Thứ Hai, 31 tháng 5, 2021

Số phận và cuộc đời

Số phận và cuộc đời

MỞ ÐẦU
Mùa Xuân Ðến!
Mưa xuân phơn phớt bay. Hoa lá, cây cỏ tươi tốt mơn mởn, chim ríu rít ca hót... vạn vật bừng tỉnh sau một mùa đông dài lạnh lẽo.
Mùng 10 tháng giêng. Hội chùa Hương bắt đầu. Từng đoàn người ở khắp nơi đổ về Hà Nội, chuyển xe đi chùa Hương. Các bến xe nhộn nhịp chẳng khác nào những ngày giáp tết.
Trụ sở Tòa soạn báo Ngày Mới khai xuân.
Nhân viên, Phóng viên tề tựu đông đủ. Tại các phòng ban không khí sôi nổi. Dư âm của ngày tết vẫn còn vương lại, xoay quanh chuyện bánh chưng, giò lụa, thịt đông, các món ăn ngon và những tràng cười ròn rã...
Trước cửa văn phòng Tổng Biên Tập (TBT) nhiều người đứng chờ.
TBT đang nói điện thoại... cuộc điện đàm dứt, gác máy, anh lên tiếng: Mời nhóm phóng viên lưu động vào trước!
Bốn người ăn bận gọn gàng tề chỉnh ùa vào. Thủ trưởng vui vẻ tiếp anh em thuốc lá 555, chè Thái nguyên loại hảo hạng. Sau tuần chè thuốc, TBT bảo: Các ông đến vừa đúng lúc. Công việc có thay đổi so với phân công hôm trước tết. Ðầu đuôi thế này: Một người bạn, chủ đơn vị kinh doanh của người Việt ở nước ngoài điện thoại cho tôi, đặt làm một bộ phim về lễ hội chùa Hương. Tôi nói xin khất sẽ trả lời sau 2 giờ. Các ông đến, chúng ta bàn xem có thể đáp ứng nhu cầu của anh ấy không? Yêu cầu của khách hàng giao sản phẩm rất gấp - Ba tuần lễ - các anh đồng ý, tôi mới quyết định!
Tôi nóng lòng hỏi: Ðộ dài, thời hạn, yêu cầu chất lượng, loại hình phim như thế nào?
- Yên trí! Giống như phim Lễ Hội Ðền Hùng mà ta đã làm. Dạng phim Phóng sự - Nghệ thuật. Tiền làm phim họ trả khá hậu. Chỉ có điều thời hạn giao sản phẩm quá gấp.
Tôi và Thường đóng vai trò chủ chốt trong việc này nên mọi người nhìn chúng tôi chờ đợi. Ðã quen với công việc, tôi nói: Tuy hơi căng về thời gian... nhưng chúng tôi sẽ cố gắng!
- Vậy xin hai anh bắt tay ngay. Sếp kết thúc cuộc họp nhanh chóng. Chúng tôi ra về trong niềm vui vì đầu năm được giao nhiệm vụ quan trọng. Tuy vậy hơi lo vì thời hạn giao hàng rất hạn hẹp. Tôi và Quý Thường về phòng vội phác thảo kịch bản. Hai đứa bàn bạc, tranh luận, thêm bớt... cuối ngày đi đến thống nhất. Hôm sau chúng tôi lên gặp TBT thông qua đề cương kịch bản. Anh nghe tôi trình bầy xong, bổ xung một số chi tiết... đoạn nhấn mạnh: Phải làm nổi bật chủ đề lễ hội và phong cảnh của di tích ''Nam thiên đệ nhất động''. Khuôn hình  phải đẹp, lời bình hay! Không chỉ là kiếm tiền, mà còn phải là tác phẩm đích thực nghệ thuật, phục vụ bà con ở xa tổ quốc không về đi lễ chùa được!
Tôi cắm cúi hoàn tất kịch bản mà Sếp đã bổ xung. Thường lo chuẩn bị máy móc và phương tiên đi lại, kinh phí... Ba ngày sau chúng tôi lên đường ''hành quân'' vào chùa Hương.
Ðường từ Hà Nội vào chùa Hương đông nghịt ô tô, xe đạp, xe máy. Hai chúng tôi lỉnh kỉnh đồ nghề trên chiếc Suzuki 100 cũ kỹ. Luồn lách mãi mới qua được Nhổn, tới Vân Ðình. Khi lên bờ đê, sắp đến bến Ðục xe hỏng. Từ đây ra bến Ðục còn mấy cây số, đồ đạc nhiều không thể đi bộ. Tôi đứng bên đường băn khoăn, sốt ruột. Quý Thường hì hục chữa xe... Suy nghĩ, thảo luận với Thường, cả hai đi đến thống nhất: Tôi đi trước tranh thủ chớp chảo trời đang có nắng ghi lại cảnh vào hội. Thường lo sửa xe đến sau, hẹn nhau ở văn phòng Ban quản lý di tích chùa Hương, chiều nay - đoạn cầm đồ nghề ra vẫy xe quá giang vào chùa.
Trên đường, người, xe các loại đông nườm nượp. Nhiều chiếc trên xe nêm chặt, lặc lè nên họ không đỗ. Nhưng có những chiếc xe chỉ có vài người mà họ cũng không cho đi nhờ. Ðang thất vọng, chợt thấy một chiếc xe sang trọng từ xa tiến lại, nghĩ rằng xe này của người nước ngoài, tôi không vẫy, đứng nguyên. Nhưng, chiếc xe giảm tốc độ, táp vào bên đường, cách chỗ tôi đứng độ năm mét. Một thanh niên trẻ măng - chừng hai mươi tuổi - thò đầu qua cửa kính, gọi: Chú ơi! vào chùa hả? Tôi gật đầu - mời chú lên xe đi - Cậu trai nói và dơ tay vẫy. Tôi vui mừng khôn xiết, vai mang, tay xách tiến lại. Ở bên trong, ghế sau có một người phụ nữ chừng trên 50 tuổi, mở cửa xe, đón hộ một số dụng cụ đồ nghề. Tôi trườn vào. Sau khi đã ngồi thoải mái, xe chuyển bánh, mới quay sang cám ơn chủ xe. Nhìn người phụ nữ trước mặt, tôi sững người: Khuôn mặt của chị làm tôi suy nghĩ - hình như đã từng gặp ở đâu - tôi lục lọi trí nhớ... à đây rồi!... Chị chính là người phụ nữ đã được đồng nghiệp viết bài, chụp ảnh, đăng trên báo Tiền Phong mấy năm trước. Có điều bây giờ trông chị béo hơn so với bức ảnh kia. Thấy tôi lỉnh kỉnh với máy quay, chân, đèn, chị hỏi: Anh vào Chùa công tác à?
- Vâng! thật may mắn, nếu không được chị cho quá giang, không biết đến bao giờ mới vào đến nơi, lỡ cả mọi chuyện. Xin hỏi, chị ở tỉnh nào về lễ chùa? - Tôi thăm dò.
- Tôi ở tỉnh T. Còn anh ?
- Tôi ờ Báo Ngày mới, vào làm phim về lễ hội.
Chúng tôi nói chuyện bâng quơ. Vừa lúc xe đã tới bến đỗ, chị hỏi: Anh ở lại chùa đến mai, hay tối về Hà Nội?
- Tôi phải ở lại vài ngày, vì cần có cả những cảnh quay ban đêm...
- Thế thì mẹ con tôi mời anh cùng ở một khách sạn cho vui, thế nào? Chưa kịp lên tiếng, chị tiếp: Tôi tuy quê ở T, nhưng gần tám năm làm việc ở Hà Ðông, hàng năm chùa mở hội đều đi, khá quen thuộc cảnh quan của thắng cảnh ''Nam Thiên đệ nhất động''. Nếu anh cần người hướng đạo, hy vọng có thể giúp anh được.
- Tuyệt diệu! Ðược chị giúp đỡ còn gì bằng. Kẹt nỗi, còn một người bạn nữa - tôi không dám từ chối thẳng, vì số tiền công tác phí mà Tòa soạn chi cho hai chúng tôi quá hạn hẹp - Mà mới gặp... Tôi nêu lý do cốt để từ chối khéo. Ai ngờ chị thản nhiên, tiếp:  Mời cả anh ấy nữa! Không để cho tôi kịp tiếp lời, chị quay sang bảo chàng trai: Tú Anh, con thuê thêm một buồng hai giường, mẹ con ta mời hai chú ở cùng cho vui - đoạn chị quay sang, tiếp: Cũng là dịp đi lễ, tôi có chút duyên nợ với cánh nhà Báo các anh... mẹ con tôi mời hai anh, xin được chi phí cho cuộc đón tiếp này, mong các anh đừng từ chối! Tôi phân vân, nhưng thấy chị nhiệt tình nên đáp: Cám ơn lòng mến khách của chị. Thật không biết nói gì hơn.
Chị cười vui vẻ...
Bỗng một ý nghĩ bâng quơ xuất hiện trong đầu: ''Người đàn bà này đã thành đạt... cuộc đời chị có những trang thật diệu kỳ, đầy vẻ huyền thoại... âu là ta cứ thử tiếp cận quan sát xem sao. Biết đâu qua đó, mình có thể viết tiếp được ''cái gì đó thú vị''... Tôi cảm thấy đỡ ngại, trở lại bình tĩnh, cùng chị đứng chờ ở cửa khách sạn. Lát sau Tú Anh đi ra, mời tôi và Mẹ cậu vào nhận phòng. Cậu dẫn chúng tôi đến hai buồng ở tầng hai đối diện nhau qua một hành lang rộng. Tôi vào buồng, tranh thủ xem lại bảng phân cảnh, chuẩn bị cho việc ghi những khuôn hình đầu tiên... trù tính mọi việc... kiểm tra lại máy quay phim, và những thứ cần thiết. Xong, đi tắm rửa, gọi điện thoại cầm tay báo cho Thường địa điểm rồi ngả lưng thiếp đi... Ðược khoảng 1 giờ sau thì Thường vào. 17 giờ 30 phút, Tú Anh sang gõ cửa, mời chúng tôi đi ăn cơm chiều. Tôi theo cậu ta đến nhà ăn. Chủ nhân của cuộc đãi khách đã ngồi chờ. Khi đã yên vị, chị đưa bảng thực đơn bảo tôi chọn món ăn. Thấy chúng tôi chọn những món rẻ tiền, chị mỉm cười gọi thêm những món đắt tiền khác... Bữa ăn diễn ra vui vẻ, lúc này tôi mới lựa lời hỏi: Thưa chị, có phải chị là T.T.H. không?
Chị hơi ngạc nhiên, nhìn tôi chăm chăm, hỏi lại: Tại sao anh biết tên tôi, chúng ta mới gặp nhau lần đầu?
- Tôi đã đọc bài báo của một đồng nghiệp viết về chị, có cả ảnh chụp. Khi nhìn thấy chị tôi nhận ra ngay.
Thấy tôi nhắc đến bài báo, chị có vẻ quan tâm, hỏi lại : Anh đọc bài viết có nhận xét gì ?
- Người đọc cảm phục ý chí của nhân vật... mọi người còn muốn biết tỷ mỉ hơn về bước đường đầy gian truân nhưng cuối cùng thành đạt của chị!
Thấy tôi nói vậy, Chị H tỏ ra yên tâm. Chị vui vẻ kể lại chuyện hôm người bạn đồng nghiệp của tôi về thăm quê - anh cùng quê với chị - tìm gặp, hỏi chuyện... đi thăm cơ ngơi, rồi viết bài... Chị hẹn hôm sau mời anh đến ăn với chị bữa cơm ''dưa muối đồng quê'', nhưng anh ấy phải đi gấp, không đến (chị nói có duyên nợ với cánh nhà báo là vì vậy chăng!). Trong khi nghe chị nói, tôi nẩy ra ý định làm một bộ phim về cuộc đời chị, cuộc đời của một ''Nàng OSIN Mini'' (1), bèn thăm dò: Tôi rất muốn trực tiếp nghe chị kể tường tận hơn về cuộc đời chị, để viết tiếp một bài về ''Số phận một con người''. Có thể qua đó, độc giả của báo tôi sẽ học được nhiều kinh nghiệm của người phụ nữ nghèo, mặc dù bị cuộc đời ruồng rẫy... vẫn không cam chịu, vươn lên, cuối cùng thành đạt - (Tôi dấu kín dụng ý làm phim).
Chị trầm ngâm một lúc, mắt nhìn qua song cửa sổ như đang nhớ về quá khứ xa xăm... chợt như bừng tỉnh, chị quay sang, nói: Cuộc đời của tôi chỉ là một trong số rất nhiều phụ nữ Việt Nam đã, đang trải qua... có chăng là do tôi may mắn hơn họ - ngừng một chút, chị đắn đo đoạn dè dặt tiếp - Tuy nhiên, nếu anh muốn nghe, muốn viết, tôi cũng đồng ý, nhưng có hai điều kiện.
- Xin chị cứ nói.
- Thứ nhất, bài viết phải chân thực, không được tô hồng - thấy tôi gật gật đầu, chị tiếp - Thứ hai, xin ghi những nhân vật, cảnh vật bằng tên khác, không để tên thật.
Tôi nhìn chị hơi ngạc nhiên!
Sợ người nghe hiểu lầm về độ chân thực của câu chuyện, chị giải thích: Sở dĩ tôi yêu cầu như vậy là vì không muốn những người có liên quan đến câu chuyện của tôi phải phiền lòng, khi họ thấy tên mình nêu trên đài (Phát thanh, truyền hình), báo - Chị lại ngừng, đắn đo - Những chi tiết có liên quan đến họ, vì tôn trọng sự thật, tôi phải nói đúng. Mà, trên đời này, nói đúng sự thật, người ta chẳng dễ chịu chút nào! Nhất là sự thật đó lại phũ phàng, cay đắng... ''Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng''. Các cụ ta đã dậy thế! Ở trong câu chuyện tôi kể còn có cả những người lúc đó, giữ chức vụ trong chính quyền, đã đối xử tệ với tôi... giờ hãy còn sống. Nói hụych toẹt thật không đành lòng. Chỉ thế thôi!
- Ðồng ý! Nhất định nghiêm chỉnh thực hiện lời yêu cầu của chị - Tôi hăng hái trả lời...
Và thế là trong mấy ngày liền, cứ ban ngày, có nắng, Quý Thường, Tôi và hai mẹ con Chị vào chùa quay phim. Chiều về, cơm nước xong chúng tôi ngồi tới khuya nghe người phụ nữ kể về quãng đời sóng gió của mình...
VÀO PHIM
Tôi quê xã H, Huyện V. Tỉnh T. có hai chị em gái, mồ côi cha rất sớm. Gia đình nghèo, mẹ ở vậy không đi bước nữa, tần tảo sớm khuya nuôi chúng tôi ăn học hết phổ thông trung học. Sau khi tốt nghiệp, là con Liệt sĩ, thành phần cốt cán, năm 1967 Ban Thống Nhất Trung Ương chọn vào học lớp Kế Toán cấp tốc. Học xong, được đưa vào đoàn cán bộ đi B (vào Nam), để chuẩn bị cho việc Thống nhất đất nước....
