Thứ Hai, 31 tháng 5, 2021

Nguyễn Duy: Đánh thức tiềm lực - Nhìn từ xa... "Phấp phới Ngũ hành kỳ"

Nguyễn Duy: Đánh thức tiềm lực
Nhìn từ xa... "Phấp phới Ngũ hành kỳ"!

Không biết Họa sĩ nào đã ký họa Nguyễn Duy - một Nguyễn Duy trông thật ’’hầm hố’’!. Dưới bức vẽ, Vanchuongviet.org trích lời của cố nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn: ’’Hình hài Nguyễn Duy như đám đất hoang, còn Thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý hiếm mọc trên đám đất hoang đó...’’.
Nguyễn Duy tên thực Nguyễn Duy Nhuệ, sinh ngày 7 tháng 12 năm 1948 ở Đồng Vệ, thành phố Thanh Hóa - tỉnh Thanh Hóa. Anh là lớp nhà thơ thế hệ thứ 3 nếu lấy mốc từ thế hệ Thơ Mới - những năm ba mươi của thế kỷ 20. Sinh ra trong kháng chiến chống Pháp, trưởng thành hồi kháng chiến chống Mỹ, vang danh trong hòa bình thống nhất đất nước ở thời điểm  ’’Đêm trước Đổi mới’ - thập niên 80 của thế kỷ 20. Nguyễn Duy nổi tiếng với các thi phẩm: Đánh thức tiềm lực (1980 - 1982) và Nhìn từ xa... Tổ quốc (1983 - 1988), và Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.
Tôi biết đến Nguyễn Duy vào cuối năm 1991 nhân dịp người bạn đồng môn, đồng nghiệp, đồng khoa - kết thúc Hợp đồng Lao động với Liên Sô - vừa trở về. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, bạn cho quà chai Ruskaia Vodka, đưa cho mấy số tạp chí Lửa Ấm, xuất bản vào nửa cuối những năm 80 ở Mockba (đã cũ mèm), trong đó có in hai bài thơ của Nguyễn Duy. Ngoài tin, bài, sáng tác của những người Hợp tác lao động, sinh viên, lưu học sinh đang sinh sống ở Liên Xô, Lửa Ấm còn tuyển đăng tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ đã có danh trên văn trường Việt Nam.   
Bài thơ Đánh Thức Tiềm Lực (ĐTTL) rất dài, càng đọc càng bị say mê cuốn hút. Tôi đọc, bạn ra cổng mua mấy chai bia Tầu rồi xuống bếp làm mồi nhắm. Khi bày bàn nhậu, thấy tôi im lặng nhìn tờ tạp chí đăm chiêu, bạn ngỡ ngàng hỏi: Sao? Không hay à? Không hợp ’’gu’’ ư? Tớ tưởng...
- Không phải - tôi ngặt lời - Trái lại, mình chưa bao giờ đọc được bài thơ hay đến vậy.
Bạn phụ họa: Tôi cũng như cậu khi lần đầu tiên biết đến thơ Nguyễn Duy. Hai chúng tôi vừa uống bia ’’Tàu’’ (2) vừa mạn đàm sôi nổi về bài thơ...
Đánh thức tiềm lực được Nguyễn Duy viết từ năm 1980, mãi năm 1982 mới hoàn thành. Thời kỳ đó Việt Nam ở vào ’’Đêm trước đổi mới’’, đất nước vô cùng khó khăn vì vừa ra khỏi cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài 30 năm, lại phải tiếp tục ngay cuộc chiến tranh mới từ hai đầu: Chống diệt chủng Pol Pot được quan thấy xúi giục, hung hăng quấy rối biên giới phía Nam và chống ngoại xâm Trung Hoa ở biên giới phía Bắc. Chưa hết: còn bị Mỹ câm vận, bị cô lập với thế giới bên ngoài... thôi thì đủ thứ ’’tại - bị’’. Kết thúc chiến tranh súng đạn, lại phải tiếp tục cuộc ’’chiến’’ với chính mình: Chống trì trệ và đói nghèo - khiến cả dân tộc gồng mình chống đỡ.
