Thứ Ba, 29 tháng 11, 2022

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 3 - Vũ trụ quan 5

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 3
Vũ trụ quan 5

3) Về Phật học
Từ ý thức triết học đi vào tôn giáo, Phật-học đã tác động vào tâm tư con người qua dòng lịch sử thời gian.
Trên đà tiến triển của nền văn học Trung-quốc, cũng như của các nước Á-đông, Phật-học đã ghi dấu trong ý thức sinh hoạt xã hội một lịch trình diễn biến về tâm tư, mà chúng ta muốn thấy rõ tầm ảnh hưởng của dòng ý thức ấy cần phải có dịp khảo cứu kỹ càng hơn. Ở đây, chúng ta chỉ cần ghi nhận vài nét chính của trạng thái diễn biến mà thôi.
Khi đã ý thức cơ cấu vũ trụ là cái vòng luân hồi trong sợi dây nhân quả, những kẻ có khuynh hướng Phật học đều tổ chức một cuộc sống thoát tục, tức là xa lánh thế sự. Họ đi tu, hoặc dùng lý trí trấn áp bản năng, không để dục vọng con người làm chủ lẽ sống. Mọi dục vọng cá nhân đều bị tách rời ra ngoài kiếp sống con người.
Với ý thức thoát tục, Phật-giáo đã trở thành tôn giáo, và lập nên những tu viện, chùa chiền, dùng hình thức tu hành làm lợi khí, giúp cho lý trí có đủ khả năng chiến đấu với dục vọng cá nhân thường bốc dậy.
Xã hội loài người càng hỗn loạn, phức tạp thì ý thức thoát tục của Phật-học càng được nẩy nở và tán đồng. Cho nên, theo dòng lịch sử tranh đấu của xã hội chúng ta thấy những mẩu chuyện về Phật rải rác trong dân chúng không phải ít.
Ví dụ, trong các chuyện Tàu, việc Đường-tăng đi thỉnh kinh ở Tây-vực tạo thành một pho truyện mang tính chất Phật-giáo, mà đó cũng là ý thức giãi bày trong hệ luận nhà Phật. Truyện Phong thần cũng có rải rác bóng dáng của khuynh hướng Phật-học. Đó là những mẩu chuyện văn học được phổ cập sâu rộng trong dân gian, ngoài ra, khuynh hướng Phật-học còn diễn biến khắp mọi địa hạt, góp phần vào quan niệm văn minh Á-đông cũng chẳng kém gì những khuynh hướng khác về đạo học.
Điều đó ai cũng biết, chúng tôi muốn đặt ở đây tầm diễn biến về suy tư của nền Phật-học trong lịch sử xã hội Việt-nam.
Trước kia, vào các thế hệ tiền nhân, khi nói đến quan niệm về đạo Phật là nói đến tinh thần thoát tục, nói đến việc từ bỏ ý thức tranh đấu xã hội để bước vào địa hạt tu thân. Mọi dục vọng cá nhân, mọi tình cảm cá tính đều xem như đối tượng của lẽ sống con người.
Tuy nhiên, đi song song với dòng lịch sử đấu tranh xã hội, Phật-học bắt đầu cảm thấy mọi ràng buộc trong thế giới loài người rất tương quan mật thiết. Kẻ tu hành không thể vứt bỏ cuộc sống con người trong lúc vẫn phải sống, không thể giữ vững ý thức của mình nếu không đem ý thức ấy đấu tranh với mọi ý thức khác. Từ đó, chúng ta thấy Phật-học đã có chiều hướng mới trên lập trường suy tư. Những chuyện cổ tích biểu dương lòng từ bi tế độ của đức Phật, hoặc nói lên những quyền phép của Phật trừ tà ma, diệt quỉ quái, đó chính là một hình thức đấu tranh về tư tưởng. Sau đây, chúng tôi xin trích dẫn vài mẩu chuyện để chứng minh điều đó :
« Tình ái là gốc sự sinh tử »
Bóng hồng vừa gác núi. Chim chóc từng đàn lũ lượt bay về tổ, kêu la rộn rịp. Trên con đường mòn khúc khuỷu, các bác tiều vội vã cất gánh củi lên vai trở về làng mạc. Tiếng náo động vắng lần. Quang cảnh rừng rú mỗi lúc càng tĩnh mịch.
Thỉnh thoảng một vài tiếng chuông chùa ngân nga từ xa vọng lại, dường như để thúc hối những người còn chậm bước chưa ra khỏi cảnh hoang liêu ghê rợn của núi rừng. Một vài tiếng hú kêu vang và sâu tận trong hóc núi càng làm cho những kẻ lạc loài khiếp đảm. Các loài thú dữ đã bắt đầu cuộc săn mồi thường bữa, chốc chốc điểm lên những tiếng rống ghê người của chúa tể sơn lâm.
Từ trong thảo am bên mé núi, một vị Thiền-sư lưng mang đãy bố, tay chống gậy tre, lần bước trên con đường mòn, tiến dần về phía xóm nhà cạnh mé rừng. Trời vừa sắp tối, vị Thiền-sư đến nơi và đi ngay vào cổng, tìm lại nhà hai vợ chồng vị cư sĩ đã thọ giáo với ngài. Sau những lời chào hỏi, hai vợ chồng vị cư sĩ trải chiếu hoa mời ngài an tọa. Trà nước xong, Thiền-sư liền bảo : « Từ ngày hai ông bà đã thọ giáo theo Phật đến giờ, tôi thường tới lui để thúc nhắc. Độ này việc tu niệm của ông bà được khá lắm, thật tôi lấy làm vui mừng. Song sự đời có hiệp phải có tan, hôm nay tôi đến đây để thăm, và cũng để tỏ lòng từ giã hai ông bà. Ngày mai tôi sẽ lên đường đặng đi giáo một nơi khác. Có lẽ cách nhau lâu, vì vậy tôi không dám hẹn ngày tái ngộ. Trước khi lên đường, tôi xin dặn lại ít lời rất thiết, có thể là châm ngôn tu tập hằng ngày. Hai ông bà phải cố gắng niệm Phật đừng để lảng quên, nếu chẳng may có gặp việc gì xảy ra chênh mếch trong gia đình, ngoài xã hội, nên kiên nhẫn bỏ qua, tự an ủi lấy lòng. Giả như một trong hai người lâm bệnh nặng sắp đến giờ hấp hối, người mạnh cần nhất phải cho tĩnh tâm, sửa sang Phật tượng, hộ niệm cho nhau đến lúc cuối cùng ; đừng than khóc, van kêu, làm cho người chết phải bối rối, loạn niệm, khó được vãng sinh. Đây là một việc khó, mà nhiều người tu hành đã vấp phải. Nên tôi xin căn dặn hai ông bà hãy ghi nhớ. Được vậy, dù tôi ở cách xa, vẫn yên hóa đạo ».
a Phật-học càng được nẩy nở và tán đồng. Cho nên, theo dòng lịch sử tranh đấu của xã hội chúng ta thấy những mẩu chuyện về Phật rải rác trong dân chúng không phải ít.
Ví dụ, trong các chuyện Tàu, việc Đường-tăng đi thỉnh kinh ở Tây-vực tạo thành một pho truyện mang tính chất Phật-giáo, mà đó cũng là ý thức giãi bày trong hệ luận nhà Phật. Truyện Phong thần cũng có rải rác bóng dáng của khuynh hướng Phật-học. Đó là những mẩu chuyện văn học được phổ cập sâu rộng trong dân gian, ngoài ra, khuynh hướng Phật-học còn diễn biến khắp mọi địa hạt, góp phần vào quan niệm văn minh Á-đông cũng chẳng kém gì những khuynh hướng khác về đạo học.
Điều đó ai cũng biết, chúng tôi muốn đặt ở đây tầm diễn biến về suy tư của nền Phật-học trong lịch sử xã hội Việt-nam.
Trước kia, vào các thế hệ tiền nhân, khi nói đến quan niệm về đạo Phật là nói đến tinh thần thoát tục, nói đến việc từ bỏ ý thức tranh đấu xã hội để bước vào địa hạt tu thân. Mọi dục vọng cá nhân, mọi tình cảm cá tính đều xem như đối tượng của lẽ sống con người.
Tuy nhiên, đi song song với dòng lịch sử đấu tranh xã hội, Phật-học bắt đầu cảm thấy mọi ràng buộc trong thế giới loài người rất tương quan mật thiết. Kẻ tu hành không thể vứt bỏ cuộc sống con người trong lúc vẫn phải sống, không thể giữ vững ý thức của mình nếu không đem ý thức ấy đấu tranh với mọi ý thức khác. Từ đó, chúng ta thấy Phật-học đã có chiều hướng mới trên lập trường suy tư. Những chuyện cổ tích biểu dương lòng từ bi tế độ của đức Phật, hoặc nói lên những quyền phép của Phật trừ tà ma, diệt quỉ quái, đó chính là một hình thức đấu tranh về tư tưởng. Sau đây, chúng tôi xin trích dẫn vài mẩu chuyện để chứng minh điều đó :
« Tình ái là gốc sự sinh tử »
Bóng hồng vừa gác núi. Chim chóc từng đàn lũ lượt bay về tổ, kêu la rộn rịp. Trên con đường mòn khúc khuỷu, các bác tiều vội vã cất gánh củi lên vai trở về làng mạc. Tiếng náo động vắng lần. Quang cảnh rừng rú mỗi lúc càng tĩnh mịch.
Thỉnh thoảng một vài tiếng chuông chùa ngân nga từ xa vọng lại, dường như để thúc hối những người còn chậm bước chưa ra khỏi cảnh hoang liêu ghê rợn của núi rừng. Một vài tiếng hú kêu vang và sâu tận trong hóc núi càng làm cho những kẻ lạc loài khiếp đảm. Các loài thú dữ đã bắt đầu cuộc săn mồi thường bữa, chốc chốc điểm lên những tiếng rống ghê người của chúa tể sơn lâm.
Từ trong thảo am bên mé núi, một vị Thiền-sư lưng mang đãy bố, tay chống gậy tre, lần bước trên con đường mòn, tiến dần về phía xóm nhà cạnh mé rừng. Trời vừa sắp tối, vị Thiền-sư đến nơi và đi ngay vào cổng, tìm lại nhà hai vợ chồng vị cư sĩ đã thọ giáo với ngài. Sau những lời chào hỏi, hai vợ chồng vị cư sĩ trải chiếu hoa mời ngài an tọa. Trà nước xong, Thiền-sư liền bảo : « Từ ngày hai ông bà đã thọ giáo theo Phật đến giờ, tôi thường tới lui để thúc nhắc. Độ này việc tu niệm của ông bà được khá lắm, thật tôi lấy làm vui mừng. Song sự đời có hiệp phải có tan, hôm nay tôi đến đây để thăm, và cũng để tỏ lòng từ giã hai ông bà. Ngày mai tôi sẽ lên đường đặng đi giáo một nơi khác. Có lẽ cách nhau lâu, vì vậy tôi không dám hẹn ngày tái ngộ. Trước khi lên đường, tôi xin dặn lại ít lời rất thiết, có thể là châm ngôn tu tập hằng ngày. Hai ông bà phải cố gắng niệm Phật đừng để lảng quên, nếu chẳng may có gặp việc gì xảy ra chênh mếch trong gia đình, ngoài xã hội, nên kiên nhẫn bỏ qua, tự an ủi lấy lòng. Giả như một trong hai người lâm bệnh nặng sắp đến giờ hấp hối, người mạnh cần nhất phải cho tĩnh tâm, sửa sang Phật tượng, hộ niệm cho nhau đến lúc cuối cùng ; đừng than khóc, van kêu, làm cho người chết phải bối rối, loạn niệm, khó được vãng sinh. Đây là một việc khó, mà nhiều người tu hành đã vấp phải. Nên tôi xin căn dặn hai ông bà hãy ghi nhớ. Được vậy, dù tôi ở cách xa, vẫn yên hóa đạo ».
Dặn dò, chỉ bảo đâu đó xong xuôi, rạng ngày vị Thiền-sư lên đường…
Ngày tháng qua mau, phút chốc được hai thu, nhờ y theo lời dạy của vị Thiền-sư mà thời gian qua, hai vợ chồng vị cư sĩ ăn ở với nhau rất thuận hòa, hằng ngày làm phước, bố thí, tụng kinh, niệm Phật chuyên cần, lối xóm nhiều người cảm mến.
Một hôm, người chồng bị chứng thương hàn đau nặng. Người vợ chạy thuốc tìm thầy đã hết hơi mà bệnh đâu vẫn còn nguyên đấy. Cuối cùng, có một danh y đại tài đã được mời đến do công lao của người anh họ chẳng nại xa xuôi rước về. Sau khi bắt mạch xong, vị danh y bảo : « Bệnh này không qua khỏi ngày này, vị mạch đã hết. Vậy bà đừng nên chạy chữa làm gì nữa cho tốn công hao của, hãy lo liệu những vật dưỡng già mà thôi ».
Người vợ lúc bấy giờ đã tuyệt vọng, tâm thần bà rối loạn, quên hẳn lời dặn bảo của vị Thiền-sư ; người chồng cứ nằm mê man mãi. Trong tình cảnh này, vì thương chồng, vì tủi phận, người vợ chỉ có gục mặt bên chồng khóc kể liên miên. Mãi đến khi người chồng mở đôi mắt thất thần nhìn vợ lần cuối cùng, mà người vợ còn ghé mặt sát mặt chồng nức nở kêu : « Mình ôi ! Mình nỡ nào chết đi để một mình tôi ở lại sống cô độc lẻ loi ; hồi nào khổ sở có nhau, vui buồn cùng chịu, ngày nay mình bỏ tôi mình đi một mình ! Mình ôi ! »
Tội nghiệp người chồng vì nghe lời lẽ quá bi ai của vợ, cảm tình ân ái bất giác nổi lên, nhìn vợ mà hai hàng lệ thắm tuông ra, nghẹn thở… rồi… trút linh hồn.
Thần thức ông xuất ra nơi mắt. Người vợ vì gục mặt vào chồng, nên thần thức chui ngay vào lỗ mũi vợ, hóa thành một con sâu.
Chồng mất rồi, vợ lo tròn bổn phận, chôn cất xong xuôi, đám ma cũng khá lớn, những ơn nghĩa của lối xóm cũng lo tròn.
Đến khi bà con ai về nhà nấy, bấy giờ bốn bề lặng ngắt, người vợ vì thương chồng bạc phận, xét nỗi cô đơn hiu quạnh, lại thêm lỗ mũi mỗi ngày một lớn và đau nhức vô cùng. Nàng cứ ngày đêm kêu gào than khóc, làm cho những kẻ ở gần, ai cũng phải động lòng thương xót kẻ xấu duyên, bạc phận.
Một hôm vị Thiền-sư trở lại và ghé thăm. Nàng vừa thấy bóng Ngài, đã hối hả chạy ra khóc than, kể lể.
Vị Thiền-sư ôn tồn bảo : « Bà hãy nín, sống chết là lẽ thường, hễ có sinh là có tử. Người tu hành khi bỏ được thân khổ này như quăng được cái gánh nặng, bà nên mừng giùm chớ sao lại khóc ? Bà còn than khóc thế là bà chưa hiểu đạo. Xin khuyên bà hãy nghe tôi, có thương nhớ nên để lòng, lo tu hành, cho khuây lảng, nếu còn nặng lòng ái ân thì kiếp sau lại gặp nhau nữa, vay trả, trả vay thành một chuỗi oan gia vô cùng tận ».
Sau khi nghe vị Thiền-sư khuyên bảo, như giải được sự đau buồn, nàng liền sửa lại mái tóc, rồi tình cờ khịt mũi mạnh văng ra một con sâu khá lớn.
Thiền-sư cả cười bảo : « Ở đời ít ai có nghĩa hơn bà, ai đời thương chồng mà khóc đến có sâu trong lỗ mũi ».
Nàng thẹn quá, toan lấy chân giậm chết con sâu. Vị Thiền-sư vội vàng khoa tay bảo : « Đừng, bà đừng nên làm thế, vì con sâu ấy là chồng bà vậy ».
Nàng lạ lùng hỏi : « Bạch Thầy, chồng tôi suốt đời niệm Phật, làm phước, tại sao chết lại sanh vào loài sâu bọ như thế ? »
Thiền-sư bảo : « Bà đã quên lời tôi dặn, khi chồng bà chết bà không lo tụng kinh niệm Phật và khuyên bảo chồng bà khởi chính niệm, bà còn đem lại tình ân ái kể lể khóc than, nên chồng bà khi sắp mất, bị lòng thương vợ, nặng tình ân ái mà lảng quên chính niệm. Vì vậy nên thần thức luyến ái không thể vượt lên cao, mà phải chui vào mũi bà thành sâu thành bọ. Than ôi ! Uổng một kẻ tu hành, đã mong thoát kiếp luân hồi lại còn bị ái ân cột chặt. Thật có khác nào con cò muốn cất cánh bay cao để thoát ngoài dò, bẫy ; nhưng khốn nỗi nó còn bị sợi dây vô tình cột chặt vào chân. Thế có tội nghiệp không ? »
Thiền-sư đến gần con sâu khẽ bảo : « Ngươi trước cũng nghe lời ta chăm chỉ tu hành lẽ ra thời đã được công đức lành mà sinh thiên hay vãng sinh Cực-lạc, song vì tình ân ái của vợ chồng ngươi còn sâu thẳm ngàn trùng thành ra khi trút hơi thở cuối cùng mà còn gây nghiệp chướng nặng nề phải thành loài sâu bọ, thật đáng thương thay ! »
Con sâu nằm yên từ nãy giờ, dường như nó cũng tự biết hổ thẹn ăn năn. Thiền-sư chú nguyện cho và nhờ công đức lành đã tạo từ trước, nên con sâu quằn quại một lúc rồi chết, thần thức lại sinh vào cõi người. Người vợ đã tự hối và phát nguyện tu hành niệm Phật, trì chí không thối lui, kết quả bà được vãng sinh. (Thuật giả : Tắc Phước – Truyện cổ Phật giáo, tập 2)
« Tại sao niệm Phật ? »
Thành Thất-la-phiệt có một ông hoàng tánh rất hung bạo. Thêm vào đó, quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội án trước pháp luật. Chưa một lời phải, một đạo giáo nào cảm hóa được ông. Một hôm ông gặp Phật khi Phật du hóa xứ này. Mới
p thì ý thức thoát tục của Phật-học càng được nẩy nở và tán đồng. Cho nên, theo dòng lịch sử tranh đấu của xã hội chúng ta thấy những mẩu chuyện về Phật rải rác trong dân chúng không phải ít.
Ví dụ, trong các chuyện Tàu, việc Đường-tăng đi thỉnh kinh ở Tây-vực tạo thành một pho truyện mang tính chất Phật-giáo, mà đó cũng là ý thức giãi bày trong hệ luận nhà Phật. Truyện Phong thần cũng có rải rác bóng dáng của khuynh hướng Phật-học. Đó là những mẩu chuyện văn học được phổ cập sâu rộng trong dân gian, ngoài ra, khuynh hướng Phật-học còn diễn biến khắp mọi địa hạt, góp phần vào quan niệm văn minh Á-đông cũng chẳng kém gì những khuynh hướng khác về đạo học.
Điều đó ai cũng biết, chúng tôi muốn đặt ở đây tầm diễn biến về suy tư của nền Phật-học trong lịch sử xã hội Việt-nam.
Trước kia, vào các thế hệ tiền nhân, khi nói đến quan niệm về đạo Phật là nói đến tinh thần thoát tục, nói đến việc từ bỏ ý thức tranh đấu xã hội để bước vào địa hạt tu thân. Mọi dục vọng cá nhân, mọi tình cảm cá tính đều xem như đối tượng của lẽ sống con người.
Tuy nhiên, đi song song với dòng lịch sử đấu tranh xã hội, Phật-học bắt đầu cảm thấy mọi ràng buộc trong thế giới loài người rất tương quan mật thiết. Kẻ tu hành không thể vứt bỏ cuộc sống con người trong lúc vẫn phải sống, không thể giữ vững ý thức của mình nếu không đem ý thức ấy đấu tranh với mọi ý thức khác. Từ đó, chúng ta thấy Phật-học đã có chiều hướng mới trên lập trường suy tư. Những chuyện cổ tích biểu dương lòng từ bi tế độ của đức Phật, hoặc nói lên những quyền phép của Phật trừ tà ma, diệt quỉ quái, đó chính là một hình thức đấu tranh về tư tưởng. Sau đây, chúng tôi xin trích dẫn vài mẩu chuyện để chứng minh điều đó :
« Tình ái là gốc sự sinh tử »
Bóng hồng vừa gác núi. Chim chóc từng đàn lũ lượt bay về tổ, kêu la rộn rịp. Trên con đường mòn khúc khuỷu, các bác tiều vội vã cất gánh củi lên vai trở về làng mạc. Tiếng náo động vắng lần. Quang cảnh rừng rú mỗi lúc càng tĩnh mịch.
Thỉnh thoảng một vài tiếng chuông chùa ngân nga từ xa vọng lại, dường như để thúc hối những người còn chậm bước chưa ra khỏi cảnh hoang liêu ghê rợn của núi rừng. Một vài tiếng hú kêu vang và sâu tận trong hóc núi càng làm cho những kẻ lạc loài khiếp đảm. Các loài thú dữ đã bắt đầu cuộc săn mồi thường bữa, chốc chốc điểm lên những tiếng rống ghê người của chúa tể sơn lâm.
Từ trong thảo am bên mé núi, một vị Thiền-sư lưng mang đãy bố, tay chống gậy tre, lần bước trên con đường mòn, tiến dần về phía xóm nhà cạnh mé rừng. Trời vừa sắp tối, vị Thiền-sư đến nơi và đi ngay vào cổng, tìm lại nhà hai vợ chồng vị cư sĩ đã thọ giáo với ngài. Sau những lời chào hỏi, hai vợ chồng vị cư sĩ trải chiếu hoa mời ngài an tọa. Trà nước xong, Thiền-sư liền bảo : « Từ ngày hai ông bà đã thọ giáo theo Phật đến giờ, tôi thường tới lui để thúc nhắc. Độ này việc tu niệm của ông bà được khá lắm, thật tôi lấy làm vui mừng. Song sự đời có hiệp phải có tan, hôm nay tôi đến đây để thăm, và cũng để tỏ lòng từ giã hai ông bà. Ngày mai tôi sẽ lên đường đặng đi giáo một nơi khác. Có lẽ cách nhau lâu, vì vậy tôi không dám hẹn ngày tái ngộ. Trước khi lên đường, tôi xin dặn lại ít lời rất thiết, có thể là châm ngôn tu tập hằng ngày. Hai ông bà phải cố gắng niệm Phật đừng để lảng quên, nếu chẳng may có gặp việc gì xảy ra chênh mếch trong gia đình, ngoài xã hội, nên kiên nhẫn bỏ qua, tự an ủi lấy lòng. Giả như một trong hai người lâm bệnh nặng sắp đến giờ hấp hối, người mạnh cần nhất phải cho tĩnh tâm, sửa sang Phật tượng, hộ niệm cho nhau đến lúc cuối cùng ; đừng than khóc, van kêu, làm cho người chết phải bối rối, loạn niệm, khó được vãng sinh. Đây là một việc khó, mà nhiều người tu hành đã vấp phải. Nên tôi xin căn dặn hai ông bà hãy ghi nhớ. Được vậy, dù tôi ở cách xa, vẫn yên hóa đạo ».
Dặn dò, chỉ bảo đâu đó xong xuôi, rạng ngày vị Thiền-sư lên đường…
Ngày tháng qua mau, phút chốc được hai thu, nhờ y theo lời dạy của vị Thiền-sư mà thời gian qua, hai vợ chồng vị cư sĩ ăn ở với nhau rất thuận hòa, hằng ngày làm phước, bố thí, tụng kinh, niệm Phật chuyên cần, lối xóm nhiều người cảm mến.
Một hôm, người chồng bị chứng thương hàn đau nặng. Người vợ chạy thuốc tìm thầy đã hết hơi mà bệnh đâu vẫn còn nguyên đấy. Cuối cùng, có một danh y đại tài đã được mời đến do công lao của người anh họ chẳng nại xa xuôi rước về. Sau khi bắt mạch xong, vị danh y bảo : « Bệnh này không qua khỏi ngày này, vị mạch đã hết. Vậy bà đừng nên chạy chữa làm gì nữa cho tốn công hao của, hãy lo liệu những vật dưỡng già mà thôi ».
Người vợ lúc bấy giờ đã tuyệt vọng, tâm thần bà rối loạn, quên hẳn lời dặn bảo của vị Thiền-sư ; người chồng cứ nằm mê man mãi. Trong tình cảnh này, vì thương chồng, vì tủi phận, người vợ chỉ có gục mặt bên chồng khóc kể liên miên. Mãi đến khi người chồng mở đôi mắt thất thần nhìn vợ lần cuối cùng, mà người vợ còn ghé mặt sát mặt chồng nức nở kêu : « Mình ôi ! Mình nỡ nào chết đi để một mình tôi ở lại sống cô độc lẻ loi ; hồi nào khổ sở có nhau, vui buồn cùng chịu, ngày nay mình bỏ tôi mình đi một mình ! Mình ôi ! »
Tội nghiệp người chồng vì nghe lời lẽ quá bi ai của vợ, cảm tình ân ái bất giác nổi lên, nhìn vợ mà hai hàng lệ thắm tuông ra, nghẹn thở… rồi… trút linh hồn.
Thần thức ông xuất ra nơi mắt. Người vợ vì gục mặt vào chồng, nên thần thức chui ngay vào lỗ mũi vợ, hóa thành một con sâu.
Chồng mất rồi, vợ lo tròn bổn phận, chôn cất xong xuôi, đám ma cũng khá lớn, những ơn nghĩa của lối xóm cũng lo tròn.
Đến khi bà con ai về nhà nấy, bấy giờ bốn bề lặng ngắt, người vợ vì thương chồng bạc phận, xét nỗi cô đơn hiu quạnh, lại thêm lỗ mũi mỗi ngày một lớn và đau nhức vô cùng. Nàng cứ ngày đêm kêu gào than khóc, làm cho những kẻ ở gần, ai cũng phải động lòng thương xót kẻ xấu duyên, bạc phận.
Một hôm vị Thiền-sư trở lại và ghé thăm. Nàng vừa thấy bóng Ngài, đã hối hả chạy ra khóc than, kể lể.
Vị Thiền-sư ôn tồn bảo : « Bà hãy nín, sống chết là lẽ thường, hễ có sinh là có tử. Người tu hành khi bỏ được thân khổ này như quăng được cái gánh nặng, bà nên mừng giùm chớ sao lại khóc ? Bà còn than khóc thế là bà chưa hiểu đạo. Xin khuyên bà hãy nghe tôi, có thương nhớ nên để lòng, lo tu hành, cho khuây lảng, nếu còn nặng lòng ái ân thì kiếp sau lại gặp nhau nữa, vay trả, trả vay thành một chuỗi oan gia vô cùng tận ».
Sau khi nghe vị Thiền-sư khuyên bảo, như giải được sự đau buồn, nàng liền sửa lại mái tóc, rồi tình cờ khịt mũi mạnh văng ra một con sâu khá lớn.
Thiền-sư cả cười bảo : « Ở đời ít ai có nghĩa hơn bà, ai đời thương chồng mà khóc đến có sâu trong lỗ mũi ».
Nàng thẹn quá, toan lấy chân giậm chết con sâu. Vị Thiền-sư vội vàng khoa tay bảo : « Đừng, bà đừng nên làm thế, vì con sâu ấy là chồng bà vậy ».
Nàng lạ lùng hỏi : « Bạch Thầy, chồng tôi suốt đời niệm Phật, làm phước, tại sao chết lại sanh vào loài sâu bọ như thế ? »
Thiền-sư bảo : « Bà đã quên lời tôi dặn, khi chồng bà chết bà không lo tụng kinh niệm Phật và khuyên bảo chồng bà khởi chính niệm, bà còn đem lại tình ân ái kể lể khóc than, nên chồng bà khi sắp mất, bị lòng thương vợ, nặng tình ân ái mà lảng quên chính niệm. Vì vậy nên thần thức luyến ái không thể vượt lên cao, mà phải chui vào mũi bà thành sâu thành bọ. Than ôi ! Uổng một kẻ tu hành, đã mong thoát kiếp luân hồi lại còn bị ái ân cột chặt. Thật có khác nào con cò muốn cất cánh bay cao để thoát ngoài dò, bẫy ; nhưng khốn nỗi nó còn bị sợi dây vô tình cột chặt vào chân. Thế có tội nghiệp không ? »
Thiền-sư đến gần con sâu khẽ bảo : « Ngươi trước cũng nghe lời ta chăm chỉ tu hành lẽ ra thời đã được công đức lành mà sinh thiên hay vãng sinh Cực-lạc, song vì tình ân ái của vợ chồng ngươi còn sâu thẳm ngàn trùng thành ra khi trút hơi thở cuối cùng mà còn gây nghiệp chướng nặng nề phải thành loài sâu bọ, thật đáng thương thay ! »
Con sâu nằm yên từ nãy giờ, dường như nó cũng tự biết hổ thẹn ăn năn. Thiền-sư chú nguyện cho và nhờ công đức lành đã tạo từ trước, nên con sâu quằn quại một lúc rồi chết, thần thức lại sinh vào cõi người. Người vợ đã tự hối và phát nguyện tu hành niệm Phật, trì chí không thối lui, kết quả bà được vãng sinh. (Thuật giả : Tắc Phước – Truyện cổ Phật giáo, tập 2)
« Tại sao niệm Phật ? »
Thành Thất-la-phiệt có một ông hoàng tánh rất hung bạo. Thêm vào đó, quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội án trước pháp luật. Chưa một lời phải, một đạo giáo nào cảm hóa được ông. Một hôm ông gặp Phật khi Phật du hóa xứ này. Mới thấy, lòng ông bỗng cảm phục như voi dữ trước quản tượng. Ngài có dạy ông vài lời sơ lược : « Hãy tưởng niệm Phật-đà, hãy từ bi thương người, hùng lực cứu người ». Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất, ông liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn trong lòng ông nữa, khi ông toan đánh đuổi người. Bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại, nhưng không bố thí chút gì. Tối hôm đó vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhờ thuật lại, ông nhớ lại rõ ràng hình dung đức Phật và lời Ngài dạy. Đêm hôm ấy ông suy nghĩ mung lung. Ông nghĩ : « Nhớ Phật, phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ ». Rồi trời mới sáng ông liền đi tìm Phật. Giữa đường gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường, ông suy nghĩ, ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền túi ra cho. Người ấy e sợ, cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo : « Vì tưởng như Phật, nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi chịu ơn anh, chớ nào anh có mang ơn gì với tôi ». Người hành khất nghe thế, lấy làm lạ, vì không lạ gì tánh nết của ông và uy danh của đức Phật nữa. Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm : « Nam Mô Phật Đà » (Kính lễ đấng Giác Ngộ). Ông hoàng cũng bất giác niệm theo và đi mau tìm Phật. Khi được gặp Ngài, ông thuật rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong, đức Phật mỉm cười hiền từ bảo : « Phải, Niệm Phật, ông hãy tưởng niệm người nghèo khổ. Tưởng niệm người nghèo khổ là tưởng chư Phật đó ». (Trích báo Viên Âm)
« Một lòng vì đạo »
Cũng một mùa xuân trong sáng đẹp đẽ như hôm nay, nhưng là một mùa Xuân xa xăm lắm, một vị quốc vương có tiếng nhân từ, vui vẻ, ngự giá về các làng mạc thôn xóm, thăm viếng quần chúng và tặng quà tết cho kẻ nghèo. Ngài cùng chung vui với muôn dân. Đó còn là một dịp để nhà vua được tìm hiểu đời sống và tâm tình của dân.
Khi ra đi ngài vui vẻ bao nhiêu, khi trở về ngài lại buồn rầu lo âu bấy nhiêu.
Nhà vua thường khuyến khích mọi người phụng thờ Tam-bảo, thực hành phép ăn chay, làm các việc thiện, hiếu thảo với cha mẹ, thuận hòa với anh em. Ngài tha sưu thuế cho tất cả những ai thực hành theo lời ngài nguyện bảo. Mọi người đều răm rắp làm theo.
Nhưng có ngờ đâu, bề ngoài họ mang một lớp « đạo đức giả » để che đậy bao nhiêu điều xấu xa, hung ác, nham hiểm ở bên trong. Nhờ có cuộc kinh lý trong ngày Xuân hôm ấy ngài mới thấu rõ được lòng người. Từ đó ngài luôn luôn suy nghĩ để tìm một giải pháp cải thiện dân chúng một cách hoàn bị.
Một tuần sau gương mặt ngài trở lại tươi vui như trước. Rồi khắp dân chúng được ban truyền sắc dụ của nhà vua : « Kể từ nay ai còn ăn chay niệm Phật sẽ bị tội xử tử, còn người nào không theo đạo Phật được tự do, an phần chức nghiệp ».
Đương nhiên những kẻ giả tâm đều trở lại hành động như cũ, không còn che đậy một chút gì.
Tuy thế, sáng kia người ta dẫn đến sân triều một cụ già tả tơi yếu đuối, cụ này đã không tuân lệnh nhà vua vẫn quy ngưỡng theo đạo Phật. Cụ nghĩ rằng : « Lâu nay ta nghèo khổ, trọn ngày chỉ có một bữa cơm rau nhưng được quy y Tam-bảo, được nghe giáo lý của chư Phật, lòng ta sung sướng vô cùng. Còn dẫu sống một cuộc đời sung túc trên châu báu ngọc ngà hay có được lên cõi Thiên-đàng hưởng thụ mãi mãi cuộc sống thần tiên đi nữa mà không được nghe đến một câu kinh Phật, đối với ta cũng chỉ là ngục hình ».
Cụ già khẳng khái tâu : « Tâu Bệ hạ, bần dân này đã có tội không tuân lệnh của ngài xin ngài cứ việc chặt đầu ».
Nhà vua phán : « Nếu ngươi biết tự hối và thi hành theo sắc lệnh mới của trẫm, trẫm sẽ tha tội và phong chức tước cho. Còn kẻ làm dân mà không tuân theo quốc pháp, trẫm sẽ xử chém đặng răn kẻ trái phép về sau ».
- Tâu Bệ hạ, nếu bỏ chính pháp mà làm đến bực vua chúa, hưởng thụ tất cả mọi khoái lạc trong cõi Nhân-thiên, bần dân này cũng không ham.
- Ngươi cãi lệnh, ta sẽ truyền đem xử tử ngay tức khắc.
- Tâu Bệ-hạ, trong Kinh phật có dạy : « Nếu chúng sinh tự gieo mình vào ba đường ác thì khó được làm người và có làm người chăng nữa cũng không thể sinh vào nước có đạo đức, không xem được Kinh Phật, không gặp được các cao tăng để cúng dường và nghe pháp ». Nay tôi được biết Tam-bảo, hiểu được chút ít Kinh Phật, vậy có lẽ kiếp trước tôi đã dày công tu luyện lắm. Thế thì dẫu Bệ hạ có bỏ tôi vào nước sôi hay nung vào lửa đi nữa tôi vẫn giữ trọn một niềm theo Tam-bảo mà thôi.
- Ngươi là ai mà còn khí khái với ta. Trước cái chết mà vẫn còn hùng hổ.
- Tôi tên là Thanh-tiến-Sử, tâu Bệ hạ cứ việc xử tội, tôi không bao giờ oán thán hay van xin một điều gì.
- Quân sĩ hãy đem chém ngay ông lão Thanh-tiến-Sử này.
Rất nhanh, các tên lính xáp đến dẫn cụ già ra pháp trường. Đồng thời nhà vua cho một vị quan hầu cận ra xem xét và bảo quân lính đợi lệnh nhà vua truyền lại mới được thi hành.
Trước pháp trường, bên cạnh những lưỡi gươm sáng quắc đang sẵn sàng đưa lên cổ. Thanh-tiến-Sử vẫn thản nhiên vui vẻ và khuyên người con trước khi vĩnh biệt : « Con ơi ! con sanh gặp thời có Phật pháp, biết sùng bái Tam-bảo là một điều phước đức cho con. Con hãy vững dạ tu học, noi gương cha đấy, dẫu đầu cha phải rơi vì sắc lệnh nghiêm ngặt của nhà vua, cha vẫn vui lòng và quyết theo chánh đạo không bao giờ lãng bỏ ». Vừa dứt lời, vị cận thần truyền quân lính dẫn cụ về triều.
Khi vị cận thần về tâu lại lời khuyên con của Thanh-tiến-Sử, nhà vua rất cảm động và vô tình những dòng nước tươm chảy trên đôi má nhăn nheo của vị vua hiền đức. Ngài bước xuống bệ rồng ra tận cửa thành ôm lấy Thanh-tiến-Sử. Mọi người đều ngạc nhiên. Cụ già cũng trố mắt nhìn vua không hiểu chuyện gì. Nhà vua đưa cụ vào cung một cách ân cần vui vẻ, song Thanh-tiến-Sử cũng chưa rõ điều gì nên chỉ biết cúi đầu sát đất lạy tạ ơn vua. Nhà vua liền đỡ lấy tay Thanh-tiến-Sử rồi thân mật bảo : « Trong quốc dân này chỉ có một Thanh-tiến-Sử ! Chỉ có một Thanh-tiến-Sử thuần thành theo Phật-pháp, quyết một lòng vì đạo. Ngoài ra đều giả dối, đều vụ lợi. Chiếu dụ của trẫm ban ra chỉ cốt để thử lòng người mà thôi. Vậy từ nay xin ngươi hãy sống cùng trẫm, giúp trẫm trong việc truyền bá Phật pháp thức tỉnh nhân tâm ». Rồi cả hai trò chuyện vui vẻ. Sau đó nhà vua phong cho Thanh-tiến-Sử chức tướng quốc.
Câu chuyện ấy được truyền tụng trên môi quần chúng lan ra tận các hang cùng ngõ hẻm, và cũng từ đó tiếng chuông cảnh tỉnh ngân vang trong tâm hồn mọi người.
Chẳng bao lâu dân chúng được sống trong cảnh êm ấm, thân yêu, an hòa, vui vẻ, ai ai cũng đều quay về với Đạo Phật. Vị Quốc Vương ấy chính là tiền nhân của Đức Thích-Ca. (Đức-Thương – Trích Truyện cổ Phật giáo, quyển 6)
« Hoa sen trong người »
Mai hôm ấy, kinh thành Xá-vệ rộn rịp trong cảnh phố phường buổi sáng. Trên các đường lớn ngựa xe tấp nập, từng đoàn người qua lại trong những bộ áo màu sặc sỡ. Các cửa hàng đông nghẹt những người mua. Tiếng guốc giày của những người quí phái liên tiếp vang lên tạo thành những âm thanh ồn ào náo nhiệt. Nhưng đi sâu vào các đường hẻm thì những cảnh sống hình như vui tươi giàu mạnh của số đông người trong hai giai cấp Sát-đế-lợi và Bà-la-môn ấy không còn nữa, mà những cảnh bần cùng, đen tối của hai hạng người Tỳ-xá và Chiên-đà-la hiện ra quá rõ rệt : Những chiếc nhà lá thấp lè tè, chật hẹp, đóng cửa từ sáng sớm. Những đứa trẻ đang đùa giỡn, chọc ghẹo nhau trên vệ đường. Những người tàn tật, nghèo khổ lũ lượt đi từ nhà này sang nhà nọ xin nhờ sự bố thí một cách khó khăn…
Như thường lệ, sáng nay đức Thế-Tôn vào thành để giáo hóa. Bình đẳng, không phân biệt nghèo giàu, sang hèn. Ngài đi hết phố này đến xóm khác.
Ni-Đề, một thanh nhiên thuộc giai cấp Chiên-đà-la, giai cấp thấp nhất ở Ấn-Độ, đang gánh một gánh phân chạy lon bon trên con đường xóm, thấy đức Phật, chàng bối rối, sợ sệt vội rẽ qua đường khác và tự than trách : chàng nghĩ rằng mình đã sinh vào nơi thấp kém mà còn phải làm những việc đê hèn như thế này nữa, thật là vô phước quá, đồng là người thì tại sao người ta lại dìm nhau trong cuộc sống. Tuy rẽ qua đường khác nhưng đôi mắt chàng vẫn đăm đăm hướng về hình ảnh nghiêm trang, sáng rực hào quang của đức Phật. Một sự ước ao trào dậy trong lòng chàng : Ôi ! Biết bao giờ ta được trực tiếp gặp đấng sáng suốt kia. Càng nhìn lòng chàng càng cảm mộ. Tuy chưa gặp đức Phật lần nào, song đức hạnh hoàn toàn của Ngài, chàng đã được nghe nhiều người kể lại.
Hiểu tâm niệm Ni-Đề qua những cử chỉ rụt rè và đôi mắt đăm chiêu, đức Phật bước nhanh về phía Ni-Đề. Thấy Phật đến, Ni-Đề hoảng hốt vì tự thấy mình nhớp nhúa không đáng gần Phật, phần sợ người bắt tội nên chàng nhanh chân lẩn tránh.
« Con ôi ! Như-Lai đến với con đây ! Sao con lại tránh ». Đức Phật ở xa nói lại với một giọng trong thanh, êm ái.
Để đôi thùng xuống, run rẩy Ni-Đề quỳ thưa : « Bạch Ngài con không dám… Có điều chi dạy bảo xin Ngài ban cho, xin Ngài đừng đến gần con… »
Đức Phật bước thêm và tiến sát Ni-Đề. Ni-Đề cúi xuống và sắc mặt biến xanh, ra vẻ sợ sệt lắm. Nở một nụ cười chan chứa tình thương đức Phật nói : « Con ơi ! Không ai có quyền bắt tội con đâu, vì chính Như-Lai đến với con, chứ không phải con đến với Như-Lai. Hơn nữa, Như-Lai nay không phải là người trong giai cấp vua chúa như Thái-tử Tất-Đạt-Đa ngày xưa, mà là người của tất cả chúng sanh, nhất là của hạng người đau khổ như con. Như-Lai muốn nói với con một vài câu chuyện… »
Nghe qua những lời nói hiền dịu và có lý của đức Phật, Ni-Đề bớt lo sợ và nhìn đức Phật một cách kính mến, chàng thưa : « Chẳng hay đức Thế-Tôn vẫn đoái hoài với người cùng khổ này sao ? Và con cũng được Như-Lai dạy bảo và được thật hành theo đạo Như-Lai nữa sao ? »
Một cách nghiêm nghị, đức Phật hỏi : « Ai đã làm cho con thắc mắc những điều ấy ? »
- Bạch Thế-Tôn, những đạo sĩ Bà-la-môn thường nói chỉ có giai cấp họ và người trong dòng Sát-đế-lợi mới có quyền thờ kính Hiền thánh và có quyền giao thiệp với những người đồng giai cấp, chứ bọn con thuộc dòng hạ tiện không có phép làm những việc như họ làm và phải trọn đời phục dịch cho họ…
Ni-Đề muốn nói nhiều nữa, song đức Phật ngắt lời và hỏi : « Vậy con không biết Như-Lai ra đời để cứu khổ cho chúng sanh bằng cách phá tan những sự mê tín dị đoan, ỷ lại thần quyền và đưa chúng sanh đến cuộc sống bình đẳng an vui sao. Thôi giờ đây, con có muốn sống một đời sống tươi đẹp và rộng rãi không. Và con muốn sống gần Như-Lai không ? »
Sung sướng đến chảy nước mắt, Ni-Đề đáp : « Đó là điều mà con tưởng không bao giờ thực hiện được nếu được Như-Lai cứu độ thì đó là một phước lành cho con vậy ».
Dịu dàng đức Phật cầm tay Ni-Đề dắt đến bờ sông gần đấy… Tắm rửa xong, Ni-Đề theo đức Phật trở về tịnh xá Kỳ-hoàn được Phật và Giáo-hội thâu nạp cho làm Tỳ-kheo, qua một thời gian tinh tấn tu luyện, vị Tỳ-kheo mới nhập đạo này đắc quả Tu-đà-hoàn rồi lần chứng quả A-la-hán.
Bấy lâu Ba-Tư-Nặc vương bất bình và không hiểu tại sao đức Phật là người của dòng hào thế Thích-Ca mà lại độ đệ tử phần nhiều là những người ở hai giai cấp dưới. Nay lại được nghe đức Phật vừa độ cho Ni-Đề, ông càng bất bình hơn nữa. « Đảnh lễ ai chứ ta không đảnh lễ anh chàng Ni-Đề được… » Ba-Tư-Nặc vương lẩm bẩm như vậy. Càng nghĩ càng tức giận, Ba-Tư-Nặc vương liền cùng với các vị cận thần đi đến tịnh xá Kỳ-hoàn để xin Phật đừng độ cho Ni-Đề làm Tỳ-kheo và từ rày về sau đừng cho những người thuộc cấp hạ tiện (theo quan niệm của ông và những người trong hai giai cấp trên) xuất gia.
Vừa đến tam quan tịnh xá Kỳ-hoàn, thấy một vị Tỳ-kheo đang ngồi trên một hòn đá lớn khâu vá chiếc áo cũ, Ba-Tư-Nặc vương liền đến nhờ vị Tỳ-kheo ấy vào bạch Phật xin cho ông yết kiến.
Nhận lời, vị Tỳ-kheo liền xuyên qua hòn đá và ẩn mình đâu mất, làm cho Ba-Tư-Nặc vương và các cận thần hoảng sợ nhưng vô cùng khâm phục !
Một lát sau, cũng từ hòn đá ấy hiện ra, vị Tỳ-kheo khi nãy trả lời cho Ba-Tư-Nặc vương : « Đại vương cứ vào, đức Thế-Tôn đã hứa cho ». Ba-Tư-Nặc vương bái chào rồi đi ngay vào tịnh xá.
Đảnh lễ đức Phật xong, Ba-Tư-Nặc vương liền hỏi : « Bạch Thế-Tôn ! Thầy Tỳ-kheo vừa xin cho con vào yết kiến là ai và tên gì mà có thần thông quảng đại như vậy. Thầy đã xuyên qua đá cứng một cách nhẹ nhàng tự tại… »
- Đại-vương ! Ấy là Ni-Đề, người gánh phân ở thành Xá-Vệ mà ta đã độ cách đây hơn một tháng, nay đã chứng A-la-hán nên có những thần lực như vậy.
Thấy Ba-Tư-Nặc vương im lặng và ra chiều suy nghĩ. Đức Phật ôn tồn nói thêm : « Nầy đại vương ! Trong đất bùn nhơ nhớp nở lên những cánh sen đầy hương thơm tinh khiết. Đại vương có thích và có ưa hái không ? »
- Bạch Thế-Tôn ! nếu là hoa đẹp hương thơm thì không ai không quý và không muốn hái để ngắm nghía trang hoàng cả.
- Đại vương ! Cũng vậy tuy là người ở trong các giai cấp dưới (ấy là do con người phân chia), nhưng nhờ sự trao giồi đức hạnh, rèn luyện trí tuệ mà trở thành Thánh Hiền thì người trí tuệ có nên cung kính cúng dường không ?
- Bạch Thế-Tôn ! đã là Thánh Hiền thì rất đáng cho phàm phu chúng con cung kính cúng dường lắm !
- Lành thay ! Đại vương quả là người sáng suốt biết quý trọng « giá trị chân thật » của con người.
Mặt trời làm tan mây mù ra sao thì những lời của đức Phật cũng làm tan những ý niệm khinh dể chán ghét Ni-Đề và các người trong hai giai cấp dưới của Ba-Tư-Nặc vương thế ấy… Bắt đầu từ đó ông vô cùng kính phục tài năng và đức hạnh của Ni-Đề, vị Tỳ-kheo mà ông đã gặp ở Tam-quan.
Ba-Tư-Nặc vương lại xin Phật cho thỉnh A-la-hán Ni-Đề ngày mai vào nội thành để giáo hóa cho Hoàng-tộc và nhân dân và cũng để ông cúng dường luôn thể. Phật hứa cho, Ba-Tư-Nặc và các vị cận thần đảnh lễ và trở ra tam quan để trực tiếp cung thỉnh vị A-la-hán thần thông tự tại khi nãy.
Được vị A-la-hán này chấp nhận, Ba-Tư-Nặc vương vô cùng sung sướng. Trên đường về ông không ngớt tán thán đức Phật, đấng hiện thân của bình đẳng và Giáo-hội của Ngài là một đoàn thể đầy đủ tài năng và đức độ. (Thiện-Chân – Trích Truyện cổ Phật giáo, quyển 6)
« Công chúa Nhật-Quang »
Công chúa Nhật-Quang là con hai của vua Ba-Tư-Nặc nước Xá-vệ. Công chúa rất đẹp, một vẻ đẹp thùy mị hơn hẳn các thiếu nữ đương thời ở nước Xá-vệ ; công chúa lại rất thông minh, học đâu nhớ đấy. Không những công chúa sắc sảo về môn nữ công mà còn tinh thông các triết lý học thuật ; đức hạnh công chúa cũng quán chúng, tuy sanh trong giai cấp vua chúa cao sang, nhưng vẫn giữ thái độ khiêm tốn nhã nhặn, nhất là đối với hạng nghèo khổ tật nguyền, công chúa thành thật yêu mến và luôn luôn tìm cách giúp đỡ. Vì thế nên công chúa được rất nhiều người mến trọng. Người nào đã hân hạnh gặp công chúa một lần, họ sẽ nhớ mãi nụ cười hiền hòa và lời nói thanh tao của công chúa. Đối với cha mẹ, công chúa thật là người con hiếu hạnh, nàng hầu hạ vua và hoàng hậu hết sức chu đáo, và không bao giờ nói một lời hay làm một việc trái ý vua và hoàng hậu.
Ba-Tư-Nặc vương được một người con xứng đáng như vậy, vua rất cưng quý, có thể nói công chúa Nhật-Quang là viên ngọc vô giá của vua nước Xá-vệ. Những cuộc quan sơn ngoạn thủy của vua, công chúa đều được tham dự, mỗi khi quốc sự rảnh rang, nhà vua thường đòi công chúa đến hầu chuyện, hỏi những vấn đề thắc mắc công chúa đều trả lời trôi chảy, nhà vua rất đẹp dạ.
Một buổi chiều nhà vua đang dùng trà tại vườn ngự uyển, có công chúa đứng bên cạnh, nhà vua nhìn con rồi vui miệng phán rằng : « Khắp nước Xá-vệ này không ai được sung sướng bằng con, đời con được như thế thật là hoàn toàn nhờ sức của cha mẹ tác thành vậy ».
Công chúa Nhật-Quang thành thật trả lời : « Tâu phụ vương, công ơn sanh dưỡng của Phụ-hoàng và Mẫu-hậu như trời bể, con không hề dám quên. Nhưng đời con được hạnh phúc như thế này, con thiết tưởng cũng ảnh hưởng của cha mẹ một phần nào, nhưng phần lớn nhờ kiếp trước con đã tu thân tích đức nhiều vậy ».
Câu nói của công chúa không ngờ đã chạm lòng tự ái của vua Ba-Tư-Nặc quá mạnh, vua liền đứng dậy lặng lẽ trở vào cung.
Đêm hôm ấy, nhà vua không hề chợp mắt, suy nghĩ mãi lời nói của công chúa, và nhà vua rất bực tức, đứa con yêu quý và ngoan ngoãn của mình chưa bao giờ trái ý mình dù là một cử chỉ nhỏ nhặt, hôm nay lại xúc phạm đến lòng từ ái của mình, có thể nói là không thừa nhận một lý thuyết (nghĩa là hạnh phúc của con hoàn toàn do cha mẹ tác thành) mà ông cho là muôn đời bất biến và ai cũng phải công nhận.
 Phật-học càng được nẩy nở và tán đồng. Cho nên, theo dòng lịch sử tranh đấu của xã hội chúng ta thấy những mẩu chuyện về Phật rải rác trong dân chúng không phải ít.
Ví dụ, trong các chuyện Tàu, việc Đường-tăng đi thỉnh kinh ở Tây-vực tạo thành một pho truyện mang tính chất Phật-giáo, mà đó cũng là ý thức giãi bày trong hệ luận nhà Phật. Truyện Phong thần cũng có rải rác bóng dáng của khuynh hướng Phật-học. Đó là những mẩu chuyện văn học được phổ cập sâu rộng trong dân gian, ngoài ra, khuynh hướng Phật-học còn diễn biến khắp mọi địa hạt, góp phần vào quan niệm văn minh Á-đông cũng chẳng kém gì những khuynh hướng khác về đạo học.
Điều đó ai cũng biết, chúng tôi muốn đặt ở đây tầm diễn biến về suy tư của nền Phật-học trong lịch sử xã hội Việt-nam.
Trước kia, vào các thế hệ tiền nhân, khi nói đến quan niệm về đạo Phật là nói đến tinh thần thoát tục, nói đến việc từ bỏ ý thức tranh đấu xã hội để bước vào địa hạt tu thân. Mọi dục vọng cá nhân, mọi tình cảm cá tính đều xem như đối tượng của lẽ sống con người.
Tuy nhiên, đi song song với dòng lịch sử đấu tranh xã hội, Phật-học bắt đầu cảm thấy mọi ràng buộc trong thế giới loài người rất tương quan mật thiết. Kẻ tu hành không thể vứt bỏ cuộc sống con người trong lúc vẫn phải sống, không thể giữ vững ý thức của mình nếu không đem ý thức ấy đấu tranh với mọi ý thức khác. Từ đó, chúng ta thấy Phật-học đã có chiều hướng mới trên lập trường suy tư. Những chuyện cổ tích biểu dương lòng từ bi tế độ của đức Phật, hoặc nói lên những quyền phép của Phật trừ tà ma, diệt quỉ quái, đó chính là một hình thức đấu tranh về tư tưởng. Sau đây, chúng tôi xin trích dẫn vài mẩu chuyện để chứng minh điều đó :
« Tình ái là gốc sự sinh tử »
Bóng hồng vừa gác núi. Chim chóc từng đàn lũ lượt bay về tổ, kêu la rộn rịp. Trên con đường mòn khúc khuỷu, các bác tiều vội vã cất gánh củi lên vai trở về làng mạc. Tiếng náo động vắng lần. Quang cảnh rừng rú mỗi lúc càng tĩnh mịch.