Sau cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1968 không thành... để bảo toàn lực lượng tôi được điều trở ra, phân về làm Kế toán ở Ty Tài chính tỉnh H (TTC.TH)... Ít lâu sau được đề bạt là Kế Toán Trưởng (KTT).
Tuổi trẻ, được giao trọng trách, cấp trên tin cậy, tuy không phải là cô gái ''Sắc nước'' nhưng chân chất, nhiệt tình, có duyên... Nhiều bạn trai để ý. Nhưng có một người bạn học ở lớp Kế toán yêu tôi say mê. Tôi đã đáp lại mối tình của anh, đầu năm 1974 chúng tôi đi đến hôn nhân.
Gia đình riêng của chúng tôi tuy nghèo, nhưng thật hạnh phúc, được nhiều người trong giới trẻ lúc ấy ngưỡng mộ: Vợ làm Kế toán trưởng, chồng là nhân viên Ngân Hàng. Thời đó, cuộc sống như vậy được coi là lý tưởng. Hai vợ chồng chuẩn bi đón đứa con đầu lòng ra đời.
Cuộc chiến tranh Nam - Bắc đi đến giai đoạn chót, cả miền Bắc gồng mình dốc sức cho chiến trường. Chồng tôi đi trong đợt tổng động viên này. Như bao người vợ khác, tuy ngoài miệng tôi động viên anh yên tâm lên đường, nhưng trong lòng quặn đau, thấp thỏm... linh cảm thấy có điều gì đó không bình thường sẽ đến. Hôm chia tay nhau, tôi mang cái bụng thai nhi to tướng đi tiễn chồng. Ở ngoài chồ tập kết binh sĩ lên đường, cố làm ra vẻ bình tĩnh, vui vẻ, nhưng khi chồng lên xe, đoàn xe chuyển bánh tiến về phía Nam... trở về phòng, tôi mệt mỏi ngã ra giường úp mặt vào gối khóc. Tôi nhớ chồng, thương đứa con sắp chào đời, chẳng biết nó có được gặp mặt Bố không. Thời đó, suy nghĩ của những người vợ như vậy, là chuyện bình thường. Gần một năm trôi đi, tôi không hề nhận được tin tức của chồng... 
Mùa xuân năm 1975. Tin báo tử cứ dồn dập bay về...
Từ làng quê đến thành thị, từ cơ quan, xí nghiệp, đến trường học, mọi nơi xôn xao. Những người ở lại cứ thấp thỏm, lo cho số phận của người thân đã ra đi. Sau ngày 30/4/1975, vẫn không nhận được tin chồng, điều đó càng làm cho tôi thất vọng, buồn khổ...
Cuộc chiến kết thúc được 4 tháng.
Hương - (bắt đầu từ đây, nhân vật của chúng ta mang tên là Hương, theo yêu cầu của chị) - tưởng như đã hết hy vọng chờ đợi. Một buổi sáng giữa thu năm 1975. Trong phòng kế toán trưởng của Ty Tài Chính Tình H, Hương đang giải quyết công việc... ngoài cửa xuất hiện hai quân nhân. Họ tiến vào, đứng giữa phòng hỏi: Chúng tôi muốn gặp đồng chí Hương, Kế Toán Trưởng. 
Hương ngửng lên nhìn. Cô đứng dậy tiến ra, mời hai quân nhân vào buồng làm việc của mình. Một cô nhân viên khác bưng vào khay nước, đĩa thuốc lá Tam Ðảo bao bạc, rót nước rồi khép cửa đi ra. Còn lại ba người, Hương mời khách thuốc, nước đoạn lên tiếng: Xin hai đồng chí cho biết, tìm tôi có việc gì? Một người cấp bậc Trung úy (người kia chuẩn úy), móc giấy giới thiệu đưa cho Hương, nói: Chúng tôi bên Quân pháp. Xin hỏi, có phải chồng chị là N.V.T không? 
- Thưa đúng, chuyện gì thế đồng chí? Anh T làm sao? - giọng Hương xúc động, cô tưởng họ đến báo tin chồng mình hy sinh. Người sĩ quan kia vội trấn an: Anh ta không sao, nhưng hiện đang bị giam tại trại giam X vì phạm tội đào ngũ. Chúng tôi được lệnh đến mời chị đi theo đến trại, để làm sáng tỏ một chuyện... Ðồng chí Trưởng Ty đã đồng ý, chị thu xếp công việc ra xe đi ngay, chiều lại xin đưa chị về.
Hương trở ra giao việc cho nhân viên, rồi theo hai quân nhân lên chiếc Com măng ca đỗ ở ngoài cửa, chiếc xe nổ máy lao đi... 
Phòng Tài vụ xôn sao…
Cơ quan Ty ồn ào... người ta hồi hộp theo rõi câu chuyện của Hương.
Xe chạy chừng hơn một giờ đến trại cải tạo những quân nhân đảo ngũ, phạm tội của quân đội. Hương được dẫn đến gặp chồng. Cuộc gặp gỡ diễn ra ở trong một phòng lớn, có nhiều người ra vào. Hương không hỏi được gì về chuyện anh bị giam giữ, chỉ nói được vài câu, báo tin nhà, tin con... Trông anh gầy gò, tiều tụy. Hương nhìn chồng thương cảm, cô an ủi anh vài lời. Lát sau chồng cô được một quân nhân đeo băng đỏ dẫn đi.
Một Thiếu tá mời cô vào phòng bên tiếp chuyện. Ông cho biết tóm tắt: Chồng cô đã đảo ngũ ngay từ khi đoàn quân Nam Tiến và bị bắt. Khám trong ba lô, thấy có mấy chiếc giấy giới thiệu, của Ty Tài Chính H. Cơ quan điều tra nghi anh ta đào ngũ, dùng giấy này đi lừa đảo. Anh ta khai với nhân viên hỏi cung, đã nhặt được những tấm giấy này ở thùng rác của cơ quan Ty, nhân một lần tới thăm vợ...
- ''Chúng tôi không tin'' - viên thiếu tá khẳng định bỏ lửng câu nói - nhìn xoáy vào mắt Hương, đột ngột tiếp: Có phải chị đã cung cấp thứ này - vừa nói ông ta vừa cầm mấy tờ giấy, nhàu nát rút từ trong cặp, vất xuống trước mặt Hương - cho anh T không?
 

Hương tự nhủ ''Hãy bình tĩnh'', mặc dù thấy rất khó chịu. Cố nén lòng, cầm tập giấy lên xem. Ðó là những chiếc giấy giới thiệu mẫu cũ, chưa đóng dấu, in sẵn của Phòng Hành chính Quản trị. Hương đã nhận được thông báo mẫu giấy này đã hủy bỏ, được thay bằng mẫu mới khác, cách đây hơn một năm, không hiểu sao chồng mình lại nhặt được. Hương nhìn thẳng vào mắt ông Thiếu tá, nói giọng rắn rỏi: Không! tôi không bao giờ làm cái việc phạm pháp đó. Vả lại đây là những tờ giấy giới thiệu mẫu cũ, đã bị hủy. Phòng Hành chính Quản trị đã gửi thông báo cho toàn cơ quan biết. Tôi lấy đâu ra để đưa cho chồng?
- Vậy làm sao anh ta có? Ban hành mẫu mới thì mẫu này phải hủy chứ? Ông ta mắt long sòng sọc nhìn Hương vặn lại.
- Ðiều đó các đồng chí tự tìm hiểu. Tôi không biết. Nhưng có điều này thì tôi biết: Chồng tôi không thuộc hạng người trộm cắp, lừa đảo! Anh ấy vì cầu an mà đào ngũ, điều đó là sự thật. Nhưng từ mấy tấm giấy này mà quy kết... này nọ là không nên - Ngừng một chút, nhìn chăm chắm vào mặt viên Thiếu Tá, Hương tiếp: - Có thể anh ấy nhặt được ở đâu đó khi đến thăm tôi, tiện tay bỏ vào túi, trước khi nhập ngũ quên không vứt đi, và bây giờ mang họa, chứ không phải anh cố tình. Vả lại lấy đâu ra dấu đóng vào, dù có giữ trong túi những tấm giấy này thì cũng không có cơ sở  để kết luận rằng anh ấy đi lừa đảo?
Hương đã học và hiểu biết pháp luật, kinh qua công tác lãnh đạo, đã đi B, con liệt sĩ. Cô sống ngay thẳng, nên không sợ sệt khúm núm. Hương nói có lý, phương pháp trình bầy lại chặt chẽ, viên Thiếu Tá tuy bực tức nhưng bó tay...
Chưa có ai dám nói với ông Trưởng phòng chấp pháp bằng cái giọng như thế. Viên Thiếu tá nghe, Sau một lúc căn vặn, không thu được những điều mong muốn ở cô gái này, ông ta gườm gườm nhìn Hương, giọng gay gắt: Thôi được, chúng tôi sẽ xử lý anh ta theo luật định của tòa án quân sự thời chiến. Chị có thể về được.
- Xin cho tôi gặp anh ấy trước khi về.
- Chị cứ trở về nhà, khi nào được chúng tôi sẽ thông báo. Hiện anh ta đang trong giai đoạn điều tra, chưa thành án, nên chưa thể cho người thân thăm nhau. Dứt lời, ông ta đứng dậy dơ tay chỉ hướng phía cửa, làm hiệu mời Hường đi ra...
Tin chồng Hương bị tòa án quân sự kết án một năm cải tạo bay về cơ quan rất nhanh. Phòng Kế toán như có tang. Nhân viên hầu như không làm việc, túm tụm bàn tán về chuyện vợ chồng Hương. Phẫn uất, hổ thẹn vì chồng bị kết án quá nặng (theo thông lệ thời đó, tội đào ngũ chỉ bị đi cải tạo lao động từ 3 đến 6 tháng). Hương buồn rầu chán nản, ngồi suy nghĩ vẩn vơ.
Chuông điện thoại reo vang. Một cô nhân viên cầm ống nghe... sau đó đi đến trước mặt Hường nói: Chị Hương nghe điện. Hương uể oải nhấc ông nghe... xong, buông máy, đi ra. Trước khi rời khỏi phòng cô dặn người nhân viên dưới quyền : Mình lên văn phòng Trưởng Ty, ai cần gặp, nói họ chờ.
Văn phòng Trưởng Ty hôm nay vắng vẻ.
Người thư ký ngồi ngay chiếc bàn kê ở lối cửa vào đang đọc công văn. Thấy Hương đến, anh ta đứng dậy đưa Hương ra ghế chờ, mời nước đoạn đi vào phòng bên (hai phòng thông nhau). Vài phút sau trở ra bảo Hương đi theo. Qua khuôn cửa, anh thư ký dừng lại, đóng cửa, Hương tiến vào.
Trưởng Ty là một ông già gầy gò ốm o, chừng ngoài 60 tuổi. Ông ngồi bên cạnh chiếc bàn gỗ lim to, đen bóng, trông lọt thỏm. Thấy Hương vào ông dơ tay chỉ vào chiếc ghế đối diện nói: Mời đồng chí ngồi! Hương lẳng lặng làm theo. Trưởng Ty tiếp: Tôi mời đồng chí lên để thông báo một việc: Bên quân đội có công văn sang... Họ điều tra và đã kết luận về chồng đồng chí... tuy không có chứng cứ... nhưng để tranh dư luận, đồng chí tạm thời không thể giữ trọng trách Kế toán trưởng được. Trưởng ty nói một thôi, dừng lại, điềm nhiên rít thuốc lá.
Hương không tin ở tai mình nữa. Ðất dưới chân cô như sụt xuống. Cô choáng váng mất đến vài phút. Trưởng ty nhìn cô đăm đăm, mãi sau Hương mới nói được lên lời: Oan cho cháu - cô vẫn xưng hô với Trưởng ty như vậy khi chỉ có hai người - rồi bật khóc... song như vụt nhớ ra, cô gạt nước mắt bình tĩnh trở lại, tiếp: Cháu tưởng người Thiếu Tá kia thù cháu vì cự nự ông ta, chứ Ty cũng đi tin họ mà đối xử với cháu như vậy ư?
- Ðây chỉ là thủ tục hành chính để thẩm định việc đề nghị của bên quân đội. Họ gửi thẳng công văn kiến nghị tới Ban Tổ chức - Dân chính Tỉnh, bác không thể làm khác được. Cháu hãy thông cảm cho Bác. Ông già đành nói lên sự thật. Hương thấy đã không còn hy vọng gì, có  nói cũng vô ích, cô hỏi: Bao giờ cháu phải bàn giao?
- Ngay hôm nay - Trưởng Ty ngập ngừng - Cháu nghỉ chờ ở nhà, khi nào sắp xếp được công việc, Ty sẽ thông báo, cháu sẽ đi làm.
Hương đón tờ quyết định từ tay ông Trưởng Ty, đứng dậy, rút khăn lau mắt, soi gương sửa mấy gợn tóc vài phút sau cô lại tề chỉnh, chào ông già ra về. Ðến Phòng Tài vụ, Hương thấy có sự khác lạ: Những nhân viên, bạn đồng nghiệp không ai lên tiếng, hỏi han. Một người mang quân hàm Thiếu úy ngồi chềnh ễnh ở cạnh bàn tiếp khách, thấy Hương về cũng không lên tiếng hoặc đứng dậy chào hỏi. Một cô nhân viên tiến đến  thông báo: Thưa chị, Ðồng chi Tuất đến nhận công tác và đưa quyết định người tạm thay Trưởng phòng Tài vụ. 
Ðó là một quân nhân tuổi chừng 35, thái độ dửng dưng khi bàn giao công việc. Hương đưa cho anh ta đống sổ sách, viên Thiếu Úy uể oải tiếp nhận, chẳng buồn kiểm tra, dò, đọc như mọi người khác. Dường như muốn cho xong việc, Hương đưa tờ giấy nào để anh ta ký, viên Thiếu Úy thực hiện rất nhanh. Chỉ sau nửa giờ, việc bàn giao hoàn tất, Hương ký vào biên bản, xách túi đi ra. Mấy cô nhân viên trẻ tuổi ngồi nguyên tại chỗ thờ ơ nhìn, không một lời an ủi động viên từ biệt, mặc dù hàng ngày các cô ''chị chị, em em'' ngọt sớt.
Thói đời là như vậy! Phù thịnh chứ ai phù suy. Tự dưng Hương nhớ tới hai câu thơ của một danh nhân văn hóa nước nhà hồi còn đi học phổ thông đã thuộc:
''Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử.    
Hết cơm hết gạo, hết Tôi, Ông!''. 
Liên hệ thực tại với câu thơ kia, Hương ngao ngán trong lòng. Trong chuyện này, cô không làm điều gì sai trái, thế mà mọi người nhìn Hương bằng con mắt ghẻ lạnh. Họ coi như cô đã phạm một tội tầy trời. Dường như nếu lúc này tỏ ra thân thiện với cô, người ta sẽ bị liên lụy, mang họa...
Cô trở về nhà trẻ đón con, chán nản, suy nghĩ: ''Ðây chỉ là cách nói của những nhà tổ chức... Thực chất họ đã buộc mình thôi việc - tức là đuổi mình - Ðến bao giờ người ta mới sắp xếp cho mình công việc? Mà dù có làm ở ngay tại đây, mình cũng chẳng còn mặt mũi nào nhìn mọi người. Thôi thì trở về với đồng ruộng, tin rằng mình không chịu thua kém ai...''.