Nguyễn Duy đã nghiêm khắc đối diện với thực tại - bằng sự nhậy cảm của nhà thơ tài năng - dũng cảm gửi gắm lời cảnh báo qua ĐTTL. Toàn bài thơ toát lên tâm trạng xót xa, trăn trở của một người yêu nước tha thiết, mãnh liệt rồi truyền cảm xúc cho người đọc. Bài thơ nói về nhiều vấn đề cốt lõi đang trở thành nỗi đau nhức nhối khiến xã hội như ’’dậm chân hoài một chỗ’’ (3):
’’... Sông giàu đằng sông, bể giàu đằng bể
còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào
lòng đất giàu mà mặt đất cứ nghèo sao?
Lúc này ta làm thơ cho nhau
đưa đẩy làm chi những lời ngọt, lạt
ta ca hát quá nhiều về Tiềm lực
Tiềm lực còn ngủ yên!
Có những câu thơ, đọc lên, người đọc mủi lòng, rưng rưng:
Xin em nhìn kìa - người cuốc đất
cái cuốc theo ta đời này, đời khác
đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất...
Xin em hãy nhìn - người gánh phân gánh thóc
kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng...
nhìn cái đẹp thế kia em có chạnh lòng không?
cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa.
Suốt bài thơ luôn lặp đi lặp lại điệp khúc: Tiềm lực còn ngủ yên… Tiềm lực còn ngủ yên - sau những thống kê hiện tượng: ’’... Vì tim mắc bệnh đập cầm chừng... bộ óc mang khối u tự mãn... con mắt lờ đờ thủy tinh thể... lỗ tai viêm màng nhĩ... lỗ mũi thở khò khè không phân biệt được mùi thơm... (thối)’’ - nghĩa là (bệnh) vô cảm của một cơ thể đang ốm nặng, tác giả ’’bốc thuốc’’:
Năng động lên nào!
Cấn lưu ý... cần lưu ý:
lời nói thật có thể bị buộc tôi
lời nịnh hót dối lừa
có thể được tuyên dương...
lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường
Một đoạn thơ mà như khái quát cả góc khuất thế thái nhân tình của cuộc đời:
Có cái miệng làm chức năng cái bẫy
Sau nụ cười lởm chởm răng cưa
Có cái môi mỏng hơn lá mía
Hôn má bên này, bật máu má bên kia...
Có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa...
Các điệp khúc như một câu hỏi của tác giả đau với nỗi đau nhân quần. Bài thơ dài 206 câu, mà câu nào của rớm máu, thấm đẫm mồ hôi, chứa chan tủy, não...
Năm 1983 - Nguyễn Duy có dịp đến Liên Xô, từ đây anh viết bài thơ thứ 2 - Nhìn từ xa... Tổ quốc, 5 năm sau (1988) mới hoàn chỉnh. Vẫn theo cấu trúc của Đánh thức Tiềm lực, từ nơi xa xôi đầy tuyết trắng, đêm đêm, Nguyễn Duy tĩnh tri nhìn về quê  nhà... Ngay từ hơn 20 năm trước, Nguyễn Duy đã nhìn ra sự bất cập lớn của xã hội: 
’’... Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
Ma quái - ma cô - ma tà - ma mãnh...
Đạo chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
Buôn lậu, buôn quan, buôn thánh thần - buôn tuốt
Quyền lực bày ra, đấu giá trước ông đường.
Tác giả trăn trở:
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh…
tượng Phật khóc, Đức Tin lưu lạc…
Xứ sở kỷ cương sao thật lắm thứ vua
Vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chĩa
Vua không ngai - vua choai choai - vua nhỏ...
Luật pháp như đùa, như có, như không
Một người đi chật cả con đường...