Thỉnh thoảng một vài tiếng chuông chùa ngân nga từ xa vọng lại, dường như để thúc hối những người còn chậm bước chưa ra khỏi cảnh hoang liêu ghê rợn của núi rừng. Một vài tiếng hú kêu vang và sâu tận trong hóc núi càng làm cho những kẻ lạc loài khiếp đảm. Các loài thú dữ đã bắt đầu cuộc săn mồi thường bữa, chốc chốc điểm lên những tiếng rống ghê người của chúa tể sơn lâm.
Từ trong thảo am bên mé núi, một vị Thiền-sư lưng mang đãy bố, tay chống gậy tre, lần bước trên con đường mòn, tiến dần về phía xóm nhà cạnh mé rừng. Trời vừa sắp tối, vị Thiền-sư đến nơi và đi ngay vào cổng, tìm lại nhà hai vợ chồng vị cư sĩ đã thọ giáo với ngài. Sau những lời chào hỏi, hai vợ chồng vị cư sĩ trải chiếu hoa mời ngài an tọa. Trà nước xong, Thiền-sư liền bảo : « Từ ngày hai ông bà đã thọ giáo theo Phật đến giờ, tôi thường tới lui để thúc nhắc. Độ này việc tu niệm của ông bà được khá lắm, thật tôi lấy làm vui mừng. Song sự đời có hiệp phải có tan, hôm nay tôi đến đây để thăm, và cũng để tỏ lòng từ giã hai ông bà. Ngày mai tôi sẽ lên đường đặng đi giáo một nơi khác. Có lẽ cách nhau lâu, vì vậy tôi không dám hẹn ngày tái ngộ. Trước khi lên đường, tôi xin dặn lại ít lời rất thiết, có thể là châm ngôn tu tập hằng ngày. Hai ông bà phải cố gắng niệm Phật đừng để lảng quên, nếu chẳng may có gặp việc gì xảy ra chênh mếch trong gia đình, ngoài xã hội, nên kiên nhẫn bỏ qua, tự an ủi lấy lòng. Giả như một trong hai người lâm bệnh nặng sắp đến giờ hấp hối, người mạnh cần nhất phải cho tĩnh tâm, sửa sang Phật tượng, hộ niệm cho nhau đến lúc cuối cùng ; đừng than khóc, van kêu, làm cho người chết phải bối rối, loạn niệm, khó được vãng sinh. Đây là một việc khó, mà nhiều người tu hành đã vấp phải. Nên tôi xin căn dặn hai ông bà hãy ghi nhớ. Được vậy, dù tôi ở cách xa, vẫn yên hóa đạo ».
Dặn dò, chỉ bảo đâu đó xong xuôi, rạng ngày vị Thiền-sư lên đường…
Ngày tháng qua mau, phút chốc được hai thu, nhờ y theo lời dạy của vị Thiền-sư mà thời gian qua, hai vợ chồng vị cư sĩ ăn ở với nhau rất thuận hòa, hằng ngày làm phước, bố thí, tụng kinh, niệm Phật chuyên cần, lối xóm nhiều người cảm mến.
Một hôm, người chồng bị chứng thương hàn đau nặng. Người vợ chạy thuốc tìm thầy đã hết hơi mà bệnh đâu vẫn còn nguyên đấy. Cuối cùng, có một danh y đại tài đã được mời đến do công lao của người anh họ chẳng nại xa xuôi rước về. Sau khi bắt mạch xong, vị danh y bảo : « Bệnh này không qua khỏi ngày này, vị mạch đã hết. Vậy bà đừng nên chạy chữa làm gì nữa cho tốn công hao của, hãy lo liệu những vật dưỡng già mà thôi ».
Người vợ lúc bấy giờ đã tuyệt vọng, tâm thần bà rối loạn, quên hẳn lời dặn bảo của vị Thiền-sư ; người chồng cứ nằm mê man mãi. Trong tình cảnh này, vì thương chồng, vì tủi phận, người vợ chỉ có gục mặt bên chồng khóc kể liên miên. Mãi đến khi người chồng mở đôi mắt thất thần nhìn vợ lần cuối cùng, mà người vợ còn ghé mặt sát mặt chồng nức nở kêu : « Mình ôi ! Mình nỡ nào chết đi để một mình tôi ở lại sống cô độc lẻ loi ; hồi nào khổ sở có nhau, vui buồn cùng chịu, ngày nay mình bỏ tôi mình đi một mình ! Mình ôi ! »
Tội nghiệp người chồng vì nghe lời lẽ quá bi ai của vợ, cảm tình ân ái bất giác nổi lên, nhìn vợ mà hai hàng lệ thắm tuông ra, nghẹn thở… rồi… trút linh hồn.
Thần thức ông xuất ra nơi mắt. Người vợ vì gục mặt vào chồng, nên thần thức chui ngay vào lỗ mũi vợ, hóa thành một con sâu.
Chồng mất rồi, vợ lo tròn bổn phận, chôn cất xong xuôi, đám ma cũng khá lớn, những ơn nghĩa của lối xóm cũng lo tròn.
Đến khi bà con ai về nhà nấy, bấy giờ bốn bề lặng ngắt, người vợ vì thương chồng bạc phận, xét nỗi cô đơn hiu quạnh, lại thêm lỗ mũi mỗi ngày một lớn và đau nhức vô cùng. Nàng cứ ngày đêm kêu gào than khóc, làm cho những kẻ ở gần, ai cũng phải động lòng thương xót kẻ xấu duyên, bạc phận.
Một hôm vị Thiền-sư trở lại và ghé thăm. Nàng vừa thấy bóng Ngài, đã hối hả chạy ra khóc than, kể lể.
Vị Thiền-sư ôn tồn bảo : « Bà hãy nín, sống chết là lẽ thường, hễ có sinh là có tử. Người tu hành khi bỏ được thân khổ này như quăng được cái gánh nặng, bà nên mừng giùm chớ sao lại khóc ? Bà còn than khóc thế là bà chưa hiểu đạo. Xin khuyên bà hãy nghe tôi, có thương nhớ nên để lòng, lo tu hành, cho khuây lảng, nếu còn nặng lòng ái ân thì kiếp sau lại gặp nhau nữa, vay trả, trả vay thành một chuỗi oan gia vô cùng tận ».
Sau khi nghe vị Thiền-sư khuyên bảo, như giải được sự đau buồn, nàng liền sửa lại mái tóc, rồi tình cờ khịt mũi mạnh văng ra một con sâu khá lớn.
Thiền-sư cả cười bảo : « Ở đời ít ai có nghĩa hơn bà, ai đời thương chồng mà khóc đến có sâu trong lỗ mũi ».
Nàng thẹn quá, toan lấy chân giậm chết con sâu. Vị Thiền-sư vội vàng khoa tay bảo : « Đừng, bà đừng nên làm thế, vì con sâu ấy là chồng bà vậy ».
Nàng lạ lùng hỏi : « Bạch Thầy, chồng tôi suốt đời niệm Phật, làm phước, tại sao chết lại sanh vào loài sâu bọ như thế ? »
Thiền-sư bảo : « Bà đã quên lời tôi dặn, khi chồng bà chết bà không lo tụng kinh niệm Phật và khuyên bảo chồng bà khởi chính niệm, bà còn đem lại tình ân ái kể lể khóc than, nên chồng bà khi sắp mất, bị lòng thương vợ, nặng tình ân ái mà lảng quên chính niệm. Vì vậy nên thần thức luyến ái không thể vượt lên cao, mà phải chui vào mũi bà thành sâu thành bọ. Than ôi ! Uổng một kẻ tu hành, đã mong thoát kiếp luân hồi lại còn bị ái ân cột chặt. Thật có khác nào con cò muốn cất cánh bay cao để thoát ngoài dò, bẫy ; nhưng khốn nỗi nó còn bị sợi dây vô tình cột chặt vào chân. Thế có tội nghiệp không ? »
Thiền-sư đến gần con sâu khẽ bảo : « Ngươi trước cũng nghe lời ta chăm chỉ tu hành lẽ ra thời đã được công đức lành mà sinh thiên hay vãng sinh Cực-lạc, song vì tình ân ái của vợ chồng ngươi còn sâu thẳm ngàn trùng thành ra khi trút hơi thở cuối cùng mà còn gây nghiệp chướng nặng nề phải thành loài sâu bọ, thật đáng thương thay ! »
Con sâu nằm yên từ nãy giờ, dường như nó cũng tự biết hổ thẹn ăn năn. Thiền-sư chú nguyện cho và nhờ công đức lành đã tạo từ trước, nên con sâu quằn quại một lúc rồi chết, thần thức lại sinh vào cõi người. Người vợ đã tự hối và phát nguyện tu hành niệm Phật, trì chí không thối lui, kết quả bà được vãng sinh. (Thuật giả : Tắc Phước – Truyện cổ Phật giáo, tập 2)
« Tại sao niệm Phật ? »
Thành Thất-la-phiệt có một ông hoàng tánh rất hung bạo. Thêm vào đó, quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội án trước pháp luật. Chưa một lời phải, một đạo giáo nào cảm hóa được ông. Một hôm ông gặp Phật khi Phật du hóa xứ này. Mới thấy, lòng ông bỗng cảm phục như voi dữ trước quản tượng. Ngài có dạy ông vài lời sơ lược : « Hãy tưởng niệm Phật-đà, hãy từ bi thương người, hùng lực cứu người ». Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất, ông liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn trong lòng ông nữa, khi ông toan đánh đuổi người. Bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại, nhưng không bố thí chút gì. Tối hôm đó vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhờ thuật lại, ông nhớ lại rõ ràng hình dung đức Phật và lời Ngài dạy. Đêm hôm ấy ông suy nghĩ mung lung. Ông nghĩ : « Nhớ Phật, phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ ». Rồi trời mới sáng ông liền đi tìm Phật. Giữa đường gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường, ông suy nghĩ, ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền túi ra cho. Người ấy e sợ, cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo : « Vì tưởng như Phật, nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi chịu ơn anh, chớ nào anh có mang ơn gì với tôi ». Người hành khất nghe thế, lấy làm lạ, vì không lạ gì tánh nết của ông và uy danh của đức Phật nữa. Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm : « Nam Mô Phật Đà » (Kính lễ đấng Giác Ngộ). Ông hoàng cũng bất giác niệm theo và đi mau tìm Phật. Khi được gặp Ngài, ông thuật rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong, đức Phật mỉm cười hiền từ bảo : « Phải, Niệm Phật, ông hãy tưởng niệm người nghèo khổ. Tưởng niệm người nghèo khổ là tưởng chư Phật đó ». (Trích báo Viên Âm)
« Một lòng vì đạo »
Cũng một mùa xuân trong sáng đẹp đẽ như hôm nay, nhưng là một mùa Xuân xa xăm lắm, một vị quốc vương có tiếng nhân từ, vui vẻ, ngự giá về các làng mạc thôn xóm, thăm viếng quần chúng và tặng quà tết cho kẻ nghèo. Ngài cùng chung vui với muôn dân. Đó còn là một dịp để nhà vua được tìm hiểu đời sống và tâm tình của dân.
Khi ra đi ngài vui vẻ bao nhiêu, khi trở về ngài lại buồn rầu lo âu bấy nhiêu.
Nhà vua thường khuyến khích mọi người phụng thờ Tam-bảo, thực hành phép ăn chay, làm các việc thiện, hiếu thảo với cha mẹ, thuận hòa với anh em. Ngài tha sưu thuế cho tất cả những ai thực hành theo lời ngài nguyện bảo. Mọi người đều răm rắp làm theo.
Nhưng có ngờ đâu, bề ngoài họ mang một lớp « đạo đức giả » để che đậy bao nhiêu điều xấu xa, hung ác, nham hiểm ở bên trong. Nhờ có cuộc kinh lý trong ngày Xuân hôm ấy ngài mới thấu rõ được lòng người. Từ đó ngài luôn luôn suy nghĩ để tìm một giải pháp cải thiện dân chúng một cách hoàn bị.
Một tuần sau gương mặt ngài trở lại tươi vui như trước. Rồi khắp dân chúng được ban truyền sắc dụ của nhà vua : « Kể từ nay ai còn ăn chay niệm Phật sẽ bị tội xử tử, còn người nào không theo đạo Phật được tự do, an phần chức nghiệp ».
Đương nhiên những kẻ giả tâm đều trở lại hành động như cũ, không còn che đậy một chút gì.
Tuy thế, sáng kia người ta dẫn đến sân triều một cụ già tả tơi yếu đuối, cụ này đã không tuân lệnh nhà vua vẫn quy ngưỡng theo đạo Phật. Cụ nghĩ rằng : « Lâu nay ta nghèo khổ, trọn ngày chỉ có một bữa cơm rau nhưng được quy y Tam-bảo, được nghe giáo lý của chư Phật, lòng ta sung sướng vô cùng. Còn dẫu sống một cuộc đời sung túc trên châu báu ngọc ngà hay có được lên cõi Thiên-đàng hưởng thụ mãi mãi cuộc sống thần tiên đi nữa mà không được nghe đến một câu kinh Phật, đối với ta cũng chỉ là ngục hình ».
Cụ già khẳng khái tâu : « Tâu Bệ hạ, bần dân này đã có tội không tuân lệnh của ngài xin ngài cứ việc chặt đầu ».
Nhà vua phán : « Nếu ngươi biết tự hối và thi hành theo sắc lệnh mới của trẫm, trẫm sẽ tha tội và phong chức tước cho. Còn kẻ làm dân mà không tuân theo quốc pháp, trẫm sẽ xử chém đặng răn kẻ trái phép về sau ».
- Tâu Bệ hạ, nếu bỏ chính pháp mà làm đến bực vua chúa, hưởng thụ tất cả mọi khoái lạc trong cõi Nhân-thiên, bần dân này cũng không ham.
- Ngươi cãi lệnh, ta sẽ truyền đem xử tử ngay tức khắc.
- Tâu Bệ-hạ, trong Kinh phật có dạy : « Nếu chúng sinh tự gieo mình vào ba đường ác thì khó được làm người và có làm người chăng nữa cũng không thể sinh vào nước có đạo đức, không xem được Kinh Phật, không gặp được các cao tăng để cúng dường và nghe pháp ». Nay tôi được biết Tam-bảo, hiểu được chút ít Kinh Phật, vậy có lẽ kiếp trước tôi đã dày công tu luyện lắm. Thế thì dẫu Bệ hạ có bỏ tôi vào nước sôi hay nung vào lửa đi nữa tôi vẫn giữ trọn một niềm theo Tam-bảo mà thôi.
- Ngươi là ai mà còn khí khái với ta. Trước cái chết mà vẫn còn hùng hổ.
- Tôi tên là Thanh-tiến-Sử, tâu Bệ hạ cứ việc xử tội, tôi không bao giờ oán thán hay van xin một điều gì.
- Quân sĩ hãy đem chém ngay ông lão Thanh-tiến-Sử này.
Rất nhanh, các tên lính xáp đến dẫn cụ già ra pháp trường. Đồng thời nhà vua cho một vị quan hầu cận ra xem xét và bảo quân lính đợi lệnh nhà vua truyền lại mới được thi hành.
Trước pháp trường, bên cạnh những lưỡi gươm sáng quắc đang sẵn sàng đưa lên cổ. Thanh-tiến-Sử vẫn thản nhiên vui vẻ và khuyên người con trước khi vĩnh biệt : « Con ơi ! con sanh gặp thời có Phật pháp, biết sùng bái Tam-bảo là một điều phước đức cho con. Con hãy vững dạ tu học, noi gương cha đấy, dẫu đầu cha phải rơi vì sắc lệnh nghiêm ngặt của nhà vua, cha vẫn vui lòng và quyết theo chánh đạo không bao giờ lãng bỏ ». Vừa dứt lời, vị cận thần truyền quân lính dẫn cụ về triều.
Khi vị cận thần về tâu lại lời khuyên con của Thanh-tiến-Sử, nhà vua rất cảm động và vô tình những dòng nước tươm chảy trên đôi má nhăn nheo của vị vua hiền đức. Ngài bước xuống bệ rồng ra tận cửa thành ôm lấy Thanh-tiến-Sử. Mọi người đều ngạc nhiên. Cụ già cũng trố mắt nhìn vua không hiểu chuyện gì. Nhà vua đưa cụ vào cung một cách ân cần vui vẻ, song Thanh-tiến-Sử cũng chưa rõ điều gì nên chỉ biết cúi đầu sát đất lạy tạ ơn vua. Nhà vua liền đỡ lấy tay Thanh-tiến-Sử rồi thân mật bảo : « Trong quốc dân này chỉ có một Thanh-tiến-Sử ! Chỉ có một Thanh-tiến-Sử thuần thành theo Phật-pháp, quyết một lòng vì đạo. Ngoài ra đều giả dối, đều vụ lợi. Chiếu dụ của trẫm ban ra chỉ cốt để thử lòng người mà thôi. Vậy từ nay xin ngươi hãy sống cùng trẫm, giúp trẫm trong việc truyền bá Phật pháp thức tỉnh nhân tâm ». Rồi cả hai trò chuyện vui vẻ. Sau đó nhà vua phong cho Thanh-tiến-Sử chức tướng quốc.
Câu chuyện ấy được truyền tụng trên môi quần chúng lan ra tận các hang cùng ngõ hẻm, và cũng từ đó tiếng chuông cảnh tỉnh ngân vang trong tâm hồn mọi người.
Chẳng bao lâu dân chúng được sống trong cảnh êm ấm, thân yêu, an hòa, vui vẻ, ai ai cũng đều quay về với Đạo Phật. Vị Quốc Vương ấy chính là tiền nhân của Đức Thích-Ca. (Đức-Thương – Trích Truyện cổ Phật giáo, quyển 6)
« Hoa sen trong người »
Mai hôm ấy, kinh thành Xá-vệ rộn rịp trong cảnh phố phường buổi sáng. Trên các đường lớn ngựa xe tấp nập, từng đoàn người qua lại trong những bộ áo màu sặc sỡ. Các cửa hàng đông nghẹt những người mua. Tiếng guốc giày của những người quí phái liên tiếp vang lên tạo thành những âm thanh ồn ào náo nhiệt. Nhưng đi sâu vào các đường hẻm thì những cảnh sống hình như vui tươi giàu mạnh của số đông người trong hai giai cấp Sát-đế-lợi và Bà-la-môn ấy không còn nữa, mà những cảnh bần cùng, đen tối của hai hạng người Tỳ-xá và Chiên-đà-la hiện ra quá rõ rệt : Những chiếc nhà lá thấp lè tè, chật hẹp, đóng cửa từ sáng sớm. Những đứa trẻ đang đùa giỡn, chọc ghẹo nhau trên vệ đường. Những người tàn tật, nghèo khổ lũ lượt đi từ nhà này sang nhà nọ xin nhờ sự bố thí một cách khó khăn…
Như thường lệ, sáng nay đức Thế-Tôn vào thành để giáo hóa. Bình đẳng, không phân biệt nghèo giàu, sang hèn. Ngài đi hết phố này đến xóm khác.
Ni-Đề, một thanh nhiên thuộc giai cấp Chiên-đà-la, giai cấp thấp nhất ở Ấn-Độ, đang gánh một gánh phân chạy lon bon trên con đường xóm, thấy đức Phật, chàng bối rối, sợ sệt vội rẽ qua đường khác và tự than trách : chàng nghĩ rằng mình đã sinh vào nơi thấp kém mà còn phải làm những việc đê hèn như thế này nữa, thật là vô phước quá, đồng là người thì tại sao người ta lại dìm nhau trong cuộc sống. Tuy rẽ qua đường khác nhưng đôi mắt chàng vẫn đăm đăm hướng về hình ảnh nghiêm trang, sáng rực hào quang của đức Phật. Một sự ước ao trào dậy trong lòng chàng : Ôi ! Biết bao giờ ta được trực tiếp gặp đấng sáng suốt kia. Càng nhìn lòng chàng càng cảm mộ. Tuy chưa gặp đức Phật lần nào, song đức hạnh hoàn toàn của Ngài, chàng đã được nghe nhiều người kể lại.
Hiểu tâm niệm Ni-Đề qua những cử chỉ rụt rè và đôi mắt đăm chiêu, đức Phật bước nhanh về phía Ni-Đề. Thấy Phật đến, Ni-Đề hoảng hốt vì tự thấy mình nhớp nhúa không đáng gần Phật, phần sợ người bắt tội nên chàng nhanh chân lẩn tránh.
« Con ôi ! Như-Lai đến với con đây ! Sao con lại tránh ». Đức Phật ở xa nói lại với một giọng trong thanh, êm ái.
Để đôi thùng xuống, run rẩy Ni-Đề quỳ thưa : « Bạch Ngài con không dám… Có điều chi dạy bảo xin Ngài ban cho, xin Ngài đừng đến gần con… »
Đức Phật bước thêm và tiến sát Ni-Đề. Ni-Đề cúi xuống và sắc mặt biến xanh, ra vẻ sợ sệt lắm. Nở một nụ cười chan chứa tình thương đức Phật nói : « Con ơi ! Không ai có quyền bắt tội con đâu, vì chính Như-Lai đến với con, chứ không phải con đến với Như-Lai. Hơn nữa, Như-Lai nay không phải là người trong giai cấp vua chúa như Thái-tử Tất-Đạt-Đa ngày xưa, mà là người của tất cả chúng sanh, nhất là của hạng người đau khổ như con. Như-Lai muốn nói với con một vài câu chuyện… »
Nghe qua những lời nói hiền dịu và có lý của đức Phật, Ni-Đề bớt lo sợ và nhìn đức Phật một cách kính mến, chàng thưa : « Chẳng hay đức Thế-Tôn vẫn đoái hoài với người cùng khổ này sao ? Và con cũng được Như-Lai dạy bảo và được thật hành theo đạo Như-Lai nữa sao ? »
Một cách nghiêm nghị, đức Phật hỏi : « Ai đã làm cho con thắc mắc những điều ấy ? »
- Bạch Thế-Tôn, những đạo sĩ Bà-la-môn thường nói chỉ có giai cấp họ và người trong dòng Sát-đế-lợi mới có quyền thờ kính Hiền thánh và có quyền giao thiệp với những người đồng giai cấp, chứ bọn con thuộc dòng hạ tiện không có phép làm những việc như họ làm và phải trọn đời phục dịch cho họ…
Ni-Đề muốn nói nhiều nữa, song đức Phật ngắt lời và hỏi : « Vậy con không biết Như-Lai ra đời để cứu khổ cho chúng sanh bằng cách phá tan những sự mê tín dị đoan, ỷ lại thần quyền và đưa chúng sanh đến cuộc sống bình đẳng an vui sao. Thôi giờ đây, con có muốn sống một đời sống tươi đẹp và rộng rãi không. Và con muốn sống gần Như-Lai không ? »
Sung sướng đến chảy nước mắt, Ni-Đề đáp : « Đó là điều mà con tưởng không bao giờ thực hiện được nếu được Như-Lai cứu độ thì đó là một phước lành cho con vậy ».
Dịu dàng đức Phật cầm tay Ni-Đề dắt đến bờ sông gần đấy… Tắm rửa xong, Ni-Đề theo đức Phật trở về tịnh xá Kỳ-hoàn được Phật và Giáo-hội thâu nạp cho làm Tỳ-kheo, qua một thời gian tinh tấn tu luyện, vị Tỳ-kheo mới nhập đạo này đắc quả Tu-đà-hoàn rồi lần chứng quả A-la-hán.
Bấy lâu Ba-Tư-Nặc vương bất bình và không hiểu tại sao đức Phật là người của dòng hào thế Thích-Ca mà lại độ đệ tử phần nhiều là những người ở hai giai cấp dưới. Nay lại được nghe đức Phật vừa độ cho Ni-Đề, ông càng bất bình hơn nữa. « Đảnh lễ ai chứ ta không đảnh lễ anh chàng Ni-Đề được… » Ba-Tư-Nặc vương lẩm bẩm như vậy. Càng nghĩ càng tức giận, Ba-Tư-Nặc vương liền cùng với các vị cận thần đi đến tịnh xá Kỳ-hoàn để xin Phật đừng độ cho Ni-Đề làm Tỳ-kheo và từ rày về sau đừng cho những người thuộc cấp hạ tiện (theo quan niệm của ông và những người trong hai giai cấp trên) xuất gia.
Vừa đến tam quan tịnh xá Kỳ-hoàn, thấy một vị Tỳ-kheo đang ngồi trên một hòn đá lớn khâu vá chiếc áo cũ, Ba-Tư-Nặc vương liền đến nhờ vị Tỳ-kheo ấy vào bạch Phật xin cho ông yết kiến.
Nhận lời, vị Tỳ-kheo liền xuyên qua hòn đá và ẩn mình đâu mất, làm cho Ba-Tư-Nặc vương và các cận thần hoảng sợ nhưng vô cùng khâm phục !
Một lát sau, cũng từ hòn đá ấy hiện ra, vị Tỳ-kheo khi nãy trả lời cho Ba-Tư-Nặc vương : « Đại vương cứ vào, đức Thế-Tôn đã hứa cho ». Ba-Tư-Nặc vương bái chào rồi đi ngay vào tịnh xá.
Đảnh lễ đức Phật xong, Ba-Tư-Nặc vương liền hỏi : « Bạch Thế-Tôn ! Thầy Tỳ-kheo vừa xin cho con vào yết kiến là ai và tên gì mà có thần thông quảng đại như vậy. Thầy đã xuyên qua đá cứng một cách nhẹ nhàng tự tại… »
- Đại-vương ! Ấy là Ni-Đề, người gánh phân ở thành Xá-Vệ mà ta đã độ cách đây hơn một tháng, nay đã chứng A-la-hán nên có những thần lực như vậy.
Thấy Ba-Tư-Nặc vương im lặng và ra chiều suy nghĩ. Đức Phật ôn tồn nói thêm : « Nầy đại vương ! Trong đất bùn nhơ nhớp nở lên những cánh sen đầy hương thơm tinh khiết. Đại vương có thích và có ưa hái không ? »
- Bạch Thế-Tôn ! nếu là hoa đẹp hương thơm thì không ai không quý và không muốn hái để ngắm nghía trang hoàng cả.
- Đại vương ! Cũng vậy tuy là người ở trong các giai cấp dưới (ấy là do con người phân chia), nhưng nhờ sự trao giồi đức hạnh, rèn luyện trí tuệ mà trở thành Thánh Hiền thì người trí tuệ có nên cung kính cúng dường không ?
- Bạch Thế-Tôn ! đã là Thánh Hiền thì rất đáng cho phàm phu chúng con cung kính cúng dường lắm !
- Lành thay ! Đại vương quả là người sáng suốt biết quý trọng « giá trị chân thật » của con người.
Mặt trời làm tan mây mù ra sao thì những lời của đức Phật cũng làm tan những ý niệm khinh dể chán ghét Ni-Đề và các người trong hai giai cấp dưới của Ba-Tư-Nặc vương thế ấy… Bắt đầu từ đó ông vô cùng kính phục tài năng và đức hạnh của Ni-Đề, vị Tỳ-kheo mà ông đã gặp ở Tam-quan.
Ba-Tư-Nặc vương lại xin Phật cho thỉnh A-la-hán Ni-Đề ngày mai vào nội thành để giáo hóa cho Hoàng-tộc và nhân dân và cũng để ông cúng dường luôn thể. Phật hứa cho, Ba-Tư-Nặc và các vị cận thần đảnh lễ và trở ra tam quan để trực tiếp cung thỉnh vị A-la-hán thần thông tự tại khi nãy.
Được vị A-la-hán này chấp nhận, Ba-Tư-Nặc vương vô cùng sung sướng. Trên đường về ông không ngớt tán thán đức Phật, đấng hiện thân của bình đẳng và Giáo-hội của Ngài là một đoàn thể đầy đủ tài năng và đức độ. (Thiện-Chân – Trích Truyện cổ Phật giáo, quyển 6)
« Công chúa Nhật-Quang »
Công chúa Nhật-Quang là con hai của vua Ba-Tư-Nặc nước Xá-vệ. Công chúa rất đẹp, một vẻ đẹp thùy mị hơn hẳn các thiếu nữ đương thời ở nước Xá-vệ ; công chúa lại rất thông minh, học đâu nhớ đấy. Không những công chúa sắc sảo về môn nữ công mà còn tinh thông các triết lý học thuật ; đức hạnh công chúa cũng quán chúng, tuy sanh trong giai cấp vua chúa cao sang, nhưng vẫn giữ thái độ khiêm tốn nhã nhặn, nhất là đối với hạng nghèo khổ tật nguyền, công chúa thành thật yêu mến và luôn luôn tìm cách giúp đỡ. Vì thế nên công chúa được rất nhiều người mến trọng. Người nào đã hân hạnh gặp công chúa một lần, họ sẽ nhớ mãi nụ cười hiền hòa và lời nói thanh tao của công chúa. Đối với cha mẹ, công chúa thật là người con hiếu hạnh, nàng hầu hạ vua và hoàng hậu hết sức chu đáo, và không bao giờ nói một lời hay làm một việc trái ý vua và hoàng hậu.
Ba-Tư-Nặc vương được một người con xứng đáng như vậy, vua rất cưng quý, có thể nói công chúa Nhật-Quang là viên ngọc vô giá của vua nước Xá-vệ. Những cuộc quan sơn ngoạn thủy của vua, công chúa đều được tham dự, mỗi khi quốc sự rảnh rang, nhà vua thường đòi công chúa đến hầu chuyện, hỏi những vấn đề thắc mắc công chúa đều trả lời trôi chảy, nhà vua rất đẹp dạ.
Một buổi chiều nhà vua đang dùng trà tại vườn ngự uyển, có công chúa đứng bên cạnh, nhà vua nhìn con rồi vui miệng phán rằng : « Khắp nước Xá-vệ này không ai được sung sướng bằng con, đời con được như thế thật là hoàn toàn nhờ sức của cha mẹ tác thành vậy ».
Công chúa Nhật-Quang thành thật trả lời : « Tâu phụ vương, công ơn sanh dưỡng của Phụ-hoàng và Mẫu-hậu như trời bể, con không hề dám quên. Nhưng đời con được hạnh phúc như thế này, con thiết tưởng cũng ảnh hưởng của cha mẹ một phần nào, nhưng phần lớn nhờ kiếp trước con đã tu thân tích đức nhiều vậy ».
Câu nói của công chúa không ngờ đã chạm lòng tự ái của vua Ba-Tư-Nặc quá mạnh, vua liền đứng dậy lặng lẽ trở vào cung.
Đêm hôm ấy, nhà vua không hề chợp mắt, suy nghĩ mãi lời nói của công chúa, và nhà vua rất bực tức, đứa con yêu quý và ngoan ngoãn của mình chưa bao giờ trái ý mình dù là một cử chỉ nhỏ nhặt, hôm nay lại xúc phạm đến lòng từ ái của mình, có thể nói là không thừa nhận một lý thuyết (nghĩa là hạnh phúc của con hoàn toàn do cha mẹ tác thành) mà ông cho là muôn đời bất biến và ai cũng phải công nhận.
Muốn bảo thủ thành kiến của mình, nên mới sáng tinh sương, Ba-Tư-Nặc vương liền đòi viên cận thần thân tín bảo rằng : ta cần một thanh niên trạc tuổi công chúa Nhật-Quang mà hiện đang sống trong một cảnh nghèo hèn, cơm không có ăn, áo không đủ mặc, ngươi phải tìm cho ra một người có đủ điều kiện ấy, dẫn về đây cho ta.
Ba ngày sau, viên cận thần dẫn về một thanh niên hành khất, mặt mũi khôi ngô, nhưng trong người chỉ mặc vỏn vẹn một chiếc khố rách đến yết kiến vua Ba-Tư-Nặc. Vua rất mừng ban thưởng viên cận thần xong, quay lại hỏi thân thế thanh niên hành khất rồi bảo rằng : Ta thấy ngươi nghèo khổ, chưa có gia thất, nay ta đem Nhật-Quang công chúa gả cho ngươi, ngươi được quyền dẫn công chúa đi đâu tùy ngươi. Thanh niên nghèo khổ kia không biết trả lời ra sao chỉ cúi đầu vâng lệnh.
Vua lại kêu công chúa Nhật-Quang đến phán rằng : « Hôm kia con đã nói : « Hạnh phúc của con hiện tại phần lớn là do con đã tu nhân tích đức ngày trước ». Nay ta muốn thí nghiệm lời ấy, nên ta đã gả con cho một thanh niên hành khất, nếu con có phước báo thì con cũng trở nên giàu có sung sướng. Con hãy sửa soạn ngày mai lên đường với chồng con, khi nào có chiếu chỉ mới được trở về cung ».
Với nét mặt đầy nghiêm nghị của Ba-Tư-Nặc vương, công chúa không dám nói gì, chỉ yên lặng trở vào hậu cung.
Sáng ngày công chúa vào lạy cha mẹ, từ biệt mọi người, rồi bình tĩnh ra đi với thanh niên hành khất.
Hoàng hậu và thần dân đều thương xót và khóc lóc, lo ngại cho số phận công chúa, nhưng ý vua đã quyết nào ai còn dám mở lời khuyên can !
Ra khỏi hoàng cung, công chúa hỏi thanh niên hành khất rằng : « Cha mẹ chàng đâu ? nhà cửa chàng đâu ? vì sao chàng lại nghèo khổ đến thế ? »
Thanh niên buồn rầu đáp : « Gia đình tôi trước cũng giàu có, vì được cha mẹ cưng quý, tôi tiêu xài hoang phí, ham chơi bời với chúng bạn, có học tập nhưng không đậu đạt gì, đến khi cha mẹ qua đời, tôi bán hết ruộng đất nhà cửa, hiện nay chỉ còn một sở vườn cách đây ba trăm dặm, cỏ lác mọc đầy, cho người ta mướn, họ không mướn, bán họ không thèm mua, hết của cải, không nghề nghiệp, không biết làm gì nuôi thân, nên phải hành khất độ nhựt. Hôm kia tôi đang lang thang giữa đường, thì gặp một vị quan của vua, ông ta hỏi cặn kẽ về gia thế tôi, rồi ông dẫn tôi yết kiến nhà vua, không biết vì sao nhà vua lại đem công chúa gả cho một kẻ nghèo hèn như tôi ? »
Vẫn nét mặt ôn hòa, công chúa nói với thanh niên hành khất rằng : « Dù sao từ nay chúng ta cũng đã là vợ chồng, chúng ta phải tìm phương kế làm ăn và trước hết phải tìm nơi tạm trú ».
Không biết tìm chỗ nào khác, nên công chúa và thanh niên hành khất liền dẫn nhau đến sở vườn của cha mẹ thanh niên để lại. Thật là một mảnh vườn hoang phế, cỏ lác um tùm, sỏi đá lởm chởm. Hai người bàn định cắt cỏ đốn tre che một chòi nhỏ vừa tạm ở, những người chung quanh đấy có người biết công chúa Nhật-Quang nên cùng nhau đến giúp đỡ công việc cho công chúa. Đến khi đào đất để dựng cột nhà, vừa đào được vài lát đất thì gặp ngay ba cái chum lớn niêm khằn cẩn thận. Công chúa liền mở chum ra thì thấy trong ba cái chum ấy, vô số là vàng bạc châu báu, công chúa vui mừng sung sướng, đem bán bớt một số châu báu, rồi mướn người dọn dẹp cỏ rác, trồng tỉa hoa quả, tạo lập lâu đài… Vốn sẵn tính hiền lành lại sẵn lòng thương yêu giúp đỡ mọi người, nên thợ thuyền tôi tớ rất trung thành tận tụy, không bao lâu đám vườn hoang phế kia biến thành một vườn hoa trăm sắc muôn màu, lâu đài trang hoàng lộng lẫy, người vô kẻ ra tấp nập không khác dinh thự của bậc đế vương.
Từ khi công chúa rời khỏi cung điện, vua Ba-Tư-Nặc sinh lòng hối hận đêm ngày trông nhớ, nhà vua đinh ninh rằng : Công chúa lâu nay chắc gặp nhiều khổ sở và định đón công chúa trở về cung để an hưởng cảnh đoàn viên phú quý. Nhà vua liền phái một số cận thần tìm nơi công chúa ở và dò xem đời sống của công chúa ra sao ?
Sau một thời gian dò xét, các cận thần về tâu với nhà vua : « Công chúa ở cách xa cung điện nhà vua chừng ba trăm dặm và hiện đang ở trong cảnh phong lưu sung sướng giàu có ức triệu ». Vua Ba-Tư-nặc không tin, liền đến nơi dò xét quá đúng như lời các cận thần. Nhà vua nói với các tả hữu rằng : « Trẫm thấy đời sống của vợ chồng công chúa Nhật-Quang hiện tại, tuy trẫm làm vua một nước, thật cũng không sung sướng bằng ».
Nhưng vua cũng băn khoăn thắc mắc không biết tiền kiếp công chúa đã tu những nhân lành gì mà nay được nhiều phước báo như vậy.
Vốn nghe Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni là bậc đại giác nên vua thân hành đến tịnh xá Phật thuyết pháp, cung kính bạch rằng : Bạch Thế-Tôn ! nghe danh ngài là bậc đại giác chúng Nhất-thế-trí, hiểu thấu việc trong ba đời, nay đệ tử có điều nghi xin ngài chỉ dạy : « Nhật-Quang công chúa thứ hai của đệ tử, không biết đời trước tạo nhân lành gì, mà ngày nay tướng mạo đẹp đẽ, thông minh xuất chúng, giàu có sang trọng… Đệ tử đã thử gả cho một kẻ hành khất nghèo hèn thế mà công chúa cũng đào được vàng bạc rồi trở nên sang trọng hơn người ».
Đức Phật Thích-Ca nở nụ cười từ hòa muôn thuở, thong thả dạy rằng :
« Nghi vấn Đại-vương sẽ tiêu tan sau khi nghe câu chuyện này :
« Nầy Đại-vương ! Xưa kia khi Đức Phật Ca Diếp ra đời, có hai vợ chồng người lái buôn giàu có, người vợ rất tôn kính Tam Bảo, thường khuyến khích mọi người bỏ việc ác làm việc lành, qui y Tam-Bảo, lại hay làm các việc bố thí cúng dường, nhất là đối với kẻ tàn tật, nàng hết sức thương mến và tận tâm săn sóc. Người chồng lại có tánh bỏn sẻn, mỗi khi thấy vợ làm việc cúng dường bố thí, thì tỏ ra thái độ bất bằng, tìm cách ngăn cản. Một hôm gặp ngày Nguyên-đán, người vợ thành tâm sắm sửa lễ vật để cúng dường Tam-Bảo và bố thí kẻ nghèo trong ba ngày, người chồng thấy vậy bực tức nói rằng : « Hãy để lại tiền của mà sắm sửa thêm nhà cửa ruộng đất, chứ những việc ấy thêm hao tốn, phỏng có ích gì ! » Người vợ dịu dàng trả lời : « Của cải là vật vô thường, ta không bỏ nó, rồi nó sẽ bỏ ta, hơn nữa những kẻ nghèo khổ hiện tại, theo trong kinh Phật dạy, đều do đời trước tham lam ích kỷ, không biết dùng tiền của làm các việc phước thiện ; ngày nay đời sống của vợ chồng chúng ta, tạm gọi là khá giả, chúng ta nên dùng một số tiền làm các việc phước thiện để bảo tồn hạnh phúc tương lai cho chúng ta và cũng gọi là góp một phần trong công việc nghĩa chung vậy ». Nghe mấy lời giải thích của vợ, người lái buôn mới tỉnh ngộ và cảm động, từ đó anh không ngăn cản vợ mà lại rất hăng hái trong việc làm phước đức…
« Nầy Đại vương ! vợ người lái buôn xưa kia chính là công chúa Nhật-Quang ngày nay, đời trước nàng thường khuyến khích mọi người bỏ ác làm lành, qui y tam bảo, nên nay được quả báo thông minh xuất chúng ; đời trước sốt sắng cúng dường bố thí, nên nay được quả báo sung sướng giàu sang, nhiều người mến phục ; đời trước tận tâm săn sóc giúp đỡ kẻ tàn tật, ngày nay được quả báo nhan sắc đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang.
« Người lái buôn xưa kia chính là chồng công chúa hiện tại, ngày trước lúc chưa tỉnh ngộ, anh ta đã bỏn sẻn hay ngăn cản việc làm phước thiện của vợ, nên ngày nay phải chịu đói rách một thời ».
Vua Ba-Tư-Nặc nghe Phật kể rõ tiền kiếp của công chúa Nhật-Quang, nhà vua mới tỉnh ngộ, và rất thâm cảnh đạo lý nhân quả tội phước của Phật. Rồi vua cúi đầu đảnh lễ đức Phật ra về.
Về đến cung, công việc đầu tiên của nhà vua là cho người đón rước vợ chồng công chúa Nhật-Quang về. Gặp công chúa, vua Ba-Tư-Nặc khôn xiết vui mừng, vua không quên nói nhiều lời hối hận, với công chúa Nhật-Quang cũng rất sung sướng được gần gũi phụng sự cha mẹ, và giúp vua cha trong việc trau giồi đạo đức, bảo quốc an dân. Thanh niên hành khất chồng công chúa, cũng được vua phong cho một chức quan cao cấp trong triều đình. (Quảng-Tiến – Trích Truyện cổ Phật-giáo, quyển 6).
Những mẩu chuyện chúng tôi vừa trích dẫn trên đây chứng tỏ căn bản suy tư của Phật học tiến triển theo thời gian, mặc dù về tính chất đạo lý chúng ta cảm thấy như không thay đổi.
Tuy nhiên, từ chỗ dứt bỏ dục vọng cá nhân, phủ nhận mọi tác động của cá tính trong lẽ sống đến chỗ đem suy tư kết thành ý thức tranh đấu để bảo vệ quan niệm đạo lý, Phật học còn tiến xa hơn nữa trên yếu tố tăng trưởng của thời gian.
Cho đến nay, chúng ta không còn thấy Phật học đứng trong trạng thái « tự giác và giác tha » theo nguyên lý cổ điển nữa, mà đã đem ý thức tự giác và giác tha đặt vào vòng đấu tranh xã hội. Muốn tự giác, người Phật tử cần tranh đấu với bản thân đã đành, mà còn phải tranh đấu với xã hội. Muốn giác tha, người Phật tử không những đem lý thuyết Phật học truyền bá mà còn phải tranh đấu với mọi hình thức tổ chức xã hội tác hại vào hệ thống triết học của nhà Phật nữa.
Hiện tượng thay đổi về cảm nghĩ con người trong giáo lý nhà Phật chúng ta thấy bộc lộ rõ rệt nhất trong xã hội Việt-nam, nơi mà trạng thái biến động của thời gian, không gian khơi nguồn một cách đột ngột nhất.
Để chứng minh điều đó, chúng tôi lại xin trích dẫn ở đây một ít quan niệm mới.
Trong quyển Xây dựng nhân sinh quan Phật giáo do Vạn Hạnh xuất bản vào năm 1969, ông Thái-đạo-Thành, tác giả tập sách khảo luận ấy đã viết ở lời mở đầu : « Đạo Phật, một vấn đề đang làm sôi động miền Nam từ địa hạt tôn giáo, đến nhân sinh và chính trị. Vấn đề được đặt ra là sau khi hiệp định Genève chia cắt nước Việt-nam ra làm hai miền Quốc, Cộng. Rồi tiếp theo là việc ông Ngô-đình-Diệm về nắm chính quyền có phần chênh lệch về Ki-tô-giáo. Nên các vị tăng sĩ Phật giáo đã tích cực chuẩn bị việc bảo vệ giáo lý của mình bằng việc in kinh, giảng đạo, xây chùa để chờ ngày đối phó… »
Ngay ở tựa đề quyển sách, chúng ta đã thấy rõ quan niệm Phật học diễn biến theo thời gian tính rồi. Dù căn bản Phật học được duy trì, nhưng quan niệm giáo lý không thể đứng yên một chỗ trong quá trình tiến triển của thời gian.
Trước nhất, chúng ta tự hỏi tại sao người tín đồ Phật giáo đến ngày nay lại phải « xây dựng một nhân sinh quan » cho Phật giáo ? Chẳng lẽ triết thuyết nhà Phật trải mấy ngàn năm lại không tự nó xác định một nhân sinh quan sao ?
Chúng ta phải thành thực mà nói, cho đến ngày nay, chẳng những riêng ông Thái-đạo-Thành tác giả quyển Xây dựng nhân sinh quan Phật giáo muốn đặt lại ý thức tu hành, mà còn nhiều tín đồ Phật học cũng chủ trương như vậy.
Hiện tượng này chứng minh suy tư con người không có tính chất cố định. Đã không cố định, dĩ nhiên không một suy tư nào mang một giá trị vĩnh cửu được. Cho nên, vũ trụ quan của người xưa không là vũ trụ quan của thế hệ chúng ta ngày nay. Mọi suy tư chỉ có giá trị từng thời điểm, do đó, dù một tôn giáo, một triết thuyết, khi màu thời gian đã đổi khác thì ý thức tôn giáo, hoặc quan niệm triết học ấy cũng đổi mới theo thời điểm hiện hữu.
Lịch sử diễn biến của Phật học khi tác động vào lịch sử xã hội loài người vì thế mà có những đổi thay về quan niệm tu hành.
Tính chất đổi thay ấy từ chỗ lánh tục đến chỗ giác ngộ thế tục một cách khách quan, rồi đi dần đến chỗ đấu tranh với thế tục bằng ý thức chủ quan như ngày nay.
Chỉ một đoạn văn mở đầu trong quyển Xây dựng nhân sinh quan Phật giáo, chúng ta đã thấy ông Thái-đạo-Thành đem nhân sinh quan của nhà Phật gắn liền với trạng thái biến chuyển về chính trị trong lịch sử xã hội loài người, mà trước kia, người Phật tử khi dấn thân vào đạo không thể suy tư như vậy.
Ở đoạn đầu, trong mục Minh định Phật, ông Thái-đạo-Thành viết : « Danh từ Phật có từ khi đức Phật ra đời cách đây trên hai nghìn năm trăm năm, và truyền vào đất Việt từ thế kỷ thứ hai Dương-lịch, thịnh hành nhất trong lịch sử Việt vào thế kỷ thứ XI. Người Việt đa số theo Phật giáo. Tiếc rằng từ khi người Pháp cai trị nước Việt với chủ trương kỳ thị tôn giáo bản xứ, nên đã gạt bỏ ảnh hưởng Phật giáo ra khỏi chính quyền, cũng như tìm cách khu định Phật giáo trong phạm vi tôn giáo ở đáy tần xã hội mà thôi. Vì vậy ngày nay mỗi người lại hiểu đạo Phật theo một khía cạnh riêng… Cho nên, muốn xây dựng một nhân sinh quan cho đúng nghĩa của đạo Phật trong giai đoạn lịch sử hiện đại, việc trước tiên là phải định nghĩa rõ danh từ Phật, rồi từ đó mới có thể phân chia hai ngả Đạo và Đời. Để sau cùng người Phật tử có thể ý thức rõ bổn phận của mình trước cửa ngõ thời đại. Vì Phật tử khác với các bậc tu hành là phải xây dựng đời sống của mình sao cho có bát cơm đầy, manh áo ấm, đời sống vui, bước tiến hóa, chứ chúng sinh không thể thoát ly xã hội theo ngả Đạo được ».
Ở đây không phải chỗ để chúng ta tán đồng hay không tán đồng một quan điểm, mà chúng ta chỉ nói lên tính chất diễn biến của suy tư trên dòng lịch sử thời đại. Dù sao, với những ý tưởng trên, không ai có thể phủ nhận tính chất biến đổi của tâm tư, khi màu thời gian đã theo trạng thái xã hội đổi thay.
Một đoạn khác, cũng trong quyển Xây dựng nhân sinh quan Phật giáo, ông Thái-đạo-Thành minh định tư tưởng bình đẳng và tự do của đức Phật. Ông viết : « Giác ngộ như thế nào ? Hãy giác ngộ nguyên tắc « nhất nhất chúng sinh đều bình đẳng và tự cứu mình » như lời Phật đã dạy. Vì có thực hiện được chủ trương bình đẳng và tự do trong xã hội loài người thì mới chấm dứt được chiến tranh cứ hằng kéo dài suốt trong thế giới, suốt dọc lịch sử loài người. Với chủ trương đó, chúng ta hy vọng rằng nhân loại sẽ không đi tới chỗ tận thế bởi bom nguyên tử, và nhân loại cũng sẽ không còn điên khùng mang tài sản, sinh mạng ra hy sinh một cách vô ích mãi mãi nữa. Chúng ta cũng không còn bi quan yếm thế coi đời là bể khổ và không tài nào tạo lại được luân hồi, bình trị được âm dương, khiến nhân loại cứ kéo dài hết chiến tranh này tới chiến tranh khác nữa ».
Ở đây, chúng ta lại thấy một diễn biến khác nữa về suy tư. Nếu tự nghìn xưa Phật học chủ trương tách rời khỏi cái vòng luân hồi bằng tự giác cá nhân, thì ngày nay, suy tư con người lại dẫn đến ý thức tích cực hơn, tức là không còn đặt vấn đề tự giác cá nhân nữa mà nhảy vào cái vòng luân hồi để sửa đổi trạng thái biến động của nó. Mà như thế cũng có nghĩa là dấn thân vào con đường tranh đấu xã hội.
Cho nên, ở phần VII, trong Xây dựng nhân sinh quan Phật giáo, ông Thái-đạo-Thành viết : « Người ta thường nói : « Tranh đấu để bảo vệ sự sống » nhưng nếu ta quan niệm rằng « sống tức là tranh đấu » thì con người bất cứ ở thời đại nào, ở hoàn cảnh nào cũng phải tranh đấu hết. Vì con người nào không tranh đấu tức là con người đó đã chết, tổ chức nào không tranh đấu, tổ chức đó không thể tồn tại được. Có điều phương pháp tranh đấu của mỗi cá nhân hay đoàn thể thường khác biệt nhau do hoàn cảnh, kỹ thuật và phương châm chỉ đạo mà thôi. Cho nên không chỉ những người mang danh chiến sĩ ngoài tiền tuyến mới là tranh đấu, còn những người ở hậu tuyến hay tu sĩ ở chùa đều không làm nghĩa vụ của một chiến sĩ… »
Trạng thái tâm tư gắn liền với biến động thời gian, cho nên dù chúng ta có duy trì một tư tưởng thời xưa, thì tư tưởng ấy cũng không thể giữ được nguyên trạng nữa.
Đây, chúng tôi xin trích dẫn một ít sự đổi thay về tâm tư, mà những mẩu chuyện này chính là những ý thức phát nguồn từ căn bản Phật học cấu tạo qua trạng thái biến động của thời gian, không gian, nó không còn thuần túy đối với quan niệm xa xưa nữa, nhưng nếu chúng ta bảo rằng những suy tư này đã diễn biến sai lạc, hay phản lại tính chất nguyên thủy thì cũng không đúng.
Nó không phải sai lạc, bởi lẽ, thời gian không cho phép một suy tư nào cố định thì ý tưởng xa xưa làm sao tồn tại mãi. Nó cũng không phản lại tính chất nguyên thủy, bởi vì nguyên thủy và đương thời là hai thời điểm khác nhau. Mỗi thời điểm mang một màu sắc riêng biệt.
Đây, chúng ta thử đứng trước một luồng gió mới của thế kỷ hai mươi, mà tâm tư của lớp người này đang lắc lư như những cánh hoa trong khu vườn trống trải, trước cơn gió loạn điên cuồng :
« Thử hòa điệu sống »
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại khi bắt gặp trên đường, những nét nhăn mà móng vút của cuộc sống đã cày trên trán ai như trán em bây giờ. Những đường tươm máu, gai đời rạch nát trên đôi tay, bởi cái gì cũng muốn nắm bắt. Những nét trầy, những chấm rỗ, đá sỏi trên đường đã đâm thủng đôi chân, bởi chỗ nào cũng muốn giẫm lên.
Vì sao em đày đọa tâm hồn. Giày vò xác thịt, tự hiến dâng mình như một lễ trầm hương, cho lò thí nghiệm lớn, anh đã biết, nên không trách móc mà chỉ xót thương em. Vào độ tuổi em, em cũng đã từng quằn quại với bao câu hỏi luôn luôn quay cuồng trong đầu óc nóng ran, đã từng phân vân, uất ức giữa bao thái độ trái ngược của sự sống mà vẫn không tìm ra được một ý nghĩa thích đáng cho cuộc đời…
… Trong lúc tuổi hai mươi mở rộng cửa ra trước cuộc đời mới lạ, bao nhiêu câu hỏi gắt gao, tới tấp dồn dập đến, xâm chiếm tâm hồn anh. Không thầy, không bạn, anh đã lần hồi tự tìm lấy những lời giải đáp, nhờ một ít giáo dục, một ít kinh nghiệm và ảnh hưởng của Phật giáo… (Trích trong quyển Thử hòa điệu sống trang 9-10 của Võ đình Cường, tái bản kỳ 6-1967)
Dĩ nhiên, với dung lượng thời gian, và tính chất biến động của vạn hữu, chúng ta không còn tìm thấy ở thế hệ chúng ta những tâm tư gần gũi với các truyện cổ tích xa vời mà các tín đồ Phật học đã sáng tạo trong lòng thời gian của họ nữa.
Nhưng, đó chỉ mới là một trong muôn ngàn những đổi thay mới lạ, chúng ta lại còn tìm gặp trong…
« Nghĩa thời gian »