Tuổi trẻ, tự tin, tự trọng, Hương quyết định ra đi.
Ðứa con mới 6 tháng tuổi gầy nhom, quặt quẹo. Gia sản chẳng có gì, chỉ gói gọn trong chiếc ba lô con cóc - kỷ niệm của chuyến đi B năm xưa còn sót lại - Hương tay ẵm con, vai đeo ba lô, khóa cửa phòng, giao chìa cho người bảo vệ cơ quan, bồng con lủi thủi đi ra bến xe Buýt Hà Ðông, về Hà nội. Cô chưa biết mình sẽ đi đâu tiếp. Chồng tù tội, mẹ đẻ già 70 tuổi ở quê, mẹ chồng ở tận Bắc Giang... trước tình thế này, Hương chỉ biết cần phải đi, rời xa ngay nơi này, nơi  cô đã sống và làm việc gần 8 năm, đã có nhiều kỷ niệm vui buồn... giờ trở nên xa lạ.
Trời đã ngả sang cuối thu, vẫn còn sót lại cái nắng gay gắt. Nóng bức, ngột ngạt. Hai mẹ con lôi thôi lếch thếch, bìu ríu nhau lên xe Buýt rời Hà Ðông. Ðến bến xe Kim Liên (Hà Nội) lại bồng bế nhau xuống. Người đi thì nhiều, xe chạy ít, bọn phe vé, bọn trộm cắp hoành hành... Bé Tú vì bị mẹ ôm không rời nên nóng nảy khó chịu khóc ngằn ngặt. Hương dỗ con, cho con bú nhưng thằng bé vẫn khóc hoài. Không còn làm thế nào cho con nín, Hương cũng khóc theo.
Một người đàn bà trạc ngoại 40, ngồi gần đó thấy vậy tiến lại an ủi, đỡ lấy bé, bảo Hương đặt con nằm xuống chiếc vỏ chăn mà cô vừa lôi từ trong ba lô ra, bà ta cởi bỏ tã lót, cầm chiếc quạt nan quạt phe phẩy cho bé. Thoáng mát, bé nín khóc. Bà khách cầm lấy chiếc khăn mặt, đi ra vòi nước xấp nước, mang về lau mình cho bé. Tú Anh thoải mái, chẳng những nín khóc, lát sau đã ngủ ngon lành.
Hương cảm ơn bà khách tốt bụng. Bà hỏi chuyện, Nàng trút nỗi niềm tâm sự... Bà khách khuyên nàng nên trở về quê, nương nhờ mẹ đẻ, chờ ngày chồng ra tù hẵng hay. Hương thấy vơi đi nỗi tủi nhục, nghe lời bà khách tốt bụng.
Trời sắp tối, chuyến xe cuối cùng chạy thẳng về T đã hết, Hương đành ôm con ngồi gà gật chờ chuyến sáng mai. Mới 4 giờ sáng, trời hãy còn tối om, mọi người đã lục tục trỗi dậy xếp hàng chờ mua vé chuyến đầu ngày. Bảy giờ sáng, cửa bán vé mới mở. Bọn phe vé đã bâu quanh lỗ tò vò (Gisê) nói, cãi nhau, thậm chí đánh nhau như đàn nhặng tranh ăn. Chúng ăn cánh với nhân viên bán vé của xí nghiệp xe khách, thâu tóm hết giá nửa số vé, đem ra bán lại cho hành khách đắt gấp đôi chia nhau.
Mặc dù xếp hàng ngay ở cửa bán vé, nhưng vì tay phải ôm con... cô bị bọn lưu manh chen bật ra. Hương đã lỡ hai chuyến, đến chuyến cuối cùng đã 3 giờ chiều, sợ lại không về được nhà trước lúc trời tối, Hương đành mua một vé chui (chợ đen). Khi cầm vé lên xe, người phụ xe phát hiện ra vé giả, đuổi xuống, Nàng van nài, anh ta kiên quyết đuổi. Hương ôm con đi xuống. Khi xe sắp chạy, gã phụ xe nghĩ ngợi thế nào đến nói, đồng ý cho mẹ con nàng lên xe, nhưng phải đưa tiền vé. Hương lần vào túi, lấy tiền trả... ôi thôi, lúc lên, xuống xe, bọn kẻ cắp rạch túi, lấy mất hết cả. May mà chỉ còn đủ tiền mua một tấm vé giá nguyên, để ở túi ngực, ẵm con nên không mất.
Gã phụ xe không nghe đòi hơn. Hương van xin, nói rằng đã mất cắp, không còn tiền. Anh ta không tin, thô bạo thò tay vào túi Hương lục tìm... Thấy đúng không còn gì, anh ta giật lấy số tiền trên tay Hương, mở cửa cho hai mẹ con lên xe.
Chiều tối, hai mẹ con Hương mới lôi thôi lếch thếch về tới nhà. Người mẹ già 70 tuổi vui mừng vì được nhìn thấy con thấy cháu, nhưng nghèo đói, già yếu, ăn nhờ người con gái lớn (chi gái Hương) nên chẳng giúp được gì. Người chị gái thấy Hương xuất hiện, không mấy vui vẻ... chị ta sợ lại phải cưu mang cô em gái và đứa con còn đỏ hỏn, trong khi kinh tế của gia đình chị cũng chẳng dư dật gì. 
Ðược mấy hôm đầu không khí trong nhà còn dễ thở, sau đó người chị phản ứng ra mặt. Luôn gây sự, đá thúng đụng nia, chửi chó mắng mèo... Chị ta sợ Hương về có ý định ở lỳ, chia phần ngôi nhà của cha mẹ mà vợ chồng con cái chị đang ở. Hương biết vậy, vội xin mẹ nấu ăn riêng. Sau gần chục năm lam làm tằn tiện, Hương dành dụm được món tiền gửi tiết kiệm (cũng may hôm ở bến xe Kim Liên, cuốn sổ để ở trong ba lô nên không bị mất), giờ lấy ra chi dùng cho mình và phụ thêm cho mẹ, ''điều ong tiếng ve'' kia mới tạm lắng...
Mãn hạn tù cải tạo, người chồng trở về đón vợ con.
Vợ chồng bồng bế, bìu ríu nhau về Hà Bắc sinh sống. Hương ôm con theo chồng trở về quê chồng với hy vọng có cuộc sống mới, đỡ phải nghe điều ong tiếng ve, dù sao đó cũng là ''Nhà Mình''. Ðúng như câu tục ngữ đã nói: ''Con gái là con người ta''. Nhưng về đây Hương mới vỡ mộng. Cuộc sống còn gay go hơn lúc ở với mẹ đẻ nhiều! Xứ lạ quê người, khác máu tanh lòng... Hương nghèo, mất việc, thân cô thế cô...
Quê chồng là miền trung du, ruộng đất ít, khô cằn... Nhà chồng đông người ăn (...) mà chỉ có bốn người làm (hai vợ chồng Hương và hai em chồng). Người mẹ chồng lại cay nghiệt, suốt ngày kiếm cớ chửi mắng. Làm quần quật từ sáng sớm đến tối mịt vẫn không được yên. Chồng nàng thuộc hạng người ''mười rằm cũng ư, mười tư cũng gật'', nhất nhất nghe mẹ. Trước sự đầy đọa vô lý của mẹ đối với vợ, chẳng bao giờ anh ta dám hé răng bênh vực. Hương đã lao lực quá mức, sinh bệnh. Mà lại là bệnh Phong - nhân gian thường gọi là bệnh Hủi!
Vốn đã bị mọi người trong gia đình chồng ghét, giờ mang bệnh nan y, Hương càng bị ghét hơn. Họ xúm vào hành hạ. Từ chuyện chửi nàng, họ chửi cả cha mẹ nàng - đến việc đổ cho nàng là nguyên nhân mang lại tai họa cho gia đình họ. Chưa hết, độc ác hơn không cho nàng ăn... ''Con giun xéo lắm cũng quằn''. Phẫn uất, có lần trong một bữa ăn, Hương phản ứng cãi lại mẹ chồng, đứa em chồng đã ngang nhiên tát Hương ngay trước mặt chồng nàng. Máu mồm ộc ra, hòa cùng nước mắt với cơm canh. Vậy mà người chồng kia vẫn thản nhiên, ngồi nhìn vợ, nhìn đứa con gào khóc bên cạnh mẹ nó...
Một hôm, trời nắng gắt, nước ruộng nóng tới độ cua dưới ruộng phải ngoi lên bờ để tránh nóng. Hương đi cấy từ sáng sớm tới 12 giờ trưa. Ðói khát, mệt, chẳng ai mang cho nàng bát cơm, ngụm nước... Hương đành về nhà tìm uống. Sờ vào ấm nước, ấm cạn khô. Nàng hỏi mẹ chồng xin nước uống, người mẹ chồng thản nhiên chỉ lên chiếc Bi đông treo trên vách, nói: Nước ở trong Bi đông ấy! 
Ðang đói, khát, Hương cầm lấy tu vội. Mùi thuốc trừ sâu nồng nặc. Ðột nhiên người Hương nôn nao, bụng đau quặn, ngã vật ra... May lúc đó người chồng vừa về đến nơi, thấy nguy vội đưa vợ đi ngay Bệnh viện cấp cứu. Người ta phải cấp tốc rửa ruột mới cứu sống Hương, nhưng đứa con trong bụng thì bị nhiễm độc nặng, đã bị sẩy. Tất cả mọi người trong nhà được bà mẹ ra lệnh ''Cấm chỉ'' không được hở miệng. Vụ đầu độc được coi như là do Hương ''uống nhầm nước''. Người phụ nữ khốn khổ chỉ còn biết khóc ròng bên đứa con gầy nhom, cũng đang ốm quặt quẹo... 
Một mình, lại bị gia đình nhà chồng ruồng rẫy nên không một ai thăm nom nuôi nấng. Bệnh viện cho thuốc chữa trị, cái ăn phải tự kiếm. Chồng chẳng chăm nom, bỏ mặc... Hương phải đi xin các bệnh nhân cơm thừa canh cặn cho mình và nuôi con. Thằng bé đã gầy yếu lại càng ốm hơn. Ðêm đêm nàng chỉ còn biết ôm con khóc ròng, lo cho mình thì ít, lo cho con thì nhiều...
Thấy đã đuổi được nàng dâu ra khỏi nhà, bà mẹ cay nghiệt kia bắt con trai đi lấy vợ khác. Một người làng nhà chồng vào thăm thân nhân, gặp mẹ con Hương báo tin. Nàng đau khổ, uất ức... ngay đêm đó, đầu mùa đông, gió heo may từng cơn rét buốt, nàng bế con trốn Bệnh viện, trốn nhà chồng, trở về quê mẹ đẻ.
Biết rõ ngọn ngành... Mẹ thương con thương cháu, dắt con gái ra Uy Ban Hành Chính Xã trình bầy hoàn cảnh xin cho con được ở lại quê nhà làm ăn. Người đại diện của chính quyền từ chối lời đề nghị của bà cụ, lấy lý do: Hương đã lấy chồng ở Hà Bắc, cắt hộ khẩu từ lâu. Muốn được nhận lại làm xã viên HTX quê mình phải về quê chồng làm thủ tục ly dị, chuyển hộ khẩu về, có vậy, mới được quyền làm ăn sinh sống.
Hai mẹ con thất vọng lủi thủi rời văn phòng Ủy ban xã ra về. 
Biết tin, người chị lại lên tiếng. lần này thô bạo hơn. Chị ta đuổi thẳng cánh em gái ra khỏi nhà. Hương càng đau buồn, tự nhủ: ''ngay đến người thân ruột thịt của mình mà còn như vậy, làm sao trách được người ngoài''.
Không còn lối thoát, cần phải sống và nuôi con, Hương nhẫn nhục cắn răng chịu đựng. Nàng xin mẹ 4 mét vuông đất ở góc vườn, kiếm cây que dựng lên túp lều cho hai mẹ con trú tạm, trong khi ngôi nhà tường xây 5 gian lợp lá gồi của ông cha để lại, vẫn thừa chỗ cho hai mẹ con Hương, người chị gái ngang nhiên chiếm đoạt!
Xong việc cất lều, đồng tiền tiết kiệm cuối cùng đã hết. Không được làm ruộng, không có thóc chia, nhưng cần phải sống, Hương ôm con sang chợ Rồng kiếm ăn và nuôi con. Hôm nào cũng vậy, nắng cũng như mưa, cứ 3 giờ sáng, Hương mang cu Tú đi theo. Không có tiền ký cược để buôn bán, Nàng dùng con làm vật thế chấp: ''Cháu gửi thằng con làm tin, bà ứng hàng cho cháu, cuối ngày cháu sẽ thanh toán tiền và đón con''.  Thấy hoàn cảnh của Hương đáng thương, lại thật thà chăm chỉ, những bà chủ, cô chủ có hàng không nỡ từ chối. Họ đồng ý cho Nàng mua chịu, nhờ đó hai mẹ con rau cháo đắp điếm qua ngày... 
Những hôm mưa phùn gió bấc, ít người đi chợ mua bán, không đủ tiền thanh toán cho chủ, có đồng nào cóp nhặt được, lại phải mang ra bù cho chủ hàng.... Có hôm trời rét, cu Tú không được bế ẵm, rét quá, khi đón con đã gần lả đi. Không còn nguồn nào có thể kiếm được sống, Hương vẫn phải một nắng hai sương gắn bó với công việc ''mua đầu chợ, bán cuối chợ'' nấn ná qua ngày...
Sau hai năm vật lộn, Hương lại ngã bệnh.
Cán bệnh phong quái ác kia lại trở về hành hạ Hương.
Các khớp xương đau tấy, nhức nhối. Các đầu ngón tay lở loét... rụng dần. Bệnh tật, đói rét, đau đớn... nhưng nỗi đau lớn hơn sự dầy vò của bệnh tật lại là bị mọi người xung quanh xa lánh xua đuổi. Có lúc đi trên đường lũ trẻ con ném gạch đá vào người, đuổi Hương như đuổi tà. Chúng được một số người lớn xấu bụng khuyến khích... Họ sợ Hương ở đây bệnh Hủi sẽ lây lan. Nhưng đau khổ nhất là bé Tú Anh! Ði học, bị lũ trẻ quái ác kia xúm vào hành hạ. Chúng xé sách vở, xé quần áo... có hôm còn lấy mảnh chai rạch mặt Tú, chửi thậm tệ: ''Ðáng đời đứa Mẹ hủi, Bố tù''...

Ốm đau lay lắt. Không thể đi chợ để kiếm ăn, đồng tiền bát gạo cuối cùng do chắt chiu dành dụm mấy năm đã hết. Một hôm, Tú  đi học về đói bụng, thấy mẹ nằm liệt giường. Thương mẹ, Tú xách rá sang hàng xóm vay tạm ít gạo về nấu cháo cho mẹ. Người ta đuổi không cho vay, lại còn đay nghiến: ''Mẹ mày sắp chết, cho mày vay, sau này ai trả''. Thương con, thương mình, Hương cố gượng dậy lết về nhà Mẹ vừa khóc vừa nói: Cứu con, cứu cháu với Mẹ ơi!