Những tệ nạn xã hội đã  phải báo động:
Xứ sở thật thà sao lại lắm thứ điếm
điếm biệt thự, điếm chợ, điếm vườn
điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn...
Trẻ em - tương lai của đất nước - thì:
Tuổi thơ oằn vai, mồ hôi nước mắt...
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường...
Nguyễn Duy đau lòng trước cuộc di tản khổng lồ:
Xứ sở bao dung sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia ly toe toét cười
Rồi nhà thơ chỉ ra sự liên hệ hữu cơ - Nguyên nhân gây đến các bất cập:
Chích một mẫu đem xét nghiệm
Tí trí thức - tí thợ cầy - tí điếm
Tí con buôn - tí cán bộ - tí thằng hề
Phật và Ma - mỗi thứ tí ti...
Bài thơ này cũng dài 185 câu, câu nào cũng như nhát dao cứa vào da thịt người đọc.
Bẵng đi thời gian - có dễ đến cả chục năm - Nguyễn Duy mới cho công bố tiếp thi phẩm thứ ba: Kim Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Về cấu trúc, KMTHT vẫn giống mạch thơ của ĐTTLTQNTX. Nhưng thi pháp, cấu tứ, ngôn từ có nét khác. Nếu hai thi phẩm trước đó, tác giả chọn không gian thể hiện là  một nhát cắt - xã hội - theo chiều ngang đễ chiếu lên mặt phẳng, tạo ra bức tranh toàn cảnh - như cây gỗ quý, cổ thụ - thể hiện chất lượng của lòng mình bằng những lớp vân với nhiều sắc thái, nhiều đường cong khác nhau do năm tháng đời gỗ - tạo ra. KMTHT lại được tác giả cắt những hai lát vuông góc nhau; Chiều thẳng đứng và chiều nằm ngang, thể hiện rất sinh động bức tranh lập thể ba chiều của xã hội Việt Nam hiện đại. Bài thơ không chỉ nói với người Việt, đất Việt, mà nó đã vượt biên giới, bay trên không gian cảnh báo, nói với cả nhân loại đang tồn tại trên hành tinh xanh: Hãy bảo vệ môi sinh cho cái nôi sự sống.
Mở đầu KMTHT, tác giả đặt vấn đề rồi khẳng định:
Quả đất nóng dần lên
tầng ôzôn có vấn đề gì đó
Sọ dừa gặp vấn đè trì trệ
Tri thức nhồi vào, tri thức cứ phòi ra
Mắt vấn đề toét, tai vấn đề ù
bất ổn vấn đề giấc ngủ...
Sau những ’’vấn đề’’ - kết thúc chương 1, tác giả kết luận:
Đai loạn thay thiên hạ rắc rối
vấn đề tầng ôzôn cả thôi!
Các chương sau - 2,3,4, người đọc lại đọc được những câu thơ mang tính quy nạp triết học - rất thơ:...
Có người thách ta đánh nhau
Ta bảo ta già rồi lại không có võ
Có kẻ thách ta chửi nhau
Ta bảo ta vừa mất trộm sọt từ ngữ
Có kẻ thách ta nhổ vào mặt nó
Ta bảo ta hết đờm rồi...
