Thứ Ba, 29 tháng 11, 2022

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 2 - Xã hội quan 5

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 2
Xã hội quan 5

b) Tinh thần tự lực tự cường

Trước đây chúng ta đã nói đến những tâm tư đau khổ của người bình dân trong lịch sử bất công xã hội. Tuy nhiên, một an ủi lớn đối với họ là giai cấp bình dân chiếm đa số trong sinh hoạt quần chúng. Cho nên, khi họ đau khổ thì cái đau khổ ấy trở thành cái đau khổ chung cho một chế độ, một dân tộc.

Khi tinh thần đã hòa đồng trong đa số, người bình dân cảm thấy cuộc sống không lẻ loi, và họ cố gắng phấn đấu để tìm lại nguồn an vui cho chính mình.

Nhưng phấn đấu bằng cách nào?

Người bình dân sống quen với nhọc nhằn, lam lụ, họ có một khả năng chịu đựng đáng kính, và chính khả năng chịu đựng ấy là nền tảng cho ý chí tự lực tự cường.

Chúng ta không thể nào tìm thấy ý chí tự lực tự cường trong những con người ăn nhờ, sống bám, nếu tách rời liên hệ xã hội thì không sao đủ khả năng để nuôi sống lấy mình.

Chúng ta cũng không thể tìm thấy ý chí tự lực tự cường trong những con người sống với dục vọng cá nhân, chỉ muốn hưởng thụ mà không chịu lao mình vào khổ cực.

Người bình dân không phải là hai hạng người ấy. Khổ cực đã làm cho họ xem thường gian lao, nhọc nhằn ; thiếu thốn đã tạo cho họ đức tính kiên nhẫn. Họ không mơ ước hão huyền, không sống trong mộng ảo, bởi dục vọng cá nhân của họ bị hạn chế đến tận cùng. Với bản tính trên, tinh thần tự lực tự cường nẩy nở trong lớp người bình dân không phải là chuyện vô lý.

Vả lại, tinh thần tự lực tự cường chính là vũ khí của kẻ yếu để tự vệ.

Hai người kiện nhau, kẻ có thế lực được xử thắng kiện. Người cô thế uất hận chận đường đánh người có thế lực để trả thù. Hành động ấy chính là một phản ứng của kẻ yếu khi không còn biết nương cậy vào đâu để giải tỏa uất hận của mình.

An-Tiêm bị nhà vua đuổi ra sống giữa hoang đảo, phải đem sức mình để tự lực cánh sinh. Đó cũng là một phản ứng của kẻ bị áp chế.

Người bình dân cũng thế, khi chế độ xã hội đã tước đoạt quyền sống, dĩ nhiên họ phải đem hết sức lực để cứu lấy cuộc sống họ.

Cho nên, đứng về mặt triết lý thì đó là năng lực tự tồn, đứng về mặt xã hội thì đó là tinh thần tự lực cánh sinh, đứng về mặt chính trị thì đó là một phản ứng tích cực của giai cấp bị trị.

Mặt khác, tinh thần tự lực tự cường của người bình dân không phải nhất thời, hoặc chỉ hạn hẹp trong phạm vi nào thôi. Bởi đó là tính chất căn bản của họ cho nên chúng ta có thể tìm thấy tinh thần ấy bàng bạc trong lẽ sống, trong mọi lĩnh vực sinh hoạt.

Ví dụ, khi họ là một nông dân lao khổ, đứng trước những công việc đồng áng nặng nề thì :

« Ai ơi ! Đừng bỏ ruộng hoang,

Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu ».

Họ không ngại khó khăn, không nài gian khổ ! Mồ hôi, nước mắt của họ dù phải đổ xuống luống cày để biến đất hoang thành cơm thành áo họ vẫn thấy đó là lẽ sống của con người. Chỉ có sức lực con người, ý chí con người mới đem đến cho nhân loại những công trình đáng kể. Vì vậy, dù phải khổ cực như :

« Cày đồng giữa buổi ban trưa,

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày ».

Thì họ vẫn bền chí và kiên nhẫn trong tinh thần ganh đua để khỏi thua sút chúng bạn :

« Trâu khỏe chẳng nệ cày trưa,

Mạ già, ruộng ngấu không thua bạn điền ».

Hoặc : « Trời mưa thì mặc trời mưa,

Tôi không có nón trời chừa tôi ra.

Thua thì thua mẹ thua cha,

Chị em một lứa, ai mà thua ai ».

Tinh thần tranh đua trong công việc mưu sinh chính là ý thức tự lực tự cường. Nếu có những kẻ trong giới thượng lưu, tuy sống nhàn rỗi nhưng mở miệng là than buồn, than khổ, thì người bình dân trái lại, họ bảo nhau :

« Ai ơi thấy khổ đừng than,

Khổ bao nhiêu lại thanh nhàn bấy nhiêu ».

Nếu sống trong cực nhọc mà không nuôi một hy vọng thì không thể chịu nổi những cực nhọc ấy. Trong tinh thần tự lực tự cường người bình dân luôn luôn tin tưởng công trình họ bao giờ cũng đem đến những kết quả. Họ bảo :

« Ai ơi, không chóng thì chầy,

Có công mài sắt có ngày nên kim ».

Rõ ràng lao khổ đã hun đúc cho họ có một ý chí kiên nhẫn sắt đá, và cũng chỉ có lớp người bình dân mới nuôi ý tưởng ý chí kiên nhẫn ấy. Đây, chúng ta nghe họ nói :

« Ai về, ai ở mặc ai,

Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh ».

Thời gian đối với họ không có nghĩa gì, khi lòng kiên nhẫn của họ đã trở thành một cường lực chống lại tính chất biến động của thời gian.

Ý thức tự cường của họ chẳng những có thể đối chọi với thời gian mà còn trấn áp cả những hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng đến họ nữa. Đây, họ bảo nhau :

« Ai ơi, giữ chí cho bền,

Mặc ai xoay hướng, đổi nền mặc ai ».

Hoặc : « Dù ai nói Đông nói Tây,

Lòng ta vẫn giữ như cây trên rừng ».

Hay : « Dù ai nói ngửa, nói nghiêng,

Lòng ta vẫn vững như kiền ba chân ».

Với tinh thần vững chắc như vậy, không có gian khổ nào làm cho họ sờn lòng, không có thất bại nào làm cho họ mất kiên nhẫn được. Khi là chủ của một gia đình, gầy dựng sự nghiệp thì :

« Trời nào có phụ ai đâu,

Hay làm thì giàu, có chí thì nên ».

Hoặc : « Nợ nần cũng chẳng là bao,

Ra tay tháo vát lúc nào cũng xong ».

Nguyên tắc gây dựng sự nghiệp, người bình dân vẫn với ý chí xây dựng trên căn bản tự lực tự cường, không muốn nhờ đỡ ai. Nếu ở gia đình quý phái, cô gái phòng khuê suốt ngày trau chuốt dung nhan, nuôi trong tâm tư một thân phận liễu bồ yếu đuối để sống bám vào người chồng :

« Phận cát đằng nhờ lượng tùng quân ».

Thì cô gái bình dân lại lấy thế làm nhục. Ý chí tự lực tự cường trong bản tính họ không cho phép họ nuôi dưỡng một tinh thần bạc nhược như vậy. Họ bảo :

« Trai tay không chẳng thèm nhờ vợ,

Gái ruộng đợ chẳng ăn mày chồng ».

Sự nghiệp vợ chồng là sự nghiệp chung, thế mà trong tinh thần họ vẫn giữ một giá trị tự lực tự cường. Tinh thần ấy đã làm cho họ loại bỏ tư tưởng ỷ lại sống nhờ vào kẻ khác.

Đối với họ, người đàn bà tay yếu chân mềm không phải là yếu tố để bắt người khác nuôi dưỡng mình, hoặc sống nhờ vào sự bảo vệ của kẻ khác. Ngược lại, họ còn hãnh diện vì chính tay yếu chân mềm mà họ có được sự khéo léo để làm những công việc mà người đàn ông không làm được. Ví dụ :

« Uốn tay cho mềm dệt cửi cho ngoan,

Lấy tiền đi đóng việc quan cho chồng ».

Cái mềm yếu của họ trở thành một tài năng, khi trong người họ chứa đựng một ý chí tự lực tự cường. Ý chí làm nên sức mạnh, và chính người bình dân đã biến yếu đuối thành tài năng, thành sức mạnh trong đời sống của họ.Chính họ đã thấy được sức mạnh trong ý chí, nên họ bảo nhau :

« Người có chí ắt phải nên,

Nhà có nền ắt phải vững ».

Họ quan niệm ý chí là nền tảng cho mọi công trình sự nghiệp của người đời, muốn gây dựng cho mình cần phải có. Bởi vậy, khi đứng trước gian nguy, tinh thần người bình dân không hề lay chuyển :

« Chớ thấy sóng cả mà lo,

Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng ».

Dòng đời đối với họ như biển cả, giông bão là chuyện tất yếu trong trời đất. Đời người là một đoạn đường phải vượt trùng dương, sự nghiệp con người là chiếc thuyền nan, thân phận con người là những cánh tay bằng xương bằng thịt. Sự nghiệp có thành hay không, con thuyền có bị sóng dập gió vùi hay không, chẳng phải đơn thuần nhờ vào những cánh tay yếu đuối kia, mà phải tựa vào ý chí mãnh liệt, tức là tinh thần tự lực tự cường vậy.

Vì sống trên bản chất ấy, người bình dân đã mạnh dạn bước đi trên gian khổ, và họ còn tự hào với đời bằng những câu thử thách :

« Có gió hung

Mới biết tùng lá cứng,

Có ngọn lửa hừng

Mới biết rõ vàng cao ! »

Nếu chúng ta thấy có những kẻ yếu hèn, bỏ chạy trước gian nguy, hoặc không bao giờ dám nghĩ đến gian nguy, chỉ tìm một cuộc sống cầu an, thì chính người bình dân lại sẵn sàng đón nhận gian nguy để đo lường ý chí tự lực tự cường của mình. Đây, chúng ta nghe họ nói :

« Cây cao chẳng quản gió rung,

Đê cao chẳng quản nước sông tràn vào ».

Cái gì đã cho phép họ tự hào trước cuộc sống khi họ chỉ là một người dân bé nhỏ trong chế độ phong kiến, và lịch sử xã hội đã bỏ rơi họ, xem họ như là lớp người đần độn, ngu si ?

Thì, chính là những khắc khổ trong đời họ, ý chí tự lực tự cường trong bản chất sinh hoạt của họ đã tạo cho họ có được năng lực quý báu ấy.

Từ căn bản của ý chí tự lực tự cường, khi họ thoát ra khỏi phạm vi tranh đua hạn hẹp trong xóm làng, chúng ta còn thấy tinh thần họ phấn khởi trong bao la :

« Ruộng đồng mặc sức chim bay,

Biển hồ lai láng mặc tài cá đua ».

Khi bản chất tự lực tự cường đã đặt vào một quan hệ rộng lớn, chúng ta đừng tưởng con người bình dân chỉ là con người nhỏ nhoi, nông cạn. Nếu chúng ta thừa nhận nền tảng của sự nghiệp là ý chí tự lực tự cường thì ý chí ấy sẽ đem đến thành công chẳng những trong công việc nhỏ mà đến cả việc lớn lao nữa. Trong ca dao bình dân chúng ta đã từng nghe những câu như :

- « Nên khi ra tay kiếm tay cờ

Chẳng nên thì chớ, chẳng nhờ cậy ai.

Làm trai cho đáng nên trai,

Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài tan ».

- « Ru hời, ru hỡi, ru hời !

Làm trai đứng giữa đất trời

Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta.

Ghé vai gánh vác sơn hà,

Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu ».

- « Nước lã mà vã lên hồ,

Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan ».

Chúng ta không cần căn cứ vào lối nói. Những câu hùng khí ngoài cửa miệng trong văn chương bác học cũng có rất nhiều. Ở đây chúng ta chỉ xác định tính chất của con người để đánh giá lời nói của họ. Lời nói của người bình dân chắc chắn không phải là lời huênh hoang của những anh hùng rơm, bởi lẽ họ đã từng đứng trước gian nan, nguy hiểm, cũng như những tủi nhục, buồn đau.

Đây, chúng ta hãy trở về với thực tại của họ trên con đường chen vai lấn bước trong xã hội, ý thức tự lực tự cường vẫn bộc lộ một cách mạnh mẽ.

Ví dụ khi họ muốn đạt một vinh dự trên đường khoa mục, chẳng những người chồng có công đèn sách, mà người vợ cũng đem ý chí góp phần :

« Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ,

Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu ».

Ý chí tự lực tự cường tuy căn bản có sẵn trong mỗi người bình dân, song lúc cần hợp sức để mưu cầu việc lớn thì chính họ cũng biết đem ý chí riêng rẽ ấy đúc kết thành một sức mạnh lớn lao, xứng đáng với mưu đồ của họ. Đây, chúng ta nghe họ nói :

« Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây chụm lại thành hòn núi cao ».

Họ đã không thích sống nhờ, hưởng những thành công riêng rẽ của kẻ khác thì có bao giờ họ lại chịu ngồi không để hy vọng cái cảnh nằm chờ sung rụng.

Những bàn tay chai sạn, những cơ thể thô kệch, những làn da rám nắng, những gò má hóp xương gầy… hình tượng ấy không đẹp đẽ gì trong xã hội vật chất xa hoa, trên những hình hài bóng chuốt, nhưng nếu tìm về thực chất thì chúng ta không thể nào phủ nhận chân giá trị của nó.

Tóm lại, tinh thần tự lực tự cường của người bình dân là một khả năng tất yếu do chế độ xã hội tạo nên. Nó là một vũ khí tự vệ của hạng người bị tước đoạt quyền sống.

*

(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu

1. « Ai ơi ! đã quyết thì hành

Đã đan thì lận tròn vành mới thôi ».

2. « Anh ơi ! đừng chóng chớ chầy,

Chí công mài sắt có ngày nên kim.

Khuyên chàng kinh sử vãng tiền,

Dầu hao thiếp rót, đèn tàn thiếp khêu ».

3. « Bé nhưng mà bé hạt tiêu,

Bé cay, bé đắng, bé xiêu lòng người ».

4. « Bể sâu có cá lớn vẫy vùng,

Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay.

Sá chi đồi cá vũng lầy,

Những loài tôm tép biết ngày nào khôn ».

5. « Canh một dọn cửa dọn nhà

Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.

Canh tư bước sang canh năm

Trình anh dậy học chớ nằm làm chi ».

6. « Chuyến này ta quyết đi tu,

Ăn chay nằm mộng trên chùa Hồ Sen ».

7. « Đã sinh ra kiếp đàn ông,

Đèo cao, núi thẳm, sông cùng quản chi ».

8. « Đánh trống rao nhu sĩ tựu trường,

Ai mà thi đậu tôi nhường ngôi cao ».

9. « Đắc thời đắc thế thì khôn,

Sa cơ rồng cũng như giun khác nào.

Sa cơ mới phải lụy Tào,

Những so tài sức thì tao kém gì.

Ngựa mạnh chẳng quản đường dài,

Nước kiệu mới biết tài trai anh hùng ».

10. « Đây ta như cây giữa rừng,

Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời ».

11. « Đem chuông đi đánh nước người

Chẳng kêu, cũng đánh ba hồi cho kêu ».

12. « Đi cho biết đó biết đây,

Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn ».

13. « Đời ta như rắn thìu điu

Nước chảy mặc nước, ta chèo lấy ta ».

14. « Đường đời cách trở non sông,

Mẹ già đầu bạc, em còn thơ ngây.

Giang san gánh lấy một mình,

Có hay chăng tá tấm tình em đây ».

15. « Học trò đèn sách hôm nay,

Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào.

Làm nên quan thấp, quan cao,

Làm nên võng tía, lọng đào nghênh ngang ».

16. « Khuyên chàng kinh sử học hành,

Để em cày cấy cửi canh kịp người.

Một mai xiêm áo thảnh thơi,

Ân trời lộc nước đời đời hiển vinh ».

17. « Làm trai cho đáng nên trai,

Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài tan ».

18. « Làm trai ăn tối lo mai,

Thân mình hồ dễ ai lo được nào ».

19. « Làm trai quyết chí tang bồng,

Sao cho rạng vẻ anh hùng trượng phu ».

20. « Làm trai có chí lập thân,

Rồi ra gặp hội phong vân có ngày ».

21. « Làm trai đứng ở trên đời,

Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta.

Ghé vai gánh vác sơn hà,

Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu ».

22. « Làm trai chí quyết tu thân,

Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.

Khi nên trời giúp công cho,

Làm trai năm liệu, bảy lo mới hào.

Trời sinh trời chẳng phụ nào,

Công danh gặp hội anh hào ra tay.

Trí khôn sắp sẵn dạ này,

Có công mài sắt, có ngày nên kim ».

23. « Làm trai cho đáng nên trai,

Phú-xuân cũng trải, Đồng-nai cũng từng ».

24. « Làm trai chí quyết tang bồng,

Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam ».

25. « Lòng ta đã quyết thì hành,

Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây ».

26. « Lòng ta, ta đã chắc rồi,

Nào ai giục đứng, giục ngồi làm nao ! »

27. « Một mình vừa chống vừa chèo,

Không ai tát nước đỡ nghèo một khi ».

28. « Một mình giữ phận một mình,

Một ôm củi quế, một chình gạo châu ».

29. « Một đời được mấy anh hùng,

Đất nước được mấy đức ông trị vì ».

30. « Một hòn đắp chẳng nên non,

Ba hòn đắp lại nên hòn Thái-sơn ».

31. « Muốn cho có đó, có đây,

Sơn lâm chưa dễ, một cây nên rừng ».

32. « Nên ra tay kiếm tay cờ,

Chẳng nên thì chớ, chẳng nhờ cậy ai ».

33. « Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục

Sống mang tiếng đục, sao bằng thác đặng tiếng trong,

Anh kiến nguy trí mạng, xử lòng bạch minh ».

34. « Non cao cũng có đường trèo

Đường dầu hiểm nghèo cũng có lối đi ».

35. « Non cao cũng có đường trèo

Những bệnh hiểm nghèo có thuốc thần tiên ».

36. « Nực cười châu chấu chống xe,

Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng ».

37. « Nước lã mà vã lên hồ

Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan ».

38. « Nước có khi trong khi đục,

Người có kẻ tục kẻ thanh.

Hễ con cá khôn lựa vịnh, con chim khôn lựa nhành.

Mặc ai nay dỗ mai dành,

Bền lòng quân tử tánh lành chẳng xiêu ».

39. « Người đời muôn sự của chung,

Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi ».

40. « Ở đâu mà chẳng biết ta,

Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên-lôi.

Xưa kia ta ở trên trời,

Đứt dây rơi xuống làm người thế gian ».

41. « Phấn son tô điểm sơn hà,

Làm cho tỏ mặt đàn bà nước Nam ».

42. « Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,

Nay anh học gần, mai anh học xa.

Tiền bạc là của mẹ cha

Cái nghiêng, cái bút thật là của em ».

43. « Rung cành, rung cỗi, rung cây,

Rung sao cho chuyển cây này mà rung ».

44. « Sá bao cá chậu chim lồng,

Hễ người quân tử cố cùng mới nên ».

45. « Tiễn đưa một bước lên đường,

Cỏ xanh mấy dãy đôi hàng châu sa.

Anh đi, em ở lại nhà,

Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.

Lầm than bao quản muối dưa,

Anh đi anh liệu chen đua với đời ».

46. « Tưởng rằng nước chảy đá mòn

Nào hay nước chảy đá còn trơ trơ ».

47. « Thấp cao mới biết tuổi vàng,

Gặp cơn lửa đỏ màu càng thêm tươi ».

48. « Thi ra mới biết béo gầy,

Đến khi cả gió biết cây cứng mềm ».

49. « Thiếp là con gái Phụng-thiên,

Bán rau mua bút sắm nghiên cho chồng.

Nữa mai chồng chiếm bảng rồng,

Bõ công tắm tưới vun trồng cho rau ».

50. « Thiếp thì tần tảo cửi canh,

Xin anh nấu sử xôi kinh kịp người.

Một mai chiếm bảng xuân vi,

Ấy là điền điệp tinh kỳ từ đây.

Ai ơi, nghe thiếp lời này… »

51. « Trèo lên đỉnh núi mà coi,

Thấy bà quản tượng cỡi voi cầm cồng ».

52. « Uốn tay cho mềm dệt cửi cho ngoan,

Kiếm tiền ra đóng việc quan cho chồng.

Chồng khôn đi võng đòn rồng,

Chồng dại gánh nặng, lại cong xương sườn ».

53. « Vàng tâm xuống nước cứ tươi,

Anh hùng lâm nạn cứ cười, cứ vui ».

54. « Vất vả mới có thanh nhàn,

Không dưng ai dễ đem phần đến sao

Làm nên quan thấp quan cao,

Làm nên võng tía, võng đào nghinh ngang ».

55. « Xin đừng ra dạ bắc nam,

Nhất nhật bất kiến như tam nguyệt thu hề.

Huống tam thu như bất kiến hề,

Đường kia nỗi nọ gắn âu cho thành ».

c) Ý thức liều lĩnh, biếng nhác

Nếu những bất công xã hội đã gây đau khổ trong tâm tư người bình dân, và nếu những đau khổ ấy trở thành năng lực cấu tạo cho họ một tinh thần tự lực tự cường để chống lại cuộc sống bất công, thì chính đau khổ cũng làm cho một số người trong giới bình dân trở nên bạc nhược tinh thần, thiếu kiên nhẫn, không tin tưởng vào khả năng tự lập của mình.

Chúng ta có thể gọi đó là sự biến thái của giai cấp.

Vậy thế nào là biến thái của giai cấp. Trong xã hội nào, giai cấp nào cũng thế, trạng thái sinh hoạt vẫn không đồng đều, và ngay trong nội tại của mỗi giai cấp cũng có những mâu thuẫn về đấu tranh. Nếu trong giai cấp thượng lưu, quí phái có tính chất đấu tranh để tước đoạt quyền lợi của kẻ khác, thì ngay trong giai cấp bình dân cũng có tính chất đấu tranh để tự vệ, tự tồn. Năng lực đấu tranh ấy đưa đến sự biến thái của giai cấp.

Một kẻ sĩ thất thời trở về vui thú điền viên, lấy sức lao động làm căn bản để giải quyết nguồn sống của mình, đem tâm tư và lẽ sống của mình hòa vào tâm tư và lẽ sống của đồng ruộng, tức là họ đã từ giai cấp thượng lưu trở về với giai cấp bình dân. Ví dụ :

« Văn chương phú lục chẳng hay,

Trở về làng cũ học cày cho xong

Sớm ngày vác cuốc thăm đồng,

Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.

Hết mạ, ta lại quảy thêm

Hết lúa, ta lại mang tiền đi đong.

Nữa mai lúa tốt đầy đồng,

Gặt về đập sảy bõ công cấy cày ».

Tính chất biến thái ấy xã hội nào, chế độ nào cũng có. Nhưng kẻ sĩ trong giai cấp thượng lưu nếu chán ngán những mâu thuẫn trong giai cấp mình còn có thể tách rời tìm một lối sống tự vệ, hòa mình với lớp người cùng cực, còn đối với người bình dân họ đã sống tột cùng rồi, tính chất biến thái của họ chỉ còn là những hành động liều lĩnh, hủy bỏ cuộc đời của họ mà thôi.

Tất cả mọi trường hợp biến thái đều mang tính chất phản ứng. Kẻ sĩ bỏ về vườn là một trạng thái phản ứng. Người bình dân liều lĩnh, biếng nhác trước cuộc sống vẫn là một trạng thái phản ứng. Và sự phản ứng nào cũng do áp bức, bất công tạo nên cả.

Trước đây, chúng ta đã có dịp nói đến tính chất biến thái của tình yêu. Chế độ hôn nhân của nền chính trị phong kiến, giáo lý Khổng Mạnh đã dùng thuyết phụ quyền trấn áp người đàn bà. Sự áp bức bất công ấy làm cho tình yêu bị biến thái, và người đàn bà trở nên liều lĩnh trong lãnh vực yêu đương thì đó cũng chính là một trạng thái phản ứng đối với bất công xã hội.

Nếu chúng ta đã thừa nhận sự liều lĩnh, biếng nhác của người bình dân là do mọi áp bức của guồng máy phong kiến gây nên, làm cho những ai thiếu kiên nhẫn, kém chịu đựng gian khổ, trở thành những kẻ lụt ý chí phấn đấu thì chúng ta lại thấy rằng khi họ đã thiếu ý chí phấn đấu, tự nhiên bị tách rời khỏi tính chất bình dân và trở thành những con người xa hoa trụy lạc, sống bằng bản năng dục vọng hơn là bằng lý trí.

Nếu trong lớp người thượng lưu quí tộc, vì thế lực chính trị cho phép họ có đủ phương tiện hưởng lạc, nên họ đắm mình trong dục vọng cá nhân, thì trái lại ở lớp người bình dân những kẻ bất lực trong ý chí tự lập lại cũng để cho dục vọng cá nhân lôi cuốn và họ buông xuôi cuộc sống họ trong liều lĩnh, biếng nhác. Đây chúng ta nghe họ nói :

« Một năm là mấy tháng xuân,

Ăn chơi cho thỏa phong trần ai ơi ! »

Họ sống không cần ngày mai, vì ngày mai đối với họ là một vực thẳm mà họ coi đó là cõi u minh của hủy hoại, diệt vong.

Chính cái khổ của hiện tại, sự áp bức bất công trước mắt họ làm cho họ mất tin tưởng vào lẽ sống, vào sức phấn đấu của con người. Tinh thần bi quan đã đến với họ :

« Đời người sống mấy gang tay,

Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm ».

Ý thức liều lĩnh biếng nhác bắt nguồn từ tư tưởng chán đời, và đi dần đến chỗ xa rời nghĩa vụ, không tha thiết đến việc làm ăn, chỉ muốn sống cho qua ngày. Họ bảo :

« Ai ơi, chơi lấy kẻo già !

Măng mọc có lứa, người ta có thì.

Chơi xuân kẻo hết xuân đi,

Cái già xồng xộc nó thì theo sau ».

Ý thức phấn đấu không còn nữa thì bảng năng dục vọng làm chủ con người là lẽ tất nhiên. Cho nên kẻ biếng nhác nhất cũng là kẻ liều lĩnh nhất, họ chạy trốn những năng lực mưu sinh để tìm khả năng thụ hưởng. Đây, chúng ta nghe họ nói :

« Cơm cha, áo mẹ ai ơi !

Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng hoài ».

Hoặc : « Cơm cha, áo mẹ ăn chơi,

Cất lấy cơm người đổ bát mồ hôi ».

Tinh thần tự lực tự cường đã không còn trong họ nữa thì làm sao họ còn chịu đựng được khổ nhọc. Họ tìm cách bênh vực lẽ sống biếng nhác của họ :

« Số nghèo làm chẳng nên giàu,

Thức khuya dậy sớm cho đau xương sườn ».

Tuy nhiên, dù tâm tư họ bị biến thái, hoàn cảnh của người bình dân vẫn bắt buộc phải làm mới có ăn, nên đôi lúc họ phải miễn cưỡng lăn mình vào khổ nhọc. Lúc đó chính là lúc họ bị đời nguyền rủa. Ví dụ :

- « Chẳng làm, người bảo rằng ươn,

Làm thời xương sống xương sườn bày ra ».

- « Quan đâu thương kẻ ngu si,

Của đâu cho đứa nằm lì mà ăn ».

- « Ban ngày còn dở đi chơi,

Tối lặn mặt trời đổ thóc vào rang ».

- « Ăn thì lựa những miếng ngon,

Làm thì lựa việc cỏn con mà làm ».

Càng bị đời nguyền rủa, những kẻ biếng nhác càng cảm thấy mình đau khổ hơn. Nó là những con ốc bị long đinh, lạc ra ngoài guồng máy xã hội. Guồng máy xã hội càng quay bao nhiêu thì thân phận họ càng bi đát bấy nhiêu. Để tự vệ trong tinh thần biếng nhác ấy, họ trở nên liều lĩnh :

« Một liều, ba bảy cũng liều

Cầm bằng con trẻ chơi diều đứt dây ».

Và họ đi tìm lạc thú trong dục vọng để xua đuổi nỗi đau khổ của họ ngày một chồng chất thêm, như rượu chè, cờ bạc, đĩ điếm… mà họ cho là lịch duyệt trong trường đời. Ví dụ :

« Ăn chơi khắp bốn phương trời,

Cho trần biết mặt, cho đời biết tên ».

Trong lúc tinh thần bị lệch lạc đối với lẽ sống, nhiều khi họ còn có những ý tưởng táo bạo, như :

« Con ơi học lấy nghề cha,

Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm ».

Ý thức biếng nhác và liều lĩnh của họ càng bị xã hội thúc ép bao nhiêu thì họ càng vùng vẫy bấy nhiêu, và đương nhiên họ trở thành những kẻ phá phách, chống đối, phản lại trật tự của guồng máy xã hội.Đối với gia đình, khi họ là kẻ bất hiếu với cha mẹ như :

« Cá không ăn muối cá ươn,

Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư ».

Hoặc : « Mũi dại thì lái phải mang,

Con hư cha mẹ phải mang tiếng đời ».

Khi họ là người chồng xấu trong gia đình :

- « Chồng người đi ngược về xuôi,

Chồng tôi nằm bếp thò đuôi ra ngoài ».

- « Anh này có tánh hoang tàng,

Rượu chè, cờ bạc, làm ngang không chừa.

Anh này rõ khéo làm ăn,

Đi cày chẳng biết, chít khăn mượn người ».

- « Anh này số phận ra trò,

Về nhà cả gạo, cả mò trong niêu ».

- « Ngày ngày cắp nón ra đi,

Buôn gì chẳng có, bán gì thì không ».

Khi họ là một người vợ xấu trong gia đình :

- « Anh đánh thì tôi chịu đòn,

Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa ».

- « Ăn chơi cho thỏa thòa thoa,

Có bốn bức váy, có tòa là năm ».

- « Đã sinh tài sắc ở đời,

Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng già ».

- « Cái cò là cái cò kỳ,

Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô.

Đêm nằm thì ngáy o o,

Chửa đi đến chợ đã lo ăn quà.

Hàng bún, hàng bánh bày ra,

Con mắt sắc sảo đi qua mọi hàng.

Bánh đúc cho đến bánh đàng,

Củ từ, khoai nướng lẫn hàng cháo khê.

Ăn rồi cắp đít ra về,

Thấy hàng chả chó, lại lê trôn vào.

Chả này bà bán làm sao ?

Ba đồng một gắp lẽ nào chẳng mua.

Nói dối đem về cho chồng,

Đi đến quãng đồng, ngả nón ra ăn.