Bà cụ quá nghèo. Ở với cô con gái lớn tính tình bần tiện, cay nghiệt, phụ thuộc. Mẹ rất muốn giúp con, nhưng làm sao giúp được. Sẵn có nồi canh rau khoai lang nấu mắm Cáy, bà múc cho đứa con gái tội nghiệp một bát, đưa cho con mấy củ khoai, củ ráy ngứa (dùng để nuôi lợn, bình thường người không ăn được vì rất ngứa), hy vọng cho con cố sống qua ngày. Người chị gái đi đâu về nhìn thấy, hầm hầm bê cả nồi canh đổ đi, quát mẹ già: Bà định để cho cả nhà lây bệnh hủi hay sao? 

Hai mẹ con nhìn nhau khóc. Hương tuyệt vọng, lại lết về chòi, đành phó mặc cho số phận. Ý nghĩ tự tử thoáng xuất hiện trong đầu rồi nghĩ tới phía trước, ngày mai... Nàng quyết định buông xuôi. Nàng lần vào gầm giường vớ được sợi giây thừng, tay thắt nút, mắt nhìn lên mái lều... nhưng chợt nghĩ đến con, bàn tay buông xuôi, sợi dây thừng trên tay rớt xuống đất. Hương không nỡ lòng để con ở lại một mình côi cút, trơ trọi giữa dòng đời... Nàng ngã ra giường.

Giữa lúc đó, ngoài cửa xuất hiện bà lão.

Tuy già, gầy gò, nhưng thần sắc vẫn còn tinh anh. Tóc bà cụ trắng như cước, khuôn mặt hiền từ phúc hậu. Ðó là bà cụ Lành người ăn mày đang trú ở trường phổ thông của xã. Hương không trở dậy được vì đói, vì mệt. Chỉ ngẩng đầu nhìn. Bà cụ tiến đến cạnh phản, dơ bàn tay da nhăn nheo sờ trán nàng, đoạn bảo: Con cứ nằm yên, đừng trở dậy nữa. Ta nghe tin con bệnh, không làm ăn gì được ta sang thăm - cụ liếc nhìn chiếc giây thừng thắt thòng lọng còn vất dưới đất, nét mặt cụ thoáng biến sắc. Bà cụ hiểu, nhưng không hề đả động - chỉ nhìn vào mắt nàng rồi dịu dàng tiếp: Dù là con sâu, cái kiến vẫn còn muốn sống, huống hồ nữa là người. Con đừng nghỉ quẩn. Phải sống. Cố sống nuôi con. Qua cơn bĩ cực tới tuần thái lai. Khuôn mặt hiền từ, giọng nói dịu dàng của bà cụ làm Hương cảm động. Nàng khóc... khóc như mưa. Bà ôm lấy đầu nàng, ấp vào chiếc ngực già nua, gầy gò, lép kẹp của mình, vừa vuốt tóc Hương vừa dịu dàng nói :
- Nín đi con! Hãy cứng rắn lên mới đối chọi được cơn túng quẫn này. ''Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cành'', con chưa phải là người đau khổ nhất đâu! Bà cụ rơm rớm nước mắt...
Nghe cụ Lành nói, tự dưng Nàng thấy lòng dịu lại, tỉnh hẳn và nín khóc. Bà cụ móc trong túi áo ra một gói giấy, trong đó có mấy viên B1- cô giáo Dung tốt bụng mới cho, giữ lại - bắt Hương uống ngay. Tiếp theo, lại gỡ cái bị cói rách sờn trên vai, lôi ra một đấu gạo, dăm củ khoai lang, gói muối. Cúi xuống gầm mảnh ván - kê trên những chồng gạch vỡ làm giường cho hai mẹ con - lấy chiếc nồi nhôm méo mó, bỏ một ít gạo, hai củ khoai lang, đổ nước, chất củi đun. Bà lão chờ cho nước sôi, cho lửa rón rén... đi đâu đó một lúc. Lát sau trở lại, mang theo một chiếc bát tô sứt mẻ, hai quả trứng gà, mấy củ hành... bà cụ cho các thứ cùng một quả trứng gà vào chiếc tô sứt, múc cháo, đỡ Hương dậy bắt ăn.
Nàng nhìn bà cụ không nói lên lời. Bà dỗ: Ăn đi con! Ăn đi lấy sức, mà sống.
Hương vẫn chưa ăn, bà cụ hiểu ý an ủi: Trong nồi còn, thằng bé đi học về  ăn ở đó. Hương ăn hết tô cháo. Mồ hôi vã ra. Bà cụ bắt lên giường nằm đắp chăn kín, nàng thiếp đi. Suốt ba hôm liên tục, cứ buổi chiều bà cụ Lành lại sang nấu cháo, chăm sóc Hương. Bà mẹ đẻ, cũng tranh thủ lúc con gái lớn đi làm đồng, lấy trộm củ khoai, bát cám nuôi lợn, chẽn rau, sang dúi cho, nhờ vậy sau một tuần bệnh tật Hương thuyên giảm, nửa tháng khỏi hẳn. Cơn bĩ cực lần thứ mấy này đã tạm buông tha Hương.
Vừa khỏi bệnh, lại nghe tin Bà cụ Lành cảm cúm. Nàng vội dẫn cu Tú Anh ra thăm, tạ ơn - ân nhân cứu mạng của hai mẹ con.
Bà cụ ở trong một cái chái bếp. Nhà trường làm để đựng than củi, hồi còn bếp ăn tập thể, vẫn nấu cho những thầy cô độc thân. Nay hầu hết có gia đình, bếp ăn tập thể giải tán, kho củi để không. Thương hoàn cảnh của bà Lành, ông Hiệu trưởng trường tiểu học cùng mấy giáo viên trẻ xúm vào thu dọn, than củi dồn vào một góc, góc kia trở thành nhà của bà cụ.
Bà Lành vốn là người phụ nữ có học, con một nhà giàu có ở tỉnh Nam Ðịnh. Ðang tuổi 17, khi đi học ở trường, cô Lành đã thương một người bạn cùng lớp. Bố mẹ ngăn cấm... cô không nghe bỏ nhà quyết đi theo người mình yêu. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, người chồng gia nhập vệ quốc quân, cô Lành ôm đứa con trai trở về quê chồng tá túc. Bặt tin chồng gần tám năm... Hòa bình lập lại, Bà Lành mới được tin chồng đã hy sinh. Bà ở vậy nuôi con. Khi lớn khôn, cưới vợ cho nó. Chẳng ngờ con trai bà hèn đụt, chỉ nghe lời vợ. Cô con dâu là con một gia đình khá giả, nhưng hẹp bụng, độc ác. Cô ta sợ nuôi mẹ chồng tốn kém, kiếm cớ, gây sự hàng ngày. Bà cụ không chịu được cảnh nàng dâu hắt hủi, con trai thờ ơ, đã phẫn chí bỏ đi lang thang, ăn xin, sống đầu đường xó chợ.
Nhà Củi rộng chừng sáu mét vuông.
Cũng một mảnh ván gỗ thông ghép đinh, kê trên những đống gạch vỡ dùng làm giường. Dưới gầm phản vất đầy mọi thứ, như một bãi rác thu nhỏ: Chai, lọ, mũ cối, nón mê, bát sứt mẻ, nồi niêu thủng, méo, túi ni lon, vỏ hộp bao thuốc lá...đủ thứ hầm bà làng. Bà lão nằm trên phản thở khò khè.
Tuổi già như ngọn đèn dầu lạc trước gió. Mới mấy tuần trước còn khỏe mạnh, nay đã bệnh gầy đi nhanh chóng. Hương vào nhà thu dọn lại chỗ nằm của cụ cho đỡ bề bộn. Ðem nắm gạo ra nấu cơm, bà cụ bảo lấy thêm gạo, mời cả hai mẹ con cùng ăn. Gọi là ăn cơm, nhưng tới 3/4 là khoai lang, sắn khô độn. Thấy mẹ con Hương xuất hiện, Bà cụ xởi lởi: Mẹ con mày gặp may. Cả tuần nay bà chỉ có rau lang luộc chấm mắm Cáy (2). Hôm qua mấy đứa trẻ bắt được mấy con Cóc, đem đến đổi kẹo mạch nha. Bà bắt chúng nó lột da, làm sạch mới đổi, nên hôm nay có món thịt cóc rang ngon tuyệt. Bà mời mẹ con mày. 
Nghe nói thịt cóc rang, Hương thấy ghê ghê, nhưng vốn yêu quý bà cụ, nàng nhắm mắt ăn thử. Quả nhiên thịt cóc ngon thật: Thịt thơm, ngọt đậm (3). Tú Anh chả suy nghĩ gì, cứ đánh tì tì hết hai bát. Cơm nước xong, Hương thu dọn. Bà cụ trở dậy đặt ấm nước vối (3b) cho nóng. Tú Anh ra sân trường chơi vói lũ bạn, còn lại hai người, bà cụ hỏi:
- Bây giờ con khỏe rồi, định làm gì? - ngần ngừ một chút bà tiếp - Hay là theo mẹ (bà Lành tự nhận) đi kiếm ăn. Nghề này tuy bệ rạc, hèn hạ đấy, nhưng đủ nuôi miệng và nuôi con.
Hương cảm động, tủi thân lại khóc.
Bà cụ ăn mày dường như đã chai sạn trước tình cảnh bi thương của kiếp người, không hề xúc động, chỉ cầm lấy tay Hương xem, đoạn thở dài. Hương nhìn người mẹ già nghịch cảnh với mình lòng càng thương xót: Nàng thì bị chị ruột xua đuổi. Mẹ Lành thì bị con trai nàng dâu bức bách phải ra đi... ốm đau không người chăm sóc. Hương nắm lấy hai bàn tay gầy guộc nhăn nheo của bà cụ nói: Con đã có dự tính rồi. Con sinh ra nơi đồng ruộng. Ðất ruộng mới là nơi con nương nhờ. Con sẽ xin mẹ con phần đất 5% (4) của mẹ để cầy cấy nuôi cháu, mai này khá lên, có vốn con sẽ chăn nuôi. Bà đừng lo cho con - Ngừng một chút, Hương tiếp - Nhưng con thực sự lo cho Bà. Lúc khỏe đã vậy, khi yếu đau, như hôm nay, lấy ai chăm nom. Nói dại - đến đây Hương không tiếp lời được nữa. Viễn ảnh xa xôi của những ngày đau ốm của bà cụ lại hiện ra...
Nghe Hương nói, bà cụ mặt thoáng biến sắc, nhưng lại nhanh chóng trở lại điềm đạm, đoạn nhìn Hương với ánh mắt trìu mến: Con đừng lo! mẹ đã trù tính tất cả. Ði ra đây ta chỉ cho xem cái này.
Bà cụ trở dậy, lấy cây gậy chống, chậm rãi đi ra ngoài. Hương dắt tay bà đi theo. Hai bà con đi ra đằng hông sau của nhà bếp. Sát hàng rào của trường có một con đường nhỏ, dẫn ra một cái gò nằm trơ trọi trên cánh đồng. Trên gò lưa thưa mấy ngôi mả - có lẽ đã có từ lâu lắm - Một bụi tre góa (4b), dăm cây xoan, vài cây nhãn, cây vải. Ði đến cạnh khóm tre già, Bà cụ dừng lại, dơ cây gậy chống, gạt những cành tre buông rủ lòa xòa ở gốc. Bên trong lộ ra một khoảng đất, sâu chừng nửa thước, được bới xén trông như chiếc quan tài mở nắp ván thiên. Dưới đáy ''quan tài'' được rải một lớp lá tre. Từ trên gốc bụi tre xuống đáy, thành đất được xén thoai thoải. Hương chưa hiểu ra sao, bà cụ quay nhìn nàng nói: Ðây là huyệt mộ của mẹ! Còn khỏe chẳng sao, nhưng biết mình sắp đi... ta sẽ bò lết ra đây, lăn xuống, nhẹ nhàng thanh thản để hồn bay trong không trung, thịt xương ta gửi lại cho đất, chẳng cần áo quan, chẳng phiền đến ai...
Hương rờn rợn, ớn lạnh xương sống.
Bà cụ nhìn nàng chăm chú, nói tiếp: Con sợ à? Chết là hết. Phật đã dậy: Cỗ quan tài gỗ tốt, cái mả xây trị giá hàng chục triệu, với cỗ quan tài đất, nấm mộ vùi đất này, cuối cùng cũng chỉ làm một việc là để đựng xương thịt của con người. Vả lại, con người sinh ra từ cát bụi, khi chết hòa vào cát bụi... hợp lẽ trời hơn. Bà mẹ già dừng lại như để đo phản ứng của người mẹ trẻ - rồi như  lấy lại tinh thần cho người mẹ trẻ, bà cụ tiếp, giọng đượm vẻ hài hước: Cứ thỉnh thoảng mẹ ra sửa sang ''phần mộ sống'' - lại nằm xuống cho thư giãn. Phải nói rằng nằm ở đây êm hơn, thoải mái hơn ở trong nhà nhiều. Nhất là được hít thở không khí trong lành đượm hương lúa của cánh đồng... thơm mùi của hoa tre, lá tre...
- Mẹ không sơ nằm chung với rắn ư? Hương lo sợ, ôm lấy bà cụ thảng thốt.
- Làm gì có rắn! con nhìn đây - bà cụ đưa tay chỉ - Ngay ở bên thành hố, một bụi cây giây leo phủ kín bờ thành, trông như cây Vạn Niên Thanh vẫn trồng ở trong nhà làm cảnh, bà cụ tiếp: Ðây là cây Gắm. Bọn trăn, rắn thấy bóng, ngửi hơi là phải tránh xa, đâu dám lai vãng mà sợ. (4c) 

Từ sau hôm bà cụ đến cứu sống hai mẹ con, Hương đã cảm thấy bà cụ thân thiết như mẹ đẻ mình. Giờ được trực tiếp nghe bà lý giải về cuộc đời, về sự sống, cái chết... Hương muôn phần cảm phục, quý trọng bà lão. Chợt nhận ra, trời đã trở gió, sợ đứng lâu trên gò cao, tuổi già không chịu được lạnh, Nàng dìu bà theo lối cũ trở về. Vừa đến cửa, gặp một người đàn bà đi từ trong trở ra. Hương nhận ra ngay đó là Dung, bạn học từ hồi phổ thông cấp ba, đã mười mấy năm mất liên lạc. Hai người tay bắt mặt mừng, chuyện trò sôi nổi. Dung mời Hương đến nhà mình chơi. Nghe tin bà Lành cúm, Dung mang cho bà mấy viên thuốc cảm. Dung dặn dò bà cụ cách thức uống thuốc...
Hương đưa bà cụ vào nhà, dặn nếu thấy cháu Tú, bà bảo cháu cứ về trước rồi đi theo Dung... 
Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, Hương đi học Trung Cấp Kế Toán, vào Nam rồi về tỉnh H làm việc. Dung đi cao đẳng Sư phạm. Bố là chủ tịch Huyện, Dung được bổ nhiệm ngay làm hiệu phó của trường phổ thông cơ sở này. Nhà Dung ở ngay sát hàng rào khu gia đình của Trường. Từ xa theo tay Dung chỉ, Hương nhìn thấy ngôi nhà, trông thật khang trang. Hai vợ chồng Dung đều là giáo viên, dạy học ở xã nhà nên kinh tế xem ra khá giả. Nhà xây 5 gian, mái bằng. Ðồ đạc giường tủ mới đóng, đánh véc ni sáng bóng.
Trên mặt tủ ly cánh cong bằng gỗ dổi, đặt một chiếc Radio nhãn hiệu Hồng Kỳ của Trung Quốc. Trong tủ xếp đầy bát đĩa, chén sứ Hải Dương, Mấy chiếc vỏ chai rượu ngoại được bầy phô trương, làm cho người đứng ngắm thật thích mắt. Gia cảnh của vợ chồng Dung, so với cuộc sống của cán bộ công nhân thời đó, làm nhiều người mơ ước. Thấy Hương nhìn cơ ngơi của mình vẻ ngơ ngác, khâm phục, Dung bảo: Do lợn, gà nó cho cả đấy!
Hương càng khâm phục hơn, luôn mồm xuýt xoa...
Dung lại dẫn Hương đi thăm cơ ngơi. Vốn học khoa Sinh - Hóa, hai vợ chồng dậy cùng một trường, có nhiều thời gian rảnh rỗi, cộng với tính năng động... Dung vận dụng tri thức vào trong chăn nuôi và làm kinh tế phụ. Hàng năm Dung xuất bán 5 tấn lợn, vài tạ gà... Tiền thu được, Dung quay vòng và xây dựng cơ ngơi. Dung dẫn Hương ra thăm mấy ổ lợn nái (lợn đẻ), trong đó có một ổ, sinh được 10 con. Con nào da cũng bóng nhẫy, hồng đỏ. Hương nhìn đàn lợn suýt xoa ao ước. Vốn tốt bụng, quý bạn, Dung vào bắt một con đưa cho Hương bảo: Tặng Hương một con, mang về nuôi để kỷ niệm ngày hai đứa chúng mình gặp lại nhau.
Hương tuy nghèo, nhưng không như người khác, thấy của là híp mắt lại, thấy lợi là bất chấp. Hương cám ơn tấm lòng của Dung nhưng từ chối không lấy. Biết bạn đang khó khăn, lại giữ ý, Dung nói thác: Thôi được, mình cho Hương mua chịu, bao giờ ăn nên làm ra thì trả tiền giống cho mình. Ðể tỏ ra sòng phẳng, cho bạn yên tâm, Dung nghiêm  trang: Thời giá bây giờ, con này 10 đồng. Khi nào bán thì trả vốn cho mình. Hương nắm tay bạn cảm động, (nàng thừa biết con lợn cao giá hơn). Hương cám ơn Dung, vui vẻ ôm con lợn về.
Nhà ở chỉ là một túp lều, kê đủ chiếc phản cho hai mẹ con. Giờ lại có thêm con lợn nên sinh hoạt của hai mẹ con càng chật chội hơn. Tuy thế, Hương rất yêu quý con vật. Nhiều đêm gió bấc thổi rét cắt da, Hương ôm lợn lên đặt ở cuối phản, dưới chân hai mẹ con, lấy bao tải đắp cho nó. Những đêm mưa to gió lớn, nhà dột tứ tung, Hương lấy manh chiếu, tấm nilon vừa che cho con, vừa che cho lợn. Khi trong lều sình lầy, Hương ngồi trên phản, một tay bế con, một tay vỗ về lợn.
Ðói! Hương nhịn ăn, nhường cháo cho con và cho lợn. Nàng lo cho con như thế nào thì lo cho con vật như thế. Con lợn được chăm bẵm, khôn như người. Ban ngày, nó nằm nép vào vách lều. Hễ thấy con gà, co chó lẻn vào lều, nó hộc lên đứng phắt dậy kêu tướng dọa đối phương, những khách không mời kia sợ chạy ngay. Cũng nhờ có nó mà một lần có con rắn hổ mang bành bò vào lều, con lợn đã nhai sống nuốt tươi chú rắn kia (5).
Mỗi lần đi ''vệ sinh'' nó ủn ỉn giẫy dụa, tuột khỏi tay chủ, đi ra ngoài. Xong, lại trở vào khoan thai nằm xuống chỗ được chủ quy định. Con lợn hay ăn chóng lớn. Không phụ lòng mong mỏi của bà chủ nghèo đói, nhưng nhân từ, tốt bụng. Mới chỉ nuôi có sáu tháng, con lợn đã nặng hơn một tạ. Nhà quá chật lại đang cần vốn, Hương gọi ông lái lợn ở làng bên sang bán.
Hôm ông lái sang bắt lợn, Hương không nỡ xa nó. Nàng vẫn ngồi vuốt ve con vật. Tội nghiệp cho nó, không biết rằng con người sắp mang nó giết thịt, mõm vẫn hênh hếch nhìn chủ, phát ra những tiếng ụt ịt... ủn ỉn, vẫy tai, vẫy đuôi. Nhìn nó nằm dưới chân, Hương lại không nỡ bán... 
Nghe tin con lợn của Hương nặng hơn một tạ, bác lái cho ba người đi theo để khênh. Hương cứ dùng giằng không dứt. Bác lái lợn kiêm luôn nghề đồ tể, chuyên nghề mua lợn về giết thịt bán cho bà con. Thấy Hương ngồi nhìn con lợn nằm dưới chân, nước mắt đầm đìa. Bác ta hiểu ra nguyên nhân, đã quen với những cảnh này... Bác đưa chiếc điếu cầy lên, rít mạnh, tiếng kêu của nõ điếu xòng xọc nghe vui tai... Hút xong điếu thuốc, bác khoan khoái thả khói lên trời, nhìn Hương chậm rãi: Tôi biết cô thương nó cho nên khóc? Ðúng là không hiểu gì cả, để tôi kể cho cô nghe về lịch sử con lợn. Nghe bác lái nói vậy, Hương ngẩng đầu nhìn bác ta chăm chú. Thấy cô chủ đã tỏ ra quan tâm, bác lái kể: Con lợn ngày nay, xưa kia vốn cũng là một con người. Anh ta có tội với đồng loại, hay làm điều ác... Tội của anh ta vang động đến thiên đình. Thượng đế sai Thiên tướng xuống trừ khử, nhưng có dặn: ''Nó làm ác, tội nó tày đình, không để cho nó chết dễ dàng, phải bắt nó làm kiếp gia súc để người đời đánh đập hành hạ... để cho nó trả báo, chuộc lại lỗi lầm. Khi đã đủ trả báo, nó phải chịu giết mổ mới được đi đầu thai chuyển kiếp''.
Bây giờ nó sắp được tôi cho đi đầu thai kiếp mới, cho sướng thân nó... sao cô còn ngăn trở không cho nó đi?
Hương ngẫm nghĩ câu nói của bác ta, cảm thấy câu chuyện có lý, vụt tỉnh. Nàng thấy lòng mình thanh thản, tuy vậy vẫn ôm đầu con lợn nói tha thiết, như nói chuyện với người bạn: Thôi! Từ giã ngươi! Ði đầu thai nhé! Làm kiếp khác cho đỡ khổ. Ðừng trách ta. Nhất định có ngày, khi ta gặp lại ngươi, hy vọng sẽ khác bây giờ... nhất định ta sẽ trả ơn ngươi!...
Bác lái lợn cười vang. Ðặt chiếc rọ xuống trước mõm, khẽ láy tay vỗ vào mông núng nính thịt thúc dục - Nào, đi đầu thai!… con lợn như hiểu ý, đứng dậy ụt ịt chui vào. Bốn người ở hai đầu, khênh con lơn ra cân. Họ cười nói oang oang vì tin rằng thịt con này nhiều nạc...

Ðược một số tiền lớn, Hương mang trả tiền mua giống cho Dung. Mua một lơn giống khác, sắm một vài thứ cần thiết như quần áo sách vở cho con. Nàng không quên mua hai thang thuốc bổ, rượu ngâm, mang tới cho Mẹ đẻ và bà Lành. Còn lại hơn một nửa tiền, có người mách, một gia đình cùng làng đi kinh tế mới muốn bán nhà đất. Hương thấy hai mẹ con ở mãi trong túp lều ngày ngày cứ phải nghe điều ong tiếng ve kia - Nàng thấy đây là dịp may, vội đến xin mua lại mảnh đất, căn nhà của anh ta. Gọi là nhà tuy lớn hơn túp lếu của Hương nhưng cũng hoang toàng... đất thì rộng. Ðược cái tường đắp đất dầy chắc, mái lợp lá gồi, dù sao vẫn hơn túp lều che bằng rạ và những mảnh nilon rách của mình.

Rất may vì anh ta sắp lên đường vào Cà Mau đi kinh tế mới, đã rao bán, nhưng ai cũng chê không mua. Khi Hương đến hỏi, chủ nhân mừng, bán ngay. Giá cả, thủ tục và bàn giao nhà diễn ra nhanh chóng suông sẻ. Thế là khoản tiền bán lợn vừa vặn hết, sau khi chừa năm đồng làm vốn.
Khát vọng xây căn nhà cho con ngày đêm nung nấu trong lòng Hương. Muốn xây được nhà trước hết phải có gạch, sau đó đến những vật liệu khác. Vẫn chưa được làm xã viên nên không thể trông mong gì được sự giúp đỡ của HTX. Trong hoàn cảnh thời kỳ cuối những năm bảy mươi, không được cầy cấy làm ruộng, thì lấy gì mà sống, cho dù cuộc sống của người xã viên cũng thật khốn khó! Hương lại vẫn phải hành nghề ''mua đầu chợ, bán cuối chợ'' để nuôi mình nuôi con, thực hiện ước mơ đang ngày đêm cháy bỏng trong lòng. Nàng quyết định: Tự đóng gạch, làm ngói cho căn nhà, các thứ khác tính dần. Quyết định là làm ngay. Hàng ngày, Hương đi lên chợ Thị xã từ 5 giờ sáng, cất lại hàng của người có vốn, đem bán lẻ. Ðến giữa trưa trở về, ăn vội miếng cơm rồi bắt tay vào đóng gạch.
Ðóng gạch là một nghề nặng nhọc vất vả và có nhiều công đoạn, đòi hỏi phải có sức, có nhiều nhân lực tham gia. Ðó là nghề của những lực điền. Ðằng này, con còn bé, sức khỏe kém, trơ trọi có một mình, lại bệnh tật... Hương không ngần ngại, cứ làm thử... Nhưng làm được mây trăm viên, đem ra nhờ nung thử. Hỏng hết. Hương không bỏ cuộc! Nàng nghĩ đến lò gạch của HTX... quyết định tới ''Xem''. Cũng may, mấy ông thợ làm gạch chuyên nghiệp tốt bụng, đồng ý cho Hương làm không công để học nghề.
Cô Kế Toán Trưởng năm xưa có kiến thức lý thuyết, thông minh, lại nung nấu thực hiện ước mơ của mình, của con nên chỉ mấy tuần sắn tay áo phụ việc, Hương đã nắm được kỹ thuật từ khâu làm mộc đến lúc vào lò, đốt và ra lò. Trở về, cô hăm hở đi mua sắm mấy thứ dụng cụ đích thực của thợ làm gạch... lấy ngay đất trong vườn nhà nhào trộn, bắt tay vào việc.
Ðóng gạch quan trọng ở hai khâu: Làm mộc và nung chín. Làm tốt hai khâu này mới có gạch tốt, mới xây nhà được. Làm mộc rất vất vả. Phải lấy đất, tưới nước cho nhão, nhào đi nhào lại nhiều lần cho cho nhuyễn... khi vào khuôn phải phơi cho khô dần, khô đều. Khi nung gạch phải có kỹ thuật, mới không cong vênh, cháy, non... Thế mà Hương gầy yếu, mảnh khảnh, chỉ có một thân một mình, làm từ khâu đầu đến khâu cuối... Làm suốt từ trưa, đến tối mịt, chỉ ngủ được vài ba tiếng lại phải trở dậy đi chợ, trưa về ăn vội miếng cơm lại lao vào đóng gạch. Hai bàn tay nhào đất nhiều, lại bị bệnh Phong, nên rụng dần từng đốt... nhiều hôm bị ngất xỉu ngay bên đống đất đang nhào dở. Tú Anh đi học về bắt gặp phải dìu mẹ vào nhà.
Hết mệt, lại lao vào làm...
- Ốm no bò dậy, tỉnh... lại trở ra nhào đất đóng gạch mộc...
Tay đau, thì lấy khuỷu tay, lấy chân, lấy mu bàn tay mà nhào. Hương nhất định không chịu bỏ cuộc. Sau 6 tháng vật lộn với công việc, hơn một vạn gạch mộc đã đóng xong. Hương ra lò gạch của HTX thuê bác thợ đốt lò về xây một chiếc lò dã chiến tại vườn và nung. Gạch mộc làm tốt, thợ nung giỏi, được trả tiền thuê đàng hoàng... hơn vạn gạch ra lò với tỷ lệ xấu không đáng kể. Nhìn đống gạch đỏ au, xếp đều đặn vuông vức ở trước sân, Hương sung sướng vô vàn. Một kế hoạch mới được phác ra: Nàng sẽ tiếp tục đi buôn để kiếm tiền mua vôi, cát, xi măng, sắt thép và trả công xây dựng, kịp xây nhà cho con, trước tết năm nay...
''Người tính không bằng trời tính'', ''Mưu sự tại Nhân, thành sự tại Thiên''. Cổ nhân dậy chẳng sai!. Hơn sáu tháng vật lộn với đám gạch. Sau một đêm kia, vào cuối mùa hè, ngủ đẫy giấc, sáng nay trở dây, Hương thấy thân thể đau rã rời, không cất mình dậy được. Cơn sốt từ đâu kéo tới... Căn bệnh phong quái ác trở lại hành hạ Hương. Bắt đầu là các ngón tay còn lại tiếp tục lở loét, rồi dần thay nhau rụng. Cơ bắp tay chân teo dần, khuôn mặt biến dạng méo mó không còn hình dạng của cô Hương duyên dáng thuở xưa. Hương lại nằm liệt giường. Cơn bĩ cực lần này xem ra tàn khốc hơn mấy lần trước...
Bà mẹ đẻ phải dằn dỗi với cô con gái lớn mới ra chăm sóc, thuốc thang, ăn uống cho Hương được vài bận... Hơn vạn gạch, ước mơ của người mẹ khổ đau, cùng đôi lợn giống dần đội nón ra đi, đổi lấy những thứ khác duy trì sự sống của hai mẹ con: Thuốc chữa bệnh và ngô khoai sắn... thế mà bệnh cứ ngày một nặng...
Nghe dân làng kháo nhau về tình trạng bệnh tật của Hương, ông Chủ tịch Xã đến kiểm tra. Nhìn thấy Hương (mặt biến dang, hai bàn tay lở loét, ngón tay rụng từng đốt, hôi thối...), ông chạy vội về văn phòng Ủy Ban ra lệnh:
- Phải đưa ngay ''mụ'' Hương đi trại Phong Hủi. Ðể đây, dân làng lây bệnh hết.