Tác giả ao ước được sống với riêng mình và những mơ ước nhỏ nhoi của con trẻ:
Ta khao khát tiếng hát giun dế
Không kiểm duyệt, không biên tập
Tao ao ước cái bay chim chóc
Không hộ chiếu, không biên giới…
Cứ thế, hết cả 4 chương, KMTHT và hơn 300 câu thơ của ĐTTL, NTXTQ, Nguyễn Duy cung cấp dữ liệu, chứng minh, gợi mở cho người đọc tiếp tục suy nghĩ: Thiên nhiên - không gian. Suy nghĩ về tầng ÔZÔN mãi tận chín tầng cao - là nguyên nhân của mọi nguyên nhân những hậu quả tai họa khủng khiếp. Thế mà, những ông lớn đang cầm cân thế giới vẫn còn đang cãi nhau, tị nạnh nhau theo kiểu ngang ’’bứa’’, Chí phèo, đại loại: Anh giàu vì anh chính là người trong quá khứ thải ra không gian rác rưởi nhiều nhất, bây giờ phải gương mẫu ’’Giảm hiệu ứng nhà kinh’’ - trước. Còn tôi nghèo, tôi phải xóa đói, diệt nghèo đã - tôi sẽ làm sau! Thế là trái đất cứ tiếp tục nóng lên... băng ở hai cực đã bắt đầu chuyển minh - tan! Hàng loạt thiên họa triền miên xuất hiện... Nhưng cuộc bàn thảo vẫn cứ dậm chân tại chỗ: Vì anh nào cũng không chịu anh nào, nhất là trong việc tìm cách kiếm tiền, thu lợi cho đầy túi mình, tập thể mình, dân tộc mình với mục đích bất minh, bất kể mang lại hậu quả gì cho nhân loại. Đạo lý ’’Sống chết mặc bay, tiền thầy đút túi’’- được họ thực hiện triệt để! Nguyễn Duy lại cảnh báo bằng câu thơ đầy ấn tượng: Một... ’’ngày kia thiên nhiên ăn thịt tuốt’’!  
Bằng lý trí của  nhà khoa học, tác giả chỉ ra: Tất cả mọi bất cập đều do tầng ÔZÔN gây ra. Con người làm bừa, làm sai... nó tích tụ, nhận hết, đến một lúc nào đó - ’’Lượng đổi dẫn đến chất đổi’’ - nó trả thù: Trái đất sẽ bị hủy diệt, nổ tung - thế là đi đời hết!
KMTHT được viết từ mươi năm trước, bây giờ, hôm nay - quả báo nhãn tiền: Sóng thần - Núi lửa - Động đất - Ngập lụt - Bão tố - Cháy rừng - Bệnh dịch - vân vân và còn rất nhiều v.v... do hệ quả của sự bừa bãi, sai lầm... tác đông đến nhân loại về mặt xã hội.
Người đọc được nhà thơ dẫn dắt qua những miền văn hóa với những hình ảnh đầy xúc động, gợi mở về những ’’vấn đề’’ đang diễn ra trong xã hội Việt Nam hiện đại trong mọi lĩnh vực. 
Về Văn:
Thôi đừng hót những điều chim chóc nữa.
Máu nhiễm trùng, ta có thể thay chăng?... 
Về Thơ:
Lúc này ta làm thơ cho nhau.
Đưa đẩy làm chi những lời ngọt lạt...
Về  Âm nhạc:
Những quàng quạc đành đạch âm nhạc...
Về Hội họa - Tạo hình:
Xin em nhìn người gánh phân gánh thóc
Kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng
Nhìn cái đẹp thế kia em có chạnh lòng không...
Về đói - nghèo và trẻ em:
Nón hành khất vấn đề xó chợ
trẻ lang thang vấn đề bụi đời...
Về ẩm thực - nhậu nhẹt:
những cua ốc nghêu sò nguồn thi hứng tràn đầy...
Vào cuộc nhậu có kẻ rất sợ tiết
Dù ở đời họ máu tiết canh nhau...
Và còn nhiều vân vân - nữa...
Thơ Nguyễn Duy không còn là thứ Thơ theo nghĩa thông thường cổ điển: Ngâm, Vịnh. Mà, đã trở thành một tác phẩm văn học có sức thuyết phục như một bài bình luận - chính luận, một thiên Phóng sự, Bút ký, hay nếu xâu chuỗi, hệ thống: Đó chính là một cuốn tiểu thuyết được cô đúc, chắt lọc - ’’Nén - ép’’ lại. Bởi vì, dù chỉ có dăm trăm câu thơ với vài ba nghìn chữ, thi sĩ đã nói được hơn rất nhiều cuốn sách dầy hàng nghìn trang với hàng chục vạn từ...