Hoạt động tạo ra những thời gian và sự nghiệp. Ôi muôn vạn cảnh tượng huy hoàng – cảnh tượng huy hoàng của những làn sóng dậy – đã dàn bày trên mặt nước, ai ngờ chỉ nhờ một sức chuyển lay.
Tết đến, sực nhớ thời gian qua, em bỗng động lòng nghĩ đến sự nghiệp mà buồn chăng. Nhưng thời gian là gì, tưởng cũng cần nghĩa thật của nó.
Thời gian chỉ là sự chuyển động. Không chuyển động, không thời gian. Mỗi vật tùy theo thể chất của nó, có một sự chuyển động, một đời sống, một thời gian riêng, thời gian của trăng, của sao, của mặt trời ; thời gian của vi trùng, của tế bào, của phù du. Chỉ có từng thời gian riêng. Không có thời gian chung cho cả vạn vật.
Nhưng muốn tiện lợi, người đời đã đồng nhau đặt ra một thứ thời gian, lấy mặt trăng hay mặt trời làm tiêu chuẩn. Thời gian xưa ấy là sự rút ngắn và duỗi dài ra, dưới ánh mặt trời của bóng chiếc que cắm giữa sân, hay sự chìm dần của một cái hồ đồng ngập nước. Thời gian nay là sự quay tròn của hai chiếc kim đồng hồ. Bỏ những vật ấy đi, có nhiều người sẽ mù mờ trước hai chữ thời gian.
- Nhưng còn mặt trời đó và mặt trăng kia làm sao không nhận ra được nghĩa thời gian trong ấy.
- Ừ thì có mặt trời và mặt trăng thật đấy. Nhưng quay đi quay lại rút cuộc cũng chỉ có hai bề trắng đen : sáng và tối, đêm và ngày ! Mọc và lặn, cái cử chỉ lặp đi lặp lại ấy của mặt trời từ muôn vạn đời với một ngày, nào có khác gì nhau.
- Vâng, em hiểu lắm, thời gian của một ngày này không khác một ngày kia, nhưng sau ba tháng, chúng ta lại nghe đổi một cảm giác. Bốn mùa còn đấy, chúng ta còn cảm thấy ấm rồi nực, mát rồi lạnh…
- Rồi sao nữa. Hay lại trở về bốn cảm giác trước. Bốn mùa qua rồi bốn mùa lại. Trên đường thời gian chúng ta đi tới hay đi lui, trở về sau hay tiến tới trước. Ở đây thật ra, tới hay lui, sau hay trước cũng đồng một nghĩa như nhau, không làm sao phân biệt được. Tới là lui, đi là về. Hai đầu : trước và sau cùng nhau giáp mối thành một vòng tròn mà hai chiếc kim đồng hồ là tượng trưng. Phút trước qua rồi phút sau lộn lại. Để nhận rõ sự vô nghĩa của thời gian trừu tượng kia, em hãy lắng nghe cuộc cãi vã bất diệt của hai tiếng « tíc tắc ». Tiếng tíc bảo : « Tôi là hiện tại, nhưng cũng là dĩ vãng đây rồi ; tiếng tắc sau tôi mới thật là tương lai ». Dĩ vãng, tương lai ; tương lai, dĩ vãng tráo trở trong hai tiếng tíc tắc ! Tóm lại, cái kim nhỏ chạy đủ một vòng trên mười hai khoảng của mặt đồng hồ, mặt trời chìm xuống phương tây và nổi dậy ở phương đông ; ba mươi hay ba mươi mốt tờ lịch rơi vào giỏ rác, chìa bàn tay ra lãnh những đồng bạc đỏ xanh sau một tháng làm việc ; bốn lần thay đổi y phục cho hợp bốn thời tiết (ở những xứ ôn đới) ; móc vào chiếc đinh cũ một quyển lịch mới ; vài tràng pháo tan vỡ ở một vài nơi mừng Tết… Bao nhiêu hình dáng, cử chỉ ấy đã chưng bày rõ rệt lên một thời gian trừu tượng chung cho loài người giữa sự chuyển biến vô cùng vô tận của một không gian vô thủy vô chung.
Nhưng cái thời gian chung mà nhân loại đặt ra ấy, thật không có tánh cách gì chung cho ai cả. Có người siêng năng lấy ngày thâm vào đêm để làm việc ; có người lười nhác lấy đêm thâm vào ngày để ngủ. Có người già mà chưa một lần đã trẻ ; có kẻ trẻ mãi cho đến lúc đậy quan tài. Như thế đấy ! Chỉ có thời gian thiết thực riêng của từng người theo từng tâm trạng, trong từng hoàn cảnh. Một phút đợi chờ dài hơn một giờ hạnh ngộ. Một ngày vui qua nhanh như tiếng pháo nổ. Một phút đau khổ dài tợ một thế giới đứng yên. Khi sung sướng, khi bận rộn là thời gian vụt bay theo cánh chim đại bàng. Để cho Lamartine sống 100 năm trên mặt hồ Leman bên cạnh Elvire, nhà thi hào ấy cũng cứ cầu khẩn : « Ôi thời gian ! hãy dừng cánh lại. Giờ ngọc vàng, xin hãy khoan bay ». Cho nên không có thời gian chung cho cả vạn vật. Cũng không có thời gian chung cho cả nhân loại. Chỉ có thời gian riêng của từng tâm trạng.
Chỉ có thời gian riêng của từng tâm trạng. Thế mà sao em lại giật mình khi thấy năm qua. Cử chỉ ngạc nhiên và kinh hãi ấy là thật quá nông nổi ! Sợ mau già chăng ? Làm già, ít bởi tháng năm, nhưng rất nhiều là bởi dục vọng. Bao nhiêu người đã già trước tuổi. Thân hình măng non của họ đã ê chề, lụn bại bởi đã làm tay sai cho bao nhiêu đòi hỏi của dục vọng. Làm như vậy rồi trách thời gian đã sớm đem họ xuống mồ, có ai bất công hơn thế nữa ?
Chỉ có thời gian riêng của từng tâm trạng. Thế mà sao em lại sớm khóc đời em khi thấy năm qua. Vì sợ đến ngày trên ba mươi tuổi mà chưa làm nên sự nghiệp ? Làm như ba mươi tuổi đã già lắm rồi ! và đoạn đời trên ba mươi là không đáng kể nữa. Công lệ của người đặt ra, năm tháng đã trở thành một mãnh lực có thể ràng buộc người ta đến thế sao ? Ba mươi tuổi, bốn mươi tuổi ! những danh từ trống rỗng ấy đã có một bí thuật ghê gớm làm bủn rủn tay chân người ta đến thế sao ? Thành kiến, thành kiến tất cả ! Thật ra không có một thời hạn nào nhất định, đến đó người ta phải bó tay thôi đeo đuổi sự nghiệp.
Chỉ có thời gian riêng của từng tâm trạng thôi, em ạ ! Thế mà sao em lại sợ đời em quá ngắn. Sống một trăm năm chưa chắc là nhiều ; sống một ngày chưa chắc là ít. Chớ đem năm tháng mà tính sổ đời mình. Một trăm năm của người lười nhác không bằng một tháng của kẻ siêng năng. Sống làm chi cho nhiều để chỉ quẩn quanh trong chừng ấy dáng điệu : ăn ngủ, ngủ ăn ? Và để một hôm trước khi ngủ thẳng, mới giật mình kinh hãi vì nhìn lại sau mình, thấy một khoảng thời gian trống rỗng, trong ấy mình đã sống chẳng chút đổi thay ? Dấu tích quá nghèo nàn, họ có cảm tưởng như đời mình đã phớt qua như một bóng chân ngựa qua cửa sổ !
Sống 100 năm chưa hẳn là nhiều. Sống vài mươi năm chưa chắc là ít. Ngây thơ thay những người xưa đã vào rừng tìm thuốc trường sinh mà không bao giờ gặp. Sống khác chết chỉ ở sự nhận cảm và sự hoạt động. Sống với một tâm hồn khô khan, một tinh thần trống rỗng, sống bao nhiêu thế kỷ cũng là thừa. Ai mong ước gì đời sống của một cây đại thọ ? Nó sống lâu chứ phải đâu sống nhiều. Lòng mong ước của chúng ta ít ở sự được sống lâu, nhưng rất nhiều là được sống rộng, sống mạnh.
Sa thải những mầm xấu xa có thể ung độc sự sống, làm phát triển những tính tình, những tư tưởng đẹp đẽ trong mỗi người, nghĩa là luôn luôn tranh đấu giữa mình với mình để vượt lên trên mình, đấy là sống mạnh. Phá dần thành trì ngăn che Ta và Người, liên lạc nhau qua những dây thân mến, những sóng lạc quan, nghĩa là vượt ra khỏi cái tâm nhỏ hẹp để giao hòa với cái tâm rộng lớn, đấy là sống rộng. Một đời làm được như thế thử hỏi còn một sự nghiệp nào có giá trị hơn nữa, còn một thời gian nào quý báu hơn nữa ?
Có lẽ để khuyến khích, cổ võ tài sức và lòng hăng hái của chúng ta, vạn vật đã hiệp nhau tổ chức một mùa xuân mới, sau những ngày đông giá lạnh.
Mùa đông già cỗi thế kia còn trổi dậy được để chuyển mình thành một chàng thanh xuân mười tám, cớ sao những chàng trai mười tám như em lại muốn nằm xuống giường bệnh của người già ?
Lòng chúng ta cũng phải bắt chước Vạn-vật mà tạo hóa lại lòng ta. Đừng nghĩ rằng một mùa xuân qua là một mùa xuân mất mà buồn. Mùa xuân không mất. Chỉ có người mau già chết, vì đã lo nghĩ mà buồn rầu không phải cách. Nét nhăn tới in dấu trước tháng năm, vì chúng ta đã để những ngày buồn vô cớ ăn lan qua những ngày vui hồn hậu ; vì chúng ta thường nối mùa đông đã qua với mùa đông sắp tới…
Hoa nở rồi, hương chập chờn trong gió, bướm nhịp nhàng vỗ cánh theo điệu chim ca. Xuân đã về mang theo một bầu hăng hái phủ dưới chiếc áo màu xanh của vạn vật. Trước sự sống tươi vui ấy, không nên lo buồn không phải lẽ ! (Trích Thử hòa điệu sống của Võ đình CườngIn lần thứ sáu, 1967)
« Tin tưởng »
Chúng ta không nên quá lạc quan, cũng không nên bi quan, nhưng bao giờ cũng tin tưởng ở bản năng bảo thủ và trực giác đi tìm hạnh phúc của loài người.
- Em van anh, hãy tìm cho em một nơi an nghỉ. Cuộc thế bạo tàn và gian lận đã giựt xé của em bao nhiêu là hương sắc. Và tâm hồn trong trắng đầy tin yêu, mới ngày nào đã bị giày xéo tả tơi dưới gót đời nhơ bẩn. Ôi, hãi hùng và ghê tởm ! trong mỗi cỗ bàn, đôi đũa gắp vào đâu cũng gặp toàn thịt xương của đồng loại. Và trên sân khấu đời, Giả-dối đang đội lốt Chân-lý ; Áp-bức đang mang mặt nạ Tự-do. Và hạnh phúc mong manh không phủ kín nổi với màn tuynh địa ngục trên dương thế. Công-bằng và Bác-ái là hai danh từ không tìm ra thực tính của chúng trong những hành động hàng ngày. Một mặt người ta bắn giết nhau, một mặt người ta lừa đảo nhau, có lẽ nhân loại đã đến ngày tàn lụn. Anh hãy kể cho em, có một thời đại nào sự sát hại nhau lên đến một độ khủng khiếp như bây giờ, một giai đoạn lịch sử nào, tiếng đau thương và oán hận nức nở khắp mấy chân trời, mà tiếng bom đạn không làm sao lấn át nổi. Bầy quạ đen nghịt đã tung cánh chiếm đoạt bầu trời, nhân loại đang thoái hóa dưới bóng tối dày của bầy ác điểu ! Em van anh, hãy chỉ cho em nơi nào có thể xa lánh được cảnh tượng tủi nhục của loài người hung tàn đang xâu xé nhau trong chợ đời náo nhiệt.
- Em sẽ được yên nghỉ ! Đôi mắt hãi hùng của em chứng tỏ rằng em đang ở trong một cơn ác mộng. Và đôi tay rướm máu kia đủ mách với anh rằng em vừa vương phải rất nhiều mũi gai đời.
Thôi, em hãy tạm yên nghỉ để lấy lại sức lực trước khi sửa soạn một cuộc chiến đấu khác.
Em hãy xoay mặt về với thiên nhiên là nơi em có thể tạm yên nghỉ. Đây là thế giới của yên tĩnh. Màu xanh hiền dịu của cỏ cây sẽ rửa sạch đôi mắt đỏ ngầu gió bụi. Tay em sẽ nhúng vào những suối mát tê người, và những vết thương đời sẽ được hàn líp. Và kia là đền chùa tháp mộ. Những hồi chuông mai dóng gọi mặt trời lên, những hồi chuông chiều chuyển dồn âm ba để khỏa lấp mặt trời dần lặn, sẽ cho em một khái niệm rõ ràng về sự hòa hiệp của thiên nhiên.
Và đây là sử sách. Em hãy tắm gội tâm hồn trong những suối sáng ấy. Đầu óc em sẽ được rửa sạch những mảnh tan vỡ của một ảo ảnh quá đẹp đẽ về cuộc đời mà em đã mang theo khi nhập vào thế cuộc. Em đã quá tin vào cái giá trị tuyệt đối của con Người, của những chữ Bác-ái, Vị-tha, cho nên em đã thất vọng nặng. Hãy rửa sạch đi những mộng tưởng quá hào hoa của thuở ấu thơ còn sót lại. Anh đau đớn khuyên em câu ấy để em bớt đau đớn khi nhìn thấy cuộc đời không đẹp như tưởng tượng của riêng em. Không, đời không phải toàn Thiện, toàn Mỹ. Khổ là đời, mà sự tranh đấu đã thành lệ luật.
Nói như thế, không có nghĩa là đời tuyệt không có giá trị gì và nhân loại không phải đã thất bại trong việc chinh phục Bác-ái, Vị-tha. Không phải là một sự thoái hóa mà em tưởng bắt gặp nhiều trong sự giết chóc ngày nay.
Xưa kia, trong những đoạn tối tăm của lịch sử, biết bao lần rồi, luồng gió tàn bạo đã thổi ngang trên bể nhân loại, và từng chục triệu sanh linh đã bị đắm chìm trong từng lúc một, chứ nào phải chỉ bây giờ ? Anh chỉ kể ra sau đây vài ba thí dụ để em so sánh cổ kim :
Từ năm 530 đến năm 540 tây-lịch, trong khoảng mười năm thôi, Mihirakula cầm đầu bọn Bạch-hung đã lùa chúng đến dẫm xéo tan tành cả một vùng bắc Ấn-độ ; giật lưỡi hái trên tay thần chết, nó đã tung hoành trên những xứ này và ba chục triệu chiếc đầu của đám dân vô tội đã rụng xuống tơi bời.
Hàng trăm triệu người đã điêu linh vì Thành-Cát Tư-Hãn, hàng chục triệu người đã làm mồi cho lưỡi dao khát máu của quân Mông ; từng vạn thành trì đã trở thành những lò sát sinh của bọn giặc ấy. Từ Á sang Âu, từ Mông đến Ấn cỏ không mọc được dưới chân ngựa chúng dẫm ; thành trì bị chúng san phẳng để địch quân của chúng không thể làm nơi trú ẩn ; nhân dân bị tuyệt diệt « để khỏi phải bớt lại một số quân lính canh phòng » mà « đem số tù binh quá nhiều đi theo chỉ làm phiền cho quân đội phải canh giữ ». Thành-Cát Tư-Hãn bị tử thương trong khi vào chiếm thành Ninh-hạ ; để rửa thù tên khát máu nhân loại kia đã truyền đem xử tử tất cả dân chúng trong thành trên mộ phần của nó (18-8-1227).
Cháu nội Thành-Cát Tư-Hãn là Houlagou sau khi chiếm được Bagdad, đã thả quân lính đi cướp phá kinh thành, và tám mươi vạn Hồi-dân đã bị rơi đầu trong bảy ngày liên tiếp (1228).
Tamerlan, với những chiếc đầu người, đã truyền đựng rải rác khắp nơi những kim tự tháp. Năm 1387 thành Ispahan nổi loạn. Để khủng bố lương dân, Tamerlan cho xây quanh thành một vòng kim tự tháp với 70 mươi vạn cái đầu lâu. Năm 1490, 10 vạn cái đầu rơi,
Bốn ngàn người bị chôn sống khi nó chiếm được thành Sivas; năm 1401 kinh thành Bagdad bị san phẳng ; theo lệnh của đại sát nhân kia, một trăm hai mươi kim tự tháp đã mọc lên trên những vết điêu tàn, với chín chục vạn đầu lâu xây cùng vôi gạch.
Em thấy đó, lịch sử nhân loại cũng diễn ra nhiều đoạn tối tăm khủng khiếp, chứ không riêng chi ngày nay. Nhưng ngày nay nếu em thấy cuộc đời ghê gớm hơn bao giờ hết, bởi vì em vừa chứng kiến một cuộc thế chiến kinh hồn. Cảnh tượng đỏ ối của khói lửa phản chiếu vào tâm trí làm em hoảng hốt, xui em nhìn đâu cũng thấy toàn một màu sắc ghê tởm ấy. Nhưng chiến tranh đâu phải là một chuyện xảy ra hằng ngày, phải đâu là trạng thái thường niên bất đoạn của thế giới này : mấy mươi năm mới có một thời giặc giã. Đấy là tiếng đàn vụt đứt, thỉnh thoảng xem lẫn trong bản đàn vĩnh viễn. Đấy là những luồng bão thổi bạt qua trên bề nhân loại làm người đắm thuyền chìm. Nhưng cơn bão qua rồi, những chiếc buồm trắng trùng điệp lại lô nhô mọc trên mặt nước xanh bình lặng. Và trong mỗi chiếc tàu, trong mỗi chiếc thuyền, cho đến trong mỗi chiếc ghe nan, những người thủy thủ mặt sém nắng mưa, vẫn chứa chất đầy khoang cái hy vọng thiết tha được thấy bờ Hạnh-phúc.
Trong sự đi tìm Hạnh-phúc ấy, thuyền bè chi chít lắm lúc đã va chạm nhau, và sự đắm chìm không thể tránh được. Em nên tin rằng đấy là do sự vụng về hay thiếu sáng suốt chứ không phải do ác ý của những thủy thủ muốn đắm chìm nhau. Từ thuở nhân loại nhổ neo trong những bến bờ tối tăm để đi tìm Hạnh-phúc cho đến nay, truyền nối qua mấy trăm ngàn thế hệ, Bác-ái và Vị-tha vẫn là hai nguyên tắc chính, cái kim chỉ nam của những kẻ lái thuyền vĩ đại : Thích-Ca Mâu-Ni, Jésus, Khổng-tử… Những nguyên tắc trái với Bác-ái, Vị-tha đã được đem ra thí nghiệm, nhưng không có một nguyên tắc nào đứng vững. Mà nếu có đứng vững là thế sự đảo điên, lương dân điêu đứng, rồi người ta cũng phải bắt buộc trở về với Bác-ái Vị-tha.
Tuy đến nay, vị kỷ vẫn không thôi trói buộc lòng người, nên tất cả thủy thủ là chúng ta đây vẫn còn bị lúng túng, đụng chạm nhau trong khi chống chèo, vì bao nhiêu giây dợ ích kỷ đấy. Nhưng trong mỗi đầu óc nào lại không nở ra một tia sáng, một cái hoa hy vọng được giải thoát. Cái hoa kia, tia sáng nọ chưa có một thời đại nào, dù đen tối bao nhiêu, đã héo tắt trong hồn nhiên của nhân loại. Đấy là trạng thái vĩnh viễn trong sự sống vĩnh viễn truyền qua đời kiếp.
Em có thể bảo rằng những trạng thái tâm hồn ấy chỉ là những tin tưởng, những hoài vọng thường bị thực tế bạo tàn phản bội. Nhưng dù bị phản bội, chúng cũng được thực hiện một phần nào. Từ thuở đang co ro, mò mẫm trong tối tăm rét mướt cho đến nay, nhân loại đã bước được một bước dài trên đường xán lạn. Phải chăng không nhờ những tin tưởng kia ư? Tin tưởng là một sức mạnh. Huống chi đây là tin tưởng của cả nhân loại, của mọi thời đại, thì nó còn mãnh liệt biết bao nhiêu?
Hiện nay khoa học đang mở một con đường mới cho loài người đi tìm hạnh phúc. Có kẻ mạnh dạn dấn thân vào, tin chắc sẽ nắm được con chim Hạnh-phúc, có kẻ rụt rè e ngại tiên đoán những triệu chứng bất tường của sự diệt vong. Chúng ta hãy bình tĩnh chờ xem. Khoa-học chưa hoàn thành công tác của nó. Đây chỉ mới là một cuộc thí nghiệm lớn. Sự sống huyền diệu còn dành cho chúng ta những bất ngờ không thể tiên tri được. Chúng ta không nên quá lạc quan, cũng không nên bi quan, nhưng bao giờ cũng tin tưởng ở bản năng và trực giác đi tìm Hạnh-phúc của loài người. Hãy tin tưởng ở tiến hóa! (Trích Thử hòa điệu sống của Võ Đình CườngIn lần thứ sáu 1967)
Chúng tôi đã đưa các bạn đi một vòng chân trời diệu vợi. Tuy nhiên, không phải vô ích. Nếu một chính trị gia muốn chinh phục một dân tộc cần phải mất thì giờ khảo sát về dân tộc tính ; một nhà kinh tế học muốn vạch một chương trình chấn hưng kinh tế quốc gia cũng phải khảo sát sâu rộng về khả năng tiêu thụ và sản xuất, hoặc cơ cấu sinh hoạt từng địa phương, thế thì một nhà khảo cứu văn học cũng không thể tự mình hạn hẹp trong một mớ thi ca mà suy luận những gì đã xảy ra từ ngàn xưa được.
Để tóm tắt phần trình bày trên, chúng tôi muốn cùng các bạn tìm hiểu tính chất diễn biến của mỗi hệ thống triết học, và sau cùng, chúng tôi muốn cùng các bạn xác định một quan niệm : « Mọi suy tư con người đều biến chuyển theo lịch sử thời gian. Cho nên, mọi triết thuyết, sản phẩm của suy tư, cũng chỉ có giá trị tương đối qua từng thời điểm mà thôi ».
Nếu chúng ta quan niệm như vậy hẳn chúng ta phải thừa nhận những suy tư của người bình dân thời xưa về vũ trụ không phải kém giá trị đối với cuộc sống đương thời.
Cũng như những chủ trương khác, người bình dân khi đã có một vũ-trụ-quan tất nhiên phải tổ chức đời sống con người sao cho hợp với biến chuyển thiên nhiên.
Điều đáng nêu lên trước tiên là khác với các tín đồ của những học thuyết khác, người bình dân dù vẫn có ý thức triết học, nhưng không cần một hệ thống triết lý để khống chế tư tưởng mọi người. Tuy nhiên, nếu xét về tác dụng của tâm tư thì chính người bình dân lại là kẻ trung thành với ý thức mình hơn cả.
Xin lấy một ví dụ : Lão-học quan niệm sự hiểu biết của con người là thực trạng làm xáo động, gây hỗn loạn trong xã hội. Họ chủ trương từ bỏ mọi khôn ngoan của trí óc, đưa con người trở lại bản chất thiên nhiên. Nhưng chúng ta nhìn lại quá trình hoạt động của hệ phái này, chúng ta vẫn thấy họ đem sự hiểu biết, dùng cái khôn ngoan của bộ óc để đấu tranh với xã hội, với mọi lập trường tư tưởng khác biệt.
Qua những mẩu chuyện về ý thức Lão-học mà chúng ta vừa trích dẫn đã chứng tỏ điều đó. Họ chủ trương sống gần thiên nhiên, tổ chức cuộc sống cho hợp với quan niệm vũ trụ, nhưng thực ra họ chỉ hành động theo hình thức bên ngoài, mà bên trong, tâm hồn họ vẫn không thể nào cởi bỏ tính chất trí thức chán đời của họ được.
Một Sào-Phủ, Hứa-Do rửa tai khi nghe nói đến danh lợi, thì chính tâm hồn họ còn bị lợi danh ràng buộc. Nếu không bị ràng buộc, việc gì phải rửa tai ?
Một cô gái giận tình nhân không muốn gặp mặt, sự giận dũi ấy chứng tỏ lòng cô còn bị ràng buộc bởi tình yêu.
Cho nên, con người càng đem suy tư đấu tranh với cơ cấu vũ trụ, thì chính suy tư con người lại bị ràng buộc vào lẽ sống và phản lại cảm nghĩ của mình.
Đến đây, chúng tôi thấy đã có thể đem ý niệm về tổ chức cuộc sống của người bình dân để đối chiếu với những gì chúng tôi vùa khảo luận qua các hệ thuyết trên.
Người bình dân xem cơ cấu vũ trụ là một năng lực huyền vi, biến động và chi phối mọi sinh hoạt con người, và tất cả vạn hữu. Bởi vậy, con người muốn tạo hạnh phúc trong lẽ sống không phải dùng trí khôn khắc phục thiên nhiên, mà phải dùng trí khôn tìm hiểu mọi trạng thái biến động của vũ trụ để cuộc sống con người phù hợp với cơ năng huyền vi ấy.
Tổ chức cuộc sống con người được phù hợp với thiên nhiên, người bình dân không cần phải rửa tai khi nghe nói đến danh lợi, cũng không xem cuộc sống con người là trạng thái bi đát. Bởi vì khi xem cuộc sống con người là trạng thái bi đát tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng trong người một tham vọng hưởng lạc, chúng ta muốn trốn trách nhiệm làm một sinh vật của vũ trụ, mà vũ trụ không thể thiếu một loại sinh vật nào cả. Xem cuộc sống loài người là bi đát, chúng ta đã quan trọng hóa con người đối với vạn vật, mà với qui luật sinh thành của vũ trụ, con người đối với vạn vật cũng chỉ là một cá biệt. Ngược lại, người bình dân cũng không chấp nhận trạng thái cực đoan trong xã hội, đưa con người đến chỗ tự diệt. Con người phải sống, phải tuân theo luật sinh thành, đồng thời phải hòa mình với thiên nhiên bằng cảm giác chứ không phải bằng hệ thống suy tư do khối óc con người sáng tạo.
Nếu chúng ta muốn thấy trạng thái hồn nhiên của con người thích hợp với vũ trụ, chúng ta thử đọc vài câu ca dao sau đây :
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn Tết Đoan-ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười mua thóc bán bông,
Tháng mười một, tháng chạp nên công hoàn toàn.
Thật giản dị đối với tâm hồn con người trước cuộc sống. Người bình dân sở dĩ không hằn học với đời, bởi vì họ xem đời là trạng thái tự nhiên của vũ trụ. Con người phải tuân theo trạng thái tự nhiên ấy. Ý thức phân chia thời tiết để kết hợp nguồn sống con người với thiên nhiên, chúng ta làm sao phủ nhận được quan niệm về vũ trụ của họ.
Tháng giêng khí trời mát mẻ, mùa màng rảnh rỗi, một cái Tết có ý nghĩa giải lao, đồng thời gợi lên những tình cảm giữa cuộc sống, còn gì hợp lý hơn. Con người sống với vật chất, quanh năm vật lộn với công việc mưu sinh, ít ra cũng phải có dịp sống với tình cảm, thì tháng giêng, bầu trời xuân man mác, cỏ hoa đượm sắc thắm, muôn vật như bừng sáng, thời tiết ấy chính là vũ trụ nuôi dưỡng tình cảm con người. Người bình dân đã chan hòa với vũ trụ, và khi họ ăn Tết trong tháng giêng tức là cảm thấy họ sống với vũ trụ.
Tuy nhiên, khi xem con người là sản phẩm của vũ trụ, phải tuân theo luật thiên nhiên, thì họ lại từ bỏ tham vọng cá nhân, mà muốn níu thời gian lại để tận hưởng như những lớp người khác đã từng than trách :
Mùa xuân con én đưa thoi.
Hoặc : Chữ rằng : « Xuân bất tái lai ».
Những sung sướng, khổ cực mà loài người phải gánh chịu trong cuộc sống, không phải dành riêng cho loài người, mà cho cả vạn hữu. Tạo sao chúng ta không than trách những ngày nắng hạ đốt cháy cỏ cây, mà thương cho loài cây cối ? Tạo sao chúng ta không nói đến thân phận một con dế mèn tiếng kêu sõi sàng vì gió lạnh đêm đông ? Chúng ta chỉ than trách khi chúng ta bị khổ sở vì biến động của vũ trụ, có phải đó là một tham vọng riêng của loài người ?
Khi đặt con người là sở hữu của vũ trụ, con người không còn được quyền tham vọng riêng tư, mọi hạnh phúc tuyệt đối dành cho loài người đều khiến cơ cấu vũ trụ bị mất thăng bằng. Người bình dân không làm cho cơ cấu vũ trụ chênh-lệch, mà chỉ hạn chế, đấu tranh cho cuộc sống loài người phù hợp với tính chất thăng bằng vạn hữu. Phương thức hạn chế, đấu tranh của họ là đưa con người nằm vào trạng thái thiên nhiên, phù hợp với diễn biến chung của muôn loài vạn vật. Muốn được như vậy, họ dùng cảm giác nhiều hơn lý trí.
Một đàn kiến, khi trời sắp mưa, kéo nhau tha mồi lên chỗ cao, một con dế đến mùa lụt làm hang trên chân núi, đó là những cảm giác do vũ trụ dành riêng cho mọi sinh vật. Con người cũng thế, lý trí chỉ để tìm hiểu những hiện tượng của vũ trụ chứ không thể biến đổi được vũ trụ.
Tuy nhiên, con người cũng như mọi sinh vật khác, mang trong bản thể một tính chất cá biệt. Con thỏ ngồi nhìn trăng cảm thấy thích thú, con én lượn trên khung trời bao la lúc xuân về thấy ưa thích, đến như con ve sầu ngâm nga suốt mùa hè thì đó cũng là tính chất cá biệt của giống ấy. Cho nên, con người không thể chỉ sống trong lam lụ, hoặc nghỉ ngơi để kích động tình cảm trong những ngày Tết, mà họ còn để cho những thích thú riêng tư được bộc lộ trong cuộc sống của họ nữa. Họ dành riêng tháng hai để cờ bạc. Cờ bạc ở đây chỉ là danh từ tượng trưng cho những lạc thú.
Nhưng tạo sao tìm những lạc thú lại phải chọn tháng hai ? Theo chúng tôi nghĩ, lạc thú phải phát nguồn từ tình cảm. Tháng giêng họ đã dành riêng cho cuộc sống tình cảm thì tháng hai đi đến cuộc sống lạc thú là hợp với trạng thái tự nhiên. Cũng như mùa xuân đến vào tháng giêng nhưng phải đợi đến tháng hai chúng ta mới hoàn toàn cảm thấy hương vị đích thực của nó.
Ở đây chúng ta cũng nên phân biệt dục vọng cá nhân và lạc thú cá biệt. Dục vọng cá nhân mang tính chất ích kỷ, lạc thú cá biệt mang tính chất tiêu khiển.
Một đàn công xòe cánh múa tung tăng nơi bìa rừng, làm rực rỡ một góc trời. Một con phượng đậu trên cụm ngô đồng biểu diễn tài ba của nó. Tất cả những động tác ấy đều thuộc tính chất lạc thú cá biệt. Mỗi người trong chúng, kẻ thích môn thể thao, người thích âm nhạc, hoặc thi thơ đều là lạc thú cá biệt. Nhưng nếu chúng ta thích lêu lổng suốt tháng năm, sống nhờ trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác, hoặc tìm cách bắt kẻ khác phục vụ cho cảm giác khoái lạ của mình, thì đó lại là chuyện khác, nằm trong dục vọng cá nhân.
Người bình dân chối bỏ dục vọng cá nhân, nhưng không chối bỏ lạc thú cá biệt. Bởi vì, dục vọng cá nhân là lòng ham muốn trộn lẫn với sự suy tính của khối óc con người, còn lạc thú cá biệt là trạng thái thiên nhiên.
Sống cho tình cảm, sống cho lạc thú cá biệt, người bình dân cũng không quên ý nghĩa họp đoàn. Một đàn chim nghe tiếng động cũng vỗ cánh tung bay, nhưng không bao giờ chúng chia nhau bay khác hướng. Nếu vì một cớ nào chưa thể họp đoàn thì chúng cũng sẽ tìm cách nối kết nhau.
Một cách chim lạc loài tận cuối trời, không gì bơ vơ, buồn tẻ cho bằng. Con người cũng như mọi sinh vật khác, trong mỗi cá biệt đều chứa đựng tính chất thiên nhiên của vũ trụ. Cho nên, con người cũng không thể vui thú lẻ loi, phủ nhận ý thức tập thể. Một ẩn sĩ vào rừng núi sống cô đơn, chối bỏ tập thể, chẳng qua đó là trường hợp đặc biệt của kẻ chán đời.
Vì quan niệm tập đoàn là tính chất thiên nhiên, nên người bình dân dành cho tháng ba để tổ chức hội hè, nối kết tình cảm giữa con người và con người. Vạn hữu trong vũ trụ đều dính líu với nhau cả mọi mặt nên tình cảm con người cũng không thể tách rời ra ngoài tính chất liên hệ ấy.
Sau khi nối liền tình cảm giữa con người và con người, người bình dân nối liền tình cảm giữa con người và vạn vật : « Tháng tư đong đậu nấu chè ».
Tháng tư là mùa đậu. Tình cảm con người lại chan hòa với mùa màng cây trái. Cũng như tháng sáu là mùa trâm, mùa nhãn, cuộc sống con người không còn thú vị nào hơn là thưởng thức những thành quả thiên nhiên ấy : « Tháng sáu buôn nhãn bán trâm ».
Ở đầu làng, khi cành đa sum trái, chim chóc từng đàn lũ lượt kéo về, kêu hót líu lo. Đó không phải là một trạng thái thiên nhiên sao ?
Chúng ta không ai không có một cảm giác thú vị khi nhìn bầy chim chóc vừa ăn quả, vừa ríu rít trên cành. Vậy thì tại sao con người lại không tìm thấy cái thú thiên nhiên chan hòa trong vạn vật.
Cho nên, cứ mỗi mùa cây trái, người bình dân lại đem tình cảm mình kết hợp với sự nẩy nở của cỏ cây.
Tháng tư hết vui mùa đậu, đến tháng sáu vui mùa nhãn, mùa trâm, rồi đến tháng chín lại vui mùa hồng : « Trở về tháng chín chung chân buôn hồng » cho đến tháng mười thì vui mùa lúa, mùa bông : « Tháng mười mua thóc bán bông ».
Từ chỗ nuôi dưỡng tình cảm cá nhân đến tình cảm tập đoàn, chan hòa với mùa màng cây cối, người bình dân còn đem cảm giác mình đặt trước những cái đẹp của vũ trụ.
Một vành trăng tròn, ánh sáng lung linh chiếu trên cảnh vật mùa thu, chúng ta không thể chối bỏ cái đẹp của thiên nhiên. Tại sao loài chim én chỉ bay lượn khi tiết xuân về ? Tại sao loài thỏ chỉ thích ở nơi cây rừng lúp xúp ? Những tính chất đặc biệt ấy không có quan hệ giữa mọi sinh vật và thiên nhiên ư ?
Vành trăng thu đã làm cho người bình dân say sưa, cảm mến, cũng như những cây đa, cây đề, với tàn cây râm mát đã quyến rủ những cánh chim từ xa đến. Chúng ta không lấy làm lạ, khi người bình dân đã tạo thành phong tục tết Trung-thu : « Tháng Tám chơi đèn kéo quân ».
Vui với vạn vật, giao cảm giữa con người chưa đủ, người bình dân còn mở rộng tâm hồn mình trước những biến đổi của vũ trụ. Sinh thành và hủy diệt đối với vũ trụ chỉ là quy luật tất yếu, nhưng khi đã là con người, một sinh vật đặc biệt trong vũ trụ tất nhiên phải có cái gì dị biệt với những sinh vật khác. Con người đã mang trong lòng những nhớ nhung, thương tiếc đối với dĩ vãng. Nhớ nhung, thương tiếc đã gieo vào tâm tư họ một tình cảm không thể quên được, cho nên trong hiện tại, tình cảm họ vẫn nối liền với dĩ vãng. Vì vậy mà họ hay vọng tưởng đến những hình ảnh của quá khứ :
Ăn tết Đoan ngọ trở về tháng năm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tóm lại, bài ca dao trên đây tuy thô sơ, nhưng người bình dân đã nói lên sinh hoạt tình cảm của họ trước thiên nhiên. Tình cảm của họ không xa cách mọi biến động của vạn hữu trong vũ trụ.
Tuy nhiên, đó chỉ mới nói đến phương tiện tình cảm. Người bình dân khi đứng trước thiên nhiên không chỉ sống bằng tình cảm mà còn sống bằng thực lực của mình.
Mọi sinh vật đều phải nhờ vào mặt đất để sống, để tìm thức ăn. Người bình dân Việt-nam thuở xưa hầu hết là nông phu, nên ý thức phát triển sinh hoạt của họ căn cứ vào cơ cấu nông nghiệp.
Chúng ta lại thấy những ca dao sau đây căn cứ vào biến chuyển thiên nhiên, người bình dân tổ chức mọi sinh hoạt vật chất của họ. Ví dụ :
Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng.
Ai ai cũng vợ cũng chồng,
Chồng cày vợ cấy trong lòng mới vui.
Và : Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm,
Đến khi mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi nên mạ thì ta nhổ về.
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi đầy còn độ một hai.
Ruộng cao dóng một gàu dai,
Ruộng thấp thì lại đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bây giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Căn cứ vào thời tiết để làm mùa màng, tuy đó là chuyện thường nghiệm của nhà nông ; nhưng chúng ta đừng tưởng việc làm đó không có liên quan giữa ý thức con người và vũ trụ. Chính mọi biến chuyển của vũ trụ đã gieo vào cảm giác người bình dân những kinh nghiệm về thời tiết, và khi căn cứ vào thời tiết chính người bình dân đã tổ chức sinh hoạt của họ hợp với biến chuyển thiên nhiên.
Vì quan niệm vạn hữu đều là cá thể của vũ trụ, có tương quan và ảnh hưởng lẫn nhau, nên khi ý thức rằng sinh hoạt con người phải căn cứ vào biến chuyển thiên nhiên, người bình dân chẳng những tìm hiểu con người trước thiên nhiên, mà còn phải tìm hiểu vạn vật trước thiên nhiên nữa.
Tại sao họ phải trồng khoai vào tháng chạp, hoặc tháng hai ? Tại sao họ lại phải cấy lúa mùa, lúa chiêm trong hai thời tiết khác nhau ?
Dĩ nhiên họ phải tìm hiểu trạng thái thiên nhiên và vạn vật để hòa hợp sinh hoạt của họ theo biến chuyển thiên nhiên nhiên được.
Một giống cây không thể mọc trái thời tiết. Một con vật không thể sống trong khí hậu không thích hợp với thể chất. Mỗi cá thể đều tuân theo tác động của vũ trụ. Bầy nai trong rừng phải đến thời tiết nào đó mới thay gạc. Giống cá dưới nước phải đến mùa mới mang trứng nở con…Thời tiết tác động vào muôn vật như một trạng thái tất nhiên. Con người đã lấy đó làm kinh nghiệm, tại sao có thể tách rời sinh hoạt của mình ra ngoài biến động của vũ trụ được ?
Cho nên, khi quan niệm tính chất liên hệ giữa vũ trụ và con người, hoặc giữa con người và vạn vật, người bình dân không đặt lẽ sống của họ bằng một hệ thuyết nào hết, mà chỉ tìm hiểu thiên nhiên để sống cho phù hợp với qui luật biến động của guồng máy ấy mà thôi. Họ cần tìm hiểu tại sao hoa mai, hoa đào lại nở vào mùa xuân, hoa sen hoa lựu nở vào mùa hạ. Tại sao cây mía trồng vào tháng chạp lại nhiều nước hơn cây mía trồng vào tháng giêng ? v.v… mà họ không để ý đến chuyện làm thế nào để bắt kẻ yếu phải khuất phục mình, làm thế nào để cảm hóa con người phải tuân theo trật tự xã hội, làm thế nào để thoát khỏi cuộc đời mà nhiều quan niệm cho là trầm luân, bể khổ…
Con người là một sinh vật trong muôn ngàn sinh vật hiện hữu. Nó phải sống theo chiều hướng biến động của thiên nhiên, không thể đặt con người ra ngoài vũ trụ được thì cũng không thể nào trốn thoát mọi liên quan, ảnh hưởng giữa vạn hữu.
Nhiều nguồn tư tưởng cho rằng mọi vật đều không trường tồn, chỉ có suy tư con người mới là vĩnh cửu. Điều đó quả đã trái ngược với quan niệm bình dân. Vũ trụ không đứng yên, thời gian, không gian luôn luôn tăng trưởng, cho nên không có gì trường cửu. Ngay đến những kinh nghiệm của họ đã rút tỉa từ quan niệm vũ trụ của ngàn xưa đến nay cũng đã đổi khác.
Trước kia, cây mía chỉ có thể trồng vào mùa đông, thì ngày nay cây mía đã có thể trồng vào mùa hè.
Tính chất đổi thay ấy chính là do biến động của thời gian, không gian. Cho nên không có con người muôn thuở, không có ý thức vĩnh cửu khi thời gian, không gian vẫn còn đang biến chuyển, mỗi ngày một chồng chất.
Quan niệm vũ trụ như vậy, những giá trị về suy tư, kinh nghiệm của người bình dân trước thiên nhiên cũng là những giá trị của thời gian. Tuy nhiên, điều chúng ta muốn nói đến họ ở đây là ý thức kết hợp sinh hoạt con người với vũ trụ xem con người là của vũ trụ, không tách rời ra ngoài cơ cấu vũ trụ như những hệ thuyết khác.
Vì quan nhiệm con người là cá thể của vũ trụ, có tương quan đến vạn hữu, cho nên, xung quanh họ, từ một sinh vật, một hiện tượng, họ đều để ý, và xem đó như có liên hệ đến cuộc sống của con người.
Một đàn kiến tha mồi kéo đi, người bình dân đều lo lắng : vì đó là hiện tượng báo hiệu trời sắp mưa. Một tiếng cóc kêu trong hang lúc hoàng hôn cũng làm cho tâm tư người bình dân có bao nhiêu ý nghĩ về sinh hoạt của họ hiện tại. Đây, chúng ta thử đọc những câu ca dao sau đây :
Đom đóm bay ra, trồng cà cà trổ.
Hoặc : Cóc kêu trời mưa,
Cóc cưa trời nắng.
Tại sao họ tin tưởng vào những hiện tượng như vậy ? Vì họ quan niệm vũ trụ chỉ gồm vào thời gian, không gian, mà mọi biến động của vạn hữu đều có liên quan mật thiết, không thể tách rời.
oát tục của Phật-học càng được nẩy nở và tán đồng. Cho nên, theo dòng lịch sử tranh đấu của xã hội chúng ta thấy những mẩu chuyện về Phật rải rác trong dân chúng không phải ít.
Ví dụ, trong các chuyện Tàu, việc Đường-tăng đi thỉnh kinh ở Tây-vực tạo thành một pho truyện mang tính chất Phật-giáo, mà đó cũng là ý thức giãi bày trong hệ luận nhà Phật. Truyện Phong thần cũng có rải rác bóng dáng của khuynh hướng Phật-học. Đó là những mẩu chuyện văn học được phổ cập sâu rộng trong dân gian, ngoài ra, khuynh hướng Phật-học còn diễn biến khắp mọi địa hạt, góp phần vào quan niệm văn minh Á-đông cũng chẳng kém gì những khuynh hướng khác về đạo học.
Điều đó ai cũng biết, chúng tôi muốn đặt ở đây tầm diễn biến về suy tư của nền Phật-học trong lịch sử xã hội Việt-nam.
Trước kia, vào các thế hệ tiền nhân, khi nói đến quan niệm về đạo Phật là nói đến tinh thần thoát tục, nói đến việc từ bỏ ý thức tranh đấu xã hội để bước vào địa hạt tu thân. Mọi dục vọng cá nhân, mọi tình cảm cá tính đều xem như đối tượng của lẽ sống con người.
Tuy nhiên, đi song song với dòng lịch sử đấu tranh xã hội, Phật-học bắt đầu cảm thấy mọi ràng buộc trong thế giới loài người rất tương quan mật thiết. Kẻ tu hành không thể vứt bỏ cuộc sống con người trong lúc vẫn phải sống, không thể giữ vững ý thức của mình nếu không đem ý thức ấy đấu tranh với mọi ý thức khác. Từ đó, chúng ta thấy Phật-học đã có chiều hướng mới trên lập trường suy tư. Những chuyện cổ tích biểu dương lòng từ bi tế độ của đức Phật, hoặc nói lên những quyền phép của Phật trừ tà ma, diệt quỉ quái, đó chính là một hình thức đấu tranh về tư tưởng. Sau đây, chúng tôi xin trích dẫn vài mẩu chuyện để chứng minh điều đó :
« Tình ái là gốc sự sinh tử »
Bóng hồng vừa gác núi. Chim chóc từng đàn lũ lượt bay về tổ, kêu la rộn rịp. Trên con đường mòn khúc khuỷu, các bác tiều vội vã cất gánh củi lên vai trở về làng mạc. Tiếng náo động vắng lần. Quang cảnh rừng rú mỗi lúc càng tĩnh mịch.
Thỉnh thoảng một vài tiếng chuông chùa ngân nga từ xa vọng lại, dường như để thúc hối những người còn chậm bước chưa ra khỏi cảnh hoang liêu ghê rợn của núi rừng. Một vài tiếng hú kêu vang và sâu tận trong hóc núi càng làm cho những kẻ lạc loài khiếp đảm. Các loài thú dữ đã bắt đầu cuộc săn mồi thường bữa, chốc chốc điểm lên những tiếng rống ghê người của chúa tể sơn lâm.
Từ trong thảo am bên mé núi, một vị Thiền-sư lưng mang đãy bố, tay chống gậy tre, lần bước trên con đường mòn, tiến dần về phía xóm nhà cạnh mé rừng. Trời vừa sắp tối, vị Thiền-sư đến nơi và đi ngay vào cổng, tìm lại nhà hai vợ chồng vị cư sĩ đã thọ giáo với ngài. Sau những lời chào hỏi, hai vợ chồng vị cư sĩ trải chiếu hoa mời ngài an tọa. Trà nước xong, Thiền-sư liền bảo : « Từ ngày hai ông bà đã thọ giáo theo Phật đến giờ, tôi thường tới lui để thúc nhắc. Độ này việc tu niệm của ông bà được khá lắm, thật tôi lấy làm vui mừng. Song sự đời có hiệp phải có tan, hôm nay tôi đến đây để thăm, và cũng để tỏ lòng từ giã hai ông bà. Ngày mai tôi sẽ lên đường đặng đi giáo một nơi khác. Có lẽ cách nhau lâu, vì vậy tôi không dám hẹn ngày tái ngộ. Trước khi lên đường, tôi xin dặn lại ít lời rất thiết, có thể là châm ngôn tu tập hằng ngày. Hai ông bà phải cố gắng niệm Phật đừng để lảng quên, nếu chẳng may có gặp việc gì xảy ra chênh mếch trong gia đình, ngoài xã hội, nên kiên nhẫn bỏ qua, tự an ủi lấy lòng. Giả như một trong hai người lâm bệnh nặng sắp đến giờ hấp hối, người mạnh cần nhất phải cho tĩnh tâm, sửa sang Phật tượng, hộ niệm cho nhau đến lúc cuối cùng ; đừng than khóc, van kêu, làm cho người chết phải bối rối, loạn niệm, khó được vãng sinh. Đây là một việc khó, mà nhiều người tu hành đã vấp phải. Nên tôi xin căn dặn hai ông bà hãy ghi nhớ. Được vậy, dù tôi ở cách xa, vẫn yên hóa đạo ».
Dặn dò, chỉ bảo đâu đó xong xuôi, rạng ngày vị Thiền-sư lên đường…
Ngày tháng qua mau, phút chốc được hai thu, nhờ y theo lời dạy của vị Thiền-sư mà thời gian qua, hai vợ chồng vị cư sĩ ăn ở với nhau rất thuận hòa, hằng ngày làm phước, bố thí, tụng kinh, niệm Phật chuyên cần, lối xóm nhiều người cảm mến.
Một hôm, người chồng bị chứng thương hàn đau nặng. Người vợ chạy thuốc tìm thầy đã hết hơi mà bệnh đâu vẫn còn nguyên đấy. Cuối cùng, có một danh y đại tài đã được mời đến do công lao của người anh họ chẳng nại xa xuôi rước về. Sau khi bắt mạch xong, vị danh y bảo : « Bệnh này không qua khỏi ngày này, vị mạch đã hết. Vậy bà đừng nên chạy chữa làm gì nữa cho tốn công hao của, hãy lo liệu những vật dưỡng già mà thôi ».
Người vợ lúc bấy giờ đã tuyệt vọng, tâm thần bà rối loạn, quên hẳn lời dặn bảo của vị Thiền-sư ; người chồng cứ nằm mê man mãi. Trong tình cảnh này, vì thương chồng, vì tủi phận, người vợ chỉ có gục mặt bên chồng khóc kể liên miên. Mãi đến khi người chồng mở đôi mắt thất thần nhìn vợ lần cuối cùng, mà người vợ còn ghé mặt sát mặt chồng nức nở kêu : « Mình ôi ! Mình nỡ nào chết đi để một mình tôi ở lại sống cô độc lẻ loi ; hồi nào khổ sở có nhau, vui buồn cùng chịu, ngày nay mình bỏ tôi mình đi một mình ! Mình ôi ! »
Tội nghiệp người chồng vì nghe lời lẽ quá bi ai của vợ, cảm tình ân ái bất giác nổi lên, nhìn vợ mà hai hàng lệ thắm tuông ra, nghẹn thở… rồi… trút linh hồn.
Thần thức ông xuất ra nơi mắt. Người vợ vì gục mặt vào chồng, nên thần thức chui ngay vào lỗ mũi vợ, hóa thành một con sâu.
Chồng mất rồi, vợ lo tròn bổn phận, chôn cất xong xuôi, đám ma cũng khá lớn, những ơn nghĩa của lối xóm cũng lo tròn.
Đến khi bà con ai về nhà nấy, bấy giờ bốn bề lặng ngắt, người vợ vì thương chồng bạc phận, xét nỗi cô đơn hiu quạnh, lại thêm lỗ mũi mỗi ngày một lớn và đau nhức vô cùng. Nàng cứ ngày đêm kêu gào than khóc, làm cho những kẻ ở gần, ai cũng phải động lòng thương xót kẻ xấu duyên, bạc phận.
Một hôm vị Thiền-sư trở lại và ghé thăm. Nàng vừa thấy bóng Ngài, đã hối hả chạy ra khóc than, kể lể.
Vị Thiền-sư ôn tồn bảo : « Bà hãy nín, sống chết là lẽ thường, hễ có sinh là có tử. Người tu hành khi bỏ được thân khổ này như quăng được cái gánh nặng, bà nên mừng giùm chớ sao lại khóc ? Bà còn than khóc thế là bà chưa hiểu đạo. Xin khuyên bà hãy nghe tôi, có thương nhớ nên để lòng, lo tu hành, cho khuây lảng, nếu còn nặng lòng ái ân thì kiếp sau lại gặp nhau nữa, vay trả, trả vay thành một chuỗi oan gia vô cùng tận ».
Sau khi nghe vị Thiền-sư khuyên bảo, như giải được sự đau buồn, nàng liền sửa lại mái tóc, rồi tình cờ khịt mũi mạnh văng ra một con sâu khá lớn.
Thiền-sư cả cười bảo : « Ở đời ít ai có nghĩa hơn bà, ai đời thương chồng mà khóc đến có sâu trong lỗ mũi ».
Nàng thẹn quá, toan lấy chân giậm chết con sâu. Vị Thiền-sư vội vàng khoa tay bảo : « Đừng, bà đừng nên làm thế, vì con sâu ấy là chồng bà vậy ».
Nàng lạ lùng hỏi : « Bạch Thầy, chồng tôi suốt đời niệm Phật, làm phước, tại sao chết lại sanh vào loài sâu bọ như thế ? »

