánh và Nguyễn Tấn Huyên
Mộ Võ Tánh
Thành Hoàng Đế nằm khuất trong một làng nhỏ (xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn), không mấy ai biết đến, sách du lịch không chỉ dẫn. Chúng tôi lạc đường nhiều lần, dù anh tài xế và anh guide đều người Bình Định, hỏi người dân sống ở chung quanh, họ không biết.
Nhưng khi đến nơi, tính cách vừa đế vương vừa khiêm tốn của phần hoàng thành còn lại, khiến ta không khỏi khâm phục và ngậm ngùi.
Từ lúc lên 10, mỗi lần đi học, tôi thường đạp xe qua hai con đường Võ Tánh và Ngô Tòng Châu, nay, hơn 60 năm sau, tôi mới được nhìn thấy mộ người anh hùng, như thể ông đang sống trước mắt. Tiếc rằng mộ Ngô Tòng Châu đã được gia đình rời về Phù Cát quê ông gần đấy, sau bị chiến tranh tán phá.
Nhưng người dân Quy Nhơn hôm nay, không mấy ai biết đến Võ Tánh, Ngô Tòng Châu. Thậm chí anh guide còn ngập ngừng hỏi tôi: Nguyễn Nhạc là ai mà cô mất công đi tìm như thế? Tôi buồn. Thật buồn. Chẳng kể Nguyễn Nhạc mà cả Võ Tánh, Ngô Tòng Châu, Trần Quang Diệu cũng không thấy tên trên các đường phố Quy Nhơn, mặc dù Quy Nhơn do họ xây, và chính họ đã tạo nên một phần lịch sử của vùng này.
Công lao xoá sổ ấy, bắt đầu có từ khi nhà sử học thời danh Trần Huy Liệu, viện trưởng viện sử học thập niên 1960, viết những bài cực kỳ thô thiển để buộc tội nhà Nguyễn, khiến lịch sử (ở miền Bắc) đồng tâm nhận sự chi phối một chiều, cả đến quá khứ cũng bị vạ lây.
Nay đã đến lúc Quy Nhơn nên nhìn lại lịch sử của chính mình: bởi vì Quy Nhơn không chỉ có Tam Kiệt: Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ [gọi là Đền Tam Kiệt, thực ra cũng chỉ có Nguyễn Huệ là kiệt xuất và được tôn sùng. Nhưng Nguyễn Huệ lại chẳng làm gì cho Quy Nhơn cả. Người Quy Nhơn hiện nay mấy ai biết Nguyễn Nhạc là ai, xá gì Nguyễn Lữ, ông thầy tu chết nhát, thấy đánh nhau là chạy trước]. Với lại đền này còn mới quá, phải ba trăm năm sau may ra mới cũ. Hoành tráng và cảm động hơn là thăm ấp Tây Sơn, bao la hùng vĩ, đi một vòng xe hơi để thấy tại sao anh em Tây Sơn đã chọn nơi này làm đại bản doanh: bởi thế núi bao quanh như một vòng thành thiên nhiên bất di bất dịch, không đánh đổ được, không xâm nhập được.
Quy Nhơn có những anh hùng trực tiếp đã đóng góp vào những chiến công, chiến bại, như Trần Quang Diệu của Tây Sơn, như Võ Tánh, Ngô Tòng Châu của phe đối diện. Họ biểu dương cho sự dũng cảm, can trường, trung thành, là những giá trị bất biến của mọi thời. Chúng ta là con cháu, không nên thiên vị bên nào, dù thắng, dù bại, của lịch sử.
Tháp Cánh Tiên, di tích thành Đồ Bàn
Quy Nhơn còn một bộ mặt lịch sử ngàn năm: Bởi Quy Nhơn chính là Đồ Bàn, kinh đô Chiêm Thành từ thế kỷ XII, sau khi kinh đô Phật Thệ ở Huế bị Lý Thường Kiệt san bằng.
Phải đến đây mới thấy vị trí hiểm yếu của vùng Bình Định, và hiểu tại sao, sau khi Phật Thệ bị phá huỷ, các vua Chiêm đã chọn nơi này để lập đô. Những tháp Chàm còn lại ghi dấu một nền văn minh lâu đời của một dân tộc oanh liệt: Chiêm Thành.
Chiêm Thành mà nước ta đã phải chinh phục trong tám thế kỷ, để lập nên miền Trung.