Phân tích, ca tụng thơ Nguyễn Duy chẳng khác nào hành động ’’đốt đuốc tìm vật mất giữa ban ngày’’!. Hãy làm một việc như thế này sẽ có ích hơn: Dạo trên miếng đất hoang, kiếm, tìm thêm thứ cây - khóm hoa quý hiếm.
Nhưng, khóm hoa to, quý, phải đào cả cụm.
Cây quá nhiều rễ ăn sâu vào đất... không thể để đứt rễ nên phải bứng cả đất. 
Làm thế nào đây: Chẳng thể có bình, đôn, chậu thông thường chứa được cả Đất - Cây, đành lấy cái vại sành ngoại cỡ của lò gốm sứ Hương Canh - (tuy hình hài vại sành hơi... thô, ráp) - rồi mang đặt cây vào đó, khênh, bưng lên trên bàn Văn Chương Việt - để thỏa mãn sự chiêm ngưỡng của mọi người!
Thứ cây hoa quý hiếm tìm được trên mảnh đất hoang dã - chính là:
Đánh thức tiềm lực
Nhìn từ xa... Tổ quốc
Kim mộc thủy hỏa thổ (1) 
7.11.2007
(1) Câu kết của bài thơ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, (đăng trên vanchuongviet.org ngày 8.4.2006 - tìm mục Tác giả Nguyễn Duy).
(2) Tôi nhớ rõ kỷ niệm: Lúc đó cả miền Bắc chỉ có một nhà máy Bia Hà Nội. Dân ta đưa chuối xanh lên bán cho dân Tàu, mua bia về cung cấp cho nhu cầu của dân nghiện... bia. Ngay lập tức nổi lên dư luận: Trung Quốc chống tăng dân số, sản xuất bia cho thêm, hòa vào chất gì đó, dân ghiền rượu, bia uống bị ’’diệt dục’’, dẫn tới ’’vô sinh’’. Dù vậy những ’’Sâu bia Hà Nội’’ vẫn bỏ ngoài tai bởi bia ’’Tàu’’ thực ra ngon hơn hẳn bia ’’Ta’’.
(3) Thơ Huy Cận - Các vị La Hán chùa Tây Phương.
ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC
NGUYỄN DUY:
(Tiễn đưa anh S.D (*) đi làm kinh tế)
Hãy thức dậy đất đai
Cho áo em tôi không còn vá vai
Cho phần gạo mỗi nhà không còn
thay bằng ngô, khoai, sắn...
Xin bắt đầu từ cơm no áo ấm
Rồi đi xa hơn - đẹp và giàu,
và sung sướng hơn.
Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non
châu báu vô biên dưới thềm lục địa
rừng đại ngàn bạc vàng là thế
phù sa muôn đời như sữa mẹ
sông giàu đằng sông, bể giàu đằng bể
còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào
lòng đất rất giàu, mà mặt đất cứ nghèo sao?
Lúc này ta làm thơ cho nhau
đưa đẩy làm chi những lời ngọt lạt
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên...                      
Tôi lớn lên: bên bờ bãi sông Hồng
trong mầu mỡ phù xa máu loãng
giặc giã từ con châu chấu, con cào cào
mương máng, đê điều ngổn ngang chiến hào
 trang sử đất ngoằn ngoèo trận mạc
giọt mồ hôi nào có gì to tát
bao nhiêu đời mặn chát các dòng sông
bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất, mất đồng
thuyền vỏ trấu mỏng manh ba chìm bẩy nổi
khúc dân ca cũng bèo dạt, mây trôi
hột gạo nõn nà hao gầy đi vì thiên tai
đói thâm niên
đói truyền đời
điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói...                      