Thiền-sư bảo : « Bà đã quên lời tôi dặn, khi chồng bà chết bà không lo tụng kinh niệm Phật và khuyên bảo chồng bà khởi chính niệm, bà còn đem lại tình ân ái kể lể khóc than, nên chồng bà khi sắp mất, bị lòng thương vợ, nặng tình ân ái mà lảng quên chính niệm. Vì vậy nên thần thức luyến ái không thể vượt lên cao, mà phải chui vào mũi bà thành sâu thành bọ. Than ôi ! Uổng một kẻ tu hành, đã mong thoát kiếp luân hồi lại còn bị ái ân cột chặt. Thật có khác nào con cò muốn cất cánh bay cao để thoát ngoài dò, bẫy ; nhưng khốn nỗi nó còn bị sợi dây vô tình cột chặt vào chân. Thế có tội nghiệp không ? »
Thiền-sư đến gần con sâu khẽ bảo : « Ngươi trước cũng nghe lời ta chăm chỉ tu hành lẽ ra thời đã được công đức lành mà sinh thiên hay vãng sinh Cực-lạc, song vì tình ân ái của vợ chồng ngươi còn sâu thẳm ngàn trùng thành ra khi trút hơi thở cuối cùng mà còn gây nghiệp chướng nặng nề phải thành loài sâu bọ, thật đáng thương thay ! »
Con sâu nằm yên từ nãy giờ, dường như nó cũng tự biết hổ thẹn ăn năn. Thiền-sư chú nguyện cho và nhờ công đức lành đã tạo từ trước, nên con sâu quằn quại một lúc rồi chết, thần thức lại sinh vào cõi người. Người vợ đã tự hối và phát nguyện tu hành niệm Phật, trì chí không thối lui, kết quả bà được vãng sinh. (Thuật giả : Tắc Phước – Truyện cổ Phật giáo, tập 2)
« Tại sao niệm Phật ? »
Thành Thất-la-phiệt có một ông hoàng tánh rất hung bạo. Thêm vào đó, quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội án trước pháp luật. Chưa một lời phải, một đạo giáo nào cảm hóa được ông. Một hôm ông gặp Phật khi Phật du hóa xứ này. Mới thấy, lòng ông bỗng cảm phục như voi dữ trước quản tượng. Ngài có dạy ông vài lời sơ lược : « Hãy tưởng niệm Phật-đà, hãy từ bi thương người, hùng lực cứu người ». Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất, ông liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn trong lòng ông nữa, khi ông toan đánh đuổi người. Bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại, nhưng không bố thí chút gì. Tối hôm đó vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhờ thuật lại, ông nhớ lại rõ ràng hình dung đức Phật và lời Ngài dạy. Đêm hôm ấy ông suy nghĩ mung lung. Ông nghĩ : « Nhớ Phật, phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ ». Rồi trời mới sáng ông liền đi tìm Phật. Giữa đường gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường, ông suy nghĩ, ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền túi ra cho. Người ấy e sợ, cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo : « Vì tưởng như Phật, nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi chịu ơn anh, chớ nào anh có mang ơn gì với tôi ». Người hành khất nghe thế, lấy làm lạ, vì không lạ gì tánh nết của ông và uy danh của đức Phật nữa. Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm : « Nam Mô Phật Đà » (Kính lễ đấng Giác Ngộ). Ông hoàng cũng bất giác niệm theo và đi mau tìm Phật. Khi được gặp Ngài, ông thuật rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong, đức Phật mỉm cười hiền từ bảo : « Phải, Niệm Phật, ông hãy tưởng niệm người nghèo khổ. Tưởng niệm người nghèo khổ là tưởng chư Phật đó ». (Trích báo Viên Âm)
« Một lòng vì đạo »
Cũng một mùa xuân trong sáng đẹp đẽ như hôm nay, nhưng là một mùa Xuân xa xăm lắm, một vị quốc vương có tiếng nhân từ, vui vẻ, ngự giá về các làng mạc thôn xóm, thăm viếng quần chúng và tặng quà tết cho kẻ nghèo. Ngài cùng chung vui với muôn dân. Đó còn là một dịp để nhà vua được tìm hiểu đời sống và tâm tình của dân.
Khi ra đi ngài vui vẻ bao nhiêu, khi trở về ngài lại buồn rầu lo âu bấy nhiêu.
Nhà vua thường khuyến khích mọi người phụng thờ Tam-bảo, thực hành phép ăn chay, làm các việc thiện, hiếu thảo với cha mẹ, thuận hòa với anh em. Ngài tha sưu thuế cho tất cả những ai thực hành theo lời ngài nguyện bảo. Mọi người đều răm rắp làm theo.
Nhưng có ngờ đâu, bề ngoài họ mang một lớp « đạo đức giả » để che đậy bao nhiêu điều xấu xa, hung ác, nham hiểm ở bên trong. Nhờ có cuộc kinh lý trong ngày Xuân hôm ấy ngài mới thấu rõ được lòng người. Từ đó ngài luôn luôn suy nghĩ để tìm một giải pháp cải thiện dân chúng một cách hoàn bị.
Một tuần sau gương mặt ngài trở lại tươi vui như trước. Rồi khắp dân chúng được ban truyền sắc dụ của nhà vua : « Kể từ nay ai còn ăn chay niệm Phật sẽ bị tội xử tử, còn người nào không theo đạo Phật được tự do, an phần chức nghiệp ».
Đương nhiên những kẻ giả tâm đều trở lại hành động như cũ, không còn che đậy một chút gì.
Tuy thế, sáng kia người ta dẫn đến sân triều một cụ già tả tơi yếu đuối, cụ này đã không tuân lệnh nhà vua vẫn quy ngưỡng theo đạo Phật. Cụ nghĩ rằng : « Lâu nay ta nghèo khổ, trọn ngày chỉ có một bữa cơm rau nhưng được quy y Tam-bảo, được nghe giáo lý của chư Phật, lòng ta sung sướng vô cùng. Còn dẫu sống một cuộc đời sung túc trên châu báu ngọc ngà hay có được lên cõi Thiên-đàng hưởng thụ mãi mãi cuộc sống thần tiên đi nữa mà không được nghe đến một câu kinh Phật, đối với ta cũng chỉ là ngục hình ».
Cụ già khẳng khái tâu : « Tâu Bệ hạ, bần dân này đã có tội không tuân lệnh của ngài xin ngài cứ việc chặt đầu ».
Nhà vua phán : « Nếu ngươi biết tự hối và thi hành theo sắc lệnh mới của trẫm, trẫm sẽ tha tội và phong chức tước cho. Còn kẻ làm dân mà không tuân theo quốc pháp, trẫm sẽ xử chém đặng răn kẻ trái phép về sau ».
- Tâu Bệ hạ, nếu bỏ chính pháp mà làm đến bực vua chúa, hưởng thụ tất cả mọi khoái lạc trong cõi Nhân-thiên, bần dân này cũng không ham.
- Ngươi cãi lệnh, ta sẽ truyền đem xử tử ngay tức khắc.
- Tâu Bệ-hạ, trong Kinh phật có dạy : « Nếu chúng sinh tự gieo mình vào ba đường ác thì khó được làm người và có làm người chăng nữa cũng không thể sinh vào nước có đạo đức, không xem được Kinh Phật, không gặp được các cao tăng để cúng dường và nghe pháp ». Nay tôi được biết Tam-bảo, hiểu được chút ít Kinh Phật, vậy có lẽ kiếp trước tôi đã dày công tu luyện lắm. Thế thì dẫu Bệ hạ có bỏ tôi vào nước sôi hay nung vào lửa đi nữa tôi vẫn giữ trọn một niềm theo Tam-bảo mà thôi.
- Ngươi là ai mà còn khí khái với ta. Trước cái chết mà vẫn còn hùng hổ.
- Tôi tên là Thanh-tiến-Sử, tâu Bệ hạ cứ việc xử tội, tôi không bao giờ oán thán hay van xin một điều gì.
- Quân sĩ hãy đem chém ngay ông lão Thanh-tiến-Sử này.
Rất nhanh, các tên lính xáp đến dẫn cụ già ra pháp trường. Đồng thời nhà vua cho một vị quan hầu cận ra xem xét và bảo quân lính đợi lệnh nhà vua truyền lại mới được thi hành.
Trước pháp trường, bên cạnh những lưỡi gươm sáng quắc đang sẵn sàng đưa lên cổ. Thanh-tiến-Sử vẫn thản nhiên vui vẻ và khuyên người con trước khi vĩnh biệt : « Con ơi ! con sanh gặp thời có Phật pháp, biết sùng bái Tam-bảo là một điều phước đức cho con. Con hãy vững dạ tu học, noi gương cha đấy, dẫu đầu cha phải rơi vì sắc lệnh nghiêm ngặt của nhà vua, cha vẫn vui lòng và quyết theo chánh đạo không bao giờ lãng bỏ ». Vừa dứt lời, vị cận thần truyền quân lính dẫn cụ về triều.
Khi vị cận thần về tâu lại lời khuyên con của Thanh-tiến-Sử, nhà vua rất cảm động và vô tình những dòng nước tươm chảy trên đôi má nhăn nheo của vị vua hiền đức. Ngài bước xuống bệ rồng ra tận cửa thành ôm lấy Thanh-tiến-Sử. Mọi người đều ngạc nhiên. Cụ già cũng trố mắt nhìn vua không hiểu chuyện gì. Nhà vua đưa cụ vào cung một cách ân cần vui vẻ, song Thanh-tiến-Sử cũng chưa rõ điều gì nên chỉ biết cúi đầu sát đất lạy tạ ơn vua. Nhà vua liền đỡ lấy tay Thanh-tiến-Sử rồi thân mật bảo : « Trong quốc dân này chỉ có một Thanh-tiến-Sử ! Chỉ có một Thanh-tiến-Sử thuần thành theo Phật-pháp, quyết một lòng vì đạo. Ngoài ra đều giả dối, đều vụ lợi. Chiếu dụ của trẫm ban ra chỉ cốt để thử lòng người mà thôi. Vậy từ nay xin ngươi hãy sống cùng trẫm, giúp trẫm trong việc truyền bá Phật pháp thức tỉnh nhân tâm ». Rồi cả hai trò chuyện vui vẻ. Sau đó nhà vua phong cho Thanh-tiến-Sử chức tướng quốc.
Câu chuyện ấy được truyền tụng trên môi quần chúng lan ra tận các hang cùng ngõ hẻm, và cũng từ đó tiếng chuông cảnh tỉnh ngân vang trong tâm hồn mọi người.
Chẳng bao lâu dân chúng được sống trong cảnh êm ấm, thân yêu, an hòa, vui vẻ, ai ai cũng đều quay về với Đạo Phật. Vị Quốc Vương ấy chính là tiền nhân của Đức Thích-Ca. (Đức-Thương – Trích Truyện cổ Phật giáo, quyển 6)
« Hoa sen trong người »
Mai hôm ấy, kinh thành Xá-vệ rộn rịp trong cảnh phố phường buổi sáng. Trên các đường lớn ngựa xe tấp nập, từng đoàn người qua lại trong những bộ áo màu sặc sỡ. Các cửa hàng đông nghẹt những người mua. Tiếng guốc giày của những người quí phái liên tiếp vang lên tạo thành những âm thanh ồn ào náo nhiệt. Nhưng đi sâu vào các đường hẻm thì những cảnh sống hình như vui tươi giàu mạnh của số đông người trong hai giai cấp Sát-đế-lợi và Bà-la-môn ấy không còn nữa, mà những cảnh bần cùng, đen tối của hai hạng người Tỳ-xá và Chiên-đà-la hiện ra quá rõ rệt : Những chiếc nhà lá thấp lè tè, chật hẹp, đóng cửa từ sáng sớm. Những đứa trẻ đang đùa giỡn, chọc ghẹo nhau trên vệ đường. Những người tàn tật, nghèo khổ lũ lượt đi từ nhà này sang nhà nọ xin nhờ sự bố thí một cách khó khăn…
Như thường lệ, sáng nay đức Thế-Tôn vào thành để giáo hóa. Bình đẳng, không phân biệt nghèo giàu, sang hèn. Ngài đi hết phố này đến xóm khác.
Ni-Đề, một thanh nhiên thuộc giai cấp Chiên-đà-la, giai cấp thấp nhất ở Ấn-Độ, đang gánh một gánh phân chạy lon bon trên con đường xóm, thấy đức Phật, chàng bối rối, sợ sệt vội rẽ qua đường khác và tự than trách : chàng nghĩ rằng mình đã sinh vào nơi thấp kém mà còn phải làm những việc đê hèn như thế này nữa, thật là vô phước quá, đồng là người thì tại sao người ta lại dìm nhau trong cuộc sống. Tuy rẽ qua đường khác nhưng đôi mắt chàng vẫn đăm đăm hướng về hình ảnh nghiêm trang, sáng rực hào quang của đức Phật. Một sự ước ao trào dậy trong lòng chàng : Ôi ! Biết bao giờ ta được trực tiếp gặp đấng sáng suốt kia. Càng nhìn lòng chàng càng cảm mộ. Tuy chưa gặp đức Phật lần nào, song đức hạnh hoàn toàn của Ngài, chàng đã được nghe nhiều người kể lại.
Hiểu tâm niệm Ni-Đề qua những cử chỉ rụt rè và đôi mắt đăm chiêu, đức Phật bước nhanh về phía Ni-Đề. Thấy Phật đến, Ni-Đề hoảng hốt vì tự thấy mình nhớp nhúa không đáng gần Phật, phần sợ người bắt tội nên chàng nhanh chân lẩn tránh.
« Con ôi ! Như-Lai đến với con đây ! Sao con lại tránh ». Đức Phật ở xa nói lại với một giọng trong thanh, êm ái.
Để đôi thùng xuống, run rẩy Ni-Đề quỳ thưa : « Bạch Ngài con không dám… Có điều chi dạy bảo xin Ngài ban cho, xin Ngài đừng đến gần con… »
Đức Phật bước thêm và tiến sát Ni-Đề. Ni-Đề cúi xuống và sắc mặt biến xanh, ra vẻ sợ sệt lắm. Nở một nụ cười chan chứa tình thương đức Phật nói : « Con ơi ! Không ai có quyền bắt tội con đâu, vì chính Như-Lai đến với con, chứ không phải con đến với Như-Lai. Hơn nữa, Như-Lai nay không phải là người trong giai cấp vua chúa như Thái-tử Tất-Đạt-Đa ngày xưa, mà là người của tất cả chúng sanh, nhất là của hạng người đau khổ như con. Như-Lai muốn nói với con một vài câu chuyện… »
Nghe qua những lời nói hiền dịu và có lý của đức Phật, Ni-Đề bớt lo sợ và nhìn đức Phật một cách kính mến, chàng thưa : « Chẳng hay đức Thế-Tôn vẫn đoái hoài với người cùng khổ này sao ? Và con cũng được Như-Lai dạy bảo và được thật hành theo đạo Như-Lai nữa sao ? »
Một cách nghiêm nghị, đức Phật hỏi : « Ai đã làm cho con thắc mắc những điều ấy ? »
- Bạch Thế-Tôn, những đạo sĩ Bà-la-môn thường nói chỉ có giai cấp họ và người trong dòng Sát-đế-lợi mới có quyền thờ kính Hiền thánh và có quyền giao thiệp với những người đồng giai cấp, chứ bọn con thuộc dòng hạ tiện không có phép làm những việc như họ làm và phải trọn đời phục dịch cho họ…
Ni-Đề muốn nói nhiều nữa, song đức Phật ngắt lời và hỏi : « Vậy con không biết Như-Lai ra đời để cứu khổ cho chúng sanh bằng cách phá tan những sự mê tín dị đoan, ỷ lại thần quyền và đưa chúng sanh đến cuộc sống bình đẳng an vui sao. Thôi giờ đây, con có muốn sống một đời sống tươi đẹp và rộng rãi không. Và con muốn sống gần Như-Lai không ? »
Sung sướng đến chảy nước mắt, Ni-Đề đáp : « Đó là điều mà con tưởng không bao giờ thực hiện được nếu được Như-Lai cứu độ thì đó là một phước lành cho con vậy ».
Dịu dàng đức Phật cầm tay Ni-Đề dắt đến bờ sông gần đấy… Tắm rửa xong, Ni-Đề theo đức Phật trở về tịnh xá Kỳ-hoàn được Phật và Giáo-hội thâu nạp cho làm Tỳ-kheo, qua một thời gian tinh tấn tu luyện, vị Tỳ-kheo mới nhập đạo này đắc quả Tu-đà-hoàn rồi lần chứng quả A-la-hán.
Bấy lâu Ba-Tư-Nặc vương bất bình và không hiểu tại sao đức Phật là người của dòng hào thế Thích-Ca mà lại độ đệ tử phần nhiều là những người ở hai giai cấp dưới. Nay lại được nghe đức Phật vừa độ cho Ni-Đề, ông càng bất bình hơn nữa. « Đảnh lễ ai chứ ta không đảnh lễ anh chàng Ni-Đề được… » Ba-Tư-Nặc vương lẩm bẩm như vậy. Càng nghĩ càng tức giận, Ba-Tư-Nặc vương liền cùng với các vị cận thần đi đến tịnh xá Kỳ-hoàn để xin Phật đừng độ cho Ni-Đề làm Tỳ-kheo và từ rày về sau đừng cho những người thuộc cấp hạ tiện (theo quan niệm của ông và những người trong hai giai cấp trên) xuất gia.
Vừa đến tam quan tịnh xá Kỳ-hoàn, thấy một vị Tỳ-kheo đang ngồi trên một hòn đá lớn khâu vá chiếc áo cũ, Ba-Tư-Nặc vương liền đến nhờ vị Tỳ-kheo ấy vào bạch Phật xin cho ông yết kiến.
Nhận lời, vị Tỳ-kheo liền xuyên qua hòn đá và ẩn mình đâu mất, làm cho Ba-Tư-Nặc vương và các cận thần hoảng sợ nhưng vô cùng khâm phục !
Một lát sau, cũng từ hòn đá ấy hiện ra, vị Tỳ-kheo khi nãy trả lời cho Ba-Tư-Nặc vương : « Đại vương cứ vào, đức Thế-Tôn đã hứa cho ». Ba-Tư-Nặc vương bái chào rồi đi ngay vào tịnh xá.
Đảnh lễ đức Phật xong, Ba-Tư-Nặc vương liền hỏi : « Bạch Thế-Tôn ! Thầy Tỳ-kheo vừa xin cho con vào yết kiến là ai và tên gì mà có thần thông quảng đại như vậy. Thầy đã xuyên qua đá cứng một cách nhẹ nhàng tự tại… »
- Đại-vương ! Ấy là Ni-Đề, người gánh phân ở thành Xá-Vệ mà ta đã độ cách đây hơn một tháng, nay đã chứng A-la-hán nên có những thần lực như vậy.
Thấy Ba-Tư-Nặc vương im lặng và ra chiều suy nghĩ. Đức Phật ôn tồn nói thêm : « Nầy đại vương ! Trong đất bùn nhơ nhớp nở lên những cánh sen đầy hương thơm tinh khiết. Đại vương có thích và có ưa hái không ? »
- Bạch Thế-Tôn ! nếu là hoa đẹp hương thơm thì không ai không quý và không muốn hái để ngắm nghía trang hoàng cả.
- Đại vương ! Cũng vậy tuy là người ở trong các giai cấp dưới (ấy là do con người phân chia), nhưng nhờ sự trao giồi đức hạnh, rèn luyện trí tuệ mà trở thành Thánh Hiền thì người trí tuệ có nên cung kính cúng dường không ?
- Bạch Thế-Tôn ! đã là Thánh Hiền thì rất đáng cho phàm phu chúng con cung kính cúng dường lắm !
- Lành thay ! Đại vương quả là người sáng suốt biết quý trọng « giá trị chân thật » của con người.
Mặt trời làm tan mây mù ra sao thì những lời của đức Phật cũng làm tan những ý niệm khinh dể chán ghét Ni-Đề và các người trong hai giai cấp dưới của Ba-Tư-Nặc vương thế ấy… Bắt đầu từ đó ông vô cùng kính phục tài năng và đức hạnh của Ni-Đề, vị Tỳ-kheo mà ông đã gặp ở Tam-quan.
Ba-Tư-Nặc vương lại xin Phật cho thỉnh A-la-hán Ni-Đề ngày mai vào nội thành để giáo hóa cho Hoàng-tộc và nhân dân và cũng để ông cúng dường luôn thể. Phật hứa cho, Ba-Tư-Nặc và các vị cận thần đảnh lễ và trở ra tam quan để trực tiếp cung thỉnh vị A-la-hán thần thông tự tại khi nãy.
Được vị A-la-hán này chấp nhận, Ba-Tư-Nặc vương vô cùng sung sướng. Trên đường về ông không ngớt tán thán đức Phật, đấng hiện thân của bình đẳng và Giáo-hội của Ngài là một đoàn thể đầy đủ tài năng và đức độ. (Thiện-Chân – Trích Truyện cổ Phật giáo, quyển 6)
« Công chúa Nhật-Quang »
Công chúa Nhật-Quang là con hai của vua Ba-Tư-Nặc nước Xá-vệ. Công chúa rất đẹp, một vẻ đẹp thùy mị hơn hẳn các thiếu nữ đương thời ở nước Xá-vệ ; công chúa lại rất thông minh, học đâu nhớ đấy. Không những công chúa sắc sảo về môn nữ công mà còn tinh thông các triết lý học thuật ; đức hạnh công chúa cũng quán chúng, tuy sanh trong giai cấp vua chúa cao sang, nhưng vẫn giữ thái độ khiêm tốn nhã nhặn, nhất là đối với hạng nghèo khổ tật nguyền, công chúa thành thật yêu mến và luôn luôn tìm cách giúp đỡ. Vì thế nên công chúa được rất nhiều người mến trọng. Người nào đã hân hạnh gặp công chúa một lần, họ sẽ nhớ mãi nụ cười hiền hòa và lời nói thanh tao của công chúa. Đối với cha mẹ, công chúa thật là người con hiếu hạnh, nàng hầu hạ vua và hoàng hậu hết sức chu đáo, và không bao giờ nói một lời hay làm một việc trái ý vua và hoàng hậu.
Ba-Tư-Nặc vương được một người con xứng đáng như vậy, vua rất cưng quý, có thể nói công chúa Nhật-Quang là viên ngọc vô giá của vua nước Xá-vệ. Những cuộc quan sơn ngoạn thủy của vua, công chúa đều được tham dự, mỗi khi quốc sự rảnh rang, nhà vua thường đòi công chúa đến hầu chuyện, hỏi những vấn đề thắc mắc công chúa đều trả lời trôi chảy, nhà vua rất đẹp dạ.
Một buổi chiều nhà vua đang dùng trà tại vườn ngự uyển, có công chúa đứng bên cạnh, nhà vua nhìn con rồi vui miệng phán rằng : « Khắp nước Xá-vệ này không ai được sung sướng bằng con, đời con được như thế thật là hoàn toàn nhờ sức của cha mẹ tác thành vậy ».
Công chúa Nhật-Quang thành thật trả lời : « Tâu phụ vương, công ơn sanh dưỡng của Phụ-hoàng và Mẫu-hậu như trời bể, con không hề dám quên. Nhưng đời con được hạnh phúc như thế này, con thiết tưởng cũng ảnh hưởng của cha mẹ một phần nào, nhưng phần lớn nhờ kiếp trước con đã tu thân tích đức nhiều vậy ».
Câu nói của công chúa không ngờ đã chạm lòng tự ái của vua Ba-Tư-Nặc quá mạnh, vua liền đứng dậy lặng lẽ trở vào cung.
Đêm hôm ấy, nhà vua không hề chợp mắt, suy nghĩ mãi lời nói của công chúa, và nhà vua rất bực tức, đứa con yêu quý và ngoan ngoãn của mình chưa bao giờ trái ý mình dù là một cử chỉ nhỏ nhặt, hôm nay lại xúc phạm đến lòng từ ái của mình, có thể nói là không thừa nhận một lý thuyết (nghĩa là hạnh phúc của con hoàn toàn do cha mẹ tác thành) mà ông cho là muôn đời bất biến và ai cũng phải công nhận.
Muốn bảo thủ thành kiến của mình, nên mới sáng tinh sương, Ba-Tư-Nặc vương liền đòi viên cận thần thân tín bảo rằng : ta cần một thanh niên trạc tuổi công chúa Nhật-Quang mà hiện đang sống trong một cảnh nghèo hèn, cơm không có ăn, áo không đủ mặc, ngươi phải tìm cho ra một người có đủ điều kiện ấy, dẫn về đây cho ta.
Ba ngày sau, viên cận thần dẫn về một thanh niên hành khất, mặt mũi khôi ngô, nhưng trong người chỉ mặc vỏn vẹn một chiếc khố rách đến yết kiến vua Ba-Tư-Nặc. Vua rất mừng ban thưởng viên cận thần xong, quay lại hỏi thân thế thanh niên hành khất rồi bảo rằng : Ta thấy ngươi nghèo khổ, chưa có gia thất, nay ta đem Nhật-Quang công chúa gả cho ngươi, ngươi được quyền dẫn công chúa đi đâu tùy ngươi. Thanh niên nghèo khổ kia không biết trả lời ra sao chỉ cúi đầu vâng lệnh.
Vua lại kêu công chúa Nhật-Quang đến phán rằng : « Hôm kia con đã nói : « Hạnh phúc của con hiện tại phần lớn là do con đã tu nhân tích đức ngày trước ». Nay ta muốn thí nghiệm lời ấy, nên ta đã gả con cho một thanh niên hành khất, nếu con có phước báo thì con cũng trở nên giàu có sung sướng. Con hãy sửa soạn ngày mai lên đường với chồng con, khi nào có chiếu chỉ mới được trở về cung ».
Với nét mặt đầy nghiêm nghị của Ba-Tư-Nặc vương, công chúa không dám nói gì, chỉ yên lặng trở vào hậu cung.
Sáng ngày công chúa vào lạy cha mẹ, từ biệt mọi người, rồi bình tĩnh ra đi với thanh niên hành khất.
Hoàng hậu và thần dân đều thương xót và khóc lóc, lo ngại cho số phận công chúa, nhưng ý vua đã quyết nào ai còn dám mở lời khuyên can !
Ra khỏi hoàng cung, công chúa hỏi thanh niên hành khất rằng : « Cha mẹ chàng đâu ? nhà cửa chàng đâu ? vì sao chàng lại nghèo khổ đến thế ? »
Thanh niên buồn rầu đáp : « Gia đình tôi trước cũng giàu có, vì được cha mẹ cưng quý, tôi tiêu xài hoang phí, ham chơi bời với chúng bạn, có học tập nhưng không đậu đạt gì, đến khi cha mẹ qua đời, tôi bán hết ruộng đất nhà cửa, hiện nay chỉ còn một sở vườn cách đây ba trăm dặm, cỏ lác mọc đầy, cho người ta mướn, họ không mướn, bán họ không thèm mua, hết của cải, không nghề nghiệp, không biết làm gì nuôi thân, nên phải hành khất độ nhựt. Hôm kia tôi đang lang thang giữa đường, thì gặp một vị quan của vua, ông ta hỏi cặn kẽ về gia thế tôi, rồi ông dẫn tôi yết kiến nhà vua, không biết vì sao nhà vua lại đem công chúa gả cho một kẻ nghèo hèn như tôi ? »
Vẫn nét mặt ôn hòa, công chúa nói với thanh niên hành khất rằng : « Dù sao từ nay chúng ta cũng đã là vợ chồng, chúng ta phải tìm phương kế làm ăn và trước hết phải tìm nơi tạm trú ».
Không biết tìm chỗ nào khác, nên công chúa và thanh niên hành khất liền dẫn nhau đến sở vườn của cha mẹ thanh niên để lại. Thật là một mảnh vườn hoang phế, cỏ lác um tùm, sỏi đá lởm chởm. Hai người bàn định cắt cỏ đốn tre che một chòi nhỏ vừa tạm ở, những người chung quanh đấy có người biết công chúa Nhật-Quang nên cùng nhau đến giúp đỡ công việc cho công chúa. Đến khi đào đất để dựng cột nhà, vừa đào được vài lát đất thì gặp ngay ba cái chum lớn niêm khằn cẩn thận. Công chúa liền mở chum ra thì thấy trong ba cái chum ấy, vô số là vàng bạc châu báu, công chúa vui mừng sung sướng, đem bán bớt một số châu báu, rồi mướn người dọn dẹp cỏ rác, trồng tỉa hoa quả, tạo lập lâu đài… Vốn sẵn tính hiền lành lại sẵn lòng thương yêu giúp đỡ mọi người, nên thợ thuyền tôi tớ rất trung thành tận tụy, không bao lâu đám vườn hoang phế kia biến thành một vườn hoa trăm sắc muôn màu, lâu đài trang hoàng lộng lẫy, người vô kẻ ra tấp nập không khác dinh thự của bậc đế vương.
Từ khi công chúa rời khỏi cung điện, vua Ba-Tư-Nặc sinh lòng hối hận đêm ngày trông nhớ, nhà vua đinh ninh rằng : Công chúa lâu nay chắc gặp nhiều khổ sở và định đón công chúa trở về cung để an hưởng cảnh đoàn viên phú quý. Nhà vua liền phái một số cận thần tìm nơi công chúa ở và dò xem đời sống của công chúa ra sao ?
Sau một thời gian dò xét, các cận thần về tâu với nhà vua : « Công chúa ở cách xa cung điện nhà vua chừng ba trăm dặm và hiện đang ở trong cảnh phong lưu sung sướng giàu có ức triệu ». Vua Ba-Tư-nặc không tin, liền đến nơi dò xét quá đúng như lời các cận thần. Nhà vua nói với các tả hữu rằng : « Trẫm thấy đời sống của vợ chồng công chúa Nhật-Quang hiện tại, tuy trẫm làm vua một nước, thật cũng không sung sướng bằng ».
Nhưng vua cũng băn khoăn thắc mắc không biết tiền kiếp công chúa đã tu những nhân lành gì mà nay được nhiều phước báo như vậy.
Vốn nghe Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni là bậc đại giác nên vua thân hành đến tịnh xá Phật thuyết pháp, cung kính bạch rằng : Bạch Thế-Tôn ! nghe danh ngài là bậc đại giác chúng Nhất-thế-trí, hiểu thấu việc trong ba đời, nay đệ tử có điều nghi xin ngài chỉ dạy : « Nhật-Quang công chúa thứ hai của đệ tử, không biết đời trước tạo nhân lành gì, mà ngày nay tướng mạo đẹp đẽ, thông minh xuất chúng, giàu có sang trọng… Đệ tử đã thử gả cho một kẻ hành khất nghèo hèn thế mà công chúa cũng đào được vàng bạc rồi trở nên sang trọng hơn người ».
Đức Phật Thích-Ca nở nụ cười từ hòa muôn thuở, thong thả dạy rằng :
« Nghi vấn Đại-vương sẽ tiêu tan sau khi nghe câu chuyện này :
« Nầy Đại-vương ! Xưa kia khi Đức Phật Ca Diếp ra đời, có hai vợ chồng người lái buôn giàu có, người vợ rất tôn kính Tam Bảo, thường khuyến khích mọi người bỏ việc ác làm việc lành, qui y Tam-Bảo, lại hay làm các việc bố thí cúng dường, nhất là đối với kẻ tàn tật, nàng hết sức thương mến và tận tâm săn sóc. Người chồng lại có tánh bỏn sẻn, mỗi khi thấy vợ làm việc cúng dường bố thí, thì tỏ ra thái độ bất bằng, tìm cách ngăn cản. Một hôm gặp ngày Nguyên-đán, người vợ thành tâm sắm sửa lễ vật để cúng dường Tam-Bảo và bố thí kẻ nghèo trong ba ngày, người chồng thấy vậy bực tức nói rằng : « Hãy để lại tiền của mà sắm sửa thêm nhà cửa ruộng đất, chứ những việc ấy thêm hao tốn, phỏng có ích gì ! » Người vợ dịu dàng trả lời : « Của cải là vật vô thường, ta không bỏ nó, rồi nó sẽ bỏ ta, hơn nữa những kẻ nghèo khổ hiện tại, theo trong kinh Phật dạy, đều do đời trước tham lam ích kỷ, không biết dùng tiền của làm các việc phước thiện ; ngày nay đời sống của vợ chồng chúng ta, tạm gọi là khá giả, chúng ta nên dùng một số tiền làm các việc phước thiện để bảo tồn hạnh phúc tương lai cho chúng ta và cũng gọi là góp một phần trong công việc nghĩa chung vậy ». Nghe mấy lời giải thích của vợ, người lái buôn mới tỉnh ngộ và cảm động, từ đó anh không ngăn cản vợ mà lại rất hăng hái trong việc làm phước đức…
« Nầy Đại vương ! vợ người lái buôn xưa kia chính là công chúa Nhật-Quang ngày nay, đời trước nàng thường khuyến khích mọi người bỏ ác làm lành, qui y tam bảo, nên nay được quả báo thông minh xuất chúng ; đời trước sốt sắng cúng dường bố thí, nên nay được quả báo sung sướng giàu sang, nhiều người mến phục ; đời trước tận tâm săn sóc giúp đỡ kẻ tàn tật, ngày nay được quả báo nhan sắc đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang.
« Người lái buôn xưa kia chính là chồng công chúa hiện tại, ngày trước lúc chưa tỉnh ngộ, anh ta đã bỏn sẻn hay ngăn cản việc làm phước thiện của vợ, nên ngày nay phải chịu đói rách một thời ».
Vua Ba-Tư-Nặc nghe Phật kể rõ tiền kiếp của công chúa Nhật-Quang, nhà vua mới tỉnh ngộ, và rất thâm cảnh đạo lý nhân quả tội phước của Phật. Rồi vua cúi đầu đảnh lễ đức Phật ra về.
Về đến cung, công việc đầu tiên của nhà vua là cho người đón rước vợ chồng công chúa Nhật-Quang về. Gặp công chúa, vua Ba-Tư-Nặc khôn xiết vui mừng, vua không quên nói nhiều lời hối hận, với công chúa Nhật-Quang cũng rất sung sướng được gần gũi phụng sự cha mẹ, và giúp vua cha trong việc trau giồi đạo đức, bảo quốc an dân. Thanh niên hành khất chồng công chúa, cũng được vua phong cho một chức quan cao cấp trong triều đình. (Quảng-Tiến – Trích Truyện cổ Phật-giáo, quyển 6).
Những mẩu chuyện chúng tôi vừa trích dẫn trên đây chứng tỏ căn bản suy tư của Phật học tiến triển theo thời gian, mặc dù về tính chất đạo lý chúng ta cảm thấy như không thay đổi.
Tuy nhiên, từ chỗ dứt bỏ dục vọng cá nhân, phủ nhận mọi tác động của cá tính trong lẽ sống đến chỗ đem suy tư kết thành ý thức tranh đấu để bảo vệ quan niệm đạo lý, Phật học còn tiến xa hơn nữa trên yếu tố tăng trưởng của thời gian.
Cho đến nay, chúng ta không còn thấy Phật học đứng trong trạng thái « tự giác và giác tha » theo nguyên lý cổ điển nữa, mà đã đem ý thức tự giác và giác tha đặt vào vòng đấu tranh xã hội. Muốn tự giác, người Phật tử cần tranh đấu với bản thân đã đành, mà còn phải tranh đấu với xã hội. Muốn giác tha, người Phật tử không những đem lý thuyết Phật học truyền bá mà còn phải tranh đấu với mọi hình thức tổ chức xã hội tác hại vào hệ thống triết học của nhà Phật nữa.
Hiện tượng thay đổi về cảm nghĩ con người trong giáo lý nhà Phật chúng ta thấy bộc lộ rõ rệt nhất trong xã hội Việt-nam, nơi mà trạng thái biến động của thời gian, không gian khơi nguồn một cách đột ngột nhất.
Để chứng minh điều đó, chúng tôi lại xin trích dẫn ở đây một ít quan niệm mới.
Trong quyển Xây dựng nhân sinh quan Phật giáo do Vạn Hạnh xuất bản vào năm 1969, ông Thái-đạo-Thành, tác giả tập sách khảo luận ấy đã viết ở lời mở đầu : « Đạo Phật, một vấn đề đang làm sôi động miền Nam từ địa hạt tôn giáo, đến nhân sinh và chính trị. Vấn đề được đặt ra là sau khi hiệp định Genève chia cắt nước Việt-nam ra làm hai miền Quốc, Cộng. Rồi tiếp theo là việc ông Ngô-đình-Diệm về nắm chính quyền có phần chênh lệch về Ki-tô-giáo. Nên các vị tăng sĩ Phật giáo đã tích cực chuẩn bị việc bảo vệ giáo lý của mình bằng việc in kinh, giảng đạo, xây chùa để chờ ngày đối phó… »
Ngay ở tựa đề quyển sách, chúng ta đã thấy rõ quan niệm Phật học diễn biến theo thời gian tính rồi. Dù căn bản Phật học được duy trì, nhưng quan niệm giáo lý không thể đứng yên một chỗ trong quá trình tiến triển của thời gian.
Trước nhất, chúng ta tự hỏi tại sao người tín đồ Phật giáo đến ngày nay lại phải « xây dựng một nhân sinh quan » cho Phật giáo ? Chẳng lẽ triết thuyết nhà Phật trải mấy ngàn năm lại không tự nó xác định một nhân sinh quan sao ?
Chúng ta phải thành thực mà nói, cho đến ngày nay, chẳng những riêng ông Thái-đạo-Thành tác giả quyển Xây dựng nhân sinh quan Phật giáo muốn đặt lại ý thức tu hành, mà còn nhiều tín đồ Phật học cũng chủ trương như vậy.
Hiện tượng này chứng minh suy tư con người không có tính chất cố định. Đã không cố định, dĩ nhiên không một suy tư nào mang một giá trị vĩnh cửu được. Cho nên, vũ trụ quan của người xưa không là vũ trụ quan của thế hệ chúng ta ngày nay. Mọi suy tư chỉ có giá trị từng thời điểm, do đó, dù một tôn giáo, một triết thuyết, khi màu thời gian đã đổi khác thì ý thức tôn giáo, hoặc quan niệm triết học ấy cũng đổi mới theo thời điểm hiện hữu.
Lịch sử diễn biến của Phật học khi tác động vào lịch sử xã hội loài người vì thế mà có những đổi thay về quan niệm tu hành.
Tính chất đổi thay ấy từ chỗ lánh tục đến chỗ giác ngộ thế tục một cách khách quan, rồi đi dần đến chỗ đấu tranh với thế tục bằng ý thức chủ quan như ngày nay.
Chỉ một đoạn văn mở đầu trong quyển Xây dựng nhân sinh quan Phật giáo, chúng ta đã thấy ông Thái-đạo-Thành đem nhân sinh quan của nhà Phật gắn liền với trạng thái biến chuyển về chính trị trong lịch sử xã hội loài người, mà trước kia, người Phật tử khi dấn thân vào đạo không thể suy tư như vậy.
Ở đoạn đầu, trong mục Minh định Phật, ông Thái-đạo-Thành viết : « Danh từ Phật có từ khi đức Phật ra đời cách đây trên hai nghìn năm trăm năm, và truyền vào đất Việt từ thế kỷ thứ hai Dương-lịch, thịnh hành nhất trong lịch sử Việt vào thế kỷ thứ XI. Người Việt đa số theo Phật giáo. Tiếc rằng từ khi người Pháp cai trị nước Việt với chủ trương kỳ thị tôn giáo bản xứ, nên đã gạt bỏ ảnh hưởng Phật giáo ra khỏi chính quyền, cũng như tìm cách khu định Phật giáo trong phạm vi tôn giáo ở đáy tần xã hội mà thôi. Vì vậy ngày nay mỗi người lại hiểu đạo Phật theo một khía cạnh riêng… Cho nên, muốn xây dựng một nhân sinh quan cho đúng nghĩa của đạo Phật trong giai đoạn lịch sử hiện đại, việc trước tiên là phải định nghĩa rõ danh từ Phật, rồi từ đó mới có thể phân chia hai ngả Đạo và Đời. Để sau cùng người Phật tử có thể ý thức rõ bổn phận của mình trước cửa ngõ thời đại. Vì Phật tử khác với các bậc tu hành là phải xây dựng đời sống của mình sao cho có bát cơm đầy, manh áo ấm, đời sống vui, bước tiến hóa, chứ chúng sinh không thể thoát ly xã hội theo ngả Đạo được ».
Ở đây không phải chỗ để chúng ta tán đồng hay không tán đồng một quan điểm, mà chúng ta chỉ nói lên tính chất diễn biến của suy tư trên dòng lịch sử thời đại. Dù sao, với những ý tưởng trên, không ai có thể phủ nhận tính chất biến đổi của tâm tư, khi màu thời gian đã theo trạng thái xã hội đổi thay.
Một đoạn khác, cũng trong quyển Xây dựng nhân sinh quan Phật giáo, ông Thái-đạo-Thành minh định tư tưởng bình đẳng và tự do của đức Phật. Ông viết : « Giác ngộ như thế nào ? Hãy giác ngộ nguyên tắc « nhất nhất chúng sinh đều bình đẳng và tự cứu mình » như lời Phật đã dạy. Vì có thực hiện được chủ trương bình đẳng và tự do trong xã hội loài người thì mới chấm dứt được chiến tranh cứ hằng kéo dài suốt trong thế giới, suốt dọc lịch sử loài người. Với chủ trương đó, chúng ta hy vọng rằng nhân loại sẽ không đi tới chỗ tận thế bởi bom nguyên tử, và nhân loại cũng sẽ không còn điên khùng mang tài sản, sinh mạng ra hy sinh một cách vô ích mãi mãi nữa. Chúng ta cũng không còn bi quan yếm thế coi đời là bể khổ và không tài nào tạo lại được luân hồi, bình trị được âm dương, khiến nhân loại cứ kéo dài hết chiến tranh này tới chiến tranh khác nữa ».
Ở đây, chúng ta lại thấy một diễn biến khác nữa về suy tư. Nếu tự nghìn xưa Phật học chủ trương tách rời khỏi cái vòng luân hồi bằng tự giác cá nhân, thì ngày nay, suy tư con người lại dẫn đến ý thức tích cực hơn, tức là không còn đặt vấn đề tự giác cá nhân nữa mà nhảy vào cái vòng luân hồi để sửa đổi trạng thái biến động của nó. Mà như thế cũng có nghĩa là dấn thân vào con đường tranh đấu xã hội.
Cho nên, ở phần VII, trong Xây dựng nhân sinh quan Phật giáo, ông Thái-đạo-Thành viết : « Người ta thường nói : « Tranh đấu để bảo vệ sự sống » nhưng nếu ta quan niệm rằng « sống tức là tranh đấu » thì con người bất cứ ở thời đại nào, ở hoàn cảnh nào cũng phải tranh đấu hết. Vì con người nào không tranh đấu tức là con người đó đã chết, tổ chức nào không tranh đấu, tổ chức đó không thể tồn tại được. Có điều phương pháp tranh đấu của mỗi cá nhân hay đoàn thể thường khác biệt nhau do hoàn cảnh, kỹ thuật và phương châm chỉ đạo mà thôi. Cho nên không chỉ những người mang danh chiến sĩ ngoài tiền tuyến mới là tranh đấu, còn những người ở hậu tuyến hay tu sĩ ở chùa đều không làm nghĩa vụ của một chiến sĩ… »
Trạng thái tâm tư gắn liền với biến động thời gian, cho nên dù chúng ta có duy trì một tư tưởng thời xưa, thì tư tưởng ấy cũng không thể giữ được nguyên trạng nữa.
Đây, chúng tôi xin trích dẫn một ít sự đổi thay về tâm tư, mà những mẩu chuyện này chính là những ý thức phát nguồn từ căn bản Phật học cấu tạo qua trạng thái biến động của thời gian, không gian, nó không còn thuần túy đối với quan niệm xa xưa nữa, nhưng nếu chúng ta bảo rằng những suy tư này đã diễn biến sai lạc, hay phản lại tính chất nguyên thủy thì cũng không đúng.
Nó không phải sai lạc, bởi lẽ, thời gian không cho phép một suy tư nào cố định thì ý tưởng xa xưa làm sao tồn tại mãi. Nó cũng không phản lại tính chất nguyên thủy, bởi vì nguyên thủy và đương thời là hai thời điểm khác nhau. Mỗi thời điểm mang một màu sắc riêng biệt.
Đây, chúng ta thử đứng trước một luồng gió mới của thế kỷ hai mươi, mà tâm tư của lớp người này đang lắc lư như những cánh hoa trong khu vườn trống trải, trước cơn gió loạn điên cuồng :
« Thử hòa điệu sống »
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại khi bắt gặp trên đường, những nét nhăn mà móng vút của cuộc sống đã cày trên trán ai như trán em bây giờ. Những đường tươm máu, gai đời rạch nát trên đôi tay, bởi cái gì cũng muốn nắm bắt. Những nét trầy, những chấm rỗ, đá sỏi trên đường đã đâm thủng đôi chân, bởi chỗ nào cũng muốn giẫm lên.
Vì sao em đày đọa tâm hồn. Giày vò xác thịt, tự hiến dâng mình như một lễ trầm hương, cho lò thí nghiệm lớn, anh đã biết, nên không trách móc mà chỉ xót thương em. Vào độ tuổi em, em cũng đã từng quằn quại với bao câu hỏi luôn luôn quay cuồng trong đầu óc nóng ran, đã từng phân vân, uất ức giữa bao thái độ trái ngược của sự sống mà vẫn không tìm ra được một ý nghĩa thích đáng cho cuộc đời…
… Trong lúc tuổi hai mươi mở rộng cửa ra trước cuộc đời mới lạ, bao nhiêu câu hỏi gắt gao, tới tấp dồn dập đến, xâm chiếm tâm hồn anh. Không thầy, không bạn, anh đã lần hồi tự tìm lấy những lời giải đáp, nhờ một ít giáo dục, một ít kinh nghiệm và ảnh hưởng của Phật giáo… (Trích trong quyển Thử hòa điệu sống trang 9-10 của Võ đình Cường, tái bản kỳ 6-1967)
Dĩ nhiên, với dung lượng thời gian, và tính chất biến động của vạn hữu, chúng ta không còn tìm thấy ở thế hệ chúng ta những tâm tư gần gũi với các truyện cổ tích xa vời mà các tín đồ Phật học đã sáng tạo trong lòng thời gian của họ nữa.
Nhưng, đó chỉ mới là một trong muôn ngàn những đổi thay mới lạ, chúng ta lại còn tìm gặp trong…
« Nghĩa thời gian »
Hoạt động tạo ra những thời gian và sự nghiệp. Ôi muôn vạn cảnh tượng huy hoàng – cảnh tượng huy hoàng của những làn sóng dậy – đã dàn bày trên mặt nước, ai ngờ chỉ nhờ một sức chuyển lay.
Tết đến, sực nhớ thời gian qua, em bỗng động lòng nghĩ đến sự nghiệp mà buồn chăng. Nhưng thời gian là gì, tưởng cũng cần nghĩa thật của nó.
Thời gian chỉ là sự chuyển động. Không chuyển động, không thời gian. Mỗi vật tùy theo thể chất của nó, có một sự chuyển động, một đời sống, một thời gian riêng, thời gian của trăng, của sao, của mặt trời ; thời gian của vi trùng, của tế bào, của phù du. Chỉ có từng thời gian riêng. Không có thời gian chung cho cả vạn vật.
Nhưng muốn tiện lợi, người đời đã đồng nhau đặt ra một thứ thời gian, lấy mặt trăng hay mặt trời làm tiêu chuẩn. Thời gian xưa ấy là sự rút ngắn và duỗi dài ra, dưới ánh mặt trời của bóng chiếc que cắm giữa sân, hay sự chìm dần của một cái hồ đồng ngập nước. Thời gian nay là sự quay tròn của hai chiếc kim đồng hồ. Bỏ những vật ấy đi, có nhiều người sẽ mù mờ trước hai chữ thời gian.
- Nhưng còn mặt trời đó và mặt trăng kia làm sao không nhận ra được nghĩa thời gian trong ấy.
- Ừ thì có mặt trời và mặt trăng thật đấy. Nhưng quay đi quay lại rút cuộc cũng chỉ có hai bề trắng đen : sáng và tối, đêm và ngày ! Mọc và lặn, cái cử chỉ lặp đi lặp lại ấy của mặt trời từ muôn vạn đời với một ngày, nào có khác gì nhau.
- Vâng, em hiểu lắm, thời gian của một ngày này không khác một ngày kia, nhưng sau ba tháng, chúng ta lại nghe đổi một cảm giác. Bốn mùa còn đấy, chúng ta còn cảm thấy ấm rồi nực, mát rồi lạnh…
- Rồi sao nữa. Hay lại trở về bốn cảm giác trước. Bốn mùa qua rồi bốn mùa lại. Trên đường thời gian chúng ta đi tới hay đi lui, trở về sau hay tiến tới trước. Ở đây thật ra, tới hay lui, sau hay trước cũng đồng một nghĩa như nhau, không làm sao phân biệt được. Tới là lui, đi là về. Hai đầu : trước và sau cùng nhau giáp mối thành một vòng tròn mà hai chiếc kim đồng hồ là tượng trưng. Phút trước qua rồi phút sau lộn lại. Để nhận rõ sự vô nghĩa của thời gian trừu tượng kia, em hãy lắng nghe cuộc cãi vã bất diệt của hai tiếng « tíc tắc ». Tiếng tíc bảo : « Tôi là hiện tại, nhưng cũng là dĩ vãng đây rồi ; tiếng tắc sau tôi mới thật là tương lai ». Dĩ vãng, tương lai ; tương lai, dĩ vãng tráo trở trong hai tiếng tíc tắc ! Tóm lại, cái kim nhỏ chạy đủ một vòng trên mười hai khoảng của mặt đồng hồ, mặt trời chìm xuống phương tây và nổi dậy ở phương đông ; ba mươi hay ba mươi mốt tờ lịch rơi vào giỏ rác, chìa bàn tay ra lãnh những đồng bạc đỏ xanh sau một tháng làm việc ; bốn lần thay đổi y phục cho hợp bốn thời tiết (ở những xứ ôn đới) ; móc vào chiếc đinh cũ một quyển lịch mới ; vài tràng pháo tan vỡ ở một vài nơi mừng Tết… Bao nhiêu hình dáng, cử chỉ ấy đã chưng bày rõ rệt lên một thời gian trừu tượng chung cho loài người giữa sự chuyển biến vô cùng vô tận của một không gian vô thủy vô chung.
Nhưng cái thời gian chung mà nhân loại đặt ra ấy, thật không có tánh cách gì chung cho ai cả. Có người siêng năng lấy ngày thâm vào đêm để làm việc ; có người lười nhác lấy đêm thâm vào ngày để ngủ. Có người già mà chưa một lần đã trẻ ; có kẻ trẻ mãi cho đến lúc đậy quan tài. Như thế đấy ! Chỉ có thời gian thiết thực riêng của từng người theo từng tâm trạng, trong từng hoàn cảnh. Một phút đợi chờ dài hơn một giờ hạnh ngộ. Một ngày vui qua nhanh như tiếng pháo nổ. Một phút đau khổ dài tợ một thế giới đứng yên. Khi sung sướng, khi bận rộn là thời gian vụt bay theo cánh chim đại bàng. Để cho Lamartine sống 100 năm trên mặt hồ Leman bên cạnh Elvire, nhà thi hào ấy cũng cứ cầu khẩn : « Ôi thời gian ! hãy dừng cánh lại. Giờ ngọc vàng, xin hãy khoan bay ». Cho nên không có thời gian chung cho cả vạn vật. Cũng không có thời gian chung cho cả nhân loại. Chỉ có thời gian riêng của từng tâm trạng.
Chỉ có thời gian riêng của từng tâm trạng. Thế mà sao em lại giật mình khi thấy năm qua. Cử chỉ ngạc nhiên và kinh hãi ấy là thật quá nông nổi ! Sợ mau già chăng ? Làm già, ít bởi tháng năm, nhưng rất nhiều là bởi dục vọng. Bao nhiêu người đã già trước tuổi. Thân hình măng non của họ đã ê chề, lụn bại bởi đã làm tay sai cho bao nhiêu đòi hỏi của dục vọng. Làm như vậy rồi trách thời gian đã sớm đem họ xuống mồ, có ai bất công hơn thế nữa?
Chỉ có thời gian riêng của từng tâm trạng. Thế mà sao em lại sớm khóc đời em khi thấy năm qua. Vì sợ đến ngày trên ba mươi tuổi mà chưa làm nên sự nghiệp? Làm như ba mươi tuổi đã già lắm rồi! và đoạn đời trên ba mươi là không đáng kể nữa. Công lệ của người đặt ra, năm tháng đã trở thành một mãnh lực có thể ràng buộc người ta đến thế sao? Ba mươi tuổi, bốn mươi tuổi! những danh từ trống rỗng ấy đã có một bí thuật ghê gớm làm bủn rủn tay chân người ta đến thế sao? Thành kiến, thành kiến tất cả! Thật ra không có một thời hạn nào nhất định, đến đó người ta phải bó tay thôi đeo đuổi sự nghiệp.
Chỉ có thời gian riêng của từng tâm trạng thôi, em ạ ! Thế mà sao em lại sợ đời em quá ngắn. Sống một trăm năm chưa chắc là nhiều ; sống một ngày chưa chắc là ít. Chớ đem năm tháng mà tính sổ đời mình. Một trăm năm của người lười nhác không bằng một tháng của kẻ siêng năng. Sống làm chi cho nhiều để chỉ quẩn quanh trong chừng ấy dáng điệu : ăn ngủ, ngủ ăn ? Và để một hôm trước khi ngủ thẳng, mới giật mình kinh hãi vì nhìn lại sau mình, thấy một khoảng thời gian trống rỗng, trong ấy mình đã sống chẳng chút đổi thay ? Dấu tích quá nghèo nàn, họ có cảm tưởng như đời mình đã phớt qua như một bóng chân ngựa qua cửa sổ !
Sống 100 năm chưa hẳn là nhiều. Sống vài mươi năm chưa chắc là ít. Ngây thơ thay những người xưa đã vào rừng tìm thuốc trường sinh mà không bao giờ gặp. Sống khác chết chỉ ở sự nhận cảm và sự hoạt động. Sống với một tâm hồn khô khan, một tinh thần trống rỗng, sống bao nhiêu thế kỷ cũng là thừa. Ai mong ước gì đời sống của một cây đại thọ? Nó sống lâu chứ phải đâu sống nhiều. Lòng mong ước của chúng ta ít ở sự được sống lâu, nhưng rất nhiều là được sống rộng, sống mạnh.
Sa thải những mầm xấu xa có thể ung độc sự sống, làm phát triển những tính tình, những tư tưởng đẹp đẽ trong mỗi người, nghĩa là luôn luôn tranh đấu giữa mình với mình để vượt lên trên mình, đấy là sống mạnh. Phá dần thành trì ngăn che Ta và Người, liên lạc nhau qua những dây thân mến, những sóng lạc quan, nghĩa là vượt ra khỏi cái tâm nhỏ hẹp để giao hòa với cái tâm rộng lớn, đấy là sống rộng. Một đời làm được như thế thử hỏi còn một sự nghiệp nào có giá trị hơn nữa, còn một thời gian nào quý báu hơn nữa ?
Có lẽ để khuyến khích, cổ võ tài sức và lòng hăng hái của chúng ta, vạn vật đã hiệp nhau tổ chức một mùa xuân mới, sau những ngày đông giá lạnh.
Mùa đông già cỗi thế kia còn trổi dậy được để chuyển mình thành một chàng thanh xuân mười tám, cớ sao những chàng trai mười tám như em lại muốn nằm xuống giường bệnh của người già?
Lòng chúng ta cũng phải bắt chước Vạn-vật mà tạo hóa lại lòng ta. Đừng nghĩ rằng một mùa xuân qua là một mùa xuân mất mà buồn. Mùa xuân không mất. Chỉ có người mau già chết, vì đã lo nghĩ mà buồn rầu không phải cách. Nét nhăn tới in dấu trước tháng năm, vì chúng ta đã để những ngày buồn vô cớ ăn lan qua những ngày vui hồn hậu ; vì chúng ta thường nối mùa đông đã qua với mùa đông sắp tới…
Hoa nở rồi, hương chập chờn trong gió, bướm nhịp nhàng vỗ cánh theo điệu chim ca. Xuân đã về mang theo một bầu hăng hái phủ dưới chiếc áo màu xanh của vạn vật. Trước sự sống tươi vui ấy, không nên lo buồn không phải lẽ! (Trích Thử hòa điệu sống của Võ đình CườngIn lần thứ sáu, 1967)
« Tin tưởng »
Chúng ta không nên quá lạc quan, cũng không nên bi quan, nhưng bao giờ cũng tin tưởng ở bản năng bảo thủ và trực giác đi tìm hạnh phúc của loài người.
- Em van anh, hãy tìm cho em một nơi an nghỉ. Cuộc thế bạo tàn và gian lận đã giựt xé của em bao nhiêu là hương sắc. Và tâm hồn trong trắng đầy tin yêu, mới ngày nào đã bị giày xéo tả tơi dưới gót đời nhơ bẩn. Ôi, hãi hùng và ghê tởm ! trong mỗi cỗ bàn, đôi đũa gắp vào đâu cũng gặp toàn thịt xương của đồng loại. Và trên sân khấu đời, Giả-dối đang đội lốt Chân-lý ; Áp-bức đang mang mặt nạ Tự-do. Và hạnh phúc mong manh không phủ kín nổi với màn tuynh địa ngục trên dương thế. Công-bằng và Bác-ái là hai danh từ không tìm ra thực tính của chúng trong những hành động hàng ngày. Một mặt người ta bắn giết nhau, một mặt người ta lừa đảo nhau, có lẽ nhân loại đã đến ngày tàn lụn. Anh hãy kể cho em, có một thời đại nào sự sát hại nhau lên đến một độ khủng khiếp như bây giờ, một giai đoạn lịch sử nào, tiếng đau thương và oán hận nức nở khắp mấy chân trời, mà tiếng bom đạn không làm sao lấn át nổi. Bầy quạ đen nghịt đã tung cánh chiếm đoạt bầu trời, nhân loại đang thoái hóa dưới bóng tối dày của bầy ác điểu ! Em van anh, hãy chỉ cho em nơi nào có thể xa lánh được cảnh tượng tủi nhục của loài người hung tàn đang xâu xé nhau trong chợ đời náo nhiệt.
- Em sẽ được yên nghỉ ! Đôi mắt hãi hùng của em chứng tỏ rằng em đang ở trong một cơn ác mộng. Và đôi tay rướm máu kia đủ mách với anh rằng em vừa vương phải rất nhiều mũi gai đời.
Thôi, em hãy tạm yên nghỉ để lấy lại sức lực trước khi sửa soạn một cuộc chiến đấu khác.
Em hãy xoay mặt về với thiên nhiên là nơi em có thể tạm yên nghỉ. Đây là thế giới của yên tĩnh. Màu xanh hiền dịu của cỏ cây sẽ rửa sạch đôi mắt đỏ ngầu gió bụi. Tay em sẽ nhúng vào những suối mát tê người, và những vết thương đời sẽ được hàn líp. Và kia là đền chùa tháp mộ. Những hồi chuông mai dóng gọi mặt trời lên, những hồi chuông chiều chuyển dồn âm ba để khỏa lấp mặt trời dần lặn, sẽ cho em một khái niệm rõ ràng về sự hòa hiệp của thiên nhiên.
Và đây là sử sách. Em hãy tắm gội tâm hồn trong những suối sáng ấy. Đầu óc em sẽ được rửa sạch những mảnh tan vỡ của một ảo ảnh quá đẹp đẽ về cuộc đời mà em đã mang theo khi nhập vào thế cuộc. Em đã quá tin vào cái giá trị tuyệt đối của con Người, của những chữ Bác-ái, Vị-tha, cho nên em đã thất vọng nặng. Hãy rửa sạch đi những mộng tưởng quá hào hoa của thuở ấu thơ còn sót lại. Anh đau đớn khuyên em câu ấy để em bớt đau đớn khi nhìn thấy cuộc đời không đẹp như tưởng tượng của riêng em. Không, đời không phải toàn Thiện, toàn Mỹ. Khổ là đời, mà sự tranh đấu đã thành lệ luật.
Nói như thế, không có nghĩa là đời tuyệt không có giá trị gì và nhân loại không phải đã thất bại trong việc chinh phục Bác-ái, Vị-tha. Không phải là một sự thoái hóa mà em tưởng bắt gặp nhiều trong sự giết chóc ngày nay.
Xưa kia, trong những đoạn tối tăm của lịch sử, biết bao lần rồi, luồng gió tàn bạo đã thổi ngang trên bể nhân loại, và từng chục triệu sanh linh đã bị đắm chìm trong từng lúc một, chứ nào phải chỉ bây giờ ? Anh chỉ kể ra sau đây vài ba thí dụ để em so sánh cổ kim :
Từ năm 530 đến năm 540 tây-lịch, trong khoảng mười năm thôi, Mihirakula cầm đầu bọn Bạch-hung đã lùa chúng đến dẫm xéo tan tành cả một vùng bắc Ấn-độ ; giật lưỡi hái trên tay thần chết, nó đã tung hoành trên những xứ này và ba chục triệu chiếc đầu của đám dân vô tội đã rụng xuống tơi bời.
Hàng trăm triệu người đã điêu linh vì Thành-Cát Tư-Hãn, hàng chục triệu người đã làm mồi cho lưỡi dao khát máu của quân Mông ; từng vạn thành trì đã trở thành những lò sát sinh của bọn giặc ấy. Từ Á sang Âu, từ Mông đến Ấn cỏ không mọc được dưới chân ngựa chúng dẫm ; thành trì bị chúng san phẳng để địch quân của chúng không thể làm nơi trú ẩn ; nhân dân bị tuyệt diệt « để khỏi phải bớt lại một số quân lính canh phòng » mà « đem số tù binh quá nhiều đi theo chỉ làm phiền cho quân đội phải canh giữ ». Thành-Cát Tư-Hãn bị tử thương trong khi vào chiếm thành Ninh-hạ ; để rửa thù tên khát máu nhân loại kia đã truyền đem xử tử tất cả dân chúng trong thành trên mộ phần của nó (18-8-1227).
Cháu nội Thành-Cát Tư-Hãn là Houlagou sau khi chiếm được Bagdad, đã thả quân lính đi cướp phá kinh thành, và tám mươi vạn Hồi-dân đã bị rơi đầu trong bảy ngày liên tiếp (1228).
Tamerlan, với những chiếc đầu người, đã truyền đựng rải rác khắp nơi những kim tự tháp. Năm 1387 thành Ispahan nổi loạn. Để khủng bố lương dân, Tamerlan cho xây quanh thành một vòng kim tự tháp với 70 mươi vạn cái đầu lâu. Năm 1490, 10 vạn cái đầu rơi, 4 ngàn người bị chôn sống khi nó chiếm được thành Sivas ; năm 1401 kinh thành Bagdad bị san phẳng ; theo lệnh của đại sát nhân kia, một trăm hai mươi kim tự tháp đã mọc lên trên những vết điêu tàn, với chín chục vạn đầu lâu xây cùng vôi gạch.
Em thấy đó, lịch sử nhân loại cũng diễn ra nhiều đoạn tối tăm khủng khiếp, chứ không riêng chi ngày nay. Nhưng ngày nay nếu em thấy cuộc đời ghê gớm hơn bao giờ hết, bởi vì em vừa chứng kiến một cuộc thế chiến kinh hồn. Cảnh tượng đỏ ối của khói lửa phản chiếu vào tâm trí làm em hoảng hốt, xui em nhìn đâu cũng thấy toàn một màu sắc ghê tởm ấy. Nhưng chiến tranh đâu phải là một chuyện xảy ra hằng ngày, phải đâu là trạng thái thường niên bất đoạn của thế giới này : mấy mươi năm mới có một thời giặc giã. Đấy là tiếng đàn vụt đứt, thỉnh thoảng xem lẫn trong bản đàn vĩnh viễn. Đấy là những luồng bão thổi bạt qua trên bề nhân loại làm người đắm thuyền chìm. Nhưng cơn bão qua rồi, những chiếc buồm trắng trùng điệp lại lô nhô mọc trên mặt nước xanh bình lặng. Và trong mỗi chiếc tàu, trong mỗi chiếc thuyền, cho đến trong mỗi chiếc ghe nan, những người thủy thủ mặt sém nắng mưa, vẫn chứa chất đầy khoang cái hy vọng thiết tha được thấy bờ Hạnh-phúc.
Trong sự đi tìm Hạnh-phúc ấy, thuyền bè chi chít lắm lúc đã va chạm nhau, và sự đắm chìm không thể tránh được. Em nên tin rằng đấy là do sự vụng về hay thiếu sáng suốt chứ không phải do ác ý của những thủy thủ muốn đắm chìm nhau. Từ thuở nhân loại nhổ neo trong những bến bờ tối tăm để đi tìm Hạnh-phúc cho đến nay, truyền nối qua mấy trăm ngàn thế hệ, Bác-ái và Vị-tha vẫn là hai nguyên tắc chính, cái kim chỉ nam của những kẻ lái thuyền vĩ đại : Thích-Ca Mâu-Ni, Jésus, Khổng-tử… Những nguyên tắc trái với Bác-ái, Vị-tha đã được đem ra thí nghiệm, nhưng không có một nguyên tắc nào đứng vững. Mà nếu có đứng vững là thế sự đảo điên, lương dân điêu đứng, rồi người ta cũng phải bắt buộc trở về với Bác-ái Vị-tha.
Tuy đến nay, vị kỷ vẫn không thôi trói buộc lòng người, nên tất cả thủy thủ là chúng ta đây vẫn còn bị lúng túng, đụng chạm nhau trong khi chống chèo, vì bao nhiêu giây dợ ích kỷ đấy. Nhưng trong mỗi đầu óc nào lại không nở ra một tia sáng, một cái hoa hy vọng được giải thoát. Cái hoa kia, tia sáng nọ chưa có một thời đại nào, dù đen tối bao nhiêu, đã héo tắt trong hồn nhiên của nhân loại. Đấy là trạng thái vĩnh viễn trong sự sống vĩnh viễn truyền qua đời kiếp.
Em có thể bảo rằng những trạng thái tâm hồn ấy chỉ là những tin tưởng, những hoài vọng thường bị thực tế bạo tàn phản bội. Nhưng dù bị phản bội, chúng cũng được thực hiện một phần nào. Từ thuở đang co ro, mò mẫm trong tối tăm rét mướt cho đến nay, nhân loại đã bước được một bước dài trên đường xán lạn. Phải chăng không nhờ những tin tưởng kia ư ? Tin tưởng là một sức mạnh. Huống chi đây là tin tưởng của cả nhân loại, của mọi thời đại, thì nó còn mãnh liệt biết bao nhiêu ?
Hiện nay khoa học đang mở một con đường mới cho loài người đi tìm hạnh phúc. Có kẻ mạnh dạn dấn thân vào, tin chắc sẽ nắm được con chim Hạnh-phúc, có kẻ rụt rè e ngại tiên đoán những triệu chứng bất tường của sự diệt vong. Chúng ta hãy bình tĩnh chờ xem. Khoa-học chưa hoàn thành công tác của nó. Đây chỉ mới là một cuộc thí nghiệm lớn. Sự sống huyền diệu còn dành cho chúng ta những bất ngờ không thể tiên tri được. Chúng ta không nên quá lạc quan, cũng không nên bi quan, nhưng bao giờ cũng tin tưởng ở bản năng và trực giác đi tìm Hạnh-phúc của loài người. Hãy tin tưởng ở tiến hóa ! (Trích Thử hòa điệu sống của Võ Đình CườngIn lần thứ sáu 1967)
Chúng tôi đã đưa các bạn đi một vòng chân trời diệu vợi. Tuy nhiên, không phải vô ích. Nếu một chính trị gia muốn chinh phục một dân tộc cần phải mất thì giờ khảo sát về dân tộc tính ; một nhà kinh tế học muốn vạch một chương trình chấn hưng kinh tế quốc gia cũng phải khảo sát sâu rộng về khả năng tiêu thụ và sản xuất, hoặc cơ cấu sinh hoạt từng địa phương, thế thì một nhà khảo cứu văn học cũng không thể tự mình hạn hẹp trong một mớ thi ca mà suy luận những gì đã xảy ra từ ngàn xưa được.
Để tóm tắt phần trình bày trên, chúng tôi muốn cùng các bạn tìm hiểu tính chất diễn biến của mỗi hệ thống triết học, và sau cùng, chúng tôi muốn cùng các bạn xác định một quan niệm : « Mọi suy tư con người đều biến chuyển theo lịch sử thời gian. Cho nên, mọi triết thuyết, sản phẩm của suy tư, cũng chỉ có giá trị tương đối qua từng thời điểm mà thôi ».
Nếu chúng ta quan niệm như vậy hẳn chúng ta phải thừa nhận những suy tư của người bình dân thời xưa về vũ trụ không phải kém giá trị đối với cuộc sống đương thời.
Cũng như những chủ trương khác, người bình dân khi đã có một vũ-trụ-quan tất nhiên phải tổ chức đời sống con người sao cho hợp với biến chuyển thiên nhiên.
Điều đáng nêu lên trước tiên là khác với các tín đồ của những học thuyết khác, người bình dân dù vẫn có ý thức triết học, nhưng không cần một hệ thống triết lý để khống chế tư tưởng mọi người. Tuy nhiên, nếu xét về tác dụng của tâm tư thì chính người bình dân lại là kẻ trung thành với ý thức mình hơn cả.
Xin lấy một ví dụ : Lão-học quan niệm sự hiểu biết của con người là thực trạng làm xáo động, gây hỗn loạn trong xã hội. Họ chủ trương từ bỏ mọi khôn ngoan của trí óc, đưa con người trở lại bản chất thiên nhiên. Nhưng chúng ta nhìn lại quá trình hoạt động của hệ phái này, chúng ta vẫn thấy họ đem sự hiểu biết, dùng cái khôn ngoan của bộ óc để đấu tranh với xã hội, với mọi lập trường tư tưởng khác biệt.
Qua những mẩu chuyện về ý thức Lão-học mà chúng ta vừa trích dẫn đã chứng tỏ điều đó. Họ chủ trương sống gần thiên nhiên, tổ chức cuộc sống cho hợp với quan niệm vũ trụ, nhưng thực ra họ chỉ hành động theo hình thức bên ngoài, mà bên trong, tâm hồn họ vẫn không thể nào cởi bỏ tính chất trí thức chán đời của họ được.
Một Sào-Phủ, Hứa-Do rửa tai khi nghe nói đến danh lợi, thì chính tâm hồn họ còn bị lợi danh ràng buộc. Nếu không bị ràng buộc, việc gì phải rửa tai ?
Một cô gái giận tình nhân không muốn gặp mặt, sự giận dũi ấy chứng tỏ lòng cô còn bị ràng buộc bởi tình yêu.
Cho nên, con người càng đem suy tư đấu tranh với cơ cấu vũ trụ, thì chính suy tư con người lại bị ràng buộc vào lẽ sống và phản lại cảm nghĩ của mình.
Đến đây, chúng tôi thấy đã có thể đem ý niệm về tổ chức cuộc sống của người bình dân để đối chiếu với những gì chúng tôi vùa khảo luận qua các hệ thuyết trên.
Người bình dân xem cơ cấu vũ trụ là một năng lực huyền vi, biến động và chi phối mọi sinh hoạt con người, và tất cả vạn hữu. Bởi vậy, con người muốn tạo hạnh phúc trong lẽ sống không phải dùng trí khôn khắc phục thiên nhiên, mà phải dùng trí khôn tìm hiểu mọi trạng thái biến động của vũ trụ để cuộc sống con người phù hợp với cơ năng huyền vi ấy.
Tổ chức cuộc sống con người được phù hợp với thiên nhiên, người bình dân không cần phải rửa tai khi nghe nói đến danh lợi, cũng không xem cuộc sống con người là trạng thái bi đát. Bởi vì khi xem cuộc sống con người là trạng thái bi đát tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng trong người một tham vọng hưởng lạc, chúng ta muốn trốn trách nhiệm làm một sinh vật của vũ trụ, mà vũ trụ không thể thiếu một loại sinh vật nào cả. Xem cuộc sống loài người là bi đát, chúng ta đã quan trọng hóa con người đối với vạn vật, mà với qui luật sinh thành của vũ trụ, con người đối với vạn vật cũng chỉ là một cá biệt. Ngược lại, người bình dân cũng không chấp nhận trạng thái cực đoan trong xã hội, đưa con người đến chỗ tự diệt. Con người phải sống, phải tuân theo luật sinh thành, đồng thời phải hòa mình với thiên nhiên bằng cảm giác chứ không phải bằng hệ thống suy tư do khối óc con người sáng tạo.
Nếu chúng ta muốn thấy trạng thái hồn nhiên của con người thích hợp với vũ trụ, chúng ta thử đọc vài câu ca dao sau đây :
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn Tết Đoan-ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười mua thóc bán bông,
Tháng mười một, tháng chạp nên công hoàn toàn.
Thật giản dị đối với tâm hồn con người trước cuộc sống. Người bình dân sở dĩ không hằn học với đời, bởi vì họ xem đời là trạng thái tự nhiên của vũ trụ. Con người phải tuân theo trạng thái tự nhiên ấy. Ý thức phân chia thời tiết để kết hợp nguồn sống con người với thiên nhiên, chúng ta làm sao phủ nhận được quan niệm về vũ trụ của họ.
Tháng giêng khí trời mát mẻ, mùa màng rảnh rỗi, một cái Tết có ý nghĩa giải lao, đồng thời gợi lên những tình cảm giữa cuộc sống, còn gì hợp lý hơn. Con người sống với vật chất, quanh năm vật lộn với công việc mưu sinh, ít ra cũng phải có dịp sống với tình cảm, thì tháng giêng, bầu trời xuân man mác, cỏ hoa đượm sắc thắm, muôn vật như bừng sáng, thời tiết ấy chính là vũ trụ nuôi dưỡng tình cảm con người. Người bình dân đã chan hòa với vũ trụ, và khi họ ăn Tết trong tháng giêng tức là cảm thấy họ sống với vũ trụ.
Tuy nhiên, khi xem con người là sản phẩm của vũ trụ, phải tuân theo luật thiên nhiên, thì họ lại từ bỏ tham vọng cá nhân, mà muốn níu thời gian lại để tận hưởng như những lớp người khác đã từng than trách :
Mùa xuân con én đưa thoi.
Hoặc : Chữ rằng : « Xuân bất tái lai ».
Những sung sướng, khổ cực mà loài người phải gánh chịu trong cuộc sống, không phải dành riêng cho loài người, mà cho cả vạn hữu. Tạo sao chúng ta không than trách những ngày nắng hạ đốt cháy cỏ cây, mà thương cho loài cây cối ? Tạo sao chúng ta không nói đến thân phận một con dế mèn tiếng kêu sõi sàng vì gió lạnh đêm đông ? Chúng ta chỉ than trách khi chúng ta bị khổ sở vì biến động của vũ trụ, có phải đó là một tham vọng riêng của loài người ?
Khi đặt con người là sở hữu của vũ trụ, con người không còn được quyền tham vọng riêng tư, mọi hạnh phúc tuyệt đối dành cho loài người đều khiến cơ cấu vũ trụ bị mất thăng bằng. Người bình dân không làm cho cơ cấu vũ trụ chênh-lệch, mà chỉ hạn chế, đấu tranh cho cuộc sống loài người phù hợp với tính chất thăng bằng vạn hữu. Phương thức hạn chế, đấu tranh của họ là đưa con người nằm vào trạng thái thiên nhiên, phù hợp với diễn biến chung của muôn loài vạn vật. Muốn được như vậy, họ dùng cảm giác nhiều hơn lý trí.
Một đàn kiến, khi trời sắp mưa, kéo nhau tha mồi lên chỗ cao, một con dế đến mùa lụt làm hang trên chân núi, đó là những cảm giác do vũ trụ dành riêng cho mọi sinh vật. Con người cũng thế, lý trí chỉ để tìm hiểu những hiện tượng của vũ trụ chứ không thể biến đổi được vũ trụ.
Tuy nhiên, con người cũng như mọi sinh vật khác, mang trong bản thể một tính chất cá biệt. Con thỏ ngồi nhìn trăng cảm thấy thích thú, con én lượn trên khung trời bao la lúc xuân về thấy ưa thích, đến như con ve sầu ngâm nga suốt mùa hè thì đó cũng là tính chất cá biệt của giống ấy. Cho nên, con người không thể chỉ sống trong lam lụ, hoặc nghỉ ngơi để kích động tình cảm trong những ngày Tết, mà họ còn để cho những thích thú riêng tư được bộc lộ trong cuộc sống của họ nữa. Họ dành riêng tháng hai để cờ bạc. Cờ bạc ở đây chỉ là danh từ tượng trưng cho những lạc thú.
Nhưng tạo sao tìm những lạc thú lại phải chọn tháng hai ? Theo chúng tôi nghĩ, lạc thú phải phát nguồn từ tình cảm. Tháng giêng họ đã dành riêng cho cuộc sống tình cảm thì tháng hai đi đến cuộc sống lạc thú là hợp với trạng thái tự nhiên. Cũng như mùa xuân đến vào tháng giêng nhưng phải đợi đến tháng hai chúng ta mới hoàn toàn cảm thấy hương vị đích thực của nó.
Ở đây chúng ta cũng nên phân biệt dục vọng cá nhân và lạc thú cá biệt. Dục vọng cá nhân mang tính chất ích kỷ, lạc thú cá biệt mang tính chất tiêu khiển.
Một đàn công xòe cánh múa tung tăng nơi bìa rừng, làm rực rỡ một góc trời. Một con phượng đậu trên cụm ngô đồng biểu diễn tài ba của nó. Tất cả những động tác ấy đều thuộc tính chất lạc thú cá biệt. Mỗi người trong chúng, kẻ thích môn thể thao, người thích âm nhạc, hoặc thi thơ đều là lạc thú cá biệt. Nhưng nếu chúng ta thích lêu lổng suốt tháng năm, sống nhờ trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác, hoặc tìm cách bắt kẻ khác phục vụ cho cảm giác khoái lạ của mình, thì đó lại là chuyện khác, nằm trong dục vọng cá nhân.
Người bình dân chối bỏ dục vọng cá nhân, nhưng không chối bỏ lạc thú cá biệt. Bởi vì, dục vọng cá nhân là lòng ham muốn trộn lẫn với sự suy tính của khối óc con người, còn lạc thú cá biệt là trạng thái thiên nhiên.
Sống cho tình cảm, sống cho lạc thú cá biệt, người bình dân cũng không quên ý nghĩa họp đoàn. Một đàn chim nghe tiếng động cũng vỗ cánh tung bay, nhưng không bao giờ chúng chia nhau bay khác hướng. Nếu vì một cớ nào chưa thể họp đoàn thì chúng cũng sẽ tìm cách nối kết nhau.
Một cách chim lạc loài tận cuối trời, không gì bơ vơ, buồn tẻ cho bằng. Con người cũng như mọi sinh vật khác, trong mỗi cá biệt đều chứa đựng tính chất thiên nhiên của vũ trụ. Cho nên, con người cũng không thể vui thú lẻ loi, phủ nhận ý thức tập thể. Một ẩn sĩ vào rừng núi sống cô đơn, chối bỏ tập thể, chẳng qua đó là trường hợp đặc biệt của kẻ chán đời.
Vì quan niệm tập đoàn là tính chất thiên nhiên, nên người bình dân dành cho tháng ba để tổ chức hội hè, nối kết tình cảm giữa con người và con người. Vạn hữu trong vũ trụ đều dính líu với nhau cả mọi mặt nên tình cảm con người cũng không thể tách rời ra ngoài tính chất liên hệ ấy.
Sau khi nối liền tình cảm giữa con người và con người, người bình dân nối liền tình cảm giữa con người và vạn vật : « Tháng tư đong đậu nấu chè ».
Tháng tư là mùa đậu. Tình cảm con người lại chan hòa với mùa màng cây trái. Cũng như tháng sáu là mùa trâm, mùa nhãn, cuộc sống con người không còn thú vị nào hơn là thưởng thức những thành quả thiên nhiên ấy : « Tháng sáu buôn nhãn bán trâm ».
Ở đầu làng, khi cành đa sum trái, chim chóc từng đàn lũ lượt kéo về, kêu hót líu lo. Đó không phải là một trạng thái thiên nhiên sao ?
Chúng ta không ai không có một cảm giác thú vị khi nhìn bầy chim chóc vừa ăn quả, vừa ríu rít trên cành. Vậy thì tại sao con người lại không tìm thấy cái thú thiên nhiên chan hòa trong vạn vật.
Cho nên, cứ mỗi mùa cây trái, người bình dân lại đem tình cảm mình kết hợp với sự nẩy nở của cỏ cây.
Tháng tư hết vui mùa đậu, đến tháng sáu vui mùa nhãn, mùa trâm, rồi đến tháng chín lại vui mùa hồng : « Trở về tháng chín chung chân buôn hồng » cho đến tháng mười thì vui mùa lúa, mùa bông : « Tháng mười mua thóc bán bông ».
Từ chỗ nuôi dưỡng tình cảm cá nhân đến tình cảm tập đoàn, chan hòa với mùa màng cây cối, người bình dân còn đem cảm giác mình đặt trước những cái đẹp của vũ trụ.
Một vành trăng tròn, ánh sáng lung linh chiếu trên cảnh vật mùa thu, chúng ta không thể chối bỏ cái đẹp của thiên nhiên. Tại sao loài chim én chỉ bay lượn khi tiết xuân về ? Tại sao loài thỏ chỉ thích ở nơi cây rừng lúp xúp ? Những tính chất đặc biệt ấy không có quan hệ giữa mọi sinh vật và thiên nhiên ư ?
Vành trăng thu đã làm cho người bình dân say sưa, cảm mến, cũng như những cây đa, cây đề, với tàn cây râm mát đã quyến rủ những cánh chim từ xa đến. Chúng ta không lấy làm lạ, khi người bình dân đã tạo thành phong tục tết Trung-thu : « Tháng Tám chơi đèn kéo quân ».
Vui với vạn vật, giao cảm giữa con người chưa đủ, người bình dân còn mở rộng tâm hồn mình trước những biến đổi của vũ trụ. Sinh thành và hủy diệt đối với vũ trụ chỉ là quy luật tất yếu, nhưng khi đã là con người, một sinh vật đặc biệt trong vũ trụ tất nhiên phải có cái gì dị biệt với những sinh vật khác. Con người đã mang trong lòng những nhớ nhung, thương tiếc đối với dĩ vãng. Nhớ nhung, thương tiếc đã gieo vào tâm tư họ một tình cảm không thể quên được, cho nên trong hiện tại, tình cảm họ vẫn nối liền với dĩ vãng. Vì vậy mà họ hay vọng tưởng đến những hình ảnh của quá khứ :
Ăn tết Đoan ngọ trở về tháng năm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tóm lại, bài ca dao trên đây tuy thô sơ, nhưng người bình dân đã nói lên sinh hoạt tình cảm của họ trước thiên nhiên. Tình cảm của họ không xa cách mọi biến động của vạn hữu trong vũ trụ.
Tuy nhiên, đó chỉ mới nói đến phương tiện tình cảm. Người bình dân khi đứng trước thiên nhiên không chỉ sống bằng tình cảm mà còn sống bằng thực lực của mình.
Mọi sinh vật đều phải nhờ vào mặt đất để sống, để tìm thức ăn. Người bình dân Việt-nam thuở xưa hầu hết là nông phu, nên ý thức phát triển sinh hoạt của họ căn cứ vào cơ cấu nông nghiệp.
Chúng ta lại thấy những ca dao sau đây căn cứ vào biến chuyển thiên nhiên, người bình dân tổ chức mọi sinh hoạt vật chất của họ. Ví dụ :
Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng.
Ai ai cũng vợ cũng chồng,
Chồng cày vợ cấy trong lòng mới vui.
Và : Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm,
Đến khi mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi nên mạ thì ta nhổ về.
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi đầy còn độ một hai.
Ruộng cao dóng một gàu dai,
Ruộng thấp thì lại đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bây giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Căn cứ vào thời tiết để làm mùa màng, tuy đó là chuyện thường nghiệm của nhà nông ; nhưng chúng ta đừng tưởng việc làm đó không có liên quan giữa ý thức con người và vũ trụ. Chính mọi biến chuyển của vũ trụ đã gieo vào cảm giác người bình dân những kinh nghiệm về thời tiết, và khi căn cứ vào thời tiết chính người bình dân đã tổ chức sinh hoạt của họ hợp với biến chuyển thiên nhiên.
Vì quan niệm vạn hữu đều là cá thể của vũ trụ, có tương quan và ảnh hưởng lẫn nhau, nên khi ý thức rằng sinh hoạt con người phải căn cứ vào biến chuyển thiên nhiên, người bình dân chẳng những tìm hiểu con người trước thiên nhiên, mà còn phải tìm hiểu vạn vật trước thiên nhiên nữa.
Tại sao họ phải trồng khoai vào tháng chạp, hoặc tháng hai ? Tại sao họ lại phải cấy lúa mùa, lúa chiêm trong hai thời tiết khác nhau ?
Dĩ nhiên họ phải tìm hiểu trạng thái thiên nhiên và vạn vật để hòa hợp sinh hoạt của họ theo biến chuyển thiên nhiên nhiên được.
Một giống cây không thể mọc trái thời tiết. Một con vật không thể sống trong khí hậu không thích hợp với thể chất. Mỗi cá thể đều tuân theo tác động của vũ trụ. Bầy nai trong rừng phải đến thời tiết nào đó mới thay gạc. Giống cá dưới nước phải đến mùa mới mang trứng nở con…Thời tiết tác động vào muôn vật như một trạng thái tất nhiên. Con người đã lấy đó làm kinh nghiệm, tại sao có thể tách rời sinh hoạt của mình ra ngoài biến động của vũ trụ được ?
Cho nên, khi quan niệm tính chất liên hệ giữa vũ trụ và con người, hoặc giữa con người và vạn vật, người bình dân không đặt lẽ sống của họ bằng một hệ thuyết nào hết, mà chỉ tìm hiểu thiên nhiên để sống cho phù hợp với quy luật biến động của guồng máy ấy mà thôi. Họ cần tìm hiểu tại sao hoa mai, hoa đào lại nở vào mùa xuân, hoa sen hoa lựu nở vào mùa hạ. Tại sao cây mía trồng vào tháng chạp lại nhiều nước hơn cây mía trồng vào tháng giêng ? v.v… mà họ không để ý đến chuyện làm thế nào để bắt kẻ yếu phải khuất phục mình, làm thế nào để cảm hóa con người phải tuân theo trật tự xã hội, làm thế nào để thoát khỏi cuộc đời mà nhiều quan niệm cho là trầm luân, bể khổ…
Con người là một sinh vật trong muôn ngàn sinh vật hiện hữu. Nó phải sống theo chiều hướng biến động của thiên nhiên, không thể đặt con người ra ngoài vũ trụ được thì cũng không thể nào trốn thoát mọi liên quan, ảnh hưởng giữa vạn hữu.
Nhiều nguồn tư tưởng cho rằng mọi vật đều không trường tồn, chỉ có suy tư con người mới là vĩnh cửu. Điều đó quả đã trái ngược với quan niệm bình dân. Vũ trụ không đứng yên, thời gian, không gian luôn luôn tăng trưởng, cho nên không có gì trường cửu. Ngay đến những kinh nghiệm của họ đã rút tỉa từ quan niệm vũ trụ của ngàn xưa đến nay cũng đã đổi khác.
Trước kia, cây mía chỉ có thể trồng vào mùa đông, thì ngày nay cây mía đã có thể trồng vào mùa hè.
Tính chất đổi thay ấy chính là do biến động của thời gian, không gian. Cho nên không có con người muôn thuở, không có ý thức vĩnh cửu khi thời gian, không gian vẫn còn đang biến chuyển, mỗi ngày một chồng chất.
Quan niệm vũ trụ như vậy, những giá trị về suy tư, kinh nghiệm của người bình dân trước thiên nhiên cũng là những giá trị của thời gian. Tuy nhiên, điều chúng ta muốn nói đến họ ở đây là ý thức kết hợp sinh hoạt con người với vũ trụ xem con người là của vũ trụ, không tách rời ra ngoài cơ cấu vũ trụ như những hệ thuyết khác.
Vì quan nhiệm con người là cá thể của vũ trụ, có tương quan đến vạn hữu, cho nên, xung quanh họ, từ một sinh vật, một hiện tượng, họ đều để ý, và xem đó như có liên hệ đến cuộc sống của con người.
Một đàn kiến tha mồi kéo đi, người bình dân đều lo lắng : vì đó là hiện tượng báo hiệu trời sắp mưa. Một tiếng cóc kêu trong hang lúc hoàng hôn cũng làm cho tâm tư người bình dân có bao nhiêu ý nghĩ về sinh hoạt của họ hiện tại. Đây, chúng ta thử đọc những câu ca dao sau đây :
Đom đóm bay ra, trồng cà cà trổ.
Hoặc : Cóc kêu trời mưa,
Cóc cưa trời nắng.
Tại sao họ tin tưởng vào những hiện tượng như vậy ? Vì họ quan niệm vũ trụ chỉ gồm vào thời gian, không gian, mà mọi biến động của vạn hữu đều có liên quan mật thiết, không thể tách rời.
Một ông già ngủ dậy mỏi mê trong người, bước ra cửa nhìn trời, bảo con cháu : « Trời sắp mưa ». Rõ ràng ý thức của họ xem con người với vũ trụ là một.
Đã xem con người với vũ trụ là một, thì sinh hoạt con người tất nhên phải nằm vào hệ thống chung của vũ trụ.
Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ khi người nông dân tin tưởng vào những điềm trời :
Nửa đêm sao sáng mây cao,
Điềm trời nắng gắt, nắng gào chẳng sai.
Lúa khô nước cạn ai ơi !
Rủ nhau tát nước, chờ trời còn lâu.
Đêm trời tang, trăng soa không tỏ,
Ấy là điềm mưa gió tới nơi.
Đêm nào sao sáng xanh trời,
Ấy là nắng ráo yên vui suốt ngày.
Những ai chăm việc cấy cày,
Điềm trời trông đó, liệu xoay việc làm.
Từ cảm giác của mỗi sinh vật, cho đến những hiện tượng biến đổi của thiên nhiên đều có ảnh hưởng và tác động vào cuộc sống con người.
Nếu chúng ta không tách rời con người ra ngoài vũ trụ thì không có lý do gì lại chối bỏ những thực trạng ấy mà chỉ chú trọng đến phương pháp cải tiến con người bằng lí trí, bằng tình cảm. Lý trí và tình cảm không thể nào vượt ra khỏi qui luật chung của cơ cấu vũ trụ. Cho nên, tự ngàn xưa, các nhà đạo đức thường đem đạo học cải tiến sinh hoạt loài người mà không quan tâm đến tầm ảnh hưởng của vũ trụ đối với cuộc sống của muôn loài vạn vật thì thật là điều khác biệt đối với quan niệm người bình dân.
Không phải chúng ta đem lý luận riêng tư đề cao người bình dân. Trong lúc mọi triết gia đem bộ óc dùng vào công cuộc khám phá cơ cấu vũ trụ, xây dựng những hệ thống triết học, tự cho mình là kẻ tìm hiểu thiên nhiên, nhưng sự thật họ không đi vào thiên nhiên, mà chỉ đi vào con người. Mọi hệ luận của họ chỉ dùng vào việc đấu tranh tư tưởng giữa con người và con người, thì người bình dân vẫn âm thầm đi vào cơ cấu vũ trụ. Họ không ngớt tìm hiểu những hiện tượng thiên nhiên của người bình dân chúng ta không thể nào lượm lặt cho hết dược. Ví dụ :
Mồng chín tháng chín có mưa,
Mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng.
Mồng chín tháng chín không mưa,
Mẹ con bán cả cày bừa mà ăn.
Được mùa cau, đau mùa lúa.
Trời nắng tốt dưa, trời mưa tốt lúa.
Chúng ta có thể nói rằng người bình dân Việt nam vì sống trên cơ sở nông nghiệp, nên việc tìm hiểu những hiện tượng thiên nhiên là điều cần thiết trong sinh hoạt của họ. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phụ nhận ý thức của họ trong sự tương quan giữa con người và vạn hữu, trong đó họ chấp nhận tính chất tương đồng, dung hợp, và không có tham vọng đem sự hiểu biết con người cải tạo thiên nhiên, cải tạo vũ trụ.
Tóm lại, qua mục này, chúng ta đã đi sâu vào kết quả của những hệ thuyết có tầm ảnh hưởng mạnh vào sinh hoạt của dân tộc Việt-nam.
Không một hệ thuyết nào tự cho mình tách rời khỏi cơ cấu vũ trụ. Tuy nhiên, khi nhìn qua quá trình của mỗi hệ thuyết tác động vào lịch sử xã hội, chúng ta lại thấy mọi hệ thuyết đều chủ trương đi sâu vào con người, vào cuộc sống con người, vào tình cảm con người, vào xã hội loài người, mà không hòa hợp với biến động thiên nhiên. Trong lúc đó, chúng ta lại thấy ý thức người bình dân đi ngược lại. Họ không chú trọng đến quan niệm dùng trí khôn, dùng mọi biện luận để cảm hóa loài người, hoặc khống chế xã hội, mà chỉ tìm hiểu thiên nhiên để kết hợp nguồn sống của con người giữa vạn hữu theo quy luật chung của vũ trụ.
4) Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu
1. Bao giờ cho đến tháng hai,
Con gái làm cỏ con trai be bờ.
Gái thì kể phú ngâm thơ,
Trai thì be bờ kể chuyện bài bây.
2. Bao giờ cho đến tháng năm,
Thổi nồi cơm nếp, vừa nằm vừa ăn.
3. Bao giờ nắng giữa bàng trôi,
Tua rua quặt lại thì thôi cấy mùa.
Tua rua thì mặc tua rua,
Mạ già, ruộng ngấu, không thua bạn điền.
4. Bao giờ Mang-hiên (sao) đến ngày,
Cày bừa cho chín mạ này đem gieo.
5. Bao giờ cho đến tháng mười,
Thổi nồi cơm nếp, vừa cười vừa ăn.
6. Bốc mả kiêng ngày trùng tang,
Trồng lang kiêng ngày gió Bấc.
7. Cơn đằng Đông vừa trông vừa chạy,
Cơn đằng Nam vừa làm vừa chơi.
8. Cơn bên Vang tìm đàng mà chạy,
Cơn bên Gộc đổ thóc ra phơi.
9. Cơn đằng Đông vừa trông vừa chạy,
Cơn đằng Nam vừa cày vừa ăn.
10. Cuối thu trồng cải, trồng cần,
An dong tháng sáu cuối xuân thì tàn.
Bây giờ rau muống dã lan,
Lại ăn cho đến thu tàn thì thôi.
Mùa nào thức ấy lần hồi,
Lọ là có của cho người ta ăn.
11. Chiêm khôn hơn mùa dãi.
12. Chiêm xấp xới, mùa đợi nhau.
13. Chiêm gon tìm đòn mà gánh,
Mùa gon cõng con lên rừng.
14. Chiêm xong lại đến vụ mùa ?
Hết mùa rau muống đến mùa cải hoa.
Đừng khinh dưa, muối, tương, cà,
Tuy không lịch sự nhưng mà tự do.
15. Chợ ta ngày tám tháng tư,
Có một tháng tám lại dư phiên rằm.
Ai ơi nhớ lấy phiên rằm,
Đi mua hoa quả chơi rằm trung thu.
16. Chuồn chuồn bay thấp trời mưa,
Bay cao trời nắng đập dừa em ăn.
17. Dù ai buôn đâu, bán đâu,
Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu.
18. Đêm trời tang, trăng sao không tỏ,
Ấy là điềm mưa gió tới nơi.
Đêm nào sao sáng xanh trời,
Ấy là nắng ráo, yên vui suốt ngày.
Những ai chăm việc cấy cày,
Chiều trời trông gió liệu xoay việc mình.
19. Đom đóm bay ra, trồng cà, cho đỗ,
Tua rua bằng mặt, cất bát cơm chăm.
20. Đom đóm bay ra trồng cà tra đỗ,
Đom đóm bay ra làm luống tra vừng.
21. Đói thì ăn khế, ăn khoai,
Chớ lấy lúa rỗ tháng hai mà mừng.
Kỳ nầy lúa mới đòng đòng,
Gió vua Thái-tổ, Thái-tông mưa rào.
22. Động biển Đại-bàng, vác nồi rang thóc,
Động biển bên sóc, đổ thóc ra phơi.
23. Được mùa, buôn vải, buôn vóc,
Mất mùa, buôn thóc, buôn gạo.
24. Được mùa cau, đau mùa lúa.
25. Gió đông là chồng lúa chiêm,
Gió bắc là duyên lúa mùa.
26. Gió Nam hây hẩy chiều hôm,
Xong việc gặt hái ôm con thả diều.
Điền viên là thú tiêu dao,
Không danh lợi lắm chẳng chiều lụy ai.
27. Hai mươi bốn trăng mọc còn nằm,
Hai mươi lăm trăng mọc đã dậy.
28. Hễ mà hoa quả được mùa,
Chắc là nước bể, nước mưa đầy trời.
Ai ơi nên nhớ lấy lời,
Trông cơ trời đấy, liệu thời làm ăn.
29. Lúa chiêm đứng nấp đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm mở cờ mà lên.
30. Mồng chín tháng chín có mưa,
Mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng.
Mồng chín tháng chín không mưa,
Mẹ con bán cả cày bừa mà ăn.
31. Mồng năm, mười bốn, hăm ba,
Cữ ba ngày ấy đừng đi ra đường.
32. Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu,
Mồng chín đi đâu trở về hội Gióng.
33. Mồng bốn cá đi ăn thề,
Mồng tám cá về, cá vượt vũ môn.
34. Mồng tám tháng tư không mưa,
Bỏ cả cầy bừa mà lấp lúa đi.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Lúa tốt bời bời nhà đủ người no.
35. Một năm chia mười hai kỳ,
Thiếp ngồi thiếp tính khó gì chẳng ra.
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm.
Tháng ba đi bán vải thâm,
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về.
Tháng sáu em đi buôn bè,
Tháng bảy, tháng tám trở về đong ngô.
Chín, mười cắt rạ đồng mùa,
Một chạp vớ được anh đồ dài lưng.
Anh ăn, rồi anh lại nằm,
Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền.
Chẳng thà lấy chú lực điền,
Gạo bồ, thóc giống còn phiền nỗi chi.
36. Muốn ăn lúa tháng năm,
Xem trăng rằm tháng tám.
Muốn ăn lúa tháng mười,
Xem trăng mồng tám tháng tư.
37. Mưa tháng bảy gãy cành trâm,
Nắng tháng tám rám trái bòng.
38. Nắng đan đó, mưa gió đan gàu.
39. Nắng sớm thì trồng cà,
Mưa sớm ở nhà phơi thóc.
40. Nước mưa là của trời.
41. Nửa đêm sao sáng mây cao,
Triệu thời nắng gắt nắng gào chẳng sai.
Lúa khô nước cạn ai ơi !
Rủ nhau tát nước chờ trời còn lêu.
42. Ngày thì đem thóc ra phơi,
Tối lặn mặt trời đổ thóc vào xay.
Một đêm là ba cối đầy,
Một tay xay giã, một tay giần sàng.
Tháng ba ngày tám rỗi ràng,
Làm sao đủ gạo mùa màng khỏi lo.
43. Nhờ trời mưa thuận gió hòa,
Nào cày, nào cấy, trẻ già đua nhau.
44. Sáng bể chớ mừng, tối rừng chớ lo.
45. Tháng chạp là tiết trồng khoai,
Tháng giêng tỉa đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày bửa ruộng ra,
Tháng tư bắt mạ thuận hòa vui thay.
Tháng năm cắt lúa vừa rồi,
Tháng sáu mưa xuống nước trôi đầy đồng ?
Tháng bảy cày cấy đã xong,
Tháng tám thấy lúa tốt đồng vui thay.
Tháng chín tôi lại kể nay,
Bắt mạ xem được mới hay trong lòng.
Tháng mười lúa chín đầy đồng,
Cắt về đổ cót để phòng năm sau.
Tháng một là tiết cây sâu,
Một năm kể cả từ đầu đến đuôi.
46. Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi, ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để cho ta lại làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi nên mạ thì ta nhổ về.
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi mười còn độ một hai.
Ruộng cao đóng một gàu giai ?
Ruộng thấp thì phải đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng ;
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
47. Tháng giêng chân bước đi cày,
Tháng hai vãi lúa ngày ngày siêng năng.
Thuận mưa lúa tốt đằng đằng,
Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà.
48. Tháng năm đau máu
Tháng sáu đau chân
Tháng tám ngồi dưng
Ăn cơm giã bữa
Cơm ăn cơm giỡ
Mẹ ngỡ đi đâu
Tăm tắp gội đầu
Đi xem voi ỉa.
49. Tháng tám mưa trai, tháng hai mưa thóc.
50. Tháng tám trâu ra, tháng ba trâu vào.
51. Tháng sáu thì cấy cho sâu,
Tháng chạp cấy nhảy màu cau mà về.
52. Thoảng qua một chút mới hay,
Lọ là sấm chớp cả ngày mới mưa.
53. Thiếu tháng hai mất cà,
Thiếu tháng ba mất đỗ,
Thiếu tháng tám mất hoa ngư ?
Thiếu tháng tư mất hoa cốc.
54. Thuyền ngược ta khấn gió Nam,
Thuyền xuôi ta khấn mưa nguồn gió may.
55. Tỏ trăng mười bốn được tằm,
Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm.
56. Trăng chưa cho lúa vàng vàng,
Cho anh đi cắt, cho nàng quẩy cơm.
57. Trăng mờ tốt lúc nỏ,
Trăng tỏ tốt lúc sâu.
58. Tre ngà trổ hoa, lúc mùa rồi hỏng.
59. Trời nắng tốt dưa, trời mưa tốt lúa.
60. Trời hôm mây kéo rối bừa,
Trăng còn nắng ráo ta chưa vội gì.
Bao giờ kéo vẩy tê tê,
Sắp gồng, sắp gánh ta về kẻo mưa.
61. Trời hè lắm trận mưa rào,
Gặt sớm, phơi sớm liệu sao cho vừa.
Khuyên em chớ ngại nắng mưa,
Của chồng công vợ bao giờ quên nhau.
62. Tua rua một tháng mười ngày,
Cây trốc vùng cày cũng được lúa xơi.
Bao giờ nắng rữa bàng trôi,
Tua rua quặt ngọ thì thôi cấy mùa.
Trong mục này, chúng tôi đề cập ý thức đạo học và khoa học của người bình dân. Đem ý thức đạo học và khoa học để so sánh không phải là việc làm mới mẻ gì, song từ trước đến nay ít người quan tâm.
Danh từ khoa học đến với dân tộc Việt-nam ở giai đoạn Pháp sang chiếm Đông-dương, lật đổ nền móng phong kiến Trung-hoa, đặt ách thống trị thực dân. Vào thời kỳ này, ông Phạm-Quỳnh, một thức giả Việt-nam, đã viết một bài khảo sát về hai nền học thuật Đông-phương và Tây-phương đăng trên báo Nam-phong, mà chúng tôi đã có lần bàn đến. Ở đây chúng tôi cần nhắc lại. Ông viết :
Nói đến văn học, chúng ta không thể không nói đến học thuật : nền học thuật Đông-phương và nền học thuật Tây-phương. Xét về nguyên lý thì hai nền học thuật Đông, Tây có tính chất khác nhau.
Nền học thuật Đông-phương chú trọng về Đạo-đức, nền học thuật Tây-phương chú trọng về Khoa-học.
Tiếng « khoa học » ở đây xin hiểu cho nghĩa rộng. Nó là phương pháp tổ chức, là sự phân chia các khoa loại, đặt thành lề lối để đạt lấy kết quả đích xác, để tìm chân lý sự vật. Khoa học là phép học đi tìm trong thực thể, không mơ tưởng những huyền vi, lấy lý luận làm tiên phong, lấy thực nghiệm làm hậu kính, lấy hiển nhiên làm căn cứ, lấy tất nhiên làm mục đích.