Về nhà đau quẳn đau quăn dạ này

Đem tiền đi bói ông thầy,

Bói ra quẻ này những chả cùng nem.

- Ông thầy nói dối đã quen,

Nào tôi ăn chả, ăn nem bao giờ ».

Khi họ là những « cây gai » trước mắt xã hội đối với kẻ cần cù, lam lụ trong giới bình dân, như :

- « Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,

Xuống sông sợ đĩa, lên rừng sợ ma ».

- « Cóc chết lại có minh tinh,

Thất nghiệp nằm đình, có trống cầm canh ».

- « Còn tiền chè chén cho say,

Hết tiền nằm ngủ lại hay giật mình ».

- « Lấy gì làm thú giải phiền,

Cái xe, cái lọ, ngọn đèn, cái tiêm ».

Hình bóng của họ trở thành mục tiêu để cho mọi người nguyền rủa trong khắp lãnh vực.

Tuy nhiên nếu đi sâu vào xã hội quan của người bình dân thì sự nguyền rủa ấy chính là tinh thần tranh đấu trong nội tại của giai cấp. Dù phải bị áp bức, khổ cực đến đâu, tính chất người bình dân vẫn không thể xa rời ý chí tự lực tự cường, họ lấy khổ đau làm nền tảng cho tinh thần tự lập. Do đó, những người nào đi ngược với bản chất của họ đều bị họ ghét bỏ. Thái độ ấy chúng ta không lấy gì làm lạ.

Mặt khác, những kẻ biếng nhác, liều lĩnh trong giai cấp bình dân trước mắt giới thượng lưu quí phái đã chẳng được ai ưa thích, bởi lẽ hành động của kẻ liều lĩnh biếng nhác là hành động phá rối trật tự xã hội. Chế độ phong kiến đã minh định giá trị con người bằng địa vị xã hội, chỉ những ai có địa vị xã hội, cầm vận mạng quốc gia mới có quyền ăn không ngồi rồi, mưu tìm hưởng lạc, còn người dân phải là những kẻ làm tôi, bổn phận người dân không có quyền thoát ra ngoài nghĩa vụ công bộc.

*

Tóm lại, tinh thần liều lĩnh biếng nhác trong giai cấp bình dân chính là trạng thái phản ứng đối với guồng máy áp bức bất công của xã hội. Tuy nhiên, trạng thái phản ứng ấy chỉ có trong những người thiếu tinh thần kiên nhẫn và ý chí tự lực tự cường.

Trạng thái ấy cũng là một trạng thái thông thường trong mọi giai cấp xã hội mà chúng ta gọi là hiện tượng biến thái của giai cấp.

Bởi vậy, khi nói đến sinh hoạt giai cấp, hoặc sinh hoạt xã hội, chúng ta phải hình dung xã hội là một trạng thái biến động, luôn luôn xoay chuyển và thay đổi, phá vỡ những chênh lệch, tạo thành sức mâu thuẫn thăng bằng giữa hai đối cực để tự tồn trong trạng thái mâu thuẫn chung của qui luật vũ trụ.

*

(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu

1. « Ai về nhắn nhủ mẹ cha,

Mua heo thì trả, trường ba con hỏng rồi ».

2. « Ai ơi chơi lấy kẻo chầy,

Xem hoa bốn mắt, đi giày ba chân ».

3. « Ai rằng ta chẳng khôn này,

Đến khi nói dại, mặt ngay cán tàn ».

4. « Ai chẳng muốn đẹp, muốn dòn,

Muốn đi tháo dạ cho mòn lỗ trôn ».

5. « Ai lên nhắn chị hàng bông,

Có muốn lấy chồng thì xuống Nguyệt-viên.

Nguyệt-viên lắm thóc, nhiều tiền,

Lại có sông liền tắm mát nghỉ ngơi.

Chiều chiều ba dãy cá tươi,

Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng hoài ».

6. « Áo người mặc đoạn cởi ra,

Chồng người ấp mượn, canh ba lại hoàn ».

7. « Ăn trầu thì bỏ quên vôi,

Ăn cau bỏ hạt, nàng ơi là nàng ! »

8. « Ăn rồi nằm ngả, nằm nghiêng,

Có ai lấy tớ thì khiêng tớ về ».

9. « Ăn sao cho được mà mời,

Thương sao cho được vợ người mà thương ».

10. « Ăn chanh ngồi gốc cây chanh,

Ăn rồi lại ném ngũ hoành tứ tung ».

11. « Ăn chơi cho hết tháng hai,

Để làng đóng đám cho trai dọn đình.

Trong thời trống đánh rập rình,

Ngoài thời trai gái tự tình cùng nhau ».

12. « Bà già ơi hỡi bà già,

Có con không gả đốt nhà bà đi ».

13. « Bóng trăng khi khuyết khi tròn,

Của đời chơi mãi có mòn được đâu ».

14. « Bớt đồng thì bớt cù lao,

Bớt ăn bớt uống thì tao bớt làm ».

15. « Buồn ngủ lại gặp chiếu manh,

Hay ăn, làm biếng gặp anh đứng đường ».

16. « Cá bống còn ở trong hang,

Cái rau tập tàng còn ở ruộng dâu.

Ta về, ta sắm cần câu,

Câu lấy cá bống nấu rau tập tàng ».

17. « Cái cò lặn lội bờ ao,

Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng ?

Chú tôi hay tửu hay tăm,

Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.

Ngày thì muốn những trời mưa.

Đêm thì muốn những đêm thừa trống canh ».

18. « Có chồng thì mặc có chồng,

Còn đi chơi trộm kiếm đồng mua rau ».

19. « Có chồng càng dễ chơi ngang,

Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai… »

20. « Có ăn vất vả đã cam,

Không ăn ta nghỉ, ta làm làm chi ».

21. « Cơm ăn chẳng hết thì treo,

Việc làm chẳng hết thì kêu láng giềng ».

22. « Cơm ăn chẳng hết thì treo,

Việc làm chẳng hết thì meo mặt vào ».

23. « Của đời ông mệ để cho,

Mần không, ăn có, của kho cũng rồi ».

24. « Chè la, chè lẩy, con gái bảy nghề.

Ngồi lê là một, dựa cột là hai,

Ăn khoai là ba, ăn quà là bốn.

Trốn việc là năm, hay nằm là sáu,

Hay ăn đến cháu là bảy ».

25. « Chiếc thuyền nho nhỏ, ngọn gió hiu hiu,

Nay nước thủy triều, mai lại nước rươi,

Sông sâu, sóng cả em ơi !

Chờ cho sóng lặng, buồm xuôi, ta xuôi cùng.

Trót đem nhau vào kiếp bình bồng,

Xuống ghềnh, lên thác ta quyết một lòng cho ngoan.

Giang hồ khoan lại hò khoan ».

26. « Chính chuyên chết cũng ra ma,

Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng ».

27. « Chồng người đi ngược về xuôi,

Chồng tôi ngồi bếp để buồi ăn tro ».

28. « Chớ lo chớ lắng mà gầy,

Bao nhiêu lo lắng để thầy nó lo ».

29. « Chưa tối đã vội đi nằm,

Em coi giấc ngủ đáng năm quan tiền ».

30. « Dáng chú mày coi cũng xinh,

Cơm ngày ba bữa còn rình cơm em ».

31. « Dẫu mà nợ bắt, nợ đòi,

Phong lưu ta cũng cứ nòi phong lưu ».

32. « Đã sinh ra kiếp hay chơi,

Thì trời lại đọa vào nơi không tiền ».

33. « Đàn bà không biết nuôi heo, đàn bà nhác.

Đàn ông không biết cột lạt, đàn ông hư ».

34. « Đánh tôi thì tôi đau đòn,

Tính tôi hoa nguyệt, chẳng chừa được đâu.

Tính quen chừa chẳng được đâu,

Lệ làng, làng bắt mấy trâu mặc làng ».

35. « Đánh cờ nước bí không toan,

Dù anh khéo liệu trăm bàn cũng thua ».

36. « Đi ra, chơi nước, nghiêng trời,

Về nhà không có một nơi cuối đầu ».

37. « Đói thì thèm thịt thèm xôi,

Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường ».

38. « Đôi bên hàng xứ giãn ra,

Để tôi đối địch với ba cô này.

Được thời ăn dĩa trầu đầy,

Thua thời cởi áo trao tay ra về ».

39. « Đời người có một gang tay,

Ai hay ngủ ngày chỉ được nửa gang ».

40. « Em có ba quan tiền, em nghĩ là giàu,

Thạch-Sùng, Vương-Khải còn đâu đến giờ.

Trót sa cơ mới phải lụy cơ,

Thuyền buồm lỡ chuyến lửng lơ đầu ghềnh.

Anh đã từng lên thác xuống ghềnh,

Thuyền nan đã trải, thuyền mành thử chơi,

Ăn chơi khắp bốn phương trời,

Cho trần biết mặt cho đời biết tên ».

41. « Gà què ăn quẩn cối xay,

Ăn đi ăn lại cối này một câu ».

42. « Giang sơn phó mặc hàng mâm,

Sấm chớp ỳ ầm phó mặc Thiên-lôi ».

43. « Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,

Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày ».

44. « Hay quần, hay áo, hay hơi,

Mà chẳng hay người là của bỏ đi ».

45. « Hay làm mà chẳng hay lo,

Làm chi cho lắm, làm cho nhọc mình ».

46. « Hay lam, hay làm, đầu quang mặt sạch,

Chẳng hay làm đầu rếch, mặt dơ ».

47. « Hay ăn thì lăn vào bếp,

Chẳng ai khen cái nết hay làm ».

48. « Hát bai, hát bát không no,

Còn một miếng cháy kéo co vơ nồi.

Hát bai, hát bát không no,

Ta thèm bát nữa hát cho vui nhà ».

49. « Kể như những kẻ lười ngu,

Hay ăn mà chẳng hay lo hay làm ».

50. « Khi nên vung phá cũng nên,

Khi suy, dù khéo giữ gìn cũng suy ».

51. « Khó chẳng âu, giàu đâu chẳng lụy,

Rượu một bầu, du thủy du sơn ».

52. « Không chồng mà chửa mới ngoan,

Có chồng mà chửa, thế gian sự thường ».

53. « Làm trai cho đáng nên trai,

Vót đũa cho dài, ăn vụng cơm con.

Làm trai tập đánh tổ tôm,

Uống chè Phương-thái, xem nôm Thúy-Kiều ».

54. « Làm nên một mình một cỗ,

Chẳng làm nên thì vỗ tay không ».

55. « Làm trai cho đáng nên trai,

Một trăm bữa cỗ chẳng sai bữa nào ».

56. « Làm thì chẳng muốn bằng ai,

Ăn thì thứ nhất, thứ hai trong làng ».

57. « Làm trai cho đáng nên trai,

Ăn cơm với vợ lại nài cạy niêu.

Con vợ nó cũng biết điều,

Thắt lưng con cón cạy niêu với chồng ».

58. « Lạy trời cho cả gió đông,

Cho kẹo tôi chảy, cho chồng tôi xơi ».

59. « Lạy trời cho cả gió nồm,

Cho kẹo tôi chảy, cho mồm tôi xơi ».

60. « Lạy Trời, lạy Phật, lạy Vua,

Để tôi sức khỏe tôi xua con ruồi ».

61. « Lẳng lơ cũng chẳng có mòn,

Chính chuyên cũng chẳng sơn son để dành ».

62. « Lẳng lơ chả một mình tôi,

Thanh-lâm, Đông-sớm cũng đôi ba người.

Nói ra sợ chị em cười,

Lấy chồng tháng chín, tháng mười có con ».

63. « Lâm râm khấn vái Phật Trời,

Xin cho cha mẹ sống đời nuôi con ».

64. « Lật đật thì đất cũng đè,

Những người thong thả rượu chè năm canh ».

65. « Lênh đênh bè ngổ, bè dừa,

Quần nâu áo vá, đâu vừa thì chơi ».

66. « May mảy mày may,

Cơm vừa chín tới, bà bay vừa về ».

67. « May ra thì hóa tứ linh,

Chẳng may thất nghiệp nằm đình Cổ-lương ».

68. « May ra thì được kim vàng,

Chẳng may thì phải kim gang, kim chì ».

69. « Mẹ già hết gạo, treo niêu,

Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai ».

70. « Một năm là mấy tháng xuân,

Ăn chơi cho thỏa phong trần ai ơi !

Một năm là mấy tháng mười,

Ta đi mua nồi về đúc tiền công.

Ta đi mua đồng về đúc bồ lao,

Bây giờ tình nghĩa làm sao,

Cho chuông chẳng bén, bồ lao chẳng bền.

Xưa kia chuông ở trên đền,

Bây giờ chuông tuếch, chuông toác bỏ rền cầm canh ».

71. « Mượn màu kinh sử ăn chơi,

Đi đâu là chẳng có nơi hữu tình ».

72. « No cơm ấm cật, dậm dật mọi nơi,

Quần áo tả tơi, mọi nơi dậm dật ».

73. « Ngày ngày cắp nón ra đi,

Buôn gì chẳng có, bán gì thì không ».

74. « Ngày thời còn mãi đi chơi,

Tối lặn mặt trời đổ thóc vào rang xay ».

75. « Ngồi cầu, ngồi quán chẳng sao,

Hễ ai mó đến thì « bao nhiêu tiền ? »

76. « Người ta câu bể câu sông,

Anh chỉ câu lấy con ông con bà ».

77. « Nghêu ngao cho đỡ cơn buồn,

Dù ai chê dại, chê khôn mặc lòng ».

78. « O này có tính dở hơi,

Nấu cơm ra cháo, nấu khoai ra bù ».

79. « Ra đi là sự đánh liều,

Mưa mai cũng chịu, nắng chiều cũng cam ».

80. « Ra đi thì sự đã liều,

Mưa mai không biết, nắng chiều không hay ».

81. « Ra đi là sự đánh liều,

Gió mai cũng chịu, mưa chiều cũng cam ».

82. « Ra đường nón sải nghênh ngang,

Về nhà hỏi vợ cám rang đâu mày ».

83. « Sáng ngày bồ dục chấm chanh,

Trưa gỏi cá cháy, tối canh cá chầy ».

84. « Tay cầm cái chỉ cây kim,

Tay cầm tấm lụa đi tìm thợ may ».

85. « Tay mang túi bạc kè kè,

Nói quấy nói quá, người nghe rầm rầm ».

86. « Tôi đà biết tính chồng tôi,

Cơm no thì nước, nước thôi thì trầu ».

87. « Tối trời, trời lại sáng ra,

Đi đâu mà vội cho già mất thân ».

88. « Tội gì tội lội xuống sông,

Đánh ba tiếng cồng lại nổi tội lên ».

89. « Tốt số lấy được chồng chung,

Lương vua khỏi đóng, áo chồng khỏi may ».

90. « Tu được ba tháng ba đông,

Còn mười ngày nữa mà không hoàn thành ».

91. « Thần tiên lúc túng cũng liều,

Huống chi thân cú quản điều tanh hôi ».

92. « Thế gian chuộng của chuộng công,

Nào ai có chuộng người không bao giờ ».

93. « Trai tứ chiến hầu bao, dạ cá,

Gái giang hồ, yếm vá cổ sây ».

94. « Trong ba mươi sáu đường tu,

Đường nào phú quý, phong lưu thì làm ».

95. « Trót tay nhúng phải chàm thùng,

Chẳng xanh thì quyết vẫy vùng cho xanh ».

96. « Trồng trầu trồng lộn với tiêu,

Con theo hát bội mẹ liều con hư ».

97. « Trời nắng rồi lại trời mưa,

Chứng nào tật ấy có chừa được đâu ».

98. « Trời mưa nước chảy hoa hè,

Tôi chẳng lấy nó, nó đè lấy tôi.

Trước sau chẳng khỏi lần nào,

Mở cửa anh vào, kẻo muỗi cắn anh ».

99. « Vắt chân chữ ngũ, đánh củ khoai lang,

Bớ cô bán hàng, rót thầy bát nước ».

100. « Việc làm tôi chẳng bằng bác,

Bánh đúc, kẹo lạc, bác chẳng bằng tôi ».

101. « Xay thóc tôi máu thượng công,

Cày đồng, tôi có máu thấp ».

d) Tinh thần vô tư trong lẽ sống

Lịch sử bất công trong chế độ phong kiến đã đưa đến cho lớp người bình dân hai trạng thái mà chúng ta vừa khảo sát ở hai phần trên : trạng thái tích cực và trạng thái tiêu cực.

Tuy nhiên nếu chúng ta chỉ nhìn vào xã hội bình dân với hai trạng thái ấy thì vẫn chưa đủ. Giữa thành phần tích cực, kiên nhẫn chịu đựng, đem ý chí tự lực tự cường bảo vệ cuộc sống và thành phần bạc nhược, thiếu ý chí phấn đấu, biếng nhác, liều lĩnh, thì còn một lớp người nữa phân hóa ở giữa. Đó là thành phần vô tư trước lẽ sống.

Chúng tôi dùng chữ « vô tư » ở đây theo quan điểm xã hội. Nói rõ hơn, chúng tôi đứng trên tính chất sinh hoạt xã hội nhìn qua khía cạnh này.

Vậy thế nào là vô tư ?

Con người sống không thể không có một tâm tư. Sống để làm gì ? Và phải sống như thế nào ? Đó là tâm tư con người đối với lẽ sống, dù con người ấy thuộc thành phần nào, giai cấp nào.

Khi con người có một tâm tư, cuộc sống thực tại sẽ đem đến cho họ cảm nghĩ hoặc thích, hoặc không thích. Thế thì làm gì có trạng thái vô tư ? Nếu thích, họ sẽ thỏa mãn với cuộc sống ; không thích, họ sẽ đau khổ với cuộc sống.

Tuy nhiên, nếu nhận xét như vậy chúng ta đã đi quá thời gian, nghĩa là chúng ta đứng ở thời điểm hiện tại mà nhận xét con người của trăm ngàn thế hệ về trước.

Chúng ta phải thấy rằng thời gian ghi lại lịch sử con người, và con người của mỗi thời điểm không thể nào giống nhau.

Ngày nay lịch sử xã hội của chúng ta đã trải qua một thời gian đấu tranh dằng dặc. Sự kiện lịch sử ấy đã làm cho con người chúng ta có một tầm suy tư vượt ra ngoài bản chất thiên nhiên của con người nguyên thủy. Ý nghĩ chúng ta không thể đặt ra ngoài sự chi phối của xã hội, tâm tư chúng ta cũng không thể tách rời những cảm giác hàng ngày liên hệ với chúng ta. Lịch sử xã hội càng chồng chất bao nhiêu thì tâm tư con người càng gắn liền vào sinh hoạt bấy nhiêu. Cho nên, trước cuộc sống ngày nay chúng ta không thể nào có « vô tư » được.

Còn đối với người xưa, trạng thái hồn nhiên, chất phác vẫn là hiện tượng chưa bị lịch sử của thời gian làm biến chất. Thời phong kiến xa xưa tuy có áp bức bất công, phân hóa giai cấp, song đối với bản tính cần cù chất phác của người bình dân họ có thể quan niệm đó là hiện tượng tự nhiên, vì ý thức tranh đấu của họ không như chúng ta ngày nay. Họ chưa tìm hiểu được những xảo thuật khôn ngoan của lớp người thống trị.

Khi tâm tư họ không tìm thấy áp bức, bất công hay họ cho sự áp bức, bất công là trạng thái đương nhiên luôn luôn phủ lên đầu của lớp người cùng cực trong xã hội con người, cũng như hiện tượng trong vũ trụ, con cá lớn nuốt con cá bé, con thú dữ đuổi bắt thú nhỏ, nên tâm hồn họ không cảm thấy đau khổ tuyệt đối. Vì thế mà cuộc sống họ trở thành vô tư.

Mặt khác cũng có thể lớp người này cảm thấy mọi khổ cực của mình trong áp bức, bất công. Tuy nhiên, lịch sử xã hội diễn qua tâm trí họ bằng trạng thái tất nhiên, nghĩa là họ tìm thấy từ đời ông đến đời cha họ vẫn sống như thế, thì đời họ dù có bằng lòng hay không bằng lòng với cuộc sống thì cũng chỉ thế thôi. Quan niệm ấy làm cho họ an phận và vui sống với những gì của cuộc đời họ phải sống. Họ không tích cực và cũng chẳng tiêu cực. Họ đem tâm tư gắn liền với cảnh vật. Những vui buồn của họ không nằm trong trạng thái xã hội, mà nằm trong trạng thái thiên nhiên.

Chiều trời bảng lảng, áng mây trên đỉnh núi rực rỡ muôn màu, một nông dân thả trâu ra khỏi cày ngồi gác chân trên bờ ruộng, mặt hướng về trời Tây, chúng ta hãy nhìn họ để thấy rằng giờ phút ấy tâm hồn họ không còn dính líu gì đến thế sự, và sự cực nhọc của họ vừa rồi như không còn ứ đọng trên khuôn mặt rám nắng, trên làn da nhăn nheo ấy nữa.

Nếu những bất công trong cuộc sống đã làm cho lòng họ đau đớn thì chính những giờ phút ấy, cảnh vật đã đưa tâm hồn họ ra khỏi cuộc sống đương thời.

Trong ca dao Việt-Nam chúng ta thấy những câu mà ý nghĩa tách rời ra ngoài bản năng tranh đấu của xã hội loài người, bên trong chỉ hàm chứa một hiện tượng thiên nhiên. Ví như :

« Con mèo, con chó có lông,

Cây tre có mắt, xương rồng có gai ».

Hoặc : « Chiều chiều vịt lội cò bay,

Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.

Vô rừng bứt một sợi dây,

Đem về thắt gióng cho nàng đi buôn ».

Tại sao người xưa để lại những câu ca dao như vậy, và truyền tụng mãi cho đến ngày nay ?

Chúng ta cho là vô nghĩa ! Phải, đối với chúng ta ngày nay, những câu ca dao bắt quàng như vậy không nghĩa lý gì cả, bởi vì văn từ phải phát xuất ở tâm tư, và nói lên một cảm giác nào của tâm tư mới có giá trị. Tuy nhiên, chúng ta lại phải nhìn nhận rằng không một văn từ nào không nhờ ở tâm tư mà bộc lộ cả. Những câu ca dao trên vô nghĩa đối với chúng ta chỉ vì tâm tư của chúng ta ngày nay khác với tâm tư ngày xưa. Những cái mà chúng ta cho là vô nghĩa chính đã phản ảnh tâm tư của người xưa trong một thời điểm sinh hoạt xã hội.

Cũng như một câu hát của trẻ con, chúng ta không thể tìm trong đó ý nghĩa của tâm tư người lớn, nhưng sự thực nó đã phản ảnh ý thức vô tư của trẻ con, tác thành văn tự. Đây, chúng ta thử đọc một đoạn đồng dao :

« Đầu quạ, quá giang

Sang sông về đò

Cò nhảy, gãy cây

Mây leo, bèo trôi

Ổi xanh, hành bóc

Róc vỏ, đỏ lòng

Tôm cong, đít vịt

Sang cành nẻ

Bẻ cành xanh

Vét bàn thiên hạ ».

Chúng ta không thấy một ý nghĩa nào cả, tuy nhiên trẻ con truyền tụng nhau hát vang xóm làng từ thế hệ này đến thế hệ khác chứng tỏ nó rất thích hợp với tinh thần vô tư của trẻ con.

Trong lãnh vực ca dao cũng vậy, nếu chúng ta thấy có những câu ca dao đầy ưu tư, máu lệ, tình tự, bi ai phản ảnh tâm trạng một lớp người sống trong khổ đau vì áp bức, thì những câu ca dao không có một ý nghĩa nào cả, chính là trạng thái phản ảnh tâm tư của một lớp người đặt những tranh chấp xã hội ra ngoài cuộc đời.

Cho nên, chúng ta không thể bảo những câu ca dao vô ý nghĩa là không có giá trị. Giá trị nó đã xác định qua sự truyền tụng của nhiều thế hệ trong lịch sử loài người.

Những cảm giác liên hệ giữa cuộc sống con người và con người, cũng như những cảm giác liên hệ giữa cuộc sống con người và thiên nhiên đều được phản ảnh trung thành qua thi ca bình dân.

Thi ca bình dân là một bầu vũ trụ của tâm tư, có đủ hình tượng và màu sắc, chúng ta không thể nhìn bầu vũ trụ ấy bằng thái độ chủ quan của cảm nghĩ đương thời.

*

Tóm lại, chế độ phong kiến đã đem đến cho xã hội bình dân những bất công, đau khổ qua một thời gian lịch sử. Những đau khổ ấy đã làm cho giai cấp bình dân phân hóa, biến thái.

Sự biến thái trong giai cấp bình dân tạo thành ba lớp người : Một lớp người dùng tinh thần tự lực tự cường chống lại mọi đau khổ trong xã hội, một lớp người bạc nhược, thiếu kiên nhẫn, biếng nhác, liều lĩnh, và một lớp người cho khổ đau là định mệnh và họ đã sống với ý thức vô tư trong hoàn cảnh đau khổ của họ.

Ba trạng thái trên chúng ta đều gọi là biến thái của tình cảm con người đối với sinh hoạt xã hội.

*

(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu

1. « Ai nhất thì tôi thứ nhì,

Ai mà hơn nữa, tôi thì thứ ba ».

2. « Ai mua con quạ bán cho,

Đen lông, đen cánh, bộ giò cũng đen ».

3. « Ao to ta thả cá chơi,

Hồ rộng nuôi vịt, vườn khơi nuôi gà.

Quanh năm khách khứa trong nhà,

Ao vườn sẵn đó lọ là tìm đâu ».

4. « Ba mươi sáu cái nõn nường,

Cái gối đầu giường là ba mươi bảy ».

5. « Ba cô đi chăn bò vàng,

Để bò ăn lúa ba nàng hái hoa.

Hái được cành bổng cành la,

Cành nào tươi tốt cho ta một cành ».

6. « Ba đời bảy họ nhà tre,

Hễ cất lấy ghính, nó đè lên vai ».

7. « Bà gì, bà giả, bà gia,

Bà ra Kẻ-Chợ, con ma bắt bà ».

8. « Bao giờ cho khỉ đeo hoa,

Cho voi đánh sáp, cho gà nhuộm răng ».

9. « Bao giờ rồng đến nhà tôm,

Rồng leo cây ngải thì ôm rồng vàng ».

10. « Bắc thang lên đến cung mây,

Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.

- Cuội nghe thấy nói Cuội cười,

Bởi hay nói dối phải ngồi gốc cây ».

11. « Bắc thang lên hỏi ông trăng,

Hỏi rằng chị Nguyệt đã chừng mấy con ».

12. « Biểu về nói với ông câu,

Cá ăn thì giật, để lâu mất mồi ».

13. « Bồng bồng mà nấu canh tôm,

Ăn vào mát ruột đến hôm lại bồng.

Bồng bồng mà nấu canh khoai,

Ăn vào mát ruột đến mai lại bồng ».

14. « Cá rô róc rách ruộng cày,

Ai ghẹo gì mày hỡi cá rô gion ».

15. « Cào cào giã gạo bà xem,

Bà may áo đỏ, áo đen cho mày ».

16. « Con ai là chẳng con cha,

Cháu ai là chẳng cháu bà, cháu ông ».

17. « Con mèo con chó có lông,

Bụi tre có mắt, nồi đồng có quai ».

18. « Con chim mày ở trên cây,

Tao đứng dưới gốc, mầy bay đàng nào ».

19. « Con mèo con mẻo con meo,

Muốn ăn thịt chuột thì leo xà nhà ».

20. « Đố ai biết lúa mấy cây,

Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng ».

21. « Đố ai quét sạch lá rừng,

Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây ».

22. « Đố ai biết đá mấy hòn,

Tua-rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm ».

23. « Đố ai lượm đá quẳng trời,

Đan gàu, tát biển, ghẹo người trong trăng ».

24. « Gai trên rừng ai bứt làm nhọn,

Trái trên cây ai vo mà tròn ».

25. « Hỡi con vịt nước kia ơi,

Sao mày vùng vẫy ở nơi Ngân-hà ».

26. « Làm người có miệng có môi,

Khi buồn thì khóc khi vui thì cười ».

27. « Mẹ em đi chợ đường ngoài,

Mua em cây mía vừa dài vừa cong.

Mẹ em đi chợ đường trong,

Mua em cây mía vừa cong vừa dài ».

28. « Một cái nóc gắn trăm cái rui,

Trăm cái rui đè một cái nóc ».

29. « Năm trai, năm gái là mười,

Năm dâu, năm rể là đôi mươi tròn ».

30. « Nói bỡn mà chơi, nói cợt mà chơi,

Áo ai người mặc có mùi gì đâu ».

31. « Nhà này có quái trong nhà,

Có con chó đực cắn ra đằng mồm ».

32. « Ở đây những núi cùng khe,

Chân sim, bóng đá, tiếng ve gọi sầu ».

33. « Tối trời bắt sẩm trông sao,

Sẩm thề có thấy ông nào sẩm đui ».

34. « Thế gian một vợ một chồng,

Chẳng như Vua Bếp hai ông một bà ».

35. « Trăng rằm vừa tỏ vừa cao,

Cho nên ai cũng ước ao trăng rằm ».

36. « Trời mưa thì mặc trời mưa,

Tôi không có nón, trời chừa tôi ra ».

37. « Vui từ trong cửa vui ra,

Buồn từ ngã bảy ngã ba buồn về ».

38. « Xa xôi dịch lại cho gần,

Làm thân con nhện mấy lần vương tơ ».

39. « Xăn quần bắt kiến cỡi chơi,

Trèo cây rau má bỏ rơi mất quần ».

40. « Xin trời đừng nắng chớ mưa,

Dâm dâm gió mát cho vừa lòng tôi ».

V. TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG DÂN TỘC

Tại sao loài người phải nói đến quê hương, dân tộc ? Quan niệm quê hương, dân tộc do đâu mà có ? Và có tự lúc nào ?

Trong văn chương bác học cũng như bình dân xưa nay đã nói rất nhiều đến tình dân tộc, tình quê hương. Người ta ca tụng, say sưa, lưu luyến hai mối tình ấy, mà từ người hiền đến người ngu không một ai phản đối.

Như vậy, lòng yêu quê hương, dân tộc chứng tỏ là một bản tính của con người.

Chúng ta thường được nghe những người bình dân hát :

« Con người có tổ, có tông,

Cái cây có cội, con sông có nguồn ».

Hoặc : « Chim xa rừng thương cây nhớ cội,

Người xa nguồn trôi nổi lắm nơi ».

Ý nghĩa của câu hát nhắc nhở cho ta thấy sự liên hệ đối với tính chất cá biệt. Con người sinh ra cũng như muôn vật đều phải phát nguồn ở cội rễ, và cội rễ chính là tính chất truyền thống đưa con người cũng như muôn vật từ một căn bản chung đi vào lãnh vực cá biệt, và để bảo vệ tính chất cá biệt ấy, con người không nên đặt tình cảm mình ra ngoài tình cảm truyền thống ấy.