Chiêm Thành đã từng làm ta khốn đốn và đã để lại cho ta bao nhiêu chủ đề văn chương nghệ thuật.
Ngay từ năm 982, sau khi thắng Tống, vua Lê Đại Hành (980-1009) đã đem quân chinh phục Chiêm Thành, đánh vào kinh đô nước Chiêm “để trị tội sang quấy nhiễu”.
Nửa thế kỷ sau, năm 1044, vua Lý Thái Tông (1028-1054) thân chinh đánh vào kinh đô Phật Thệ (làng Nguyệt Bàu, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên, Hoàng Xuân Hãn xác định là thành Lồi), vua Chiêm dàn trận ở phía nam sông Ngũ Bồ (Sông Hương?) Thái Tông giết được vua Chiêm là Xạ Đẩu và bắt vương phi Mỵ Ê, nhưng nàng không chịu chầu vua mà tuẫn tiết.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông (1054-1072) lại đem quân đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ, Chế Củ xin dâng đất ba châu: Bố Chính, Điạ Lý, Ma Linh (Quảng Bình và bắc Quảng Trị) để “chuộc tội”. Nhưng Chiêm Thành vẫn tiếp tục chống lại đòi đất ba châu.
Năm 1075, trước khi đánh Tống, Lý Thường Kiệt đem quân sang đánh Chiêm, bình định ba châu Bố Chính, Điạ Lý, Ma Linh, vẽ bản đồ và đưa người Việt vào ở.
Năm 1103, ở Nghệ An có Lý Giác làm phản, chạy sang Chiêm Thành, kết hợp với vua Chiêm là Chế Ma Na, đem quân chiếm lại ba châu.
Năm 1104, vua Lý Nhân Tông (1072-1127) lại sai Lý Thường Kiệt, lúc đó đã 70 tuổi, vào đánh Chiêm Thành, san bằng kinh đô Phật Thệ. Chế Ma Na thua chạy, xin trả lại ba châu. Lý Thường Kiệt trở về Thăng Long, một năm sau mất.
Có lẽ chính ở thời kỳ này, Chiêm Thành mới xây dựng kinh đô mới ở Trà Bàn còn gọi là Đồ Bàn, sâu về phía nam, địa thế hiểm trở hơn Huế.
Ranh giới nước ta lúc đó mới chỉ tới Quảng Bình và bắc Quảng Trị. Hai bên không chinh chiến trong một thời gian dài.
Đến đời nhà Trần, 1301, thượng hoàng Trần Nhân Tông đi chơi Chiêm Thành, hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Mân dâng hai châu Ô và Rí làm sính lễ. Năm 1306, cho công chúa về Chiêm. Năm 1307, vua Trần Anh Tông thu phục hai châu Ô, Rí, đổi tên là Thuận châu, Hóa châu, nước ta có thêm đất Thuận Hoá (Huế) từ đấy.
Huyền Trân công chúa lấy chồng chưa được một năm thì Chế Mân chết, vua Anh Tông không thể để em gái chết thiêu theo tục Chiêm Thành, bèn sai Trần Khắc Chung vào tìm kế rước công chuá về nước. Chế Chi, kế vị, muốn phục thù, Anh Tông mang đại quân cùng Trần Quốc Chân và Trần Khánh Dư vào đánh, bắt được Chế Chi đem về Thăng Long, ít lâu sau Chế Chi bị chết ở Gia Lâm, từ đó nước ta và Chiêm Thành có thù.
Năm 1376, quân Chiêm tấn công Hóa Châu (Huế), Trần Duệ Tông (1374-1377) thân chinh cùng Hồ Quý Ly đi đánh, vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga, khuôn mặt kiệt xuất của lịch sử Chiêm Thành sẽ cho ta nhiều bài học và làm ta khốn đốn trong mười ba năm.
Đại quân Duệ Tông và Quý Ly đóng ở cửa Nhật Lệ, tập trận. Đầu năm 1377, tiến xuống cửa Thị Nại, lấy đồn Thạch Kiều và động Kỳ Mang, rồi tiến đánh Đồ Bàn, kinh đô Chiêm Thành. Chế Bồng Nga phục quân ở ngoại thành, đoạn phao tin mình đã bỏ thành chạy trốn, Duệ Tông tưởng thật; mặc lời can gián, tiến binh vào thành, quân Chiêm hai bên đổ ra đánh úp. Duệ Tông tử trận. Quân lính gần như bị tiêu diệt. Đỗ Tử Bình giữ hậu quân không tiếp ứng. Hồ Quý Ly bỏ chạy. Đồ Bàn hay Quy Nhơn còn là mồ chôn Trần Duệ Tông.
