Chủ Nhật, 30 tháng 5, 2021

Huy Cận: Đốt Lửa thiêng, Rực sáng: Các vị La Hán chùa Tây phương

Huy Cận: Đốt Lửa thiêng, Rực sáng:
Các vị La Hán chùa Tây phương!

Cù Huy Cận sinh ngày 31.5.1919, tại Ân Phú, Hương Sơn, Hà Tĩnh (1). Có thể xem, ông là một trong số những nhà thơ, có ảnh hưởng lớn đến nền thi ca Việt Nam trong vòng gần 70 năm của thế kỷ 20.  

Ngay từ cuối những năm 30, ông đã cùng Xuân Diệu, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Tế Hanh... tham gia, đóng góp cổ vũ cho Phong trào Thơ Mới nhằm khẳng định vị trí của một Dòng thơ, mà người đọc đương thời còn nghi ngờ, một số Văn Nghệ Sĩ phản đối... 

Đã có quá nhiều tác giả viết ca ngợi thi tài của Huy Cận. Đặc biệt viết về bài thơ Tràng Giang in trong tập Lửa Thiêng (1940 - 1942). Nhà phê bình chuyên nghiệp viết, người phê bình không chuyên - thậm chí các em học sinh cũng viết về Tràng Giang hay không kém. Bài văn được đìểm cao nhất (...) trong kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2007, của một em học sinh gái ở thành phố Hồ Chí Minh - bình luận bài thơ Tràng Giang - là một thí dụ. 

Hầu như các bài viết đều thống nhất: Tràng Giang đẹp, hay - mang vẻ cổ điển trữ tình. Tràng Giang nghĩa đen là Sông dài, nhưng người đọc nhận ra nghĩa bóng là dòng đời cuộn trôi. Tác giả tự cho mình dừng lại bên lề, quan sát cảnh, vật bị ’’dòng trôi’’ - cuốn đi...  