Tôi đã qua những chặng đường
miền Trung bỏng rát
và dai dẳng
một bên là Trường - sơn - cây - xanh
bên còn lại: Trường - sơn - cát - trắng
đồng bằng hình lá lúa gầy nhẳng,
cơn bão chưa qua, hạn hán đổ tới rồi
ngọn cỏ nhọn thành gai mà trốn không khỏi úa
đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ
cơn gió Lào rát ruột, lắm em ơi!
Hạt giống ở đây chết đi, sống lại
hạt gạo kết tinh như hạt muối
cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời,
Tôi về quê em châu thổ sáng ngời
sông Cửu Long giãn mình ra biển
đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển
cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi
Đất tận sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt
lòng còn chát chua nào mặn, nào phèn
mà sung sức và ba cường tráng thế
man mác âu sầu trong câu hát ru em
Đã đi qua những huyền thoại cũ mèm
những đồng lúa không trồng mà gặt
những ruộng cá không nuôi mà sẵn bắt
những nghễnh cẳng, vuốt râu làm chơi ăn thật
miếng ăn nào không nước mắt mồ hôi!
Ruộng bát ngát đó thôi, và gạo đắt đó thôi
đất ghiền phân vô cơ như người ghiền á phiện
con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng
thóc bỏ mục ngoài mưa,
thiếu xăng dầu vận chuyển
phà Cần Thơ lê lết người ăn xin
cây đàn hát rong não nề câu vọng cổ
quán rượu lai rai - nơi thừa thiếu trốn tìm                      
Này, đất nước của ba miền cầy ruộng
chưa đủ no cho đều khắp ba miền
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên.                 
Lúc này tôi làm thơ tặng em
em có nghĩ tôi là đồ vô dụng
vô dụng lấy đi của cuộc sống những gì?
và trả lại được gì cho cuộc sống?
em có nghĩ tôi là con chích chòe
ăn và gại mỏ
Em có nghĩ
tôi là tay chuyên sản xuất hàng giả?
Em có nghĩ tôi là kẻ thợ chữ
đục đẽo nát cả giấy
múa võ, bán cao trên trang viết mong manh?
tình nghĩa nhập nhằng với cái hư danh?...
tờ giấy chép văn thành tờ giấy bạc?
Em có nghĩ...
mà thôi!                     
Xin em nhìn kìa - người cuốc đất
(tôi cũng từng chai tay cuốc đất)
cái cuốc theo ta đời này, đời khác
lưỡi cuốc nhỏ nhoi liếm sạch cánh đồng rồi
dướn mình cao
chĩa cuốc lên trời
bổ xuống đánh phập
đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất!
Xin em nhìn - người gánh phân gánh thóc
(tôi cũng từng gánh phân gánh thóc)
kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng
đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh
Những cái đẹp thế kia...
em có chạnh lòng không?
cái đẹp gợi về thuở ngày xửa ngày xưa
nhịp theo tiết tấu chậm buồn
cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa!
Em có chạnh lòng chăng?
giữa thành phố huy hoàng
bạt ngàn quán nhậu
bỗng hiện lù lù chiếc xe hơi chạy than
vệt than rơi tóe lửa mặt đường
Em có chạnh lòng chăng?
xích lô đạp càng ngày càng nghênh ngang
Xích lô máy và xe lam chạy dầu
vừa nã đại liên vừa
phun khói độc
người đi bộ vừa đi vừa nghĩ về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên...                         
Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo
quen cái thói hay nói về gian khổ
dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm
Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất
bãi tha ma không một cái mả xây
mùa gặt hái rơm nhiều, thóc ít
lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày
thuở tới trường cũng đầu trần chân đất
chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai
thầy giáo giảng rằng
nước ta giàu lắm!...
lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài

Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
ta biết buồn để biết chuyện lạc quan
và, để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con
(dù sau này dầu mỏ có phun lên)
quặng bô xít cao nguyên
đã thành nồi, thành xoong,
thành tàu bay hay tầu vũ trụ...
dù sau này có như thế... như thế... đi nữa
thì chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại rằng:
đừng quên đất nước mình nghèo!