Lệnh được thi hành ngay. Lập tức bốn dân quân xách súng đến nhà, đốc thúc Hương trở dậy theo họ - ''nếu không sẽ bị trói, thuê người khênh đi'' - họ dọa. Hương đau ốm, ngồi còn chưa vững, nhưng nghe nói và thái độ hung dữ của họ, Nàng cố bò đậy đi theo cho yên chuyện. Sợ Hương chạy trốn, hai dân quân đi trước lấy một sợi giây thừng buộc vào hai khuỷu tay dong đi như dong trâu, hai người khác đi sau áp tải. Dân làng túa ra xem, bàn tán. Người xót thương, kẻ hả dạ yên tâm vì không sợ lây bệnh... Người đàn bà khốn khổ, đau thể xác vì bệnh tật thì ít, cõi lòng tan nát, tái tê vì sự hắt hủi của chòm xóm thì nhiều, chỉ còn biết cúi mặt loạng choạng lê bước trên đường làng theo bốn dân quân ra bờ sông...
Khi Tú Anh đi học về, thấy không có mẹ ở nhà, nó lồng lên chạy sang hàng xóm hỏi thăm. Nghe mọi người kể, nó chạy vội ra bến đò, cùng lúc mẹ nó đang được ‘’giong’’ xuống thuyền... Nó thét lên lao vào cứu mẹ. Hành động của đứa bé hiếu thảo 10 tuổi khiến cho hai dân quân phải kiên quyết ra tay ngăn chặn, bằng cách hai người hai bên nách thằng bé ghì chặt, đợi mẹ nó xuống đò mới buông thằng bé ra. Khi chiếc đò dọc ra giữa sông, Tú Anh cứ chạy dọc trên đê, vừa chạy vừa kêu khóc, cho đến khi con đò chuyền hướng, bờ đê xa mép nước, nó mới dừng lại gục xuống bờ cỏ ven đê gào khóc thảm thiết...
Ðến Trại Phong - Hủi có thể đi ô tô, hoặc đi đò. Sợ lái xe không chở, Ông Chủ tịch ra lệnh cho hai dân quân thuê đò dọc, rồi từ bến đi bộ vào. Sau gần nửa ngày, vừa đi thuyền, vừa đi bộ, người ta đưa được Hương đến trại Phong. Ông Bác sĩ khám cho Hương tỉ mỉ, lát sau kết luận: Bị bệnh phong giật, không lây. Trở về nhà tự điều trị! Ông ta kê một đơn thuốc và cho mấy viên thuốc rồi hối hả đi ra. Hai dân quân nghe xong, vội tót lên xe khách đi ngay, bỏ lại Hương một mình với sợi giây thừng lủng lẳng trên cánh tay...
Mệt mỏi, bụng đói, mắt hoa, không có tiền trên người... Các đầu khớp ngón tay đau nhức. Bệnh viện lại không chịu nhận điều trị... Buồn tủi, đau đớn, ê chề... Không còn một chút hy vọng, Hương lặng lẽ lê bước về phía bờ đê.
Sông Hồng mênh mông cuồn cuộn chảy...
Nước đỏ ngầu phù sa.
Mấy hôm trước vừa có trận mưa trên nguồn nên nước sông chảy xiết. Hương khó nhọc leo lên mặt đê, đi xuống, ra phía mép nước. Trong đầu Nàng trống rỗng... Cuộc sống năng nề bế tắc, thôi thì buông xuôi theo dòng nước cho xong, sống chỉ thêm tội. Chợt nàng nhớ tới con, đứa con bé bỏng ''nếu mình chết đi nó sẽ côi cút...'', nhưng nghĩ đến chặng đường trước mắt, ý thức được nếu tiếp tục sống chỉ làm cho con khổ thêm. Ðã đến mép nước, Hương đứng thẳng người, ngẩng mặt nhìn trời, cất tiếng gọi: Con ơi! tha lỗi cho mẹ.
Dứt lời, nàng lao xuống sông…
Dòng nước đang cuộn chảy, có một thân người nhẹ tênh rớt xuống, dòng nước chỉ hơi gợn mặt rồi lại cuồn cuộn tiếp tục trôi. Do bản năng, Hương cố ngoi lên, uống liền mấy ngụm nước. Sức khỏe đã yếu sẵn, lại đã tự xác định... chết! Nàng buông xuôi...
Thân hình Hương từ từ chìm xuống... 
Một chiếc thuyền nan đậu gần đấy - do quyết tâm tự tử nên khi đứng trên bờ chuẩn bị gieo mình Hương không để ý - Con thuyền nan đang bồng bềnh trên mặt sông. Trên thuyền, ở cửa khoang có một ông lão thuyền chài cởi trần, đang ôm cần chiếc Ðáy (5a). Khi thấy người đàn bà xuất hiện trên bờ, ông lão đã đoán được sự việc sẽ xẩy ra... chỉ kịp gạt chiếc cần Ðáy sang một bên, lao xuống dòng nước trước khi người đàn bà trên bờ gieo mình.
Khi Hương vừa nhảy xuống sông, thì cũng là lúc ông lão bơi đến sát người Nàng. Thế mà cũng phải mất gần một phút, ông lão mới nắm được cánh tay Hương kéo vào phía bờ. Vốn sống bằng nghề chài lưới trên sông nhiều năm, ông lão nhanh chóng đưa được Hương lên bãi sông. Chỉ thoáng cái đã cấp cứu cho Hương tỉnh lại. Nàng mở mắt nhìn. Trong màn sương trắng đục, chỉ thấy một bộ mặt hiền từ, râu tóc bạc phơ đang nhìn Hương chăm chú…
Thấy người đàn bà đã qua cơn nguy hiểm, ông lão hỏi, giọng nghiêm khắc, trách cứ:
- Tại sao con lại dại dột thế?
Hương khó nhọc nhìn ông già không đáp. Ông lão dịu giọng: Dù cực khổ đến đâu con cũng không được tự hủy hoại thân mình... Tự tử là việc làm đáng trách, có tội với cha mẹ, con cái, trời phật. Ta xem số con chưa hết đâu. Hãy cố ráng sống, rồi con sẽ giàu sang.
Hương cố nhỏm dậy, nhưng quá mệt, Nàng không còn sức... chỉ cất lời giọng nhát gừng: Ðời con khổ lắm... ông ơi. Con sống cũng bằng thừa. Ông cứu con làm gì, để con chết... cho nhẹ nợ đời. Ðoạn nàng khóc nức nở. Ông lão an ủi: Qua cơn bĩ cực tới tuần thái lai. Ta nhìn tướng con ta biết, con nhân hậu, bác ái... có quý nhân phù trợ, sau này sẽ giàu sang... Cố ráng sống. Ðây, ta chỉ còn ngần này, con cầm lấy trở về, ngày sau làm lên hãy nhớ đến ta! Dứt lời, ông lão nhét vào tay Hương một đồng bạc - đồng tiền bằng nhôm nằng nặng, lạnh toát (5b) Cái lạnh của đồng bạc đang nằm trong lòng bàn tay làm Hương rùng mình... Nàng chợt tỉnh...   
Ông lão quay người đi ra mép nước, tháo dây neo, nhẩy xuống sông, bơi về thuyền. Cho tới lúc đó, Nàng vẫn không nhìn rõ mặt người đã cứu mình. Khi ông lão quay người, Hương chỉ nhìn thấy sau lưng, tấm lưng rộng, vạm vỡ, khổ người to cao, mái tóc, chòm râu bạc phơ... Không hiểu sao - có lẽ do nước ngấm vào mắt - nhìn cảnh vật nhòe đi, vì vậy Nàng thấy viền xung quanh người ông lão như có một hào quang...
Khi ông lão trèo lên thuyền, con thuyền nan đột ngột quay ngang, hướng mũi chênh chếch với bờ, lao vun vút ra giữa dòng rồi trôi xuôi, ngày một xa dần…
Hương tỉnh hẳn, ngồi nhỏm dậy nhìn theo. Con thuyền chỉ còn như một khúc gỗ bập bềnh nhô lên, hụp xuống, lát sau khuất hẳn bởi đỉnh những ngọn sóng dồi.
Hương gắng gượng đứng lên, lê bước ngược về phía bến đò. Vừa đi nàng vừa suy nghĩ về khoảnh khắc vừa sẩy ra... Ðồng bạc bằng kim loại, nằm trong túi áo, cứ đập vào đùi, phát ra những tiếng phập... phập... theo nhịp bước chân đi của Nàng. Lời ông lão thuyền chài lại vang lên: ''hãy ráng sống... qua cơn bĩ cực... sẽ giàu sang''... 
Nàng bừng tỉnh, thấy như khỏe hơn, đi nhanh xuống bến đò. Trên bến, còn một chuyến đò dọc cuối cùng chưa nhổ neo. Người lái đò gọi, Hương bước nhanh lên tấm ván nối bờ với sàn khoang. Người chủ đò nói giá vé 1 một đồng, Nàng móc túi đưa cho ông ta đồng bạc - mà ông lão cho - đoạn tiến về phía đằng mũi, ngồi dựa lưng vào tấm gỗ chắn. Ðói, mệt Hương thiếp đi... Nàng bỗng thấy mình bước vào ngôi nhà gạch mái bằng rộng lớn. Trong nhà có nhiều đồ đạc bằng gỗ Dổi vàng rượm, thơm phức. Giọng phát thanh quen thuộc, quyến rũ của cô phát thanh viên đài Tiếng nói Việt Nam từ chiếc Radio Hồng Kỳ để trên mặt tủ phát ra nghe thật vui tai... Bỗng có tiếng lợn kêu. Hương đi đến phía đó. Con lợn to hơn một tạ, mồm kêu ụt ịt vẫy đuôi cũng tiến lại phía Nàng. Nhìn kỹ, hóa ra đó là con lợn nàng đã nuôi, đã bán...  Nàng cúi xuống, con lợn ủn ỉn như nói chuyện với nàng...
Một tiếng động mạnh, Hương giật mình... mở choàng mắt, người lái đò đang đứng trước mặt, bác ta đánh thức, báo cho biết đò đã cập bến. Hương lên bờ hối hả về nhà. 
Ðêm đã khuya. Tú Anh vẫn ngồi bên mâm cơm đợi mẹ. Thấy mẹ về, bé mừng rỡ, đỡ mẹ vào giường, lấy khăn mặt xấp nước lau mặt cho mẹ, xới cơm đưa cho mẹ ăn. Tuy mới 10 tuổi đầu, là con trai, nhưng Tú Anh đã làm được nhiều việc, thực sự như đứa trẻ thành niên.
Nuốt được miếng cơm vào bụng, Hương dần tỉnh. Nàng nhìn con xót xa, nghĩ đến hành động vừa rồi của mình, nàng thấy ân hận, thầm cám ơn ông lão thuyền chài... tự nhủ sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Nàng ''phải ráng sống, nuôi con nên người'' - như lời Bà Cụ Lành nói - Nàng không nghĩ rằng ''sau này sẽ giàu sang, có quý nhân phù trợ...'' - như lời ông lão khi cứu nàng đã bảo - nhưng nàng quyết tâm sống! Sống để nuôi con! Nàng sẽ vì nó mà sống. Nó là niềm hy vọng, là tương lai của Nàng...
Hôm sau, Hương gọi người đến bán hết số gạch còn lại (đã bán đi gần một nửa từ sau hôm đổ bệnh để thuốc thang...). Nàng sai con ra gặp cụ Lành, nhắn cụ vào cho nàng gặp.
Tuy nhà mẹ đẻ gần, nhưng người chị quá quắt, Hương không muốn mẹ bị chị ta la rầy. Nàng quyết định nhờ bà Lành. Bà cụ nghe tin, vội nghỉ không đi ăn xin, vào ngay. Sau trận ốm cữ ấy (Hương đã ra thăm), bà cụ yếu đi nhiều. Thấy Hương khô héo quắt queo, bà cụ càng thương, nhìn nàng khóc ròng. Hương cảm động, đang nằm vội trở dậy, bà Lành tiến đến đờ nàng dựa vào tường. Lát sau Hương nói: Con mời bà vào có chút việc muốn nhờ - dừng một chút đắn đo, đoạn tiếp - Bệnh tật của con hiểm nghèo, tuy vậy còn nước còn tát. Con còn một ít gạch đã bán hết lấy tiền thuốc thang. Nếu có mệnh hệ nào, nhờ Bà chăm nom cháu Tú Anh hộ con. Chợt như nhớ ra điều gì, nàng vôi giải thích - Mẹ con thì già, người chị tính nết như vậy... không thể giao cháu cho mẹ con được. Bà dọn hẳn về đây mà ở, nhà vẫn còn đủ chỗ, dù sao vẫn hơn. Bà con rau cháo sớm hôm có nhau. Ðây là số tiền bán gạch - Hương đưa cho bà gói tiền - Con giữ lại một nửa để mua thuốc, còn một nửa gửi Bà, tuy chẳng được là bao, nhưng cũng đỡ cho bà chút ít.
Bà Lành đẩy gói tiền trở lại, dịu dàng bảo: Con hãy cầm lấy thuốc thang đừng nghĩ quẩn. Nếu chẳng may trời bắt tội, Bà sẽ chăm sóc Tú Anh. Mấy năm kiếm cơm thiên hạ bà cũng dành dụm được một ít, đủ lo liệu cho hai bà cháu. Cần nhất bây giờ con phải chữa cho khỏi bệnh.
- Con xin Bà - nàng ngắt lời bà cụ - Nếu bà không nhận, con có ra đi cũng không thanh thản. Nếu khỏi thì số tiền kia thuốc thang cũng đủ, còn bệnh nặng, không chữa được có ngần này, chứ hơn nữa cũng chẳng giải quyết được gì. Con phó mặc cho số phận. Bà yên tâm, con không tự tử nữa đâu - Nàng trấn an bà cụ đoạn tiếp - Ðiều cần nhất, Bà đừng cho cháu biết, thằng bé này hiếu thảo lắm, nó chẳng chịu đâu. Hai bà con đang đùn đẩy nhau gói tiền, ở ngoài có tiếng gọi: Mẹ cu Tú về chưa?
Nghe tiếng Mẹ đẻ gọi, Hương ra hiệu... bà Lành cầm gói tiền dấu vội vào túi. Bà mẹ già lụ khụ, khó nhọc bước vào. Thấy Hương đang nói chuyện với bà Lành, mẹ Hương ngồi xuống cạnh giường, lấy chiếc khăn tay nhỏ, mầu nâu - hình như bà cụ cắt ở chiếc áo nâu rách nào đó - lau đôi mắt kẻm nhẻm, khó nhọc : Bà Lành đấy à? Thật quý hóa. Cháu nó ốm đau, tôi chẳng giúp được gì, được bà đến chăm sóc, tôi cảm kích vô cùng. Nói đến đây bà cụ òa khóc. Bà Lành nắm tay bà cụ an ủi: Có gì đâu cụ. Tôi còn khỏe, thấy mẹ nó bệnh tật, cụ lại già yếu, tôi thay cụ thăm nom vài bữa thôi. Cùng cảnh ngộ với nhau, giúp nhau là lẽ thường. Hương nhìn mẹ, nhìn bà Lành - đưa mắt lắc đầu ra hiệu cho bà đừng nói hở ra chuyện gửi tiền - đoạn quay sang nói với mẹ: Con về hôm qua. Mẹ đừng lo gì cả, Bà Lành giúp con nhiều... con đang uống thuốc. Mẹ về đi kẻo chi Hoa thấy mẹ sang đây lại rầy. 