Nếu ai đã từng đứng trên bờ sông Hồng vào một buổi chiều mùa Thu - khoảng cuối tháng 7, đầu tháng 8 - đoạn từ Chèm xuống dưới Phà đen (dòng sông phân nhánh, có rất nhiều cồn cỏ, bãi nương) - cũng sẽ có cảm giác như Thi sĩ Huy Cận. Thời gian đó, trên thượng nguồn thường có những trận mưa lớn. Nước từ trên rừng chảy xuống khe suối, cuốn tất cả những gì ngăn, ngán nó: Củi khô, xác người (2), xác thú vật và cả những cụm bèo Tây (lục bình) bén rễ, kết bè trên sông suối - trôi ra sông Hồng. Những cơn lũ dữ dội của Hồng Hà đã lùi xa, chỉ còn lại dòng nước cuồn cuộn chảy, ngầu đỏ phù sa. Trên dòng, những cây gỗ - ’’củi một cành khô’’ - quăng quật, xoay tròn khi gặp vùng nước xoáy do dòng chảy tạo ra. Qua bút pháp hiện thực của tác giả, người đọc hình dung, mường tượng: Dòng chảy - Chính là dòng đời! Còn những vật trôi -’’cành khô, cụm bèo’’ - như những con người, nhóm người - bị sức mạnh của thiên nhiên, của xã hội cuốn đi mà không thể cưỡng lại.  
Bài thơ trở thành nỗi niềm tâm sự, ưu tư của tác giả trước thời cuộc...
Tràng giang mang vẻ đẹp cổ điển, nhưng tràn đầy chất hiện đại, bởi cấu trúc, ngôn từ và thi tứ. Cả bài gồm 4 khổ thơ thất ngôn. Từ đó, nhặt ra khá nhiều ngôn từ ‘’cổ’’: buồn điệp điệp (trùng trùng)… gió đìu hiu... sầu chót vót… bóng cô liêu… dờn dợn… hoàng hôn - nhớ nhà. Những ngữ điệu cổ, luyến láy - làm ta liên tưởng tới 3 bài thơ nổi tiếng của Nữ sĩ tài ba: Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ (3): Thăng Long Hoài Cổ, Chiều Hôm Nhớ Nhà, Qua Đèo Ngang. Người đọc nhận ra Tràng Giang có cùng mô típ. Huy Cận đã kế thừa thật sáng tạo vốn cổ. Đặc biệt, thi tứ Tràng Giang  rất giống Chiều Hôm Nhớ Nhà (CHNN):
CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ
Trời chiều bảng lảng bóng hoàn hôn
Tiếng ốc xa đưa lẩn trong đồn
Gác mái Ngư ông, về viễn phố
Gõ sừng Mục tử, lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn
Kẻ chốn Chương đài (*), Người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn. 
(Bà Huyện Thanh Quan)
(*) - Theo tích cổ Trung Hoa: Chương đài là tượng trưng địa danh - nơi vợ (của người Lữ Thứ) - đang sống (...).
Chiều Hôm Nhớ Nhà - là tâm sự của người Lữ khách khi chiều về - vẫn đang rong ruổi trên đường - nhìn khung cảnh ’’quê người’’... nhớ người thân yêu ’’quê mình’’ trong nỗi buồn man mác, cô quạnh...
Tràng Giang - cũng là tâm sự của Thi sĩ khi chiều về, nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, nhớ nhà, nhớ người thân yêu, suy tư về con người trước thời cuộc xoay vần, trôi nổi với nỗi buồn mênh mang, da diết ’’dờn dợn’’.
Cả bốn bài thơ: Tràng Giang - Thăng Long Hoài Cổ - Chiều Hôm Nhớ Nhà (CHNN) - Qua Đèo Ngang, đều có cùng cấu trúc:
Cảnh buồn khiến người cũng buồn.
Cảnh mà đìu hiu - người đâu có thể vui.
Người buồn, cảnh cũng sẽ buồn theo: ’’Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Kiều)’’ .
Những bài thơ tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc của thơ Đường luật với 4 ràng buộc: Đề - Thực - Luận - Kết (4). Tràng Giang tuy không phải là thể thơ Thất ngôn, Bát cú (bẩy chữ, tám câu), nhưng nó có 16 câu bẩy chữ, chia làm 4 khổ thơ. Cứ mỗi khổ, 4 câu - làm vai trò của 1 trong 4 ràng buộc kia. Đáng chú ý những câu Luận - Kết của cả 4 bài:
Của - Chiều Hôm Nhớ Nhà:...
Kẻ chốn Chương đài, Người Lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
Thăng Long Hoài Cổ:
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy, người đây luống đoạn trường.
Qua Đèo Ngang:
Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Còn Tràng Giang:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tuy kế thừa thi tứ, nhưng sự kế thừa đã được phát triển, nâng lên. Huy Cận chọn, sử dụng ngôn từ diệu nghệ để diễn đạt tâm tình khiến người đọc đồng cảm: Từ chủ đề đến cấu trúc toàn bài, kết nối giữa ’’Tân’’ và ’’Cổ’’ - hòa trộn một cách tài tình, tạo ra sắc thái riêng theo phong cách ’’Tân Cổ Giao Duyên’’: Cổ mà không cũ, gần mà vẫn có khoảng cách, giống mà không sao y nhau. Tràng Giang nóng bỏng tính thời sự của thời đại, hiện thực, sâu rộng, khái quát hơn Chiều Hôm Nhớ Nhà. Tràng Giang được nhiều người chọn là một trong số những bài thơ hay nhất của thi đàn Việt Nam ở thế kỷ 20.  
Sau Lửa Thiêng (1940), cũng như bao văn nghệ sĩ cùng trang lứa, đương thời: ’’Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu’’, Huy Cận tham gia cách mạng rồi đi kháng chiến. Suốt thời gian kháng chiến chống Pháp (1946 - 1955) ông ít làm thơ. Các bài thơ của ông làm trong thời gian này, không gây được tiếng vang. Phải đợi đến năm 1958, Huy Cận cho xuất bản tập Trời Mỗi Ngày Lại Sáng. Trong đó khá nhiều thơ hay. Có một bài rất hay - Anh Tài Lạc. Bài thơ ca ngợi người công nhân Mỏ than Cẩm Phả chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bị Pháp bắt, xử bắn. Anh Tài Lạc không theo thông lệ: Tác giả ở ngôi thú nhất giãi bày cảm xúc của mình về đối tượng được quan tâm, miêu tả. Anh Tài Lạc - (là người đã chết) - tự kể về mình bằng thể thơ tự do, mà trước đó, Huy Cận thường sử dụng thể thơ Đường luật hoặc Lục bát: 
Tôi là Tài Lạc
Tôi đã chết rồi
Tôi chết ngày tháng chạp chiều hai mươi
Ngực thủng 5 lần xuyên đạn
Gió rét lùa vào lỗ bắn…
Cứ thế, liệt sĩ Tài Lạc tự làm sống lại quãng đời anh hùng của mình làm người đọc xúc động... Mãi ở đoạn kết, tác giả mới giãi bày cảm xúc trực tiếp, gửi tới hương hồn người đã khuất những lời thương tiếc, tôn vinh.
Mùa xuân năm 1963 đến thăm chùa Tây Phương, trở về, Huy Cận viết bài Các vị La Hán Chùa Tây Phương (CVLHCTP, Bài thơ dài 60 câu, 15 khổ, thể thất ngôn - thể thơ sở trường của tác giả. Chùa Tây Phương ở Sơn Tây có rất nhiều tượng La Hán. Điều độc đáo: Những nghệ nhân vô danh đã tạc các tượng Phật thật tài giỏi: Vị nào ra vị ấy, từ tính cách, khuôn mặt, dáng ngồi và sự tích - không vị nào giống vị nào. Nhìn tượng, ta cảm thấy như đó là những khuôn mặt của con người đang sống ngoài đời, vào đây ngồi, chứ không phải bức tượng vô tri vô giác. Thi sĩ Huy Cận có cảm quan sâu sắc khác thường: Ông nhìn từng pho tượng, nghiền ngẫm, suy tư - ’’đọc’’ tâm tư tượng… rút ra những kết luận về Đạo và Đời, về Phật pháp và Chúng sinh rồi chuyển hóa thành triết lý, điển hình hóa và ‘’Thơ hóa’’. Từ bức tượng Phật theo sự tích: Nhịn ăn mà mặc, thân gầy xác ve - ông liên tưởng, đặt câu hỏi:
Có vị phong trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi yên cho đến nay.
Mỗi vị La Hán mỗi vẻ: Người vui, người giận, người buồn… có người ngồi yên trong tĩnh lặng - tất cả đều được Huy Cận nắm bắt cái thần, phân tích, đặt ra những vấn đề, dường như ‘’Tượng’’ và ông cùng bức xúc:
Có thực trên đường tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vị run theo lòng chúng sinh?
Và, thi sĩ lại tự trả lời thay Phật:
Một câu hỏi lớn không lời đáp.
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Thi sĩ cùng trăn trở: 
Đứt ruột cha ông trong cái thuở  
Cuộc sống dậm chân hoài một chỗ
Bao nhiêu hy vọng thúc bên sườn
Héo tựa mầm non thiếu ánh dương
Nỗi đau của Chúng sinh khiến Tượng cũng đồng cảm thể hiện rõ trong ánh mắt, khuôn mặt, Thi sĩ bừng tỉnh trước hiện thực:
Hoàng hôn thế kỉ phủ bao la
Sờ soạng cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ấm, nửa sương tà...
Đây mới thực là thi phẩm trác tuyệt.
Có thể ví Tràng Giang chỉ là ngôi nhà 2 tầng, còn CVLHCTP chẳng những là tòa lâu đài đồ sộ nhất mà Huy Cận xây lên cho sự nghiệp thi ca của mình, mà còn là công trình to lớn của một dòng thi ca của Việt Nam đương đại. Các Vị La Hán Chùa Tây Phương đạt được mọi yếu tố của tác phẩm giá trị: Chủ đề, tứ thơ, ngôn ngữ, tính thời sự, tính khái quát thời đại, sự hòa trộn đến nhuần nhuyễn giữa Cổ điển và Hiện đại… Tuy vẫn còn một vài khiếm khuyết, nhưng Các Vị La Hán Chùa Tây Phương vẫn xứng đáng được xếp đầu bảng trong số những bài thơ được coi là hay nhất của nền thơ ca Việt Nam ở nửa sau thế kỷ 20. 
Huy Cận viết CVLHCTP cách đây đã gần 45 năm.  
Ông đã về với Hoàn Vũ để ca tiếp bài Vũ Trụ Ca mà ông đã viết mấy chục năm trước (1942). Đọc lại CVLHCTP, cảm thấy như nhà thơ đang hiển hiện tại cuộc đời này, đang tâm tình cùng độc giả… tiếp tục chất vấn những tượng Phật. Bức xúc của Thi sĩ 45 năm trước vẫn làm người đọc hôm nay cùng trăn trở. Rất nhiều tác phẩm Văn - Nghệ ra đời cách chúng ta hàng thế kỉ, chỉ còn tác động đến thời đại ngày nay như một lí giải cho sự hoài cổ. Các Vị La Hán Chùa Tây Phương đi xa hơn, sâu sắc hơn: Chẳng những đặt ra cho Chúng sinh những suy tư về quá khứ, mà  trước các vấn đề của hiện tại và tương lai còn ‘’thúc ép’’ họ… Huy Cận đã đi vào cõi vĩnh hằng nhưng để lại cho đời những vần thơ tuyệt tác. Người đọc, cảm thấy như ông vừa viết xong hôm qua, hôm kia. Ngọn Lửa Thiêng (1940 - 1942) được ông thắp lên từ gần 70 năm trước, tiếp đó, lửa của ông lại sáng rực Các Vị La Hán Chùa Tây Phương (1963). Các thế hệ người đọc Việt Nam nối tiếp - đọc lại thơ ông, như được ngọn lửa ấy làm bừng lên đến cháy bỏng tâm can…
Thơ Huy Cận kế thừa, sáng tạo ra trường phái Tân Cổ Đìển. Chất ‘’Tân’’ và ‘’Cổ’’ hòa quyện, làm người đọc, mẫn cảm, hài hòa, thỏa mãn - trong quá trình đi từ cảm xúc đến  nhận thức. Sau Tràng Giang - 23 năm ròng (1940 - 1963) - Tân Cổ Điển lại được chính ông tiếp tục phát triển, nâng lên - thành công!
Đỉnh cao của sự thành công chính là: Các Vị La Hán Chùa Tây Phương:   
CÁC VỊ LA HÁN CHÙA TÂY PHƯƠNG 
Các vị la hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về, lòng vấn vương
Há chẳng phải đây là xứ phật
Mà sao ai nấy mặt đau thương?
Đây vị phong trần, chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi yên cho đến nay
Có vị mắt giương mày méo xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn...
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổi trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Mỗi người một vẻ mặt con người
Cuồn cuộn đau thương chảy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn: Không lời đáp!
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Có thực trên đường tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vị run theo lòng chúng sinh?
Nào đâu, bác thợ cả - xưa đâu?
Sống lại cho tôi hỏi một câu
Bác tạc bao nhiêu hình khổ hạnh
Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau?
Hay bấy nhiêu hồn trong giông bão
Bấy nhiêu tâm sự bấy nhiêu đời
Là cha ông đó bằng xương máu
Đã khổ không yên cả dáng ngồi.
Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can, vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu.
Đứt ruột cha ông trong cái thuở
Cuộc sống dậm chân hoài một chỗ
Bao nhiêu hy vọng thúc bên sườn
Héo tựa mầm non thiếu ánh dương.
Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng  cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ấm, nửa sương tà.
Các vị La hán chùa Tây Phương
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.
Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hóa gần
Những bước mất dần trong thớ gỗ
Về đây muôn vạn dặm đường xuân.
Huy Cận
(Chùa Tây Phương 1963)                   
Ghi chú:
(1). Tư liệu này rút trong Thi Nhân Việt Nam, in năm 1942 do đồng tác giả  TNVN - Nguyễn Đức Phiên (em ruột Hoài Thanh) - xuất bản.
(2). Vào mùa nước lũ hàng năm, trên dòng trôi thường có những thây người vô thừa nhận. Ở quảng phía trên, đầu thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định - có một mỏm đất, (do dòng chảy tạo ra). Cứ như được thần linh xui khiến, các xác người trôi đến khu vực này đều dạt vào bờ… Bà con địa phương thương xót, vớt lên chôn cất ngay tại khoảnh đất sát cạnh chân đê, coi việc này là làm phúc để các thây ma được mồ yên mả đẹp, chóng siêu thoát…  
(3). Theo Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam: Bà tên thật là Nguyễn Thị Hinh (Thế kỷ 19 , thời Minh Mạng).  Bà Huyện Thanh Quan là bút danh lấy từ nơi chồng bà làm Tri Huyện Thanh Quan, ngày nay là huyện Đông Hưng - Thái Bình.