Nhưng vì đâu mà con chim nhớ tổ, con người lại quyến luyến quê hương ?

Tính chất này chúng ta đã có dịp bàn đến ở các phần trước. Sự sống con người cũng như vạn vật có cảm tính trong vũ trụ đều có liên hệ từ nội thức đến ngoại năng.

Tình cảm con người không thể có nếu không được tác động vào ngoại vật. Một đỉnh núi, một dòng sông, một gốc cổ thụ… chúng ta ngắm nhìn thường ngày đem lại trong cảm giác chúng ta một hình bóng quen thuộc. Ngoại vật tuy vô tình nhưng trước cảm tính con người, sự liên hệ giữa cảnh vật và nội tâm, ngoại vật trở thành hữu tình đối với con người. Tình yêu quê hương, dân tộc do đó mà nẩy sinh.

Người nông dân, quanh năm sống với công việc đồng áng, trước mặt họ những hình ảnh của thôn xóm luôn luôn phô bày tính chất quen thuộc, gắn liền với ý thức sinh hoạt của họ, chìm vào tiềm thức họ, nên chính họ là kẻ nhiều cảm tình nhất đối với quê hương. Người nào ít xê dịch thì tình cảm địa phương càng nặng.

Một người nhà quê ra thành thị cảm thấy bực bội trước cuộc sống phồn hoa, náo nhiệt. Họ không tìm thấy ở cảnh xa lạ, rực rỡ ấy những cảm mến chỉ vì trạng thái sinh hoạt hàng ngày của đô thị không quen thuộc với cảm quan họ như ở thôn quê. Cũng như một nông dân miền này đến miền khác làm ăn, tuy nơi họ đến cũng có ruộng vườn, lũy tre xanh, và tất cả những gì của thôn quê, song họ lại không thích bởi vì những hình bóng thường ngày nơi họ sống đã ghi đậm vào tâm hồn họ và đã cùng họ chung sống trên dòng đời chứa đựng nỗi buồn vui trong cuộc mưu sinh, và trở thành những kỷ niệm.

Một cô lái đò nhìn lại gốc đa nơi bến cũ, tình cảm của cô không thể không lâng lâng nuối tiếc vì gốc đa đã trở thành một kỷ vật trong đời sinh hoạt nghề nghiệp của cô. Gốc đa ấy nhắc cho cô nhớ những đêm buồn tịch mịch, những phút say sưa ngắm ánh trăng vàng khi con đò vắng khách, những lúc cô đẫm mồ hôi dưới ánh mặt trời trưa, những khi lòng cô rộn rã đợi đôi bóng người rảo bước trong cảnh lỡ đò… Tất cả những hình bóng xa xưa ấy không thể tách rời cảm giác của cô được.

Như vậy, tình cảm quê hương là tình cảm của cảnh vật chứa đựng những kỷ niệm trong sinh hoạt con người. Tình cảm ấy đi dần đến sự mến tiếc, nhớ nhung mà người bình dân nơi thôn dã mang nặng tính chất ấy hơn ai hết. Họ đã thổ lộ qua ca dao rất nhiều. Ví dụ :

« Ta về ta tắm ao ta,

Dù trong, dù đục ao nhà vẫn quen ».

Họ đã đặt tình cảm lên trên vật chất, lên trên sự quyến rũ ngoại hình. Vũng nước trong tuy mát mẻ, sạch lâng lâng, nhưng nước ấy không chứa đựng những kỷ niệm trong đời sống thường nhật của họ thì không làm sao xóa nhòa cái tình quê đang mang nặng ở tâm hồn.

Cũng như họ thường hát :

« Trâu ta ăn cỏ đồng ta,

Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ quê ! »

Khi đã nặng với tình cảm quê hương thì đến con trâu, con vật thân yêu hàng ngày của họ, họ cũng không muốn nó rời bỏ những kỷ niệm địa phương.

Tình yêu quê hương là một trạng thái tinh thần, có một năng lực thiên nhiên, chỉ những ai sống bằng dục vọng, chối bỏ tình cảm tinh thần mới tách rời được bản chất ấy.

Người bình dân tuy sống lao khổ, nhưng không vì lao khổ mà họ mơ ước được ngụp lặn trong dục vọng vật chất. Miếng ăn dù ngon đến đâu cũng không thể lôi cuốn họ rời bỏ tình cảm tinh thần của lẽ sống. Câu hát trên chứng tỏ điều ấy.

Bởi vậy, chúng ta thấy họ rất thiết tha với mảnh đất chôn nhau cắt rún, khi phải xa rời nó. Ví dụ :

« Chiều chiều ra đứng ngõ sau,

Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều ».

Hoặc : « Chiều chiều ra ngõ ngó xuôi,

Ngó về quê mẹ bùi ngùi tâm tư ».

Quê mẹ là gì ? Nó là mảnh đất chôn nhau cắt rún, mảnh đất mà cô gái đã từ tiếng khóc bên nôi, dần lớn lên cho đến lúc theo chồng xa xứ. Hình bóng cũ đã làm cho cô gái « ruột đau chín chiều » hoặc « bùi ngùi tâm tư » chính là mặt đê, là thềm giếng, là lũy tre xanh, là cái gì quen thuộc đã xa vắng bấy lâu, nay bỗng nhiên bừng sống lại làm nhức nhối cả tâm hồn.

Chúng ta không thể bảo lũy tre nào cũng giống lũy tre nào, con đường nào cũng giống như con đường nào… Đối với tình cảm quê hương, mỗi lũy tre, mỗi con đường đều mang tính chất khác biệt. Những ai còn chứa trong tâm hồn đôi chút tình quê đều cảm nhận được.

Bởi vậy, một kẻ ly hương phải sống nơi xứ lạ quê người, dù sang giàu, sung sướng đến đâu cũng không thể chôn vùi ấn tượng của quê hương mộc mạc trong tận sâu kín của lòng mình, khỏa lấp lên trên bằng những cảnh trí của đất lạ trời xa, bằng những tình cảm vá víu của biệt chủng.

Hỡi những kẻ tha phương cầu thực ! Hỡi những ai xa rời đất tổ mà còn mang dưới gót hài của mình đôi chút tình quê ! Mùa xuân hôm nay đã về ! Nhìn đàn chim én trốn tránh bão tuyết đã tự phương nam lũ lượt quay tìm tổ cũ, hình ảnh của những con vật nhỏ bé ấy có dội chăng vào lòng người niềm nhớ nhung Đất Mẹ ? Có gợi lại chăng trí nhớ các người sự tích của chim Việt ngựa Hồ (Việt điểu sào nam chi ; Hồ mã tê bắc phong) ? Có nhắc nhở chăng các người tiếng pháo Tết giao thừa ? Những tập tục cổ truyền của dân tộc đã ăn sâu tận tiềm thức có chỗi dậy chăng sau một năm dài vật lộn với đời sống vật chất ?

Không ! Không ! Chúng tôi không tin rằng con người, dù một con người đã xa lìa tổ quốc bằng một sự giận dỗi, bằng một sự oán hờn, trên dòng đời nương náu nơi đất khách, không có đôi lúc thoáng nghĩ đến quê hương !

Và, một khi tâm hồn mình còn lưu luyến cố thổ, vậy chúng ta hãy cùng thắp lên nén hương, mượn làn khói xám vượt không gian bay về đất tổ để đánh dấu sự ghi nhớ cội nguồn.

« Đêm qua đốt đỉnh hương trầm,

Khói lên nghi ngút, âm thầm nhớ quê ! »

Hỡi văn minh vật chất ! Ngươi đừng tưởng những nhà lầu chọc trời, những con đường bóng láng, những công viên được gò bó trong mỹ thuật gượng ép có khả năng xóa nhòa được hình bóng của mái tranh nghèo, con đường gồ ghề khúc khuỷu, vết chân trâu bên ruộng lúa… và những điệu nhạc cuồng loạn kia có thể át được tiếng hò dưới đêm trăng trong thôn xóm ? Không ! Giá trị của tình quê hương không phải là giá trị của lạc thú dục vọng. Tình quê hương không phải là cái đẹp nhân tạo, mà nó chứa đựng một cách thiêng liêng trong những hình bóng đã trở thành kỷ niệm của cuộc sống, và nó vĩnh viễn trong lòng người, không hề dời đổi.

Đây, chúng ta nghe người bình dân nói lên điều đó :

« Nước non là nước non trời,

Ai chia được nước, ai dời được non ».

Dòng sông, đỉnh núi… đã mang vào đấy dấu vết kỷ niệm của kẻ nào thì chỉ kẻ ấy mới thấy cảm mến, cũng như chỉ có dòng sông ấy, đỉnh núi ấy mới làm cho họ cảm mến mà thôi. Nếu bảo thôn quê là của người đồng ruộng thì đó là một nhận xét khái quát. Cũng như khi chúng ta nghe một cô gái hát :

« Ngày ngày em đứng em trông,

Trông non non ngát, trông sông sông dài.

Trông mây, mây kéo ngang trời,

Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa ».

Chúng ta tưởng sự nhớ nhung của cô gái phảng phất qua trời, mây, sông, núi bằng một hình bóng tượng trưng, nhưng kỳ thật không phải thế. Cảnh vật gieo vào lòng cô gái một mối nhớ nhung, tất nhiên cảnh vật ấy phải chứa đựng một kỷ niệm trong lòng người. Vậy cô gái phải nhìn vào một đỉnh núi mới thấy nhớ nhung, nhìn vào dòng sông mới gợi lên sự quạnh vắng, và những lùm cây, những ánh trăng phải ở trong khung cảnh cố định mới làm cho cô gái động tình.

Tình cảm không thể tách rời ngoài cảnh vật đã chứa đựng kỷ niệm, cho nên người bình dân đã nói :

« Ao sen, giàn mướp, lũy tre

Nhắc chi những nỗi đi về năm xưa.

Đầu xanh độ ấy đang vừa,

Rủ nhau chui lách lưa thưa vào vườn.

Ôi quê hương ! Ôi quê hương !

Nói sao cho xiết niềm thương nỗi lòng ».

Tại sao lại phải nói lên ao sen, giàn mướp, lũy tre… khi tình cảm con người nổi dậy ? Chính là ao sen, giàn mướp, lũy tre ấy chứa đựng những kỷ niệm thiếu thời của họ. Và, tình cảm của họ chỉ có trên hình bóng ấy mà thôi. Người xưa thường nói :

« Tức cảnh sinh tình ».

Hoặc : « Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ ».

Chính là họ đã thừa nhận trạng thái chứa đựng kỷ niệm trong đời sống con người qua cảnh vật. Tình quê hương là trạng thái ấy, cho nên họ bảo :

« Vui thời vui gượng cho qua,

Quê hương xa cách, vui mà được sao ? »

Hoặc : « Vui là vui gượng qua thì,

Xóm làng xa vắng, vui gì mà vui ! »

Hay : « Ngày ngày ra đứng bờ sông,

Sông xa, xa tít, cho lòng em đau ».

Tình dân tộc cũng thế. Nếu tình cảm con người gắn liền với cảnh vật trải qua những kỷ niệm trong cuộc sống, thì chính tình dân tộc lại cũng mang những kỷ niệm gắn liền giữa con người và con người đối với cuộc sống.

Tình dân tộc bắt nguồn từ mọi liên hệ địa phương giữa những người cùng sống chung một vùng, và lan dần ra giữa những người cùng sống chung một nước dưới một chế độ, hay trải qua nhiều chế độ đổi thay.

Một con heo sẩy chuồng, vài người hàng xóm xúm nhau đuổi bắt hộ. Hình bóng ấy không phải tan biến mà lưu trữ mãi trong ký ức con người tạo thành kỷ niệm trong cuộc sống.

Một con đê vỡ, người làng xóm xúm nhau gánh đất đắp lại, kỷ niệm trong sinh hoạt tập thể ấy vẫn là hình bóng trường tồn.

Cho đến những cuộc gặp gỡ thường ngày trong việc làm ăn, dù sự đụng chạm nhau hay giao cảm nhau vẫn ghi lại trong tâm tư con người một cái gì như nhắc nhở dù cố quên đi cũng không được.

Nếu trong phạm vi gia đình, vợ chồng, con cái vì phải lo kế sinh nhai, đồng cam cộng khổ, và hoàn cảnh mưu sinh ấy tạo nên tình quyến luyến nhau, thì tình luân lý cũng phát sinh do tính chất sinh hoạt cùng một hoàn cảnh mà có.

Hoàn cảnh sinh hoạt tạo nên tình thương từ phạm vi nhỏ hẹp của gia đình, đến phạm vi rộng lớn của dân tộc.

Một dân tộc bị nô lệ, áp bức, luôn luôn phải hi sinh chống ngoại xâm, hoàn cảnh ấy tạo cho thân phận mỗi người dân có một tâm tư giống nhau, và tình cảm đối với mọi người bắt nguồn từ đấy.

Một dân tộc giành được độc lập, tranh thủ với ngoại bang, sự lo lắng của mỗi người dân sống chung một nước chính là yếu tố căn bản để tình cảm họ liên kết.

Tinh thần yêu thương đùm bọc lấy nhau đều do trạng thái sinh hoạt gần gũi mà ra cả.

Nước Việt-Nam trải mấy nghìn năm bị ngoại bang xâm lấn và đô hộ, nỗi khổ cực, đắng cay của chế độ bắt mọi người dân đã chung sống trong hoàn cảnh ấy phải cùng nhau chia sẻ mối lo âu, cùng đòi hỏi tinh thần hy sinh chung cho dân tộc, thì làm sao dân tộc Việt-Nam không có một tình cảm thương yêu nhau được. Lịch sử Việt-Nam nói lên điều đó đã đành, mà trong ca dao Việt-Nam cũng đã ghi lại tình thương cao cả ấy.

Chúng ta làm sao quên được những câu hát, như :

« Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng ».

Tại sao người trong một nước lại phải thương yêu nhau nếu không phải vì tính chất tự tồn !

Dân tộc ! Hai tiếng ấy từ ngàn xưa đã điển hình cho một sức mạnh, một ý chí phấn đấu, một tình thương bao la và một đức hy sinh vô bờ bến.

Tình dân tộc và tình quê hương là một. Khi muốn bảo vệ quê hương tất nhiên phải bảo vệ dân tộc, ngược lại, muốn bảo vệ dân tộc, tất nhiên phải bảo vệ quê hương. Không có dân tộc thì không có quê hương, và không có quê hương thì không còn dân tộc nữa. Người xưa đã nói :

« Bầu ơi thương lấy bí cùng,

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn ».

Sống chung một hoàn cảnh dù giàu nghèo, một dân tộc chỉ có một quê hương. Tinh thần thiết tha với quê hương chính là yếu tố đưa con người đến tinh thần dân tộc, gạt bỏ mọi hiềm khích cá nhân trong dục vọng tự kỷ. Đây, chúng ta nghe tiền nhân nói :

« Chim không đánh chim cùng một tổ,

Trâu một chuồng không nỡ húc nhau.

Cùng nhau một giọt máu đào,

Nỡ nào bán nước, nỡ nào hại dân ! »

*

Tóm lại, lòng yêu quê hương dân tộc là một trạng thái thiêng liêng do hoàn cảnh sinh sống con người tạo nên. Và cũng chính lòng yêu quê hương dân tộc đã để lại trong ca dao Việt-Nam những vết tích lịch sử mà chúng tôi sẽ phân tích qua ba tiểu mục sau đây :

- Đức tính hy sinh của người bình dân.

- Những câu ca dao có địa phương tính.

- Những câu ca dao có liên quan đến sử liệu.

a) Đức tính hy sinh của người bình dân

Thế nào là hy sinh ?

Ở đây chúng ta không viện dẫn điển tích, hoặc tìm xuất xứ để giải nghĩa một ngôn từ, mà chỉ cần hiểu theo cảm nghĩ thông thường của đại chúng.

Ngôn từ « hy sinh » từ xưa đến nay đã được dùng rất nhiều. Thí dụ như hy sinh vì tổ quốc, hy sinh vì dân tộc, hy sinh vì đạo giáo, hy sinh vì chiến nạn, v.v…

Vậy « hy sinh » theo cảm nghĩ của đại chúng là đem quyền hưởng thụ của mình hiến cho kẻ khác kể cả sự sống của con người.

Vì tính chất cao cả như vậy nên người đời gọi là đức hy sinh.

Tiếng « đức » ở đây chúng ta lại phải hiểu theo ngôn từ đạo học, cũng có nghĩa tương tự như « hy sinh ». Kẻ có đức là kẻ vị tha, chỉ biết cho kẻ khác mà không cần đòi hỏi sự hưởng thụ của cá nhân mình.

Nhưng, do đâu mà con người lại có đức hy sinh ? Nếu chúng ta bảo rằng hy sinh là một nghĩa vụ của con người đối với lẽ sống thì đó chỉ là những câu giáo điều, thiếu căn bản thực tế. Xã hội loài người là một trường đấu tranh để tự diệt, tự tồn. Mỗi cá nhân đều phải tự tạo cho mình một sức sống. Tính chất mâu thuẫn tất yếu ấy biến con người thành nạn nhân của tư hữu thì làm gì còn có tinh thần vị tha, hoặc hy sinh quyền lợi mình cho kẻ khác.

Thực trạng xã hội là vậy, và tính chất căn bản trong cơ cấu vũ trụ cũng chính vì thế mà phát sinh những mâu thuẫn giữa vạn hữu. Con người và xã hội loài người đều là sản phẩm của vũ trụ không thể không chịu ảnh hưởng qui luật chung.

Tuy nhiên, nếu chúng ta đi sâu vào tính chất khác biệt của vạn hữu, chúng ta cũng lại phải thừa nhận rằng loài người khác hẳn với mọi sinh vật trong vũ trụ. Nếu những sinh vật khác chỉ biết đem cuộc sống vâng theo một qui trình do ảnh hưởng của vũ trụ, thì loài người với một tình cảm bén nhạy, một tâm tư bao la, một trí óc khôn ngoan, nhiều khi tách rời cá nhân mình ra ngoài những hệ lụy thông thường, gây biến động trong sinh hoạt xã hội, đẩy bánh xe lịch sử quay nhanh hơn. Tác động của tâm tư và khối óc con người gây thành những trạng thái bất thường trong hệ thống thông thường, và ảnh hưởng vào sự biến động của guồng máy vũ trụ không phải ít.

Ở đây, chúng ta bàn đến đức hy sinh của con người chính là nói đến tác động bất thường của tâm tư và khối óc con người trong sinh hoạt xã hội.

Bởi vậy, chúng tôi tưởng cũng nên khẳng định thêm về hai tính chất thông thường và bất thường trong tác động con người.

Tác động thông thường là những tác động tự nhiên của muôn vật, nằm trong trạng thái chung của vạn hữu. Ở phần này, con người cũng như muôn vật cần phải tự vệ để tự tồn trong năng lực hiện hữu. Kết quả của tác động ấy tùy thuộc vào ảnh hưởng của ngoại năng.

Khi chúng ta đói, chúng ta phải đi tìm thức ăn để mà sống, khi chúng ta bị đánh đập chúng ta phải rên la hoặc chống lại. Đó là những tác động thông thường.

Còn tác động bất thường là tác động có liên quan đến tâm tư và khối óc. Khi đói, chẳng những chúng ta đi tìm thức ăn để sinh sống mà còn tìm hiểu tại sao chúng ta thiếu ăn, và phải làm thế nào để tạo ra thức ăn mà không cần đến khổ nhọc. Khi bị áp chế, chẳng những chúng ta chống đối để tự vệ mà còn tìm hiểu tại sao chúng ta bị áp chế. Năng lực tìm hiểu của khối óc và những ảnh hưởng của tâm tư trong cuộc sống chính là yếu tố đưa con người đến tác động bất thường.

Vậy tác động bất thường trong cơ cấu vũ trụ chỉ do tâm tư và khối óc con người mà có. Nếu khoa học tiến triển, năng lực con người đi sâu vào lãnh vực cơ giới, cố tạo ra chén cơm manh áo để cung cấp cho lẽ sống thì đó cũng chỉ là tác động bất thường của con người đối với tâm tư và khối óc. Hoặc nếu con người cảm thấy khả năng khoa học không giải quyết được lẽ sống lý tưởng của con người, mà chỉ tạo cho loài người những dục vọng cá nhân để cấu xé, chém giết lẫn nhau, họ chán ghét cuộc sống, bỏ đời đi tu, thì đó cũng chính vì tác động bất thường của tâm tư và khối óc.

Khác với hai trạng thái trên, đức hy sinh của con người vẫn là một tác động bất thường trong tâm tư và khối óc, nhưng mang một ý nghĩa cao cả hơn. Nếu có kẻ quan niệm dùng đấu tranh để giải quyết lẽ sống, hoặc dùng tự diệt để giải quyết lẽ sống, thì tinh thần hy sinh chính là tinh thần của những kẻ muốn xây dựng lẽ sống bằng cách đấu tranh để loại bỏ đấu tranh.

Cho nên, hy sinh vẫn là một hình thức đấu tranh, nhưng không đấu tranh cho cá nhân, cho dục vọng bản thể, mà cho một lý tưởng.

Vậy lý tưởng là gì ?

Nó là một nguồn hy vọng do tâm tư và khối óc con người tạo nên. Trong mỗi người chúng ta đều mang một lý tưởng. Lý tưởng là phản ảnh của cuộc sống thực tại, do cuộc sống thực tại mà có. Nếu không có cuộc sống thực tại thì không có lý tưởng. Hàng ngày đụng chạm với cuộc sống, nhìn thấy những xấu xa của cuộc sống mà tâm tư chúng ta phát sinh một cảm nghĩ, ước ao một cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự ao ước ấy chính là con đường dẫn chúng ta đến lý tưởng. Và khi chúng ta đã đạt được lý tưởng tức là tâm tư và trí óc chúng ta đã chấp nhận một lẽ sống nào đó, mà ý thức chúng ta cho là tốt đẹp. Tuy lý tưởng phản ảnh ở hiện tại, nhưng khi tâm tư và khối óc đã chấp nhận, thì lý tưởng trở thành vật sở hữu trong tâm tư của mỗi người. Lý tưởng sẽ điều hành mọi tác động cá nhân, và những tác động này đều là sản phẩm của lý tưởng.

Lý tưởng bao giờ cũng tốt đẹp, nhưng vì nó là sản phẩm của tâm tư và khối óc cá nhân, nên không phải đối với ai cũng tốt đẹp cả. Nó chỉ tốt đẹp với những ai chấp nhận nó, cho nó là lý tưởng.

Một Kinh-Kha, vì thọ ân Thái-tử Đan, mang dao sang nước Tần ám sát bạo chúa. Hành động ấy đối với Kinh-Kha là lý tưởng cao đẹp trong lẽ sống, nhưng biết đâu đối với nhiều người khác lại cho là ngu xuẩn.

Một Quan-Công trong lúc phục kích ở Hoa-dung, nuôi mộng anh hùng, bất sát hạ mã chi nhân, thả Tào-Tháo là kẻ quốc thù về nước Ngụy, hành động ấy đối với Quan-Công là lý tưởng cao đẹp, nhưng biết đâu kẻ khác lại cho là dại dột.

Một Tống Tương-công đem quân đánh giặc, dựng cờ « Nhân nghĩa », đợi giặc qua sông rồi mới đánh, hành động ấy đối với Tống Tương-công là lý tưởng cao đẹp, nhưng biết đâu kẻ khác cho là bất trí.

Nói chung, lý tưởng chỉ là quan niệm về lẽ sống của từng cá nhân. Tuy nhiên, khi quan niệm ấy được nhiều người công nhận thì lý tưởng ấy trở thành đạo lý, bởi vì đạo lý nằm trong tính chất dung hợp những mâu thuẫn trong đời sống con người để đưa con người đến chỗ quân bình, tức là cộng đồng sinh tồn.

Trở lại đức hy sinh của con người, chúng ta không thể phủ nhận nguồn gốc của lý tưởng. Nếu không có lý tưởng thì không có đức hy sinh. Sở dĩ người ta chịu hy sinh là để thực hiện lý tưởng của mình. Người ta chết vì lý tưởng, hủy hoại cá nhân mình vì lý tưởng, từ bỏ quyền lợi cá nhân mình cũng vì lý tưởng. Chỉ có lý tưởng mới đủ sức mạnh thực hiện những tác động bất thường ngoài qui luật biến động chung của vạn hữu.

Một nhà cách mạng vào tù ra tội, nay bị khảo tra, mai bị xiềng xích, đem thân lang thang trốn tránh ở nước ngoài. Suốt dòng đời khổ sở như vậy, mục đích cũng chỉ để thực hiện lý tưởng mà họ cho là cao đẹp.

Một chiến sĩ ra trận bị giặt bắt, quyết không chịu làm tù bình hay để kẻ địch lợi dụng, quay súng bắn vào người tự tận. Hành động như vậy cũng chính là vì lý tưởng.

Cho nên, đức hy sinh bao giờ cũng nằm trong lý tưởng, và hành động của hy sinh là hành động của lý tưởng.

Nhưng, một tướng lãnh điều khiển trận chiến, rủi ro bị giặc giết, chưa phải là đã hy sinh. Bởi vì hy sinh nằm trong ý nghĩa tự nguyện, nghĩa là do mình quyết định từ bỏ cuộc sống, hay quyền lợi mà mình đang hưởng thu. Mọi sự rủi ro hoặc bắt ép đều không đúng với ý nghĩa hy sinh.

Lý tưởng đưa con người đến chỗ hy sinh, trong lúc dục vọng cá nhân đưa con người đến chỗ hủy diệt vì tranh chấp.

Nếu chúng ta đã thừa nhận ý nghĩa hy sinh phải có trong lý tưởng thì khi nói đến hy sinh chúng ta không thể không đi tìm lý tưởng.

Vậy người bình dân có lý tưởng chăng ?

Trên đây, chúng ta đã xác định lý tưởng là phản ảnh của cuộc sống hiện hữu, làm cho con người bất mãn không toại nguyện. Mà, người bình dân lại là lớp người gặp nhiều bất mãn nhất, vậy không thể bảo người bình dân không có lý tưởng.

Chúng ta cũng không nên quan niệm theo lối ý-thức-hệ, nghĩa là lý tưởng phải hoàn bị trên một học thuyết có thể dùng làm căn bản cho cơ sở tổ chức guồng máy xã hội, hoăc có thể giải thoát cho đời sống con người đến một thế giới tươi sáng. Không, lý tưởng là cảm nghĩ cá nhân trước cuộc sống họ đang theo đuổi. Hy vọng của họ trước lẽ sống trở thành lý tưởng.

Người bình dân có quan niệm của người bình dân ; kẻ thức giả có quan niệm của kẻ thức giả. Người bình dân không thể vì thiếu học, vì khổ cực mà tâm tư họ không có một mong muốn đối với lẽ sống. Những mong muốn ấy chính là lý tưởng của họ.

Vậy lý tưởng của họ là gì ?

Ngược dòng thời gian, dân tộc Việt-Nam trải qua một lịch sử phong kiến dài dằng dặc, xen lẫn những chế độ xâm lược, áp bức, bóc lột của ngoại bang, người bình dân gánh chịu một cổ hai tròng, thực dân và phong kiến cấu kết, muốn biến quê hương của họ thành nơi khai thác tài nguyên cung ứng cho nước ngoài, biến thân xác họ thành những con vật nô lệ, biến tâm tư họ lệ thuộc vào những tâm tư xa lạ. Họ chỉ có quyền sống mà không có quyền làm người. Bởi vậy, ước nguyện của họ là được quyền làm người, được làm chủ lấy quê hương mình, được diễn đạt những tâm tư mà chính nguồn sống của họ đã đúc kết qua dòng lịch sử. Ước vọng ấy chính là lý tưởng của người bình dân, của những dân tộc bị nô lệ, áp bức.

Chúng ta không có quyền gạt bỏ ước vọng của họ mà không tôn trọng như một lý-tưởng.

Khi chúng ta đã thừa nhận người bình dân có một lý tưởng như vậy, tất nhiên những hành động để thực hiện lý tưởng ấy có hại đến bản thân và quyền lợi cá nhân họ đều được xem là những hành động hy sinh cả.

Thực vậy, chúng ta thường được nghe những câu giáo điều như : « hy sinh vì tổ quốc ». Nhưng mấy ai đã đem phân tích ý nghĩa của ngôn từ « tổ quốc » có một tình cảm ra sao đối với dân tộc ?

Tổ quốc là gì ?

Nói đến tổ quốc, chúng ta không thể chỉ hình dung một ranh giới mà nhân loại đã dành riêng cho một sắc tộc. Hoặc chỉ nghĩ đến tài sản riêng rẽ của một bộ lạc chiếm hữu, bảo vệ và di lưu cho đông đảo con cháu thừa kế đến ngày nay.

Nếu quan niệm tổ quốc với ý nghĩa ấy thì tinh thần bảo vệ tổ quốc chẳng khác nào như tinh thần giữ của. Con cháu gìn giữ tài sản của ông bà để sinh sống. Quan niệm giữ của là quan niệm về quyền lợi vật chất, mà đã nghĩ đến quyền lợi vật chất thì cái nào có lợi hơn sẽ là cái quý hơn. Cho nên, mỗi dân tộc có những hạng người mua danh, bán nước chính vì đã quan niệm tổ quốc theo ý nghĩa trên.

Ở đây, chúng ta không thể quan niệm « Tổ quốc » bằng tài sản vật chất được. Nói đến tổ quốc là bao hàm mọi sinh hoạt của người dân gắn liền với mảnh đất quê hương tạo thành lịch sử xã hội. Mảnh đất đã chứa đựng những vui buồn, đau khổ, mến yêu của một dân tộc. Mỗi dân tộc chỉ có một quê hương, và mỗi quê hương chỉ có một dân tộc. Dân tộc và quê hương như hình bóng. Cho nên, khi mất dân tộc tính tức là đã mất quê hương, và khi đã mất quê hương thì cũng chẳng còn giữ được dân tộc tính nữa.

Nếu chúng ta quan niệm tổ quốc với ý nghĩa ấy thì người bình dân chính là hình bóng đích thực của dân tộc tính, và cũng chính là linh hồn của tổ quốc. Họ bảo vệ lấy họ cũng có nghĩa là họ bảo vệ tổ quốc. Lý tưởng của họ nằm trong căn bản ấy. Tuy đơn sơ nhưng rất xác đáng.