Giết được Duệ Tông rồi, tháng sau Chế Bổng Nga đem quân ra đánh Thăng Long, thế mạnh không ai cự nổi. Nhà Trần hoàn toàn suy nhược, mỗi lần Chế Bồng Nga ra cướp phá Thăng Long, thượng hoàng Trần Nghệ Tông và vua Trần Phế Đế phải bỏ kinh đô chạy trốn. Quân Chiêm Thành bấy giờ vào nước ta như ra vào chỗ không người.
Năm 1389, Chế Bồng Nga lại tiến đánh Thăng Long, Nghệ Tông sai Trần Khát Chân, vua tôi đều khóc, đem binh ra chống cự ở sông Hải Triều (sông Luộc, Hưng Yên). Một tên hầu của Chế Bồng Nga có tội, sợ bị giết, chỉ cho Khát Chân thuyền Chế Bồng Nga. Khát Chân cho lệnh bắn vào thuyền, Bồng Nga trúng đạn chết. Đó là tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390).
Những năm kế tiếp, Hồ Quý Ly đảo chính lập nhà Hồ, đến năm 1402, Quý Ly mới sai Đỗ Mãn đem quân vào đánh Chiêm Thành, vua Chiêm dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam), Quý Ly đòi thêm đất Cổ Lụy (Quãng Ngãi).
Năm 1403, Quý Ly lại sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mãn đem 20 vạn quân thủy bộ vào vây thành Đồ Bàn, muốn chiếm nốt vùng Bình Định, nhưng quân Chiêm giữ vững không đánh nổi phải rút về.
Nước Việt trải qua cuộc lệ thuộc nhà Minh và cuộc kháng chiến Lê Lợi.
Gần 70 năm sau, năm 1470, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) mới cử đại binh hơn 20 vạn quân thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Thánh Tông dừng quân ở Thuận Hoá tập trận và sai người xuống Bình Định vẽ bản đồ các chỗ hiểm yếu, rồi mới tiến quân chiếm cửa Thị Nại, đánh vào Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm là Trà Toàn.
Lê Thánh Tông san bằng Đồ Bàn. Thanh thế nước Nam lừng lẫy. Người em Trà Toàn trốn vào núi, cầm cự thêm vài năm nữa.
Đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa (1558), năm 1611, ông lấy thêm đất Phú Yên. Biên giới phía Nam của nước ta lúc ấy dừng ở đèo Cả.
Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687), vị chúa lớn nhất triều Nguyễn, tiếp tục đánh chiếm hết nước Chiêm Thành rồi chiếm xuống Thuỷ Chân Lạp. Đến đời Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) ta chiếm xong Thủy Chân Lạp, lập nên 6 tỉnh Nam kỳ.
Cuộc chinh phạt chiếm Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp kéo dài từ Lê Đại Hành đến Nguyễn Phước Khoát, trải tám thế kỷ, nước ta đã mở rộng thêm diện tích từ Quảng Bình đến Hà Tiên.
Quy Nhơn, với bề dầy lịch sử của cuộc Nam tiến, đối với tôi là một vinh dự và ân hận. Vinh dự vì tổ tiên ta đã mở rộng đất nước gần gấp ba lần, về phương Nam. Ân hận vì chúng ta đã tiêu diệt dân Chiêm Thành. Vinh dự vì người dân miền Trung đều ít nhiều lai Chiêm Thành, một dân tộc oanh liệt, có nền văn minh lớn lao, để lại những tháp Chàm thiêng liêng, huyền bí.
Miền Trung, đã kết hợp hai tâm hồn Chiêm-Việt, tạo nên những khúc nam ai, nam bình, những điệu hò Huế, đậm nỗi u hoài của một dân tộc đã bị tiêu diệt nhưng lại hồi sinh trong lòng một dân tộc mới.
Miền Trung, nhắc tôi không bao giờ kỳ thị chủng tộc, bởi vì sự lai giống luôn luôn cho ta một sản phẩm mới, kết hợp thể xác và tâm hồn của hai dân tộc.