Lúc này
tôi và em chẳng còn là lũ trẻ con nữa
tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh
sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng
trước mặt ta vẫn còn đường gập ghềnh
vẫn trắng trong tấm lòng trung thực
dù có thể lỗi lầm - làm thế nào
mà biết được
dù có sao thì vẫn phải chân thành
Xưa mẹ ru ta ngủ yên lành
để khôn lớn ta hát bài đánh thức
có lẽ nào người lớn cứ rủ nhau
ru tiềm lực ngũ vùi trong thớ thịt.
Tiềm lực còn ngủ yên
trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng
Tiềm lực còn ngủ yên
trong bộ óc mang khối u tự mãn
Tiềm lực còn ngủ yên
trong con mắt lờ đờ thủy tinh thể
Tiềm lực còn ngủ yên
rong lỗ tai viêm chai màng nhĩ
Tiềm lực còn ngủ yên
trong ống mũi khò khè
không nhận biết mùi thơm
Tiềm lực còn ngủ yên
rong lớp da biếng lười cảm giác
năng động lên nào
từ mỗi tế bào từ mỗi giác quan
cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi
Cần lưu ý
lời nói thật thà có thể bị buộc tội
lời nịnh hót dối lừa
có thể được tuyên dương
đạo đức giả có thể thành dịch tả
lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường
Cần lưu ý
có cái miệng làm chức năng cái bẫy
sau nụ cười lởm chởm răng cưa
có cái môi mỏng hơn lá mía
hôn má bên này, bật máu má bên kia
có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa
khái niệm bắn ra không biết lối thu về 
Cần lưu ý
có lắm sự nhân danh lạ lắm
mượn áo thánh thần che lốt ma ranh
nhân danh thiện tâm làm điều ác đức
rao vị nhân sinh để bán món vị mình
Cần lưu ý
có lắm nghề lạ lắm
nghể mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau
nghề chửi đổng,
nghề ngồi lê,
nghề vu cáo
nghề ăn cắp lòng tin và
chẹn họng đồng bào
có cả nghề siêu nghề,
là nghề không làm gì cả
thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề...
Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy
phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ yên
Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát
ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC...
T. phố Hồ Chí Minh 1980 - 1982
Nguyễn Duy           
(*) SD - Sáu Dân - Bí danh của nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt.
NHÌN TỪ XA... TỔ  QUỐC!
Đối diện ngọn đèn
trang giấy trắng như xeo bằng ánh sáng
Đêm Bắc bán cầu vần vụ trắng
nơm nớp ai rình sau lưng ta
Nhủ mình bình tâm nhìn về quê nhà
xa vắng
núi và sông
và vết rạn địa tầng
Nhắm mắt lại mà nhìn
thăm thẳm
yêu và đau
quằn quại bi hùng
Dù ở đâu vẫn Tổ quốc trong lòng
cột biên giới đóng từ thương đến nhớ
Ngọn đèn sáng trắng nóng mắt quá
ai cứ sau mình lẩn quất như ma
Ai?
im lặng!
Ai?
cái bóng!
Ai?...
xin chào người anh hùng bất lực
dài ngoẵng
bóng máu bầm đen sóng soãi nền nhà
Thôi thì ta quay lại
truyện trò cùng cái bóng máu me ta                  
Có một thời ta mê hát đồng ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta vẫn là ta (1)
Vâng - đã có một thời hùng vĩ lắm
hùng vĩ đau thương hùng vĩ máu xương
mắt người chết trừng trừng
không chịu nhắm
Vâng - một thời không hể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược dòng
Thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên nhồn nhột cả tim gan                      
Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh
nỗi day dứt không nguôi còn sạn gót chân
nhói dài mỗi bước
Ai?
không ai!
Vết bầm đen đấm ngực 
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
Ai?
không ai!