- Thật tội nghiệp - bà cụ ngậm ngùi - Mỗi đứa mỗi tính... Mẹ đã già yếu, đi ăn nhờ nó, không còn chút quyền hành gì. Thấy con ốm đau, rất muốn chăm sóc con, mà không thể giúp gì được, tha thứ cho mẹ. Bà cụ nói đến đây lại khóc.
Hương nhìn mẹ oà khóc theo! Lát sau bà cụ lật đật móc từ trong túi áo nâu bạc phếch, xơ xác, cũ mèm, lôi ra hai củ khoai lang to bàng hai quả trứng gà con so, đưa cho Hương, nghẹn ngào : Mẹ lục mãi cũng chỉ còn vài củ khoai mang cho cháu. Con mẹ Hoa đem bỏ tất cả gạo, khoai vào hòm khóa lại rồi. Hương nhìn mẹ, nhìn bà Lành. Ðôi mắt Nàng thẫn thờ, xa vắng.
Bà Lành đứng dậy, nhìn Hương gật đầu. Chào mẹ Hương, ra về.
Mẹ nàng ngồi nhìn con gái thở dài rồi cũng chống gậy đi ra.
Hàng ngày Tú Anh đi học về, xuống bếp nấu cơm cho mẹ. Thay giặt quần áo, băng bó vết lở loét... mọi việc cũng chỉ do mình Tú Anh làm. Sức khỏe của Hương suy sụp nhanh chóng. Không đi đứng được nữa, mọi sinh hoạt của người mẹ đều do đứa con trai hơn 10 tuổi giúp đỡ. Hương chỉ còn da bọc xương. Ho ra máu, nói đã ngọng, mắt vàng ệch, các ngón tay rụng dần... thật đúng là ''Tứ chứng nan y''. 
Tú Anh linh cảm thấy tính mạng mẹ sắp nguy, nó bỏ học, lục tìm xem còn gì có thể đem cầm, bán. Nhưng tìm mãi chỉ còn mấy đồng, không đủ mua thuốc kháng sinh. Tiền hết, gạo không, nó nghĩ tới hai ổ gà đang ấp bóng (vì trứng gà đã ăn hết)... Không còn suy tính nữa - mặc dù nó rất quý hai ổ gà dự định sẽ nuôi làm kế hoạch nhỏ theo chủ trương của nhà trường - Tú Anh vội bắt hai con gà mái, cho vào rọ đeo lên vai, vực mẹ dậy dìu ra đường cái đưa đi Bệnh viện Huyện. Một anh xích lô đang uể oải đạp xe trở về phố Huyện sau khi vừa đổ khách xuống đầu làng. Tú Anh vẫy gọi, trình bầy hoàn cảnh... Anh xích lô đồng ý chở hai mẹ con đến Bệnh viện mà tiền công là một con gà.  
Ðến cổng Bệnh Viện Huyện. Tú Anh cứ lẳng lặng dìu mẹ vào. Ông lão thường trực ở cổng đang nghe điện thoại, ngẩng lên, thấy hai mẹ con tập tễnh đi vào, lão vội tắt máy chạy ra kiểm tra... vì luật lệ của BV muốn vào viện phải xuất trình giấy giới thiệu của Trạm xá Xã. (Hương không có hộ khẩu ở HTX, thì làm gì có giấy giới thiệu).
Thấy người đàn bà gầy yếu, trông như một xác chết đang được đưa bé độ mươi tuổi dìu vào. Ông thường trực ngăn cản, khi đến bên cạnh người đàn bà kia, mùi hôi hám nồng nặc từ người bệnh bốc lên, ông ta nhăn mặt lùi lại, quát: Hai mẹ con mày có giấy giới thiệu của Trạm xá xã không, đưa đây!
- Con không có. Xin ông cứu mẹ con. Mẹ con sắp chết đến nơi, xin ông làm phúc cho mẹ con vào!
Tú Anh mếu máo...
Con gà mái còn lại trong chiếc rọ, đeo ở trên vai đứa bé kêu quang quác vì giọng của ông lão thường trực rất to. Vừa đúng lúc, người Giám đốc Bệnh viện Huyện có việc đi ra ngoài. Tới cổng, thấy ồn ào, ông tiến đến. Khi nhìn người bệnh đã lả dần bên cạnh đứa bé đang van nài, ông động lòng trắc ẩn... Vốn là một bác sĩ thời Pháp, đi kháng chiến, nhưng thuộc thành phần lớp trên nên thời đó ông không được đề bạt cao hơn. Trong khi bạn bè cùng trang lứa có thành phần xuất thân nghèo khó, giờ trở thành những người chức trọng quyền cao, còn ông phải về cái bệnh viện của một huyện nghèo làm Bệnh viện Trưởng.
Khi thấy hai mẹ con chú bé đang ''giằng co'' với ông lão thường trực, Bệnh Viện Trưởng nhận ra ngay người bệnh nay thực sự ''thập tử, nhất sinh'', theo quan sát của ông, cô ta chẳng sống được bao nhiêu nữa. Vả lại ''để mẹ con nó đứng đây van xin sẽ ảnh hưởng''... Ông quay sang bảo người gác cổng: Bác gọi điện cho phòng cấp cứu ra đưa Bệnh nhân này vào ngay, giấy tờ lo sau.
Người gác thi hành lệnh.
Hai nhân viên y tá và người bác sĩ trực với chiếc băng ca tới nơi. Hương được đặt lên cáng khiêng vào. Tú Anh theo sau. Cái rọ và con gà vẫn lúc lắc trên vai em. Tới cửa phòng cấp cứu. Tú Anh dừng lại, đặt chiếc rọ gà xuống sàn, ngồi xuống theo chờ đợi... Lát sau, Ông Bệnh Viện Trưởng (BVT) đi ra, vừa đi vừa lắc đầu. Tú Anh đứng dậy tiến đến trước mặt ông, quỳ xuống, đập đầu lia lịa trên sàn bê tông, nói trong nước mắt:
- Con van ông, con cắn cỏ lạy ông, xin ông cứu mẹ con. Nhà con chẳng còn gì, chỉ còn con gà này, con xin biếu ông, mong ông làm phúc...
Người BVT cúi xuống nâng Tú Anh dậy. Ông rất hiểu tâm trạng của thân nhân người bệnh... nhất là mẹ của thằng bé, sự sống chỉ còn được tính từng giờ. Nhưng ông không muốn làm hết hy vọng của đứa trẻ hiếu thảo, ông quyết định đành nói dối để đứa bé an tâm: Cháu đứng dậy. Mẹ cháu bệnh nặng, nhưng chúng ta sẽ ráng sức cứu chữa. Bây giờ cháu hãy về nhà - cầm cả con gà về, ông ấn chiếc rọ vào tay Tú Anh - chờ kết quả. Vài hôm nữa cháu lên đón mẹ về, kẻo ở đây không tiện, ban bảo vệ Bệnh Viện không cho. Thấy BVT nói vậy, Tú Anh tin ngay, mắt sáng lên, mồm cám ơn rối rít: Cháu cám ơn ông, đoạn nhanh nhẹn xách rọ gà đi ra.
Nhìn thằng bé vui mừng, tung tẩy đi ra khỏi cổng, ông BVT đứng tần ngần suy nghĩ. Ông tỏ ra ân hận vì nói dối đứa bé. Nhưng không nỡ gieo vào lòng đứa trẻ nỗi tuyệt vọng. Ông tự an ủi: ''Vì bất đắc dĩ đành phải làm vậy. Ðó là tia hy vọng nhỏ nhoi cuối cùng làm cho đứa bé lấy lại thăng bằng. Ta nỡ lòng nào đang tay dập tắt niềm hy vọng tuy rất mỏng manh của nó?...''!. Chợt nhớ ra nhiệm vụ của mình, BVT vội quay gót, trở về phòng hội chẩn. Ở đây đã có đông đủ Y, Bác sĩ.
Thấy ông vào, Bác sĩ Trưởng khoa ngoại dứng dậy báo cáo. Ông ta nói về căn bệnh nan y của Hương, trong một lúc xuất hiện cả bốn bệnh: Phong, Mật, Thận, Gan mà bệnh nào cũng đang ở thời kỳ cấp tính... đoạn kết luận: Người bệnh này không thể nào chữa được, cô ta chỉ sống không quá 3 ngày...
- Nhưng có nghĩa là hiện cô ấy vẫn đang sống chứ gì? BVT hỏi lại.
- Thưa vâng! Ý tôi muốn nói là - Người Bác sỹ kia sợ BVT hiểu lầm, định giải thích - BVT ngắt lời: Yêu cầu các Anh các Chị ráng sức - BVT đưa mắt nhìn khắp lượt nhân viên của mình, dừng lại, cúi xuống nhìn bản ghi tóm tắt bệnh án của Hương... trầm ngâm, tiếp: Còn nước còn tát... Ðó là một con người... Dù sao đây cũng là một ca bệnh hiểm nghèo. Cần theo rõi sát sao, tập trung chữa trị để lấy kinh nghiệm cho những ca khác!
Cả phòng hội chẩn im lặng.
BVT lại hỏi: Có ai còn ý kiến gì khác không?
Tất cả lại im lặng. BVT giục: Nào, hãy vào việc!
Mọi người rời phòng hội chẩn. Mọi người đều đồng ý với BVT, nhưng không ai tin rằng người bệnh kia có thể qua khỏi.
Thực hiện lệnh của BVT, nhân viên, Y, Bác sĩ ngày đêm túc trực chữa trị, chăm sóc Hương. Ðiều kỳ lạ đã đến: Sau ba hôm, chẳng những Hương không chết mà các bệnh lui dần... Ông BVT đến thăm, trở về lại họp hội chẩn... Những y bác sĩ thay nhau báo cáo... BVT ra tiếp chỉ thị và tiến hành phương pháp chữa trị ở giai đoạn hai, được tăng cường cả thuốc, trị liệu lẫn tăng thể lực...
Bệnh tình của Hương thuyên giảm. Sức khỏe đang dần hồi phục...
Gần một tuần không thấy con tới thăm, Hương nóng ruột.
Một buổi chiều thứ 7, Hương đã lê được từ trong phòng ra ngoài sân hóng gió. Bỗng thấy Tú Anh từ ngoài cổng đi vào. Trên đầu thằng bé chít chiếc khăn trắng. Hương ngạc nhiên trố mắt nhìn. Tú Anh thấy mẹ đã khỏe, tự đi ra được bên ngoài sân nên vui mừng chạy lại. Hương nhìn con hốt hoảng mếu máo: Con để tang ai thế này? Bà mất rồi ư? Hu... u... hu...
Thấy mẹ hỏi, Tú Anh xịu mặt, lát sau mới cất lên lời: Mẹ ơi! Bà mất rồi.
Thoạt nghe, Hương tưởng mẹ đẻ mình đã mất, nàng hỏi dồn: Bà mất hôm nào? Tại sao bác Hoa (chị gái) không lên báo cho mẹ biết?
- Không phải bà nhà mình đâu, Bà Lành kia!
- Ủa, mấy hôm trước bà lên thăm mẹ, Bà còn khỏe kia mà, sao lại như vậy?
- Bà bị cảm đột ngột từ hôm kia. Chiều hôm qua bà nhờ cô Dung vào gọi con ra, Bà đưa cho con gói này - Tú đưa cho mẹ chiếc túi vải hoa, trong đựng số tiền mà Hương đã đưa cho bà cụ hôm trước, đoạn em tiếp - Ðến đêm bà mất. Sáng nay nhà trường lo chôn cất rồi. Con thương bà lắm, tìm một vuông vải trắng tang bà. Bà được chôn ngay tại gốc tre trên gò ấy mẹ ạ...
Thằng bé buồn rầu, xịu mặt.       
Nước mắt Hương xối tuôn. Nàng thật sự xúc động, như chính mẹ đẻ mình mất. Hình ảnh, giọng nói của bà cụ lại hiện ra... vang lên... trong khi đó, giọng Tú Anh vẫn đều đều: Chú Dân - tên con trai bà cụ - được báo từ sáng sớm mà mãi khi đưa Bà ra huyệt mới đến. Cô Thái - Vợ Dân - và hai đứa trẻ không đi đưa đám Bà. Hương thẫn thờ. Lòng thương cảm bà cụ dạt dào... Nàng lại liên tưởng tới mình... Hương buột thốt lên: Chao ôi, kiếp người!
Nàng lần mở túi. Trong đó ngoài số tiền đưa cho bà cụ hôm trước, còn có thêm 50 đồng khác, số tiền bà dành dụm cả đời đi ăn xin. Trước khi từ biệt thế giới này, bà còn kịp trao cho Tú Anh, đứa bé không có huyết thống với bà, nhưng đã có lời gửi gắm của một con người cũng khốn khổ như bà... Hương ôm chiếc túi vào lòng khóc nức nở.
Tú Anh cũng ôm mẹ khóc theo.
Trời hôm nay nắng ấm, cái nắng đầu mùa hạ, sau tiết xuân ẩm thấp.
Tất cả bệnh nhân, những người đi lại được đều ra ngoài sân Bệnh viện sưởi nắng. Hương vừa qua một trận thập tử nhất sinh. Tuy đã khá nhiều, nhưng vẫn chưa khỏe như trước, vẫn nằm trên giường. Người Bác sĩ trẻ - nghe đâu mới tu nghiệp ở nước ngoài về... được BVT phân công đặc trách điều trị cho Hương.
Hôm nay là ngày khám định kỳ.
Anh tiến đến đo nhiệt độ, huyết áp, bắt mạch... Anh theo rõi tỉ mỉ những diễn biến bệnh tật của người phụ nữ này. Dường như đang tiến hành một đề tài nghiên cứu đặc biệt... sau khi ghi chép những số liệu vào quyển bệnh án, anh dở cuốn sổ tay, đứng ngay tại đầu giường của Hương chăm chú đọc... chốc chốc lại ngẩng đầu, nhìn Hương suy nghĩ... Hai nữ y tá đẩy chiếc bàn có gắn bánh xe, trên đựng thuốc, tiến  vào. Hai cô thông báo cho bênh nhân, chào Bác sĩ... Người Bác sĩ trẻ gấp sách, quay sang bảo:
- Tôi muốn cho chị Hương đi tắm. Hôm nay trời nắng ấm, vả lại, chị ấy đã có thể tắm được rồi. Các đồng chí có thể giúp tôi làm việc này?
- Xin Bác sĩ yên tâm. Tôi sẽ tìm thêm người và làm ngay.
Một cô y tá nói rồi quay ngay trở ra.