Chế Lan Viên làm tập thơ Điêu tàn để nói lên nỗi uất hận của dân Hời, gửi cho báo Phong Hoá, Khái Hưng viết lời giới thiệu nồng nhiệt, nhưng khi biết Chế Lan Viên là Hời giả, Khái Hưng không đếm xỉa đến nữa. Chỉ cần đọc một câu trong bài tựa của Chế Lan Viên là hiểu: “Điêu tàn có riêng gì cho nước Chiêm Thành yêu mến của tôi đâu. Kià kìa nó đang đục sọ dừa anh. Tiếng xương rạn vỡ dội thấu đáy hồn tôi”.Thơ ông trong Điêu tàn cũng nhạt như vậy (chỉ có Hoài Thanh là khen), thơ có nhiều đầu lâu, sọ, có ma, nhưng không làm ai sợ, cũng không gây rung động gì.
Phạm Duy có bài Nước non ngàn dậm ra đi, kể chuyện Công Chúa Huyền Trân, thật hay, thật lãng mạn.
Nhưng tội ác diệt chủng dân Chàm, người Việt không ai công khai nhìn nhận. Bởi lịch sử Việt Nam mà chúng ta được học là lịch sử anh hùng, mở mang bờ cõi.
Bà Mọi hú của Bình Nguyên Lộc chính là toà án lương tâm đầu tiên của người Việt xây dựng trên văn bản về sự xám hối đã sát hại người Chàm. (Bây giờ người ta gọi là Chăm, Champa, tôi thấy chữ Chàm thơ mộng hơn và chữ Chiêm Thành sang trọng hơn, tôi chưa bao giờ cảm thấy chữ Chàm và chữ Chiêm Thành ngụ ý xấu, mà ngược lại chữ Chăm trong tiếng Việt, nó thế nào ấy, vô nghĩa và chẳng đẹp gì hơn).
Trong Bà Mọi hú, Bình Nguyên Lộc mô tả một trái núi bé con đi lạc, xưa nó vốn thuộc dãy Trường Sơn, nhưng dân tộc nó bị dồn mãi, dồn mãi, nó phải ty nạn xuống phía nam, đến Biên Hoà nó dừng lại, sau này người ta gọi nó là núi bà Mọi. Chữ Mọi thực sự không ăn nhập với câu chuyện nguyên khởi, vì là từ chữ M.O.I (Main d’Œuvre Indochinoise), chỉ mới có từ thời thực dân, với ý khinh bỉ, miệt thị người thợ Đông Dương sang làm việc cho Pháp.
Nguyên khởi là từ khi người Việt chiếm dần đất Chiêm, họ đốt rừng, làm rẫy, dồn người Chiêm vào sâu, lên núi. Mới đầu người Chiêm còn chống lại, sau sức yếu dần, chết hết, chỉ còn lại độc một mình “mụ Mọi già, tóc tai bồm xồm, trông rất ghê sợ” ở lại giữ công tác du kích tuyệt vọng. “Rừng già bị gặm ngày một, chậm mà chắc chắn, mãi cho đến ngày kia thì vòng vây đã siết chặt quanh hòn núi như ở nhà quê người ta cạo trọc đầu con trẻ, chừa lại chiếc bánh bèo”.Nhưng rồi một ngày kia, bọn di dân chiếm đất bỗng thấy sáu con suối phát xuất từ đỉnh núi, chẩy xuống miền khẩn hoang dần dần bớt nước, rồi cạn hẳn. Thủ phạm là mụ Mọi già. Mụ đút nút nguồn của sáu ngọn suối bằng thịt cây gồ, một thứ gỗ khi thấm nước, nó cứ nở mãi, nở mãi… Không bắt được mụ, bọn di dân bèn đốt rừng, đốt mụ.
“Lửa leo núi được vài giờ thì người ta nghe tiếng hú dài ghê rợn trên đỉnh núi nổi lên.
Tiếng hú như kêu gọi một cách tuyệt vọng đồng bào sơn dã của mụ đến giải thoát mụ … tiếng kêu của mụ mất hút trong không khí, không có lấy một tiếng vang nào vẳng lại.
Tiếng hú vang rền từng hồi, hấp hối, rồi lại nấc lên và rốt cuộc chết lần, tắt hẳn, trong ngọn lửa cao ngất trời đã bò lên tới đỉnh”.