Bà để lại cho hậu thế 7 bài thơ Nôm, thể Đường Luật - Thất ngôn Bát cú (…). Trong đó - theo đánh giá của dư luận: Nổi tiếng, lừng danh là ba bài: Thăng Long Hoài Cổ, Chiều Hôm Nhớ Nhà, Qua Đèo Ngang.
(4). Thơ Thất ngôn, Bát cú - có những quy chuẩn rất khắt khe, cấu trúc phức tạp. Toàn bài Đường luật có 8 câu, mỗi câu 7 chữ, phân chia như sau:
Câu thứ 1 và 2: Đề (Thừa đề, Phá đề - nêu vấn đề).
Câu thứ 3 và 4: Thực (a) - hai câu đối nhau (vấn đề - a).
Câu thứ 5 và 6: Thực (b) - hai câu tiếp tục đối nhau (vần đề - b).
Câu thứ 7: Luận (bàn vấn đề).
Câu thứ 8: Kết (kết luận vấn đề).
Ngoài ra, trong từng câu, các từ ở vị trí thứ 2, thứ 5 và thứ 7 - còn phải theo quy tắc âm luật... (Thanh Không - Thanh Bằng - Thanh Trắc)…

15/9/2007
Lê Xuân Quang

Theo https://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông

Hương tràm thơm buốt Vàm Cỏ Đông Nào mấy ai biết cuộc đời làm quan của Hoài Vũ cũng đã sớm hanh thông với các trọng trách từ thời bưng biề...