Lối học như vậy khác lối học Đông-phương. Lối học Đông-phương thuộc về đạo học chứ không phải khoa học. Đạo-học là lối học « thụ dụng », tự tìm lấy được chứ không phải do sự tìm kiếm của người ngoài. Còn khoa học là lối học « ứng dụng » theo lối biện luận tích lũy mà ra, lại tùy thuộc vào trình độ văn minh xã hội mà tiến hóa. Do đó, khoa học chuộng mới, còn đạo học chỉ một lời nói cũ kỹ từ ngàn xưa, kẻ hiền triết đời nay vị tất đã nói hay hơn. Khoa học chuộng rộng, đạo học đối với một lời nói, một nửa câu, có thể đem ra thụ dụng suốt đời không hết.
Bởi vậy, nguyên lý của đạo học càng tiến dần đến chỗ uyên thâm thì cái chi tiết bên ngoài càng bớt đi, để dần dần chui vào lãnh vực tối thượng của đạo lý.
Tuy nhiên, đạo học là cái học thụ dụng, tự nó mang tính chất tiêu cực, nên đã bị khoa học lấn áp. Từ lúc mở đầu kỷ nguyên khoa học, nền học thuật Tây-phương đáp ứng nhu cầu vật chất cho nhân loại, đã làm cho nền học thuật Đông-phương bị lu mờ. Chúng ta đã là người Đông-phương, hẳn cảm thấy một sự mất mát ở cái kho tàng của tinh thần Đông-phương chúng ta.
Chúng ta lại thấy rằng nền văn minh vật chất càng tiến bộ thì nền văn minh tinh thần cũng cần phải bồi đắp cho cân xứng. Tinh thần, vật chất là hai yếu tố tất yếu trong con người, phải được thăng bằng, nếu bị chênh lệch, thiếu một trong hai yếu tố ấy, thì dù có văn minh nào cũng không thể tồn tại được…
Trước kia, khi đặt vấn đề đạo học và khoa học, ông Phạm-Quỳnh đã đứng trên chủ trương điều hòa Âu-Á theo tôn chỉ tờ Nam-phong tạp chí. Bởi vậy, chúng ta không tìm thấy ở tâm tư ông Phạm-Quỳnh một thiên lệch nào, trong lúc những học giả thời bấy giờ nếu không ngả về nền học thuật này, cũng ngả về nền học thuật khác để chống đối lẫn nhau.
Thái độ dung hòa hai nền học thuật Đông-Tây của ông Phạm-Quỳnh không phải tự nhiên mà có. Đó là kết quả của sự mâu thuẫn về hai luồng ý thức hệ giữa đạo học và khoa học phát sinh vào thế hệ 1913-1932.
Nhưng căn bản của sự mâu thuẫn ấy là gì ? Tính chất khác biệt giữa ý thức đạo học và khoa học, ông Phạm-Quỳnh đã trình bày đại lược trong bài chúng tôi vừa trích dẫn. Nhưng, chúng tôi xét thấy cần mổ xẻ thêm đôi chỗ chưa được thông suốt.
Theo ông Phạm-Quỳnh : « Khoa học là phương pháp tổ chức, là sự phân chia các khoa loại đặt thành lề lối để đạt lấy kết quả đích xác để tìm chân lý sự vật. Khoa học là phép học đi tìm trong thực thể, không mơ tưởng những huyền vi, lấy lý luận làm tiên phong, lấy thực nghiệm làm hậu kính, lấy hiển nhiên làm căn cứ, lấy tất nhiên làm mục đích. Đạo học là lối học « thụ dụng » tự tìm lấy được chứ không phải do sự tìm kiếm của người ngoài. Bởi vậy, đạo học càng đi đến chỗ uyên thâm thì cái chi tiết bên ngoài cũng bớt đi để dần dần chui vào lãnh vực tối thượng của đạo lý… »
Quan niệm sự khác biệt về căn bản đạo học và khoa học như vậy, ông Phạm-Quỳnh cho đó là kết quả của hai nền văn minh tinh thần và vật chất.
Chúng tôi đồng ý về kết luận này. Ông Phạm-Quỳnh đã mở ra một cánh cửa để cho lớp người của thế hệ mai sau đem suy tư đi tìm nguyên lý của lẽ sống. Tuy nhiên, mãi cho đến nay, cánh cửa ấy vẫn ít ai lui tới, bởi lẽ thế giới loài người còn đang mải mê trong nguồn ánh sáng mới, ánh sáng của khoa học, mà không đứng ra ngoài để nhìn chung sự tiến hóa và tác dụng của hai hệ thống suy tư này.
Trước khi đi vào cánh cửa của Phạm-Quỳnh tiên sinh đã mở, chúng tôi cùng các bạn thử xác định nguyên lý của hai nền văn minh đạo học, khoa học và tác động của nó trong lịch trình tiến hóa của nhân loại theo những đề mục sau đây :
Nguyên lý phát sinh hai nền văn minh đạo học và khoa học.
Lịch sử diễn biến của hai nền học thuật Đông-Tây.
Sự mâu thuẫn của hai hệ thống tư tưởng từ quan niệm vũ trụ đến quan niệm nhân sinh.
Sự thành công và thất bại của hai nền văn minh đạo học và khoa học.
Ý thức đạo học và khoa học trong giai cấp bình dân.
Ảnh hưởng của hai nền văn minh Đông-Tây tác động vào đời sống người bình dân Việt-nam.
Kết luận.
1) Nguyên lý phát sinh hai nền văn minh đạo học và khoa học
Dù ở thế hệ nào, với xã hội nào, ý thức con người cũng mưu đồ đem lại hạnh phúc cho loài người. Đó không phải là tham vọng cá nhân, mà chính là trạng thái tự tồn của mọi sinh vật.
Đến ngày nay, thế giới loài người chia làm hai nền văn minh : văn minh đạo học và nền văn minh khoa học. Văn minh đạo học phát nguồn từ Đông-phương, văn minh khoa học phát nguồn từ Tây-phương. Nhưng do đâu mà ý thức con người đã phát sinh hai hệ thống tư tưởng dị biệt ấy ?
Xét về nguồn gốc thì đạo học cũng như khoa học, đều mưu cầu đem lại hạnh phúc cho lẽ sống. Nếu đạo học nhìn thấy xã hội loài người là một đấu trường, trong đó con người chém giết nhau, hành hạ nhau, tước đoạt lẫn nhau để mưu sinh, nên đạo học phải đi tìm một nguyên lý chế ngự bản năng, kềm hãm dục vọng, đem lý trí áp dụng vào hệ thống sinh hoạt xã hội, lấy tình thương làm nền tảng cho lẽ sống, lấy từ tâm làm cứu cánh cho nhân sinh, thì khoa học cũng cảm thấy lẽ sống con người vì không thỏa mãn với nhu cầu dục vọng nên mới sinh ra trạng thái xâu xé, chém giết, giành giựt lẫn nhau. Khoa học chủ trương khám phá cơ năng vũ trụ, phát minh những tiện nghi phục vụ cho đời sống loài người, làm cho guồng máy sinh hoạt xã hội cải tiến mỗi ngày một tinh vi hơn, đem lại những tiện nghi vật chất để thoải mái tinh thần, giải quyết nhu cầu dục vọng tức là giải quyết nhân sinh, giải quyết mọi xâu xé trong xã hội loài người. Như vậy, đạo học cũng như khoa học vẫn cùng chung một mục đích.
Tuy nhiên, đã cùng chung một mục đích, tại sao lại phân chia thành hai luồng tư tưởng để tạo thành hai nền văn minh giữa hai lãnh vực đạo học và khoa học như ngày nay.
Theo nhận xét của ông Phạm-Quỳnh thì văn minh đạo học là văn minh tinh thần, còn văn minh khoa học là văn minh vật chất.
Thực ra, quan niệm như vậy không phải không sâu xa. Gọi nền văn minh đạo học là văn minh tinh thần bởi vì mọi hệ thuyết đạo học luôn luôn chủ trương đặt trên tình thương, lấy lý trí chế ngự dục vọng bản năng để cho cuộc sống loài người được hòa đồng với nhau. Còn nền văn minh khoa học là nền văn minh vật chất, bởi vì nền văn minh ấy không dùng lý trí trấn áp bản năng dục vọng, mà chủ trương tạo những phương tiện để thỏa mãn nhu cầu của dục vọng.