Chúng ta không thể chối bỏ lịch sử và phủ nhận đức hy sinh của người bình dân. Chúng ta ngày nay tự hào là một dân tộc có hơn bốn ngàn năm văn hiến, một dân tộc hùng cường, một tinh thần hy sinh cao cả, một lịch sử bất khuất ngoại bang, thì đó chính là mục tiêu của lý tưởng dân tộc. Nhưng ai đã bảo vệ lý tưởng ấy ? Lớp người nào đã hy sinh nhiều hơn để đạt được mục tiêu ấy ? Phải chăng đó là lớp người bình dân ?

Tuy lịch sử không lưu lại dấu vết tinh thần hy sinh của họ đối với quê hương dân tộc, bởi họ là những chiến sĩ vô danh, nhưng trong lòng tổ quốc, dưới lớp đất quê hương, ngàn triệu hình hài đã ngã gục và chôn vùi trong từng giai đoạn đấu tranh, và như thế cứ nối tiếp nhau từ vạn kỷ nay. Sự kiện ấy, dù con người có cố tình không biết đến Hồn Nước, vẫn vọng lại muôn đời đối với những ai muốn thốt lên lời tự hào về một dân tộc.

Tóm lại, người bình dân là kẻ có nhiều đức hy sinh hơn hết, bởi lẽ họ là lớp người bị mất mát tất cả quyền làm người, quyền tư hữu. Những kẻ đã mất mát thì không còn gì để tham vọng cá nhân, do đó, tinh thần họ nhẹ lâng lâng và đủ can đảm khi cần phải vị tha, phải phụng sự cho một lý tưởng.

*

(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu

1. « Anh ơi ! Phải lính thì đi,

Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.

Tháng chạp là tiết trồng khoai,

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.

Tháng ba cày bở ruộng ra,

Tháng tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi.

Tháng năm gặt hái vừa rồi,

Trời đổ mưa xuống, nước trôi đầy đồng.

Anh ơi ! giữ lấy việc công,

Để em cày cấy mặc lòng em đây ».

2. « Anh đi, em ở lại nhà,

Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.

Lầm than bao quản nắng mưa,

Anh đi, anh liệu chen đua với đời ».

3. « Anh đi ghe rổi chín chèo,

Bởi anh thua bạc nên nghèo, nợ treo.

Nợ treo mặc kệ nợ treo,

Em bán bánh bèo trả nợ cho anh ».

4. « Cái cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.

Nàng về nuôi cái cùng con,

Để anh đi trẩy nước non kịp người.

Cho kịp chân ngựa, chân voi,

Cho kịp chân người kẻo thiếu việc quan ».

5. « Cái cò mà đi ăn đêm,

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.

Ông ơi, ông vớt tôi nao,

Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.

Có xáo, thì xáo nước trong,

Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con ».

6. « Canh một dọn cửa, dọn nhà,

Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.

Canh tư bước sang canh năm,

Trình anh dậy học chớ nằm làm chi.

Nữa mai chúa mở khoa thi,

Bảng vàng rỡ rỡ kia đề tên anh ».

7. « Có con phải khổ vì con,

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng ».

8. « Có con phải khổ vì con,

Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay ».

9. « Có chồng chẳng được đi đâu,

Có con chẳng được đứng lâu một giờ ».

10. « Chàng ơi ! trầy sớm hay trưa ?

Để em gánh gạo tiễn đưa hành trình.

- Thương nàng đã đến tháng sinh,

Ăn ở một mình, trông cậy vào ai ?

Rồi khi sinh gái, sinh trai,

Sớm khuya mưa nắng, lấy ai bạn cùng.

- Sinh gái, thì em gả chồng,

Sinh trai, lấy vợ mặc lòng thiếp lo ».

11. « Chàng đi đưa gói thiếp mang,

Đưa gươm thiếp vác cho chàng đi không ».

12. « Chim quyên xuống suối tha mồi,

Thấy em lao khổ, anh ngồi không yên ? »

13. « Đôi bên bác mẹ cùng già,

Lấy anh hay chữ để mà cậy trông.

Mùa hè cho chí mùa đông,

Mùa nào thức ấy cho chồng ra đi.

Hết gạo thiếp lại gánh đi,

Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao ?

Hỏi thăm đến ngõ thì vào,

Tay đặt gánh xuống miệng chào : Thưa anh ! »

14. « Đốt than nướng cá cho vàng,

Đem tiền mua rượu cho chàng uống chơi.

Phòng khi có khách đến nơi,

Cơm ăn, rượu uống cho vui lòng chàng ».

15. « Gió đưa buồm hạnh rảnh rang,

Tiếng nhơ thiếp chịu, để chàng danh thơm ».

16. « Kìa ai tiếng khóc nỉ non,

Ấy vợ lính mới trèo hòn Cù-Mông.

Công tôi gánh gánh gồng gồng,

Trở ra theo chồng bảy bị còn ba ».

17. « Kỳ này em sắp buôn bè,

Thấy anh áo rách, trở về buôn bông ».

18. « Khuyên anh đi lính cho ngoan,

Cho dân được cậy, cho quan được nhờ.

Bao giờ nên đội, nên cơ,

Thì em sẽ quyết đợi chờ cùng anh ».

19. « Lính vua, lính chúa, lình làng,

Nhà vua bắt lính cho chàng phải ra.

Giá vua bắt lính đàn bà,

Để em đi đỡ anh và bốn năm.

Bởi vua bắt lính đàn ông,

Tiền nong gạo bị sắm trong nhà này ».

20. « Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể.

Con nuôi mẹ, con kể từng ngày ».

21. « Một ngày ba bận trèo non,

Lấy gì mà đẹp mà dòn hỡi anh !

Một ngày ba bận trèo đèo,

Vì ai vú xếch lưng eo hỡi chàng ! »

22. « Tấm gương sáng tỏ ngàn thu,

Đảm đương nợ nước đền bù cho xong ».

b) Những câu ca dao có địa phương tính

Ở các mục trước chúng ta đã xác định tình cảm con người bao giờ cũng bắt nguồn từ ngoại cảnh. Ngoại cảnh đi vào tâm tư con người di lưu ở đấy những dấu vết của sinh hoạt ; ngược lại, tâm tư con người cũng đem dấu vết của sinh hoạt gắn vào ngoại cảnh để ngoại cảnh và tâm tư cùng diễn biến theo một dòng lịch sử thời gian.

Như thế, tâm tư và ngoại cảnh chẳng khác nào như bóng với hình. Trong văn chương bác học, nhiều văn thi sĩ thường mượn cảnh vật để diễn đạt tình cảm con người chính là họ đã khai thác yếu tố tương quan giữa hai lãnh vực ấy. Trong thi ca bình dân chúng ta cũng thấy bàng bạc những câu hát ghi dấu vết địa phương. Ví dụ :

« Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Thiên-Mụ, canh gà Thọ-Xương »17

Một tiếng chuông ngân, một tiếng gà gáy, một làn gió thoảng nơi Thiên-Mụ, Thọ-Xương, chính là những trạng thái làm lay động cảm tình của người dân sống miền ấy, để họ phải bâng khuâng cảm giác khi được nhắc đến.

Chúng ta làm sao tách rời tình cảm con người với mọi dấu vết địa phương. Tình quê hương, dân tộc không đến với con người bằng ý nghĩ, mà bằng những cảm mến chồng chất trong tâm hồn qua những dấu vết địa phương. Đã không tách rời được sự gắn bó ấy thì chúng ta cũng không thể bảo nhà thơ, nhà văn hay « tư tưởng hóa » sự vật.

Sự vật gợi cho lòng người tình cảm, thì tình cảm của lòng người cũng vì sự tương quan ấy mà gởi vào sự vật.

Người bình dân thời xưa không là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, và cũng không là những kẻ mơ mộng đón gió say trăng, nhưng yếu tố tình cảm và sự vật đã đặt họ trước lãnh vực tương quan, khiến tâm hồn họ không thể đem tình cảm đặt ra ngoài cảnh vật được. Ví dụ :

« Nhà-Bè nước chảy chia hai,

Ai về Gia-Định, Đồng-Nai thì về ».

Ngả rẽ của hai dòng sông biểu hiện cuộc phân ly. Cảnh vật ấy đối với người dân địa phương không thể không gợi cảm khi lòng họ, khi cuộc sống họ, đang đứng trước niềm chia cách.

Tất cả cảnh vật của mỗi địa phương đều mang vết tích của tâm tư con người, và chính những vết tích ấy trở thành lịch sử văn học của họ.

Chúng ta thử nghe họ hát :

« Đèn nào cao bằng đèn Châu-Đốc,

Dốc nào cao bằng dốc Nam-Vang.

Một tiếng anh than hai hàng lụy nhỏ,

Có một mẹ già biết bỏ ai nuôi ».

Tại sao họ phải đem những tên Châu-Đốc, Nam-Vang ra để gắn vào đấy niềm đau khổ của mình ? Đó chính là tính chất căn bản của người bình dân. Cảnh vật không đến với tâm tư người bình dân bằng mơ tưởng, mà bằng thực trạng trước nhãn giới. Người dân chỉ cảm mến những cảnh vật của địa phương mình, bởi chính cảnh vật ấy là hình bóng chia sẻ những vui buồn hàng ngày của họ.

Tâm trạng ấy đã làm cho ca dao bình dân nổi bật tính chất địa phương mà ngày nay chúng ta gọi là địa phương tính.

Địa phương tính chúng tôi muốn nói ở đây không phải hạn hẹp trong những câu ca dao có ghi lại một vài danh từ địa phương mà bao hàm tất cả những lề lối sinh hoạt, những cảm nghĩ do cảnh vật từng miền kết thành. Tuy nhiên, dù phải hiểu với nghĩa nào, nguồn gốc vẫn là do sự hòa hợp giữa cảnh vật và tình cảm mỗi nơi mà ra cả.

Đây, chúng ta thử diễn qua vài tâm tư của họ được khắc ghi vào từng miền :

- « Chiều chiều mây phủ Ải-Vân,

Chim kêu gành đá, gẫm thân thêm buồn ».

- « Đi bộ thì khiếp Ải-Vân,

Đi thủy thì khiếp sóng thần hang Dơi ».

- « Đông-Ba, Gia-hội hai cầu,

Có chùa Diệu-Đế bốn lầu hai chuông ».

- « Trai Cầu-Vồng, Yên-Thế

Gái Nội-Duệ, Cầu-Lim ».

- « Đồng-Đăng có phố Kỳ-Lừa,

Có nàng Tô-Thị, có chùa Tam-Thanh.

Anh về Bình-Định chi lâu,

Chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng.

Hai hàng nước mắt rưng rưng,

Chàng xa thiếp cách, giậm chưn kêu trời ».

Sự khắc ghi tâm tư vào hình ảnh địa phương chính là niềm cảm mến của người dân đối với hình ảnh qua cuộc sống hàng ngày của họ.

Tình yêu quê hương phát xuất từ đấy. Chỉ có người bình dân mới bộc lộ lòng yêu quê hương của họ một cách mạnh mẽ.

Đến đây chúng ta cần phải phân tích một ít khác biệt giữa thi ca bác học và thi ca bình dân về tính chất tình cảm và cảnh vật.

Đối với nguồn thi ca nào, cảnh vật và tình cảm cũng vẫn gắn liền nhau. Thi ca bác học mượn cảnh để tả tình, đem tình cảm hòa với cảnh vật. Thi ca bình dân cũng mượn cảnh lưu tình, và cũng gởi gắm tâm tư vào cảnh vật, tuy nhiên hai trạng thái không giống nhau.

Nếu ở thi ca bình dân, chúng ta thấy người dân quê chỉ gởi gắm tình cảm mình vào cảnh vật hiện hữu của họ đang sống, thì ở thi ca bác học, thi nhân hay gởi gắm tâm hồn trong cảnh vật do họ tưởng tượng mà không cần chỉ định một cảnh vật nào hiện hữu cả.

Ví dụ, thi ca bác học khi muốn đem tâm tình diễn đạt qua một khóm cây, một cụm liễu, hoặc một đỉnh núi thì khóm cây, cụm liễu, đỉnh núi ấy không cần định rõ nơi nào, miễn là những hình bóng ấy có thể trang trải được nơi vui buồn của mình. Mặt khác, hình bóng ấy có thể là những hình bóng ráp nối, chỉ quan trọng ở tính chất biến động mà không quan trọng ở tính chất sinh hoạt. Nói cách khác, tác giả thi ca bác học xem cảnh vật như của chung của tâm giới, biến cảnh vật thành sản phẩm của tâm tư, vì vậy nhiều nhà phê bình duy vật cho là mơ mộng, ào tưởng, thiếu thực tế.

Thi ca bình dân trái lại, mỗi hình bóng của họ nói lên đều là những hình bóng xuất hiện từ hiện tại trong sinh hoạt hàng ngày của họ.

Ví dụ, khi họ nói đến bụi chuối, buồng cau, lũy tre, thì bụi chuối, buồng cau, lũy tre ấy phải là những vật có thật và gần gũi hàng ngày trong cuộc sống của họ.

Vì tính chất khác biệt như vậy nên thi ca bình dân không dùng những ảo tượng để diễn tả, trong lúc thi ca bác học từ chỗ ảo ảnh đi dần đến siêu thực, và chúng ta thấy thi ca bác học càng đi vào siêu thực càng xa rời cuộc sống thực tại. Cảnh vật cảm kích họ chỉ là những ảo ảnh trong tâm giới.

Bởi vậy, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy thi ca bác học không chứa đựng một chút địa phương tính nào, còn thi ca bình dân lại đi từ thực tại của cuộc sống chung đến thực tại của cuộc sống riêng từng địa phương, mà không bao giờ tách ra khỏi trạng thái sinh hoạt hàng ngày của họ. Ví dụ khi họ nói :

« Gió đưa bụi chuối te tàu,

Chàng Nam thiếp Bắc, làm giàu ai ăn ? »

Hình bóng của bụi chuối te tàu là hình bóng của thôn quê, nước Việt-Nam đâu đâu cũng có. Tuy hình bóng chung nhưng không vì cái chung ấy mà bỏ mất tính chất riêng của thôn quê, làng mạc vốn là hình bóng quen thuộc trong sinh hoạt hàng ngày của họ. Và khi họ nói :

« Học trò trong Quảng ra thi,

Thấy cô gái Huế, chân đi không đành ».

Tình cảm đã minh định riêng cho hai xứ Quảng và xứ Huế. Chỉ có người xứ Quảng và xứ Huế mới thấy được tâm tư của họ. Song tính chất riêng ấy cũng phát xuất từ sinh hoạt của mỗi địa phương không vì cái riêng ấy mà đứng tra ngoài thực trạng sinh hoạt xã hội.

Cho nên, đối với người bình dân, tâm tư và cảnh vật là sản phẩm của sinh hoạt xã hội, không tách rời ngoài cuộc sống. Và cũng chính vì thế mà tình quê hương đối với họ là nguồn gốc cảm tình, nguồn sống của muôn đời.

Sự gắn bó ấy đã biểu hiện đầy dẫy trong ca dao mà thời gian, không gian đã kết thành cho họ những nét lịch sử dân tộc.

Tóm lại, tâm tư và cảnh vật là hai yếu tố giao cảm giữa con người và lẽ sống. Người bình dân đã dùng yếu tố giao cảm ấy để đúc kết thành tình yêu quê hương.

*

(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu

1. « Ai về Vồng-dứa qua truông,

Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em ».

2. « Ai về Đông-Tĩnh, Huê-Cầu,

Để thương, để nhớ, để sầu cho ai.

Để sầu cho khách vãng lai,

Để thương, để nhớ cho ai chịu sầu ».

3. « Ai về chợ Vạn thì về,

Chợ Vạn có nghề đặt rượu, nuôi heo ».

4. « Ai về Bình-Định mà coi,

Đàn bà cũng biết đánh roi, đi quyền ».

5. « Ai lên Đông-Tĩnh, Huê-Cầu,

Đông-Tĩnh bán thuốc, Huê-cầu nhuộm thâm ».

Dù ai đi chợ Thanh-Lâm,

Mua anh một áo vải thâm hạt dền.

6. « Ai mang tôi đến chốn này,

Bên kia Cốc-Lếu, bên này Lào-Cai ».

7. « Ai về Hà-Thủy xứ Duồng,

Cho tôi nhắn gởi một nguồn thơ duyên.

Thơ rằng tôi nhớ bạn hiền,

Nhưng buồn vì nỗi hai miền cách xa ».

8. « Anh là con trai Nam-Sang,

Nước lớn ngang đàng, vác đấu đi đong.

Anh đong tỉnh Bắc, tỉnh Đông,

Trở về, anh lại sang đong tỉnh Đoài.

Tỉnh Bắc, giá thóc mười hai,

Tỉnh Đông mười tám, tỉnh Đoài hai mươi ».

9. « Anh về Bình-Định thăm cha,

Phú-yên thăm mẹ, Khánh-hòa thăm em ».

10. « Anh về Bình-Định chi lâu,

Chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng.

Hai hàng nước mắt rưng rưng,

Chàng xa thiếp cách giậm chưn kêu trời ».

11. « Anh về Bình-Định chi lâu,

Bỏ em ở lại hái dâu một mình ».

12. « Bạc-Liêu là chợ quê mùa,

Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều-Châu ».

13. « Bảng treo tại chợ Mỹ-Lồng,

Chữ đề tên bậu : không chồng có con ».

14. « Bao giờ Nhân-Lý có đình,

Trạm-Chay có chợ, Ngọc-Đình có vua ».

15. « Bao giờ cạn lạch Đồng-Nai,

Nát chùa Thiên-Mụ mới sai lời nguyền ».

16. « Bắp nào to bằng bắp Hồng-Ngự,

Cá nào bự bằng cá cờ đen ».

17. « Bắp non mà nướng lửa lò,

Đố ai ve được con đò Thủ-Thiêm ».

18. « Bến Hà-Thủy ghe thuyền không đậu,

Bến Song-Thanh chẳng có chiếc nào.

Làng Hà-Thủy có nhiều người đến,

Làng Song-Thanh chẳng mến được ai ».

19. « Bồng em mà bỏ vô nôi,

Cha mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.

Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,

Mua cau Bất-Nhị, mua trầu Hội-An ».

20. « Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy,

Vui thì vui vậy, chẳng tày Giả-la ».

21. « Bưởi Đại-Trà, cam Đồng-Vụ,

Gà Văn-Cú, vú Đồ-Sơn ».

22. « Cầm như bác mẹ chẳng sinh,

Thì em ra ở Vạn-Ninh cho rồi ».

23. « Cầu Mông bước tới Cầu Châu,

Bước sang Cầu Sỷ, gặp nhau Cầu Dừa.

Em ôi, em có chồng chưa ?

Sông còn có rạch, lọ là người ru ? »

24. « Con cò bay lả bay la,

Bay ra cửa bể, bay về Đồng-Đăng.

Đồng-Đăng có phố Kỳ-Lừa,

Có nàng Tô-Thị, có chùa Tam-Thanh.

Ai lên xứ Lạng cùng anh,

Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em

Tay cầm bầu rượu nắm nem,

Mảng vui quên hết lời em dặn dò ».

25. « Cô kia thắt cái lưng xanh,

Có về Nam-Định với anh thì về.

Nam-Định có cây bồ đề,

Có giếng tắm mát, cô về mà chơi ».

26. « Củ lang Đống-Ngỗ,

Đỗ-Phụng Đồng-Đinh.

Chàng bòn, thiếp mót,

Để chung một gùi ».

27. « Củ lang mỏng vỏ, đỏ da,

Ai về Long-Phụng theo ta thì về ».

28. « Cha đời con gái xứ Đông,

Ăn trộm tiền chồng mua khố cho trai.

Cha đời con gái xứ Đoài,

Ăn trộm tiền mẹ mua khoai cho chồng ».

29. « Chàng về Vạn-Hoạch chàng ơi !

Con thơ bỏ đói, ai nuôi cho chàng ? »

30. « Chàng về Hồ, thiếp cũng về Hồ,

Chàng về Hồ-Hán, thiếp về Hồ-Tây ».

31. « Chẳng thơm cũng thể hương tàn,

Chẳng ngọt cũng thể nước sông Hàn chảy ra.

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,

Chẳng lịch cũng thể con người thượng Kinh ».

32. « Chẳng vui cũng thể Hội-Thầy,

Chẳng trong cũng thể Hồ-Tây xứ Đoài.

Rửa chân đi hán, đi hài,

Rửa chân đi đất, chớ hoài rửa chân ».

33. « Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi,

Giậm ra ván nát thuyền thì long đanh.

Đôi ta lên thác, xuống ghềnh,

Em ra đứng mũi để anh chịu sào.

Sông Bờ, sông Mã, sông Thao,

Ba ngọn sông ấy đổ vào sông Gâm ».

34. « Chẳng đi nhớ cháo làng Ghề,

Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông-Viên ».

35. « Chẳng vui cũng thể hội Thầy,

Chẳng lịch cũng thể Hồ-Tây xứ Đoài ».

36. « Chè ông Long nấu nước ấm đồng,

Đổ vô bình tích thủy đãi đằng lang quân ».

37. « Chẻ tre bện sáo cho dầy,

Ngăn ngang sông Mỹ (Mỹ-Tho), có ngày gặp nhau.

Hỏi cô thắt cái lưng xanh,

Có về Nam-Định với anh thì về ».

38. « Chèo ghe xuống Vạn múc dầu,

Hỏi thăm cô Bốn nhức đầu khá chưa ? »

39. « Chị hươu đi chợ Đồng-Nai,

Đi qua Bến-Nghé mồm nhai thịt bò ».

40. « Chiều chiều ra chợ Đông-Ba,

Ngó về hàng bột, trông ra hàng đường.

Nhìn mai, ngắm liễu, xem hường,

Cô nào đẹp nhất xin nhường cho tôi ».

41. « Chim bay, bay thấp bay cao,

Bay ngang Cửa Phụ, bay vào Cửa Dinh.

Chợ Dinh năm bảy mười người,

Chị Chín đi trước, chị Mười đi sau ».

42. « Dòng Song-Thanh nước trong lại mát,

Mái tóc thề thơm ngát hương hoa ».

43. « Dù em buôn chỉ, bán tơ,

Buôn ngọn sông Bờ, bán ngọn sông Thao.

Nước sông Thao biết bao giờ cạn,

Núi Ba-Vì biết vạn nào cây.

Nào nhà anh Tú đâu đây ? »

44. « Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần,

Nước mắm Vạn-Vân, cá rô Đầm-Sét ».

45. « Đem quân ra đóng Cửa-Hùng,

Chim muôn giọng hót, hoa ngàn hương đưa ».

46. « Đèn nào cao bằng đèn Châu-Đốc,

Ngọn gió nào độc bằng ngọn gió Gò-Công.

Thổi ngọn Đông-Phong lạc vợ xa chồng,

Đêm nằm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi ».

47. « Đèo nào cao cho bằng đèo Eo-Gió,

Bộ nào rộng cho bằng bộ An-Ba ».

48. « Đền Sùng linh nhất xứ Thanh,

Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây ».

49. « Đến ngày mồng sáu tháng ba,

Ăn cơm với cà, đi hội chùa Tây ».

50. « Đi ngang lên mũi Xa-Kỳ,

Ngó ra lao Ré xiết chi nỗi sầu.

Kể sao cho xiết thương âu,

Ông bà ta trước bây giờ ở đây.

Cũng vì mưa tạt gió này,

Cho nên xiêu bạt chỗ này, chỗ kia.

Thân ta như cá trong đìa,

Việc quan chưa thấu sớm khuya cũng buồn ».

51. « Đi bộ thời khiếp Ải-Vân,

Đi thuyền thì khiếp sóng Thần hang Dơi ».

52. « Đố anh con rít mấy chưn,

Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người ?

Mấy người bán áo con trai,

Chợ trong bán chỉ chợ ngoài bán kim ».

53. « Đố ai tát bể Đông-Khê,

Tát sông Bồ-Đề, nhổ mạ cấy chiêm ».

54. « Đồn rằng thợ mộc Thanh-Hoa,

Làm cửa, làm nhà, cầu quán khéo thay.

Cắt kèo lại lựa đòn tay,

Bào trơn, đóng bén, khéo thay mọi nghề.

Bốn cửa anh chạm bốn dê,

Bốn con dê đực chầu về Tổ tông.

Bốn cửa anh chạm bốn rồng,

Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo.

Bốn cửa anh chạm bốn mèo,

Con thì bắt chuột, con leo xà nhà.

Bốn cửa anh chạm bốn hoa,

Trên thì hoa sói, dưới thì hoa sen.

Bốn cửa anh chạm bốn đèn,

Trên thì đèn đốt, dưới thì đèn chong.

Bốn cửa anh chạm bốn cong,

Hai cong kín nước, hai cong để dành ».

55. « Đồn rằng kẻ Lạng vui thay,

Đi ba bốn ngày kể đã lắm công.

Bên dưới có sông, bên trên có chợ.

Anh lấy em về làm vợ nên chăng ?

Tre già để gốc mọc măng.

Chồng chài, vợ lưới, con câu,

Sống nhờ bọt nước lấy đâu mà giàu ».

56. « Đồn rằng kẻ Trọng lắm cau,

Kẻ Cát lắm lúa, kẻ Mau lắm tiền ».

57. « Đồn rằng ngoài tỉnh Hưng-Yên,

Có cô con gái trái nhân duyên cô lỡ chồng.

Trống cơm ai khéo vỗ nên vông,

Một đàn con vịt lặn sông đi tìm.

Rạng ngày mai con mắt lim dim,

Chân đi thất thểu như chim tha mồi ».

58. « Đông-Ba, Gia-Hội, hai cầu,

Có chùa Diệu-Đế bốn lầu hai chuông ».

59. « Đồng-Tháp-Mười cò bay thẳng cánh,

Nước Tháp-Mười lóng lánh cá tôm ».

60. « Đứng hòn Chồng trông sang hòn Yến,

Lên Tháp-Bà, về viếng Sinh-Trung.

Giang sơn cẩm tú chập chùng,

Vì ai sông Nhị núi Nùng phân ly ».

61. « Đứng bên Hàng ngó qua Hà-Thanh xanh như tàu lá.

Đứng bên Hà-Thanh ngó qua Hàng, phố xá nghênh ngang.

Kể từ ngày ta lấy lại đất Hàng,

Mở mang hải cảng đắp đàng Bồng-Miêu.

Dặn lòng em bậu đừng xiêu,

Ở nhà nuôi thầy với mẹ chớ hiện yêu đi lấy chồng ».

62. « Đường lên xứ Lạng bao xa,

Cách một cái núi với ba quãng đồng.

Ai ơi đứng lại mà trông,

Kìa núi Thành-Lạng, kìa sông Tam-Cờ.

Anh chớ thấy em lắm bạn mà ngờ,

Bụng em vẫn trắng như tờ giấy phong ».

63. « Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,

Đường ra Hà-Nội như tranh vẽ rồng.

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,

Non xanh nước biếc, như tranh họa đồ.

Ai vô xứ Nghệ thì vô ».

64. « Đường Sài-Gòn cây cao bóng mát,

Đường Chợ-Lớn hột cát nhỏ dễ đi ».

65. « Em là con gái Phủ-Từ,

Lộn chồng trả của theo sư chùa Viềng.

Đói ăn thịt chó nấu riềng,

Bán rao mảnh bát lấy tiền nộp cheo ».

66. « Em ơi ! Chị bảo em này :

Nhất mặn là muối, nhất cay là gừng.

Nhất cao là núi Tam-Từng,

Chị còn đạp đổ nữa rừng cỏ may.

Nhất đẹp là núi Sơn-Tây,

Chị còn chẳng tiếc, nữa dây bìm bìm ».

67. « Gái này là gái chả vừa,

Gái bán vải lớn, gái lừa vải con.

Gái này là gái chả non,

Gái lường Chợ Quán, gái buôn Chợ Cầu ».

68. « Gặp nhau từ bến Phú-Nhi,

Chẳng đi thì nhớ, đi thì uổng công.

Gặp nhau từ bến Đại-Đồng,

Quên nhau hay đã có chồng mà quên ».

69. « Giàu sang bên Ngô, bên Lào,

Hùm tha rắn cắn ai mà cậy trông ».

70. « Gió đưa mười tám lá xoài,

Lấy chồng Bình-Định cho dài đường đi ».

71. « Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Trấn-Võ, canh gà Thọ-Xương ».

72. « Hà Nội ba sáu phố phường,

Hàng mật, hàng đường, hàng muối trắng xoa.

Thứ nhất là hội hàng hoa,

Thứ nhì hàng mả, thứ ba hàng vàng ».

73. « Hải-phòng là chốn hữu tình,

Thuyền buôn, thuyền bán rập rình bờ sông ».

74. « Hải-Vân bát ngát nghìn trùng,

Hòn-Hồng ở đấy là trong Vịnh-Hàn.

Xưa nay qua đấy còn truyền,

Lối đi lô giản thẳng miền ra khơi ».

75. « Hỡi cô thắt lưng bao xanh !

Có về An-Phú với anh thì về ?

An-Phú có ruộng tứ bề,

Có ao tắm mát, có nghề kẹo nha ».

76. « Kẻ-Dàu có quán Đình-Thanh,

Kẻ-Hạc ta có Ba-Đình, Ba-Voi.

Mười tám kéo thuyền xuống bơi

Mười chín giã bánh, hai mươi rước Thần ».

77. « Khen cho Phù-Mỹ có tài,

Nấu cơm chén gạo nồi hai cũng đầy.

Anh về dưới Vạn ăn dưa,

Về chi bên Chụt ăn dừa mỏi răng ».

78. « Khen ai khéo họa địa đồ,

Trước sông Nhị-Thủy, sau hồ Hoàn-Gươm ».

79. « Làm trai lấy vợ Sơn-Đông,

Thịt xôi chẳng có, tiền chồng như non ».

80. « Làng Hà-Thủy có cầu cao quá,

Xe đã về nhưng không thể qua.

Làng Hà-Thủy ở kề Phan-Rí

Ai có về nhớ ghé qua chơi ».

81. « Lẳng lơ chả một mình tôi,

Thanh-Lâm, Đông-Sớm cũng đôi ba người,

Nói ra sợ chị em cười,

Lấy chồng tháng chín, tháng mười có con ».

82. « Lòng thương con gái bên Chùa.

Khéo may đãy gấm, khéo thùa bông dâu ».

83. « Lụa này là lụa khổ đôi,

Chính tông lụa Cống các cô ưa dùng ».

84. « Miền Nam vui sống thanh bình.

Đồng quê tươi đẹp dân tình ấm no.

Chợ Sài-gòn đèn xanh đèn đỏ,

Anh coi không rõ, anh ngỡ đèn tàu ».

85. « Mình về đường ấy thời xa,

Có về Tổng-Mễ với ta cho gần.

Tổng Mễ có ao rửa chân,

Có sông tắm mát, có đình nghỉ ngơi.