Tác phẩm của Bình Nguyên Lộc gây ấn tượng kinh hồn trong lòng người đọc về tội ác của tổ tiên mình.
Đến bài Hận Đồ Bàn của nhạc sĩ Xuân Tiên, là một tác phẩm độc đáo khác. Xuân Tiên ông không đổi tên thành Chế, nhưng ông đã làm một bản nhạc truyệt vời tưởng niệm dân Chàm:
Rừng hoang vu, vùi lấp bao nhiêu uất căm hận thù,
Ngàn gió ru, muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù
Vạc kêu sương buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường
Đàn đóm vương, như bóng ai trong lúc đêm trường về
Rừng trầm cô tịch đèo cao thác sâu hoang vắng cheo leo
ngàn muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngâm
âm thầm họa bài hận vong quốc ca
Người xưa đâu mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu
Lầu các đâu nay thấy chăng rừng xanh xanh một mầu
Đồ Bàn miền Trung đường về đây máu như loang thắm
chưa phai dấu xương trắng sâu vùi khí hờn căm… khó tan
Kìa ngoài trùng dương đoàn thuyền ai nhấp nhô trên sóng 
xa xa tắp
mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga
vượt khơi…
về kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù
triền sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ 
Tiệc liên hoan, nhạc tấu vang lên khí thiêng Đồ Bàn
dạ yến ban…
Người xưa đâu, mộ đắp cao nay đã sâu thành hào
Lầu các đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu? 
Bình Nguyên Lộc gọi người Việt là quân xâm lăng, Xuân Tiên gọi người Việt là quân giặc thù, đúng quá và đáng quá. Niềm ăn năn bất tận của một dân tộc có tội ác được nói lên công khai qua nghệ thuật. Nhạc của Xuân Tiên toát ra khí thiêng, đượm hồn sông núi, não nùng quyến rũ như những điệu múa Chiêm nữ trên đỉnh tháp chàm. Mỗi khi một ca sĩ hát lên, dù là người Chiêm chính hiệu như Chế Linh, hay Lão Nông, gốc Cần Thơ, hay người Việt Duy Khánh, gốc Quảng Trị, hoặc Trường Vũ gốc Triều Châu… ta nghe đều giật mình, rung động, nổi da gà. Một cảm tình không thể diễn tả được: ta vừa tự hào là kẻ chinh phục, vừa xám hối là kẻ giết người, giống như tình trạng người dân châu Mỹ La tinh, thù ghét tổ tiên mình, những tên Bồ, tên Y đã chinh phục cưỡng chiếm mẹ da đỏ để làm nên dân tộc họ. Tổ tiên ta cũng đã cưỡng chiếm Chiêm Thành để làm nên miền Trung, xương sống nước Việt.
Và ta, cùng với niềm hối hận khôn nguôi là một niềm vinh dự vô bờ, bởi sự kết hợp hai dân tộc anh hùng trong một.
Khi miền Nam thua trận năm 1975, nhiều người Việt phải bỏ nước ra đi, không ít người kêu than “mất nước”. Kêu như thế là chưa hiểu gì về đất nước: đất nước ta là một tập hợp sông núi, con người, văn hoá và lịch sử ngàn năm, nó có cái vinh quang cũng có cái ô nhục, bởi nó là tổ tiên ta, ta phải gánh tất cả, bởi nó đã ở trong ta, trong dòng máu.
Sinh con, ta tưởng nó là của ta, nhưng không, con ta là của nó. Duy chỉ có đứng trên đất nước, chỗ nào, ta cũng cảm thấy đó là của mình, đất nước là cái sở hữu duy nhất mà con người có được. Đi du lịch, biết bao nhiêu cảnh đẹp thế gian bầy ra trước mắt, nhưng cảnh đó không phải của ta, nó là của người Tầu, của người Pháp, của người Nhật… chỉ có nước Việt là của ta, của mình, miên viễn là của mình, xuyên qua các thể chế, thắng bại, được thua…
Vì thế, nước không bao giờ mất, chỉ thay đổi chế độ. Nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn không phải là chủ đất nước, họ là những người cai trị đất nước trong một thời đại. Nhìn như thế, ta sẽ thấy lòng an nhiên tự tại, một niềm hãnh diện mở ra tới vô cùng, bóp chết những thương đau, thù hận.
23/4/2019
Thụy Khuê
Theo http://thuykhue.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...