Chủ trương khác biệt như vậy cho phép chúng ta có thể dùng ngôn từ « tinh thần » và « vật chất » để tách biệt nguyên lý của hai nền văn minh ấy.
Nhưng tại sao nền văn minh tinh thần (đạo học) lại phát xuất ở Đông-phương, còn nền văn minh vật chất (khoa học) lại phát xuất ở Tây-phương ?
Xét về nguồn gốc của hai nền văn minh triết học Đông, Tây, chúng ta có thể nói sự khác biệt ấy do quan niệm về nguyên lý vũ trụ của hai miền mà ra.
Quan niệm về nguyên lý vũ trụ của Tây-phương từ nghìn xưa đã xây dựng trên sự riêng rẽ của thời gian, không gian và sự vật, xem ba yếu tố ấy như ba thực thể biệt lập. Bởi vậy, khi nghiên cứu về cơ cấu sự vật, các triết gia đã không quan tâm đến sự liên hệ của thời gian, không gian, mà chỉ chú trọng đến yếu tố cấu tạo sự vật ngoài ảnh hưởng biến động chung của vũ trụ. Chính tinh thần khoa học dựa trên cơ cấu sự vật mà phát sinh. Cơ cấu sự vật khi đặt ra ngoài qui luật biến động của thời gian, không gian thì sẽ lệ thuộc vào tầm hiểu biết của con người, và sự hiểu biết ấy có thể cấu tạo sự vật.
Quan niệm về nguyên lý vũ trụ Đông-phương trái lại, xem thời gian, không gian, sự vật là một khối, không thể tách rời. Do đó yếu tố sự vật không được đặt ra, mà chỉ chú trọng đến yếu tố biến động của thời gian, không gian. Chính vì quan niệm như vậy, nền triết học Đông-phương không phát huy cơ cấu sự vật. Theo họ, sự vật lệ thuộc qui luật biến động của thời gian, không gian, hễ điều hòa được mọi biến động của thời gian, không gian tức là điều hòa được yếu tố sự vật. Cho nên, họ chủ trương « tùng thiên mạng » hoặc nếu muốn tạo hạnh phúc loài người thì cải tiến sự biến động của xã hội chứ không phải cải tiến yếu tố phát huy vật chất. Cải tiến sự biến động của xã hội tức là cải tiến tinh thần, dùng lý trí chi phối khả năng vật chất.
Nói chung thì sự khác biệt giữa hai nền văn minh đạo học và khoa học bắt nguồn từ quan niệm vũ trụ giữa hai miền Đông Tây mà ra. Một bên chú trọng về cơ cấu vật chất, một bên chú trọng về cơ cấu biến chuyển của thiên nhiên. Bắt nguồn từ nguyên lý ấy, nền văn minh Đông-Tây đi dần đến chỗ dị biệt.
2) Sự diễn biến của hai nền học thuật Đông-Tây
Tuy chủ trương dị biệt, nhưng cơ cấu thời gian và cơ cấu sự vật vẫn là hiện hữu trong nguyên lý vũ trụ, cho nên, đạo học và khoa học vẫn song hành phát triển trên hai hệ thống văn minh của nhân loại.
Nếu ở Đông-phương, dân tộc nào thuần phác, giàu lòng bác ái, vị tha, lấy lễ nghĩa đối xử lẫn nhau, lấy tình thương làm căn bản cho lẽ sống, xem vũ lực là yếu tố hèn hạ của con người, thì dân tộc ấy nổi tiếng là văn minh. Ngược lại, ở Tây-phương, nếu được gọi là dân tộc văn minh, dân tộc ấy phải sáng chế ra được những phát minh mới lạ về máy móc, dụng cụ giúp ích cho đời sống con người.
Cho nên, vào thời kỳ phát triển của hai nền văn minh đạo học và khoa học, quan niệm về văn minh của Đông-phương và Tây-phương tự nó đã khác hẳn đi rồi.