Tháng tám thì đi xem bơi,

Tháng hai xem rước, mình ơi hỡi mình ! »

86. « Mình về đường ấy thì xa,

Để anh bắc cầu sông Cái về qua Ninh-Bình.

Đất Ninh-Bình có chùa Non-Nước,

Núi Phi-Diên, Hồi-hạc chung quanh.

Em về em chớ quên anh ! »

87. « Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,

Mua cau Nam-Phổ, mua trầu chợ Dinh ».

88. « Muốn ăn bông súng mắm kho,

Thì vô Đồng-Tháp ăn no đã thèm ».

89. « Muốn ăn bánh ếch lá gai,

Lấy chồng Bình-Định sợ dài đường đi ».

90. « Muốn ăn cơm trắng nước trong,

Em lên Phố-Cát, Đại-Đồng cùng anh.

Ai lên Phố-Cát, Đại-Đồng,

Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa ?

- Có chồng năm ngoái năm xưa,

Năm nay chồng để nên chưa có chồng ».

91. « Nam-Vang đi dễ khó về,

Trai đi có vợ, gái về có con ».

92. « Nàng về cửa Hữu bán cau,

Muốn xin chút vú sợ đau lòng nàng ».

93. « Nàng về giã gạo ba trăng,

Để anh gánh nước Cao-Bằng về ngâm.

Nước Cao-Bằng ngâm thì trắng gạo,

Anh biết em có liệu được chăng ?

Trần trần như Cuội cung trăng,

Biết rằng cha mẹ có bằng lòng không.

Để anh chờ đợi luống công ».

94. « Nồi đồng lại úp vung đồng,

Con gái xứ Bắc lấy chồng Đồng-Nai ».

95. « Núi Đọi ai đắp nên cao,

Ngã ba sông Lãnh ai đào mà sâu ».

96. « Núi Đội ai đắp mà cao,

Ngã ba sông Gối ai đào nên sâu.

Dù ai buôn đâu, bán đâu,

Làm sao cho khỏi cầu Châu thì làm ».

(Hà-Nam)

97. « Núi Ngự-Bình trước tròn, sau méo,

Sông An-Cựu nắng đục, mưa trong.

Em đây vốn thiệt chưa chồng,

Núi cao sông rộng biết gởi lòng cùng ai ? »

98. « Nước ròng chảy đến Tam-Giang,

Sầu-đâu chín rụng lan tràn khắp nơi ».

99. « Người đẹp như tiên,

Tắm nước Đông-Triều cũng xấu như ma.

Người đẹp như ma,

Tắm nước Đông-Trà cũng đẹp như tiên ».

100. « Ngó lên hòn Thám cánh tiên,

Cảm thương quan hậu thủ thiềng ba năm ».

101. « Ngó ra Phú-Quốc, ngó lại Côn-Nôn,

Gió rao rao, sóng bủa hết hồn,

Bền gan sắt đá, trừ phường tà gian ».

102. « Nhà-Bè nước chảy chia hai,

Ai về Gia-Định, Đồng-Nai thì về ».

103. « Nhất cao là núi Ba-Vì,

Thứ ba Tam-Đảo, thứ nhì Độc-Tôn ».

104. « Nhất trong là nước giếng Hồi

Nhất béo, nhất bùi là cá rô câu ».

105. « Nhất cao là núi Tản-Viên,

Nhất sâu là vũng Thủy-Tiên cửa Vường ».

106. « Nhất cao là núi Tản-Viên.

Nhất lịch, nhất sắc là tiên trên đời.

Cố nhân tìm cố nhân chơi,

Sao cố nhân chẳng nhớ lời cố nhân ».

107. « Nhất cao là núi Tản-Viên.

Thanh nhàn vô sự là tiên trên đời ».

108. « Những người lữ khữ lừ khừ,

Chẳng ở Đại-Từ thì ở Vũ-Nhai,

Những người lải nhải lai nhai,

Chẳng ở Vũ-Nhai thì ở Đại-Từ ».

109« Ở nhà thì sợ cái nghèo,

Ra đi thì sợ cái đèo Cù-Mông ».

110. « Ở nhà thì sợ bạn trông,

Ra đi thì sợ giốc Ông, giốc Dài ».

111. « Quảng-Nam hay cãi,

Quảng-Ngãi hay co,

Bình-Định hay lo,

Thừa-Thiên ních hết ».

112. « Quê mùa ở chốn Đồng-Chim,

Lấy dao cắt cỏ, lấy liềm bửa cau ».

113. « Ru em cho thét (ngủ) cho mùi,

Để mẹ đi Truồi (Huế) mua bánh em ăn ».

114. « Ru em cho thét cho mùi,

Cho mẹ đi chợ mua vôi têm trầu,

Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,

Mua cau Nam phố, mua trầu chợ Rinh ».

115. « Rủ nhau mua tép Trà-Ô,

Sẵn bờ cát trắng phơi khô đem về.

Anh đi Tam-Tượng hái chè,

Bỏ cây ớt chín sau hè chim ăn.

Anh về giơ gỗ Hà ra,

Cất nhà Lẫm thượng tháng ba em về.

Anh về Bồ-Địch giếng Vuông,

No cơm ấm chiếu luông tuồng bỏ em.

Em về Bồ-Địch giếng Vuông.

Sáo treo bốn bức em buồn nỗi chi ? »

116. « Song-Thanh nước chảy đôi dòng,

Em đã có chồng, anh chớ vội thương.

Trèo lên Đèo-Cả, ngó xuống thấy Vạn-Giả, Tu-Bông,

Không biết nhà phụ mẫu đành không,

Anh chờ, em đợi uổng công hai đàng ».

117. « Song-Thanh buồn lắm ai ơi !

Đừng về nơi ấy mà đời dở dang ».

118. « Song-Thanh nước chảy lờ đờ,

Con đi lấy chồng, mẹ biết nhờ ai ? »

119. « Song-Thanh có sắc, có màu,

Có người em gái têm trầu đợi anh ».

120. « Song-Thanh nước chảy chia đôi,

Ai về Phan-Rí cùng tôi thì về.

Song-Thanh gió cuốn bụi mờ,

Dáng ai đứng chờ như dáng em tôi ».

121. « Song-Thanh có núi, có đồi,

Có người đứng đợi mồ hôi ướt đầm ».

122. « Song-Thanh ơi hỡi Song-Thanh,

Sao mi nỡ đành ngăn cách đôi ta ? »

123. « Sông Lô một giải trong ngần,

Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên ».

124. « Sông Lô nước đục, người đen,

Ai lên Phố Én cũng quên đường về ».

125. « Sông Thương nước chảy đôi dòng,

Trai quên vợ, gái quên chồng thì lên ».

126. « Sông Ngâu, sông Cả, sông Đào,

Ba con sông ấy đổ vào sông Thương.

Con sông sâu nước dọc đò ngang,

Mình về bên ấy, ta sang bên này.

Đương cơn nước lớn đò đầy ».

127. « Sơn-Bình, chợ Lối chẳng xa,

Cách một cái quán với ba quãng đồng.

Chẳng tin đứng lại mà trông,

Bên tây có miếu, bên đông có chùa.

Ở trong lại có đình thờ,

Em còn kén chọn bán mua chốn nào ».

128. « Ta về ta dựng mây lên,

Trời xe mây lại một bên hòn Lèn ».

129. « Tiếng ai than khóc nỉ non,

Hay vợ chú lính trèo hòn Cù-Mông ? »

130. « Tiếng ai như tiếng xứ Đoài,

Ăn gạo thì ít, ăn khoai thì nhiều ».

131. « Thành Thăng-Long năm cửa mà thôi,

Sông Lục-đầu sáu khúc nước xuôi một dòng ».

132. « Thuyền ai dù ngược dù xuôi,

Có về Nam-Định cho tôi về nhờ,

- Sao cô ăn nói ỡm ờ ?

Thuyền anh chật chội còn nhờ làm sao.

Miệng nói tay anh bẻ lái vào,

- Rửa chân cho sạch bước vào trong khoang.

Thuyền dọc, anh trải chiếu ngang,

Anh thời nằm giữa, hai nàng đôi bên ».

133. « Thứ nhất thì bầu Chi-Lăng,

Thứ hai cây khế Đồng-Đăng, Kỳ-Lừa.

Đồng-Đăng có phố Kỳ-Lừa,

Có nàng Tô-Thị, có chùa Tam-Thanh.

Ai lên xứ Lạng cùng anh,

Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.

Tay cầm bầu rượu, nắm nem,

Mãi vui quên hết lời em dặn dò.

Gánh vàng đi đổ sông Ngô,

Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Thương.

Vào chùa, thắp một nén hương,

Miệng khấn, tay vái bốn phương chùa này.

Tôi đi tìm bạn tôi đây,

Bạn thấy tôi khó, bạn nay chẳng chào.

Chắp tay vái lạy con sào,

Sông sâu chẳng biết, thấp cao chẳng từng ».

134. « Thứ nhất bà chúa Thanh-Hoa,

Thứ hai bà Bổi, thứ ba Thạch-Sùng,

Thứ tư Hà-Nội Cống-Sùng,

Thứ năm cô Đỗ giàu vùng Đông-Yên ».

135. « Thứ nhất sông Nến chảy ra,

Thứ hai ngòi Mỡ, thứ ba ngòi Dầu,

Sông Gầm chẳng thấm vào đâu,

Còn anh sông Đáy chọc đầu mà ra ».

136. « Trèo lên trái núi Giải-Oan,

Tay nâng chén trắng múc làn nước trong,

Đàng xa xin chớ ngại ngùng,

Trèo non, xuống dốc ta cùng đỡ nhau ».

137. « Trèo lên cái núi Thiên-Thai,

Gặp hai con phượng ăn xoài trên cây.

Đôi ta được gặp nhau đây,

Khác gì chim phượng gặp cây ngô đồng ».

138. « Trên trời có một ông sao,

Chốn quang chẳng mọc, mọc vào đám mây.

Nước Hồ-Tây biết bao giờ cạn,

Nhị vườn đào biết vạn nào hoa.

Đưa nhau một quãng đường xa,

Hỏi thăm anh tú có nhà Cửa-Nam ».

139. « Xay lúa theo kiểu Đồng-Nai,

Cơm gạo về Ngài, tấm cám về tôi ».

140. « Xứ Nam nhất chợ Bình-bồi,

Xứ Bắc Trấn-Khám, xứ Đoài Hương-Canh ».

141. « Xứ Cần-Thơ nam thanh nữ tú,

Xứ Rạch-Giá vượn hú chim kêu ».

c) Những câu ca dao có liên quan đến sử liệu

Sử liệu là gì ?

Nó là vết tích của sự kiện diễn biến trong không gian và thời gian.

Nếu ở mục trước chúng ta đã thấy tâm tư con người khắc ghi vào không gian để đánh dấu cuộc sống của loài người từng vùng, từng nơi, thì ở mục này chúng ta lại phải xác định tâm tư con người trải qua cuộc sống chẳng những để lại những vết tích trong không gian mà còn in đậm vào thời gian nữa. Những biến chuyển của thời gian tác động vào tâm tư con người thì đó là vết tích của sử liệu.

Khác với lịch sử xã hội, lịch sử văn học không ghi nhận sự diễn biến của thời gian bằng trạng thái khách quan, mà bằng trạng thái biến động trong tâm tư con người qua mọi biến chuyển của lịch sử xã hội. Vì vậy, khi lịch sử xã hội đi qua để lại trong cảm giới con người những suy tư, buồn vui, thích thú, hoặc đau khổ, và con người đem những suy tư, buồn vui, thích thú, đau khổ ấy đánh dấu lại sự biến động của quãng thời gian ấy bằng ngôn từ, bằng thơ văn, thì chính họ đã để lại trong xã hội loài người những sử liệu về văn học.

Cho nên thi ca bình dân là một tài liệu văn học sử. Nói đến văn học sử dân tộc là nói đến toàn bộ thơ văn bình dân, nhưng trong mục này chúng ta chỉ trích dẫn những câu ca dao có mang tính chất sử liệu, nghĩa là gần gũi với sự biến chuyển của lịch sử xã hội để chứng minh rằng người bình dân tuy sống trong đồng ruộng lũy tre, trong nghèo nàn khổ cực, họ vẫn gắn liền tâm tư họ với mọi biến động của thời gian.

Nói đến sử liệu, xưa nay các nhà sử học thường chú trọng đến không gian và thời gian, nghĩa là tài liệu lịch sử ấy phát xuất ở thời điểm nào, địa phương nào và do hoàn cảnh nào cấu tạo. Nếu thiếu một trong các yếu tố ấy, tài liệu lịch sử không còn giá trị nữa.

Theo quan niệm trên, chúng tôi thiết nghĩ thi ca bình dân là một tài liệu văn học sử của dân tộc, phản ảnh một quá trình thời gian mà chúng ta không thể nào tìm thấy thời điểm và địa phương tính nữa. Nếu bắt buộc phải có những yếu tố trên mới thừa nhận giá trị của nó thì đương nhiên chúng ta đã vô tình đem tính chất khoa học hiện đại chối bỏ những liên hệ hiện hữu của lịch sử văn học dân tộc chúng ta.

Cái giá trị tuyệt đối của sử liệu không nhất thiết ở chỗ phải đích xác để dùng phân tích và chứng minh. Cái giá trị ấy là giá trị của khoa học. Còn giá trị của đạo học thì một lời nói, một ý nghĩ không cần phải chứng minh qua thời gian, không gian mới tìm thấy giá trị của nó.

Đem những câu ca dao có liên quan đến sử liệu để khảo sát trong mục này chúng tôi chỉ dụng ý biện minh một sắc thái của người bình dân, đó là lòng yêu quê hương dân tộc. Chính lòng yêu quê mến tộc ấy đã gắn liền tâm tư họ qua mọi diễn biến của lịch sử xã hội.

Đây, chúng ta thử xét qua những câu như :

- « Yêu em anh cũng muốn vô,

Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam-Giang.

Phá Tam-Giang ngày nay đã cạn,

Truông nhà Hồ, Nội-tán cấm nghiêm ».

- « Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ ».

Truông nhà Hồ, phá Tam-Giang là những hình bóng mang dấu tích lịch sử. Dấu tích lịch sử ấy không chỉ làm thay đổi guồng máy cai trị của xã hội đương thời mà chính nó còn đi sâu vào tâm tư người dân trong tình cảm sinh hoạt nữa. Tình cảm sinh hoạt khi đã gắn liền vào dấu vết lịch sử xã hội thì đó là tình quê hương dân tộc.

Cũng như ta đọc qua những câu như :

« Tiếng ai than khóc nỉ non,

Như vợ chú lính trèo hòn Cù-Mông ».

Hòn Cù-Mông nếu đặt ra ngoài biến chuyển của lịch sử xã hội thì nó chỉ là một ngọn đèo, một đỉnh núi chia cách giữa hai miền, nhưng khi nó trở thành dấu vết của lịch sử, nghĩa là nó ghi lại những biến cố của tâm tư người dân qua cuộc biến thiên của các chế độ, thì hòn Cù-Mông đã đi sâu vào lịch sử văn học. Tiếng khóc của vợ chú lính khi trèo hòn Cù-Mông là tiếng khóc của dân tộc, quê hương bị điêu linh trong khói lửa bạo tàn.

Những tâm tư có liên quan đến sử liệu chính là những cảm nghĩ của người dân thoát ra ngoài sinh kế thường ngày vương vấn mối ưu tư đối với tiền đồ đất nước. Những ưu tư ấy, người bình dân không chỉ ghi lại trong không gian – cảnh vật – mà còn ghi lại trong thời gian – hoàn cảnh – nữa. Nếu lịch sử xã hội là trạng thái biến chuyển của thời gia, không gian, thì lịch sử văn học là những vết tích của những trạng thái ấy.

Bởi vậy, vào thời Pháp thuộc, thực dân Pháp bại trận trong thế chiến 1914-1918, ở Việt nam có nhiều người bị bắt lính sang đánh giặc bên Tây. Sự kiện lịch sử ấy là một biến động của thời gian, và chính người dân đã gắn liền vào thời gian lịch sử ấy những dấu vết của tâm tư họ.

Chúng tôi xin trích ra đây vài đoạn trong những bài vè có liên quan đến giai đoạn lịch sử ấy để chứng minh :

« Tai nghe nhà nước mộ dân,

Những lo những sợ chín mười phần em ơi !

Anh đi mặt biển chân trời,

Ơn cha nghĩa mẹ hai nơi chưa đền.

Dầu mà ông Tây có bắt làm phên,

Nhất thắng nhì bại, không quên cái nghĩa sanh thành.

Xót thương em vò võ một mình,

Anh đi biển thẳm non xanh tứ bề.

Vai mang khẩu súng, vai giắt lưỡi lê,

Thôi thôi, em bồng con ở lại lo bề làm ăn.

Ví dầu anh có mần răng,

Nơi mô xứng gió vừa trăng em đành.

Phận chàng vạn tử nhất sanh,

Trên trời mây đen kịt, dưới nước xanh dờn dờn.

Tư bề sóng bổ như sơn,

Đau lòng xót dạ nhiều cơn lắm, bớ làng !

Trăm lạy ông Trời được chữ bình an.

Đóng lon chức Đội về làng hiển vinh,

Làm thịt con heo quí tế tại đình,

Rượu chè chàng đãi dân tình một diên.

Tay bắt, miệng lại hỏi liền,

Anh đi mấy tháng em có phiền hay không ?

Bây giờ anh bước xuống tàu đồng,

Tối tăm mờ mịt như rồng vòi mây.

Hai bên những lính cùng tây,

Quan gia kéo tới chở đầy tàu binh »

… … …

Lịch sử xã hội và lịch sử văn học chẳng khác nào như thể chất và tâm hồn. Thể chất bệnh hoạn thì tâm hồn đớn đau. Những tiếng rên than trong thi ca bình dân chính là những đau đớn của tâm hồn trước một thể chất bệnh hoạn.

Sau đây cũng là bài vè trong lịch sử bắt lính sang Pháp đánh giặc thuê trong trận Đại chiến thứ hai :

« Xuống Tòa, ông Sứ lựa được rồi,

« Mè rô » ông Sứ phát, ra ngồi anh thở than.

Vợ con châu lụy hai hàng,

Khuyên em ở lại để chàng dời chân.

Anh ra đi mỗi bước mỗi ngừng,

Châu sa, lụy nhỏ, chín mười từng ruột đau.

Thương nhau phải nhớ lời nhau,

Tri tri vàng đá trước sau một lời.

Anh ra đi mặt biển chân trời,

Chúc em ở lại một lời bình an.

Bảy giờ mai em tuốt xuống Hàn có qua,

Bạc chín chục đồng nhà nước phát ra.

Em đem về mua trâu, mua ruộng, mua nhà nuôi con.

Chúc cho hai bên cha mẹ vuông tròn,

Phận anh đây như khúc gỗ mất còn quản chi.

Biểu em dừng nước mắt lâm ly,

Làm lơ, giả dại như khi chưa chồng ».

Xem thế, chúng ta phải thừa nhận những tâm tư người dân có liên quan đến sử liệu chính là những tấm gương để soi vào thực trạng tâm giới. Muốn tìm hiểu tình cảm của con người qua một thời đại lịch sử nào không thể tách rời những phản ảnh ấy được

Cũng như ở miền Trung, vùng hay xảy ra nạn đói, những dữ kiện lịch sử ấy chỉ có tâm tư người dân mới ghi lại được tính chất đích thực của cuộc sống đương thời.

Đây, chúng ta xin trích một vài bài qua những hình bóng ấy :

« Từ ngày con bướm trắng bay vô,

Ba năm trời hạn cây khô lá vàng.

Nấu cơm hấp những cọng lang,

Chuối luộc đầy sàn, ăn chẳng biết no.

Nào ai có ruộng, có bò,

Mua mắc bán rẻ, bán cho nhà giàu.

Ba quan một cái mâm thau,

Nồi đồng quan tám, nhà giàu không mua.

Mỗi năm lo nộp thuế vua,

Lương chẩn, lương thại tới mùa thải ra.

Con nít chí liểng ông già,

Ba ngày hạt gạo đi ra nằm đường

Mười đồng một củ khoai lang,

trời làm đói khát thiếp với chàng xa nhau.

Bất nhân là quân nhà giàu,

Tôi đi ngõ trước, ngõ sau nó rào.

Chị em gặp chẳng dám chào,

Giả lơ tai điếc, mụ nào kêu chi ?

Tôi đây cũng đói mần ri,

Chị tôi chết trước, tôi thì chết sau.

Nhà giàu kêu đói như đau,

Từ nhiên lúa cũ năm sau hãy còn.

Muốn đi cưới vợ cho con,

Sợ chúng ăn hết, hoảng hồn thất kinh.

Ba năm tự miễu chí đình,

Không cúng, không quải thần linh cũng hằn.

Thợ rèn, thợ mộc đói nhăn,

Còn thầy phù thủy mất ăn xôi gà.

Cho đến mụ bóng, mụ bà,

Thầy địa, thầy thuốc nằm nhà chẳng có gì nhai.

Bĩ cực rồi lại thái lai,

Mùa lúa cũng được, mùa khoai cũng đào.

Ăn mừng hát bộ xôn xao,

Đi ra gặp mặt chị nào cũng vui… »

Cuối trào Khải Định, vào năm Tý và năm Sửu, miền Trung cũng xảy ra nạn đói suốt hai năm. Bài vè dưới đây gọi là «  Giáp-Tý » diễn tả tâm tư của người dân qua trạng thái lịch sử ấy :

« Lẳng lặng mà nghe, cái vè Giáp Tý

Cũng vì thiên ý, răn dạy người ta

Biểu đừng kiêu xa, vậy mà chịu chết.

Kể ra cho hết, khắp cả hoàn cầu,

Châu Á, châu Âu cũng đều chịu khổ.

Đông-Dương một chỗ, nay đặng bình yên,

Cờ bạc huyên thiên, ăn chơi đủ việc.

Chỗ thời hát xiếc, chỗ hát cải lương.

Kẻ coi hát trường, người coi hát thuật.

Núp nơi vắng khuất, xi láo móc gà,

Thín cẩu, công thoa, bài cào, tứ sắc.

Khắp cùng Nam Bắc, đầu đĩ ca đờn,

Sung sướng là hơn, ăn chơi bỏ học.

Mấy thằng cúp tóc, mặc áo cẩm châu,

Mấy thằng kéo xe, trừu cầu rằng đít,

Mấy đứa con nít, mặc áo thật sang,

Mấy chú đi đàng, ngồi xe làm phách.

Ăn chơi đủ cách, tưởng đặng thái bình.

Bão lụt thình lình, Phú Yên, Bình Định,

Khắp vùng tám tỉnh, mưa gió đùng đùng.

Người ta chết hung, Sông Cầu nặng nhất.

Cù-Mông núi nứt, Quảng Nam lở thành.

Nước lớn thình lình, ba ngày không rút.

Lúa khoai đều mất, giá gạo quá cao.

Lớn nhỏ lao xao, cũng đều chịu đói.

Trời làm tai quái, năm Sửu không mưa,

Hạn lớn không vừa, sanh sâu sa xuống,

Cắn hết lúa ruộng, ăn hết bắp bông,

Thật có như không, trời làm quá thắt.

Tuy trong cảnh ngặt, nạn đói còn lâu,

Cầm áo cẩm châu, đem đi mua gạo.

Cầm nồi cầm chảo, bán áo bán khăn,

Bán luôn cả chăn, mua ăn không phỉ.

Mấy con làm đĩ, mặt đói xanh dờn,

Mấy con ca đờn, đói không đi nổi,

Mấy thằng hát bội, chịu bỏ vắng trường.

Mấy chú cải lương, trốn đi đâu mất.

Kẻ thì bán đất, người lại cầm nhà,

Chạy gạo không ra, phải ăn bông cỏ.

Chơi ! Trời ghét bỏ, để đói nhăn răng.

Phải tính làm ăn, phải lo nghề nghiệp.

Không thời mạt kiếp, khó nỗi sanh tồn,

Khó mới biết khôn, đừng dồn lấy dại ».

Cũng trong phong trào kháng chiến chống Pháp, lịch sử chiến đấu đã đưa sinh hoạt người dân vào vòng tranh thủ độc lập, sự tham gia của toàn diện quần chúng ấy đã để lại những mảnh tâm tư qua dòng lịch sử biến thiên của xã hội đương thời. Ví dụ như dưới đây là một đoạn ca dao phản ảnh tâm trạng lịch sử ấy :

« Tay cầm bút viết thư cho tiền tuyến,

Nơi đây đang xao xuyến hận căm thù.

Đồn giặc khuya súng bắn vi vu,

Thù trong dạ sục sôi uất hận.

Anh ơi ! Em viết bức thư này,

Sương lam đang phủ dẫy đầy,

Xóm trên còn lửa đỏ, lũ giặc Tây đã đi lùng.

Xác cha vừa vứt ở ven rừng,

Cỏ non chưa kín, nén hương chưa tàn,

Mối thù chưa lợt trong tim gan,

Thì hôm qua giặc đã đến làng bao vây ».

Rồi cũng trong thời gian ấy, những cán bộ chính trị thường về làng xây dựng thôn ấp, giúp đỡ người dân chống giặc giữ làng. Những mối tình trai gái chớm nở trong hoàn cảnh xê dịch, khiến tâm tư người con gái cảm thấy như mình bị bỏ rơi trước hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Họ than thở :

« Ham chi súng lục, đồng hồ,

Họ về xứ họ, bỏ « ba-lô » lại mình ! » 18

*

Tóm lại, dòng lịch sử xã hội đi song song với dòng lịch sử tâm tư. Những biến cố của lịch sử tâm tư phản ảnh những biến cố của lịch sử xã hội.

Trên đây chúng ta chỉ khảo sát ở đại cương, vì không ai có thể góp nhặt hết những vết tích của tâm tư qua dòng thời gian để kết thành dòng lịch sử của tâm giới một cách trọn vẹn được. Những gì thời gian đã lưu lại cho chúng ta ngày nay chỉ là một hạt cát trong bãi cát. Tuy nhiên, chúng ta có thể kết luận rằng những tâm tư gắn liền với biến cố lịch sử bao giờ cũng biểu lộ tính chất quê hương, dân tộc.

*

(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu

1. « Ai về nhắn họ Hi, Hòa,

Nhuận năm, sao chẳng nhuận vài trống canh ».

2. « Ba năm trấn thủ lưu đồn,

Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan.

Chém tre đẵn gỗ trên ngàn,

Uống ăn kham khổ biết phàn nàn cùng ai ?

Phàn nàn cùng trúc, cùng mai.

Cùng cây lim táu, cùng cây ngô đồng.

Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng ».

3. « Bao giờ bắt được giặt Khôi,

Cho yên được nước chồng tôi được về ».

4. « Bao giờ Thạch-Mã quá giang,

Tứ-kỳ, Vĩnh-lại, nghênh ngang công hầu ».

5. « Bao giờ lấp Ngã-ba Chanh,

Để ta gánh đá xây thành Cổ-loa ».

6. « Bao giờ đồng ruộng thảnh thơi,

Nằm trâu thổi sáo vui đời Thuấn, Nghiêu.

Mừng nay có chủ Thuấn, Nghiêu

Mưa nhân gió huệ, thảy đều muôn dân.

Sông Lô một giải trong ngần,

Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên ».

7. « Bắc thang lên đến cung mây,

Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời,

Cuội nghe thấy nói, Cuội cười :

- Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây ».

8. « Bồ cu bồ các,

Tha rác lên cây.

Gió đánh lung lay,

Là vua Cao-tổ.

Những người mặt rổ

Là ông Tiêu-Hà.

Nước chảy qua đường,

Là dượng Tào-Tháo.

Đánh bạc cố áo, Là anh Trần-Bình ».

9. « Cái cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.

Nàng về nuôi cái cùng con,

Để anh đi trẩy nước non Cao-Bằng.

Chân đi, đá lại dùng dằng,

Nửa nhớ Cao-Bằng, nửa nhớ vợ con ».

10. « Con chuột mắc bẫy,

Vì gốc tre già,

Đẽo ra đòn xóc.

Chồng đi lính,

Vợ ở nhà khóc hi hi ;

« Trời ơi ! sinh giặc làm chi !

Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường ».

11. « Con ơi, con ngủ cho lành,

Mẹ đi gánh nước rửa bành ông voi.

Muốn coi lên núi mà coi,

Coi bá Quản-tượng cỡi voi bành vàng ».

12. « Con cóc là cậu ông trời,

Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho ».

13. « Chùa Hương-tích có cảnh có hang,

Sư Minh-Không xin được túi đồng về xây ».

14. « Chúa Tàu mở hội bên Ngô,

Cớ sao bóng phướn bên chùa An-nam ?

Thà rằng chẳng biết cho cam,

Biết ra kẻ bắc, người nam thêm sầu.

Cột buồm mà nghĩa cây cau,

Thấy thuyền thúng nát, nghĩ tàu thằng Ngô.

Còn Tàu, Tàu bán vải sô,

Tàu về, mới biết xí xô bạc tình ».

15. « Dầu ai xấu xí như ma

Tắm nước Đồng-lẫm cũng ra con người ».

16. « Dầu em buôn đâu, bán đâu,

Cũng không tránh khỏi tuần Châu, Vân-sàng ».

17. « Đánh giặc thì đánh giữa sông,

Chớ đánh trong cạn phải chông mà chìm ».

18. « Đem quân đóng cửa Hùng-quan,

Chim muông giọng hót, hoa ngàn hương đưa.

Nhớ ai ngơ ngẩn, ngẩn ngơ,

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai ? »

19. « Đèn tôi từ thuở Toại-nhân,

Dùi cây lấy lửa để muôn dân phanh ẩm thục thực

Từ thuở ấy hỏa sinh bắt tức,

Sinh có đèn sáng nức bốn phương.

Trai văn phòng cố tập văn chương,

Cũng phải đèn xôi kinh, nấu sử.

Gái thục nữ giữ bề cung cấm,

Cũng lấy đèn dệt gấm thuê hoa.

Dầu đến nhà quê cũng nhờ bóng sáng,

Sách có chữ rằng : Hỏa chi công đại hỉ tai ».

20. « Đói thì ăn khế, ăn khoai,

Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng.

Kỳ này lúa mới đòng đòng,

Gió vua Thái-tổ, Thái-tông mưa rào ».

21. « Đời vua Thái-tổ, Thái-tông,

Con bế, con bồng, con dắt, con mang.

Bò đen húc lộn bò vàng,

Bò vàng hết vía đâm quàng xuống sông.

Thằng bé đi về bảo ông,

Bò đen ta đã xuống sông mất rồi ».

22. « Đời vua Vĩnh-tộ lên ngôi,

Cơm nguội đầy nồi, trẻ chẳng ăn no ».

23. « Gái chê chồng đến Bông trở lại,

Trai chê vợ đến Ngái trở về ».

24. « Gái đâu có gái lạ lùng,

Con vua mà lấy hai chồng làm vua ».

25. « Hải dương tiết, nghĩa có hai,

Một mắt bà lão với hai con bò.

Trên trời có ông sao tua,

Ở làng Minh-giám có vua Ba Vành.

Phương đông quật lũ hung tinh,

Làm chó bảy viện tan tành ra tro ».

26. « Kìa ai tiếng khóc nỉ non,

Ấy vợ chú lính trèo hòn đèo Ngang.

Chém cha cái giặc chết oan,

Làm cho thiếp phải gánh lương theo chồng.

Gánh từng xứ Bắc, xứ Đông,

Đã gánh theo chồng, lại gánh theo con ».

27. « Kỳ này lúa mọc đầy đồng,

Giỗ vua Thái-tổ, Thái-tông mưa dào ».

28. « Khi đi cửa Hội còn không,

Khi về cửa Hội, đồn trong điếm ngoài ».

29. « Khôn ngoan qua cửa sông La,

Dễ ai có cánh bay qua Lũy Thầy ».

30. « Lạy trời cho cả gió nồm,

Cho thuyền chúa Nguyễn thẳng buồm chẩy ra ».

31. « Lấy lính thì được ăn lương,

Lấy thầy ăn vóc, ăn xương gì thầy.

Em đừng thấy lính mà khinh,

Lãnh-binh, Thống-chế, Tam-dinh một dòng ».

32. « Lênh đênh qua cửa Thần-phù,

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm ».

33. « Mồ cha đẻ mẹ con giơi,

Sao mày ăn nói những lời Hà đông ? »

34. « Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu,

Mồng chín đâu đâu trở về hội Gióng ».

35. « Mồng bốn tháng ba,

Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy ».

36. « Mồng bốn cá đi ăn thề,

Mồng tám cá về, cá vượt Vũ-môn ».

37. « Một nhà sinh được ba vua,

Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài ».

38« Muôn nghìn chớ lấy kẻ La,

Cái tương thì thối, cái cà thì thâm ».

39. « Nồi đồng lại úp vung đồng,

Con gái xứ Bắc lấy chồng Đồng-Nai.

Giậm chân xuống đất kêu trời,

Chồng tôi vô Quảng biết đời nào ra ».

40. « Nực cười châu chấu chống xe,

Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng ».

41. « Ngang lưng thì thắt bao vàng,

Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.

Một tay thì cắp hỏa mai,

Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền.

Tùng tùng ! Trống đánh ngũ liên,

Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa ».

42. « Ngó lên trên Tháp Cánh-Tiên,

Cảm thương quan hậu thủ thiềng ba năm ».

43. « Nguyễn ra thời Nguyễn lại về,

Giặc đến Bồ-đề thì giặc phải tan.

Đầu cha lấy làm chân con,

Mười bốn năm tròn hết số thì thôi ».

44. « Nhong nhong ngựa ông đã về,

Cắt cỏ Bồ-đề cho ngựa ông ăn.

Mày ăn, tao ăn,

Ông không có ngựa, ông đã có bò ».

45. « Nhớ em, anh cũng muốn vô,

Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam-Giang.

Phá Tam-Giang ngày rày đã cạn,

Truông nhà Hồ, Nội-tán phá tan ».

46. « Ở đời Kiệt, Trụ sướng sao,

Có rừng nem béo, có ao rượu đầy.

Ở đời Nghiêu, Thuấn khổ thay,

Giếng đào mà uống, ruộng cày mà ăn ».

47. « Ru con, con ngủ cho lành,

Cho mẹ gánh nước rửa bành con voi.

Muốn coi, lên núi mà coi,

Coi bà quản tượng cỡi voi bành vàng ».

48. « Sinh con rồi mới sinh cha,

Sinh cháu giữ nhà, rồi mới sinh ông ».

49. « Sống thì sống đủ một trăm,

Chết thì chết giữa hăm nhăm tháng mười ».

50. « Thế gian một vợ, một chồng,

Chẳng như vua Bếp hai ông một bà ».

51. « Thôi thôi chớ nói mà rầu,

Khúc giữa Đồng-Khánh, hai đầu Hàm-Nghi ».

52. « Thuyền ai đổ bến Ô-giang,

Hay thuyền đình trưởng đi rước Hạng-vương sang cùng ».

53. « Thuyền ai thấp thoáng bên bờ,

Hay thuyền ông Lã đợi chờ ông Văn ? »

54. « Thứ nhất bà chúa Thanh-Hoa,

Thứ hai bà Bổi, thứ ba Thạch-Sùng.

Thứ tư Hà-Nội Cống Sùng,

Thứ năm cô Đổ giàu vùng Đông-Yên ».

55. « Thương thay những kẻ quạt mồ,

Hại thay những kẻ lấy vồ đập săng ».

56. « Trách chàng Từ-Thức vụng suy,

Cõi tiên chẳng ở, về chi cõi trần ».

57. « Trạng chết trẫm cũng băng hà,

Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn ».

58. « Trời mưa cho ướt lá bàu,

Ai làm lính lệ đi hầu ông quan.

Thương người mũ bạc, đai vàng,

Đem thân mà đội mâm cam cho đành ».

59. « Vị gì một giải sông Ngân,

Làm cho Chức-nữ chẳng gần Ngưu-lang ».

60. « Vua Ngô băm sáu tàn vàng,

Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.

Chúa Chổm uống rượu tì tì,

Chết xuống âm phủ kém gì vua Ngô ».

VI. Ý THỨC ĐẤU TRANH CỦA NGƯỜI BÌNH DÂN QUA CÁC CHẾ ĐỘ THỐNG TRỊ

Chúng ta đã xác định lịch sử diễn biến của xã hội là lịch sử diễn biến của tâm tư. Nếu guồng máy xã hội xoay theo thời gian đã để lại trong tâm tư con người những vết tích, thì ngược lại tâm tư con người trên dòng thời gian cũng ký thác vào lịch sử những kỷ niệm của sinh hoạt tinh thần.

Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy người bình dân Việt-Nam luôn luôn sống dưới chế độ phong kiến bất công, rồi đến chế độ thực dân áp bức. Chuỗi thời gian lịch sử trải qua các chế độ thống trị ấy đã đưa tâm tư người bình dân đi sâu vào trạng thái bất mãn hầu như vô tận.

Tính chất bất mãn của họ, chúng ta đã nói rất nhiều, ở đây chúng ta thử tìm nguyên nhân của sự bất mãn ấy.

Dĩ nhiên không có sự bất mãn nào mà không có nguyên nhân. Nhưng nếu chúng ta bảo rằng người bình dân vì bị áp bức, khổ cực mà bất mãn thì cũng chưa đủ, chúng ta phải đi tìm ở sự bất mãn ấy một ý nghĩa sâu xa hơn để làm căn bản cho lập trường của họ.

Khi nói đến lập trường tức là địa hạt tư tưởng ; vậy người bình dân là kẻ quê mùa, thiếu học, như thế họ có lập trường tư tưởng chăng ?

Xét về lập trường tư tưởng thì không cần phải có học thức, không cần phải thạo đời mới tạo cho mình một đường hướng tư tưởng. Lập trường tư tưởng của người bình dân phát xuất từ căn bản của cuộc sống. Chúng ta đã thấy họ sống với thực chất của ý thức xã hội. Tâm tư họ không tách rời lẽ sống. Quê hương, đồng ruộng là nguồn sống của họ, họ không muốn để ai tước đoạt nguồn sống ấy. Vì muốn bảo vệ đồng ruộng, quê hương, họ chống đối tất cả những ai có ý thức muốn biến đồng ruộng quê hương làm của riêng mình và bắt người bình dân trở thành kẻ nô lệ. Nguyện vọng duy nhất của họ là làm chủ được đồng ruộng, làm chủ được quê hương, họ sống với đất họ cày bừa khai phá, với giọt mồ hôi do họ đổ ra trong tinh thần tự lực tự cường.

Nguyện vọng ấy chính là lập trường tư tưởng, và nguyên nhân tranh đấu của họ cũng chỉ để bảo vệ lập trường ấy.

Khổ cực họ không cần, vì chính đời sống họ chịu nhiều khổ cực. Điều họ bất mãn sâu xa nhất là các chế độ phong kiến, thực dân đã dùng quyền lực tước đoạt đồng ruộng quê hương của họ.

Tại sao lại bảo : Đất của vua, chùa của làng ? Tại sao lại đặt người cai trị họ, bắt họ phải tổ chức sinh hoạt theo quyền lực, ý muốn của kẻ khác ? Tại sao phải bắt đời sống họ phải theo phục dịch cho một nhóm người ?

Tính chất biến đổi dân quê thành nô lệ, biến đồng ruộng thành tài nguyên của lớp người thống trị đã không hợp với ý sống của người dân quê, gây cho người dân quê có thái độ bất mãn và chống đối.

Sự bất mãn và chống đối của người bình dân qua mọi chế độ thống trị chính là dòng lịch sử của dân tộc. Dòng lịch sử ấy đã để lại cho chúng ta những chứng tích nói lên một tinh thần bất khuất, một ý chí kiên cường, và cuối cùng chắc chắn không một chế độ thống trị nào có thể tước đoạt đồng ruộng, quê hương và quyền sống của họ.

Để chứng minh tinh thần bất khuất và ý chí kiên cường của người bình dân trong lịch sử dân tộc, và cũng để xác định quan niệm xã hội (xã hội quan) của người bình dân, trong phần này chúng ta sẽ phân tích qua các tiểu mục sau đây :

- Giai cấp quan lại dưới mắt người bình dân.

- Những khó khăn của người bình dân trong ảnh hưởng sinh hoạt.

- Sự thành công của người bình dân trên lịch sử tranh đấu dân tộc.

a) Giai cấp quan lại dưới mắt người bình dân

Quan lại là hình bóng của guồng máy phong kiến, là phản ảnh của chế độ thống trị, là tiêu biểu cho lớp người quí tộc, phong lưu, là nguồn gốc phát xuất những áp bức bất công, những tệ đoan trong xã hội ; nói chung, là đối tượng của giai cấp bị trị.

Chế độ phong kiến đã dùng giai cấp quan lại như một lớp công bộc để sai khiến, để tạo thành năng lực khống chế của chính quyền, để trấn áp những phản ứng của dân chúng không tuân hành theo mệnh lệnh của chế độ, để thu góp quyền lợi của đại đa số vào quyền lợi một thiểu số, một gia đình. Vì vậy, đối tượng của giai cấp quan lại là dân chúng, là lớp người bình dân.

Với tính chất và trách nhiệm của giai cấp quan lại như vậy cho nên trải qua hàng ngàn thế hệ, giai cấp này luôn luôn là cây đinh trong mắt của lớp người bị trị, mặc dù bên ngoài vì quyền lực bắt buộc, họ phải tôn trọng, nhưng bên trong không lúc nào giai cấp quan lại được người bình dân ưa thích cả.

Chế độ phong kiến đặt quan hệ giữa vua chúa và dân chúng thành hai đối tượng. Một phía là vua, một phía là bầy tôi (tức nô lệ) ; còn đối với giai cấp quan lại là lớp người thừa hành mệnh lệnh của chủ nhân (vua). Sự thừa hành ấy đã gắn vào giai cấp quan lại một quyền uy bằng đẳng cấp. Cho nên giá trị của quan lại là giá trị của quyền uy, của đẳng cấp chứ không phải giá trị của đạo nghĩa.

Vì đại diện cho quyền uy và đẳng cấp, những quan lại của chế độ phong kiến rất dễ bước vào con đường tệ đoan, xấu xa, bỉ ổi, mà lịch sử xã hội từ xưa đến nay đã chứng minh điều đó. Tục ngữ có câu :

« Đánh chó phải ngó chủ nhà ».

Con chó không có giá trị gì. Nó chỉ là con vật tôi đòi. Tuy nhiên, có lúc người ta không dám đánh nó khi nó là tôi đòi của một kẻ có quyền uy. Người ta kính sợ quyền uy của người chủ mà con chó trở thành con vật được nể nang.

Cho nên, giá trị của giai cấp quan lại thời xưa là giá trị giả tạo, giá trị của bên ngoài, của áo mũ, của chức tước. Người bình dân tuy là kẻ dốt nát nhưng khi đứng vào vị trí của kẻ bị trị đều thấy được tính chất của giai cấp ấy.

Đi đôi với cái giá trị bên ngoài, chế độ phong kiến còn dựng lên những triết thuyết giáo điều về đạo nghĩa, bắt dân phải noi theo. Nhưng kỳ thật giai cấp quan lại là kẻ làm gương để hướng dẫn thì hoàn toàn đi ngược với những gì họ rêu rao trước dân chúng.

Nhưng làm sao không đi ngược lại được, vì đạo nghĩa chỉ có trong một xã hội công bằng, bác ái, quyền sống của mọi người được bình đẳng, tôn trọng, còn tính chất của chế độ phong kiến là tính chất của đẳng cấp, bắt người dân phải hy sinh quyền lợi cho một nhóm người, phụng sự cho một nhóm người, thì kẻ thừa hành của chế độ ấy không thể trốn tránh trách nhiệm đương nhiên của mình mà đi ngược lại quyền lợi của chế độ.

Sự mâu thuẫn ấy vô tình đã hạ nhục giai cấp quan lại dưới mắt người bình dân.

Người ta ca tụng một viên quan thanh liêm, công bình, coi đó là đức tốt đáng làm gương cho giới quan lại, nhưng người ta lại không nhìn vào guồng máy cai trị bất công của cả một chế độ.

Người ta khiển trách một viên quan tham nhũng, bắt nạt dân, nhưng người ta lại không nhìn vào cả một chế độ tham nhũng, bóc lột đã dựng thành một guồng máy cai trị.

Tất cả những hiện trạng ấy dưới mắt người bình dân chỉ là dối mị, mê hoặc. Họ phản ứng bằng lối vạch mặt chỉ trán, tìm những xấu xa hèn hạ của giai cấp quan lại để bêu xấu, để chống lại quyền uy giả tạo ấy.

Không riêng gì đối với người bình dân, ngay trong giới sĩ phu, những kẻ đã khổ nhọc với sách đèn cũng nhìn thấy tính chất thối tha và cái giá trị bề ngoài của nó, họ đã lột trần qua bài thơ châm biếm…

« Ông Nghè tháng tám »

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông Nghè có kém ai.

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời,

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Tưởng rằng đồ thực, hóa đồ chơi.

(Nguyễn-Khuyến)

Đem một con nộm giấy ra đánh giá một quan Nghè thì rõ ràng họ đã hạ nhục chẳng những ông Nghè nào đó mà cả giai cấp quan lại của thời phong kiến. Cũng như bài thơ…

« Ông Táo »

Cục đất xưa kia có khác nào,

Nay làm ông Táo chức quyền cao.

Khéo bêu mặt lọ vênh vang thế,

Chẳng hổ mình cong lúm khúm sao ?

Ngày bữa giữ nồi cho địa chủ,

Quanh năm kiếm chuyện mách Thiên-Tào.

Một mai đất cũng thành ra đất,

Cái đãy chè xôi giá đáng bao !

Người bình dân vẫn thường nói : « Cục đất nắn ra ông Táo », chính họ cũng muốn nói cái hư danh, cái giá trị giả tạo của lớp người mũ áo trong giai cấp quan lại thời xưa.

Hạ nhục giai cấp quan lại cũng chính là một hình thái đấu tranh của người bình dân chống lại chế độ phong kiến, bởi vậy chúng ta thấy trong thi ca bình dân nhan nhản những lời châm biến, những ý thức khinh miệt, cốt làm cho uy quyền của giai cấp ấy mất ảnh hưởng trong dân chúng.

Đây, chúng ta thử tìm hiểu cái nhìn của người bình dân qua lớp mũ áo của giai cấp quan lại :

« Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình,

Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi ».

Tiếng nói của họ không cần phải sâu xa, bóng bẩy, cũng không cần phải tránh né những tục tằng. Nếu giai cấp quan lại dùng những hình thức trang trọng để nâng cao phẩm giá mình thì những ngôn từ chế biếm tục tằng của người bình dân lại có hiệu lực đối chọi với cái bề ngoài giả dối ấy.

Sở dĩ họ dám ngang nhiên chế giễu như vậy vì những kẻ thừa hành lệnh vua chúa không phải là những kẻ có đủ đạo nghĩa. Những tệ đoan của giai cấp quan lại từ xưa đến nay vẫn nằm trong trạng thái tham nhũng và thối nát, tức là tình và tiền.

Đây, chúng ta nghe họ tố giác hành động của một quan Nghè :

« Em là con gái đồng trinh,

Em đi bán rượu qua dinh quan Nghè.

Quan Nghè cho lính ra ve,

- « Bẩm lạy quan Nghè, tôi đã có con »

- « Có con thì mặc có con ;

« Thắt lưng còn dòn, theo võng cho mau ».

Như vậy, ngoài cân đai, võng lọng, thực chất quan Nghè dưới mắt người bình dân chỉ là một kẻ khát tình, một cá nhân tầm thường trong dục vọng, thì bảo họ phải kính trọng làm sao được.

Bởi vậy họ đem những cái tầm thường ấy ra để chỉ trích các quan viên :

« Làm trên ở chẳng chín ngôi,

Cho nên kẻ dưới chúng tôi hỗn hào ».

Hoặc : « Lập nghiêm ai dám đến gần,

Bởi quan đủn đởn nên dân nó lờn ».

Họ lại đem những hành động khắt khe và lối sử dụng quyền hành của giai cấp quan lại ra để châm biếm, như :

« Quan không lành, mắng giành không trơn,

L… không lành, mắng quanh hàng xóm ».

Họ cho những hành động bắt nạt của quan lại chỉ là hành động « cả vú lấp miệng em », lấy quyền uy để che đậy những xấu xa của mình, cũng như họ đã dùng cân đai, mũ áo để che đậy cái thân xác hèn hạ của họ vậy.

Cho nên giá trị của một ông quan chỉ khác người dân ở cái mũ, cái áo mà thôi.

Đôi khi quan còn hèn hạ hơn dân nữa. Đây, chúng ta nghe họ châm biếm một ông tướng :

« Đồn rằng quan tướng có danh,

Cỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai.

Ban khen rằng : « Ấy mới tài ! »

Ban cho cái áo với hai đồng tiền.

Đánh giặc thì chạy vào tiên,

Xông vào trận tiền cởi khố giặc ra.

Giặc sợ, giặc chạy về nhà,

Trở ra gọi mẹ mổ gà khao quân ».

Còn gì khôi hài hơn khi họ đem danh nghĩa một vị tướng ra diễu cợt như đùa với trẻ nít. Và những chức tước quan lại, họ cũng chẳng xem ra sao cả :

« Nhất thì bộ Lại, bộ Binh,

Nhìn thì bộ Hộ, bộ Hình cũng xong.

Thứ ba thì đến bộ Công,

Còn như bộ Lễ, lạy ông xin về ».

Nếu giai cấp quan lại là những kẻ liêm chính, không mua quan bán tước, không lợi dụng chức vị để bóc lột, tham nhũng thì làm gì người dân dám diễu cợt, châm biếm như vậy.

Đây, chúng ta nghe họ nói :

« Hạt tiêu nó bé, nó cay,

Đồng tiền nó bé, nó hay cửa quyền ! »

Tuy đó là thái độ bất mãn và chống đối của người dân trước quyền uy của giai cấp thống trị, nhưng thực tế nó cũng phản ánh rất trung thành những tệ nạn xã hội mà người dân phải gánh chịu trong chế độ phong kiến.

Những tệ nạn ấy cũng là những nhược điểm giúp cho người bình dân có đủ chính nghĩa để đấu tranh, giữ vững quan điểm xã hội của minh.

Khi họ đã vạch được những xấu xa, tệ nạn trong giai cấp quan lại, dĩ nhiên giá trị của giai cấp ấy không còn tồn tại trong tinh thần tôn kính của người dân nữa. Bởi vậy, họ có thái độ khinh miệt :

« Con tôi cửu phẩm chẳng màng,

Thà rằng đi chợ liếc ngang thằng mù ».

Hoặc : « Có phúc thợ mộc, thợ nề,

Vô phúc thầy Đề, thầy Thông ».

Những tệ nạn của giai cấp quan lại dưới mắt người bình dân đưa đến trong ý thức họ một quan niệm về đạo nghĩa. Họ cho làm quan bao giờ cũng mang lấy ác đức do nghề nghiệp của minh. Họ so sánh nghề làm quan phản phúc và bội bạc cũng như các nghề đóng cối xay, làm xa cán. Nghề đóng cối xay, làm xa cán chỉ cần làm xong để lấy tiền, và sau này chiếc cối ấy có trật gọng hay gãy răng cũng mặc kệ chủ nhà. Họ bảo :

« Nha môn, Tòa án,

Xa cán, cối xay ».

Riêng với nghề quan lại thì còn thất đức hơn nữa. Vì cái nghề ấy không thể nào tránh khỏi lời nguyền rủa của dân chúng về sau. Đây, chúng ta nghe họ nói :

« Hết quan thì hoàn ra dân ».

Hoặc : « Thừa quan rồi mới đến dân,

Thừa nha môn tuần, đến sãi đò đưa ».

Mọi quyền lợi trong xã hội đều dồn trước tiên vào giai cấp quan lại. Khi một giai cấp được quyền uy cho phép tước đoạt như vậy thì làm sao còn bảo vệ được đạo nghĩa, làm đẹp được lòng dân. Bởi vậy, người bình dân luôn luôn tỏ ra bất mãn, chống đối :

- « Quan có cần, nhưng dân chưa vội,

Quan có vội, quan lội quan sang ».

- « Sang chơi thì cứ mà sang,

Đừng bắt dọn đàng mà nhọc lòng dân ».

Ý thức bất mãn đã đưa người bình dân đến ý thức đấu tranh. Chẳng những họ đấu tranh bằng cách hạ nhục giai cấp quan lại để tìm trong lẽ sống một con đường đạo nghĩa chân chính mà họ còn ngăn cản tất cả những ai tham bả vinh hoa muốn đi vào con đường tội lỗi ấy.

Cho nên, học trò (giai cấp quan lại ở tương lai) dưới chế độ phong kiến cũng bị người bình dân châm biếm. Ví dụ :

- « Ai ơi chớ lấy học trò,

Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm ».

- « Học trò đi học vừa về,

Thấy cơm chưa chín thì trề môi ra ».

- « Học trò cao cẳng dài giò,

Chân đi ngoài ngõ, miệng thò trong treo ».

- « Học trò, học trỏ, học tro,

Chửa lo ba chữ, đã lo vét nồi ».

- « Học trò ăn vụng càng cua,

Bà thầy bắt được, để tôi mua đền ».

- « Nhân chi sơ, tay rờ cơm nguội,

Tánh bổn thiện, cái miệng đòi ăn ».

Học trò không phải là đối tượng tranh đấu của người bình dân, song học trò lại là những mầm non của giai cấp quan lại. Bởi vậy, khi giai cấp quan lại bị hạ nhục thì học trò cũng phải chịu ảnh hưởng lây.

*

Tóm lại, người bình dân vì muốn bảo vệ quê hương, đồng ruộng, bảo vệ quyền sống và quyền bình đẳng của con người nên chống lại guồng máy phong kiến. Giai cấp quan lại là giai cấp thừa hành chính sách của chế độ phong kiến, nên dưới mắt người bình dân, giai cấp quan lại là đối tượng đấu tranh của họ. Bởi vậy, họ luôn luôn hạ nhục và chống đối.

Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là chúng ta phủ nhận giai cấp quan lại không có người xứng đáng. Kỳ thật, lịch sử đã để lại nhiều tấm gương thanh liêm của những kẻ đã xuất thân từ quan trường. Những kẻ đã từng bất mãn với chế độ vua quan bỏ về vườn ẩn nặc, hoặc đem thân hy sinh cho sự nghiệp dân tộc. Nhưng những kẻ ấy rất hiếm hoi, không đủ đem tấm gương tốt gột rửa cho lớp người dơ bẩn tiếp nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác.

*

(*) Tuyển tập ca dao tiểu biểu

1. « Bà đội cho chí bà cai,

Bà nào hay đố chữ cũng l… ngoài váy trong ».

2. « Bồng bồng nảy lộc ra hoa,

Một đàn vợ lính trẩy ra thăm chồng.

Trẩy ra có gánh có gồng,

Trẩy ra thăm chồng bảy bị còn ba.

Nào ai nhắn nhủ mi ra,

Mi ngồi, mi kể con cà con kê.

Muốn tốt quảy bị mà về,

Việc quan anh chịu một bề cho xong.

Xưa kia anh ở trong phòng,

Bây giờ anh đã vào trong hàng quyền.

Hai tay bưng dĩa trầu lên,

Trước lạy hàng quyền, sau lạy cậu cai

Chồng tôi tham sắc, tham tài,

Một chĩnh đôi gáo, tôi ngồi sao yên.

Tôi xin chiếc đũa đồng tiền,

Anh đi lấy vợ, tôi xin lấy chồng.

Có lấy thì lấy cách sông,

Để tôi ra bến lấy ông sãi đò.

Có chèo thì tôi chèo cho,

Lênh đênh mặt nước ai lo cho minh ».

3. « Cái cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.

Nàng về nuôi cái cùng con,

Để anh đi trẩy nước non kịp người.

Cho kịp chân ngựa, chân voi,

Cho kịp chân người kẻo thiếu việc quan ».

4. « Con ông Đô-đốc, Quận-công,

Lấy chồng cũng phải gọi chồng bằng anh ».

5. « Chó gầy hổ mặt người nuôi,

Tôi gầy, hổ mặt chúa tôi chăng là.

Chúa tôi mang tiếng chúa nhà,

Mượn được con ở khéo là lành hanh.

Tạng ngày đi vớt bèo được con cá mè ranh.

Chúa ăn hết nạc để dành xương cho.

Chúa trai là chúa hay lo,

Đêm nằm cắt việc ra cho mà làm.

Chúa gái là chúa ăn tham,

Đồng quà tấm bánh đút nơm trong buồng.

Ăn rồi chết rục, chết trương,

Chẳng nhớ thằng ở, chẳng thương con đòi.

Ba năm được cái khố sồi,

Chiều ngang chiếc đũa, chiều dài nửa phân ».

6. « Chuồn chuồn có cánh thì bay,

Kẻo thằng ỏng bụng bắt mày đem chôn ».

7. « Chuồn chuồn có cánh thì bay,

Kẻo thằng be bé thò tay bắt mày ».

8. « Đấy sông, đây cũng mây già.

Đấy con Đô-đốc, đây cũng cháu bà Quận-công ».

9. « Đục đến chạm, thì chạm đến khàng.

Đòn đánh lý trưởng thì văng cả làng ».

10. « Em rằng em muốn đi buôn,

Anh về kiếm chốn nha môn ngồi tuần.

Dù em buôn bán xa gần,

Làm sao tránh khỏi cửa tuần của anh ».

11. « Lính vua, lính chúa, lính làng,

Nhà vua bắt lính cho chàng phải ra.

Giá vua bắt lính đàn bà.

Để em đi đỡ anh và bốn năm.

Bởi vua bắt lính đàn ông,

Tiền lưng gạo bị sắm trong nhà này ».

12. « Muốn rằng tế tửu lang trung,

Còn như chủ sự lấy thùng mà đong ».

13. « Nào khi lên võng, xuống dù,

Kêu dân dân dạ, bây giờ dạ dân ».

14. « Nước yên, quân mạnh, dân giàu,

Khắp trong tám cõi cúi đầu làm tôi.

Các quan dân biểu lên ngôi,

Chúc vua Vĩnh-thọ muôn đời thịnh yên ».

15. « Nước đầy đổ dĩa không bưng,

Dù ai vinh hiển thì mừng cho nhau ».

16. « Ngựa ai buộc ngõ ông Cai,

Hoàn ai mà lại đeo tai bà Nghè.

Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè,

Gà ai lại thả trước hè ông Cai ».

17. « Người trên ở chẳng kỷ cương,

Khiến cho kẻ dưới làm đường mây mưa ».

18. « Nhà bay chết lợn, toi gà.

Năm ba ông Cống đến nhà ngày mưa ».

19. « Quan văn mất một đồng tiền,

Xem bằng quan võ mất quyền quận công ».

20. « Quan văn thất phẩm đã sang,

Quan võ tứ phẩm còn mang gươm hầu ».

21. « Quan chảy rồi, thợ ngôi cũng tếch,

Còn cô chiêu lếch xếch theo sau ».

22. « Tai nghe quan huyện đòi hầu,

Mua chanh cùng khế gội đầu cho trơn ».

23. « Tình tình có sự thì lo,

Này tờ ông cống gởi cho ông cò ».

24. « Tháng sáu có chiếu vua ra,

Cấm quần, cấm áo đôi ta ngặt ngùng.

Không đi thì chợ không đông,

Đi ra bóc lột quần chồng mà mang ».

25. « Trai khôn tránh khỏi đòn quan,

Gái khôn tránh khỏi đòn chồng ».

26. « Trăm thức hoa quý nhất thì lan,

Nhất danh nhất giá nhì quan trong triều ».

27. « Trên trường thi, dưới cũng trường thi,

Đường này quan cấm, em thì cậy ai ?

- Trên trường thi, dưới cũng trường thi,

Đường này quan cấm, em thì cậy anh ».

28. « Trời mưa cho ướt lá bàu,

Ai làm lính lệ đi hầu ông quan.

Thương người mũ bạc, đai vàng,

Đem thân mà đội mâm cam cho đành ».

29. « Trời mưa nước dội dọc dừa,

Sắp tiền anh trẩy bây giờ nàng ơi !

Quan trên có lệnh về đòi,

Tôi vâng lệnh người tôi phải bước ra.

Túi vóc mà cải bốn hoa,

Đôi tay, đôi túi mở ra khép vào.

Cao non tiện chũm hạt đào,

Trầu têm cánh phượng rọc dao lưu cầu.

Trầu em têm những vôi Tàu,

Anh cất miếng trầu, anh bước chân đi ».

30. « Vú về thăm bỏ nhà quê,

Quan viên giã đám, lính về lấy lương ».

31. « Vua chúa cấm đoán làm chi,

Để cho con dì chẳng lấy được nhau ».

b) Những khó khăn của người bình dân qua ảnh hưởng sinh hoạt xã hội

Như chúng ta đã thấy người bình dân có một ý thức đấu tranh để bảo vệ quyền lợi và nếp sống của họ. Về quyền lợi, họ tranh đấu chống lại mọi bất công xã hội ; về nếp sống, họ cố duy trì lấy dân tộc tính để bảo vệ quê hương. Tuy nhiên, họ là người dân, luôn luôn sống trong hoàn cảnh khổ cực, thiếu thốn, thấp cổ bé miệng, tiếng nói của họ lạc loài trong lũy tre xanh, trên mặt đê, bên bờ suối, ít ai muốn để ý đến. Vì vậy, ý thức đấu tranh của họ chỉ là ý thức thụ động, nghĩa là nhờ vào những tệ đoan thối nát, bất lực của guồng máy phong kiến để tự giác và đánh thức tình đồng loại trong quan niệm đạo nghĩa.

Khác với phương thức đấu tranh bạo động, phương thức đấu tranh thụ động không gây những biến cố nhất thời, mà chỉ hun đúc trong quần chúng những bất mãn triền miên, liên tục để tranh thủ nhân tâm, để duy trì quan niệm xã hội của minh trong lẽ sống tập đoàn. Do đó, chúng ta có thể nói phương thức đấu tranh của người bình dân trong chế độ phong kiến, thực dân là phương pháp đấu tranh về ý thức chứ không phải phương pháp đấu tranh về bạo lực.

Nếu ở lĩnh vực tôn giáo, chúng ta thấy các giáo đồ khép minh vào khuôn khổ tín ngưỡng, tôn thờ một giáo lý thì đó cũng chính là phương thức đấu tranh trong quan niệm thụ động để bảo vệ lẽ sống của minh. Đối với họ, cuộc đời lầm than khổ ái bao nhiêu thì tinh thần phụng sự đạo giáo nhờ đó mà phát triển mạnh mẽ bấy nhiêu.

Người bình dân cũng vậy, phương thức đấu tranh thụ động của họ chỉ nhằm mục đích bảo vệ nếp sống và quyền làm người của họ trong ý thức sinh hoạt xã hội. Bởi vậy, xã hội càng bất công, chênh lệch bao nhiêu, chế độ phong kiến càng thối nát bao nhiêu thì chính nghĩa của người bình dân càng sáng tỏ và tình đoàn kết của họ càng thắt chặt bấy nhiêu.

Tuy nhiên, nói như thế không phải với ý nghĩa tuyệt đối. Con người sống trong xã hội chịu ảnh hưởng mọi mặt. Tâm tư con người cũng không là bản năng cố định, mà biến chuyển theo thời gian và hoàn cảnh.

Nếu những giáo đồ đã từng rời bỏ cuộc sống mà họ coi là tầm thường để hy sinh cho đạo giáo, thì trong ý thức tu hành của họ cũng có lúc vì hoàn cảnh xã hội ảnh hưởng mà dao động. Người bình dân tuy bản chất đối nghịch với mọi chế độ áp bức bất công, song cũng có một số người vì ảnh hưởng dục vọng cá nhân, vì thiếu tinh thần tự lực tự cường mà tách rời bản chất của minh. Sự phân hóa trong giai cấp chính là những khó khăn trên bước đường đấu tranh dân tộc, và làm suy yếu tiềm lực phản ứng thụ động của nó.

Cho nên, với ý thức đấu tranh tự tồn, người bình dân muốn bảo vệ lấy bản chất của minh, chẳng những chống lại mọi bất công, tham nhũng, thối nát của các chế độ, mà còn phải ngăn ngừa những ảnh hưởng của dục vọng cá nhân do guồng máy phong kiến tạo nên, lan tràn vào giai cấp của họ nữa.

Những ảnh hưởng ấy là gì ?

Trước nhất, chúng ta thấy nó là tinh thần vị kỷ. Tính chất của người bình dân không được phép vị kỷ, bởi lẽ họ là giai cấp khốn cùng của xã hội bất công. Họ cần phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, đùm bọc nhau để đối phó lại quyền uy của lớp người thống trị luôn luôn đe dọa họ. Sức mạnh tranh đấu thụ động chỉ có hiệu năng trong tinh thần đoàn kết, vị tha. Mặt khác, một khi lớp người cùng sống chung một hoàn cảnh, cùng bị chung một guồng máy áp bức bóc lột, ý thức phản ứng tự vệ đương nhiên phát sinh trong điều kiện tất yếu của nó. Chính sức phản ứng tự vệ ấy là căn bản thúc đẩy tâm tư con người cùng một hoàn cảnh biểu lộ tinh thần yêu mến lẫn nhau. Tình quê hương dân tộc sở dĩ nẩy nở cũng do ở khía cạnh tình thương ấy mà ra.

Tuy nhiên, ngược dòng lịch sử, chúng ta vẫn thấy trong giới bình dân có kẻ đã thoát ra ngoài tính chất căn bản của họ. Họ mang trong người một tinh thần vị kỷ. Ví dụ :

« Mẹ gà con vịt chít chiu,

Mấy đời dì ghẻ thương yêu con chồng ».

Tại sao dì ghẻ lại ghét con chồng ?

Trạng thái ấy chính là trạng thái của tinh thần vị kỷ muốn dồn tình cảm của người chồng vào cá nhân minh, không muốn tình thương ấy chi phối cho con riêng họ. Mặt khác, chế độ kinh tế phong kiến đã tạo cho con người một ý thức tư hữu tài sản, và mầm tư hữu ấy biến con người đến chỗ chú trọng quyền lợi vật chất hơn là nghĩa vụ thiêng liêng trong lẽ sống.

Cũng như có những người nghèo khổ, thay vì đem chí phấn đấu để tự lực mưu sinh, họ lại mơ màng cảnh sống phong lưu, nhàn rỗi, chịu ép minh dưới thế lực của đồng tiền như đi lấy Khách, làm me Tây chẳng hạn, thì đó thuộc vào hạng người có tinh thần bạc nhược, không chịu nổi dưới áp lực của guồng máy kinh tế phong kiến. Đây chúng ta nghe họ nói :

« Mẹ ơi, con chẳng lấy dân,

Dầu xa dầu gần, lấy khách mà thôi.

Lấy khách được mặc áo đôi,

Được đi giày đỏ, được ngồi chiếu cao ».

Tinh thần bạc nhược của họ đã bị dục vọng cá nhân làm mất bản chất của con người đã từng sống trong khổ cực. Họ thiếu sức chịu đựng kham khổ để bảo vệ tình thương đồng ruộng, quê hương, mối tình đã khắc ghi vào tâm hồn họ từ khi họ bắt đầu biết thương biết mến.

Cho nên, nếu trong lớp người bình dân có những kẻ vì tinh thần bạc nhược, xa rời bản chất của minh, thì chính những kẻ khác đã phải tự mình tranh đấu để khỏi vấp ngã trước ảnh hưởng của thế lực xã hội. Đây, chúng ta nghe họ chống lại :

« Tham vàng lấy phải thằng Ngô,

Đêm nằm hú hí như vồ đập bông.

Thà rằng ăn cá diếc truôi,

Còn hơn lấy khách mọc đuôi trên đầu ».

Những kẻ đã muốn bảo vệ tình quê hương, dân tộc thì không thể sống trong bạc nhược, làm nô lệ cho mãnh lực tiền tài. Người bình dân vốn quen sống trong khổ cực, và họ dùng sức chịu đựng ấy làm căn bản chống lại những cám dỗ vật dục để tự chủ lấy đời minh. Bất kỳ một thế lực nào, nếu đã xâm nhập vào lãnh vực con người, làm chủ được dục tính thì con người đó đương nhiên mất tự chủ. Tính chất nô lệ của con người phát xuất từ ý thức, từ sự mất tin tưởng lấy mình, từ sự du nhập một ham muốn hưởng thụ mà không do sức mình tạo ra. Bởi vậy tình quê hương, dân tộc sẽ mất, nếu một dân tộc sống bám vào sự hưởng thụ do ngọai bang cung ứng, và dân tộc tính cũng chẳng còn tồn tại nếu một dân tộc đã làm mất những nếp sống sinh hoạt của địa phương. Người bình dân chống lại tinh thần bạc nhược trong giai cấp họ và ngăn ngừa những ảnh hưởng của tham vọng chính là họ đã tranh đấu cho bản chất tự tồn của họ.

Ngoài tinh thần vị kỷ và bạc nhược, chúng ta còn thấy trong lớp người bình dân còn có những kẻ mang tinh thần hướng thượng. Tinh thần này vẫn trái với bản chất bình dân, bởi vì người bình dân sở dĩ có trong xã hội là do chế độ phong kiến tạo ra đẳng cấp, chế độ phong kiến dùng một đẳng cấp để thống trị một đẳng cấp. Những kẻ hướng thượng là những kẻ muốn từ bỏ giai cấp mình, thoát ra ngoài, gia nhập với giai cấp khác bằng lối biến chất, bằng một cuộc lột xác. Những kẻ ấy đối với người bình dân chẳng khác nào như một tên lính đào ngũ, một kẻ phản bội trên trường chiến đấu. Tinh thần ấy, chúng ta thấy trong câu ca dao sau đây :

« Tai nghe quan huyện đòi hầu,

Mua chanh và khế gội đầu cho trơn ! »

Trong lúc người bình dân khinh miệt cái giá trị hão huyền của giai cấp quan lại, thì cũng có kẻ muốn gần gũi những người có thế lực để dựa hơi hống hách, bắt nạt người cùng với hoàn cảnh mình. Cho nên, người bình dân muốn hạ nhục giai cấp quan lại thì đồng thời họ cũng đả phá những ý thức hướng thượng của những người cùng giai cấp họ trong chế độ phong kiến.

Bởi vậy, chúng ta thấy trong ca dao có những câu mang đầy tính chất mâu thuẫn và chống đối nhau.

Ví dụ họ bảo :

« Không tham ruộng cả ao liền,

Tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ ».

Thì cũng lại có câu :

« Ai ơi chớ lấy học trò,

Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm ».

Hoặc : « Cô ấy mà lấy anh này,

Chẳng phải đi cấy, đi cầy nữa đâu.

Ngồi trong cửa sổ têm trầu,

Có hai con bé đứng hầu hai bên ».

Thì cũng lại có câu :

- « Gió đưa bụi chuối te tàu,

Xứng đôi thì lấy, ham giàu làm chi ? »

- « Ham giàu, em đã thấy giàu chưa,

Bữa ăn nước mắt như mưa tháng mười ! »

Những tâm tư chống đối nhau chính là tinh thần đấu tranh của ý thức giai cấp. Họ không muốn người cùng cảnh ngộ xa rời bản chất của minh trong lẽ sống.

Sau hết, chúng ta thấy tinh thần xa hoa, trụy lạc cũng là tinh thần trái với bản chất bình dân. Một dân tộc không muốn nô lệ không thể là một dân tộc chỉ biết ăn chơi mà không biết chịu đựng kham khổ. Một gia đình không thể ăn tiêu phung phí mà giữ được tính chất thanh đạm. Một người dân sống trong xa hoa, trụy lạc không thể đem đến cho bản thân một tinh thần cương nghị, một ý thức tự lập. Do đó, người bình dân vẫn phải chống lại trạng thái tâm tư ấy.

Tóm lại, trong mọi chế độ phong kiến, người bình dân luôn luôn phải đấu tranh để bảo tồn dân tộc tính, tức là nếp sống cố hữu của họ trong thôn quê, làng mạc. Phương thức đấu tranh của họ là phương thức thụ động. Và chính phương thức ấy đã gặp rất nhiều khó khăn trong mọi ảnh hưởng sinh hoạt xã hội. Vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng ngoài những khó khăn mà người bình dân phải đối phó trước áp lực của guồng máy phong kiến, chính người bình dân lại còn phải vượt qua cái khó khăn thứ yếu nữa là tự giác và giác tha.

c) Sự thành công của người bình dân trên dòng lịch sử đấu tranh dân tộc

Chúng ta đã nói đến ý thức đấu tranh của người bình dân, và khi đã đấu tranh tất nhiên phải có sự thành công và thất bại. Trong mục này, chúng ta thử kiểm điểm lại dòng lịch sử dân tộc qua các chế độ phong kiến và thực dân để xác định tầm quan trọng của người bình dân trên tiến trình xã hội.

Lịch sử của người bình dân là lịch sử của làng xóm. Ở đây, chúng ta không nói đến những cuộc cách mạng, những anh hùng dân tộc, chúng ta chỉ tìm họ trong cuộc sống trầm lặng bên lũy tre xanh, bên dòng suối bạc, bên ruộng lúa nương khoai. Chúng ta cũng đừng tưởng lịch sử đấu tranh dân tộc chỉ có ở các cuộc khởi nghĩa chống xâm lăng, mà chúng ta còn phải thấy rằng trong cuộc sống trầm lặng của xóm làng, người dân quê vẫn luôn luôn tranh đấu, và ý thức tranh đấu của họ đã ghi thành dòng lịch sử của đồng ruộng quê hương.

Đây, chúng ta hãy đi ngược thời gian tìm lại sử liệu :

Trong « Việt-Nam văn hóa sử cương » (x.b. 1961) ông Đào duy Anh có ghi :

« Quốc gia thời xưa không đi thẳng đến người dân. Về việc công, nhà nước chỉ biết toàn xã chứ không biết từng người… »

Trong « Pháp chế sử Việt-Nam » (x.b. 1946) ông Vũ quốc Thông có ghi :

« Việc điều hành làng xã Việt-Nam thời xưa theo chế độ tự trị là một chế độ đặc biệt đã được áp dụng tại nước ta ngay thời tiền cổ… »

Như vậy thời tiền cổ, chế độ phong kiến chưa đặt guồng máy cai trị trên thôn xóm. Thôn xóm bây giờ chỉ là những bộ tộc sống tự do và tự trị theo bản chất thiên nhiên với ý thức tập đoàn. Chúng ta không cần xác định chế độ ấy là chế độ gì, nhưng điều chắc chắn là thời tiền cổ người dân chưa có ý thức tranh đấu giai cấp, bởi vì chế độ phong kiến chưa đi vào làng xã thì làng xã chưa tác thành trật tự đẳng cấp.

Danh từ làng xã có từ lúc nào ?

Theo ông Trần trọng Kim trong Việt-Nam sử lược thì :

« Nước ta vào cuối thời Bắc thuộc, do ông Khúc Hạo làm Tiết-độ-sứ lập ra bộ, phủ, châu, xã ở các nơi. ».

Như vậy, hình thức làng xã Việt-Nam là hình thức tổ chức của guồng máy phong kiến Trung-Hoa gia nhập và xuất hiện từ thế kỷ thứ X trở đi.

Tuy nhiên, đó cũng chỉ mới là hình thức tổ chức, chế độ phong kiến Việt-Nam lúc bấy giờ còn non nớt, bộ máy cai trị vẫn chưa được hoàn bị, vì vậy mà các đời Đinh và đời Tiền-Lê làng xã Việt-Nam vẫn còn hưởng chế độ tự trị.

Theo sử liệu thì :

« Mãi cho đến nhà Tiền Lý các làng xã mới được chú ý tổ chức : Mỗi xã, triều đình có đặt xã quan cai trị, mỗi làng đều có sổ dân đinh. Và lần đầu tiên cuộc kiểm tra dân đinh được thực hiện dưới thời vua Lý Nhân-Tôn vào năm 1082. Nhà vua đích thân theo dõi công việc kiểm tra, đồng thời lập sổ địa bộ, phân loại các đất đai của mỗi làng để thu thuế ».

Như vậy, theo sử liệu, guồng máy phong kiến đã làm mất tính chất tự trị của dân làng bắt đầu từ thời Tiền-Lý. Sau đó, các đời Trần, đời Hậu Lê vẫn noi theo phương thức tổ chức cũ mà điều hành việc cai trị các làng xã.

Trong thời gian này, chúng ta thấy sự phản ứng của giai cấp bình dân ra sao ?

Cũng theo sử liệu thì :

« Đời vua Lê Thần-Tôn đã gặp nhiều phản ứng trong dân chúng về chính sách cai trị làng xã. Dân làng không chịu lập sổ đinh, sổ điền, không chịu đóng sưu thuế, không chịu làm tạp dịch. Triều đình đã phải nhân nhượng, không dám thẳng tay đàn áp mà chỉ dựa theo lề lối của các triều đại trước để điều hành việc cai trị làng xã ».

Xem thế, chúng ta phải thừa nhận rằng tinh thần tranh đấu của dân làng phát xuất từ sự gia nhập của chế độ phong kiến đi vào tổ chức làng xã.

Nhưng mục tiêu của sự tranh đấu là gì ?

Chúng ta thấy rõ người bình dân không muốn ai cai trị mình, không muốn đồng ruộng nương dâu của minh bị kẻ khác cướp đoạt bất kỳ dưới hình thức nào. Hành động chống lại việc lập sổ đinh sổ điền, chống lại thuế má sưu dịch, chính họ muốn nói lên nguyện vọng ấy. Làng xã là của người bình dân, họ muốn được tự trị, tự chủ, và ngay tính chất cố hữu trong việc tạo dựng làng xã cũng nhằm vào tính chất ấy. Thời tiền cổ, người bình dân đã đem sức minh khai phá, đem nhau sống tập đoàn trong tinh thần tự lực cánh sinh. Họ không nhờ vào chế độ chính trị để tạo nên làng xã, thì tại sao chế độ chính trị lại bắt họ phải hy sinh quyền lợi để phụng sự cho một lớp người tự xưng là đế vương. Mầm chống đối của người bình dân là ý thức tự lập, tự chủ. Và ý thức tự lập, tự chủ đã có từ ngàn xưa trong tinh thần của người bình dân muốn bảo vệ đồng ruộng, quê hương của họ.

Mặc dù vậy, căn cứ vào lịch sử thì sau đời nhà Lý, đến đời nhà Trần, việc tổ chức cai trị làng xã vẫn được các nhà vua xúc tiến bằng cách bổ dụng các xã quan đến cai trị ở các làng. Để làm cho người bình dân có một niềm tin tưởng vào quyền uy thiêng liêng của vua chúa, triều đình bắt đầu thiết lập mỗi làng những đình thờ Thành-Hoàng rất trang nghiêm và sùng kính (mặc dù trước đó người bình dân cũng đã thờ Thành-Hoàng rồi). Nhà vua ban sắc chỉ phong chức cho các vị thần mỗi làng. Việc làm ấy là một khía cạnh chính trị đánh thẳng vào tín ngưỡng của người dân, lợi dụng tinh thần tín ngưỡng của họ bắt họ phải phục tùng vua chúa và mệnh lệnh của giai cấp quan lại. Tuy vậy, nhà Trần cũng không thắng nổi tinh thần tranh đấu tự lập, tự chủ của người bình dân. Theo sử liệu :

« Các xã quan được tồn tại hầu như gần suốt đời nhà Trần, và đến đời Trần Thuận-Tôn (1388-1399) đã bãi bỏ các xã quan, không hiểu vì lý do gì ».

Tuy sử không chép lý do bãi bỏ các xã quan trong thời ấy nhưng chúng ta cũng thấy rõ ràng chế độ phong kiến không đủ sức đặt guồng máy thống trị vào làng xã một cách mạnh mẽ, bởi vì sức chống đối của người bình dân luôn luôn tạo ra những bất lợi cho chế độ vua chúa. Việc bãi bỏ các xã quan trong thời vua Trần Thuận-Tôn quả đánh dấu một thắng lợi của người bình dân trong lịch sử đấu tranh tự lập, tự chủ của họ.

Phải đợi cho đến lúc Việt-Nam lệ thuộc dưới đời nhà Minh bên Tàu, người Tàu mới đem chính sách phong kiến già nua của họ áp dụng sang Việt-Nam. Cơ cấu làng xã được chỉnh đốn một cách gắt gao :

« Chúng bắt mỗi gia đình phải có một tấm hộ thiếp, tức là sổ gia đình, và chúng lập ra sổ bìa vàng để ghi thuế má. Chúng chia dân làng ra từng lý, mỗi lý có viên chức cai trị gọi là lý-trưởng. Danh từ lý-trưởng bắt đầu xuất hiện ở Việt-Nam trong thời kỳ này ».

Dĩ nhiên, việc tổ chức làng xã trong thời Bắc thuộc nhà Minh không thể tránh khỏi mọi phản ứng của người bình dân. Tuy nhiên, vì lối tổ chức già giặn và chặt chẽ của chế độ phong kiến Trung-Hoa, người bình dân không thể một sớm một chiều mà vùng vẫy
Như vậy, hình thức làng xã Việt-Nam là hình thức tổ chức của guồng máy phong kiến Trung-Hoa gia nhập và xuất hiện từ thế kỷ thứ X trở đi.

Tuy nhiên, đó cũng chỉ mới là hình thức tổ chức, chế độ phong kiến Việt-Nam lúc bấy giờ còn non nớt, bộ máy cai trị vẫn chưa được hoàn bị, vì vậy mà các đời Đinh và đời Tiền-Lê làng xã Việt-Nam vẫn còn hưởng chế độ tự trị.

Theo sử liệu thì :

« Mãi cho đến nhà Tiền Lý các làng xã mới được chú ý tổ chức : Mỗi xã, triều đình có đặt xã quan cai trị, mỗi làng đều có sổ dân đinh. Và lần đầu tiên cuộc kiểm tra dân đinh được thực hiện dưới thời vua Lý Nhân-Tôn vào năm 1082. Nhà vua đích thân theo dõi công việc kiểm tra, đồng thời lập sổ địa bộ, phân loại các đất đai của mỗi làng để thu thuế ».

Như vậy, theo sử liệu, guồng máy phong kiến đã làm mất tính chất tự trị của dân làng bắt đầu từ thời Tiền-Lý. Sau đó, các đời Trần, đời Hậu Lê vẫn noi theo phương thức tổ chức cũ mà điều hành việc cai trị các làng xã.

Trong thời gian này, chúng ta thấy sự phản ứng của giai cấp bình dân ra sao ?

Cũng theo sử liệu thì :

« Đời vua Lê Thần-Tôn đã gặp nhiều phản ứng trong dân chúng về chính sách cai trị làng xã. Dân làng không chịu lập sổ đinh, sổ điền, không chịu đóng sưu thuế, không chịu làm tạp dịch. Triều đình đã phải nhân nhượng, không dám thẳng tay đàn áp mà chỉ dựa theo lề lối của các triều đại trước để điều hành việc cai trị làng xã ».

Xem thế, chúng ta phải thừa nhận rằng tinh thần tranh đấu của dân làng phát xuất từ sự gia nhập của chế độ phong kiến đi vào tổ chức làng xã.

Nhưng mục tiêu của sự tranh đấu là gì ?

Chúng ta thấy rõ người bình dân không muốn ai cai trị mình, không muốn đồng ruộng nương dâu của minh bị kẻ khác cướp đoạt bất kỳ dưới hình thức nào. Hành động chống lại việc lập sổ đinh sổ điền, chống lại thuế má sưu dịch, chính họ muốn nói lên nguyện vọng ấy. Làng xã là của người bình dân, họ muốn được tự trị, tự chủ, và ngay tính chất cố hữu trong việc tạo dựng làng xã cũng nhằm vào tính chất ấy. Thời tiền cổ, người bình dân đã đem sức minh khai phá, đem nhau sống tập đoàn trong tinh thần tự lực cánh sinh. Họ không nhờ vào chế độ chính trị để tạo nên làng xã, thì tại sao chế độ chính trị lại bắt họ phải hy sinh quyền lợi để phụng sự cho một lớp người tự xưng là đế vương. Mầm chống đối của người bình dân là ý thức tự lập, tự chủ. Và ý thức tự lập, tự chủ đã có từ ngàn xưa trong tinh thần của người bình dân muốn bảo vệ đồng ruộng, quê hương của họ.

Mặc dù vậy, căn cứ vào lịch sử thì sau đời nhà Lý, đến đời nhà Trần, việc tổ chức cai trị làng xã vẫn được các nhà vua xúc tiến bằng cách bổ dụng các xã quan đến cai trị ở các làng. Để làm cho người bình dân có một niềm tin tưởng vào quyền uy thiêng liêng của vua chúa, triều đình bắt đầu thiết lập mỗi làng những đình thờ Thành-Hoàng rất trang nghiêm và sùng kính (mặc dù trước đó người bình dân cũng đã thờ Thành-Hoàng rồi). Nhà vua ban sắc chỉ phong chức cho các vị thần mỗi làng. Việc làm ấy là một khía cạnh chính trị đánh thẳng vào tín ngưỡng của người dân, lợi dụng tinh thần tín ngưỡng của họ bắt họ phải phục tùng vua chúa và mệnh lệnh của giai cấp quan lại. Tuy vậy, nhà Trần cũng không thắng nổi tinh thần tranh đấu tự lập, tự chủ của người bình dân. Theo sử liệu :

« Các xã quan được tồn tại hầu như gần suốt đời nhà Trần, và đến đời Trần Thuận-Tôn (1388-1399) đã bãi bỏ các xã quan, không hiểu vì lý do gì ».

Tuy sử không chép lý do bãi bỏ các xã quan trong thời ấy nhưng chúng ta cũng thấy rõ ràng chế độ phong kiến không đủ sức đặt guồng máy thống trị vào làng xã một cách mạnh mẽ, bởi vì sức chống đối của người bình dân luôn luôn tạo ra những bất lợi cho chế độ vua chúa. Việc bãi bỏ các xã quan trong thời vua Trần Thuận-Tôn quả đánh dấu một thắng lợi của người bình dân trong lịch sử đấu tranh tự lập, tự chủ của họ.

Phải đợi cho đến lúc Việt-Nam lệ thuộc dưới đời nhà Minh bên Tàu, người Tàu mới đem chính sách phong kiến già nua của họ áp dụng sang Việt-Nam. Cơ cấu làng xã được chỉnh đốn một cách gắt gao :

« Chúng bắt mỗi gia đình phải có một tấm hộ thiếp, tức là sổ gia đình, và chúng lập ra sổ bìa vàng để ghi thuế má. Chúng chia dân làng ra từng lý, mỗi lý có viên chức cai trị gọi là lý-trưởng. Danh từ lý-trưởng bắt đầu xuất hiện ở Việt-Nam trong thời kỳ này ».

Dĩ nhiên, việc tổ chức làng xã trong thời Bắc thuộc nhà Minh không thể tránh khỏi mọi phản ứng của người bình dân. Tuy nhiên, vì lối tổ chức già giặn và chặt chẽ của chế độ phong kiến Trung-Hoa, người bình dân không thể một sớm một chiều mà vùng vẫy nổi, phải đợi cho những căm hờn trong lòng dân chín muồi mới có thể hành động được.

Cuộc khởi nghĩa của vua Lê-Lợi ở Lam-sơn đuổi quân Minh ra khỏi đất nước chính là thời kỳ đánh dấu một thắng lợi nữa của người bình dân chống lại bộ máy phong kiến Trung-Hoa. Áp bức càng nhiều, năng lực chống đối càng mạnh. Sử Việt-Nam xưa nay đã từng ghi danh vị anh hùng Lê-Lợi, nhưng không để ý đến tinh thần tranh đấu của người bình dân thật là điều thiếu sót. Yếu tố thành công của vua Lê-Lợi chính là yếu tố căm phẫn của người bình dân. Bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn-Trãi đã xác định điều đó, chúng ta không thể nào phủ nhận ý chí đấu tranh của người bình dân được.

Sau thời Bắc thuộc nhà Minh, mặc dù thu hồi nền độc lập quốc gia, chế độ phong kiến Việt-Nam trải qua các triều Lê vẫn căn cứ theo phương thức tổ chức của người Tàu để lại nên chế độ cai trị làng xã vẫn chịu dưới khuôn khổ khắc nghiệt. Bởi vậy mới sinh ra hành động chống đối của người bình dân dưới đời vua Lê Thần-Tôn.

Ngoài sự chống đối ấy, chúng ta còn phải kể đến những biến cố như nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê chẳng hạn, thì cũng chính vì nhà mạc đã lợi dụng sự bất mãn của giai cấp bình dân chống lại chế độ cai trị của nhà Lê nên mới thành công trong một giai đoạn. Tuy nhiên, dù với chế độ nào, đã mang tính chất phong kiến đều trái ngược với tinh thần tự lập tự chủ của người bình dân. Cho nên, suốt thời gian lịch sử của guồng máy phong kiến, chúng ta phải nói là người bình dân luôn luôn phải tranh đấu để bảo vệ quyền tự lập, tự chủ của họ đối với đồng ruộng, quê hương.

Những biến cố chính trị bất kỳ dưới hình thức nào, không thể tách rời ngoài yếu tố đấu tranh của người bình dân, mặc dù tinh thần đấu tranh của họ cũng có lúc bị chế độ phong kiến lợi dụng để tranh chức, đoạt ngôi trong giai tầng thống trị.

Qua đến đời Nguyễn, lịch sử đấu tranh của người bình dân lại chớm lên một thắng lợi. Theo lời ghi của ông Trần-trọng-Kim trong Việt-Nam sử lược thì :

« Sau khi vua Gia-Long thống nhất đất nước, mặc dù có ban hành bộ Hoàng-Việt bình luật song nhà vua cũng không sửa đổi lại cách tổ chức các làng xã. Cho đến đời vua Tự-Đức, các quan triều đình bổ dụng để cai trị chỉ đến phủ, huyện, còn từ tổng trở xuống thì thuộc quyền dân chọn lựa.

« Làng hay xã là phần tử cốt yếu của dân. Phong tục, luật lệ của làng nào riêng làng ấy, triều đình không can thiệp đến. Làng có hội đồng kỳ dịch do dân cử ra trông coi hết mọi việc. Khi có một người nào can phạm việc gì thì quan trách ở làng, cho nên ai đi đâu, hay làm gì cũng phải lấy làng làm gốc ».

Sự sửa đổi chế độ cai trị đối với làng xã Việt-Nam trong thời Nguyễn chính là một nhân nhượng của chế độ phong kiến trước tinh thần chống đối của người bình dân. Và đây cũng là lúc mà chế độ phong kiến đã bắt đầu tàn lụi trên lịch sử thế giới.

Kiểm điểm lại thì làng xã Việt-Nam đi từ tính chất tự trị đến bị trị, trải qua một thời gian dài dằng dặc dưới guồng máy phong kiến, và cuối cùng trở về với tính chất tự trị khi mà guồng máy phong kiến bắt đầu tàn lụn.

Sự tàn lụn của chế độ phong kiến nhường chỗ cho chế độ mới là chế độ thực dân.

Người Pháp đã đặt ách đô hộ ở Việt-Nam, đánh dấu thời gian lịch sử ấy.

Tuy nhiên, tính chất của người bình dân muôn đời vẫn nằm trong ý thức bảo vệ đồng ruộng, quê hương trên quyền tự chủ, tự lập, thì dù phong kiến hay thực dân vẫn là những chế độ đi ngược lại quyền lợi của họ. Cho nên, trong thời Pháp thuộc, người bình dân vẫn phải luôn luôn đấu tranh chống lại nền thống trị thực dân ấy. Nhưng chính sách thực dân không phải là chính sách phong kiến. Người Pháp khôn ngoan hơn, nhìn thấy ý thức tranh đấu của lớp người bình dân qua dòng lịch sử phong kiến, và họ cảm thấy làng xóm Việt-Nam luôn luôn tránh sự dòm ngó của người lạ, ngay cả các đại diện của nhà vua, do đó lúc đầu họ vẫn phải tôn trọng nguyên tắc tự trị của làng xã mặc dù ý định của họ là cố đặt nền móng đô hộ tận cơ cấu xã thôn.

Mãi đến năm 1904, sau khi đã chiếm dứt miền Nam nước Việt, người Pháp mới bắt đầu đem chính sách họ thí nghiệm vào tổ chức hành chính các xã ấp miền Nam với dự tính, nếu thành công họ sẽ dùng phương pháp ấy lan dần đến hai miền Trung và Bắc-Việt.

Khác với chế độ phong kiến, chính sách thực dân không đi thẳng vào dân chúng bằng bổ dụng các xã quan cai trị, mà tuyển chọn trong mỗi xã một số điền chủ lập thành ban Hội-tề để điều khiển dân làng. Đây cũng là một thủ đoạn chính trị, nhằm tạo mâu thuẫn giữa hai lớp người giàu nghèo. Lớp người giàu vì quyền lợi riêng minh sẽ không có những hành động chống đối như lớp người bình dân nghèo khổ.

Sự nhúng tay của chính sách thực dân vào làng xã tạo ra một lớp cường hào ác bá, gây cho giới bình dân rất nhiều phẫn nộ. Ý thức chống đối phát sinh mạnh mẽ trong làng xóm Việt-Nam.

Người Pháp thấy chế độ làng xã 1904 tuy tạo cho họ được một số tay sai nhưng vẫn bất lực trước tinh thần tranh đấu của người dân, nên hai mươi năm sau, năm 1927, họ lại cải cách ban hội tề, với mục đích trực tiếp can thiệp hữu hiệu hơn.

Nhận xét về mục đích cải cách này, ông Nguyễn-xuân-Đào trong quyển « L’Annam d’autrefois » có viết :

« Lưu tâm đến việc cai trị các làng xã, người Pháp xét thấy cần phải thay đổi các cơ cấu để tìm cách đặt công việc trị dân dưới quyền kiểm soát của họ, làm nhẹ bớt quyền lực của các cường hào. Ta có thể hiểu rất dễ dàng tại sao người Pháp lại thay đổi như vậy, nếu ta biết rằng những cuộc khởi nghĩa thường phát xuất từ các làng mạc, và tinh thần quốc gia được bảo tồn tại các nơi đó ».

Như vậy, chúng ta thấy rõ tinh thần đấu tranh chống chế độ thực dân đã làm cho những cường hào, ác bá, tay sai của người Pháp không thực hiện được chính sách đô hộ của họ ở các làng xã như ý muốn.

Chính sách trực tiếp can thiệp vào làng xã ở miền Nam thất bại, người Pháp không đem áp dụng ở hai miền Trung và Bắc nước Việt. Nhưng vì đã rút được bài học ấy, nên người Pháp càng khôn ngoan hơn, họ lợi dụng tinh thần tự chủ, tự trị của người bình dân để xen vào chế độ cai trị ở các làng xã miền Trung và miền Bắc.

Theo nghị đinh 1927, vấn đề kiểm soát các làng xã người Pháp giao cho các viên chức hàng tỉnh. Họ cho phép vị tỉnh hiến bổ dụng lý trưởng ở các làng, và do viên Công-sứ người Pháp duyệt y.

Phương pháp gián tiếp nhúng tay vào guồng máy cai trị các làng xã vẫn không làm cho người bình dân bớt tinh thần chống đối.

Theo sử liệu :

« Mặc dù người Pháp khôn khéo bề ngoài ra vẻ áp dụng hiệp ước bảo hộ và tôn trọng tục lệ cổ truyền Việt-Nam với sự tái thiết Hội-đồng Kỳ-mục, nhưng họ vẫn không đạt được kết quả mong muốn. Họ vẫn gặp thái độ bất hợp tác của những người trí thức và có tiết tháo, cũng như thái độ chống đối của phần đông dân làng tạo thành những phong trào cách mệnh rất mạnh mẽ ».

Xem thế, dù có khôn khéo đến đâu chính sách thực dân vẫn là thực dân. Phong kiến và thực dân dầu có cấu kết nhau tạo thành một hệ thống cai trị, thì người bình dân vẫn có thừa sức để nêu cao tinh thần tự lập, tự chủ của họ, bảo vệ đồng ruộng quê hương.

Thấy không đạt được mục đích, người Pháp làm ra vẻ nhân nhượng, ve vãn lòng dân, cho phép người dân mỗi làng bầu lên viên chức lý trưởng (chế độ làng xã 1942 ở Trung Việt) để thay thế chế độ đương nhiên chỉ định của các quan Tỉnh-hiến trước kia.

Với sự cải cách này, thực ra không ngoài mục đích khôn ngoan của người Pháp là họ muốn trực tiếp lựa người trung thành của họ vào các guồng máy thông xã. Bề ngoài tuy có vẻ nhân nhượng, nhưng bên trong họ muốn đưa những tay sai đắc lực của họ vào các Hội-đồng Kỳ-hào, nhất là các chức vụ chấp hành.

Kết quả, năm 1945 chính quyền Pháp bị lật đổ, và làng xã Việt-Nam được cải cách bằng một chế độ mới – chế độ dân chủ.

*

Tóm lại, căn cứ vào lịch sử diễn biến của làng xã Việt-Nam và các biến cố chính trị đã xảy ra, chúng ta thấy rằng tính chất cố hữu của người dân quê luôn luôn tranh đấu để bảo vệ cho nền tự lập và tự chủ.

Trải qua thời phong kiến và thực dân, làng xã đi từ chỗ tự lập, tự chủ sang chế độ bị trị, rồi trở về chế độ tự trị, nhưng không tự chủ. Cuối cùng các chế độ thống trị bị quật ngã, nhường chỗ cho chế độ dân chủ. Đó là một thắng lợi lớn lao của người bình dân trong tinh thần đấu tranh tự tồn.

d) Hai biến cố gần nhất trong lịch sử văn học bình dân Việt Nam (thế hệ 1932-1945 và 1945-1954)

Theo dòng lịch sử văn học bình dân Việt-Nam, chúng ta đã thấy người bình dân luôn luôn là kẻ chịu áp lực dưới mọi chế độ chính trị. Tâm tư họ như một ngọn lửa âm u, chứa đựng mọi bất bình và luôn luôn phát sinh ý thức đấu tranh để thăng bằng những chênh lệch, bất công của xã hội. Ngọn lửa ấy chính là linh hồn dân tộc, và đã bao lần bùng cháy mãnh liệt trong thời kỳ Lê-Lợi, Quang-Trung…

Tuy nhiên, nếu xét về lịch sử văn học thì những trạng thái quật khởi trước kia chẳng qua là những cơn gió lốc thổi tạt vào đống than hồng. Tâm tư người bình dân Việt-Nam chưa đủ những yếu tố chín muồi để chuyển mình bước sang một giai đoạn mới, thành một biến cố văn học.

Phải đợi cho đến năm 1931, nền chính trị phong kiến Việt-Nam bị phong trào thực dân làm lung lay tận gốc. Người Pháp muốn thay chế độ phong kiến bằng chế độ thực dân, gạt bỏ giai cấp quan lại trước kia, nuôi dưỡng một giai cấp mới, đó là lớp người có khuynh hướng khoa học, có đầu óc tân tiến, để phục vụ nền đô hộ của họ.

Nếu trong thế hệ 1932-1945 là giai đoạn lịch sử biến chuyển tâm hồn người dân Việt-Nam, gây thành một phong trào chống đối giữa hai luồng tư tưởng cũ và mới trong nền văn chương bác học, thì chúng ta lại thấy nền văn học bình dân không phải giữ nguyên trạng thái im lìm, mà chính nó cũng chuyển mình vươn lên, gây thành một biến cố văn học.

Trước khi đi sâu vào tính chất của hai giai đoạn lịch sử này, thiết tưởng chúng ta cũng nên xác định vị trí của mỗi giai cấp trong chế độ đương thời.

Về phương diện chính trị, qua mấy ngàn năm lệ thuộc nền phong kiến Trung-Hoa, nước Việt-Nam như một cành đâm chồi trong khu vườn Á-đông, phong tục, tập quán tuy có ít nhiều địa phương tính và dân tộc tính, song thời gian, không gian cũng chỉ kết tinh trong một chiều hướng tư tưởng tất yếu của nền sinh hoạt thuần túy nông nghiệp mà thôi.

Thời kỳ khoa học phát triển, chế độ thực dân bành trướng ở Âu-châu, chiếc ngai vàng cũ kỹ của chế độ phong kiến Trung-Hoa dưới triều Mãn-thanh coi như già nua, mục nát. Những cuộc xâm chiếm thuộc địa bắt đầu nổi dậy, một luồng gió mới thổi từ Âu sang Á gây cho các nước nông nghiệp Á-châu những cơn sốt về tư tưởng, tạo thành những biến cố văn học của thời đại.

Vậy, biến cố văn học, nói chung, là trạng thái thay đổi chiều hướng tư tưởng trước lẽ sống. Sự thay đổi ấy gây trong nếp sống của mỗi dân tộc, mỗi địa phương, những mâu thuẫn về tâm tư, những đổ vỡ về tập tục, những chống đối về quyền lợi, mà văn học là diễn đàn chung của mọi trạng thái ấy.

Ở Việt-Nam, thời kỳ 1932-1945 là thời kỳ người Pháp chủ trương xóa bỏ những tàn tích phong kiến Á-đông. Nếu trên chính trường, giai cấp quí tộc phong kiến, đại diện cho Nho-học, lần lần lút rui vào hậu trường, nhường chỗ cho một giai cấp mới, giai cấp tân học, có xu hướng khoa học Tây-phương, thì trên lịch sử văn học bác học cũng phản ảnh trạng thái đổi thay ấy.

Đó là những biến cố văn học, và nguồn gốc của biến cố là ý thức đổi thay và duy trì giữa hai lớp người cũ mới trong chế độ đương thời.

Trong lúc lớp người mới muốn đưa xã hội Việt-Nam sang lãnh vực khoa học, gần gũi với đà tân tiến Tây-phương, thì lớp người cũ muốn duy trì nền đạo học Á-đông, bám vào ý thức Nho-học để củng cố địa vị xã hội của mình.

Cho nên, chúng ta có thể nói biến cố văn học trong lịch sử văn chương bác học vào thế hệ 1932-1945 là một trạng thái mâu thuẫn giữa hai ý thức đạo học và khoa học.

Mặt khác, chúng ta cũng có thể nói đó là thời kỳ tranh giành địa vị xã hội của hai lớp người thống trị. Lớp quan lại phong kiến không muốn bỏ mất ưu thế lãnh đạo mà họ đã củng cố hàng bao nhiêu thế kỷ. Lớp người tân tiến, có xu hướng khoa học Tây-phương muốn dựa vào thế lực đương thời của nền đô hộ Pháp, gạt bỏ lớp người cũ ra để chiếm địa vị độc tôn trên chính trường.

Nói chung, từ chỗ tranh giành địa vị xã hội, lớp người thống trị bị phân hóa, và đưa đến những mâu thuẫn ý thức hệ, ghi dấu vào lịch sử văn học Việt-Nam.

Trước những biến cố ấy, nền văn học bình dân như thế nào ?

Chúng ta đã thấy rằng, nền văn học bác học và nền văn học bình dân là hai nền văn học song hành trong lịch sử xã hội. Nếu nền văn học bác học tượng trưng cho ý thức giai cấp thống trị thì chính nền văn học bình dân lại tượng trưng cho ý thức giai cấp bị trị.

Cho nên, từ trước, nếu xã hội Việt-Nam chỉ chia thành hai lớp người thống trị và bị trị trong lịch sử phong kiến thì vào thế hệ 1932-1945, tình thế đã chia thành ba lớp người : lớp người thống trị cũ, lớp người thống trị mới và lớp người bị trị.

Lớp người thống trị cũ và mới mâu thuẫn nhau trong ý thức hệ, trong địa vị xã hội, khiến dòng văn học bác học phân hóa. Thế lực của lớp người thống trị mới mạnh hơn trên đà tân tiến khoa học, đẩy lui lớp người thống trị cũ đang bấu víu vào ý thức đạo học cũ kỹ của thời đại.

Còn đối với người bình dân, tuy trạng thái xã hội có đổi thay trên chiều hướng của khoa học và đạo học, hay nói cách khác, trước sự tranh giành địa vị xã hội giữa hai lớp người cựu học và tân học thì họ vẫn là lớp người bị trị : bị trị của chế độ phong kiến, bị trị của chế độ thực dân. Bởi vậy, chúng ta thấy ý thức của họ vẫn ngấm ngầm trong ngọn lửa chống đối, không có gì bộc khởi.

Tuy nhiên, nếu bảo rằng nền văn học bình dân trong thế hệ 1932-1945 không có gì đổi mới thì cũng không đúng. Chính những mâu thuẫn trong ý thức hệ của giai cấp thống trị đã ảnh hưởng vào tâm hồn họ những ý nghĩ mới : ý thức tự lực tự cường, nhoi lên giành độc lập dân tộc.

Nhưng tại sao cùng trong lịch sử nô lệ, mãi cho đến thế hệ 1932-1945, tâm tư người bình dân mới có ý nghĩ quật khởi giành lấy chủ quyền cho dân tộc.

Nếu đi sâu vào lịch sử chính trị, chúng ta thấy rõ sự phân hóa của giai cấp thống trị là nguyên nhân phát sinh ra trạng thái ấy. Lớp người cũ trong giai cấp thống trị vì bị mất địa vị xã hội trong chế độ phong kiến, một phần lớn sinh ra bất mãn, cho nền tân học là một nền văn hóa suy đồi. Họ không thể sống yên trong ý thức đạo đức của họ bị chà đạp phũ phàng, vì vậy họ trở thành những con người yếm thế, kẻ từ bỏ địa vị của mình trở về với ruộng rẫy, ao vườn, sống cuộc đời ẩn dật như các thánh nhân thời xưa, kẻ lại cố vùng lên, lãnh đạo những phong trào cách mạng, cố đánh đổ giai cấp tân tiến đang theo chân chế độ thực dân xô họ ra khỏi chính trường.

Khi mà lớp người trong giai cấp thống trị đã đi vào mâu thuẫn, xâu xé nhau, thì lớp người yếu thế cần phải tìm một sức liên minh để chung sống. Họ nhìn trước mặt họ, và họ nhận thấy ngọn lửa bất bình vẫn còn nung nấu trong tâm tư người bình dân từ chế độ thống trị này qua chế độ thống trị khác. Mặc dù không cùng một giai cấp, không cùng một sinh hoạt, nhưng ý thức bất mãn chế độ đã nối liền những người trong giai cấp thống trị cũ với người bình dân, tạo ra một trạng thái hòa hợp chưa từng thấy trong lịch sử văn học Việt-Nam giữa hai dòng bình dân và bác học.

Sự gần gũi của lớp người thống trị cũ bị mất địa vị xã hội, đã đưa đến cho nền văn học bình dân một biến thái, mà chúng ta có thể gọi là một biến cố trong nền văn học bình dân của thế hệ 1932-1945.

Nói cách khác, thế hệ 1932-1945, nhờ phong trào thực dân bành trướng từ Âu sang Á, mà giai cấp thống trị Việt-Nam bị phân hóa, mang những con người Việt-Nam có tâm hồn ái quốc trở về với tâm hồn dân tộc.

Đây là những chứng tích :

« Văn chương phú lục chẳng hay,

Trở về làng cũ học cày cho xong.

Sớm ngày vác cuốc thăm đồng,

Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.

Hết mạ, ta lại quảy thêm,

Hết lúa, ta lại mang tiền đi đong.

Nữa mai lúa tốt đầy đồng,

Gặt về đập sảy bõ công cấy cày ».

Dĩ nhiên, sự hòa hợp của lớp người ái quốc đối với tâm hồn dân tộc có một biến cố lớn lao trong ý thức bình dân, và làm cho nền văn học bình dân trải qua giai đoạn biến thái quan trọng. Tuy nhiên, trong mục này chúng ta chưa bàn đến vấn đề biến thái giữa hai nền văn chương bác học và bình dân 19 mà chỉ nêu lên những đổi thay trong tâm tư người bình dân trong giai đoạn lịch sử mà thôi.

Bởi vậy, nếu thế hệ 1932-1945, dòng văn chương bác học phản ảnh một trạng thái thay bậc đổi ngôi trong ý thức thống trị, thì dòng văn chương bình dân lại chuyển hướng, phản ảnh từ trạng thái chống đối giai cấp thống trị phong kiến qua trạng thái liên kết với các lực lượng ái quốc, chống lại cơ cấu của chế độ thực dân.

Sau đây là một trong những ca dao chứng minh trạng thái ấy :

« Tưởng rằng tàu lặn tàu bay,

Nên anh bỏ việc cấy cày mà đi.

Biết rằng cu-lít, cu-li,

Thà rằng cứ ở nhà quê với nàng.

Nhà quê có họ có hàng,

Có làng có xóm, nhỡ nhàng có nhau ».

Đem so sánh với những ý thức cũ trong ca dao, chúng ta thấy rõ người bình dân có một chuyển hướng mới về tư tưởng. Thay vì chống đối những bất công xã hội trong chế độ phong kiến, họ đã quay mũi dùi vào chế độ thực dân với tinh thần bài ngoại.

Bởi vậy họ chế biếm những ai bỏ đồng quê chạy theo vật chất phù phiếm, làm nô lệ cho thực dân. Họ bảo :

« Đồn vui thăm thú thị thành,

Kiếm ăn cũng khó, công danh ra gì.

Ra mà lãnh chức cu-li,

Thà về quê cũ giữ nghề canh nông ».

Tinh thần bài ngoại đi song song với tinh thần độc lập dân tộc. Lòng tự ái của một dân tộc bắt đầu tượng hình qua ý thức thi ca. Họ bảo :

« Mảng vui cơm tấm, ổ rơm,

Tuy rằng cũ kỹ mà thơm sạch lòng

Hơn ai gạo tấm lầu hồng,

Đem thân luồn cúi vào vòng lợi danh ».

Hoặc : « Cậu kia cắp sách đi đâu ?

Cậu học chữ Tàu, hay học chữ Tây ?

Học chữ Tây không tiền, không việc,

Học chữ Tàu ai biết, ai nghe ?

Chi bằng về chốn thôn quê,

Cấy cày còn được no nê tối ngày ».

Chẳng những vì danh dự và quyền lợi dân tộc, người bình dân tỏ ra tinh thần bài ngoại, chống thực dân, mà đứng về ý thức tự lực tự cường họ vẫn xem đó là nền móng để đưa dân tộc đến ngày tự do độc lập. Vì vậy trong lúc đoàn kết đấu tranh chống ngoại xâm, họ luôn luôn để ý đến công trình cải tiến sinh hoạt kinh tế nông nghiệp để làm cơ sở cho tinh thần tự lập, tự chủ, tự cường. Sau đây là những câu ca dao tiêu biểu chứng minh những đổi mới về tâm tư trong thế hệ ấy :

« Em về cắt rạ đánh tranh,

Chặt tre chẻ lạt cho anh lợp nhà.

Sớm khuya hòa thuận đôi ta,

Hơn ai gác tía lầu hoa một mình ».

Hoặc : « Cậu đi ba tháng cậu về,

Rừng thiêng nước độc chớ hề ở lâu ».

Hay : « Ta về ta rủ bạn ta,

Ruộng ta ta cấy, vườn ta ta trồng.

Có làm thì hẳn có trông,

Can chi chầu chực mà mong của người ».

Tại sao người nông dân lại phải thiết tha đến công trình nông nghiệp, khuyến khích mọi người tham gia công tác ?

Trạng thái này chứng tỏ nền thống trị thực dân đã đem kinh tế cơ giới thay dần nền kinh tế nông nghiệp phong kiến. Muốn chống thực dân, trước nhất phải nung đúc cho dân tộc một tinh thần tự lập, tự chủ về sinh hoạt kinh tế. Tinh thần tự lập tự chủ ấy nằm trong ý đồ bất hợp tác. Bởi vậy, nếu có những kẻ vì muốn chạy theo tiền bạc, đem thân làm cu-li cho các sở ngoại quốc, thì chính những người có lòng ái quốc, yêu dân lại phải thiết tha kêu gọi họ trở về với nếp sống của mình :

« Ta về ta tắm ao ta,

Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn ».

Chúng tôi còn nhớ trong thế hệ 1932-1945, lúc phong trào thơ cũ thơ mới chống đối nhau, có một nữ sĩ nêu quan niệm dân tộc, cho các nhà thơ mới là những kẻ đi bắt chước những mới lạ của nước ngoài mà quên hẳn dân tộc tính của mình.

Cô lấy câu ca dao vừa ghi trên để răn đời, nhưng một ký giả trong tờ tuần báo Phong hóa đã chế nhạo cô bằng câu nói sau đây :

« Ao nhà không sạch, tại sao chúng ta bắt buộc phải tắm ở đây ? Tôi không ngờ người đẹp như cô… lại ở bẩn như vậy ! »

Lời nói mỉa mai của ký giả tuần báo Phong hóa đã bộc lộ ý thức vong bản, và chính họ là lớp người mới, lớp người đã dựa trên phong trào tiến triển của nền khoa học Tây phương đả phá nền đạo học, gây mâu thuẫn trong giai cấp thống trị. Tuy nhiên, chúng tôi không có ý nêu sự việc trên để phê phán những phải trái của hai ý thức hệ của nền văn chương bác học. Chúng tôi chỉ lấy đó làm một tấm gương phản ảnh tâm tư người bình dân trong giai đoạn lịch sử này.

Ao nhà không trong sạch bằng sông lớn thật, nếu hiểu theo ý nghĩa tân tiến của thế giới khoa học nước ngoài, nhưng nếu hiểu về tinh thần dân tộc tính thì trái lại, mỗi dân tộc đều hãnh diện khi tạo cho mình một nếp sống do kết tinh của một truyền thống lịch sử. Người bình dân không phải bảo thủ như lớp người nho học, họ vẫn chú trọng đến việc cải tiến kỹ thuật. Cho nên, trong lúc phát lộ ý thức bài ngoại, họ lại củng cố giá trị sản xuất nông nghiệp.

Chính trong thế hệ 1932-1945, những ca dao về cải cách nông nghiệp phát hiện nhiều trong dân gian. Ví dụ :

« Nuôi tằm thì phải trồng dâu,

Muốn cho dâu tốt phải mau vun trồng.

Vườn thì cuốc rãnh thong dong,

Cách nhau hai thước đặt thông cho dầy.

Giống dâu ưa nước xưa nay,

Nhưng khi ngập hết thì dâu cũng già ».

Họ còn chú trọng nhiều hơn đến việc bón phân, thêm chất mầu cho đất :

- « Việc cấy lúa phải cần bón đất,

Các chất mầu tốt nhất là phân ».

- « Hoa bí đỏ ngoài,

Hoa bầu trắng xóa.

Muốn được ăn quả,

Xin chớ ngắt hoa.

Ai về nhắn chị em nhà,

Muốn cho hoa tốt liệu mà bón cây ».

- « Trồng trầu đắp nấm cho cao,

Che cho sương nắng khỏi vào gốc cây.

Nửa năm bén rể, bén dây,

Khô dầu, bả đậu, bón tay cho liền.

Một mai trầu tốt, gốc lên,

Một sào trầu tốt bằng tiền mẫu ngô.

Đất đập nhỏ, luống đánh to,

Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào.

Phân tro chăm bón cho nhiều,

Đậu ngô hai gánh một sào không sai ».

- « Tháng ba tháng tám đi đâu,

Bỏ đê không đắp rồi sau kêu trời.

Chém cha lũ kiến vô loài,

Dám đem đê đó làm mồi kiếm ăn.

Một mai nước vỡ đến chân,

Chẳng qua chỉ lũ nông dân thiệt thòi ».

Tóm lại, sự thay đổi giữa chế độ phong kiến và thực dân, tạo cho giai cấp thống trị một ý thức tranh giành quyền lãnh đạo, thì cũng tạo cho lớp người bình dân một ý thức giành lấy quyền dân tộc. Ý thức ấy phát hiện ban đầu qua những công trình lao động của họ như :

« Đê kia ai đắp nên cao,

Cái dải sông Đào ai xẻ mà sâu ?

Gạo, ngô, hoa, quả đủ màu,

Do ai cày cấy ? Do ai vun trồng ?

Bây giờ no ấm ung dung,

Có ai nhớ kẻ có công chăng là ? »

Nhưng chế độ thực dân càng tồn tại trên đất Việt, càng làm cho người dân Việt-Nam thấy rõ quyền lợi và địa vị xã hội của họ bị mất mát. Tinh thần tranh đấu giành độc lập mỗi lúc một tăng thêm. Nhất là vào năm Ất-dậu, nạn đói làm chết mất hai triệu người. Biến cố xã hội tạo thành biến cố chính trị.

Nguyên vào thời kỳ quân đội Nhật-Bản chiếm đóng Việt-Nam (1940-1945), một phần lớn thóc ở Nam-bộ phải xuất cảng sang các nước ở trong khối « thịnh vượng chung » của Đông-nam Á-châu. Ở Bắc-bộ, quân Nhật kéo vào uy hiếp guồng máy cai trị của người Pháp, bắt buộc người Pháp điều khiển dân quê dành một số ruộng đất trồng đay, trồng bông, v.v…

Diện tích trồng trọt của dân quê Việt-Nam vì thế mà bị giảm rất nhiều, và sức sản xuất ngũ cốc cũng sút đi. Đã vậy, thuế má lại tăng vọt lên đến độ khủng khiếp.

Chính sách bắt buộc người dân bỏ lúa trồng đay, phụng sự cho kỹ nghệ ngoại quốc đã làm cho họ thán oán :

« Ai ơi ! khổ nhất trồng đay

Trồng đay, đay nghiến, có hay nỗi gì.

Phá ngô, bỏ ruộng mà đi,

Dân ta khổ cực nhiều khi đói lòng ».

Nhưng chưa gây nên thảm trạng bằng nạn đói. Người Nhật dùng vũ lực lật đổ nền thống trị thực dân của người Pháp, và dùng uy quyền cướp hết lúa của dân quê, làm cho người dân quê chết đói đầy đường :

« Mấy năm thóc cạn vì ai ?

Làm dân ta chết hơn hai triệu người.

Ta thì khóc, nó thì cười »

Hoặc : « Tàu cười, Tây khóc, Nhật no,

Việt-Nam hết gạo chết co đầy đường ».

Trạng thái xã hội đã đưa tâm tư người bình dân qua một khúc quanh. Nếu thế hệ 1932-1945 dưới ách đô hộ của thực dân làm cho họ nuôi dưỡng tinh thần tự chủ, tự lập thì chính trong thế hệ 1945-1954 là giai đoạn ý thức tự lực tự cường của họ bùng nổ.

Những cuộc cách mạng nối tiếp nhau nổi dậy, và khi người dân quê đã ý thức được sức đấu tranh của họ thì không còn một áp lực nào có thể dập tắt nổi. Họ đứng dậy đòi chủ quyền độc lập dân tộc, và xây dựng một chế độ dân chủ tự do.

Lịch sử văn học bình dân chuyển qua một biến cố mới : thời kỳ độc lập và kháng chiến.

Ý thức tham gia kháng chiến giành độc lập của người bình dân bàng bạc trong sinh hoạt xã hội.

Sau đây, chúng tôi trích dẫn một ít để tiêu biểu :

- « Đất có nghĩa,

Người có công.

Gạo là máu, độc lập là xương ».

- « Muốn cho dân mạnh nước giàu,

Tăng gia sản xuất để cầu tự do

Vàng mười, bạc bảy, thau ba,

Đem so với gạo ắt là phải thua ».

- « Rủ nhau đi học i tờ,

Xem tin đọc báo, xem thơ dễ dàng ».

- « Cô kia vừa đẹp vừa dòn,

Cô không biết chữ ai còn lấy cô ».

- « Rủ nhau đi học i o,

Mỗi ngày mỗi chữ con bò cũng thông ».

- « Lấy chồng biết chữ là tiên,

Lấy chồng không chữ là duyên con bò ».

- « Khuyên em chớ quản nhọc nhằn,

Cày sâu, cuốc bấm, chăn tằm, ươm tơ ».

Bao giờ độc lập tự do,

Cả nhà ta mới cơm no áo lành ».

- « I tờ giống móc cả hai,

I ngắn có chấm, tờ dài có ngang ».

- « O tròn như quả trứng gà,

Ô thì đội mũ, Ơ là thêm râu ».

VII. KẾT LUẬN
Nếu chúng ta thừa nhận con người sống và tranh đấu là thực hiện mục tiêu của nguyện vọng họ, thì ngay ở phần này chúng ta có thể tìm thấy quan niệm về xã hội của người bình dân.
Con người không thể sống lẻ loi, cho nên ai cũng chấp nhận lẽ sống tập đoàn. Nhưng khi đã sống tập đoàn rồi thì quyền lợi cá nhân, sự mâu thuẫn giữa con người và con người tất nhiên phải có. Chính sự mâu thuẫn ấy đã tạo cho lớp người trong xã hội một xã hội quan.
Người bình dân là những kẻ sống bằng sức lao động. cuộc sống của họ gắn liền với đồng ruộng, quê hương, chính họ là những kẻ bảo tồn lấy dân tộc tính, và mang tính chất tự lực, tự cường.
Do đó, chúng ta có thể xác định :
1) Về phương diện tinh thần, họ là kẻ yêu quê hương, đất nước, bởi quê hương đất nước là nguồn sống tinh thần của họ. Họ cũng là những kẻ yêu dân tộc, bởi dân tộc là hình bóng của quê hương. Khi lớp người đã lấy quê hương, dân tộc làm lẽ sống, tất nhiên họ không thể là những kẻ buôn, dân bán nước, không có trách nhiệm quốc gia. Tinh thần quốc gia phải là căn bản luôn luôn tồn tại trong tâm hồn họ.
2) Về phương diện vật chất, họ chống lại tất cả những ý thức liều lĩnh, biếng nhác, ăn không ngồi rồi. Trạng thái biếng nhác, ăn không ngồi rồi chính là trạng thái đưa đến chỗ người bóc lột người, tước đoạt quyền sống của kẻ khác, gây bất công xã hội, tạo thành những chế độ độc tài, thối nát.
Tóm lại, chúng ta có thể nói xã hội quan của người bình dân gồm trong hai yếu tố : Quốc-Gia Dân-Tộc và Công-Bình Xã-Hội.
Sài Gòn, 1/4/1970
Nguyễn Tấn Long - Phan Canh
Nguồn: tusachtiengviet.com
Theo https://www.dtv-ebook.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...