Hương đang thiu thiu ngủ, nghe đến đây giật thót mình. Lúc này Hương rất sợ tắm, cố bật ngồi dậy nhìn người Bác sĩ lúng túng, đoạn nói, giọng như van lơn: Thưa BS. Ðừng... đừng! Tôi sợ tắm lắm... xin cho tôi khất...
Người Bác sĩ nghe Hương nói chỉ mỉm cười. Vừa lúc đó ba y tá đi vào. Không chú ý đến nỗi khiếp sợ của Bệnh Nhân, hai cô Y tá lực lưỡng ở hai bên nách, dìu Hương. Cô khác cầm gói quần áo, khăn bông theo sau. Họ đưa Hương đi ra nhà tắm ở gần giếng... Vẫn động tác bắt ép, một người mở cửa nhà tắm dắt Hương vào. Hai người kia thay nhau múc nước từ dưới giếng lên, đổ vào chiếc bể chứa, nửa lồi ra phía miệng giếng, nửa nằm ở bên trong nhà tắm. Khi nước đã đổ đầy bể, một người nữa vào trong nhà tắm cùng người kia múc nước từ bể xối lên người, lên đầu Hương...
Nước giếng lạnh. Người còn đang yếu... Hương rùng mình sợ hãi... Mỗi gáo nước dội lên mình là mỗi lần Hương giật thót, co rúm người vì rét lạnh. Không kìm được rét Hương rên la... hai cô gái Y tá nghiêm khắc, lạnh lùng - Ðức tính vốn có của những thầy thuốc trước các con bệnh - vẫn bình tĩnh giữ hai bên sườn Hương, nàng không thể cựa quậy chỉ còn biết rên, khóc, van xin...
Mặc! họ cử xối nước, kỳ cọ...
Cho tới khi Hương ngất xỉu, cũng là lúc họ đã tắm xong. Hai người lấy khăn bông lau khô, mặc quần áo, dìu Hương về giường. Người Bác sĩ trực vẫn còn đứng đó. Anh ra lệnh tiêm cho Hương, liệt kê một số thuốc xoa bóp, thuốc uống... sai cô y tá lấy thêm hai chiếc chăn bông, bọc Hương kín, cứ 4 giờ phải tiến hành dùng thuốc nước xoa bóp toàn thân cho bệnh nhân một lần, liên tục cho tới khi nào tỉnh hẳn mới ngừng...
Hương nằm ngủ li bì...
Ngủ liền một mạch hơn một ngày đêm cho tới sáng hôm sau. Tỉnh dậy, thấy bụng rất đói. Cô Y tá lấy cho Hương xuất cơm, Nàng ăn hết. Lấy xuất nữa, Hương lại ăn hết. Ðó là bữa ăn của người bệnh sau khi hồi phục, người ta thường gọi là - Ăn giả bữa!
... Người Bác sĩ trực đến nơi, xem mạch, đo huyết áp, nhiệt kế... Anh ta đi ra, lát sau trở lại cùng BVT và những bác sĩ chuyên khoa. Mọi người lần lượt đến kiểm tra Hương... BVT nhìn Nàng nói: Bệnh tật của chị đã thuyên giảm, Chị cần yên tâm điều trị, nghe lời khuyên của Y Bác sĩ... tuần sau có thể xuất viện. Chúc mừng chị!
Hương thấy trong người mình đã chuyển biến. Không còn cảm thấy mệt mỏi, tinh thần thấy mỗi lúc một tỉnh táo, sảng khoái. Cuộc ''Tắm Gội'' hôm trước, đối với Hương thật khủng khiếp. Nàng đã vật vã chết đi sống lại bởi những chà sát... kỳ cọ... những gáo nước lạnh được người ta dội lên đầu, lên người... Chính nhờ những Y tá ''Nghiêm khắc, lạnh lùng đến tàn nhẫn'', làm việc ''không nương tay''... Khiến Nàng đã phải chịu đựng sự đau đớn, sự dày vò trong ép buộc !... Nhưng quả thật đó chính là liều thuốc thần diệu, hiệu nghiệm.... Cũng chính nhờ vậy, Nàng - con bệnh thập tử nhất sinh - đã từ cõi chết trở về!...
Một tuần sau Hương xuất viện, tự mình đi ra xe xích lô trở về nhà. Căn Bệnh ''Tứ chứng nan y'' đã lùi. Hương từ bến bờ của thế giới bên kia, đã trở về với cuộc sống thực...  
Những ước mơ - tưởng như đã tàn lụi vì bệnh tật - ''có một căn nhà khang trang, tươm tất cho con trai'' - lại trỗi dậy, cháy bỏng trong lòng Nàng!
Khỏi bệnh. Khỏe ra.
Hương cùng con trai lại lao vào công việc. Có mấy chục bạc do tiền bán gạch lần trước cùng với mấy chục do Bà cụ Lành cho, hai mẹ con lại làm gạch. Hương quyết định không đi buôn nữa, đi mua vôi, sỉ than ở các lò nung vôi, mượn xe bò, hai mẹ con tải về. Chuyển sang đóng gạch Pabanh.
Làm gạch Pabanh có cái lợi là không phải dùng đất, công nhào trộn ít hơn gạch chỉ, không phải đốt nung, hợp với thể lực của hai mẹ con Hương. Do chăm chỉ, có lương tâm nghề nghiệp, cộng với kỹ thuật... mẻ gạch nào mẹ con Hương đóng ra cũng được người ở trong xã, các xã lân cận mua hết. Ðắt cứ như tôm tươi. Hương thực hiện kế hoạch quay vòng vốn một cách triệt để: Gạch đóng ra, bán, lấy tiền mua vôi xỉ, tiếp tục đóng đợt khác, lại bán... cứ lần sau khối lượng gạch lại lớn hơn đợt trước... Hàng thiếu không có đủ cung cấp theo đơn đặt của người tiêu dùng, Hương phải thuê người làm thêm, thậm chí mua lại gạch của họ, sau khi đã phổ biến kỹ thuật và kiểm tra khắt khe... Việc cung cấp gạch cho khách hàng kịp thời. Lãi thu được ngày một lớn. Cùng song song với việc đóng gạch, hai mẹ con Hương bớt một phần số tiền lãi, mua lợn, mua cám về chăn nuôi.
Thật kỳ lạ, trong khi đàn lợn của trại chăn nuôi HTX còi cọc ốm lay lắt, chết dần, tăng trọng độ dăm ba cân một tháng, còn đàn lợn của mẹ con Hương cứ lớn như thổi... Mỗi tháng tăng trọng từ 10 đến 15 cân... Với hai sản phẩm quan trọng này, hàng năm mẹ con Hương thu về hàng chục triệu đồng lãi. Có tiền dư thừa, có vốn kinh doanh... Hai mẹ con người đàn bà ''Hủi''. đã một thời rơi vào tình trạng khốn khổ bi thảm đến tận cùng kia, đã đi lên từ hai bàn tay ''cùi'', cộng với cái đầu kiên cường đầy trí tuệ. Hương đã xây nhà to cao cho mình và cho con. Mua sắm những đồ đạc đắt tiền, lịch sự, hiện đại...
Ngoài chuyện đóng gạch, Hương mua đất, đào ao, thả cá, nuôi lươn và xây trại chăn nuôi lợn trên quy mô lớn. Ðàn lợn của hai mẹ con Hương đã lên tới hàng trăm con. Hàng năm xuất cho khách mua hơn trăm tấn thịt...
Hương đã trở thành người phụ nữ giàu nhất vùng...
Hương sống nhân hậu, thảo hiền.
Hàng năm đem một phần tiền lãi, cúng vào quỹ từ thiện để giúp đỡ những người nghèo, những người bệnh tật, neo đơn, tặng những khoản tiền lớn cho bệnh viện Phong - Hủi. Nàng không chấp nhặt để bụng những chuyện xưa khi còn hàn vi. Những người đã gây cho Nàng nhiều đau khổ... chẳng những Nàng không thù oán, mà còn coi họ như ''ân nhân''...Nàng thường bảo con: ''Vì họ làm như vậy... nên mẹ con ta mới cố gắng vươn lên! Biết đâu họ do Trời, Phật sai tới thúc đẩy, nhắc nhở, thử thách... mẹ con ta mới có cơ hội thành đạt...''
Nàng nghĩ tới tình xưa.
Mặc dù bà mẹ chồng đã mất, người chồng cũ đã có bốn con, nhưng cuộc sống của gia đình anh ta vẫn nghèo đói... Hương không quên trợ cấp cho họ hàng năm...                        
Tú Anh vừa đi học vừa giúp mẹ. Cậu đã trưởng thành. Khi vào đại học. Cậu đi học bằng xe Dream - 2, được mẹ cho phép chi dùng theo sở thích. Nhưng, từ trong đói khổ đi lên, cậu luôn nhớ lời khuyên của Mẹ sống giản dị, chăm học và học giỏi.
Chị Hương năm xưa đã trở thành Bà Hương - người nổi tiếng về mọi mặt... Mùng một, ngày rằm, Bà thường ra thăm mộ Cụ Lành, Bà lão ăn mày năm xưa - giờ được chị đưa về chôn cạnh nấm mồ Bố, Mẹ đẻ của mình. Mộ xây to như một chiếc lăng. Trên mộ của ba người trồng hoa. Quanh năm trên mộ, mùa nào cũng có Hoa, mùng một ngày rằm, hương hoa ngào ngạt...
Một ngày đầu xuân.
Sau khi đi tảo mộ bố mẹ và cụ Lành, bà Hương đến thăm trại Phong, tặng bệnh nhân quà cáp. Tặng Bệnh viện của trại món tiền lớn để thêm vào mua sắm thuốc men. Xong việc, Bà chậm rãi một mình đi ra bờ đê, trở về nơi bến đò năm xưa...
Cảnh vật đã đổi thay...
Mỏm đất khi xưa, nơi bà đã đứng gieo mình xuống lòng sông, giờ đã không còn dấu vết. Có lẽ  nó đã bị dòng sông ngoạm lở. Chỉ còn vật có thể lấy làm điểm chuẩn để nhớ lại: Ở phía xa, trên mặt đê vẫn còn chiếc điếm canh. Bà nhớ rõ nơi đó, trước khi đi xuống mỏm đất để gieo mình, Bà đã đứng dựa lưng vào tường đầu hồi điếm canh cho đỡ mệt... rồi mới từ đó đi tiếp xuống dưới chân đê.
Chỗ Bà năm xưa định gieo mình, nằm cạnh, bên trái lối mòn, tư điếm canh đi ra... Nhưng kỳ lạ thay, bây giờ, tại đây - lùi vào hàng chục mét - cũng có một mô đất, giống hệt mô đất khi xưa Bà đã đứng!...
Bà chậm chạp tiến đến...
Bà khó nhọc leo lên mô đất... bồi hồi nhớ lại...
Hình ảnh của quá khứ lại tái hiện: ''Ông lão thuyền chài to lớn, râu tóc bạc phơ... xung quanh người ông lão tỏa ra vừng hào quang... trong làn nước lạnh... Một đồng bạc bằng kim loại cứ đập vào đùi phát ra tiếng phập... phập...''
Bên tai Bà văng vẳng tiếng nói của ông lão: ''Con hãy ráng sống. Con có phúc lớn, có quý nhân phù trợ... Ta chỉ còn có ngần này, con cầm lấy, ngày sau làm nên hãy nhớ đến ta!''
Bà quỳ xuống, vái lạy dòng sông, thốt lên những tiếng chậm rãi, trầm trầm: Vâng, con vẫn nhớ! Ông ơi! nhờ ông mà con đã sống, đã biết sống, đã thành đạt... Cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, con cũng không thể nào quên ông...
Con cháu của con sẽ đời đời nhớ ơn ông! 
(Tên nhà viết kịch, Ðạo diễn, Quay phim, các diễn viên và những nhà làm phim hiện ra, trôi dần... trên nền dòng sông Hồng đỏ phù sa, với tiếng nhạc rộn ràng... cuối cùng là chữ HẾT PHIM
Phỏng theo bài Nàng OSIN Quê Tôi của Minh Diện - Tiền Phong cuối tháng 3 năm 1996.
GHI CHÚ:
1- Tên một nhân vật nữ, trong một phim truyền hình nhiều tập của Nhật Bản, được Ðài Truyền Hình Việt Nam phát sóng nhiều buổi...
2- Loài giáp xác, giống con cua đồng, chỉ sống ở vùng nước Lợ - cửa những con sông nước ngọt chảy ra biển. Con Cáy màu nâu - đen, càng mầu đỏ, chân có lông. Dân nghèo của các tỉnh ven biền câu, bắt về trôn muối (giã hoặc để cả con). mây tuần sau thu được nước mắm cáy. Nước mắm này có nhiều chất đạm, vắt chanh, giã tỏi, chấm rau muống, rau lang luộc rất ngon...
3- Ðộng vật cùng loài với ếch nhái... Da sần xùi trông rất sợ. Khi động vào da nó, cóc tiết ra chất nước trắng như sữa, rất độc. Ðặc biệt thịt cóc lại rất nhiều chất đạm. Dân nghèo thường bắt Cóc, lột da, rửa sạch lấy thịt cho trẻ còi xương (chậm lớn) ăn, trẻ khỏi bệnh, chóng lớn...

3b. Một loại cây to, sống lâu, thường mọc ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ, hầu như nhà nào cũng có trồng. Quả nhỏ như đầu ngón tay, mầu đỏ tím, khi chín trẻ con thường hái ăn, vị ngon ngót, hơi cay... Lá vối hái về phơi khô (hoặc để tươi), nấu nước uống thay cho trà...
4- Ðất 5% được HTX cấp cho các xã viên, dựa trên cơ sở tổng số đất canh tác mà mỗi hộ nông dân được phân chia. Vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, đất canh tác rất ít. Các tỉnh Nam Ðịnh, Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh... tính bình quân đầu người chỉ còn trên dưới một sào Bắc Bộ (360 M.2). Có Huyện còn thấp hơn. 5% của một sào là 360x 0,05 = 18 mét vuông. Số đất này Xã viên canh tác được sử dụng, không phải nộp thuế.
4b. Một loại tre đực, thân to, già rất cứng, đặc ruột, dân đồng bằng Bắc Bộ thường chặt ngâm làm nhà rất tốt.
4c. Một loại cây leo, như sắn giây, dân miền núi thường dùng để bó cây củi - như giây thừng. Rắn, trăn rất sợ loại giây gắm. Những con Trăn rừng to lớn, sẵn sàng chống cự mọi loài - kể cả con Người - Thế nhưng cầm nắm giây gắm vất vào người chúng... giây chạm da, rắn, trăn ngoan ngoãn nằm nguyên, duỗi thẳng để cho người bắt
5b. Chi tiết này do chính bà H. kể lại trong Nàng Osin quê tôi....
5c. Cái Ðáy hình tam giác, gần giống chiếc vợt, nhưng to hơn, dùng để đón hớt tôm tép hoặc những loại cá thường đi ăn trên mặt nước (cá mương, ngạo...).
5d. Nọc rắn hổ mang bành rất độc, có thể giết chết cả người... Thế nhưng đối với lợn lại không hề gì. Vạn vật tương khắc. Rắn độc thường bị lơn nuốt sống ăn tươi, lợn chẳng sao...
20/2/2007
Lê Xuân Quang
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...