c) TINH THẦN ĐẠO HỌC VÀ KHOA HỌC

Một con tàu chạy bằng hơi nước, vượt sóng ra giữa đại dương, một chiếc phi cơ cất-cánh lao mình lên không trung cao vút, người Tây-phương tự hãnh diện với những phát minh khoa học của mình, khi nhìn thấy những chiếc thuyền buồm bọc gió lũ lượt kéo nhau đi không cách bờ biển mấy hải lý. Họ tự hào với nền văn minh của họ.
Ngược lại, trong thời kỳ tiến triển về đạo học, người Đông-phương không xem những phát minh khoa học là văn minh 2, mà họ tự hãnh diện trước một triều đình cân đai rực rỡ, mũ áo xênh xang, đạo quân thần được tôn trọng, lòng từ thiện được phát huy, trẻ kính trọng già, già thương yêu trẻ, lòng hy sinh vị tha sáng chói như tấm gương muôn thuở của lẽ sống con người.
Một Kinh-Kha vì chịu ơn Thái-tử Đan, từ nước Yên mang kiếm báu sang Tần hành thích bạo chúa. Một Khổng-Minh chịu ơn Hán-đế, đem thân cúc cung tận tụy cho đến chết. Một Quan Vân-Trường đặt tình bằng hữu nơi Đào-viên lên trên mạng sống của mình… Lịch sử văn minh đạo học của Đông-phương đã chứng minh qua những nét điển hình như vậy, mà sách vở từ ngàn xưa đã ca tụng không ngớt.
Trong lúc đó, chúng ta không thể tìm thấy một Kinh-Kha, một Khổng-Minh, hoặc một Quan Vân-Trường trong lịch sử xã hội Tây-phương, nếu có những cá nhân nào mang tính chất gần trùng hợp như vậy thì quan niệm Tây-phương cũng không cho đó là văn minh được.
Sự khác biệt như vậy chính là do quan niệm diễn biến của hai nền đạo học và khoa học giữa Đông-Tây.
Theo ông Phạm-Quỳnh thì đạo học là cái học « thụ dụng », càng đi đến uyên thâm, nền học thuật ấy càng đi dần vào đại để… cho nên, đối với đạo học, một lời nói, một nửa câu chưa chắc cả một đời người đã thực hiện xong. Còn khoa học là cái học « ứng dụng » nên luôn luôn chuộng mới, và càng đi đến uyên thâm, nền học thuật ấy càng mở rộng thêm về chi tiết, tức là luôn luôn tìm kiếm những cái tế toái trong cuộc sống vật chất để cải tiến cho việc mưu sinh.
Nhận xét như vậy quả thật xác đáng, và chính ông Phạm-Quỳnh đã thấy rõ trạng thái diễn biến của hai nền học thuật Đông-Tây trong lịch sử xã hội hiện đại.
Cứ lấy nền văn minh Trung-hoa làm tiêu biểu cho tinh thần đạo học, thì chúng ta hẳn thấy rằng xã hội Đông-phương từ mấy nghìn năm về trước không chú trọng đến đời sống vật chất. Họ nuôi dưỡng một nếp sống tinh thần, lấy yếu tố tinh thần làm căn bản cho cơ cấu xã hội.
Nước này kéo binh chinh phạt nước kia chỉ vì trách nước kia có một vị vua tham bạo. Một tướng lãnh ra trận xông thành đoạt lũy không phải với tham vọng tước đoạt của cải, đất đai của đối phương, mà chỉ để biểu dương tài năng và đạo đức của mình.
Hai đạo binh đang chiến đấu nơi trận địa, nếu đạo binh nào thất thế có quyền treo miễn-chiến-bài mà đối phương không quyền lợi dụng cơ hội để tấn công.
Tại sao có những trạng thái như vậy ? Trên đấu trường mạnh được yếu thua, kẻ nào có thế lực tất đè bẹp kẻ cô thế, đó là chuyện đương nhiên trong lẽ sống. Cái gì làm định luật buộc kẻ mạnh phải nhường bước cho kẻ yếu nếu không phải là tinh thần đạo học ?
Ở đây, chúng tôi tưởng cũng nên bàn đến vài khía cạnh điển hình cho tầm mức phát triển của nền văn minh đạo học.
Để rõ ràng hơn, chúng tôi tạm chia thành hai lãnh vực xã hội và văn học trong quá trình lịch sử Trung-hoa.

Về xã hội, Đông-phương cũng như Tây-phương đều mang tính chất mâu thuẫn giữa con người và con người trong sức sống. Tuy nhiên, khác với Tây-phương, tính chất mâu thuẫn trong xã hội Đông-phương do tinh thần đạo học phát triển, nên mọi xung đột và giải quyết xung đột đều nhắm vào đạo lý, tức là tinh thần đạo học.
Nếu nói về chiến tranh thì không nước nào mang một lịch sử triền miên tranh đấu như dân tộc Trung-hoa. Từ bộ lạc này đi chinh phục bộ lạc khác, tiến đến thống nhất lãnh thổ, cấu tạo một nền phong kiến vững chãi. Lẽ ra, với một lịch sử đấu tranh ác liệt như vậy, người Trung-hoa phải là một dân tộc dẫn đầu trong ý thức khoa học, bởi vì họ cần phải tìm kiếm những phương tiện chinh phục bằng cách chế tạo những dụng cụ cần thiết cho chiến tranh, và mầm khoa học tất nhiên phải nẩy nở. Tuy nhiên, chúng ta lại thấy một kết quả trái ngược. Không một vì vua nào lúc lên ngôi chối bỏ đạo lý, dùng đạo lý làm nền tảng cho xã hội loài người. Hình bóng vua Nghiêu, vua Thuấn và những vì vua có tính chất thần thoại được tôn thờ mãi mãi trong ý thức đấu tranh dân tộc.
Tại sao vậy ? Tại sao ý thức chế ngự con người bằng vũ lực, bằng phương tiện vật chất không phát xuất ở Trung-hoa trong quá trình đấu tranh của dân tộc họ ? Chúng ta không thể bảo vì Trung-hoa có Khổng-tử, Lão-tử, Trang-tử… là những đạo gia nổi tiếng, nên lãnh đạo tinh thần dân tộc họ, cả đến các bậc vua chúa. Không, Lão-tử, Khổng-tử, Trang-tử… hay bất kỳ một vĩ nhân nào khác cũng chỉ là một cá thể trong toàn thể, một cá nhân trong khối dân tộc. Cá nhân nếu có một tài năng nào thì tài năng ấy cũng chỉ là sản phẩm do quá trình cấu tạo của toàn thể mà thôi. Sở dĩ dân tộc Trung-hoa phát xuất nhiều đạo gia là vì dân tộc Trung-hoa sớm có một vũ trụ quan của tư tưởng Á-đông. Chính quan niệm vũ trụ ấy đã cấu tạo cho Trung-hoa có nhiều đạo gia mà đó cũng là trạng thái phát triển của tinh thần đạo học Đông-phương.
Cho nên, chúng ta dám cả quyết rằng, nếu Lão-tử, Khổng tử hay Mặc-tử… chẳng hạn, được sinh đẻ và trưởng thành tại Tây-phương trong lúc đương thời thì những bậc vĩ nhân ấy chưa hẳn đã có ý niệm về đạo học, hoặc nếu có, chưa chắc người Tây-phương đã nghe theo, bởi vì vũ trụ của Tây-phương không phải là vũ trụ quan của Đông-phương. Chính hai luồng quan niệm về vũ trụ phát sinh hai nền văn minh đạo học và khoa học, chứ không phải do một vĩ nhân nào cấu tạo ra nó cả. Sự khác biệt về vũ trụ quan giữa hai miền Đông-Tây lại do hoàn cảnh sinh hoạt, địa lý khởi diễn từ thuở sơ khai.
Bởi vậy, qua lịch sử xã hội Đông-phương, nói chung, xã hội lịch sử Trung-hoa nói riêng, trải hàng bao nhiêu thế kỷ, các học thuyết về đạo gia tuy có chống đối lẫn nhau, nhưng vẫn khai triển theo một con đường đạo học.
Ví dụ, Lão-tử chủ trương xuất thế, khác với chủ trương nhập thế của Khổng-tử, tuy nhiên, họ vẫn là hai đạo gia, lấy lý trí làm nền tảng chế ngự bản năng, lấy tinh thần làm cứu cánh điều hòa vật chất. Đến như Mặc-tử, tuy chống lại duy lý, nhưng cũng không thoát ra ngoài vòng đạo học bằng cách dùng « kiêm ái » làm cơ sở cho sinh hoạt xã hội.
Như vậy, chúng ta có thể nói những mâu thuẫn về chủ trương trong ý-thức-hệ Đông-phương chẳng qua như một con sông chảy cùng một hướng. Con sông ấy có lúc rẽ ra làm nhiều chi lưu, có lúc họp lại làm một, nhưng đều phát nguyên ở một nguồn : nguồn đạo học Đông-phương.

Tách rời khỏi các đạo gia, chúng ta đi vào lịch sử chính trị, thì nguồn gốc vẫn cấu tạo trên căn bản đạo học Đông-phương.
Các vua chúa nước Tàu từ đời Thương, Chu qua Tần, Hán… đến đời Tống, đời Minh, tất cả đều là sản phẩm của nền móng tư tưởng đạo học.
Nhà Thương mất nước chỉ vì dân chúng kết tội Trụ-vương tham mê sắc dục, chối bỏ đạo nghĩa. Nhà Tần mất nước chỉ vì bạo chúa Tần Thủy-hoàng không trị dân theo nhân đạo. Nhà Chu, nhà Hán, nhà Minh… mất nước chỉ vì không thực hiện đúng trách nhiệm điều hành đạo lý.
Với dòng tư tưởng diễn biến trong lịch sử chính trị như vậy làm sao ý thức khoa học là ý thức phụng sự vật chất trong lẽ sống con người có thể phát hiện ở Đông-phương được.
Một Tống Tương-công kéo quân dẹp giặc, dựng cờ « nhân nghĩa » không phải do cái dại dột của một ông vua, mà do ý thức đạo học diễn biến mạnh mẽ trong tâm tư của kẻ cầm quyền trị nước. Một Tần Thủy-hoàng đốt sách, chôn học trò không phải chối bỏ đạo học, nhưng là hành động của kẻ độc tài, khiếp sợ sức mạnh của đạo học đang diễn biến trong lịch sử chiến tranh.
Rời khỏi các bậc đế vương, xuống đến dân giả, những phong trào chống đối tập thể trong ý thức dân tộc, chẳng hạn như những anh hùng Lương-sơn-bạc trong Thủy-hử, những đảng phái võ lâm kiếm hiệp, tụ tập quanh một chí hướng nào đó, thì chí hướng ấy cũng chỉ là sản phẩm của đạo học mà ra.
Đến như những kế hoạch điều binh khiển tướng mà người xưa gọi là binh cơ đồ trận, thì phương pháp chiến thắng địch quân cũng không ngoài mục đích vận dụng và khai thác đạo học.
Một Tào-Tháo đối xử với Quan-Công, thượng mã đề kim, hạ mã đề ngân, nhất nhật tiểu yến, tam nhật đại yến thì cũng không ngoài dụng ý dùng nhân nghĩa nối kết tình cảm đối phương. Một Hán-vương dùng Hàn-Tín với kế hoạch « đăng đàn bái tướng ». Một Lưu-Bị đi cầu Khổng-Minh với công phu « tam cố mao lư » vẫn là ý thức lấy đạo học làm căn bản cho chiến thắng.
Rồi đến những việc như : « Quan-Công phó hội », « Lưu-Bị cầu hôn Giang-tả » hoặc Khổng-Minh « lục xuất Kỳ-san », « Chu Du đốt quân Tào nơi Xích-bích », v.v… hầu hết những mưu mô về trận mạc đều lấy đạo học làm nền tảng chiến thắng địch quân.
Ngoài ra, trong lãnh vực xã hội, cuộc sống nhân gian cũng phản ảnh rõ rệt quanh tầm diễn biến của ý thức đạo học.
Một Võ-Tòng giết chị dâu mà được dân chúng ca tụng là kẻ anh hùng nghĩa khí. Một cô gái giặt lụa bên sông, cho cơm người đàn ông mà thấy mình thất tiết nên tự vận lại được dân gian thán phục… Những mẩu chuyện về đạo nghĩa trong dân gian không thể nào kể hết, hầu như tất cả đều tiêu biểu cho lịch sử diễn biến của ý thức đạo học Đông-phương.
Trên lãnh vực văn học cũng không đi xa tầm diễn biến của quan niệm Đông-phương. Nếu cuộc sống xã hội Đông-phương đã chớm nở và trưởng thành trên bình diện đạo lý thì nền văn học Đông-phương lại phản ảnh trực tiếp vào cuộc sống ấy.
Các sách vở dùng làm căn bản cho nền học thuật Đông-phương xưa nay đều lấy Tứ thư, Ngũ kinh là loại sách dạy về đạo lý làm phương châm chỉ đạo tinh thần.
Nhưng đó mới là nền học thuật do giai tầng lãnh đạo xã hội lựa chọn, đến như quan niệm văn học trong dân gian thì cũng vẫn với ý niệm đạo học, mang tính chất Đông-phương.
Trước nhất, chúng ta nói đến loại truyện Tàu, những mẩu chuyện tràng giang đại hải lưu truyền trong dân chúng, từ đời nọ đến đời kia, mà đối với thế hệ nào, người ta cũng còn đọc và chiêm ngưỡng nó.

Ví dụ truyện Phong thần, Tây du nói về yêu ma pháp thuật, nêu lên quan niệm chính tà ; truyện Nhạc Phi nêu lên lòng trung nghĩa ; truyện Đông châu nói về tính chất hỗn loạn của xã hội, tâm trạng của những bậc anh hùng và tiểu nhân ; truyện Tam quốc nói về thế tranh đoạt đất đai và quyền uy, nhưng hầu hết đều cấu tạo trên tính chất đạo học. Sự ưa thích của người bình dân đối với truyện Tàu biểu lộ rõ ràng ý thức đạo học diễn biến trong tâm tư người Đông-phương một cách gần như tuyệt đối không thể nói khác đi được.
Ngoài những pho truyện phổ thông trong dân gian được đông đảo người bình dân ưa chuộng, chúng ta còn thấy trong ca dao Trung quốc, mà Khổng-tử đã san định làm Kinh thi, tinh thần đạo học cũng phản ảnh ý thức sinh hoạt xã hội của họ không kém.
Nói chung, mọi sinh hoạt xã hội Á-đông và nền văn học Á-đông tượng trưng hoàn toàn lịch sử diễn biến của Đạo-học. Trong lúc đó thì nền khoa học lại diễn biến rất mạnh mẽ ở xã hội Tây-phương.
Đối với xã hội Tây-phương, chỉ có khoa học mới đem lại nguồn sống cho nhân loại. Nhu cầu vật chất là căn bản để giải quyết mưu sinh.
Khi đã dùng khoa học làm nền tảng cho lẽ sống, thì guồng máy kinh tế biến thành động cơ chi phối mọi lãnh vực khác.
Những bộ óc tinh vi không nghiên cứu về nhân nghĩa, đạo đức như Đông-phương mà chỉ cần khảo cứu những phương pháp sáng chế, sản xuất để phụng sự nhu cầu vật chất, dục vọng cá nhân. Nền kinh tế kỹ nghệ do đó tăng tiến, và dục vọng cá nhân đã không bị tiết chế còn được xem như hạnh phúc con người có quyền thụ hưởng.
Cho nên, nếu ý thức đạo học Đông-phương dẹp bỏ cái « ta » (cá nhân) thì quan niệm Tây-phương lại đặt cái « ta » làm mục tiêu tranh đấu. Về vật chất, họ khai thác những cung cầu do dục vọng cá nhân đòi hỏi, về tinh thần họ triệt để tôn trọng những cá tính, lấy cá tính làm phương châm cho lẽ sống cá nhân.
Một xã hội tác thành trên quan niệm như vậy làm sao khỏi có sự tranh đua thụ hưởng, giành quyền sống cho mình. Sự tranh đua trở thành trạng thái mâu thuẫn từ cá thể này đến cá thể khác, và nền văn minh Tây-phương mà ông Phạm-Quỳnh gọi là nền văn minh vật chất chính vì do trạng thái ấy.
Nhưng nền văn minh vật chất cũng như tinh thần, chẳng bao giờ đứng yên. Nó luôn luôn dẫn đến cực đoan để tạo thành trạng thái biến động trong xã hội.
Nếu vì phụng sự cho dục vọng vật chất, nền văn minh Tây-phương đã sản xuất những kỹ nghệ máy móc, sáng chế những nhu cầu cần thiết cho con người, thì về tinh thần họ lại nuôi dưỡng những mầm sống lãng mạn, luôn luôn chuộng những cái gì lạ lùng, mới mẻ như ý thức khoa học của họ. Họ khai thác từng cảm giác mung lung, mới lạ để theo đuổi, để phụng sự, để cống hiến cho nhu cầu vật chất. Phong trào lãng mạn Tây-phương tràn sang Á-đông đánh đổ nền Đạo-học trong thế kỷ XIX, gây thành một biến cố trong văn học sử chính là do ý thức mâu thuẫn giữa hai nền văn minh Đạo-học và Khoa-học.
3) Sự mâu thuẫn giữa hai hệ thống tư tưởng từ quan niệm vũ trụ đến quan niệm nhân sinh
Qua phần diễn biến của hai nền văn minh Đạo-học và Khoa-học, chúng ta đã thấy trạng thái mâu thuẫn của nó. Một bên dùng lý trí trấn áp dục vọng bản năng mưu cầu hạnh phúc cho loài người, một bên, trái lại, dùng lý trí sáng tạo khoa học, đem đến cho loài người những tiện nghi vật chất để thỏa mãn dục vọng bản năng. Hai chủ trương khác biệt như vậy làm sao không đem đến giữa hai miền Đông-Tây hai nền văn minh xa cách nhau ?
Chúng ta phải thấy sự xa cách ấy bắt nguồn từ vũ trụ quan đi đến nhân sinh quan. Và càng đi xa cũng như hai đối điểm đi lần đến cực, chẳng bao giờ có thể dung hợp được.
Sự mâu thuẫn giữa hai nền văn minh Đông-Tây lại không phải do một cá nhân nào, hay một chủ trương nào mà chúng tôi đã tìm căn nguyên ở phần khảo sát về nguyên lý.
Nói đến mâu thuẫn về căn bản, chúng ta lại phải nói đến tính chất tiến triển của thời gian, không gian.

Nền văn minh Tây-phương, với vũ trụ quan tách rời yếu tố thời gian, không gian và sự vật, nên đã phát triển theo chiều hướng khoa học, khác với nền văn minh đạo học Đông-phương, tuy nhiên, sự mâu thuẫn giữa hai miền chưa phát hiện rõ rệt thuở ban đầu mà phải đợi sự tiến triển của thời gian, không gian lần lần tăng trưởng tích lũy, cho đến khi cuộc sống giữa Đông-Tây đụng chạm nhau, thì chúng ta mới thấy trạng thái mâu thuẫn rõ rệt.
Để phân tích tính chất mâu thuẫn ấy chúng ta thử chia làm nhiều địa hạt.
- Về địa hạt kinh tế -
Với chủ trương đem lý trí cung cấp cho nhu cầu dục vọng con người, tất nhiên nền văn minh Tây-phương phải phát triển kinh tế khoa học, tức là cơ giới hóa guồng máy sản xuất để cung ứng cho nhu cầu vật chất. Sự thịnh vượng của nền kinh tế Tây-phương bắt nguồn từ thế kỷ thứ XIX, thời kỳ mà nền văn minh khoa học chớm lên một tia sáng, xem bộ óc con người, sự thông minh con người có thể cung ứng toàn vẹn hạnh phúc cho lẽ sống.
Chúng tôi còn nhớ, trong tờ Đông-Tây tạp chí có ghi chuyện ông Khang-hữu-Vi, một học giả nổi tiếng nước Tàu, sang thăm nước Mỹ, vào yết kiến ông Henri Ford, chủ nhân một cơ xưởng sản xuất xe hơi : « Vì mến chuộng uy danh nhà đạo học Đông-phương, ông Henri Ford bằng lòng tiếp ông Khang-hữu-Vi trong năm phút. Trông thấy các xưởng máy trùng trùng điệp điệp, dựng trên một khu đất rộng đến hàng mười mẫu, ông Khang-hữu-Vi quá đỗi kinh ngạc, rụt rè năm ba câu xã giao, rồi đánh bạo hỏi chủ nhân : « Thưa ngài, đối với một xưởng chế tạo nguy nga, đồ sộ thế này, mỗi tháng ngài thu được mấy vạn ? » Đối với quan niệm của các đạo gia Đông-phương đặt nhân nghĩa lên trên quyền lợi vật chất thì con số vạn đã là to lớn lắm rồi. Chẳng ngờ bị ông Ford trả lời một câu, khiến nhà đạo học Đông-phương phải há mồm, trợn mắt : « Bên xứ chúng tôi làm việc không thể tính bằng tháng hay bằng năm, mà phải tính từng giờ. Trong xưởng chúng tôi, theo bảng thống kê vừa rồi thì cứ mỗi giờ được lời hơn bảy vạn đô-la »« Trời ơi ! Mỗi ngày lãi tới bảy vạn ? » Thấy khách kinh ngạc hỏi vặn như vậy, ông Ford thản nhiên đáp : « Không phải, đó là tính trung bình mỗi giờ, còn nếu muốn tính theo mỗi ngày thì phải nhân lên gấp 12 lần, nghĩa là được lời hơn tám mươi bốn vạn mỗi ngày… »
Câu chuyện trên đây ngày nay chúng ta tưởng như một câu chuyện hài hước, nhưng chính là sự thật đã xảy ra trong lúc hai nền văn minh Đông-Tây vừa đụng chạm nhau.
Làm sao ông Khang-hữu-Vi không kinh ngạc được trước một xưởng máy vĩ đại của nước Mỹ đương thời đem lại một lợi tức mà lịch sử Trung-hoa chưa từng thấy ? Sự kinh ngạc của ông Khang-hữu-Vi chính là trạng thái cách biệt giữa ý thức đạo học và khoa học. Ý thức khoa học chỉ mưu cầu về quyền lợi vật chất, thu đoạt những khả năng thụ hưởng dồn vào cá nhân ; còn ý thức đạo học lại xem quyền lợi vật chất là cái gì hèn hạ nhất trong lẽ sống loài người.
Với ý thức đạo học, dù là một ông vua, hay chúa tể của guồng máy phong kiến, cũng không được đặt quyền lợi cá nhân lên trên nghĩa vụ, huống chi đối với dân gian.
Thời xưa, ở nước Tàu, Mạnh-tử đến yết kiến vua Huệ-vương. Vua Huệ-vương hỏi : « Phải làm gì để có lợi ? » Mạnh-tử đáp : « Vua cần gì phải nói đến lợi ». (Vương hà tất viết lợi).
Giả sử, nếu thời bây giờ, ông Khang-hữu-Vi đến thăm ông Henri Ford, cũng đem tinh thần đạo học khuyên ông Ford không cần nói đến quyền lợi thì có lẽ ông Ford sẽ cho ông Khang-hữu-Vi là kẻ mất trí rồi !
Quan niệm đạo học và khoa học cách biệt sâu xa về nguồn gốc mưu sinh, cho nên nếu một Khang-hữu-Vi phải ngạc nhiên trước nguồn lợi về cơ giới của một xưởng chế tạo ở nước Mỹ, thì ngược lại, Tây-phương cũng phải ngẩn ngơ trước những lễ nghi, phong tục Á-đông. Và chính họ cũng phải kinh hồn, khi nhìn thấy những dấu vết của nền văn minh đạo học chất chứa mấy nghìn năm, di lưu hàng mấy trăm thế kỷ. Bằng chứng là vào thời Thanh-mạt, quân tám nước đổ bộ lên lục địa Trung-hoa để chia xẻ, thu đoạt quyền lợi, họ đốt vườn Di-hòa của Từ-Hi Thái-hậu, trong đó có những kỷ vật tượng trưng cho nền văn minh đạo học Đông-phương mà người Tây-phương không thể không kính phục.
Trạng thái trên phản ảnh rõ rệt hai quan niệm về văn minh trong lãnh vực kinh tế. Cũng như chúng ta đã từng nghe trong xã hội Đông-phương có câu « trọc phú, thanh bần ». Người ta không tôn trọng cái giàu ô trọc, mà lại đề cao cái nghèo thanh đạm. Ý thức ấy nếu không phát xuất từ đạo học, và được nền đạo học Đông-phương nuôi dưỡng làm sao tồn tại trong lẽ sống con người ? Đối với thế giới khoa học thì giàu là giàu, nghèo là nghèo, không có chuyện « trong và đục ».
Quan niệm về kinh tế, đạo học lại còn ảnh hưởng sâu xa trong ý thức « danh gia vọng tộc ». Kẻ giàu được kính trọng phải là kẻ giữ được phẩm giá trong xã hội lưu truyền từ đời nọ đến đời kia. Những gia đình được xã hội tôn sùng phải là những gia đình biết sử dụng tiền của đi đôi với đạo đức. Những tài vật được xã hội ưa thích phải là những đồ xưa, di lưu qua nhiều thế kỷ, tuy không đẹp nhưng chứa đựng một giá trị về thời gian.
Từ ý thức về giàu, nghèo của nền đạo học, chúng ta thấy xã hội Đông-phương không thể nào phát triển theo chiều hướng cơ giới hóa guồng máy sinh hoạt như xã hội Tây-phương được.
Một bữa cơm ngon, đối với con người trong xã hội khoa học là phải đầy đủ chất bổ, phải cao lương mỹ vị để làm ngon miệng, nhưng đối với con người trong thế giới đạo học không lấy thế làm thích. Họ từng bảo : « Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn ».
Quan niệm « ăn để sống » chính là chủ trương của đạo học, tiết chế dục vọng. Khi con người đã tự tiết chế dục vọng thì ý niệm sản xuất để cung cấp cho nhu cầu dục vọng là điều trái ngược với chủ trương.
Trái lại, đối với thế giới khoa học, nền tảng hạnh phúc loài người là tìm cách hưởng thụ đầy đủ mọi nhu cầu vật chất, cho nên họ không thể nào khoanh tay ngồi nhìn những thiếu thốn mà bản năng dục vọng họ đòi hỏi.
Vì vậy tuy hai chủ trương khác biệt nhau, một đàng dùng lý trí khai thác tiện nghi vật chất, cung ứng cho nhu cầu, xem nhu cầu vật chất là nền tảng của hạnh phúc, cả hai vẫn tự cho mình là văn minh, mà trên thực tế họ đã dựng lên hai nền văn minh mâu thuẫn và cách biệt nhau.
Không văn minh sao được, một mặt khi bộ óc con người đã áp dụng khoa học chế tạo những máy móc tinh vi, mà loài người đã tự hào đủ năng lực chinh phục vũ trụ, khống chế cả thời gian, không gian, đưa cuộc sống con người mỗi ngày một đổi mới trên lãnh vực sinh hoạt xã hội.