Vết bầm đen quều quào dơ tay                    
Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái - ma cô - ma tà - ma mãnh...
quỷ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài
Đêm huyễn hoặc
dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác
mắt ai xanh lè lạnh toát lửa ma trơi
Ai?
không ai
Vệt bầm đen ngửa mặt lên trời                     
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc, Đức Tin lưu lạc
Thiện ác - nhập nhằng
Công lý nổi lênh phênh
Ai?
không ai
Vệt bầm đen tọa thiền
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ sác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ oằn lưng xuống chiếc
bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê (2) đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt... bóng nhân tài thất thểu
Ai?
không ai
Vết bầm đen cúi đầu lặng thinh                    
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự - điếm chợ - điếm vườn...
Điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ai?
không ai
Vết bầm đen vò tai
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn ông
lắm mẹo lãn công
Già vờ lĩnh lương
giả vờ làm việc
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
Đạo chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu - buôn quan
- buôn thánh thần - buôn tuốt
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường 
Ai?
không ai
Vết bầm đen nhún vai                       
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia ly toe toét cười

Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Ai?
không ai
Vết bầm đen rứt tóc
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm vua
vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chĩa (3)
vua không ngai - vua choai choai - vua nhỏ...
Lãnh chúa sứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa - như có - như không
một người đi chật cả con đường
Ai?
không ai
Vết bầm đen gập vuông thước thợ                    
?...?...?...
Ai? Ai? Ai?
không ai
Vết bầm đen còng còng dấu hỏi
Thôi thì ta trở về
còn trang giấy trắng tinh chưa băng hoại
còn chút gì le lói ở trong lòng                      
Đôi khi nổi máu lên đồng
hồn thoát xác
rũ ruột gan ra đếm
Chích một giọt máu đem xét nghiệm
tí trí thức - tí thợ cầy - tí điếm
tí con buôn - tí cán bộ - tí thằng hề
Phật và Ma... mỗi thứ tí ti...
Khốn nạn thân nhau
nặng kiếp phân thân mặt nạ
Thì lột mặt đi - lần nữa mãi mà chi
dù dối nữa cũng không lừa được nữa
khôn và ngu cũng có tính mức độ                                 
Bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao
miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê - ngộ độc tự hào
bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại
biết thế nhưng mà biết làm thế nào
Chả lẽ bây giờ bốc thang chửi bới
thấy chửi bới nhẹ gian nanh cơ hội
Chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại
lạy ông - cơ - chế, lạy bà - tư - duy
xin đừng hót những điều chim chóc mãi
Đừng lớn lời khi dân lành ốm đói
vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn
Đổi mới thật hay giả vờ đổi mới?
máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?                     
Thật đáng sợ ai không có ai thương
càng đáng sợ không còn ai ghét
Ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết
ta là gì? ta cần thiết cho ai?
Có thể ta không tin ai đó
có thể không ai tin ta nữa
dù có sao vẫn tin ở con người
Dù có sao
dù có sao đừng khoanh tay
khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối
Cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn?
những người tốt đang cần liên hiệp lại
Dù có sao vẫn Tổ Quốc trong lòng
mạch tâm linh trong sạch vô ngần
còn thơ còn dân
ta là dân: vậy thì ta tồn tại
Giọt từng giọt
nặng nhọc
Nặng nhọc thay
Dù có sao
đừng thở dài
còn da lông mọc còn chồi nảy cây (4)
Mạc Tư Khoa tháng 5/1983
TP. Hồ Chí Minh 19/8/1988
Nguyễn Duy
Ghi chú:
(1) Một câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên hồi chiến tranh chống Mỹ.
(2) Một trò chơi dân gian của trẻ em Việt Nam.
(3) Chôm: Ăn cắp; Chĩa: Ăn cướp (tiếng nóng Nam Bộ)
(4) Một câu Ca dao cổ.

22/11/2007
Lê Xuân Quang
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...