Mặt khác, không văn minh sao được, khi cái mà loài người tự hào cao quí hơn mọi sinh vật khác là tinh thần được phát huy tuyệt đỉnh trong tình thương, làm căn bản cho lẽ sống bằng lương tri.
Hai con đường suy tư đều đi đến thành tựu, và gây nên ý thức mâu thuẫn trong địa hạt phát huy kinh tế xã hội.
Đi tìm khả năng cung ứng cho nhu cầu vật chất, thế giới khoa học Tây-phương đã đi lần đến cơ giới hóa guồng máy sản xuất, mọi sinh hoạt xã hội đều lấy khả năng kinh tế làm động cơ chính. Tinh thần lý tưởng không còn tồn tại nữa nếu nhu cầu vật chất bị thiếu thốn. Người ta chạy đua theo vật chất, tranh đoạt nhau về vật chất, để cuối cùng, nghĩa sống con người chỉ còn là sự cung cầu của bản năng dục vọng mà thôi.
Một nền văn minh như vậy tất nhiên cơ sở kinh tế quốc gia phải tập trung vào tay những kẻ mạnh, có thế lực, chi phối mọi công ăn việc làm của quần chúng, và trở thành những quốc gia tư bản. Hình thức quốc gia tư bản là một hình thức tự do kinh doanh, mà cũng có nghĩa là mỗi cá nhân đều có quyền tự do mưu cầu quyền lợi của mình trong ý thức cạnh tranh. Do đó, nền kinh tế khoa học rất mau phát triển, và cũng chứa đầy mâu thuẫn nội tại.
Trái với nền kinh tế khoa học Tây-phương, nền kinh tế đạo học Đông-phương là một nền kinh tế tự túc, tức là dựa trên cơ sở nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Nhưng tại sao nền kinh tế đạo học không phát triển theo chiều hướng khoa học?
Trên kia chúng ta đã bàn qua, đạo học chủ trương nuôi dưỡng cuộc sống về tinh thần, xem bản năng dục vọng là cái gì hèn hạ của con người, như vậy thế giới đạo học cần gì phải dùng đến khoa học để phát triển cơ sở vật chất, nuôi dưỡng những tham vọng bản năng.
Con người phải tự làm để nuôi sống lấy mình mà không cần sống nhờ ở kẻ khác, ý thức đạo học chủ trương gần gũi với thiên nhiên, xem trạng thái thiên nhiên là trạng thái chung của vạn hữu, không có tham vọng chinh phục thiên nhiên, mà chỉ làm sao cho cuộc sống con người hòa hợp với thiên nhiên mà thôi. Chính vì quan niệm như vậy mà guồng máy kinh tế đạo học Đông-phương luôn luôn giữ mức trầm lặng. Thời gian, không gian đối với họ như lắng đọng. Cuộc sống của họ ít bận rộn về mưu sinh hơn là cuộc sống trong thế giới khoa học.
Còn đối với thế giới khoa học, khi nền kinh tế khoa học đã phát triển, tầm mức sản xuất và nhu cầu vật chất tự nhiên mỗi ngày một biến đổi.
Một bánh xe quay tượng trưng cho trạng thái nới rộng tầm không gian. Một guồng máy chạy ầm ì trong cơ xưởng để thay thế sức người, tượng trưng cho trạng thái đúc kết thời gian. Nói cách khác, thế giới khoa học đã nới rộng tầm không gian và thời gian (không gian càng nới rộng, thời gian càng tăng trưởng theo) và tầm biến động của vạn hữu cũng theo tầm biến động của thời gian, không gian mà thay đổi mau hơn.
Tính chất biến động trong cuộc sống xã hội khoa học đứng về phương diện lịch sử thì đó là sự tiến bộ trong sinh hoạt loài người. Tuy nhiên, đứng về mặt đạo học thì với nền văn minh như vậy, trạng thái tiến bộ trở thành thoái hóa, bởi lẽ văn minh tiến bộ của thế giới khoa học chỉ biết phụng sự cho vật chất, trong đó ý thức cạnh tranh, tiếm đoạt là những mầm ung độc, nẩy nở và bành trướng mỗi lúc một ác liệt, khiến cho con người mất hết lương tri trong đạo làm người.
Trái lại nền văn minh khoa học nhìn trạng thái phát triển của nền kinh tế đạo học với tính chất lạc hậu, thiếu khả năng tạo cho lẽ sống loài người những hạnh phúc mà loài người nhờ ở trí khôn có quyền hưởng thụ.
Tóm lại, thế nào là văn minh tiến bộ ? khi giữa hai quan niệm đạo học và khoa học đã cách biệt nhau thì khó mà giải đáp được.
- Mâu thuẫn về chính trị -
Từ mâu thuẫn căn bản về lẽ sống, nền văn minh đạo học và khoa học đã dẫn đến mâu thuẫn về phát triển kinh tế, tất nhiên không thể tránh khỏi mâu thuẫn về chính trị. Mâu thuẫn về chính trị bắt nguồn từ ý thức tổ chức và điều hành guồng máy xã hội.

Theo đạo học, xã hội loài người muốn giữ được trật tự cần phải bảo vệ quyền lợi chung, nghĩa là tất cả mọi người phải hy sinh tự do và dục vọng cá nhân để tôn trọng một nguyên tắc hợp đoàn. Nguyên tắc ấy là Đạo. Đạo phát nguồn từ cơ cấu vũ trụ. Cho nên vạn hữu, tuy mỗi cá thể có một bản chất riêng, mà khi đã ở trong cơ cấu vũ trụ đều phải tuân theo một qui tắc chung. Đã theo một qui tắc chung tất nhiên phải có một khuôn khổ định sẵn. Các nhà đạo học cố đi tìm cái khuôn khổ ấy cho hợp với lẽ sống con người để điều hành guồng máy xã hội. Bởi vậy chúng ta thấy ở thế giới đạo học, cá nhân chỉ để phục vụ cho nguyên tắc đã định sẵn. Kẻ nào thực hiện đúng với nguyên tắc chung của đạo thì được xã hội tôn trọng, ngược lại, kẻ nào để dục vọng cá nhân trấn áp lý trí, thoát ra ngoài khuôn khổ của đạo lý thì bị xã hội chê trách.
Dựa trên căn bản cấu tạo xã hội như vậy, thế giới đạo học lấy sự răn dạy, cải hóa con người làm mục tiêu chính trị. Guồng máy chính trị không đặt trên căn bản quyền hành cá nhân, sức mạnh đảng phái, mà đặt trên căn bản luân lý, tức là bổn phận làm người.
Quyền hạn của một ông vua là tuyệt đối, nhưng với thế giới đạo học, ông vua cũng phải tuân hành theo nguyên tắc chung, nghĩa là phải tôn trọng đạo lý. Một Trụ-vương, một Tần Thủy-hoàng không thể tránh khỏi sự nguyền rủa của dân gian. Một Tào-Tháo tuy đủ tài năng mưu lược, điều binh khiển tướng, đem lại một thành công rực rỡ cho sự nghiệp tế thế an bang, nhưng không tránh khỏi mang tiếng là kẻ gian hùng. Một Châu Văn-vương, tuy được tiếng diệt Trụ, một bạo chúa, nhưng cũng không dám tự hào là kẻ thực hiện đúng đạo lý trong nguyên tắc quân thần. Như vậy, theo đạo học, không một cá nhân nào có quyền phụng sự cho bản năng cá thể, mà chỉ có mục đích tuân theo một ý thức do nền đạo lý đã công nhận.
Từ ý thức lấy cơ sở đạo học làm nền tảng cho chính trị, thế giới đạo học không ca tụng tài năng mà chỉ ca tụng đức độ.
Cho nên, theo Lão-tử, một đạo gia nước Tàu đã từng nói : « Ông vua không cần phải có tài, mà chỉ cần có đức ».
Với Khổng-tử cũng thế, ông bảo : « Đức thắng tài vi quân tử, tài thắng đức vi tiểu nhân ».
Cứ lấy những địa vị có quyền uy trong guồng máy chính trị của thế giới đạo học ra nhận xét, chúng ta thấy rằng những bậc cai trị còn phải chịu ép mình trong khuôn khổ, thì đối với dân gian, những kẻ bị trị không thể sống theo bản ngã cá nhân được. Bị nhốt vào một khuôn khổ, con người trong thế giới đạo học không phát huy được cá tính, do đó, họ chỉ sống theo một nề nếp cố hữu, và guồng máy chính trị cũng chỉ thực hiện theo một nguyên tắc truyền tụng muôn đời mà thôi. Tuy nhiên, cuộc sống của họ trầm lặng, ít xáo trộn hơn. Cũng như trong một gia đình, khi đã chịu chung một gia giáo, lề thói, phong tục, thì người trong gia đình ấy dễ hòa thuận nhau, và quan niệm nhân sinh cũng chẳng khác biệt bao nhiêu.
Nền chính trị khoa học trái lại. Vì quan niệm hạnh phúc loài người là thỏa mãn nhu cầu vật chất cá nhân, nên phủ nhận cuộc sống khuôn khổ. Mỗi cá nhân đều có quyền sống riêng cho mình, và tự do cá nhân được xem như cái gì thiêng liêng, cao quí.
Phụng sự dục vọng cá nhân, lấy cá nhân làm nền tảng cho trật tự xã hội, thế giới khoa học đã chứa đựng khá nhiều phức tạp trong guồng máy chính trị của họ.
Trước nhất, do nền văn minh khoa học tiến bộ, ý thức cá nhân phát triển một cách bồng bột, mọi kềm hãm về tổ chức chính trị bị đổ vỡ, do đó, chế độ phong kiến Tây-phương sớm cáo chung, nhường chỗ cho những hình thức tổ chức xã hội mới mẻ hơn. Trong lúc đó, chế độ phong kiến Đông-phương vẫn được duy trì và phát triển cho đến tuổi già nua.
Ở đây, chúng ta không đề cập cái xấu, cái tốt của chế độ phong kiến, chỉ chứng minh rằng chế độ phong kiến Đông-phương nhờ dựa vào căn bản đạo học mà tồn tại lâu dài.

Mặt khác, khi phát huy tính chất cá nhân, nền chính trị của thế giới khoa học thường phát sinh những mâu thuẫn cá nhân, và mâu thuẫn cá nhân dễ trở thành độc tài, tuy hình thức bên ngoài của bộ mặt xã hội có vẻ tự do theo chủ nghĩa tôn sùng cá biệt. Nói cách khác, sự tranh đoạt tự do đi đến tuyệt đối biến thành hỗn độn, và cuộc sống xã hội trở nên phức tạp, tùy thuộc vào cảm tính, mà cảm tính ảnh hưởng ở dung lượng tăng trưởng và biến động của thời gian, không gian. Do đó, suy tư của con người trong thế giới khoa học thường bị quấy động theo tầm phát triển của khả năng xã hội vật chất. Nếu vật chất đòi hỏi mỗi ngày một đổi thay thì tâm tư con người cũng đòi hỏi sự thay đổi hàng ngày, và cảm tính con người cũng tùy thuộc vào trạng thái diễn biến ấy. Tuy nhiên, dù diễn biến, đổi thay, căn bản của xã hội khoa học là giải quyết nhu cầu dục vọng để thỏa mãn bản năng, nên tham vọng con người không bao giờ đạt đến mức. Nhu cầu dục vọng càng được hưởng thụ thì tham vọng càng tăng. Chính tham vọng của thế giới khoa học đã đưa những quốc gia Tây-phương sớm trở thành những đế quốc thực dân chớm nở vào thời đại chiến thế giới lần thứ nhất, khơi nguồn cho ý thức mâu thuẫn nội tại.
Tuy nhiên, trước khi luận về tính chất mâu thuẫn giữa hai nền chính trị đạo học và khoa học, chúng ta thử xem xét, tại sao thế giới khoa học lại tiến đến thời kỳ thực dân?
Căn bản tổ chức xã hội của thế giới khoa học là phát triển mọi cung cầu vật chất, và tôn trọng dục vọng cá nhân, cho nên yếu tố phát triển vật chất và dục vọng cá nhân đưa nền chính trị của xã hội ấy tiến dần đến chỗ tranh đoạt quyền hưởng thụ từ giữa người này và người khác, đến lớp người này và lớp người khác. Khi khả năng tranh đoạt nội tại đã lên đến cao độ, nền chính trị quốc gia dựa trên đà tiến triển khoa học, vượt không gian, thời gian, tiến đến hành động tranh đoạt ngoại tại, dồn quyền hưởng thụ về cho quốc gia, dân tộc mình, thì đó là chính sách thực dân. Như vậy, chúng ta có thể nói, thời kỳ thực dân đế quốc là thời kỳ phát triển của thế giới khoa học đã vượt ranh giới quốc gia tràn ra bên ngoài.
Hơn nữa, khoa học phát triển trên tài nguyên vật chất, những nguyên liệu cung ứng cho nhu cầu khai thác khoa học cần phải lấy ở mặt đất, không thể do trí khôn con người sáng chế mà không cần mặt đất là nguồn sống của sinh vật. Cho nên, khoa học càng phát triển thì ý thức tranh đoạt tài nguyên đất đai càng tăng, và chính sách thực dân càng nẩy nở.
Căn cứ vào diễn biến trên, lịch sử thế giới đã chứng minh nền văn minh khoa học đã đưa nền chính trị Tây-phương tiến đến thời kỳ thực dân bắt đầu bằng trận đại chiến thế giới lần thứ nhất là lẽ tất yếu. Tuy nhiên, mặc dù guồng máy chính trị giữa hai thế giới đạo học và khoa học mâu thuẫn từ căn bản ý thức đi đến tổ chức xã hội, nhưng trạng thái mâu thuẫn giữa Đông Tây lúc ban đầu chưa biểu lộ rõ rệt, mà phải đợi đến thời kỳ khoa học đủ khả năng vượt thời gian, không gian, mở rộng phạm vi sinh hoạt, lan tràn đến thế giới bên ngoài, ý thức mâu thuẫn về nền tảng chính trị đạo học và khoa học mới bùng nổ.
Thời kỳ ấy chính là thời kỳ các nước Tây-phương dùng khả năng khoa học biến thành vũ lực xâm chiếm thuộc địa, đem sức mạnh vật chất đối chọi với sức mạnh tinh thần.
Chúng ta, người Việt-nam, một dân tộc nhỏ bé, sống trong vùng ảnh hưởng của thế giới đạo học, nhưng lại nhìn thấy trạng thái mâu thuẫn rõ rệt nhất trên địa hạt chính trị giữa hai miền Đông Tây, nhờ ở các cuộc khủng hoảng về chính trị trên lục địa Trung-hoa trong thời Thanh-mạt.
Ở đây, chúng ta không bàn đến lịch sử chiến tranh thế giới vì là một quyển sách văn học, cũng không được quyền phóng tầm mắt quá xa trong phạm vi nội trị của nước Tàu. Tuy nhiên, khi phải nói đến trạng thái mâu thuẫn về ý thức chính trị giữa hai nền văn minh qua một giai đoạn lịch sử mà người Tây-phương ồ ạt đem súng đồng, tàu trận uy hiếp lãnh thổ Trung-hoa, trung tâm của nền văn minh đạo học, làm cho nước Trung-hoa trải qua một cuộc khủng hoảng lớn lao về chính trị chưa từng thấy.
Căn bản của cuộc khủng hoảng ấy là gì ? Nếu tìm sâu về tính chất căn bản thì đó là trạng thái mâu thuẫn giữa hai ý thức văn minh đạo học và khoa học mà thôi.
Trong lúc nền chính trị đạo học Đông-phương đang diễn tiến trên chế độ phong kiến, lấy đạo làm nền tảng từ tổ chức gia đình đến xã hội, chủ trương tam cang, ngũ thường của Khổng-học đang ngự trị trên tình cảm của người Đông-phương, thì người Tây-phương xuất hiện với những khuôn mặt lạ lùng, làm sao người Đông-phương không cho là quái gở. Lạ lùng đây không phải do mắt xanh, mũi lõ, tóc vàng… mà chính là những kẻ không biết tôn trọng nền đạo lý của Đông-phương.
Một sứ thần khi đến yết kiến một quốc vương phải mặc triều phục, cân đai rực rỡ, quì lạy tung hô, nhưng người Tây-phương chỉ mặc một bộ đồ ngắn, bó sát vào da, đứng hiên ngang trước bệ, không biết quì lạy chúc mằng, nghĩa là không hiểu gì về lễ nghi, mà nền văn minh đạo học đã ca tụng, thì làm sao những kẻ cầm quyền trị dân trong thế giới đạo học không cho là man rợ.
Chính vào thời Thanh-mạt, các quốc vương Trung-hoa đã gọi người Tây-phương là bọn « hồng mao ; bạch chủng » trong lúc tiếp xúc với họ là do sự mâu thuẫn về cơ cấu chính trị của mỗi miền, và do sự khác biệt của hai nền văn minh Đông-Tây.
Ngược lại, cũng vào thời đó, trong lúc tiếp xúc với nền chính trị Đông-phương, người Tây-phương nhìn thấy lối lễ nghi đài các, và ý thức cầm quyền trị dân của xã hội Đông-phương họ cũng phải bịt mũi cười thầm, cho là lạc hậu.
Một Từ-Hi Thái-hậu, trong lúc thất thủ trước trận bát quốc liên quân vẫn một mặt từ chối không tiếp sứ thần các cường quốc Tây-Âu, không phải vì mưu lược mà chính vì ý thức mâu thuẫn về quan niệm văn minh giữa hai miền.

Tóm lại, về phương diện chính trị, do chủ trương phụng sự dục vọng cá nhân, thế giới khoa học Tây-phương đã tước bỏ mọi ràng buộc về tinh thần trong khuôn khổ đạo lý của Đông-phương, trong lúc xã hội Đông-phương vẫn một mực tôn sùng, và duy trì đạo lý, vì vậy, khi nền văn minh khoa học tiến triển đến mức xóa bỏ giới hạn không gian, thời gian, chan hòa với nền chính trị Đông-phương tất nhiên gây thành một mâu thuẫn lớn lao trong ý thức hệ giữa hai miền.
- Mâu thuẫn về văn học -
Văn học là nền tảng của tinh thần sinh hoạt xã hội. Khi nền văn minh đạo học và khoa học giữa hai miền phát triển theo hai chiều hướng riêng rẽ thì nền văn học Đông-Tây không tránh khỏi những khác biệt.
Nói đến văn học, chúng ta phải nói đến nền học thuật.
Do ý thức dùng khoa học để phụng sự lẽ sống con người, nền học thuật Tây-phương tiến mạnh về phương pháp khảo cứu, phát minh những tiện nghi vật chất, để cung ứng cho nhu cầu xã hội.
Trong lúc đó, nền học thuật Đông-phương ngược lại không dùng cái học để sáng chế, phát minh những tiện nghi vật chất, cung ứng cho nhu cầu mà dùng cái học để đạo luyện những mẫu người lý tưởng làm tiêu biểu cho nền đạo lý.
Nói cách khác, nền học thuật Tây-phương chủ trương đào tạo những chuyên viên của máy móc, nền học thuật Đông-phương chủ trương đạo luyện những chuyên viên của tinh thần. Hoặc chúng ta có thể nói cách khác nữa, nền học thuật Tây-phương sản xuất những tài năng về vật chất, nền học thuật Đông-phương sản xuất những tài năng về tinh thần.
Sự khác biệt giữa hai nền học thuật chính cũng do quan niệm về lẽ sống mà ra.
Do đó, chúng ta không lấy làm lạ khi thế giới khoa học Tây-phương đem cả trí khôn con người tập trung vào lãnh vực phát minh, sáng chế, thì ở Đông-phương, trong thế giới đạo học, chúng ta chỉ thấy nghiền ngẫm những lý thuyết của thánh hiền, lấy văn chương thi phú làm tiêu biểu cho thiên tài, lấy việc tầm chương trích cú làm cơ sở cho khả năng học cao hiểu rộng.
Nhìn vào giai đoạn lịch sử ấy, tiền nhân chúng ta có người đã phải tự thán :
« Nào có ra gì cái chữ Nho,
Ông Nghè ông Cống cũng nằm co.
Ước gì được học làm thầy phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò ».
Tuy nhiên, sự than trách của một vài tiền nhân chỉ là phản ảnh của ý thức mâu thuẫn giữa hai quan niệm đạo học và khoa học trong lãnh vực văn học mà thôi. Chúng ta đi sâu vào căn bản của tâm tư, làm sao chúng ta có thể oán trách nền học thuật Đông-phương khi mà họ quan niệm đạo lý là cơ sở của lẽ sống, mà tham vọng vật chất là yếu tố hèn hạ của con người. Đã không coi vật chất là nguồn cung ứng hạnh phúc, tại sao chúng ta bảo họ phải nghiên cứu những cơ năng để phát huy nhu cầu vật chất ?

Ngày nay, chúng ta cảm thấy thời đại ngâm thơ, vịnh nguyệt là vô ích, lạc hậu, bởi vì ý thức chúng ta đã thiên về khoa học rồi !
Đối với người xưa, một nhà bác học Tây-phương suốt đời cặm cụi trong phòng thí nghiệm đem thân hiến cho một phát minh, sáng chế, chưa hẳn đã ích lợi hơn một văn thi hào năm tháng thả hồn theo dõi bóng trăng, tìm trong cảnh sống trầm lặng ấy một nguồn an ủi cho kiếp người.
Cái ích lợi và không ích lợi, nếu đứng về căn bản triết học, chúng ta sẽ thấy khác xa với thực tại mà ngày nay chúng ta đang theo đuổi.
Vả lại, làm thế nào để tìm thấy lẽ phải khi mà quan niệm về lẽ sống của một thời gian, không gian có một tầm nhận định khác biệt.
Ngày nay, chúng ta cầm một quyển sách dạy cách làm bánh, nấu ăn, hoặc sửa chữa một loại máy móc nào đó, chúng ta say mê với công dụng thực tế của nó trong đời sống hàng ngày. Và khi nhìn đến một đoạn văn, một bài thơ, nếu đoạn văn, bài thơ ấy không làm thỏa mãn chúng ta, chúng ta không thích. Như vậy tức là tâm hồn chúng ta đã không còn là tâm hồn của tiền nhân trong thế giới đạo học nữa rồi.
Một Lý-Bạch, khi ôm bầu rượu, thả hồn vào đám mây trôi, nhìn mặt nước bẻ nát vành trăng, ông dám khinh khi kẻ nào chỉ biết sống theo vật chất. Những gì gọi là phát minh khoa học, đối với ông, chỉ là cặn bã của thế giới loài người !
Tại sao người xưa lại khác biệt với chúng ta ngày nay về suy tư ? Điều đó rất dễ hiểu, chỉ vì ý thức đạo học của họ vẫn còn giữ được nguyên vẹn.
Diễn đạt những ý nghĩ trên đây chúng tôi muốn làm sáng tỏ căn bản mâu thuẫn của hai nền học thuật Đông-Tây.
Bây giờ, chúng ta thử đi sâu vào thực trạng mâu thuẫn của hai nền học thuật Đông Tây khi tác động vào xã hội Việt-nam.
Ở Việt-nam, ý thức mâu thuẫn rõ rệt giữa hai nền văn học bắt đầu từ lúc người Pháp đến đô hộ nước ta.
Tuy nhiên, lúc ban đầu, nền đạo học còn mạnh, nền học thuật Việt-nam tuy đã manh nha chuyển hướng, song phải đợi đến thế kỷ thứ 19, sự xung đột mới bùng nổ.
Để chứng minh mầm móng đạo học còn giữ được địa vị ưu thế của nó, mặc dù hình thức tổ chức nền học thuật từ lâu đã đổi thay, chúng ta vẫn còn thấy trong sách giáo khoa, cho đến ngày nay, những bài thơ về luân lý vẫn giữ nguyên tinh thần thuần túy đạo học của nó. Ví dụ :
Công cha như núi Thái-sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Hiếu đạo vẫn còn được xem là căn bản của đạo lý trong các sách giáo khoa, chứng tỏ người Việt-nam, một dân tộc Đông-phương không thể nào từ bỏ quan niệm cố hữu của mình. Đó là điều chúng ta đáng ghi nhận.
Một bằng chứng khác, ngoài ý thức hiếu đạo, những tư tưởng điển hình cho cuộc sống thanh bạch vẫn được nền văn học Việt-nam lưu truyền trong các sách giáo khoa. Ví dụ các bài ngụ ngôn như :
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Lấy sự thanh bạch của cây sen, sinh trong bùn mà không hôi mùi bùn, chính là tâm tư của nền đạo học. Cũng như bài :
Con cò mà đi ăn đêm,
Đâu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con.
Con cò đã chết vẫn không muốn thịt xương trộn lẫn với nước đục. Rõ ràng nền học thuật Việt-nam tuy ảnh hưởng vào nền học thuật Tây-phương, song căn bản đạo học không thể nào hoàn toàn phai nhạt được.

Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là chúng ta không thừa nhận tính chất mâu thuẫn của hai nền học thuật Đông-Tây đã tác động vào nền văn học Việt-nam gây thành những biến cố lịch sử.
Vào thế hệ 1917-1932, một luồng gió mới thổi tạt vào bán đảo Đông-dương, đi đôi với nền chính trị thực dân, nền học thuật Tây-phương đã đánh dấu vào lịch sử văn học Việt-nam một khúc quanh. Khúc quanh ấy là sự chuyển hướng để tiếp nhận một trạng thái mới, trạng thái mâu thuẫn giữa ý thức cũ và ý thức mới.
Ý thức cũ là gì ? Nó là tư tưởng đạo học Đông-phương được di lưu, truyền tụng lâu đời qua nền chính trị phong kiến.
Một Nguyễn-văn-Vĩnh, một Phạm-Quỳnh, một Nguyễn-văn-Tố… chính là những mẫu người điển hình cho ý thức đạo học khi gặp phải trận cuồng phong từ Tây-phương thổi tràn vào. Thời đó, trên các báo như Nam-phong, Tri-tân, Phong-hóa, Tiểu-thuyết thứ bảy, Phụ-nữ tân-văn, An-nam tạp chí, v.v… đều là những vũ trường tranh đấu về ý thức hệ. Một bên duy trì ý thức đạo học, một bên muốn xóa bỏ ý thức đạo học để tiếp nhận một nền văn hóa mới : văn hóa của thế giới khoa học Tây-phương.
Trong văn học sử Việt-nam, khi phê bình giai đoạn biến cố của lịch sử này, các nhà khảo cứu chỉ mới để ý đến hai luồng tư tưởng mới và cũ, mà chưa đi sâu vào căn bản mâu thuẫn của hai nền học thuật : đạo học và khoa học.
Tại sao lại có tư tưởng cũ và mới ? Thực ra, không có mới cũ gì cả. Bởi vì cái mới của chúng ta chỉ là cái cũ của nền văn minh khoa học Tây-phương, và cái cũ của chúng ta, nền văn minh Tây-phương không thể có được. Cho nên, khi chúng ta quan niệm cũ và mới chẳng qua chúng ta đứng vào trạng thái đương thời trong lãnh vực quốc gia mà thôi. Muốn nói cho đúng hơn, thì đó là thời kỳ mâu thuẫn giữa sự va chạm của hai nền văn minh Đông-Tây.
Vào thời đó, trên văn đàn Việt-nam đã xảy ra nhiều cuộc bút chiến về mọi khía cạnh tư tưởng. Những cuộc bút chiến dằng dai nhất và được nhiều người tham gia là :
Cuộc bút chiến về thơ cũ, thơ mới.
Cuộc bút chiến về nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh.
Cuộc bút chiến về duy vật, duy tâm.
Cuộc bút chiến về quốc học.
Cuộc bút chiến về vụ án Cô giáo Minh
Tại sao trong thời gian đó lại xảy ra nhiều cuộc bút chiến như vậy? Nếu chúng ta đã thừa nhận sự khác biệt về ý thức đạo học và khoa học giữa hai nền học thuật Đông-Tây thì chúng ta không lấy gì làm lạ. Bởi vì thời đó, nền học thuật Tây-phương mới bắt đầu du nhập vào Việt-nam. Sự đụng chạm giữa hai luồng tư tưởng phát sinh rất mạnh mẽ. Cho nên, tuy xảy ra nhiều cuộc bút chiến, chúng ta vẫn thấy ý thức chống đối nằm gọn vào trạng thái mâu thuẫn giữa hai hệ thống đạo học và khoa học mà thôi.
Để biện minh quan niệm trên, chúng ta thử lược dẫn quan vài nét căn bản của mỗi cuộc bút chiến đã ghi trên.
Cuộc bút chiến về thơ cũ, thơ mới tuy lấy thi ca làm đề tài suy luận, nhưng thực ra ý thức tranh luận đều không ngoài mục đích đánh đổ và bảo tồn nền tảng của ý thức hệ.
Ví dụ, phái thơ cũ cho phái thơ mới là vong bản, lãng mạn, làm thơ không có luật lệ, qui củ nào.
Sở dĩ phái thơ cũ chê trách phái thơ mới như vậy là vì trong người họ nặng về tính chất đạo học. Con người mang ý thức đạo học không thể vượt ra ngoài khuôn khổ mà họ cho là vòng đạo lý. Kẻ nào phá những luật lệ đã qui định tức là không còn xem đạo lý là trọng nữa.
Thơ Đường luật ép mình trong khuôn khổ chật hẹp, tuy nhiên với tinh thần đạo học, kẻ làm thơ không lấy thế cho là bị ràng buộc, bởi vì tinh thần đạo học là tinh thần của khuôn khổ, đặt cá nhân ra ngoài lẽ sống chung của xã hội loài người. Họ nói là nói những cái chung của loài người, ca tụng là ca tụng những cái chung của loài người.
Ngược lại, phái thơ mới chê phái thơ cũ là nô lệ cho khuôn phép. Sở dĩ quan niệm họ như vậy là vì tâm hồn họ đã tiếp thu nền học thuật khoa hoc. Nền học thuật khoa học tôn trọng cá nhân, phát huy khả năng dục vọng cá nhân. Khi đã đặt cá nhân vào lẽ sống làm sao họ có thể thừa nhận một khuôn khổ ? Họ ca tụng những gì họ muốn, nói những gì do cá nhân họ suy tư.
Cho nên, đối với những cuộc tranh luận có mang tính chất ý thức hệ, đến ngày nay, đạo học và khoa học chưa chứng minh được đâu là cội phúc của loài người thì chúng ta cũng chưa thể nào khen chê được.
Cuộc bút chiến về nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh cũng thế. Tuy với đề tài khác, song căn bản tranh luận vẫn không thoát ra ngoài tinh thần đạo học và khoa học.

Phái nghệ thuật vị nghệ thuật chủ trương tách rời lẽ sống chung của xã hội? Thật dễ hiểu, khi chúng ta đặt cá nhân làm nền tảng cho hạnh phúc loài người. Phong trào lãng mạn Tây-phương cũng phát xuất từ căn bản dục vọng cá nhân mà ra. Nghệ thuật không vì lẽ sống mà chỉ để thỏa mãn cảm giác của mình nếu không phải để tôn thờ dục vọng cá nhân thì còn để làm gì nữa ? Cho nên, những kẻ phản đối chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật chỉ là những người mang nặng tinh thần đạo học. Tinh thần đạo học không cho phép con người làm một việc gì không căn cứ trên hạnh phúc của nhân quần xã hội.
Vụ án Cô giáo Minh là một điển hình đầu tiên trong lịch sử văn học Việt-nam nói lên tính chất mâu thuẫn giữa quyền lợi cá nhân và tập thể. Đối với thế giới đạo học, văn chương là sản phẩm của tinh thần, một lời nói, một bài văn, một luận thuyết không phải của riêng ai, mà nó phản ảnh cho ý niệm của con người, mặc dù phát xuất ở cá nhân. Bởi vậy, trong lúc diễn đạt những tâm tư của mình, một nhà văn, một nhà thơ trong thế giới đạo học thường mượn những điển tích, những ý hay của kẻ khác mà không sợ kẻ khác cho mình là đạo văn.
Ngược lại, đối với thế giới khoa học thì khác. Nền văn minh khoa học chú trọng quyền lợi cá nhân. Từ quyền lợi vật chất đi đến quyền lợi tinh thần. Nếu một phát minh, một sáng chế trở thành độc quyền cá nhân để khai thác, coi như tài nguyên riêng rẽ, thì một lời nói, một ý nghĩ, thế giới khoa học cũng giữ lấy độc quyền cho cá nhân ấy, coi như tài sản để khai thác quyền lợi vậy.
Vụ án « Cô giáo Minh » là vụ án về đạo văn. Sự việc xảy ra do quan niệm một số người ảnh hưởng nền văn minh khoa học Tây-phương. Hay nói cách khác, nền văn minh khoa học du nhập Việt-nam đã thai nghén đầu tiên ý thức tư hữu tài sản về tinh thần.
Trên đây chúng tôi chỉ sơ lược đôi nét căn bản của vài cuộc bút chiến để thấy nguồn gốc phát sinh do mâu thuẫn giữa hai nền đạo học và khoa học mà thôi.
Tuy nhiên, nói đến những cuộc bút chiến trên lịch sử văn học Việt-nam vào đầu thế kỷ thứ 20 chỉ mới là một tượng trưng. Ngoài sự mâu thuẫn về tính chất của hai nền học thuật, chúng ta còn thấy ý thức khác biệt về chiều hướng phát triển nghệ thuật nữa.
Trước hết, chúng ta nói đến phong trào lãng mạn.
Tại sao có phong trào lãng mạn ? Nguồn gốc của lãng mạn là con đẻ của dục vọng cá nhân. Vì tôn thờ dục vọng cá nhân nên tình cảm con người dần dần trở về với bản ngã. Bản ngã ở đây là tính chất cá biệt. Khi tính chất cá biệt đã hướng dẫn cuộc sống con người thì con người sẽ chối bỏ lý trí, mà chỉ còn có cảm giác tự tại. Trong cảm giác tự tại ấy, con người cố đua nhau khai thác, tìm kiếm những mới lạ, bất kỳ mới lạ ấy như thế nào, miễn là được nguồn cảm giác của cá nhân ấy thừa nhận. Cho nên, nếu không có thế giới khoa học, và nền văn minh Tây-phương không chủ trương nuôi dưỡng dục vọng cá nhân thì không thể có phong trào lãng mạn được.
Do nền văn minh khoa học tiến bộ, sách vở lãng mạn sản xuất từ Tây-phương tràn vào Đông-phương, phá vỡ những ý thức đạo học gây thành hố chia rẽ trầm trọng trong nếp sinh hoạt Đông-Tây.
Vào thời đó, một cô gái đọc một quyển tiểu thuyết bị mọi người phỉ nhổ, xem như là một hiện tượng quái gở. Đó chính là ý thức mâu thuẫn giữa tinh thần văn minh đạo học và khoa học. Tiểu thuyết phô diễn tính chất lãng mạn theo quan niệm Tây-phương, còn đối với người Đông-phương đọc sách không phải để hòa đồng dục vọng cá nhân giữa người này với người khác mà để tìm hiểu, bắt chước những tấm gương sáng trong nền đạo lý. Cho nên, khi phong trào lãng mạn từ Tây-phương tràn sang Đông-phương, ý thức chống đối mạnh mẽ của lớp người có quan niệm đạo học, không phải là do họ lạc hậu, không biết tiếp xúc với nền văn minh khoa học tối tân, mà do quan niệm về lẽ sống giữa hai miền khác biệt nhau.
Mặt khác, nền văn minh đạo học Đông-phương phát xuất từ một ý thức triết học, hun đúc và di lưu qua nhiều thế hệ. Nó trở thành địa phương tính, ảnh hưởng sâu xa đến ngôn ngữ, cử chỉ, tính tình. Họ độc lập với mọi ý thức hệ du nhập từ bên ngoài. Nó trở thành huyết thống (nói theo trạng thái di lưu của nòi giống). Bởi vậy, không thể một sớm một chiều mà hòa hợp được những gì khác biệt, không cùng một quan niệm.
- Mẫu thuẫn về sinh hoạt xã hội -
Trên các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn học chúng ta đã thấy mầm mâu thuẫn lớn lao giữa hai nền văn minh đạo học và khoa học, thì về sinh hoạt xã hội, chúng ta cũng không thể nào phủ nhận những vết tích đổ vỡ diễn biến trong lịch sử Việt-nam khi đụng chạm giữa hai nền văn minh của hai miền.
Nếu ở lãnh vực văn học, kinh tế, chính trị, chúng ta mới chỉ thấy trạng thái mâu thuẫn của căn bản tổ chức và ý niệm tinh thần, thì ngay ở lãnh vực sinh hoạt xã hội chúng ta lại thấy trạng thái mâu thuẫn diễn biến bằng hành động.
Đối với thế giới đạo học, lý trí bao giờ cũng dùng để chế ngự bản năng, bắt bản năng phải phục tùng theo một khuôn đạo lý. Vì vậy, mọi hành động từ cử chỉ đến lời nói, những tiếp xúc giữa con người và con người đều phải dựa trên căn bản ấy.

Thế giới khoa học ngược lại, lý trí không dùng để chế ngự bản năng mà để phụng sự cho dục vọng bản năng, cho nên mọi hành động đều được phát huy theo tự do cá tính.
Cứ lấy một vài ví dụ làm điển hình : Dù với thế giới đạo học hay khoa học, thẩm mỹ vẫn được tôn trọng. Tuy nhiên, lối ăn mặc giữa hai miền Đông-Tây khác biệt nhau, chứng tỏ quan niệm về cái đẹp của mỗi miền một khác.
Tại sao có sự khác biệt như vậy ? Chúng ta đã thấy thế giới đạo học chuộng cái đẹp về tinh thần, cho nên cái đẹp vật chất phải phụng sự cho cái đẹp tinh thần. Còn thế giới khoa học, cái đẹp tinh thần trở thành phụ thuộc, và cái đẹp vật chất mới là chính yếu. Bởi lẽ, tinh thần không phục vụ cho dục vọng bản năng, và chỉ có vật chất mới khêu gợi những cảm giác mê ly trong mọi hưởng thụ hoan lạc.
Một tà áo thụng che giấu thân hình nõn nà của giai nhân, người xưa không phải không có nhục dục, nhưng vì ý thức đạo học không cho phép họ đem cuộc sống ra phục vụ cho nhục dục.
Một cô gái giao du thân mật với một người con trai bị cấm đoán, không phải thế giới đạo học chủ trương chối bỏ luyến ái giữa gái trai, mà chỉ là hình thức chế ngự bản năng dục vọng mà thôi.
Cho nên, nếu thế giới khoa học đi lần tới văn minh nghĩa là đi dần đến ý thức phô diễn vật chất từ chỗ khoe khoan khuôn mặt, làn da, đi dần đến biểu diễn những cái gì có thể kích động dục vọng con người mạnh nhất, thì thế giới đạo học trái lại, càng đi đến văn minh, họ càng kín đáo hơn, sự phô diễn càng kín đáo bao nhiêu, phẩm giá tinh thần càng tăng lên bấy nhiêu.
Giàu mà không lấy sự giàu để khoe mới là kẻ giàu. Đẹp mà không lấy cái đẹp để khoe mới là kẻ đẹp. Căn bản đạo học như vậy, nên sinh hoạt xã hội của thế giới Đông-phương khác biệt với thế giới Tây-phương.
Sinh hoạt xã hội của nước Việt-nam ta thời xưa theo lề lối đạo học, tuy không mực thước và khắc nghiệt như nước Tàu, song vào thời kỳ giao tiếp giữa hai nền văn minh Đông-Tây cũng đã nẩy sinh biết bao nhiêu mâu thuẫn giữa lớp người xu hướng theo hai hệ thống tư tưởng khoa học và đạo học.
Chúng ta chê ông bà của thời xưa lạc hậu hay rầy la khi thấy đứa con mình ăn mặc hở hang, hoặc cười cợt trước mặt trai cho là mất nết, thực ra, sự rầy la, chê trách đó không phải lạc hậu, còn những kẻ chạy theo những cái mới mẻ đó cũng không gọi là tân tiến. Chẳng qua sự mâu thuẫn giữa quan niệm về văn minh mà nguồn gốc phát sinh là do ý thức đạo học và khoa học mà ra.
Sinh hoạt loài người khi mà tiện nghi vật chất càng tăng thì ý thức hưởng thụ càng nhiều, và hưởng thụ chẳng bao giờ thỏa mãn được. Càng không thỏa mãn, con người ở thế giới văn minh vật chất càng bới móc để tìm những cảm giác mới lạ hơn gây thành những phong trào mà ngày nay chúng ta thường thấy.
Một chiếc áo dài với thời gian, chúng ta thấy thay đổi bằng nhiều kiểu, lúc cổ cao, lúc cổ thấp, lúc để ngực, lúc hở bâu, lúc rộng xúng xính, lúc bó sát người, đó chỉ là trạng thái đi tìm những cảm giác mới lạ, dù cái mới lạ ấy chỉ để phục vụ cho dục vọng vật chất.
Vì vậy, nếp sống của nền văn minh vật chất không nhất định, tùy thuộc theo cảm giác con người qua trạng thái thời gian, không gian.
Đến tinh thần của con người trong thế giới vật chất cũng thế. Cái phải, cái trái không thành khuôn thước, mà lệ thuộc vào cảm tính của mỗi người.
Khi đã tôn trọng vật chất thì bề ngoài là quan trọng, nên nền văn minh vật chất lấy bề ngoài làm tiêu chuẩn cho con người. Một bộ áo quần đẹp, sang trọng đối với thế giới văn minh vật chất có thể dùng làm tấm bình phong che giấu mọi nghèo khó, dốt nát của mình. Một cô gái lầu xanh, có thể dùng cái bề ngoài hào nháng để tỏ mình là kẻ phong lưu tao nhã, phủ lấp bên trong một kiếp sống giang hồ.
Từ chỗ lấy bề ngoài làm tiêu chuẩn cho giá trị con người, thế giới văn minh vật chất đi dần đến chỗ lừa phỉnh, dối gạt nhau cũng bằng cái văn minh vật chất ấy.
Giới đạo học ngược lại, khi đã không lấy vật chất làm tiêu chuẩn cho giá trị con người thì việc phô diễn bên ngoài chỉ để tỏ cho giá trị tinh thần bị tổn thương.
Cho nên, đi vào sinh hoạt xã hội giữa hai nếp sống của hai nền văn minh, chúng ta thấy không thể nào chối bỏ những mâu thuẫn ấy được.
Tóm lại, do quan niệm về văn minh giữa hai hệ thống tư tưởng đạo học và khoa học, thế giới loài người đã đi vào hai trạng thái khác biệt, và mâu thuẫn nhau, mà điển hình là hai nền văn minh Đông-phương và Tây-phương.
Sài Gòn, 1/11/1970
Nguyễn Tấn Long - Phan Canh
Nguồn: tusachtiengviet.com
Theo https://www.dtv-ebook.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầ...