Thứ Ba, 29 tháng 11, 2022

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 3 - Vũ trụ quan 4

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 3
Vũ trụ quan 4

Theo Phật học thì ngoài cái vòng luân hồi, vũ trụ còn có một vùng nghỉ ngơi, đó là vùng bất sinh, bất diệt, vùng chứa đựng tâm linh. Phật học chủ trương đưa con người vào vùng ấy để tránh sự luân hồi khổ ải. Mà muốn tránh sự luân hồi tất phải tu hành.
Đến đây, thuộc vào lĩnh vực tín ngưỡng, chúng ta sẽ bàn ở mục sau. Tuy nhiên, chúng tôi thấy cũng cần nêu vài quan điểm khác biệt đối với Phật học qua một ít chủ trương của các tông phái.
Sự nghỉ ngơi của « tâm linh », các Phật-gia gọi là Phật-tính hay « Niết bàn » được cắt nghĩa bằng siêu hình. Bởi vì, khi đứng vào quan điểm siêu hình, Phật học gọi thế giới hữu hình là thế giới vô thường, và phủ nhận cái « có » giả tạo của nó.
Do ý thức phân định giữa cái Có và cái Không, cái Chân và cái Giả, nhiều tông phái Phật-học đã lập thành những hệ thống suy tư khác nhau.
Ông Phùng-hữu-Lan trong quyển Đại cương triết học sử Trung-quốc đã nêu lên hai lập trường của Tăng-Triệu và Đạo-Sinh như sau :
« Triết học của Tăng-Triệu »
Một trong những đại sư của phái này tại Trung-quốc, vào thế kỷ thứ V là Cưu-ma-la-thập, người Ấn-độ, sinh tại một nước của miền Tân-cương Trung-hoa ngày nay. Đến Tràng-an (tức Tây-an trong tỉnh Thiểm-tây bây giờ) vào năm 401 và sống tại đấy cho đến chết vào năm 413. Trong 13 năm ấy, ông dịch nhiều Kinh phật sang Hoa văn và dạy nhiều môn đồ. Đệ tử nhiều người nổi tiếng và có uy tín.
Tăng-Triệu (384-414) gốc miền phụ cận ở Tràng-an, thoạt đầu chỉ nghiên cứu về Lão-Trang, nhưng sau trở thành đệ tử của Cưu-ma-la-thập. Ông viết khá nhiều thiên khảo luận, tập hợp trong sách « Triệu-luận ». Trong một thiên nhan đề « Bất chân không luận » ông viết : « Đã hẳn muôn vật có cái sở dĩ bất hữu, thì có cái sở dĩ bất vô. Có cái sở dĩ bất hữu, nên tuy hữu mà không phải hữu. Có cái sở dĩ bất vô, nên tuy vô mà không phải vô… Nếu hữu là chân hữu, thì hữu tự thường hữu, há đợi căn duyên sau mới là hữu đâu. (Theo Phật gia thì sự vật nào sinh ra cũng phải do những căn duyên nào). Nếu vô là chân vô, thì vô tử thường vô, há đợi căn duyên sau mới là vô đâu. Nếu hữu không tự hữu, đợi căn duyên sau mới là hữu, thì biết rằng hữu không phải là chân hữu… Muôn vật đều là vô, thì không thể khỏi sinh, khỏi thì không phải là vô… Muốn nói hữu của muôn pháp, thì hữu không là chân sinh. Muốn nói vô, thì sự vật có tượng, có hình. Tượng, hình không là vô, thì cái hữu phi chân, phi thực. Đã thế thì nghĩa của bất chân không thật rõ lắm vậy. (Triệu luận chương 2).
Trong thiên khác nhan đề « Vật bất thiên luận », Tăng Triệu nói : « Người ta gọi là động, là cho rằng vật xưa không đến nay, cho nên gọi là động chớ không phải là tĩnh. Cái mà gọi là tĩnh cũng là vật xưa không tới nay, cho nên gọi là tĩnh chứ không phải động. Là động chứ không phải tĩnh, vì vật chẳng lại nay ; là tĩnh chứ không phải động vì vật chẳng đi mất (tức là vật dẫu không tồn tại hôm nay, đã tồn tại trong quá khứ)… Nếu tìm vật trước trong thời trước, thì vật chưa từng là vô trong thời trước ; tìm vật trước trong thời nay, thì vật chưa từng là hữu trong thời nay… Chưa từng là hữu trong thời nay, mới rõ vật chẳng lại từ thời trước, chưa từng là vô trong thời trước, nên biết vật không đi mất thời nay… Quả chẳng là nhân vì nhân mà có quả nên thời xưa nhân không mất vì quả chẳng là nhân, nên thời nay nhân không lại. Không mất, không lại, thì nghĩa bất thiên là rõ lắm vậy ». (Triệu luận ch. I)
Theo tư tưởng diễn tả ở đây, thì vạn vật luôn luôn biến hóa. Một sự vật tồn tại vào một lúc nào, thật ra là một sự vật mới trong lúc đó, không còn là sự vật đã tồn tại lúc trước nữa.
Trong cùng thiên ấy, Tăng-Triệu nói : « Xưa có một người tên Phạn-Chí xuất gia, đầu bạc mới về. Người làng xóm trông thấy nói : « Người xưa vẫn còn đó ư » ? Phạn-Chí nói : « Tôi giống người xưa, nhưng không phải người xưa ». Lúc nào cũng có một Phạn-Chí, Phạn-chí của lúc này không phải là Phạn-Chí đã đến trong quá khứ, và Phạn-Chí trong quá khứ không phải là Phạn-Chí trong hiện tại được. Do sự kiện, sự vật luôn luôn biến hóa, ta kết luận rằng có biến hóa chứ không có thường tại. Do sự kiện, trong một lúc, sự vật vẫn còn trong lúc đó ta nói rằng có thường tại, chứ không có biến hóa ».
Đó là thuyết Tăng-Triệu minh định về quan niệm thường và biến, hữu và vô đối với một hệ phái trong Phật-giáo.
« Triết thuyết của Đạo-Sinh »
Đạo-Sinh (chết năm 434), theo học Cưu-ma-la-thập cùng thời với Tăng-Triệu, sinh ở Bành-thành, tại vùng đông bắc tỉnh Giang-tô hiện nay.
Là một nhà sư uyên bác, thông minh, có tài hùng biện. Người ta bảo rằng khi ông thuyết pháp thì ngay cả đá bên cạnh cũng gật đầu tán thưởng. Khi về già, ông dạy Phật-pháp tại Lư-sơn trong tỉnh Giang-tây bây giờ. Lư-sơn là trung tâm nghiên cứu Phật-học hồi bấy giờ. Những cao tăng như Đạo-An (chết năm 385) và Huệ Viễn (chết 416) đều có đến thuyết pháp tại đây. Đạo-Sinh nêu ra nhiều thuyết hết sức mới và có tính chất canh cải, đến nỗi ngày kia bị các nhà sư bảo thủ đuổi ra khỏi Nam-kinh.
Ngoài những thuyết khác, Đạo-Sinh dạy thuyết « thiên bất thụ bảo » : Thiên luận thuyết của ông về đề tài ấy nay đã mất, nhưng trong sách « Hoằng minh tập » do Tăng-Hựu (chết năm 518) biên soạn, có một thiên của Huệ-Viễn, nhan đề « Minh báo ứng luận ». Trong vài phương diện, thiên ấy có thể đại biểu cho tư tưởng của Đạo-Sinh, nhưng ta cũng không chắc. Ý chính trong ấy là áp dụng tư tưởng vô vi và vô tâm của đạo gia vào siêu hình học. Như ta đã thấy « vô vi » có nghĩa đen là không hành động, nhưng tự hành động ấy không thật có nghĩa là không làm gì ; đúng hơn nó là một hành động không do cố gắng. Khi ta hành động một cách hồn nhiên, không phân biệt gì, không có sự lựa chọn hay cố gắng gì, tức là thực hành vô vi. « Vô tâm » cũng có nghĩa là « không trí tuệ ». Theo cách diễn tả trên, thì khi ta thực hành vô vi tức cũng thực hành vô tâm ; khi đó ta không có lòng tham luyến mọi vật, dầu ta vẫn theo đuổi nhiều hoạt động khác nhau. Bởi vì « quả » hay báo ứng của « nghiệp » là do lòng tham luyến, thì trong những trường hợp ấy, cái nghiệp của ta không mang lại báo ứng (quyển 5). Thuyết ấy của Huệ-Viễn có giống hay không với tư tưởng bản lai của Đạo-Sinh, là sự góp phần đáng chú ý vào siêu hình học Phật gia, vốn tư lý thuyết Đạo gia chỉ có nghĩa xã hội và luân lý. Xem vậy, thuyết Huệ-Viễn thật đã gây được sự phát triển trọng yếu trong Phật học Trung-quốc, sự phát triển mà sau này Thiền tông mạnh thêm.
Theo một thuyết khác của Đạo-Sinh thì thành Phật là do đốn ngộ. Luận văn của ông về điểm này cũng đã mất, nhưng thuyết ấy được giữ lại trong thiên « Biện tông luận » của Tạ-linh-Vận (chết năm 433). Thuyết ấy được khai triển đối lập với thuyết khác là thuyết tiệm tu, theo đó, thì thành Phật chỉ do tiệm tu tích học. Đạo-sinh và Tạ-linh-Vận không phản đối sự trọng yếu của tiệm tu tích học, nhưng chủ trương rằng sự tu học ấy dẫu lớn lao đến đâu cũng chỉ là công việc dự bị, tự nó không đủ để thành Phật. Chỉ có hành vi tức thì, giống như nhảy qua vực thẳm, mới là thành Phật. Hoặc là nhảy qua được, thì tới bên kia bờ, và thành Phật, thành trong chớp nhoáng, hoặc là nhảy không tới bên kia bờ, thì ta vẫn là ta. Không có giai đoạn trung gian.
Người ta biện minh cho thuyết ấy, bảo rằng Phật tức là đồng thể với « vô », hay có thể nói, với Phật tính. Vì là siêu hình tượng, nên Vô không phải là vật tự nó, do đó cũng không phải là vật có thể chia làm nhiều phần. cho nên ta không thể « đồng vô » ngày nay một phần, ngày mai một phần. Đồng vô tức là đồng vô toàn thể. Chỉ thiếu một chút cũng không thể gọi là đồng vô.
Thiên « Biện tông luận » thuật lại nhiều cuộc biện luận về vấn đề này giữa Tạ-linh-Vận và các người khác. Một nhà sư tên là Tăng-Duy cho rằng nếu kẻ học là hợp với Vô, thì bất tất nói tới Vô ; nhưng nếu còn phải học về Vô để dứt bỏ hữu, thì sự học ấy là tiệm ngộ có giai cấp. Tạ-linh-Vận đáp rằng nếu kẻ học đang còn ở trong cảnh giới của hữu, thì những gì người ấy làm và học, chứ không phải là ngộ. Ngộ tự nó là ở ngoài hữu, mặc dù kẻ học trước hết phải học để được ngộ.
Tăng-Duy còn hỏi : « Nếu kẻ học hy vọng do học mà đồng thể với Vô thì có tiến chăng ? Nếu không tiến tại sao lại học ? Nếu tiến phải chăng là tiệm ngộ ? »
Tạ-linh-Vận đáp : « Công phu theo học có thể tạo thành kết quả thiết thực làm giảm tổn những yếu tố không tinh khiết trong tâm. Dẫu sự giảm tổn có giống như sự hủy diệt (của tâm) thật ra tâm cũng không phải là vô lụy. Chỉ có đốn ngộ thì vạn trệ mới cùng ».
Tăng-Duy còn hỏi : « Nếu kẻ học chuyên học thì có thể tạm hợp với Vô chăng ? Nếu có thì tạm hợp còn hơn là chẳng hợp, ấy phải chăng là tiệm ngộ ? »
Tạ-linh-Vận đáp : « Tạm hợp như vậy chỉ là ảo tưởng. Hợp chân tính là thường tại. Tạm hợp chỉ giống chân hợp, cho nên tạm hợp chỉ là hợp trong ý nghĩa sự diệt vạn lụy chỉ là giả ».
Một luận thuyết khác của Đạo-Sinh cho rằng người có tình là có Phật tính. Luận thuyết của ông về đề tài này cũng đã mất, nhưng ta có thể tái lập tư tưởng ông căn cứ vào lời chú của ông trong nhiều kinh Phật.
Theo những lời ấy, thì người có tình là có Phật tính, nhưng lại không biết là mình có. Sự vô minh ấy là điều làm cho người vướng vào vòng sinh tử luân hồi. Vậy trước hết, con người phải ý thức rằng mình vốn có Phật tính tại mình, rồi sau đó phải « thấy » do sự học tập. Phật tính của chính mình. Cái « thấy » đó chợt đến như sự đốn ngộ, bởi vì Phật tính không thể phân chia được. Vì lý do ấy, cho nên hoặc là người ta thấy toàn thể Phật tính, hoặc là chẳng thấy gì. Thấy như vậy cũng có nghĩa là hợp nhất với Phật tính, bởi vì Phật tính không phải là vật thấy được từ ngoài…
Theo một thuyết khác của Đạo-Sinh, thì nhất xiển đề (tức là người chống Phật gia) cũng có thể thành Phật. Đó là lời kết luận hợp lý của lời quả quyết người có tình thì có Phật tính. Nhưng thuyết này lại mâu thuẫn trực tiếp với « Niết bàn kinh » như được biết trong thời bấy giờ. Chính vì đề xướng thuyết ấy mà Đạo-Sinh bị trục xuất khỏi Nam-kinh trong một thời gian. Tuy nhiên, nhiều năm sau đó, khi toàn văn bộ Niết-bàn-kinh được dịch ra, thì có đoạn xác nhận thuyết của Đạo-Sinh. Người viết tiểu truyện Đạo-Sinh là Huệ-Kiểu (chết năm 554) viết rằng : « Vì lời giải thích của Đạo-Sinh về « nhất xiển đề » vừa được kinh điển xác nhận rõ ràng, nên các nghĩa đốn ngộ thành Phật, thiện bất thụ báo đều được chư tăng lúc bấy giờ rất hoan nghênh »(Cao tăng truyện, quyển 7)
*
Trên đây chúng tôi chỉ lược dẫn vài ý niệm về Phật học qua những suy tư khác biệt trong một vài tông phái.
Nói chung thì các tông phái của Phật-gia đều thừa nhận ý niệm luân hồi trong cơ năng vũ trụ. Sự khác biệt chỉ có trong việc suy diễn cái vòng luân hồi ấy là « hữu » hay là « vô ».
Mặt khác, tính chất « niết bàn » cũng có một vài khác biệt trong lối suy diễn. Có tông phái cho rằng « niết bàn » ở ngoài vùng hiện tượng giới, có tông phái cho rằng « niết bàn » không phải là vật ở ngoài vòng luân hồi sinh tử. Cũng như thực tại của Phật tính không phải ở ngoài hiện tượng giới…
Chính vì khác biệt ấy mà thường thường các tôn giáo chia làm nhiều hệ phái, tranh luận nhau.
Nhưng ở đây chúng ta không bàn đến triết lý Phật học, mà chỉ bàn đến ý thức người bình dân qua ảnh hưởng của Phật học.
Đối với quan niệm luân hồi, trong ca dao bình dân chúng ta vẫn thấy phảng phất những ý tưởng như :
Đời cha ăn mặn,
Đời con khát nước.
Hoặc : Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Hay : Ai ơi hãy ở cho lành,
Kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau.
Tại sao quan niệm luân hồi lại thích hợp với người bình dân ?
Nếu xét về phương diện triết học, chúng ta phải thừa nhận người bình dân là kẻ dốt nát, mù chữ, dĩ nhiên không thể dùng sách vở hoặc kinh kệ để tìm hiểu sâu xa một hệ thống tư tưởng. Nhưng nếu xét về phương diện tâm lý thì chúng ta lại thấy rằng đã là con người, dù từng lớp nào, với bản tính tranh đấu tự tồn của vạn hữu, bao giờ con người cũng không muốn mình bị hủy diệt. Không muốn bị hủy diệt trước một năng lực biến thiên của vũ trụ, tâm hồn con người cảm thấy sợ hãi. Sự sợ hãi ấy đem đến cho con người một suy tư là tìm một nơi nương tựa, chống lại biến thiên của vũ trụ, tức là chống lại hủy diệt. Triết lý luân hồi của nhà Phật chính đã đem đến cho con người sự an lòng trong mối lo âu ấy. An lòng để mà sống, tranh đấu, chịu đựng với những đau khổ trong xã hội loài người.
Riêng người bình dân thì thuyết luân hồi nhà Phật còn có một tác dụng khác hơn. Những mầm sống bao giờ cũng muốn vươn lên, dù đã đến lúc bị hủy diệt. Người bình dân suốt đời bị đàn áp, khổ cực, sự tủi nhục trong kiếp sống làm người của họ mong cho đến ngày đổi mới, mà hoàn cảnh vật chất đã không tạo cho họ được sự đổi mới ấy, thì chỉ còn hy vọng ở tinh thần. Đó là sự thoát kiếp. Chỉ có hy vọng thoát kiếp mới đem lại cho họ một an ủi về tinh thần để chịu đựng cuộc sống phũ phàng do chế độ phong kiến đem đến cho họ.
Như vậy, thuyết luân hồi của Phật-học dù không được lớp người bình dân nghiên cứu, tin tưởng, song trên phương diện tâm lý, triết thuyết này mặc nhiên tương đồng với người bình dân về một khía cạnh nào đó, khiến tinh thần Phật-học gieo vào ý thức bình dân dễ dàng hơn là Khổng-học và Lão-học.
2) Về nhân quả
Nếu Phật-học quan niệm cơ năng vũ trụ là một bánh xe quay tít trong vòng luân hồi, thì nhân quả là động lực đẩy chiếc bánh xe ấy. Tất cả mọi biến động trong vũ trụ đều phát xuất do một nguyên nhân, và nguyên nhân ấy đưa đến một kết quả, và kết quả trở thành nguyên nhân… cứ tiếp tục mãi chẳng bao giờ dứt. Cho nên Phật-học hình dung đời người chỉ là một chuỗi nhân quả nối dài, chuỗi nhân quả ấy quay theo bánh xe luân hồi từ kiếp này đến kiếp khác.
Với quan niệm ấy, Phật-học chủ trương tạo cho con người những nguyên nhân tốt, để đạt lấy kết quả tốt. Đó là đường lối tu hành.
Nhưng thế nào là nguyên nhân tốt ?
Thực ra Phật-học cũng không khác gì Lão-học và Khổng-học trên phương diện đạo học. Nếu Khổng-học thấy con người cần đạt đến chỗ hoàn thiện, Lão-học thấy con người cần tách bỏ tham vọng cá nhân ra ngoài lẽ sống, thì Phật-học lại chủ trương từ bi, bác ái. Vậy nguyên nhân tốt là tiêu trừ dục vọng cá nhân. Bởi vì, theo Phật-gia và Đạo-gia, sở dĩ cuộc sống loài người đưa đến hỗn loạn, tranh chấp nhau là do ý thức con người không giác ngộ, tham vọng cá nhân làm mù quáng lẽ sống con người. Cho nên, con người cần phải tu hành. Tu hành có nghĩa là tranh đấu với bản thân, loại bỏ dục vọng. Khi dục vọng đã tách rời khỏi con người thì con người sẽ hành động theo Phật-tính, tức là vị tha, nhân từ, bác ái.
Vị tha, nhân từ, bác ái là kết quả gần nhất để tạo cho xã hội loài người một cuộc sống tươi đẹp, khỏi khổ đau do mâu thuẫn giữa con người và con người. Nói cách khác, nguyên nhân tốt cũng có nghĩa là làm cho xã hội loài người bớt những ý thức đấu tranh vì dục vọng cá nhân.
Ở đây chúng ta thấy luật nhân quả của Phật-học rất gần với quan niệm triết học Đông-phương.
Theo triết học Đông-phương thì « không, thời nhất phiến » nghĩa là không gian, thời gian là một. Khi thời gian biến đổi thì không gian thay đổi.
Thời gian chũng tôi muốn nói ở đây là thời gian của tâm tư.
Để thấy thế nào là thời gian của tâm tư, chúng tôi xin tóm tắt một đoạn luận thuyết sau đây :
*
Nói đến thời gian, xưa nay người ta chia ra làm ba quan niệm : Thời gian khoa học, Thời gian sinh lý, Thời gian tâm tư.
Thời gian khoa học : là thời gian thường nghiệm khách quan, được phân chia đồng đều theo đồng hồ, ngày đêm, trăng sao… độc lập với mọi hoạt động sự vật. Không một năng lực nào đẩy thời gian đi mau hơn, cũng không một năng lực nào kéo thời gian ngừng lại. Đông cũng như Hạ, Xuân cũng như Thu, mặc chim hót trên cành, mặc hoa tàn hoa nở… Cô gái phòng khuê sắp mất tuổi xuân thì, ngày tháng vẫn phũ phàng trôi. Người tù nhân ép mình trong khám lạnh, mỗi ngày đêm cũng phải trải qua hai-mươi bốn tiếng đồng hồ, mỗi tháng phải đếm đủ ba mươi tờ lịch rơi xuống, khong thể thiếu. Cặp nhân tình son trẻ tìm được dịp thanh vắng tư tình, nự cười chưa tắt trên môi mà trăng khuya đã lên quá đỉnh đầu… Thời gian không đợi, không chờ, không thiên, không vị. Thời gian khoa học đặt ngoài tác động của sự vật, chạy đều như tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ, và không bao giờ trở lại.
Thời gian sinh lý : quan niệm bắt nguồn từ chỗ cảm thấy những tiếng tích tắc đồng hồ, bóng dáng của những tờ lịch lần lượt rơi xuống rất có ảnh hưởng đến thân phận con người và vạn vật. Một tờ lịch rơi đánh dấu sự sinh biến, và giữa cái khoảng sinh biến ấy chồng chất biết bao nhiêu biến cố, đổi thay, qua cảm giác con người về cuộc sống. Tuổi trẻ gần với sự sống hơn tuổi già. Tế bào con người đi từ chỗ phát triển đến ngưng đọng, tiêu giảm và hủy diệt. Nếu đặt thời gian sinh lý ra ngoài cảm giác con người, thì khách quan, thời gian vẫn liên hệ đến sinh tồn của vạn vật. Như vậy, tiếng tích tắc đồng hồ, bóng dáng một từ lịch rơi không thể tách rời mọi biến chuyển vũ trụ. Nó chính là biểu thị cho trạng thái biến động thời gian, tạo thành sự biến động vạn hữu. Tuy nhiên, ở quan niệm sinh lý, con người chỉ mới bắt đầu đưa cảm giác vào thời gian để đúc kết sự liên hệ giữa vũ trụ, chứ chưa đi sâu vào tâm tư để tìm thấy bản chất thời gian đích thực xoay chuyển trên mọi hiện tượng của vạn hữu.
Thời gian tâm tư : chính là thời gian của triết lý. Nơi đây mới có tác động nội khởi của con người vào mọi biến động vũ trụ. Nếu ở quan niệm sinh lý, con người mới chỉ cảm thấy thụ động đối với thời gian, nghĩa là chỉ mới tiếp thu mọi ảnh hưởng bên ngoài, tác động vào cơ thể, thì ở phần tâm tư, con người trở thành chủ động, có thể tạo ra thời gian cho từng cá thể, và mỗi cá thể có một thời gian riêng, tùy khả năng biến động của tâm tư. Cùng trong một ngày, những tâm tư của một tù nhân trong khám thấy dài hơn : « Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại ». Cùng trong một đêm, nhưng trong tâm tư của đôi tình nhân đang ân ái thấy ngắn hơn : « Ô temps suspend ton vol ».
*
Như vậy, trong địa hạt tâm tư thời gian không còn là những khoảng cách đồng đều đối với mọi người nữa.
Mặt khác, trên con đường tiến hóa của thời gian, người trẻ ý nghĩ không giống với người già. Sự dị biệt ấy chứng minh người già đã tiếp nhận nhiều thời gian hơn, và thời gian đã để lại trong người họ nhiều biến cố, đau buồn, tàn tạ hay vui thích. Đến như giữa hai người cùng một lứa tuổi, cảm nghĩ họ cũng không giống nhau, chỉ vì họ tiếp nhận màu sắc và dung lượng thời gian tâm tư không đồng nhau, mặc dù cả hai cùng trải qua một khoảnh tháng năm đồng đều.
Đó là chỉ mới nói đến sự tiếp nhận thời gian một chiều. Riêng một chiều thời gian đối với cá thể đã bất đồng, huống chi tâm tư trong mỗi người lại không đồng nhất. Sự phản ứng của tâm tư gây nên một tác động nội thức đối với biên cố ngoại tại, khiến cho thời gian trong mỗi người càng cách biệt hơn.
Nói cách khác, thời gian tâm tư là sự chất chứa những ý tưởng, nhận thức, cảm xúc, ước muốn, bao hàm biến chuyển và nối lại. Không có biến chuyển khách quan, không có tác động nội thức để nối kết lại những sự việc kế tiếp, nối lại những não trạng dị biệt do những biến cố gây nên thì không có thời gian tâm tư.
Khi nội thức đã biến động trên nhịp độ thời gian tâm tư, tất nhiên sẽ tác động vào ngoại giới, sẽ nối kết, chung đúc giữa vật và tâm, giữa khách quan và chủ quan, tức là « hợp nội ngoại chi đạo ».
Cho nên, nếu chúng ta thừa nhận vũ trụ chỉ gồm có thời gian, không gian, và mọi biến động của vũ trụ chỉ là sự biến động của thời gian, không gian thì chúng ta sẽ thấy bánh xe luân hồi của Phật gia chỉ là cái vòng không gian, thời gian, và tác động của nó là sự biến chuyển trong qui luật nhân quả.
Sở dĩ vòng luân hồi tác động mạnh, quay tít chỉ vì con người chạy theo dục vọng cá nhân, tranh đấu, đàn áp giữa con người và con người, gây thành mâu thuẫn và đẩy vòng luân hồi quay nhanh hơn.
Cho nên, khi mỗi người từ bỏ dục vọng cá nhân của mình, không tranh đấu để tự mãn dục vọng cá nhân thì mâu thuẫn giữa con người và con người tự nhiên tiêu giảm. Mâu thuẫn tiêu giảm thì vòng luân hồi quay chậm lại, tức là thời gian, không gian chỉ vận chuyển với tốc độ cần thiết trong qui luật sinh hóa của nó mà thôi. Cái khổ não của con người trong lẽ sống là sự tranh đấu tước đoạt giữa con người và con người gây thành mâu thuẫn. Cho nên vòng luân hồi càng quay nhanh bao nhiêu thì xã hội càng loạn lạc, khổ ải bấy nhiêu. Tu tức là làm cho cái vòng luân hồi quay chậm lại, bởi vì tu là giảm mức mâu thuẫn đấu tranh trong xã hội loài người.
Tuy nhiên, chủ trương của Phật-học còn đi xa hơn nữa. Theo Phật-học, ngoài cái vòng luân hồi (hiện tượng giới) còn có một nơi bất động, bất biến, đó là Niết-bàn (siêu hình giới). Nếu con người có thể làm cho bánh xe luân hồi chạy chậm lại thì cũng có thể làm cho bánh xe luân hồi tiến tới chỗ bất động. Hay nói cách khác, con người có thể làm cho thời gian chạy chậm lại, không gian bớt biến động, thì con người cũng có thể làm cho thời gian, không gian bất động, bất biến. Bất động, bất biến tức là bất sinh, bất diệt. Tức là đưa hiện tượng giới trở về siêu hình giới.
Tóm lại, cái nhân tốt của Phật gia là ý thức từ bỏ dục vọng cá nhân để hủy diệt mâu thuẫn xã hội, và cái quả tốt của Phật gia là làm cho vòng luân hồi quay chậm lại, rồi tiến dần đến chỗ bất động, bất biến.
Luật nhân quả của nhà Phật ảnh hưởng vào quần chúng bình dân khá sâu rộng. Trong ca dao chúng ta thấy những câu như :
Không có lửa làm gì có khói,
Chó sao chó sủa lỗ không,
Chẳng thằng ăn trộm, cũng ông đi đường.
Có gió thì mõ mới rung,
Có cây thì dây mới leo,
Có cột có kèo mới thả đòn tay.
Trách ai ăn ở bất nhơn,
Cho nên chỉ no xa đờn tri âm.
Cây oằn vì bởi trái sai,
Anh xa em vì bởi ông mai ít lời.
Những tâm tư trên đây bàng bạc trong cuộc sống dân gian, chứng tỏ quan niệm nhân quả đã tác động mạnh mẽ trong ý thức con người.
Nếu quan niệm luân hồi của nhà Phật được hình dung qua tính chất siêu hình thì quan niệm nhân quả lại được chứng minh trong thực tiễn. Ý thức con người càng tiến bộ thì qui luật nhân quả càng được áp dụng và khai thác triệt để.
Người ta đem kết quả để tìm nguyên nhân, hoặc căn cứ một nguyên nhân để suy đoán một kết quả.
Một chàng trai si tình cố đem suy tư tìm hiểu nguyên nhân nào cô gái kia lãnh đạm với lòng âu yếm của mình. Một hiền phụ bị chồng bạc đãi cố tìm hiểu nguyên nhân tại sao chồng có cử chỉ ấy. Một nhà cai trị khi ban bố mệnh lệnh bị dân chúng phản đối cũng cố tìm hiểu do nguyên nhân nào phát sinh tình trạng ấy. Một nhà xử kiện gặp một can nhân phạm tội cũng phải tìm hiểu do nguyên nhân nào đã đưa can nhân vào đường tội lỗi.
Ngược lại, những triết gia, khoa học gia, thường tổng hợp những nguyên nhân để suy diễn một kết quả.
Như vậy, luật nhân quả đã trở thành một biện chứng pháp trong cõi sống loài người, mà nhân loại dù với quan niệm nào cũng không chối bỏ được. Chỉ khác biệt ở những lập trường tư tưởng là « cái dụng » của luật nhân quả ấy.
Ví dụ, các đạo gia dùng luật nhân quả để tiêu trừ dục vọng cá nhân, hủy diệt mâu thuẫn xã hội, Phật gia dùng luật nhân quả để biến cải cái vòng luân hồi vào « siêu hình giới », đi đến chỗ bất động bất biến. Còn nhà khoa học, chính trị học, thì dùng luật nhân quả để thu đoạt những quyền lợi vật chất trong lẽ sống con người.
Đối với người bình dân, luật nhân quả chi phối họ bằng hai mặt : vật chất và tinh thần.
Về vật chất, cũng như quan niệm các khoa học gia và chính trị gia, họ vẫn xem luật nhân quả có tác dụng trực tiếp vào lẽ sống. Ví dụ họ bảo :
Trách ai đem miệng nói dèm,
Cho nên heo kia trở máng chê hèm không ăn.
Khi quan niệm nguyên nhân và kết quả với một tác dụng khách quan và thực tiễn như vậy, người bình dân đã biết đặt yếu tố tất yếu của vũ trụ ra ngoài tư tưởng giới. Và từ chỗ nhân quả là qui luật tất yếu, họ đã áp dụng vào cuộc sống bằng cách gây nhân để đạt quả.
Một chàng trai sớm tối lui tới nhà một cô gái mong cô gái lưu ý đến mình, đó không phải là hành động gieo nhân để hái quả sao ? Nhưng hành động như vậy là hành động theo vật chất, tức là theo dục vọng cá thể.
Ngược lại, quan niệm theo đạo học thì ý thức về nhân quả tự nhiên đổi chiều. Cái nhân của đạo học không dùng để đạt đến mục đích tham vọng. Cho nên, ở lãnh vực này người bình dân vẫn mang nặng ảnh hưởng. Người bình dân vốn là kẻ ít tham vọng khi mọi chế độ chính trị buộc họ phải đem sức mình để phụng sự kẻ khác. Trạng thái ấy đưa tâm tư người bình dân đến chỗ đau khổ. Luật nhân quả của Phật học tỏa chiết tham vọng tức là hợp với mong muốn của người bình dân. Nếu xã hội phong kiến, thực dân không có kẻ tham vọng thì làm gì có giai cấp bình dân chịu những bất công xã hội.
Mặt khác, nếu các chế độ chính trị dùng pháp luật để răn người, làm cho mọi người sợ hãi mà tuân theo, thì luật nhân quả của nhà Phật chính là pháp luật tinh thần, làm cho mọi người vì sợ hãi mà tự chế lấy mình.
« Ở hiền gặp lành, ở dữ gặp dữ » chính là một quả báo nằm trong luật nhân quả. Thực ra, con người ai cũng mong cho mình sung sướng, nhưng sung sướng ngày nay họ lại sợ khổ cực ở ngày mai. Bởi vậy, khi tin tưởng vào luật nhân quả, mọi hành vi hiện tại trở thành những ám ảnh trong tâm hồn, do đó, tham vọng cá nhân được hạn chế.
Cho nên, nếu về mặt chính trị, người bình dân là kẻ dễ bị pháp luật đe dọa, thì về mặt đạo lý và tôn giáo, đối với luật nhân quả, giai cấp thống trị và giai cấp dễ bị ám ảnh nhất.
Sự đe dọa về tinh thần trong luật nhân quả đã làm cho một số người biến tính chất Phật-học từ chỗ từ bi, bác ái, vị tha trở thành tham vọng, vị kỷ. Đó là những lầm lẫn của kẻ tu hành.
Thật vậy, có biết bao người vì muốn Phật độ mà ăn chay, niệm Phật, xem Phật như vị cứu tinh, họ có thể mua chuộc bằng những hành vi ngoài ý thức của họ.
Họ quan niệm chỉ cần gieo cái nhân bằng hành động sẽ tạo cái quả bằng tinh thần.
Thực ra, căn bản của những triết thuyết về đạo học xuất phát từ tinh thần, không thể thực hiện bằng hành động thiếu ý thức.
Sự sai lạc trong quan niệm tu hành đã đưa một số ít người đi đến chỗ « tu hành vì ích kỷ » mà chúng ta thấy người bình dân vừa phản dối, vừa châm biếm, để lại những chứng tích trong lịch sử văn học của họ.
Trước hết, chúng ta thấy họ châm biếm những người làm ra vẻ sùng đạo, nhưng chỉ có cử chỉ sùng bái bên ngoài, mà trong ý thức không giữ đúng theo quan niệm Phật-học. Ví dụ :
Tay bưng quả nếp vô chùa,
Tháp nhang lạy Phật xin bùa em đeo.
Hoặc : Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Ai làm cho dạ sư sầu,
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây.
Hay : Lên chùa thấy tiểu mười ba,
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm.
Ước gì một tháng đôi rằm,
Trước là lễ Phật, sau thăm vãi già.
Và : Lỗ miệng thì nói Nam-mô,
Trong lòng thì chứa một bồ dao găm.
Nam-mô một bồ lấy bốn,
Người ta đã khốn lại còn Nam-mô.
Ý thức châm biếm của người bình dân chứng tỏ họ cũng đã thông suốt phần nào về giáo lý nhà Phật. Những kẻ làm sai ý nghĩa tu hành của Phật giáo chúng ta có thể chia làm bốn lớp người. Một lớp người vì thấy hành động của mình trong xã hội không thích hợp với luật nhân quả, bị lương tâm cắn rứt, nên họ cố dùng hình thức tu hành để xóa đi những vết tích trong tâm tư. Nói cách khác, họ trấn an tâm hồn bằng sự vay mượn vá víu ấy. Thứ hai là lớp người lợi dụng, đội lớp từ bi nhà Phật để lừa gạt kẻ khác. Thứ ba là lớp người bị xã hội cấu xé không đủ sức phấn đấu với đời, chán ngán cuộc sống, đem thân vào đường tu hành. Thứ tư là lớp người có ý thức Phật-học, song lý tính không thắng nổi dục tính. Tất cả những lớp người trên đây đều là những nạn nhân trước những cặp mắt xoi mói, châm chọc của giai cấp bình dân. Sau đây là những câu ca dao chế nhạo những kẻ tu hành nửa mùa ấy :
Con chim ăn quả bồ nu,
Ai làm nên nỗi thầy tu đeo xiềng ?
Thầy tu ăn nói cà riềng,
Em thưa quan cả đóng xiềng thầy tu.
Ba mươi súc miệng ăn chay,
Sáng ngày mồng một dựng cây trúc dài.
Lâm râm khấn vái Phật, Trời,
Biết đâu có nắng mà phơi quần hồng.
Ai ơi ! hãy hoãn lấy chồng,
Để cho trai gái dốc lòng đi tu.
Chùa này chẳng có Bụt ru !
Mà đem chuông khánh treo Chùa Hồ-sen.
Thấy cô yếm đỏ răng đen,
Nam-mô Di-Phật lại quên mất chùa.
Ai mua tiu cảnh thì mua,
Thanh la, não bạt, thầy chùa bán cho.
Hộ-pháp thì một quan ba,
Long-thần chín rưỡi, Thích-Ca ba tiền.
Còn hai Mụ Thiện hai bên,
Ai mua bán nốt, lấy tiền nộp cheo.
Lệ làng thiếu thốn bao nhiêu,
Đẵn cây tre cộc cắm nêu sân chùa.
Châm biếm đệ tử nhà Phật không phải họ bài xích Phật học. Ý thức châm biếm của người bình dân là ý thức bài trừ những hành động giả dối trong cuộc sống.
Tuy nhiên, mặt khác, ý thức bất kính ấy cũng cho chúng ta thấy quan niệm người bình dân còn có những khía cạnh bất tương đồng về căn bản.
Cũng như những quan niệm thuần túy về đạo học, Phật-giáo vẫn chủ trương dùng năng lực tinh thần khống chế dục vọng vật chất. Như thế có nghĩa là đạo học và Phật-học xem nhẹ tầm ảnh hưởng của vật chất trong lẽ sống con người. Do đó, người bình dân khó thực hiện được. Từ ý thức bất tương đồng căn bản ấy, họ đi đến chỗ bất kính, mặc dù họ coi vấn đề tu hành là một phương tiện tốt để cải tiến xã hội loài người. Cho nên, khi nhà tu hành có hành động sai lạc, họ mỉa mai ngay :
Ai lên Hương-tích chùa Tiên,
Gặp cô sư bác anh khuyên đôi lời.
Đem thân làm gái kiếp đời,
Tu sao cho trọn nước đời mà tu.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha, kính mẹ mới là đi tu.
Thứ nhất là tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tiểu tôi tiểu kính tiểu hiền,
Bao nhiêu chùa chiền tiểu đốt tiểu đi.
Thịt chó tiểu đánh tì tì,
Bao nhiêu chỗ lội tiểu thì cắm chông.
Nam-vô xứ Bắc xứ Đông,
Con gái chưa chồng thì lấy tiểu tôi.
Vào chùa xem tượng mới tô,
Xem chuông mới đúc, xem cô lộn chồng.
Cô lộn chồng cô tu đã vậy,
Cha mẹ già trông cậy vào đâu ?
Xin cô giữ lấy cảnh mầu.
Từ thực trạng xã hội đem đến người bình dân một ý niệm là không thể dùng năng lực tinh thần cải hóa xã hội mà không nhờ vào những biến cải vật chất xã hội. Và cũng từ ý thức bất kính những kẻ tu hành sai lạc, trong tâm tư người bình dân phảng phất ít nhiều sự mất tin tưởng. Ví dụ :
Sáng trăng vằng vặc
Vác c… đi chơi
Gặp đàn vịt trời
Giương cung anh bắn
Gặp cô yếm thắm
Đội gạo lên chùa
Thò tay bóp vú…
Khoan khoan tay chú
Đổ thúng gạo tôi
Hôm nay ba mươi
Mai là mùng một
Đội gạo lên chùa cúng Bụt
Bụt ngảnh mặt đi
Ông Thích-Ca mỉm miệng cười khì
Của tam bảo để làm gì chẳng bóp.
*
Kết luận, Lão-giáo, Nho-giáo và Phật-giáo đối với người bình dân Việt-nam đều có chỗ tương đồng và bất tương đồng :
Lão-giáo chủ trương thuyết vô vi, đưa con người trở về với trạng thái thiên nhiên, đó là điều phù hợp với tính chất người bình dân. Tuy nhiên, Lão-giáo khi chủ trương như vậy lại tách rời thực trạng xã hội, chối bỏ mọi biến động của thời gian, không gian, đặt tham vọng cá nhân ra ngoài lẽ sống, phủ nhận sự hiểu biết của con người mà không dựa trên căn bản nào để thực hiện. Đó là điều xa rời thực tế, trái với đà tiến triển của xã hội loài người mỗi ngày một biến động và chồng chất thêm mãi lên. Vì vậy mà tâm tư người bình dân Việt-nam, ở điểm sau, không thể tương đồng được.
Khổng-giáo chủ trương thuyết hữu vi, xem tình cảm con người là một đối tượng có thể dùng phương pháp giáo dục để cảm hóa được. Do đó, Khổng-giáo chủ trương dùng chính trị để xây đời, đem khuôn mẫu ràng buộc con người vào nhân nghĩa, đem lễ nhạc loại bỏ dục vọng cá nhân, bảo vệ trật tự xã hội. Điểm tương đồng của Khổng-giáo đối với người bình dân là tiết chế lòng tham của giai cấp thống trị, nhưng lại bất tương đồng ở chỗ Khổng-học phụng sự cho chế độ phong kiến, ràng buộc con người trong kiếp sống hẹp hòi, mà tự do con người bị mất mát không phải ít.
Phật-giáo chủ trương thuyết luân hồi và nhân quả, với ý thức tôn giáo, Phật-giáo đứng trước xã hội loài người không phân biệt giai cấp, lấy từ bi, bác ái, vị tha làm nền tảng cho nhân sinh, như thế tức là loại bỏ tham vọng cá nhân, thăng bằng sinh hoạt xã hội. Ý thức ấy đã gieo vào tâm tư người bình dân bằng chiều hướng cởi mở, an ủi. Tuy nhiên, Phật giáo cũng như đạo giáo đều đặt nặng chủ trương giải thoát con người bằng khả năng tinh thần mà thực tại, thế giới vật chất mỗi ngày mỗi chi phối vào lẽ sống, làm cho tinh thần không còn đủ khả năng để kềm hãm nổi dục vọng cá nhân nữa. Đó là điều mà người bình dân Việt-nam đã nghi ngờ sự thành công của Phật-học. Sự nghi ngờ ấy đã thể hiện rất nhiều trong ca dao mà chúng tôi vừa bàn đến.
3) Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu
1. Ai ơi ! Hãy ở cho lành,
Kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau.
2. Ăn trộm ăn cướp thành Phật thành Tiên,
Đi chùa, đi chiền, bán thân bất toại.
3. Bậu muốn tu thân,
Cho qua ở gần coi thử,
Đừng làm bất tử,
Mà hại chúng sinh.
Thầy chùa, qua đã thấy nhiều anh,
Miệng nọ tuy không sắc, lòng đành sắc không.
4. Cái trống sắc đỏ, cãi mõ sơn son,
Ông sư bà vãi có con rõ ràng.
5. Cây xanh thì lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Mừng cây rồi lại mừng cành,
Cây đức lắm chồi, người đức lắm con.
Ba vuông mà sánh bảy tròn,
Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu.
6. Có tiền thì hậu mới hay,
Có trồng cây đức mới dầy nên nhân.
7. Có vả mà phụ lòng sung,
Có chùa bên Bắc, bỏ miếu bên Đông tồi tàn.
8. Có phúc đẻ con biết lội,
Có tội đẻ con hay trèo.
9. Có phúc thì mới có lông,
Người nào vô phúc sạch không làu làu.
10. Có người rủ thiếp đi tu,
Thiếp rằng thiếp sợ lũ sư nó tồi.
11. Con ai đem bỏ chùa này,
Nam-mô đức Phật, con thầy thầy nuôi.
12. Của Bụt mất một đền mười,
Bụt hãy còn cười Bụt chửa lấy cho.
13. Cứu vật, vật trả ơn,
Cứu nhơn, nhơn trả oán.
14. Chàng ơi ! trầy sớm kẻo trưa,
Cửa nhà cậy mẹ, nắng mưa nhờ trời.
Em đi cầu khẩn Phật, Trời,
Biết than cùng Trời, biết thở cùng ai.
15. Chớ khinh chùa Tích không thờ,
Mà đem xôi oản cúng thờ gốc cây.
16. Chuyến này ta quyết đi tu,
Ăn chay nằm mộng ở Chùa Hồ Sen.
17. Chuông khánh còn chẳng ăn ai,
Huống là mảnh chĩnh ném ngoài bụi tre.
Chuông khánh còn chửa ăn chè,
Huống chi mảnh chĩnh rò rè ăn xôi.
18. Đầu trọc lông lốc bình vôi,
Mẹ ngồi mẹ ỉa, mẹ bôi lên đầu.
19. Đầu trọc lông lốc bình đào,
Nhà ai có cỗ thì vào gậm xương.
20. Đất bụt mà ném chim trời,
Chim thời bay mất, đất rơi xuống đầu.
21. Đến đây thấy cảnh thấy trời,
Tuy vui đạo Phật, chưa khuây lòng người.
22. Đi tu Phật bắt ăn chay,
Thịt chó ăn được, thịt cầy phải kiêng.
23. Đi với Phật mặc áo cà sa,
Đi với ma thì mặc áo giấy.
24. Đi trước thời sước cỏ gà,
Về nhà đọc kinh, ra đình chết chém.
25. Đời xưa trả báo còn lâu,
Đời nay trả báo bất câu giờ nào.
26. Đời xưa trả báo còn chầy,
Đời nay trả báo một giây nhãn tiền.
27. Em là con gái Phủ-từ,
Lộn chồng trả của theo sư chùa Viềng.
Đói ăn thịt chó nấu riềng,
Bán rao mảnh bát lấy tiền nộp cheo.
28. Em như cây quế trong rừng,
Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay.
Anh như cây phướn Nhà Chay,
Em như chiếc đũa, sánh bày sao nên.
29. Gần chùa phong cảnh mọi đàng,
Ở gần thợ nhuộm vẻ vang mọi màu.
30. Gần chùa gọi Bụt bằng anh,
Thấy Bụt hiền lành, bế Bụt đi chơi.
31. Hễ muốn ra con người tử tế,
Phải dễ dàng, chớ để ai hờn.
Làm ơn, ắt hẳn nên ơn,
Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ.
32. Hoa sen lai láng giữa hồ,
Giơ tay ra bẻ, sợ chùa có sư.
33. Hôm nay mười bốn mai rằm,
Ai muốn ăn oản lên nằm với sư.
34. Lâm râm khấn vái Phật Trời,
Xin cho cha mẹ sống đời nuôi con.
35. Lên chùa, lạy Phật Thích-Ca,
Lạy ông Tam-Thế, Vua Cha Ngọc-hoàng.
Bước ra kết nghĩa cùng chàng,
Túi anh có nhẫn cho nàng đeo tay.
Dù ai bấm chí cô bay,
Thì nàng giữ mãi nhẫn này cho anh.
36. Lên yên khó nỗi giục yên,
Tiền căn báo hậu nhãn tiền thấy chưa.
37. Mặc ai chác lợi mua danh,
Miễn ta học đặng đạo lành thì thôi.
38. Miếu thiêng chẳng có ai thờ,
Tay ai thanh tịnh xin nhờ thắp hương.
39. Một năm là mấy tháng xuân,
Ăn chơi cho thỏa phong trần ai ơi !
Một năm là mấy tháng mười,
Ta đi mua nồi về đúc tiền công.
Ta đi mua đồng về đúc bồ lao,
Bây giờ tình nghĩa làm sao,
Cho chuông chẳng bén, bồ lao chẳng bền.
Xưa kia chuông ở trên đền,
Bây giờ chuông tuếch, chuông toác bỏ rền cầm canh.
40. Muốn ăn oản Bụt cho thơm,
Những như cơm nếp ở nơm trong nhà.
41. Mua tu chùa ngói Bụt vàng,
Chùa tranh Bụt đất ở làng thiếu chi.
42. Muốn đi tu công phu không khó,
Muốn đi chùa không mõ không chuông.
43. Muốn ăn oản Bụt cho thơm,
Ba đồng gạo nếp thì đơm cả ngày.
44. Mười năm lưu lạc giang hồ,
Một ngày tu tác cơ đồ lại nên.
45. Na-mô Bồ-tát,
Chẻ lạt đứt tay, Đi cày trâu húc,
Đi xúc phải cọc, Đi học thầy đánh,
Đi gánh đau vai, Nằm dài nhịn đói.
46. Na-mô Quan-Thế-Âm Bồ-tát,
Ai đi xớn xác, bỏ quên cái rìu.
Na-mô Bát bộ kim cang,
Giống nó kềnh càng, làm sao cho được ?
Na-mô Đại-từ Đại-bi,
Tháo cán bỏ đi, lấy liền cái lưỡi.
47. Na-mô A-di-dà Phật,
Đổ mật vào nồi, chưa sôi đã nếm.
48. Na-mô Bồ-tát, bồ hòn,
Ông sư bà vãi quận tròn lấy nhau.
49. Na-mô đức Phật Quan-âm,
Bao nhiêu vãi mầm thì lấy tiểu tôi.
50. Na-mô một bồ dao găm,
Một trăm con chó, một lọ mắm tôm,
Một ôm rau húng, một thúng rau răm.
51. Nam-mô một bồ dao găm,
Một trăm dao mác,
Một vạc dao bầu,
Một xâu thịt chó.
52. Nắm tóc ngôi, tóc ngôi dài,
Nắm tóc mai, tóc mai cụt.
Cầu Trời, khấn Bụt cho tóc mai dài,
Bao giờ tóc chấm ngang vai,
Thì ta kết ngãi làm hai vợ chồng.
53. No thì ra Bụt, đói ra ma,
Chẳng là nhân tình đất kẻ ta.
54. Nực cười thầy bói soi gương,
Thầy tu chải lược, người tu bực mình.
55. Nghiêng tay ngửa vái Phật Trời,
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân.
56. Ngó qua chùa lớn làm chay,
Thỉnh ông Tiêu Viện, thỉnh bà Quan-âm.
57. Ngồi rồi may túi đựng trời,
Đan phênh chắn gió, giết voi xem giò.
Ngồi rồi vác thước đi đo,
Đo từ núi Sở đo lên Chùa Thầy.
58. Người đời khác thể phù du,
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng.
59. Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta trồng cây đức để đời về sau.
60. Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta tu lấy đức để đời cho con.
61. Người ta đi giáo tiền, giáo gạo,
Tiểu tôi đi giáo áo, giáo nồi.
Nhà nào công đức thì thôi,
Nhà nào đi vắng tiểu tôi giáo bò.
62. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng,
Nhìn lâu mới biết chẩu chàng trời mưa.
63. Ông cha kiếp trước khéo tu,
Nên sanh con cháu võng dù nghênh ngang.
64. Ở đây gần cảnh nhà chùa,
Lẽ đâu có lẽ chuyện trò trăng hoa.
Trúc mai sum họp một nhà,
Song tình đạo nghĩa đã già đồng cân.
Cũng liều phó thác cái thân,
Khi vui cũng một Tấn Tần mà thôi.
65. Ở hiền thì lại gặp lành,
Ở ác gặp dữ tan tành như tro.
66. Quả bảo : ăn cháo gãy răng,
Ăn cơm gãy đũa, xỉa răng gãy chầy.
67. Rằm Trời, rằm Bụt, rằm Tiên,
Rằm đâu đến chú, chú nhăm hôm rằm.
68. Rèm xưa ba bức mành mành,
Con mắt cô mày thế ấy tu hành được đâu.
69. Rủ nhau đi cúng Chùa Tiên,
Cúng cam cúng quít kinh dâng ông thầy.
70. Rút dây còn sợ động rừng,
Bán đầu thằng trọc, nể lòng ông sư.
71. Sinh không, tử lại hoàn không,
Khó ta, ta chịu đừng mong giàu người.
72. Sơn-bình, chợ Lối chẳng xa,
Cách một cái quán, với ba quãng đồng.
Chẳng tin, đứng lại mà trông,
Bên tây có miếu, bên đông có chùa.
Ở trong lại có đình thờ,
Em còn kén chọn bán mua chốn nào.
73. Sư tu đâu, tiểu tôi tu đấy,
Oản với chuối ta cùng ăn chung.
Rục tùng xòe ta rung não bát,
Dốc một lòng thế phát đi tu.
74. Sư đương tụng niệm Nam-mô,
Thấy cô xách giỏ mò cua bên chùa.
Lòng sư luống những mơ hồ,
Bỏ cá kinh kệ tìm cô hỏi chào.
Ai ngờ cô đi đàng nào,
Tay cầm tràng hạt ra vào băn khoăn.
75. Tu cho trọn kiếp bụi hồng,
Kẻo già lại tiếc rằng lòng từ bi.
76. Tuy rằng ăn ở chùa này,
Tiền lưng gạo bị cúng thầy chùa kia.
77. Thà rằng biệt tịch chi đồ,
Càng trông thấy cảnh, thầy chùa càng thương.
78. Tham thì thâm,
Bụt đã bảo thầm rằng chớ có tham.
79. Thầy thiếp là thầy thiếp ơi !
Nay chuông, mai trống cho tôi động lòng.
Bốn con, tôi bỏ cho chồng,
Tôi theo thầy thiếp, cực lòng tôi thay.
80. Thứ nhất thì bầu Chi-lăng,
Thứ hai cây khế Đồng-đăng Kỳ-lừa.
Đồng-đăng có phố Kỳ-lừa,
Có nàng Tô-thị có chùa Tam-thanh.
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải vui quên hết lời em dặn dò.
Gánh vàng đi đổ sông Ngô,
Đêm nằm mơ tưởng đi mò sông Thương.
Vào chùa, thắp một nén hương,
Miệng khấn, tay vái bốn phương chùa này.
Tôi đi tìm bạn tôi đây,
Bạn tôi thấy khó, bạn nay chẳng chào.
Chắp tay vái lạy con sào,
Sông sâu chẳng biết, thấp cao chẳng từng.
81. Trăm thức hoa đua nở trên cành,
Thung dung tam bảo chúng sinh đôi đường.
Chớ hoa từ bi kia còn dãi nắng dầm sương,
Hoa lan, hoa huệ, anh thương hoa nào ?
Anh còn thương hoa mận hoa đào,
Hoa cam, hoa quít biết vào tay ai !
Hoa đào kia chửa thắm đã phai,
Thoang thoảng hoa lài nó lại thơm lâu.
Ai ơi chớ phụ hoa ngâu,
Hoa bí, hoa bầu cũng gọi là hoa,
Chơi hoa cho biết mùi hoa.
82. Trên ba thu, dưới lại ba thu,
Con mắt lóng lánh chẳng tu được nào.
83. Trọc đầu mang tiếng bất lương,
Kìa như có tóc cũng phường gió trăng.
84. Trọc đầu mang tiếng bất lương,
Sinh tôi sao chẳng chọn ngày mà sinh.
85. Trong ba mươi sáu đường tu,
Đường nào phú quý phong lưu thì làm.
86. Trồng cây chua, ăn quả chua,
Trồng cây ngọt, ăn quả ngọt.
87. Trời Phật thì ở trên mây,
Nhiều tiền đong đầy, ít tiền đong vơi.
88. Vô chùa thắp hết lọn nhang,
Miệng Nam-mô A-di-đà Phật,
Nguyện cùng trời chùa chật cũng tu.
89. Vợ sư sắm sửa cho sư,
Áo đen, tràng hạt, mũ lư tày rành,
Để sư sướng khiếp bành bành.
90. Vui xem hát, nhạt xem bơi,
Tả tơi xem hội,
Bối rối xem đám ma,
Bỏ cửa bỏ nhà đi xem rước cụ đạo.
III. CĂN BẢN CỦA DÂN TỘC TÍNH
Trong Thi ca bình dân tập II chúng tôi đã bàn qua về dân tộc tính. Tuy nhiên, ở đây chúng ta lại phải nhắc đến một lần nữa để xác định chiều hướng tư tưởng của một dân tộc khi muốn khảo cứu về quan niệm vũ trụ của họ.
Cũng như nhân sinh quan và xã hội quan, quan niệm về vũ trụ của một dân tộc bao giờ cũng phát nguồn từ dân tộc tính. Tính chất riêng biệt của một dân tộc không những tạo cho họ những cảm nghĩ về đời sống bản thân, về tổ chức hợp đoàn, mà còn đưa họ vào những suy tư riêng đối với mọi biến động của sự vật.
Từ một nhà bác học đến một kẻ bình dân, không một ai không đem suy tư hòa với trạng thái biến động của sự vật, của thiên nhiên, để rồi tự đặt cho mình một nhận định. Nhận định đó chính là quan niệm về vũ trụ. Nhưng đối với các nhà bác học thì suy tư của họ được liên kết và chứng dẫn thành một hệ thống tư tưởng, còn đối với người bình dân thì suy tư của họ chỉ là những mảnh vụn, không được nối ráp, cho nên nhận định của họ chỉ nằm trong cảm giới mà không được đúc kết thành hệ thống tư tưởng như các nhà bác học. Dù vậy, những suy tư của họ không phải thiếu giá trị, bởi vì có một nhà khảo cứu nào không nhờ vào thực nghiệm mà có thể đem khả năng lý trí đúc thành một hệ thống suy tư được !
Đó là nói về tính chất cá nhân. Còn nói đến tính chất dân tộc thì khác. Sản phẩm của dân tộc không còn là sản phẩm cá nhân. Nó kết tinh bằng thời gian, không gian, trở thành dòng lịch sử biến động của tư tưởng. Từ một suy tư cá nhân, hòa hợp với những suy tư của tập thể, di lưu bằng thời gian, không gian, và được xác nhận trong hiện hữu, bảo tồn mãi cho đến ngày nay. Như vậy, nguồn suy tư ấy tuy chưa đúc kết thành hệ thống triết học, mà căn bản đương nhiên mang một giá trị bất diệt với dân tộc.
Cho nên, khi chúng ta thừa nhận giá trị của dân tộc tính, và suy tư của mỗi dân tộc là căn bản tư tưởng tác động vào nếp sống của họ, thì chúng ta không thể không nói đến khi bàn qua ý thức triết học của họ.
Vừa rồi, chúng ta đã cứu xét những quan niệm tương đồng và bất tương đồng của Khổng-học, Lão-học và Phật-học đối với người bình dân Việt-nam trong lịch sử văn học, những quan niệm tương đồng và bất tương đồng ấy, dĩ nhiên là lập trường tư tưởng, mà cũng chính là hệ thống suy tư của dân tộc.
Nói cách khác, khi chúng ta tán đồng hay phản đối một ý kiến, một lập trường của kẻ khác, chúng ta chưa trình bày quan điểm của chúng ta, kẻ khác cũng thấy rõ phần nào căn bản tư tưởng của chúng ta rồi. Huống chi, dân tộc Việt-nam, trong thi ca bình dân, tuy chưa phải là một hệ thống ý thức, song nếu chúng ta đem những quan niệm tương đồng và bất tương đồng đối với những hệ thuyết khác, cộng với những suy tư căn bản được truyền tụng qua thời gian, không gian, tại sao chúng ta không thể đi đến một kết luận là tìm thấy một vũ trụ quan của dân tộc ?
Lý luận trên đã dẫn chúng tôi vào một khu vườn – tài sản của tổ tiên chúng ta để lại chưa từng khai phá – chúng tôi muốn nói đến khu vườn tư tưởng.
Và, đến đây chúng tôi đã đi trọn hai phần đường. Chúng tôi đã đưa các bạn vào hai lãnh giới của khu vườn ấy : nhân sinh và xã hội.
Chúng tôi nghĩ rằng công trình ấy không có gì đến nỗi quá tham lam và táo bạo. Ngược lại, chúng tôi cho là một bổn phận.
 Không gì phũ phàng và buồn tủi cho bằng tổ tiên để lại một tủ sách mà con cháu đã không hề đọc đến, lại không biết gìn giữ nó. Cũng không gì đau khổ cho bằng khi con cháu lớn lên xóa bỏ hình bóng của tiền nhân trong tâm giới của mình.
Chúng ta hãy mạnh dạn bước vào khu vườn tư tưởng của tiền nhân chúng ta để lại. Vào đó, không ai có tầm mắt sáng suốt hơn chúng ta, bởi vì trong con người chúng ta đang mang sẵn một tình cảm phù hợp với tổ tiên chúng ta, gần gũi vởi tổ tiên chúng ta. Một người biệt chủng không thể đem những tình cảm của họ nhận định, phân tích, phê phán, những gì của tổ tiên chúng ta để lại, dù kẻ ấy là một bậc thông thái đến đâu.
Sở dĩ chúng tôi có mấy lời tâm tình trên đây, vì trong mục này chúng tôi sắp mời các bạn, những người cùng chung một dòng máu, một cảm giác, một nếp sống, một lịch sử xã hội, cùng chúng tôi bước vào lãnh giới thứ ba của khu rừng tư tưởng tiền nhân : đó là phần vũ trụ quan của dân tộc.
Trước khi bước vào địa hạt này, chúng tôi xin xác định công việc làm chúng tôi bằng những quan niệm sau đây :
Tại sao khi vào đề quyển Thi ca bình dân III chúng tôi không dựng lên một hệ thống tư tưởng về vũ trụ quan, mà lại khảo sát những lập trường tư tưởng của nước ngoài có liên hệ đến dân tộc ? Về điểm này, chúng tôi xin giải đáp :
- Đối với công trình khảo cứu, điều tối kỵ là phạm vào chủ quan. Chúng tôi không muốn dùng chủ quan để cưỡng đạt một hệ thống tư tưởng, mặc dù đây là của tiền nhân chúng ta, của riêng của chúng ta.
Đối chiếu với lập trường tư tưởng bên ngoài có trực tiếp ảnh hưởng với dân tộc, chúng ta sẽ thấy những tương đồng và dị biệt, trước khi xác định một hệ thống suy tư. Như vậy, chúng ta sẽ không e sợ lầm lẫn lớn lao đối với tiền nhân chúng ta.
Chúng tôi quan niệm rằng ý thức hiện hữu của tiền nhân di lưu qua dòng lịch sử văn học mới là căn bản có đầy đủ giá trị để chứng minh những gì chúng ta muốn nói về họ. Tiền nhân đã bày tỏ ý thức của họ qua mọi đụng chạm với hệ thống suy tư của nước ngoài, thì đó cũng là căn bản tư tưởng của họ đúc kết bằng thời gian, không gian, tạo thành khu vườn tư tưởng, để lại cho chúng ta ngày nay.
Chúng ta đã bước vào đấy. Nhưng chúng ta cũng không phải là người đầu tiên, và cũng không là người cuối cùng. Công trình chúng ta chỉ là vết tích của kẻ làm vườn. Vườn hoa càng có nhiều dấu đào xới chứng tỏ càng nhiều người lưu tâm chăm sóc thẩm mỹ thêm lên. Đối với kẻ bàng quan, họ chỉ đến để ngắm nghía, phê phán theo quan niệm riêng của họ. Nhưng đối với chúng ta, tài sản của tổ tiên, chúng ta chẳng những đến để ngắm nghía, tìm tòi những cái lạ, mà còn có bổn phận sắp xếp cho khang trang, trình bày những cái hay, cái đẹp, để du khách nước ngoài không khinh thường hay chê cười, và tiền nhân chúng ta có thể hãnh diện với đàn con không đến nỗi mất gốc.
Sau vài phút suy tư, xin mời các bạn cùng chúng tôi bước vào lãnh giới thứ ba của khu vườn.
*
Trở về tính chất thần thoại mà chúng ta đã khảo sát, chúng ta thấy rằng thần thoại Việt-nam không giống như thần thoại Trung-hoa và Ấn-độ… Tính chất thần thoại Việt-nam xem mọi hiện tượng vũ trụ là một trạng thái biến động, tương quan, bình đẳng theo qui luật tất yếu. Chính quan niệm này đã tác động vào ca dao những tính chất sau đây :
Không xem thần thánh như là những tạo-vật-chủ, có quyền uy tuyệt đối trong cuộc sống loài người, mà chỉ là những năng lực thiên nhiên, hoặc siêu nhiên, tác động theo qui luật của bộ óc con người.
Thế giới thần linh không là một thế giới đứng ngoài thế giới loài người để cai trị, hoặc điều khiển theo ý muốn.
Mỗi tác động của năng lực thiên nhiên đều bình đẳng, không phân giai cấp, không thiên vị cá nhân.
Với ba tính chất trên, người bình dân đã để lại trong ca dao họ những tâm tư :
không tôn trọng quyền uy tuyệt đối của thần linh.
không có những tiểu sử của thần linh.
xem mọi sinh vật trong vũ trụ như là những cá thể bình đẳng, tương quan trong lẽ sống. 1
Từ tính chất thần thoại ấy, tâm tư người bình dân vượt ra ngoài bản chất giai cấp xã hội, đòi hỏi ở lẽ sống con người mọi tự do, bình đẳng và bác ái.
Chúng ta không lấy làm lạ khi thấy tâm tư người bình dân gần gũi với muôn vật, đặt địa vị con người ngang với địa vị của sinh vật khác. Đó chính là tính chất bình dẳng từ căn bản vũ trụ, đưa đến nhân sinh. Chúng tôi lấy vài ví dụ :
Chiều chiều con quạ nó đứng chuồng heo,
Nó kêu bớ mẹ, bánh bèo chín chưa.
Hoặc : Con cu bay bổng qua sông,
Hỏi thăm chị bảy có chồng hay chưa.
Hay : Cái cò, cái vạc, cái nông,
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò ?
Không, không, tôi đứng trên bờ,
Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi.
Chẳng tin thì ông đi đôi,
Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.
Chúng ta thấy người bình dân đặt xã hội loài người ngang hàng với xã hội loài vật, xem loài vật cũng như loài người.
Tại sao họ có quan niệm như vậy ? Trước hết, họ cảm thấy mọi sinh vật trong vũ trụ đều là sản phẩm của thiên nhiên. Giá trị về lẽ sống không có một ranh giới nào phân chia được. Vũ trụ không thể chỉ có loài chim mà không có loài thú, cũng như không thể chỉ có loài người mà không có loài vật, hoặc cỏ cây. Nói chung, vạn hữu đều có một giá trị tương đương trên phương diện tất yếu của luật sinh tồn và hủy diệt trong vũ trụ.
Sở dĩ con người tự đặt giá trị mình lên trên muôn vật, chỉ vì con người có trí khôn và lòng ích kỷ.
Trí khôn và lòng ích kỷ chỉ có giá trị về khả năng tranh đoạt tự tồn, chớ không thể đặt giá trị ấy vào tính chất hiện diện của vạn hữu trong vũ trụ.
Người bình dân không đặt giá trị của lẽ sống con người lên trên giá trị lẽ sống của muôn vật, vì họ quan niệm con người cũng chỉ là một sinh vật như những sinh vật khác. Nếu những sinh vật khác vẫn phải chịu luật biến động thiên nhiên, vẫn phải sống trên yếu tố tự lực tự tồn, thì con người cũng phải chịu những qui luật chung ấy. Và qui luật chung ấy chính là trạng thái bình đẳng của muôn loài.
Khi con người cảm thấy mình khổ cực, hoặc bị đe dọa trước mọi biến động thiên nhiên, tức là con người đã bắt đầu đem vào tâm tư một ý thức tự kỷ. Từ ý thức tự kỷ, con người thấy cần phải tranh đấu. Và thay vì tranh đấu chung cho loài người, con người lại nẩy ra ý nghĩ tranh đấu riêng cho giai cấp, cho cá nhân.
Ý thức phân chia giai cấp, tách rời địa vị con người với muôn vật, chính là một ngả rẽ mà con người đã bắt nguồn từ dục vọng cá nhân đi lần tới.
Mặt khác, khi trộn lẫn nguồn sống con người với nguồn sống muôn vật, người bình dân xem những hiện tượng thiên nhiên đều bình đẳng, ngoài ý thức hệ con người.
Kết quả trên đây về quan niệm vũ trụ của người bình dân Việt-nam đã làm cho tính chất thần thoại mang màu sắc dân tộc, mà chúng ta vừa bàn đến.
Cho nên, khi chủ trương một vũ trụ quan không giai cấp, và bình đẳng giữa muôn loài, vạn vật trong qui luật thiên nhiên, thì người bình dân lại xem những tác động và địa vị của thần linh cũng chỉ là những tác động trong qui luật vũ trụ, và được đặt ngang với lẽ sống con người.
Từ căn bản quan niệm vũ trụ như vậy, chúng ta dẫn đến ý thức tương đồng và dị biệt với mọi triết thuyết bên ngoài.
Về Khổng-học : Chúng ta thấy người bình dân có những tương đồng như thực hiện lòng nhân, tôn trọng lẽ sống vị tha chẳng hạn… thì đó là chuyện tất nhiên. Bởi vì người bình dân Việt-nam xem mọi sinh vật trong vũ trụ kể cả loài người, đều bình đẳng trước qui luật thiên nhiên. Lòng nhân và lẽ sống vị tha ấy phù hợp với quan niệm về vũ trụ của họ.
Nhưng, khi Khổng-học chủ trương dùng lễ, nhạc cảm hóa con người, đặt con người vào một khuôn khổ để phục vụ trật tự xã hội phong kiến, làm mất quyền bình đẳng thiên nhiên của vạn hữu, thì người bình dân tỏ ra dị biệt.
Cho nên, nếu chúng ta đem ý thức về vũ trụ của người bình dân phân tích rõ ràng thì những tương đồng và dị biệt đối với các hệ thống tư tưởng khác, chúng ta không lấy gì làm lạ.
Về Lão-học : Chúng ta cũng thấy người bình dân có những tương đồng và dị biệt. Tương đồng ở chỗ, Lão-học đưa ý thức con người về trạng thái thiên nhiên, hợp với vũ trụ quan của họ. Tuy nhiên, khi Lão-học chủ trương dùng lý tính điều khiển bản năng, thì người bình dân xem đó là điều thiếu thực tế. Bởi vì người bình dân xem vạn hữu trong vũ trụ, kể cả trí khôn con người, đều là sản phẩm của thiên nhiên. Vũ trụ không thể thiếu loại thảo mộc, loài thảo mộc không thể sống mà không trổ hoa, đơm trái, thì loài người cũng không thể sống mà đem trí thức bỏ riêng ra ngoài biến động của vũ trụ được. Trí thức không phải của riêng con người, mà là năng lực của vạn hữu, và phải tác động phù hợp với khả năng và tính chất của nó.
Mùa Hạ trời oi ả, mùa Đông trời giá rét. Oi ả và giá rét chỉ là hai đối tượng để đưa đến mát mẻ của mùa Xuân, và cái đìu hiu của mùa Thu. Thế thì tại sao chúng ta không thích mùa Hạ và mùa Đông ?
Thời gian không thể đứng lại, không gian không thể tách rời qui luật biến động của vạn linh. Cho nên đưa con người trở về thiên nhiên không có nghĩa là làm mất tính chất con người trong qui luật vũ trụ.
Điều cốt yếu là người bình dân quan niệm vũ trụ tác động trong qui luật mâu thuẫn thăng bằng. Những hiện tượng cực đoan đều đi đến hủy diệt, mà dục vọng cá nhân luôn luôn tự tìm đến cực đoan để tự diệt, gây đau khổ cho đời sống con người. Trí thức con người lẽ ra đem dùng trong quan hệ vũ trụ, tức là đi tìm lấy mọi điều hòa để giữ cho cơ năng vũ trụ được thăng bằng, thì loài người lại đem trí thức phục vụ cá nhân, gây cho xã hội những trạng thái mâu thuẫn cực đoan để hủy diệt, mà không giữ lấy mâu thuẫn thăng bằng để tự tồn.
Như vậy, cái dị biệt của quan niệm người bình dân Việt-nam đối với Lão-học là ở chỗ không hủy bỏ trí thức con người ngoài lẽ sống, mà dùng trí thức để điều hòa vũ trụ.
Ý thức khác biệt ấy bộc lộ qua những câu ca dao luận về khôn dại như :
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Người khôn con mắt đen sì,
Người dại con mắt nửa chì, nửa thau.
Vợ khôn lấy thằng chồng dại,
Tỷ như hoa lài cặm bãi cứt trâu.
Đã đem trí thức đặt vào lẽ sống, chủ trương người bình dân Việt-nam tách rời quan niệm « vô vi » của Lão-học. Họ cho rằng sống cần phải tranh đấu, nhưng tranh đấu không phải là tôn thờ dục vọng cá nhân, theo quan niệm ích kỷ, mà phải tranh đấu cho phù hợp với qui luật thiên nhiên để tự tồn, nghĩa là dùng trí thức điều hòa lẽ sống con người trong yếu tố mâu thuẫn thăng bằng.
Mặt khác, khi chủ trương đem ý thức tranh đấu cho lẽ sống, quan niệm người bình dân đối với Lão-học còn dị biệt ở chỗ người bình dân đặt tương quan kinh tế vào ảnh hưởng tâm giới con người. Họ quan niệm dục vọng cá nhân không hoàn toàn do nội tại tác động, mà một phần lớn chịu ảnh hưởng của ngoại năng. Cho nên, tính chất phát triển về kinh tế xã hội rất tương quan đến bản thể và dục vọng con người, chúng ta không thể đem lý trí kềm hãm dục vọng được, nếu chúng ta không chú trọng ở sự phát triển chênh lệnh của guồng máy kinh tế xã hội.
Tóm lại, do quan niệm vũ trụ của người bình dân Việt-nam xem vạn hữu là một khối, tác động trong hệ thống mâu thuẫn và tương quan nên đã trái với Lão-học trong chủ trương « vô vi » và « xuất thế ».
Về Phật-học : Phật-học chủ trương luân hồi và nhân quả. Hai qui luật này đem đối chiếu với ý thức xem vạn hữu mâu thuẫn và tương quan trong hệ thống thăng bằng của người bình dân thì những tương đồng và dị biệt không xa cách nhau lắm. Tuy nhiên, đi sâu vào con đường giải thoát nhân sinh, ý thức tu hành của Phật-học và ý thức đấu tranh để tự tồn của người bình dân lại xa cách.
Sự dị biệt ấy cũng là do quan niệm của người bình dân xem năng lực ngoại tại có ảnh hưởng rất mạnh đối với nội tâm, mà ý thức con người không thể hoàn thành được sứ mệnh nếu không quân bình được trạng thái biến động do năng lực phát triển bên ngoài. Cho nên, với quan niệm vũ trụ của họ, tu hành chỉ mới áp dụng được một mặt về đường lối giải thoát cho nhân sinh, mà còn phải tranh đấu với mọi khả năng phát triển chênh lệch (mất quân bình) về trạng thái vật chất, mới hoàn thành được ý nghĩa cao đẹp của loài người.
*
Để tóm tắt phần đúc kết trên đây, chúng tôi xin lập lại :
Trái với mọi triết thuyết bên ngoài, người bình dân Việt-nam từ xưa đến nay đã chứng minh một quan niệm vũ trụ riêng biệt của dân tộc qua dòng lịch sử văn học bình dân trong quá trình đấu tranh xã hội.
Vạn hữu trong vũ trụ đều tương quan, tác động theo qui luật mâu thuẫn thăng bằng để tự tồn.
Với quan niệm ấy, người bình dân không đem suy tư của cá nhân hệ-thống-hóa cơ năng vũ trụ, hoặc đặt con người ra ngoài qui luật tất yếu của vũ trụ, mà họ chỉ thực hiện hai điểm cốt yếu trong lẽ sống của họ là :
a) Lấy thực nghiệm đi tìm cơ cấu vũ trụ.
b) Tổ chức sinh hoạt con người hợp với biến chuyển thiên nhiên.
Để chứng minh tinh thần đó, chúng ta sẽ khảo sát hai đề mục trên đây trong phần kế tiếp :
a) LẤY THỰC NGHIỆM ĐI TÌM CƠ CẤU VŨ TRỤ
Nếu đã thừa nhận vũ trụ tác động theo qui luật tất yếu ngoài ý thức con người, thì con người muốn hiểu cơ năng vũ trụ, dĩ nhiên phải đem ý thức để tìm những biến chuyển thiên nhiên, đúc kết thành ý thức hệ, tức là tự mình dựng nên một vũ trụ quan.
Các triết gia từ xưa đến nay đã làm công việc này và tạo thành một lịch sử triết học trong ý thức xã hội loài người. Công trình ấy đã góp phần vào lịch sử văn minh thế giới ; bởi vì, nền văn minh của mỗi dân tộc đều bắt nguồn do ý thức hệ cả.
Tuy nhiên, cho đến ngày nay, chưa một triết gia nào, chưa một dân tộc nào có thể thỏa mãn với những gì do ý thức con người đã tìm thấy. Phải chăng cơ năng vũ trụ là cái gì huyền vi ngoài tầm hiểu biết con người ?
Chính vì vậy mà lớp người của thế hệ chúng ta ngày nay đặt vấn đề xét lại tất cả những gì tiền nhân đã xác định và tôn thờ. Nói cách khác, qua bao nhiêu đổi thay của trào lưu thế giới, người của thế hệ chúng ta phủ nhận mọi suy tư cố hữu, đi tìm một ý thức mới cho hợp với lẽ sống đương thời. Hiện tượng này phát lộ rõ rệt qua các biến cố văn học các nước sau hai lần thế giới đại chiến. Phải chăng đó là một bằng chứng nói lên sự bất lực của ý thức con người đối với thiên nhiên ?
Thật vậy, con người càng đi tìm lẽ sống để giải thoát con người thì lại càng đem đến cho loài người những hoài nghi về suy tư và hành động của mình.
Ở những bài tựa của nhiều quyển sách luận về triết học, chúng tôi đã gặp rất nhiều lời than phiền. Ví dụ :
Từ trước đến nay loài người đã bỏ không biết bao nhiêu công phu đi tìm lẽ sống, nghĩa là đem mọi suy tư của khối óc tìm hiểu vũ trụ, tìm hiểu mọi cơ năng diễn biến của vạn hữu.
Nhà tu hành căn cứ vào diễn biến của vạn hữu đặt lòng tin nhân loại được đấng Cứu-thế, hoặc đặt nhân loại trước qui luật luân hồi, nhân quả… để đưa con người đến chỗ đạo đức, thoát khỏi vòng xâu xé, tước đoạt vạn hữu.
Nhà chính trị đi tìm lẽ sống con người bằng cách tạo một thế hệ an ninh cho tổ chức xã hội loài người.
Nhà khoa học đi tìm lẽ sống con người bằng cách khám phá, phát minh những phương tiện nhằm mục đích phục vụ nhân sinh.
Nhà kinh tế học lo nghiên cứu phương pháp sản xuất, phân phối tài vật của xã hội, mong cho đời sống con người bớt lầm than.
Nhà văn học sáng tạo, góp nhặt các tác phẩm tinh thần mong kiến tạo cho loài người một nền văn minh trước lịch sử.
Tất cả đều mong mỏi đạt đến chủ yếu của mình. Tuy nhiên, cho đến nay, loài người càng bồi đắp cho lẽ sống con người bao nhiêu thì lẽ sống ấy càng đi đến chỗ lầm than.
Nhà tu hành càng đem năng lực phụng sự cho đạo đức thì đạo đức càng sa lầy. Thử hỏi, thế giới loài người đã bao giờ đồi trụy như lúc này chưa ?
Những gì gọi là lý tưởng, là chân, thiện, mỹ đáng phụng thờ thì ngày nay thực tế chỉ còn là thần tượng lu mờ trên chiếc ngai cũ kỹ.
Nhà chính trị càng cố gắng thiết lập những định chế này nọ với hy vọng ổn định trật tự xã hội thì xã hội loài người càng biến loạn thêm. Những cuộc chiến tranh đẫm máu giữa loài người, những cuộc cướp đoạt lẽ sống, những mưu mô thâm hiểm luôn luôn diễn ra tạo thành những xáo trộn trên thế giới, không đủ chứng minh sự bất lực của các chính trị gia trước cuộc sống loài người sao ?
Nhà khoa học càng tận dụng lý trí nghiên cứu kỹ thuật, phát minh, sáng chế, chinh phục thiên nhiên, càng đưa loài người đến gần nguy cơ diệt vong, nghĩa là văn minh cơ giới phụng sự cho loài người thì văn minh cơ giới cũng lại đe dạo cuộc sống loài người.
Nhà kinh tế học đem năng lực điều hòa guồng máy sản xuất, biến năng lực con người thành áo, thành cơm, thành tất cả mọi thức cần dùng cho cuộc sống, nhưng loài người cũng không thoát khỏi cảnh lầm than, cơ cực, và cảnh thiếu thốn vẫn là động cơ thúc đẩy con người đi vào đường cướp giựt để tự tồn, tự diệt.
Nhà văn học góp nhặt những suy tư làm nền tảng cho tinh thần nhân loại, nhưng càng góp nhặt, bồi đắp, càng thấy khủng hoảng, đổ vỡ, không thể dùng cho việc bồi đắp ngôi nhà lý tưởng của loài người.
Vậy thì lẽ sống con người là gì ? và ở đâu ?
Chúng ta hoài nghi. Thực tại cho phép chúng ta có quyền hoài nghi tất cả những gì mà từ xưa đến nay loài người đã và đang ca tụng, đã và đang theo đuổi… Chúng ta cần đặt lại vấn đề, xét lại mọi đổ vỡ ấy. Thế kỷ hai mươi là thế kỷ của chúng ta, mà chúng ta là hiện hữu. Hiện tại không phải là dĩ vãng, mà cũng không phải là tương lai. Tại sao bắt con người ngày nay phải sống theo dĩ vãng, sống theo những thế hệ mà màu thời gian, đối với ngày nay rất cách biệt ?
Ngày nay, chỉ hai tiếng ấy, chúng ta đã tự hào rằng trong người chúng ta có mức độ thời gian mà người xưa không thể có. Mọi vật diễn biến chung quanh chúng ta cũng đang chứa đựng một dung lượng thời gian mà dĩ vãng không thể có được.
Chúng ta cũng không sống theo ngày mai. Bởi vì ngày mai không là ngày nay. Tương lai của loài người cũng sẽ thay đổi theo nhịp độ và màu sắc thời gian của thế hệ ấy…
*
Trên đây là một trong những ý thức mới, ý thức chối bỏ những hệ thống suy tư cố hữu mà chúng tôi cần nhắc lại để chứng minh trạng thái thay đổi mà chúng ta vừa đề cập.
Trong quyển Xây dựng nhân sinh quan Phật-giáo do viện Đại-học Vạn-Hạnh xuất bản ngày 20-1-69, ông Thái-đạo-Thành có viết trong mục Triết lý dân tộc : « Nhân loại là một, nhưng dân tộc có nhiều. Mỗi dân tộc đều chịu ảnh hưởng của điều kiện địa dư, chủng tộc mà cấu tạo thành ý thức khác nhau. Cho nên, cái tuyệt đối chân lý : « Người làm chủ » trong vũ trụ, để khám phá vũ trụ, giúp ích cho đời sống người ở phần « tinh thần nhân chủ Phật-giáo »… khi bước sang địa hạt quốc gia dân tộc, đã trở thành tương đối chân lý – một thứ chân lý phát sinh bởi nhiều nguồn gốc chủng tộc, không thể phủ nhận được. Chứng minh cho lý lẽ trên, ta thấy tất cả những học thuyết nào đi ra ngoài con đường Phật giáo rồi chủ trương xóa bỏ tinh thần dân tộc tất đều đã bị thất bại… »
Theo ý thức trên, ông Thái-đạo-Thành đã đặt yếu tố dân tộc làm căn bản cho Phật-giáo, và phủ nhận tất cả những học thuyết nào tách rời khỏi tinh thần dân tộc.
Tiếp đến, ông đả kích hai học thuyết của Khổng-tử và Karl Marx. Ông viết :
*
« Thể nghiệm trong đau thương, người Việt có thể dẫn chứng hùng hồn bằng hai chủ trương đang có thế lực diệt chủng tàn bạo, phi nhân và phản tiến hóa sau đây… Để hiểu rõ thêm tính chất nguy hiểm của đạo Khổng mà đến nay các nhà giáo dục Việt-nam hãy còn có người mơ tưởng cho nó vẫn có giá trị như một thần tượng muôn đời bất dịch. Thiết nghĩ, người Việt cần vạch trần bộ mặt thật của học thuyết đó, xem nó đã đầu độc dân tộc ta như thế nào ? »
Về lịch sử luận : Khổng-tử đã khôn khéo đưa ra một xã hội lý tưởng thời Nghiêu, Thuấn, thực quá tốt đẹp – đẹp đến chẳng kém gì cảnh Thiên-đường, Cực-lạc của các tôn giáo – đẹp hơn cả cái xã hội cộng sản nguyên thủy của Karl Marx, khiến người đọc phải mơ ước, thèm muốn và phải bái phục. Chúng ta không hoàn toàn phủ nhận giá trị thời đại Nghiêu, Thuấn đó. Vì song song với Nghiêu, Thuấn, dân tộc ta cũng có một nền văn hóa Việt, với tổ chức xã hội khá chu đáo trong đời Hồng-bàng. Nhưng chúng ta cũng có quyền đặt vấn đề xét lại cái xã hội Nghiêu, Thuấn có lý tưởng thực như Khổng-tử mô tả không ? Điểm này chính con cháu ông ta là Bác-sĩ Hồ-Thích cũng đã đặt nghi vấn : « Phải chăng cái xã hội Nghiêu, Thuấn chỉ là một xã hội tưởng tượng của Khổng-tử, chứ chưa chắc đã có thật ? » Vấn đề xã hội Nghiêu, Thuấn Tàu có thực hay giả, ở đây ta chưa cần bàn đến, nhưng điều đáng bàn đến nhất chính là cái hậu quả của những người Việt đã trót tin tưởng vào xã hội đó, lấy nó làm khuôn vàng, thước ngọc cho xã hội mình, đến nỗi đại bác của Pháp bắn ở cửa Đà-nẵng mà triều đình Tự-Đức còn ngâm thơ đuổi giặc.
Về triết lý Khổng-tử : Ông Khổng đôi khi có nhắc đến vai trò con người, nhưng đó không phải là con người phổ biến, có mang sẵn Phật tính bên trong. Vì tiền bối của ông đã lầm lỗi ngay từ khi mang ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) vào việc phân chia trái đất làm năm phương, và tự dành cho mình được phần ở giữa (Trung-hoa) để tự coi mình là con trời, hầu lãnh đạo cả thế giới. Như vậy, thử tìm đâu ra thực sự nhân loại chủ nghĩa ? Hoặc có chăng thì đó cũng chỉ là thứ đạo đức giả để che giấu cái dã tâm của những kẻ tàn bạo, kiểu Hitler gần đây. Nên giá trị thực tế của học thuyết Khổng-tử chỉ là cái nhún đầu của Duy-sinh-phái, hiện đang được Mao-trạch-Đông nối tiếp bằng công tác phối hợp Đế-quốc thiên triều chủ nghĩa với chủ nghĩa marxisme, kiểu Stalin, thành một sức mạnh tinh thần đặng làm cho cả thế giới phải e ngại phòng bị, kể cả con người Tự-do lẫn Cộng-sản « xét lại »
…Ông Karl Marx cũng chỉ là một nạn nhân của một ảo tưởng « cứu thế » nên chủ nghĩa của ông đang bị hai quốc gia Nga và Trung-hoa lợi dụng, và dân Việt cũng đang là nạn nhân của chủ nghĩa không tưởng ấy.
Nguyên nhân : Bởi người Việt quá ngây thơ, tưởng lầm chủ nghĩa Karl Marx có thể đem hạnh phúc cho nhân loại nói rộng, và dân Việt nói hẹp…
*
Sau khi chỉ trích hai học thuyết Khổng-tử và Karl Marx, ông Thái-đạo-Thành ca tụng chủ trương của Phật-học. Ông viết : « Để giác ngộ hai ngụy thuyết trên, chúng ta có sẵn căn bản lý thuyết Phật-giáo. Chẳng cần phải khoe khoang hay nói tốt cho Đức Thích-Ca, đạo Phật cũng tốt đẹp rồi. Vì nó không bắt ai phải theo mình, không nhờ sức mạnh của súng gươm để truyền giáo mà đạo Phật vẫn tràn lan hầu khắp cõi Á-châu. Nhất là đối với người Trung-hoa có sẵn một truyền thống đế quốc, luôn luôn tự mãn về nền văn minh của họ, vậy mà chính dân tộc này đã phải cúi mình thờ Phật, tin Phật hơn tất cả các dân tộc khác… »
Những tư tưởng bất tương đồng trong ý thức hệ nếu chúng ta trích dẫn không sao hết được. Chúng tôi chỉ nêu lên vài quan niệm chống đối để chứng minh ý thức loài người không phải là một khối thống nhất. Lịch sử loài người càng đi xa thì ý thức con người càng rời rạc và mâu thuẫn hơn.
Tính chất mâu thuẫn phát hiện từ cá nhân đến toàn thể dân tộc, và rộng hơn nữa, từ Đông sang Tây.
Để chứng minh trạng thái mâu thuẫn trong ý thức con người đối với quan niệm vũ trụ, chúng ta thử lược dẫn một vài giai đoạn lịch sử trong hệ thống triết học thế giới.
Nói đến lịch sử triết học thế giới, chúng ta chỉ cần chú trọng đến sự khác biệt giữa hai hệ thống tư tưởng Đông-phương và Tây-phương.
Hiện nay, chúng ta có ba nền triết học căn bản, tạo thành ba nền văn minh đáng chú ý : Tây Âu, Ấn-độ và Viễn-đông.
Chúng tôi nói đáng chú ý, không phải với quan niệm đúng hay sai, mà ở chỗ ba nền triết học ấy đã đúc kết thành hệ thống suy tư, và mỗi hệ thống suy tư có một tính chất riêng biệt, tạo thành ý thức hệ chống đối lẫn nhau, mà các nhà nghiên cứu triết học thường phân biệt triết Đông và triết Tây.
Tuy rẽ đôi thành khác biệt, nhưng nguyên lý triết học nào cũng dựa trên biến chuyển thiên nhiên làm căn bản cho suy tư để đi tìm cơ cấu vũ trụ.
Biến chuyển thiên nhiên tức là sự thay đổi của thời gian, không gian và sự vật. Cho nên, khi nói đến nguyên lý của một nền triết học tức là nói đến quan niệm thời gian, không gian của nền triết học ấy :
1) Nền văn hóa Tây Âu
từ xưa, biểu tượng thời gian bằng thần Kronos, tay cầm bình cát, tay cầm lưỡi liềm. Bình cát tức đồng hồ cát. Căn cứ vào số cát trong bình chảy ra để xác định thời khắc. Cát trong bình chảy ra bằng đường thẳng, người Tây-phương gọi là Linéaire. Như vậy, chiều thời gian của nền triết học cổ điển Tây Âu là đường thẳng, gọi là vĩ tuyến. Còn lưỡi liềm biểu thị tính cách bất khả phục hồi, một đi không trở lại. Lưỡi liềm cứ đều đều chặt xuống, cắt đường thẳng thành từng khúc như bóng mặt trời từ ngày nọ đến ngày kia. Những gì đã qua đều biến mất trong dĩ vãng, không thể nào chắp nối nhau được nữa. Dĩ vãng, hiện tại, tương lai là ba đoạn thời gian cách biệt.
Nền văn hóa Tây Âu biểu tượng ý thức thời gian như vậy là do nền triết học Tây Âu khởi đầu từ quan niệm Platon, môn đệ của Socrate.
Theo Platon, thời gian chỉ là phụ thuộc của giác quan biến dịch, không có giá trị tự nội. Ý niệm con người tạo ra thời gian và thời gian chỉ là sản phẩm của ý niệm.
Chủ trương như vậy, Platon hoàn toàn tách rời ngoại năng và nội thức, cho nên coi thời gian không có gì quan hệ cả. Đến mọi sự vật bên ngoài, Platon cũng coi như cá thể trừu tượng. Mọi hình thái của sự vật cũng chỉ là sản phẩm của cảm giác con người.
Chối bỏ thực tế ngoại tại, chối bỏ năng lực tác dụng ngoại tại, Platon chỉ đứng một chiều tâm thức mà nhận xét cơ cấu thời gian. Vì vậy, đối với quan niệm Platon chỉ thấy có thời gian tâm thức mà không thấy có thời gian ngoại vật. Platon xem thế giới bên ngoài tâm thức là thế giới bất động. Những biến động bên ngoài chỉ là biến động của tâm thức mà thôi.
Sau Platon đến Aristote. Aristote không đồng ý với Platon chối bỏ thực thể ngoại tại. Ông đem ý niệm đặt vào sự vật gọi là mô hình. Từ mô hình đi đến hòa hợp vật chất rồi cấu tạo ra bản chất.
Từ đấy, triết học Tây Âu tiến lên một bực gọi là « triết học bản chất » (philosophie substantialiste), và cũng từ đấy mới có thời gian biểu lộ qua hữu thể, được giải thích bằng lối : ý niệm có trước rồi vật chất mới được cấu tạo sau.
Như vậy, Aristote cũng chỉ tiến hơn Platon có một bậc, từ chỗ chối bỏ hiện hữu đến chỗ thừa nhận hiện hữu. Nhưng hiện hữu cũng vẫn là do tâm thức cấu tạo.
Triết thuyết cổ điển này đã chi phối mọi nếp sống người Tây Âu cho đến ngày gần đây.
Sau đó, Newton quan niệm thời gian, không gian là thực thể biệt lập, không liên hệ đến sự vật. Nói cách khác, Newton cho thời gian, không gian là một hiện tượng chứa đựng sự vật.
Tuy vậy, Newton vẫn đưa nền triết học Tây Âu tiến thêm một bước nữa. Vì Newton bắt đầu gây một ý niệm thực thể độc lập với tâm thức.
Tiếp đến Leibnitz thì thời gian, không gian có vẻ liên kết hơn. Leibnitz coi không gian như một hiện tượng « đồng thời chung sống » của vạn hữu, còn thời gian như một trạng thái nối tiếp của mọi diễn biến. Như vậy, Leibnitz đã bắt đầu cảm thấy sự tương quan giữa thời gian và sự vật.
Đến Kant thì ông bác bỏ cả hai quan niệm trên, và chủ trương không gian, thời gian chỉ là hiện hữu đã in sẵn trong trí giác con người, không có liên hệ gì đến sự vật, ngược lại, sự vật phải tuân theo cái khung hiện hữu ấy.
Tuy Kant đã tiến thêm một bước, bắt đầu ý niệm đưa thời gian ngoại vật ngược vào thời gian tâm tư, song cũng chỉ quan niệm rời rạc, chưa đúc kết được hai yếu tố không gian, thời gian có tương quan với nhau như một thực thể.
Mãi đến Einstein mới khám phá ra yếu tố liên kết giữa thời gian và không gian. Einstein chứng minh thời gian, không gian không phải là hai thực thể biệt lập mà được cấu kết làm một khối : « Nếu ta gọi dây nói đến một ngôi sao cách quả đất bốn năm ánh sáng, thì phải bốn năm tiếng nói của ta mới tới đích, và phải bốn năm nữa ta mới nhận được trả lời. Rõ ràng thời gian gắn liền với không gian. Hễ không gian xa cách thì thời gian phải tùy thuộc vào độ xa ấy… »
Einstein còn khám phá cả cơ cấu vật chất, không coi vật chất là thực thể bất động, và rất liên hệ đến thời gian. Từ một vật chất có thể biến thành khí năng, và khí năng với vật chất cùng vâng theo một phương trình : « E = MC2 (E là khí năng, M là khối lượng, C là độ đi mau của ánh sáng 300.000 cây số một giây). Chính phương trình này đã dẫn đến việc chế tạo bom nguyên tử ngày nay ».
Như vậy, vật chất không còn tồn tại với định nghĩa cố hữu của nó nữa. Vật chất có thể trở thành khí năng, hiện tượng hoặc ẩn tượng mà con người không còn tìm thấy bằng lối tiếp xúc thông thường.
Thời gian, không gian của quan niệm Tây Âu đi từ ý niệm chối bỏ đến ý niệm độc lập, riêng rẽ, rồi trở thành ý niệm thực thể, liên quan mật thiết, không thể tách rời.
Ý niệm căn bản đã đổi thay, tất nhiên nền móng suy tư cổ điển phải sụp đổ, các triết gia Tây-phương bắt buộc phải đi tìm một vũ trụ quan mới, không còn được phép suy tư như trước Einstein nữa.
Do đó, cuộc chạy đua trên đường đổi mới gây thành khủng hoảng trong lịch sử triết học Tây Âu hiện nay, mà nhiều nhà khảo cứu triết Tây đã nói lên : « Thế giới tư tưởng hiện nay là một trạng thái hỗn mang, tao loạn, không còn căn bản để bấu víu nữa ».
Đối với triết học Đông-phương, việc khám phá của Einstein không ảnh hưởng mấy, bởi vì cơ cấu triết học Đông-phương xây dựng từ ngàn xưa trên nguyên lý « tương quan, tương phản » không coi thời gian, không gian và sự vật là những thực thể riêng rẽ.
2) Nền văn hóa Ấn-độ
đi ngược với nền văn hóa Tây Âu, cơ cấu thời gian biểu tượng bằng hình con rắn cắn đuôi, có nghĩa là một đường vòng tròn.
Vòng tròn thì không đầu, không đuôi (vô thủy vô chung). Vũ trụ biến động theo luật tuần hoàn và viên mãn đến nỗi không còn thấy sinh diệt nữa (thiên địa tuần hoàn chung nhi phục thủy).
Thời gian biểu thị bằng vòng tròn có thể gồm vào một câu : « Vô thủy vô chung, bất sinh bất diệt ». Bởi vì cứ chạy mãi trên cái vòng tròn thì coi như không chạy gì cả, và sinh để rồi diệt, diệt để rồi sinh thì cũng coi như không sinh không diệt.
Nền văn minh phát nguồn trên ý niệm thời gian như vậy thường đưa tâm tư con người đến chỗ tiêu cực, coi đời là hư ảo. Vạn vật chỉ có để rồi không, không để rồi có, thì cái có, cái không ích lợi gì. Họ cố vượt ra khỏi cái vòng tròn hư ảo ấy, cái vòng thời gian mà họ coi là bến mê, là thế tục… bằng cách siêu thoát khỏi cõi sinh hóa để trở về cõi tịnh, bất sinh bất diệt.
3) Nền triết học Viễn-đông
biểu tượng thời gian bằng Mã-đồ (con long mã chạy dài theo đường ngang trên lưng có cái hà đồ, tức hình tròn, để biểu thị Thái-cực-đồ).
Như vậy, thời gian Mã-đồ có đường ngang và đường vòng tròn tức là kết hợp cơ cấu thời gian của Tây-Âu và Ấn độ.
Thời gian Mã-đồ dùng căn cơ Nhật-Nguyệt để chứng minh. Nhật luôn luôn tròn, tượng trưng cho thường hằng, còn nguyệt khi tròn khi khuyết, tượng trưng cho mọi biến chuyển đổi thay. Nhật nguyệt phối hợp nhau coi như âm dương tương sinh, tương khắc, và biến hóa vô cùng vô tận từ cơ cấu « tam tài » đến thuyết « ngũ hành », giải thích sự biến chuyển vũ trụ bằng lý số, rồi đến kinh « Hồng phạm » đem nguyên lý Mã-đồ áp dụng vào thuật xử thế.
Ở đây chúng ta chỉ lược dẫn những nét đại cương qua ba nền triết học căn bản đã có từ xưa trong lịch sử loài người để chứng minh những khác biệt trong ý thức hệ mà thôi.
Tóm lại, dù với một hệ thuyết nào, con người vẫn đem những thực nghiệm trong lẽ sống để tìm hiểu cơ cấu vũ trụ.
Tuy nhiên, qua dòng lịch sử triết học Đông Tây, chúng ta thấy tràn đầy mâu thuẫn. Từ mâu thuẫn ý thức triết học dẫn đến mâu thuẫn về quan niệm văn minh và lẽ sống con người.
Tại sao có sự mâu thuẫn như vậy ? Trước hết chúng ta phải thừa nhận tầm hiểu biết con người không phải là cái gì siêu thoát ra ngoài cơ cấu vũ trụ. Dù văn minh tiến bộ đến đâu, con người, sự hiểu biết con người, cũng chỉ là sản phẩm của vũ trụ ; cho nên, con người không thể đem cái hiểu biết hạn hẹp của mình bao trùm mọi trạng thái thiên nhiên.
Cái hiểu của con người do đâu mà có ? Thực ra, con người có trí khôn, có ý thức, đó là tính chất cá biệt đối với mọi sinh vật. Tuy nhiên, muốn hiểu biết, trí khôn con người cần phải tích lũy qua dung lượng thời gian, không gian. Nói cách khác, trí khôn con người phải nhờ sự biến động của thời gian, không gian, nghĩa là nhờ sự biến dịch của guồng máy vũ trụ mới nẩy ra sự hiểu biết ấy. Như vậy, nếu đem sự hiểu biết con người đặt ngoài cơ cấu biến động của vũ trụ thì đó là chuyện không tưởng. Còn nếu đặt sự hiểu biết con người vào trạng thái biến động của vũ trụ thì sự hiểu biết con người phải lệ thuộc vào mức tăng trưởng của thời gian, không gian, mà con người không thể nào có sự hiểu biết siêu thoát được.
Vậy thì chúng ta nên quan niệm sự hiểu biết con người nằm trong cơ cấu vũ trụ, hay vượt ra ngoài sự biến động của thiên nhiên ? Trả lời câu hỏi này có lẽ mỗi người trong chúng ta quan niệm mỗi khác.
Chính sự dị biệt này đã phân hóa ý thức loài người ra nhiều ngả rẽ. Mỗi ngả rẽ là một con đường tạo thành một ý thức hệ, để rồi chúng ta càng đi tới, càng thấy chơi vơi, mung lung, và cuối cùng loài người đã tạo ra những mâu thuẫn trong lẽ sống.
Có điều chúng ta thấy chắc chắn là lịch sử triết học thế giới đi từ chỗ biệt lập giữa ý thức con người với cơ năng vũ trụ tiến dần đến chỗ hòa hợp với mọi cơ cấu biến động thiên nhiên.
Chẳng hạn như dòng triết học Tây Âu, ban đầu đặt ý thức ra ngoài thời gian, không gian, chối bỏ thực thể vũ trụ, dần dần thừa nhận thực thể vũ trụ trong ý thức, và sau cùng xem ý thức và thực thể vũ trụ có tương quan mật thiết không thể tách rời…
Như vậy, hướng tiến của tâm tư con người là đi dần đến sự hòa hợp giữa ý thức con người và cơ cấu vũ trụ. Con đường tiến ấy có lẽ còn xa hơn, tức là có thể đi đến chỗ đặt ý thức con người trong vòng biến động của vạn hữu, xem sự hiểu biết con người chỉ là một thực thể thiên nhiên, tức là nằm trong trạng thái biến động của thời gian, không gian.
Từ trước đến nay, sở dĩ loài người có những mâu thuẫn nhau về ý thức, chỉ vì loài người tự đặt ý thức mình ra ngoài thực thể của thiên nhiên, tức là họ quan niệm có thể dùng suy tư con người quyết định mọi diễn biến của vũ trụ. Quan niệm như vậy, ý thức con người trở thành cái gì độc tôn, mà cơ năng vũ trụ chỉ là một bộ máy tầm thường dưới tầm quan sát của một viên kỹ sư, hay một người thợ máy.
Chúng ta có thể có nhiều kỹ sư, có nhiều cách sáng chế, diễn tả sự biến động của một guồng máy trước sự nhận xét của mình.
Nhưng ở đây, vũ trụ không phải là một guồng máy tầm thường, mà loài người cũng không thể là những viên kỹ sư. Cái hiểu biết con người nếu đặt vào cơ năng vũ trụ thì nó chỉ là một trạng thái phát sinh do sự biến động của guồng máy vũ trụ mà có.
Sự hiểu biết con người nếu là trạng thái do biến động thiên nhiên phát sinh thì tầm hiểu biết ấy không thể tách rời ngoài năng lực thiên nhiên, tức là nó phải phù hợp với trạng thái biến đổi và tăng trưởng của thời gian, không gian.
Sự biến đổi và tăng trưởng của thời gian làm cho suy tư con người đổi mới. Cho nên, nếu sự hiểu biết con người là sản phẩm của thiên nhiên, chịu ảnh hưởng mọi biến động vũ trụ, thì suy tư con người cũng không thể đứng yên một chỗ, không thay đổi được.
Người của thế hệ ngày nay không cùng một suy tư với người của thế hệ ngày xưa, và người của thế hệ ngày mai cũng sẽ không cùng một suy tư với người của thế hệ ngày nay, đó chính là trạng thái biến động và tăng trưởng của thời gian, không gian, mà sự hiểu biết của con người là trạng thái ảnh hưởng.
Cho nên, nếu đặt sự hiểu biết con người vào tầm biến động của vũ trụ, thì suy tư con người không thể nào cố định mãi.
Suy tư đã không cố định mà bảo loài người phải tôn thờ một hệ thuyết do ý thức tự ngàn xưa dựng nên, với thời điểm mà dung lượng thời gian, không gian trái với hiện tại, tất nhiên không thể tránh khỏi sự bài bác và chống đối.
Bắt loài người tôn thờ một hệ thuyết, hoặc bênh vực một hệ thuyết mà chối bỏ sự tăng trưởng và biến động của thời gian, không gian chính là chúng ta đã đặt sự hiểu biết con người ra ngoài cơ năng vũ trụ, xem sự hiểu biết là năng lực cố định và bất di bất dịch.
Chống lại những quan niệm ngày xưa, hay nói đúng hơn, đả phá những hệ thuyết không còn phù hợp với trạng thái thời gian ngày nay, lớp người của thế hệ chúng ta mặc nhiên đã thừa nhận sự tăng trưởng và biến dịch của thời gian, không gian, mà sự hiểu biết con người không phải là năng lực siêu nhiên, mà là sản phẩm của vũ trụ.
Đối với người xưa, trong lịch sử triết học, tuy họ đặt suy tư ngoài vòng biến động của vũ trụ, nghĩa là họ muốn cho triết thuyết họ mang một giá trị muôn đời, nhưng thực ra chính họ lại bị sự biến động và tăng trưởng của thời gian, không gian chi phối.
Một triết gia của thế hệ đương thời chống đối học thuyết của triết gia tiền bối, phải chăng họ đã chối bỏ sự cố định của suy tư ? Đã chối bỏ tính chất cố định của suy tư, tại sao họ lại tách rời suy tư ra ngoài biến động của vạn hữu. Đó là trạng thái mâu thuẫn ngay giữa quan niệm và việc làm của họ. Trạng thái mâu thuẫn ấy là căn bản tất yếu tác thành những mâu thuẫn ý thức hệ trong lịch sử triết học thế giới mà chúng ta vừa kiểm điểm trên đây.
Trở về với ý thức, nếu chúng ta đặt sự hiểu biết con người vào cơ năng vũ trụ thì mọi triết thuyết sẽ không thể nào tồn tại mãi trong suy tư con người khi cơ năng vũ trụ biến động, đưa thời gian, không gian tiến tới và đổi thay dung lượng mãi mãi. Cho nên, một triết thuyết chỉ có giá trị đối với suy tư con người ở một thời điểm nào đó, và sẽ mất giá trị vào một thời điểm nào khác.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể vì thời điểm đổi khác, vì giá trị suy tư bị mất mà phủ nhận tính chất hiện hữu của nó. Một câu nói của người xưa tuy trái với quan niệm chúng ta hôm nay, nhưng đối với thời xưa nó vẫn có giá trị. Ngược lại, không vì quan niệm chúng ta ngày nay đổi khác mà người xưa bảo quan niệm chúng ta thiếu giá trị. Mọi giá trị đều tương đối và ngang nhau khi đặt nó vào một thời điểm đúng với tính chất diễn biến của nó.
Mặt khác, dĩ vãng, hiện tại và tương lai là một sợi dây dài không thể phân chia. Sự hiểu biết của chúng ta ngày nay, những suy tư đổi mới của chúng ta ngày nay chính là do căn bản của sự hiểu biết của thời xưa, những suy tư cũ kỹ của người xưa cộng với dung lượng thời gian tăng trưởng của thế hệ chúng ta mà kết thành. Vậy chúng ta chối bỏ dĩ vãng tức là chúng ta phủ nhận một phần sự hiểu biết được di lưu trong chúng ta, đó cũng là một trạng thái mâu thuẫn nữa.
Tóm lại, chỉ khi nào con người đem ý thức hòa vào vũ trụ, đem con người đặt vào của chung của vạn hữu, nối kết mọi biến động thời gian, không gian trở thành một khối, liên hệ mật thiết với nhau thì chúng ta mới có thể tìm thấy những tương đồng trong ý thức hệ được.
Qua một vài nhận định trên, đến đây chúng tôi thấy cần trở về với công việc chính của chúng ta là tìm hiểu vũ trụ quan của người bình dân Việt-nam.
Khác với những hệ thuyết có tính chất cá nhân, lập trường dân tộc không chủ trương dùng suy tư riêng rẽ khống chế những suy tư của kẻ khác, bắt buộc mọi suy tư phải hướng theo mình, mà lập trường của dân tộc là gom góp những quan niệm chung di lưu qua thời gian, không gian, cấu kết thành quan niệm chung của một khối người.
Do đó, khi chúng ta đi tìm căn bản suy tư của một dân tộc, thì không phải đi tìm những học thuyết của cá nhân xây dựng trên quan niệm riêng rẽ, mà tìm lại những vết tích rời rạc ghi dấu vào lịch sử thời gian, không gian. Cho nên, ngược dòng lịch sử, trong lúc những học thuyết từ nước ngoài du nhập vào, xây dựng trên quan niệm cá nhân, thì dân tộc Việt-nam, trong giai cấp bình dân, chúng ta vẫn thấy những tâm tư triết học âm thầm nẩy nở trong sinh hoạt xã hội,và từ những ý tưởng cá nhân đúc thành ý tưởng chung cho một khối người.
Ý tưởng ấy là gì ? nếu không phải là tâm tư triết học ? Tâm tư triết học không nhất thiết phải đúc kết thành hệ thống suy tư mới có giá trị. Thường thường những suy tư đúc kết thành hệ thống chỉ là những suy tư cá nhân, nhằm khống chế tư tưởng loài người trong lãnh vực tinh thần. Chính những suy tư rời rạc của từng người di lưu qua thời gian, không gian mới là những suy tư độc lập, ít chịu ảnh hưởng vì áp lực của ý thức hệ gây nên.
Trong mục này, chúng tôi đặt vấn đề : Người bình dân lấy thực nghiệm đi tìm cơ cấu vũ trụ. Như vậy, trước khi phân tích, chúng tôi thấy cần xét qua hai điểm :
Người bình dân Việt-nam có quả đã lấy thực nghiệm đi tìm cơ cấu vũ trụ hay không ?
Tại sao người bình dân lại lấy thực nghiệm đi tìm cơ cấu vũ trụ ? Về điểm thứ nhất, chúng ta thấy những tư tưởng triết học sở dĩ có là do ý thức con người va chạm với mọi biến chuyển thiên nhiên. Dù với dân tộc nào, từng lớp nào, cá nhân nào, khi đã hòa mình trong lẽ sống, ý thức con người không thể đặt ra ngoài những suy tư khi nội tâm và ngoại vật tác động vào cuộc sống hằng ngày. Khi suy tư đã diễn biến, tức là ý thức triết học phát khởi. Vậy ý thức triết học không chỉ có trong bộ óc của các học giả, các nhà khảo cứu khoa học, chính trị học, kinh tế học… mà bàng bạc trong tư tưởng giới của mọi người, khi họ đang sống. Tuy nhiên, khác với giai tầng trí thức, người bình dân là lớp người hồn nhiên, chất phác, cho nên những suy tư của họ chỉ bộc lộ trong trường hợp đụng chạm nhất thời, không dùng cái hiểu biết cá nhân mình để phân định cơ cấu vũ trụ, mà chỉ dùng cảm tình của con người hòa trong mọi biến động thiên nhiên. Chính vì thế mà thực nghiệm trở thành căn bản cho suy tư của họ.
Về điểm thứ hai, chúng ta đã phân tích ý thức của người bình dân xem con người là sản phẩm của vũ trụ, nằm trong năng lực chi phối của vũ trụ, ý thức con người là trạng thái tăng trưởng và biến động của thời gian, không gian, cho nên, con người muốn tìm hiểu vũ trụ không phải đem ý thức con người đặt ra ngoài cơ năng vũ trụ, nhận định vũ trụ theo trí tưởng tượng của mình, mà phải hòa mình trong mọi biến động thiên nhiên, và lấy mọi biến động thiên nhiên đúc thành những suy tư của con người.
Như vậy, với hai yếu tố trên, chúng ta không lấy làm lạ khi nêu sự khác biệt giữa hai luồng tư tưởng về bình dân và bác học trong quan niệm đi tìm cơ cấu vũ trụ. Nếu tư tưởng bác học lấy yếu tố suy tư làm căn bản cho triết học của mình thì tư tưởng bình dân lại lấy thực nghiệm làm căn bản cho triết học của họ.
Để chứng minh điều này, chúng ta hãy tìm trong ca dao Việt-nam để xác định quan niệm của họ.
Tuy nhiên, vừa rồi chúng ta đã xác định giá trị của suy tư. Nếu đặt suy tư con người vào tầm diễn biến của vạn hữu, lệ thuộc vào thời gian, không gian, thì không một suy tư nào có giá trị vĩnh cửu, mà chỉ có giá trị đương thời. Cho nên, tìm lại những quan niệm của người bình dân Việt-nam trong ý thức vũ trụ không phải chúng ta đi tìm những giá trị của ý thức ngày nay, mà chỉ nêu lên tâm tư của dân tộc trong một thời điểm đã qua.
Với thời điểm ấy, với những tâm hồn chất phác, mộc mạc trong ruộng rẫy nương dâu, chúng ta ngày nay không khỏi mỉm một nụ cười cho là ấu trĩ trong tư tưởng triết học. Nhưng, nếu chúng ta quan niệm những tư tưởng ấy đã mất giá trị tuyệt đối thì chúng ta quả sai lầm. Lịch sử tư tưởng loài người đi đôi với mức độ tăng trưởng của thời gian, không gian, chúng ta không có quyền bắt người xưa suy tư như chúng ta ngày nay. Cũng như thế hệ mai sau, khi mà dung lượng thời gian chồng chất mỗi lúc một cao hơn, con người của thế hệ mai sau sẽ mỉm cười khi nhìn thấy những suy tư của chúng ta ngày nay, tuy nhiên, họ cũng không có quyền chối bỏ hoàn toàn giá trị suy tư của chúng ta được.
Nói cách khác, chúng ta đi tìm quan niệm vũ trụ của người bình dân thời xưa có nghĩa là chúng ta đi tìm giá trị suy tư của một thời điểm, mà lịch sử loài người đã đánh dấu trong dĩ vãng.
Người bình dân thời xưa không dùng cái hiểu biết của mình khám phá vũ trụ, mà dùng những hiện tượng vũ trụ làm căn bản cho hiểu biết của mình. Ví dụ, khi nhìn một mặt trăng, họ trông thấy :
Mồng một lá trai.
Mồng hai lá lúa.
Mồng ba câu liêm.
Mồng bốn lưỡi liềm.
Mồng năm liềm giật.
Mồng sáu thật trăng.
Mười rằm trăng náu.
Mười sáu trăng treo.
Mười bảy sảy giường chiếu.
Mười tám trăng lẹm.
Mười chính dụn dịn.
Hai mươi giấc tốt.
Hăm mốt nửa đêm.
Hăm hai bằng tải.
Hăm ba bằng dầu.
Hăm bốn ở đâu.
Hăm lăm ở đấy.
Hăm sáu đã vậy.
Hăm bảy làm sao.
Hăm tám thế nào.
Hăm chín thế ấy.
Ba mươi không trăng.
Sự thay đổi hình dáng của mặt trăng trở thành những thực nghiệm, gieo vào tâm tư người bình dân một ý tưởng : vũ trụ không phải là một trạng thái đứng yên, mà biến động mãi mãi. Cũng như họ trông thấy :
Mười ba trăng lặn gà kêu,
Mười bốn trăng lặn, gà đều gáy tan.
Hoặc : Đêm khuya thức dậy xem trời,
Thấy sao bên Bắc đổi dời bên Nam.
Thì, những thực nghiệm ấy chính là những căn bản dẫn tâm tư họ đến chỗ xem vũ trụ là một trạng thái biến động và thay đổi.
Tuy nhiên, họ không để cho ý thức họ đi quá xa. Nếu có những học thuyết xem sự dời đổi của mặt trăng là trạng thái biến động, xem sự viên mãn của mặt trời là trường tồn, và kết hợp thành hệ thuyết âm dương như hệ thuyết triết học Viễn-đông chẳng hạn, thì người bình dân chỉ chứng minh theo những gì họ nhận được trong thực nghiệm mà thôi.
Trong thực nghiệm, họ thấy sự biến động của vũ trụ rất có ảnh hưởng đến những biến cố thiên nhiên. Ví dụ họ bảo :
Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động.
Mùa Đông : mưa dầm gió bấc.
Mùa Hè : mưa to gió lớn.
Mùa Thu : sương sa nắng quáng.
Trăng quầng thì hạn.
Trăng tán thì mưa.
Tháng chín động rươi.
Tháng mười động rạ.
Tháng ba động rạm.
Tháng giêng rét dài.
Tháng hai rét lộc.
Tháng ba rét nàng Bân.
Nàng Bân may áo cho chồng.
May ba tháng ròng mới được cửa tay.
Biến động của vũ trụ là nguyên nhân tạo thành những hiện tượng, và những hiện tượng lại là nguyên nhân phát sinh những kết quả của biến động. Vì vậy, khi nhìn vào hiện tượng, họ có thể dùng sự hiểu biết trong kinh nghiệm đoán được mọi kết quả sắp diễn biến. Ví dụ :
Ráng mỡ gà, thì gió.
Ráng mỡ chó thì mưa.
Ráng mỡ gà ai có nhà phải chống.
Đầu năm sương muối.
Cuối năm gió nồm.
Mống cao gió táp.
Mống rạp mưa rào.
Mống bên Đông, vồng bên Tây.
Chẳng mưa dây thì bão giật.
Mống dài trời lụt.
Mống cụt trời mưa.
Mây thành vừa hanh vừa giá.
Mưa vảy trút thì mưa.
Mây nhả bừa thì nắng.
Cơ năng biến động của vũ trụ chẳng những phát sinh những hiện tượng thiên nhiên, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến mọi sinh vật nữa. Đây, chúng ta hãy xét qua kinh nghiệm thực tiễn của họ :
Ếch kêu uôm uôm,
Ao chuôm đầy nước.
Cóc nghiến răng chuyển động bốn phương trời.
Quạ tắm thì ráo (nắng).
Sáo tắm thì mưa.
Diều hâu rít lưỡi, lạnh giá tới nơi.
Kiến cánh vỡ tổ bay ra.
Bão táp, mưa sa gần tới.
Cỏ gà màu trắng, điềm nắng đã hết.
Lá tre trổi lộc, mùa rét xộc đến.
Chớp đông nhay nháy.
Gà gáy thì mưa.
Tháng bảy heo may.
Chuồn chuồn bay thì bão.
Những thực nghiệm của người bình dân trong ý thức tìm hiểu cơ cấu vũ trụ từ xưa đến nay chúng ta không thể nào góp nhặt cho hết. Những gì chúng ta biết chỉ là một phần nhỏ đã ghi lại trên sách vở do tiền nhân góp nhặt, mà trong dân gian còn rải rác rất nhiều. Ở đây chúng ta chỉ lấy một ít để chứng dẫn mà thôi.
Tóm lại, qua dòng lịch sử tư tưởng của người bình dân thời xưa, từ ý thức thần thoại đến những quan niệm tương đồng và dị biệt đối với các triết thuyết ngoại lai, và chứng dẫn theo tinh thần khảo sát trong mọi hiện tượng vũ trụ chúng ta có thể hệ thống hóa quan niệm về vũ trụ của họ theo mấy qui tắc sau đây :
- Người bình dân Việt-nam không xem cơ cấu vũ trụ và trạng thái biến động thiên nhiên do một quyền năng tối thượng định đoạt. Theo họ, cơ năng vũ trụ biến chuyển theo qui luật tất yếu ngoài tầm hiểu biết của con người, và con người, sự hiểu hiểu biết của con người cũng chỉ là sản phẩm của vũ trụ, chịu ảnh hưởng và chi phối theo qui luật tất yếu ấy. Vì vậy, con người không thể đem sự hiểu biết của mình định đoạt cơ năng vũ trụ, mà phải tìm hiểu cơ năng vũ trụ để nâng cao sự hiểu biết của mình. Chính vì vậy mà con người càng đem ý thức mình vượt ra ngoài khả năng biến động vũ trụ, nghĩa là đặt suy tư ra ngoài thực trạng của thời gian, không gian, con người càng gặp nhiều khó khăn trong lãnh vực triết học :
- Người bình dân xem mọi hiện tượng trong vũ trụ đều vâng theo trạng thái biến động tất yếu của thiên nhiên. Không một năng lực nào vượt ra ngoài cơ cấu thời gian, không gian cả. Nói như thế cũng có nghĩa là sự biến động thời gian, không gian là tất cả cho vũ trụ. Tính chất biến động của vũ trụ lại nhằm trong yếu tố mâu thuẫn thăng bằng. Mọi trạng thái cực đoan đều bị hủy diệt để điều hòa guồng máy huyền vi ấy. Cho nên, loài người càng đem trí khôn của mình tăng bồi theo dục vọng cá nhân, loài người càng tạo cho cơ năng vũ trụ mất sự thăng bằng, và khi bị mất thăng bằng, cơ năng vũ trụ càng biến động nhanh hơn để thăng-bằng-hóa theo qui luật tự nhiên.
- Người bình dân cũng xem trạng thái biến động của thời gian, không gian là trạng thái tăng trưởng. Mặc dù, chúng ta thấy mọi hiện tượng đều nằm trong vòng sinh diệt, nhưng không phải lúc nào cũng giữ một dung lượng thời gian như nhau. Cho nên, mức thăng bằng vạn hữu luôn luôn phải thay đổi theo dung lượng tăng trưởng của thời gian, không gian.
- Người bình dân cũng xem hiện hữu trong vũ trụ không tác động riêng rẽ, mà liên kết và chịu ảnh hưởng với nhau như một khối. Vì vậy, khi một cá thể biến động, toàn thể đều chịu chung ảnh hưởng, ngược lại, qui luật thăng bằng của toàn thể chi phối vào mọi cá thể, và mỗi cá thể phải vâng theo qui luật chung ấy.
Rút ra bốn qui tắc trên, chúng tôi không phải tự mình dựng lên một hệ thuyết, mà chỉ căn cứ vào dòng tư tưởng của người bình dân
Việt-nam đã di lưu qua các thế hệ, cọ xát với mọi ý thức bên ngoài, hệ thống hóa một suy tư của dân tộc mà thôi.
Dĩ nhiên, trong công trình suy cứu, chúng ta không thể nào góp nhặt đầy đủ những dữ kiện đã chìm ngập trong dĩ vãng, nhưng những gì chúng ta đã sưu tầm được cũng đủ chứng minh rằng dân tộc chúng ta không phải là một dân tộc không có ý thức triết học.
Trải hơn bốn ngàn năm văn hiến, tại sao dân tộc Việt-nam không có một triết gia ? Và cho đến ngày nay, mọi ý thức triết học ghi trên sách vở, chúng ta vẫn thấy hoàn toàn là của dân tộc nước ngoài ? Phải chăng dân tộc Việt-nam bị làm một dân tộc nô lệ ? Không ! Chúng ta tin rằng một dân tộc đã đem sức mạnh tự tồn, chống lại ách thống trị của ngoại bang, ghi những trang lịch sử oai hùng trong truyền thống của họ, thì không thể nào thiếu ý thức tự lực tự cường, và nuôi trong tâm tư họ một quan niệm và lẽ sống.
Quan niệm về lẽ sống là nền móng tạo ra ý thức triết học. Sở dĩ chúng ta không tạo thành một hệ thuyết triết học là do quan niệm về lẽ sống của dân tộc Việt-nam khác biệt với quan niệm của nước ngoài. Dân tộc Việt-nam không tách rời suy tư con người ra khỏi guồng máy vũ trụ, không dùng suy tư cá nhân cưỡng dụng để tự tạo một cơ cấu vũ trụ theo ý thức riêng của mình, bắt mọi người phải theo. Quan niệm của dân tộc Việt-nam là hòa hợp với ý thức con người trong quan hệ vũ trụ để tìm hiểu cơ năng vũ trụ theo sự hiểu biết từng thời kỳ của mức tăng trưởng về thời gian, không gian. Nói như thế cũng có nghĩa là dân tộc Việt-nam không công nhận một triết thuyết nào trường cửu. Mọi triết thuyết khi đã do suy tư con người dựng nên thì đó là của suy tư chứ không phải của thực thể vũ trụ. Suy tư con người biến đổi theo tác động thời gian và không gian mà suy tư đã biến đổi thì sản phẩm của suy tư làm sao vĩnh cửu được. Trong vũ trụ không gì trường tồn, tại sao quan niệm của người nghìn xưa lại giữ mãi làm khuôn vàng thước ngọc cho người hôm nay. Ngày xưa, người bình dân nói :
Mây vảy trút thì mưa,
Mây nhả bừa thì nắng.
Nhưng ngày nay, do biến động của thời gian, do sự đổi dời của của vạn hữu, dung lượng thời gian, không gian không còn là dung lượng của thời điểm xa xưa, cho nên hiện tượng vũ trụ cũng đổi hẳn. Ngày nay, mây vảy trút không mưa, mây nhả bừa không phải nắng, mà có thể ngược lại.
Vậy thì, những gì của con người suy tư về vũ trụ chỉ có giá trị trong một thời điểm mà thôi. Đem suy tư của dân tộc, nếu thành một hệ thuyết triết học, chúng tôi xem như một công trình sưu khảo, ghi dấu một đoạn lịch sử tư tưởng. Và các bạn khi giẫm lên những dấu vết này, các bạn nên xem mình như đang bước trên nền một ngồi đền cổ. Ngôi đền ấy chính là nơi tiền nhân đã nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành.
4) Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu
1. Ai ơi, trẻ mãi ru mà,
Càng so sắn lắm, càng già mất duyên.
2. Ai về nhắn họ Hi, Hòa,
Nhuận năm sao chẳng nhuận vài trống canh.
3. Ai mua con quạ bán cho,
Đen long, đen cánh, bộ giò cũng đen.
4. Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò,
Chín tháng lò dò biết đi.
5. Buồn về một nỗi tháng giêng,
Con chim, cái cú nằm nghiêng thở dài.
Buồn về một nỗi tháng hai,
Đêm ngắn ngày dài, thua thiệt người ta.
Buồn về một nỗi tháng ba,
Mưa rầu, nắng lửa, người ta lư đừ.
Buồn về một nỗi tháng tư,
Con mắt lừ đừ, cơm chẳng muốn ăn.
Buồn về một nỗi tháng năm,
Chửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêu.
6. Cá lớn nuốt cá bé.
7. Cắc kè kêu chẵn mưa, thừa nắng.
8. Càng thắm thì lại càng phai,
Thoang thoảng, hoa lài càng được thơm lâu.
9. Cây khô chưa dễ mọc chồi,
Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta.
Non xanh bao tuổi mà già,
Bởi vì sương tuyết, hóa ra bạc đầu.
10. Cây xanh thì lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
11. Con sông kia nước chảy lờ đờ,
Con thuyền lững dững với trăng mờ nào soi.
Con sông kia bên lở, bên bồi,
Lở kia lở mãi, bên bồi bồi thêm.
Lúc bao giờ gió đứng, sóng êm,
Con thuyền anh xuôi ngược qua đêm lại về.
Với em anh trót nặng lời thề.
12. Còn trời còn nước còn mây,
Còn ao rau muống, còn đầy chum tương.
13. Cô kia má đỏ hồng hồng,
Cô chửa lấy chồng, còn đợi chờ ai.
Buồng không lần lữa hôm mai,
Đầu xanh mấy chốc da mồi tóc sương.
14. Cổ tay em vừa trắng, vừa tròn,
Răng đen rưng rức, chồng con kém người.
Khốn nạn thay nhạn ở với ruồi,
Tiên ở với cú, người cười với ma.
Con công ăn lẫn với gà,
Rồng kia, rắn nọ coi đà sao nên.
Nói nên mà ở chẳng nên,
Quang rơm gánh đá sao bền hơn mây.
15. Cơn mưa đằng đông, vừa trông vừa chạy,
Cơn mưa đằng tây, mưa dây gió giật.
Cơn mưa đằng nam, vừa làm vừa chơi,
Cơn mưa đằng bắc, để thóc ra phơi.
16. Cực lòng nên phải biến dời,
Biến dời lại gặp phải nơi cực lòng.
17. Chê của nào trời trao của ấy.
18. Chuồn chuồn liệng thì nắng,
Chim én liệng thì mưa.
19. Dày sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
20. Dù ai buôn bán trăm nghề,
Gặp ngày con nước cũng về tay không.
21. Đang mưa quạ kêu thì nắng,
Đang nắng quạ kêu thì mưa.
22. Đào khoe tươi, liễu khoe mềm,
Cây khô nẩy nhị, cành thêm ấm chồi.
Chữ rằng : « Thiên hữu tứ thời »,
Ngày thời hoa nở, tối thời hoa thơm.
23. Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng,
Đèn ra trước gió, được chăng hỡi đèn ?
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,
Cớ sao trăng lại phải luồn đám mây.
24. Đêm đêm tưởng dạng Ngân-hà,
Bóng sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn, nhưng dạ chẳng mòn,
Tào-khê nước chảy lòng còn trơ trơ.
25. Đêm khuya thức dậy xem trời,
Thấy sao bên bắc đổi dời bên nam.
26. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
27. Đố ai biết đá mấy hòn,
Tua rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm ?
28. Đông có mây, tây có sao.
29. Đông sao thời nắng, vắng sao thời mưa.
30. Gió heo may chẳng mưa dầm thì bão giật.
31. Gió bên đông, động bên tây,
Tuy rằng nói đấy, nhưng đây biết rồi.
32. Gió bấc hiu hiu,
Sếu kêu thì rét.
33. Hoa sen mọc bãi cát lầm,
Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen.
Thài lài mọc cạnh bờ sông,
Tuy rằng xanh tốt vẫn tông thài lài.
34. Hỡi con vịt nước kia ơi,
Soa mày vùng vẫy ở nơi Ngân-Hà.
35. Hỡi cô gánh nước quang mây,
Cho anh một gáo tưới cây ngô đồng.
Cây ngô đồng cành cao, cành thấp,
Ngọn ngô đồng lá dọc lá ngang.
Quả dưa gang, ngoài xanh, trong trắng,
Quả mướp đắng, ngoài trắng, trong vàng.
Từ ngày anh gặp mặt nàng,
Lòng càng ngao ngán, dạ càng ngẩn ngơ.
36. Kể việc làm ruộng mọi đường,
Tôi xin kể được rõ ràng hử ai.
Tháng chạp là tiết trồng khoai,
Tháng giêng tưới đậu, tháng hai cấy cà.
Tháng ba cày bửa ruộng ra,
Tháng tư bắt mạ thuận hòa vui thay.
Tháng năm cắt lúa vừa rồi,
Tháng sáu mưa xuống, nước trôi đầy đồng.
Tháng bảy cầy cấy đã xong,
Tháng tám thấy lúa tốt lòng vui thay.
Tháng chính tôi lại kể nay,
Bắt mạ xem được mới hay trong lòng.
Tháng mười lúa chín đầy đồng,
Cắt về đổ cót để phòng năm sau.
Tháng mười một là tiết cấy sâu,
Một năm kể cả tự đầu đến đuôi.
37. Không có mây, sao có mưa ?
38. Không ai nắm tay thâu ngày đến tối.
39. Không ai duỗi tay thâu ngày đến sáng.
40. Lấy vợ kiêng tuổi đàn bà,
Làm nhà kiêng tuổi đàn ông.
41. Mây thành vừa hanh vừa giá.
42. Mấy đời sấm trước có mưa,
Mấy đời dì ghẻ có ưa con chồng.
43. Mồng bốn cá đi ăn thề,
Mồng tám cá về, cá vượt Vũ-môn.
44. Mống cao gió táp, mống rạp mưa rào,
Mống bên đông, vồng bên tây,
Chẳng mưa dây thì bão giật.
45. Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa.
Vồng chiều mưa sáng, ráng chiều mưa hôm.
Vồng rạp mưa rào, vồng cào gió táp.
46. Mống đông vồng tây.
47. Một năm là mấy tháng xuân,
Một ngày là mấy giờ dần sớm mai.
Một năm có ba tháng xuân,
Một ngày có một giờ dần sớm mai.
48. Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa.
49. Mù trời, lắm mòng két.
50. Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa.
51. Mưa tháng bảy gãy cành trám,
Nắng tháng tám giám trái bưỡi.
52. Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi.
53. Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo.
54. Mười ba trăng lặn gà kêu,
Mười bốn trăng lặn gà đều gáy tan.
55. Nắng ui ui hui chết người.
56. Nắng chóng trưa, mưa chóng tối.
57. Nắng tháng ba chó già lè lưỡi.
58. Núi kia ai đắp nên cao,
Sông kia ai đào nước chảy vùng quanh ?
Vùng quanh thì mặc vùng quanh,
Cô về Lê-xá để anh đưa tiền.
59. Núi kia ai đắp nên cao,
Sông kia bể nọ ai đào mà sâu.
Một lòng sầu, năm bảy lòng sầu,
Đấy vui có biết đây sầu cùng chăng.
Muốn sao tháng đôi tuần trăng,
Muốn sao đấy ở cho bằng lòng đây.
60. Núi Đọi ai đắp nên cao,
Ngã ba sông Lảnh ai đào mà sâu.
61. Nước thủy triều ai tát, ai khơi,
Khi lên thời thế, cơn rồi như không.
62. Ngày đi, trúc chửa mọc măng,
Ngày về, trúc đã cao bằng ngọn tre.
Ngày đi, lúa chửa chia vè,
Ngày về, lúa đã đỏ hoe ngoài đồng.
Ngày đi, em chửa có chồng,
Ngày về, em đã con quấn, con quít, con bồng, con mang.
63. Ngày rằm, trăng tỏ, trăng tròn,
Ba mươi, mồng một trăng lòn đám mây.
64. Ngồi buồn gửi bức thư sang,
Có con rồng bạch chắn ngang giữa trời.
Vậy nên thư chẳng tới nơi,
Trong thư, ai biết những lời làm sao.
65. Ngồi đêm trong bóng trăng tàn,
Muốn đoan với nguyệt mà than một lời.
Nguyệt rằng : vật đổi sao dời,
Thân này vẫn để cho người soi chung.
66. Ngỡ là nước chảy, đá mòn,
Chẳng là nước chảy, đá còn trơ trơ.
Chờ cho nước cạn phơi bờ,
Xem con người ấy nương nhờ về đâu.
67. Người đời khác nữa là hoa,
Sớm còn, tối mất, nở ra lại tàn.
68. Người đời như cánh phù du,
Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng.
69. Người đời hữu tử, hữu sanh,
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.
70. Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần,
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ.
Chắc về đâu trong đục mà chờ,
Hoa thơm mất tiết biết nương nhờ vào đâu.
Số em giàu, lấy khó cũng giàu,
Số em nghèo, chín đụn mười trâu cũng nghèo.
Phải duyên, phải kiếp thì theo,
Thân em có quản khó nghèo làm chi.
Chữ nhân duyên thiên tải nhất thì,
Giàu ăn, khó chịu lo gì mà lo.
71. Ông tha mà bà chẳng tha,
Đánh một cái lụt mồng ba tháng mười.
72. Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
73. Ráng mỡ gà có nhà thì giữ.
74. Ráng vàng thời nắng, váng trắng thời mưa.
75. Rắp mong ông trời sa xuống cõi trần,
Hỏi xem duyên kiếp nợ nần làm sao ?
Tím gan thay khách má đào,
Mông mênh bể Sở dễ vào, khó ra.
Hươu kia trót đã mắc chà,
Khi vào thì dễ, khi ra hiểm nghèo.
76. Rồng đen lấy nước thì nắng,
Rồng trắng lấy nước thì mưa.
77. Sao hôm lóng lánh,
Soa mai lóng lánh.
Cuốc đã sang canh,
Gà kia gáy rúc.
Chích chòe lìa tổ,
Trời đã rạng đông.
78. Sao hôm chờ đợi sao mai,
Trách lòng sao Vượt thương ai bằng chừng.
79. Sao mau thì mưa, sao thưa thì nắng.
80. Sấm trước cơm sấm no, Sấm sau cơm sấm đói.
81. Tám mươi ngả gậy ra ngồi,
Hỏi rằng xuân có tái hồi nữa thôi ?
Xuân rằng : Xuân chẳng tái hồi,
Bốn dài, hai ngắn mà lôi xuân vào.
82. Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc.
83. Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa mạ.
84. Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động.
85. Tháng bảy ông thị đỏ da,
Ông mít chơm chởm, ông da rụng rời.
Ông mít đóng cọc mà phơi,
Ông da rụng rời đỏ cả chân tay.
86. Tháng bảy heo may,
Chuồn chuồn bay thì bão.
87. Tháng tám mưa trai, tháng hai mưa thóc.
88. Tháng bảy mưa gẫy cành trám,
Tháng tám nắng rám trái bòng.
89. Tháng chín thì quýt đỏ trôn,
Tháng hai ngái mọc, cái con tìm về.
90. Thâm đông trống bấc, hễ nực trời mưa.
91. Thâm đông thì mưa,
Thâm dưa thì khú, thâm vú thì nghén.
92. Thoảng qua một chút mới hay,
Lọ là sấm chớp cả ngày mới mưa.
93. Trăm hoa đua nở mùa xuân,
Cớ sao cúc lại muộn tuần tiết thu ?
Vì hoa tham lấy sắc vàng,
Cho nên hoa phải muộn màng tiết thu.
94. Trăm thức hoa đua nở về tiết tháng giêng,
Có bông hoa cải nở riêng tháng mười.
Trăm cành hoa cười, trăm nụ bông hoa nở mùa xuân sang.
Đàn con yến trắng, dập dìu đàn ong.
Con chim kia sao khéo não nùng,
Cuốc kêu gióng giả, như nung dạ sầu.
Gió nam hây hẩy lúc ban chiều,
Một đàn bướm trắng dập dìu trên non.
Đêm đông trường nghe vượn ru con,
Vượn hót ru con, cá khe lẩn bóng, chim luồn cỗi cây.
Con ve kêu ỏng ảnh tiếng chày,
Kìa quân tử trúc dạ này bâng khuâng.
Em như hoa thơm mà mọc góc rừng,
Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay.
95. Trăng quầng thì cạn, trăng tán thì mưa.
96. Trăng đến rằm thì tròn,
Sao đến tối thì mọc.
97. Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.
Trăng bao nhiêu tuổi trăng tròn,
Núi bao nhiêu tuổi núi còn trơ trơ.
98. Trắng như thủy tinh,
Trong như giá lọc.
Nhún mình đồng đen,
Ai ơi chớ nghĩ rằng hèn,
Kìa như nước đục đánh phèn lại trong.
99. Trèo lên cây khế nửa ngày,
Ai làm chua xót, lòng này khế ơi !
Mặt trăng sánh với mặt trời,
Sao hôm sánh với sao mai chằng chằng.
Mình ơi, có nhớ ta chăng ?
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.
100. Trên trời băm sáu vì sao,
Vì thấp là vợ, vì cao là chồng.
Cô kia gái lớn ngỗng ngồng,
Hỏi thăm cô đã có chồng hay chưa ?
101. Trên trời có một ông sao,
Chốn quang chẳng mọc, mọc vào đám mây.
Nước Hồ Tây biết bao giờ cạn,
Nhị vườn đào biết vạn nào hoa.
Đưa nhau một quãng đường xa,
Hỏi thăm anh tú có nhà Cửa Nam.
102. Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Thời anh mua gạch Bát-tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
103. Trống tháng bảy, chẳng hội thì chay,
Tháng sáu heo may, chẳng mưa thì bão.
104. Trời sinh ra đã làm người,
Hay ăn, hay nói, hay cười, hay chơi.
Khi ăn thì phải lựa mùi,
Khi nói thì phải lựa lời chớ sai.
Cả vui chớ có vội cười,
Nơi không lễ phép chớ chơi làm gì.
105. Trời nắng chóng trưa, trời mưa chóng tối.
106. Trứng rồng lại nở ra rồng,
Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
107. Trứng rồng lại nở ra rồng,
Hạt thông lại nở cây thông rườm rà.
Có cha sinh mới ra ta,
Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng.
108. Vắng sao hôm, có sao mai,
Vắng chàng thiếp đã có trai ở nhà.
109. Vắng trăng thì đã có sao,
Vắng hoa thiên lý có đào nhị tiên.
110. Vật đổi, sao dời.
111. Vừa mưa vừa nắng,
Cái cắng đánh nhau.
Bồ câu ra chữa,
Chốc nữa lại tạnh.
Vừa rồi, chúng ta đã khảo sát qua những hệ thống tư tưởng khác biệt từ ý thức cá nhân đến ý thức chung của từng miền. Sự dị biệt ấy chứng tỏ con người đã đặt suy tư ngoài cơ cấu vũ trụ.
Mặc dù vậy, không một triết gia nào tự ý tách rời tính chất liên hệ giữa cuộc sống con người với thiên nhiên.
Tại sao có sự mâu thuẫn như vậy ?
Nếu nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ thấy đó là trạng thái tham vọng của con người. Khi suy tư con người không đòi hỏi ở thực tại những nhu cầu cần thiết, thì con người đã đưa nó đến một trạng thái biệt lập xa vời ; ngược lại, bản thể con người dù có muốn tách rời khỏi cơ cấu vũ trụ, con người vẫn cảm thấy có cái gì ràng buộc, không thể chối bỏ đi được. Chính mâu thuẫn căn bản ấy đã đưa con người đến quan niệm phân chia giữa tâm hồn và vật chất.
Nói cách khác, khi đem suy tư phân định cơ cấu vũ trụ, con người đã đem ý thức đặt lên trên mọi biến động của guồng máy thiên nhiên, nhưng thực trạng chính con người, cả ý thức con người, lại không thể nào thoát được. Bởi vậy, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy tất cả hệ thuyết từ Đông sang Tây, từ cá nhân đến dân tộc, đều tự cho rằng hệ thuyết mình là đúng với cơ năng biến động của vũ trụ.
Khi đã xác nhận sự biến động của vũ trụ, tất nhiên hệ thuyết nào cũng phải tổ chức cuộc sống con người cho phù hợp với trạng thái thiên nhiên. Tuy vậy, không một hệ thuyết nào giống hệ thuyết nào, trong lúc cơ năng biến động của thiên nhiên chỉ là một. Như thế, rõ ràng mọi suy tư của các triết gia không phải là của vũ trụ, mà chỉ là của con người, của khối óc riêng rẽ tách ra ngoài biến động hiện hữu của thiên nhiên.
Sự dị biệt về quan niệm vũ trụ của mỗi suy tư chẳng những gây thành nhiều ý thức hệ chống đối nhau mà còn phân hóa trong đời sống loài người, kéo dài theo quá trình thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trong những mục trước chúng ta đã phân tích qua vài hệ thuyết để tìm những khác biệt trong lập trường căn bản, ở mục này chúng tôi tưởng cũng cần nêu lên những hành vi trong cuộc sống của từng lớp người, khi tư tưởng họ ngã về một hệ thuyết nào đó, để chứng minh trạng thái phân hóa của suy tư trong xã hội loài người không phải không quan trọng.
1) Về Lão-học
Lão học quan niệm cơ năng vũ trụ là một trạng thái biến động tất nhiên trong yếu tố thăng bằng. Chỉ có trí khôn con người xen vào làm cho yếu tố thăng bằng của vũ trụ bị chênh lệch. Bởi vậy, Lão-học chủ trương đưa con người trở về trạng thái thiên nhiên, phủ nhận mọi hiểu biết của con người. Vì quan niệm như vậy, Lão-học cho danh vọng, tiền tài là cái gì hèn hạ, xấu xa trong cuộc sống, và xem trường đời là nơi xâu xé, cướp đoạt lẫn nhau.

b) TỔ CHỨC SINH HOẠT CON NGƯỜI HỢP VỚI BIẾN CHUYỂN THIÊN NHIÊN

Chủ trương vô vi và xuất thế của Lão-học đã tác động vào lịch sử sinh hoạt xã hội như thế nào ?

Nhiều nhà phê bình trước đây đã cho lý thuyết của Lão-giáo là mảnh đất nuôi dưỡng mầm bất mãn trong các chế độ thống trị. Những kẻ chịu ảnh hưởng mạnh nhất trong tư tưởng Lão-giáo là những kẻ từ giai cấp thống trị bị thất thế, không còn được ưu đãi nữa. Họ từ bỏ địa vị vàng son, và để trả thù những ai chiếm địa vị xã hội của họ, họ tỏ ra khinh thế ngạo vật, đem tâm tư vượt lên trên thế sự, cái mà họ gọi là tầm thường, là hèn hạ trong thế giới loài người.

Lời phê bình trên đây không phải không đúng. Bởi vì, căn cứ vào thực trạng xã hội, lịch sử đấu tranh càng diễn biến khốc liệt bao nhiêu thì lớp người khinh thế ngạo vật càng nẩy nở bấy nhiêu. Dù bị sa cơ trên trường tranh đấu, nhưng con người, nhất là hạng trí thức, không thể không tìm một chỗ đứng cho tâm hồn mình để an ủi cuộc sống thực tại.

Một con ngựa khi đã đẫm mồ hôi, liệt vó trên trường đồ, không còn đủ sức vượt thêm nữa, thì những rặng cây, thảm cỏ, chính là chỗ lý tưởng để cho nó nghỉ ngơi. Con người khi đã thất thế trên bước công danh, thì chỗ nghỉ ngơi không còn gì thích hợp bằng ý thức vô vi, xuất thế của Lão-học.

Chúng ta không cần mổ xẻ vũ trụ quan của Lão-học đúng hay sai, nhưng thực tế cho phép chúng ta thừa nhận vũ trụ quan của Lão-học chính là bóng cây râm mát, thảm cỏ xanh rì… để cho những con ngựa chồn chân có nơi dưỡng sức. Chúng ta nói như thế không có nghĩa là chúng ta phủ nhận hệ thuyết cao xa của Lão-học trong đó chứa đựng những tinh hoa của suy tư, mà chúng ta chỉ kiểm điểm phần nào qua thực trạng diễn biến trong lịch sử loài người đối với học thuyết ấy mà thôi.

Để chứng minh tư tưởng Lão-học diễn biến qua cuộc sống loài người, chúng tôi thiết tưởng không gì rõ ràng hơn là đọc lại những tâm tư của lớp người « ẩn sĩ » đã lưu lại trong lịch sử văn học Trung-quốc.

« Chuyện Hứa-Do và Sào-Phủ »

Vào thời vua Nghiêu, có Hứa-Do là một ẩn sĩ, sống trong vùng núi Bái-trạch.

Vua Nghiêu nghe tiếng là người tài đức nên mời ra để truyền ngôi, nhường thiên hạ cho. Hứa-Do từ chối lui về ẩn tại núi Trung-nhạc, phía Nam sông Dĩnh-thủy.

Vua Nghiêu vẫn tìm đến, cố mời cho được Hứa-Do ra làm Tổng-trấn của chín châu. Hứa-Do không muốn nghe nói đến chuyện công hầu khanh tướng, bèn ra bờ sông Dĩnh-thủy rửa tai.

Ngay lúc đó có Sào-Phủ dắt trâu đến bờ sông cho uống nước, thấy Hứa-Do rửa tai, liền hỏi : « Việc gì mà quí nhân phải rửa tai kỹ đến thế ? »

Hứa-Do kể chuyện lại, Sào-Phủ vội dắt trâu đến tận đầu nguồn mới cho uống nước, và nói với Hứa-Do : « Quí nhân vì nghe tiếng nói lợi danh mà phải rửa tai, nếu ta cho trâu uống nước ở đây e bẩn miệng trâu ta chăng ». (Cao sĩ truyện)

Đây chỉ là ý thức phô diễn của lớp người ẩn sĩ có khuynh hướng Lão-học. Sự thực, nhân vật vua Nghiêu là một nhân vật huyền thoại, thì Hứa-Do, Sào-Phủ cũng chỉ là những nhân vật tưởng tượng của lớp thức giả vì chán lợi danh, tìm cách bộc lộ ý thức khinh thế ngạo vật của mình.

« Chuyện một người bệnh »

Nước Tống có một người đứng tuổi tự nhiên mắc phải bệnh « quên ». Buổi sáng lấy gì của ai, buổi chiều đã quên. Ngày nay cho ai cái gì, ngày mai đã quên. Ra đường quên cả đi, ở nhà quên cả ngồi, trước có làm những gì, bây giờ quên hết. Bây giờ làm gì, sau này cũng quên hết.

Cả nhà anh lấy làm lo. Xem bói không tốt, đi cúng không đỡ, đón thầy chữa thuốc cũng không khỏi.

Sau có ông đồ người nước Lỗ đến thăm và hứa chữa khỏi bệnh.

Vợ người bệnh hứa với ông đồ, nếu chữa lành sẽ cung hiến nửa phần gia tài.

Ông đồ nói : « Bệnh này bói không ra được, cúng không khỏi được, thuốc không chữa được. Nay tôi thử hóa cái tâm tính, biến cái trí lự của anh ta, may ra khỏi chăng ? »

Nói đoạn, ông đồ liền sai lột áo để cho rét, thì thấy anh ta xin áo ; sai cấm ăn để cho đói thì thấy anh ta xin ăn ; sai đem vào chỗ tối thì thấy anh ta xin ra chỗ sáng.

Ông đồ hớn hở bảo con anh ta rằng : « Bệnh chữa được, song môn thuốc của tôi bí truyền không thể nói cho ai hết ».

Rồi ông đuổi cả người chung quanh đi, chỉ một mình ông với người bệnh trong bảy ngày. Chẳng ai biết ông đồ chữa chạy ra sao, mà cái bệnh lâu năm như thế nhất đán khỏi hẳn.

Khi anh chàng có bệnh đã tỉnh như thường, anh liền nổi cơn giận, chửi vợ đánh con, cầm giáo đuổi cả ông đồ.

Người ta bắt anh hỏi vì cớ gì anh giận như vậy ; anh đáp : « Lúc trước ta có bệnh « quên » thì trong lòng ta thản nhiên, khoan khoái, trời đất có hay không cũng chẳng cần biết. Nay ta hết bệnh, ta lại nhớ cả những việc vài mươi năm về trước ; việc còn, việc mất, việc được, việc hỏng, việc buồn, việc vui, việc yêu, việc ghét trong lòng lại nổi dậy muôn mối ngổn ngang. Ta e sau này, những việc còn mất, được thua, buồn vui, thương ghét cứ vương vít trong lòng ta mãi mãi thì bấy giờ dù muốn quên đi một phút liệu còn có được nữa chăng ? » (Liệt-tử)

Câu chuyện người bệnh trên đây là sản phẩm của khuynh hướng Lão-học. Tư tưởng Lão-học phủ nhận sự hiểu biết của con người về lẽ sống, quan niệm ấy khi tác động vào xã hội nhân loại, khiến những người có khuynh hướng Lão-học mang nặng tính chất yếm thế. Họ đem việc « lánh đời » làm phương tiện để tạo hạnh phúc cho lẽ sống. Người bệnh nước Tống di lưu trong lịch sử văn học Trung-quốc chẳng qua là một sự kiện để cho lớp người có khuynh hướng Lão-học mượn nó giãi bày ý thức yếm thế của họ mà thôi.

« Chuyện về bệnh mê »

Nước Tần có con nhà họ Bàng, lúc nhỏ thông minh và khôn ngoan sớm. Nhưng đến lúc lớn lên tự nhiên mắc phải bệnh mê : nghe hát cho là khóc, trông trắng cho là đen, ngửi thơm cho là thối, ăn ngọt cho là đắng. Tính hạnh anh dở mà cứ cho là hay, là phải, bao nhiêu ý nghĩ của anh ta như trời, đất, nước, lửa, nực, rét, không có cái gì không đảo ngược sai lầm.

Có người nói với cha anh ta : « Bậc quân tử ở nước Lỗ có lắm thuật nhiều nghề, sao ông không đến cầu cạnh may ra chữa khỏi ».

Người cha nghe lời sang nước Lỗ, nhưng khi vừa đến nước Tần lại gặp ông Lão-Đam, nhân nói chuyện về chứng bệnh của con, ông Lão-Đam nói với người cha : « Nhà ngươi há biết được cái bệnh mê của con nhà ngươi đâu. Nay thiên hạ ai cũng ù ờ phải trái, mờ mịt về lợi hại, kẻ mắc phải bệnh mê như con nhà ngươi rất nhiều, chẳng có ai tỉnh cả ».

Vả lại, một người mê không đủ làm lụy một nhà, một nhà mê không đủ làm lụy một nước, một nước mê không đủ làm lụy thiên hạ. Nhưng nếu thiên hạ ai cũng mê hết thì không còn ai làm lụy ai được nữa.

Giả sử, thiên hạ ai cũng mê như con nhà ngươi, mà nhà ngươi lại muốn chữa bệnh mê, thì chính nhà ngươi lại hóa ra mê mất.

Ở đời có những sự buồn vui, điều phải lẽ trái, tại sao lại bảo phải như thế này, thế kia mới là đúng. Ngay như lời nói của ta đây vị tất đã khỏi mê, huống chi người quân tử nước Lỗ là người quá u ám thì chữa bệnh mê của con nhà ngươi thế nào được. Nhà ngươi đem theo bao nhiêu tiền chữa chạy cho con chẳng bằng cứ nghe theo ta trở về còn hơn. (Liệt-tử)

Câu chuyện trên đây, tuy có mục đích chống đối Khổng-tử, phủ nhận cái hay, cái đẹp do bộ óc con người qui định thành khuôn vàng thước ngọc, nhưng thực tế, cũng là những ý tưởng phô diễn của lớp người khinh thế ngạo vật, có khuynh hướng Lão-học.

Sau đây, chúng tôi xin trích một số câu chuyện của nghìn xưa để lại trong văn học Trung-hoa, mục đích không để phê phán, mà chỉ để chứng minh dòng suy tư của Lão-học di lưu trong sinh hoạt loài người, và chính họ là những môn đồ đem tinh thần Lão-học áp dụng vào đời sống thực tại trong tiến trình lịch sử xã hội loài người.

« Chuyện Trang-tử gõ bồn »

Vợ Trang-tử chết. Huệ-tử đến viếng, thấy Trang-tử đang ngồi xoạc đùi, tay nhịp vào bồn nước mà hát. Huệ-tử bảo : « Mình đã ăn ở đến có con với người ta, bây giờ người ta già, người ta chết, mình không khóc thì cũng đã đủ rồi, lại còn gõ bồn mà hát, chẳng hóa ra vô tình lắm sao ? »

Trang-tử nói : « Không phải thế. Lúc vợ tôi mới chết tôi cũng lấy làm thương tiếc lắm. Nhưng xét cho cùng, thì vốn là không có gì cả. Chẳng những không có gì mà vốn lại không có hình. Chẳng những không có hình mà vống lại không có khí. Cái người ấy chẳng qua là tạp chất biến mà hóa ra có khí, khí biến mà hóa ra có hình, hình biến mà hóa ra có sinh, có sinh lại biến ra có tử, có khác nào như xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa cứ tuần hòa đi lại không ? Vả lại người ta chết là trở về với tạo hóa, cũng như người ra ngoài mà về nhà, thế mà ta cứ theo đuổi nghêu ngao, khóc lóc, thì chúng ta chẳng hóa ra không biết mệnh trời ư ? Cho nên ta không khóc, mà ta lại còn hát nữa ». (Trang-tử)

« Chuyện đọc sách cổ »

Vua Hoàn-công đọc sách ở nhà trên, có người thợ mộc đang đẽo bánh xe ở nhà dưới, nghe tiếng học, bỏ chàng, đục chạy lên thưa với vua rằng : « Cả dám hỏi nhà vua học những câu gì thế ? »

Hoàn-công nói : « Những câu của thánh nhân ».

- Thánh nhân hiện nay còn sống không ? »

Ở đời có những sự buồn vui, điều phải lẽ trái, tại sao lại bảo phải như thế này, thế kia mới là đúng. Ngay như lời nói của ta đây vị tất đã khỏi mê, huống chi người quân tử nước Lỗ là người quá u ám thì chữa bệnh mê của con nhà ngươi thế nào được. Nhà ngươi đem theo bao nhiêu tiền chữa chạy cho con chẳng bằng cứ nghe theo ta trở về còn hơn. (Liệt-tử)

Câu chuyện trên đây, tuy có mục đích chống đối Khổng-tử, phủ nhận cái hay, cái đẹp do bộ óc con người qui định thành khuôn vàng thước ngọc, nhưng thực tế, cũng là những ý tưởng phô diễn của lớp người khinh thế ngạo vật, có khuynh hướng Lão-học.

Sau đây, chúng tôi xin trích một số câu chuyện của nghìn xưa để lại trong văn học Trung-hoa, mục đích không để phê phán, mà chỉ để chứng minh dòng suy tư của Lão-học di lưu trong sinh hoạt loài người, và chính họ là những môn đồ đem tinh thần Lão-học áp dụng vào đời sống thực tại trong tiến trình lịch sử xã hội loài người.

« Chuyện Trang-tử gõ bồn »

Vợ Trang-tử chết. Huệ-tử đến viếng, thấy Trang-tử đang ngồi xoạc đùi, tay nhịp vào bồn nước mà hát. Huệ-tử bảo : « Mình đã ăn ở đến có con với người ta, bây giờ người ta già, người ta chết, mình không khóc thì cũng đã đủ rồi, lại còn gõ bồn mà hát, chẳng hóa ra vô tình lắm sao ? »

Trang-tử nói : « Không phải thế. Lúc vợ tôi mới chết tôi cũng lấy làm thương tiếc lắm. Nhưng xét cho cùng, thì vốn là không có gì cả. Chẳng những không có gì mà vốn lại không có hình. Chẳng những không có hình mà vống lại không có khí. Cái người ấy chẳng qua là tạp chất biến mà hóa ra có khí, khí biến mà hóa ra có hình, hình biến mà hóa ra có sinh, có sinh lại biến ra có tử, có khác nào như xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa cứ tuần hòa đi lại không ? Vả lại người ta chết là trở về với tạo hóa, cũng như người ra ngoài mà về nhà, thế mà ta cứ theo đuổi nghêu ngao, khóc lóc, thì chúng ta chẳng hóa ra không biết mệnh trời ư ? Cho nên ta không khóc, mà ta lại còn hát nữa ». (Trang-tử)

« Chuyện đọc sách cổ »

Vua Hoàn-công đọc sách ở nhà trên, có người thợ mộc đang đẽo bánh xe ở nhà dưới, nghe tiếng học, bỏ chàng, đục chạy lên thưa với vua rằng : « Cả dám hỏi nhà vua học những câu gì thế ? »

Hoàn-công nói : « Những câu của thánh nhân ».

- Thánh nhân hiện nay còn sống không ? »

ràn đầy mâu thuẫn. Từ mâu thuẫn ý thức triết học dẫn đến mâu thuẫn về quan niệm văn minh và lẽ sống con người.

Tại sao có sự mâu thuẫn như vậy ? Trước hết chúng ta phải thừa nhận tầm hiểu biết con người không phải là cái gì siêu thoát ra ngoài cơ cấu vũ trụ. Dù văn minh tiến bộ đến đâu, con người, sự hiểu biết con người, cũng chỉ là sản phẩm của vũ trụ ; cho nên, con người không thể đem cái hiểu biết hạn hẹp của mình bao trùm mọi trạng thái thiên nhiên.

Cái hiểu của con người do đâu mà có ? Thực ra, con người có trí khôn, có ý thức, đó là tính chất cá biệt đối với mọi sinh vật. Tuy nhiên, muốn hiểu biết, trí khôn con người cần phải tích lũy qua dung lượng thời gian, không gian. Nói cách khác, trí khôn con người phải nhờ sự biến động của thời gian, không gian, nghĩa là nhờ sự biến dịch của guồng máy vũ trụ mới nẩy ra sự hiểu biết ấy. Như vậy, nếu đem sự hiểu biết con người đặt ngoài cơ cấu biến động của vũ trụ thì đó là chuyện không tưởng. Còn nếu đặt sự hiểu biết con người vào trạng thái biến động của vũ trụ thì sự hiểu biết con người phải lệ thuộc vào mức tăng trưởng của thời gian, không gian, mà con người không thể nào có sự hiểu biết siêu thoát được.

Vậy thì chúng ta nên quan niệm sự hiểu biết con người nằm trong cơ cấu vũ trụ, hay vượt ra ngoài sự biến động của thiên nhiên ? Trả lời câu hỏi này có lẽ mỗi người trong chúng ta quan niệm mỗi khác.

Chính sự dị biệt này đã phân hóa ý thức loài người ra nhiều ngả rẽ. Mỗi ngả rẽ là một con đường tạo thành một ý thức hệ, để rồi chúng ta càng đi tới, càng thấy chơi vơi, mung lung, và cuối cùng loài người đã tạo ra những mâu thuẫn trong lẽ sống.

Có điều chúng ta thấy chắc chắn là lịch sử triết học thế giới đi từ chỗ biệt lập giữa ý thức con người với cơ năng vũ trụ tiến dần đến chỗ hòa hợp với mọi cơ cấu biến động thiên nhiên.

Chẳng hạn như dòng triết học Tây Âu, ban đầu đặt ý thức ra ngoài thời gian, không gian, chối bỏ thực thể vũ trụ, dần dần thừa nhận thực thể vũ trụ trong ý thức, và sau cùng xem ý thức và thực thể vũ trụ có tương quan mật thiết không thể tách rời…

Như vậy, hướng tiến của tâm tư con người là đi dần đến sự hòa hợp giữa ý thức con người và cơ cấu vũ trụ. Con đường tiến ấy có lẽ còn xa hơn, tức là có thể đi đến chỗ đặt ý thức con người trong vòng biến động của vạn hữu, xem sự hiểu biết con người chỉ là một thực thể thiên nhiên, tức là nằm trong trạng thái biến động của thời gian, không gian.

Từ trước đến nay, sở dĩ loài người có những mâu thuẫn nhau về ý thức, chỉ vì loài người tự đặt ý thức mình ra ngoài thực thể của thiên nhiên, tức là họ quan niệm có thể dùng suy tư con người quyết định mọi diễn biến của vũ trụ. Quan niệm như vậy, ý thức con người trở thành cái gì độc tôn, mà cơ năng vũ trụ chỉ là một bộ máy tầm thường dưới tầm quan sát của một viên kỹ sư, hay một người thợ máy.

Chúng ta có thể có nhiều kỹ sư, có nhiều cách sáng chế, diễn tả sự biến động của một guồng máy trước sự nhận xét của mình.

Nhưng ở đây, vũ trụ không phải là một guồng máy tầm thường, mà loài người cũng không thể là những viên kỹ sư. Cái hiểu biết con người nếu đặt vào cơ năng vũ trụ thì nó chỉ là một trạng thái phát sinh do sự biến động của guồng máy vũ trụ mà có.

Sự hiểu biết con người nếu là trạng thái do biến động thiên nhiên phát sinh thì tầm hiểu biết ấy không thể tách rời ngoài năng lực thiên nhiên, tức là nó phải phù hợp với trạng thái biến đổi và tăng trưởng của thời gian, không gian.

Sự biến đổi và tăng trưởng của thời gian làm cho suy tư con người đổi mới. Cho nên, nếu sự hiểu biết con người là sản phẩm của thiên nhiên, chịu ảnh hưởng mọi biến động vũ trụ, thì suy tư con người cũng không thể đứng yên một chỗ, không thay đổi được.

Người của thế hệ ngày nay không cùng một suy tư với người của thế hệ ngày xưa, và người của thế hệ ngày mai cũng sẽ không cùng một suy tư với người của thế hệ ngày nay, đó chính là trạng thái biến động và tăng trưởng của thời gian, không gian, mà sự hiểu biết của con người là trạng thái ảnh hưởng.

Cho nên, nếu đặt sự hiểu biết con người vào tầm biến động của vũ trụ, thì suy tư con người không thể nào cố định mãi.

Suy tư đã không cố định mà bảo loài người phải tôn thờ một hệ thuyết do ý thức tự ngàn xưa dựng nên, với thời điểm mà dung lượng thời gian, không gian trái với hiện tại, tất nhiên không thể tránh khỏi sự bài bác và chống đối.

Bắt loài người tôn thờ một hệ thuyết, hoặc bênh vực một hệ thuyết mà chối bỏ sự tăng trưởng và biến động của thời gian, không gian chính là chúng ta đã đặt sự hiểu biết con người ra ngoài cơ năng vũ trụ, xem sự hiểu biết là năng lực cố định và bất di bất dịch.

Chống lại những quan niệm ngày xưa, hay nói đúng hơn, đả phá những hệ thuyết không còn phù hợp với trạng thái thời gian ngày nay, lớp người của thế hệ chúng ta mặc nhiên đã thừa nhận sự tăng trưởng và biến dịch của thời gian, không gian, mà sự hiểu biết con người không phải là năng lực siêu nhiên, mà là sản phẩm của vũ trụ.

Đối với người xưa, trong lịch sử triết học, tuy họ đặt suy tư ngoài vòng biến động của vũ trụ, nghĩa là họ muốn cho triết thuyết họ mang một giá trị muôn đời, nhưng thực ra chính họ lại bị sự biến động và tăng trưởng của thời gian, không gian chi phối.

Một triết gia của thế hệ đương thời chống đối học thuyết của triết gia tiền bối, phải chăng họ đã chối bỏ sự cố định của suy tư ? Đã chối bỏ tính chất cố định của suy tư, tại sao họ lại tách rời suy tư ra ngoài biến động của vạn hữu. Đó là trạng thái mâu thuẫn ngay giữa quan niệm và việc làm của họ. Trạng thái mâu thuẫn ấy là căn bản tất yếu tác thành những mâu thuẫn ý thức hệ trong lịch sử triết học thế giới mà chúng ta vừa kiểm điểm trên đây.

Trở về với ý thức, nếu chúng ta đặt sự hiểu biết con người vào cơ năng vũ trụ thì mọi triết thuyết sẽ không thể nào tồn tại mãi trong suy tư con người khi cơ năng vũ trụ biến động, đưa thời gian, không gian tiến tới và đổi thay dung lượng mãi mãi. Cho nên, một triết thuyết chỉ có giá trị đối với suy tư con người ở một thời điểm nào đó, và sẽ mất giá trị vào một thời điểm nào khác.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể vì thời điểm đổi khác, vì giá trị suy tư bị mất mà phủ nhận tính chất hiện hữu của nó. Một câu nói của người xưa tuy trái với quan niệm chúng ta hôm nay, nhưng đối với thời xưa nó vẫn có giá trị. Ngược lại, không vì quan niệm chúng ta ngày nay đổi khác mà người xưa bảo quan niệm chúng ta thiếu giá trị. Mọi giá trị đều tương đối và ngang nhau khi đặt nó vào một thời điểm đúng với tính chất diễn biến của nó.

Mặt khác, dĩ vãng, hiện tại và tương lai là một sợi dây dài không thể phân chia. Sự hiểu biết của chúng ta ngày nay, những suy tư đổi mới của chúng ta ngày nay chính là do căn bản của sự hiểu biết của thời xưa, những suy tư cũ kỹ của người xưa cộng với dung lượng thời gian tăng trưởng của thế hệ chúng ta mà kết thành. Vậy chúng ta chối bỏ dĩ vãng tức là chúng ta phủ nhận một phần sự hiểu biết được di lưu trong chúng ta, đó cũng là một trạng thái mâu thuẫn nữa.

Tóm lại, chỉ khi nào con người đem ý thức hòa vào vũ trụ, đem con người đặt vào của chung của vạn hữu, nối kết mọi biến động thời gian, không gian trở thành một khối, liên hệ mật thiết với nhau thì chúng ta mới có thể tìm thấy những tương đồng trong ý thức hệ được.

Qua một vài nhận định trên, đến đây chúng tôi thấy cần trở về với công việc chính của chúng ta là tìm hiểu vũ trụ quan của người bình dân Việt-nam.

Khác với những hệ thuyết có tính chất cá nhân, lập trường dân tộc không chủ trương dùng suy tư riêng rẽ khống chế những suy tư của kẻ khác, bắt buộc mọi suy tư phải hướng theo mình, mà lập trường của dân tộc là gom góp những quan niệm chung di lưu qua thời gian, không gian, cấu kết thành quan niệm chung của một khối người.

Do đó, khi chúng ta đi tìm căn bản suy tư của một dân tộc, thì không phải đi tìm những học thuyết của cá nhân xây dựng trên quan niệm riêng rẽ, mà tìm lại những vết tích rời rạc ghi dấu vào lịch sử thời gian, không gian. Cho nên, ngược dòng lịch sử, trong lúc những học thuyết từ nước ngoài du nhập vào, xây dựng trên quan niệm cá nhân, thì dân tộc Việt-nam, trong giai cấp bình dân, chúng ta vẫn thấy những tâm tư triết học âm thầm nẩy nở trong sinh hoạt xã hội,và từ những ý tưởng cá nhân đúc thành ý tưởng chung cho một khối người.

Ý tưởng ấy là gì ? nếu không phải là tâm tư triết học ? Tâm tư triết học không nhất thiết phải đúc kết thành hệ thống suy tư mới có giá trị. Thường thường những suy tư đúc kết thành hệ thống chỉ là những suy tư cá nhân, nhằm khống chế tư tưởng loài người trong lãnh vực tinh thần. Chính những suy tư rời rạc của từng người di lưu qua thời gian, không gian mới là những suy tư độc lập, ít chịu ảnh hưởng vì áp lực của ý thức hệ gây nên.

Trong mục này, chúng tôi đặt vấn đề : Người bình dân lấy thực nghiệm đi tìm cơ cấu vũ trụ. Như vậy, trước khi phân tích, chúng tôi thấy cần xét qua hai điểm :

Người bình dân Việt-nam có quả đã lấy thực nghiệm đi tìm cơ cấu vũ trụ hay không ?

Tại sao người bình dân lại lấy thực nghiệm đi tìm cơ cấu vũ trụ ? Về điểm thứ nhất, chúng ta thấy những tư tưởng triết học sở dĩ có là do ý thức con người va chạm với mọi biến chuyển thiên nhiên. Dù với dân tộc nào, từng lớp nào, cá nhân nào, khi đã hòa mình trong lẽ sống, ý thức con người không thể đặt ra ngoài những suy tư khi nội tâm và ngoại vật tác động vào cuộc sống hằng ngày. Khi suy tư đã diễn biến, tức là ý thức triết học phát khởi. Vậy ý thức triết học không chỉ có trong bộ óc của các học giả, các nhà khảo cứu khoa học, chính trị học, kinh tế học… mà bàng bạc trong tư tưởng giới của mọi người, khi họ đang sống. Tuy nhiên, khác với giai tầng trí thức, người bình dân là lớp người hồn nhiên, chất phác, cho nên những suy tư của họ chỉ bộc lộ trong trường hợp đụng chạm nhất thời, không dùng cái hiểu biết cá nhân mình để phân định cơ cấu vũ trụ, mà chỉ dùng cảm tình của con người hòa trong mọi biến động thiên nhiên. Chính vì thế mà thực nghiệm trở thành căn bản cho suy tư của họ.

Về điểm thứ hai, chúng ta đã phân tích ý thức của người bình dân xem con người là sản phẩm của vũ trụ, nằm trong năng lực chi phối của vũ trụ, ý thức con người là trạng thái tăng trưởng và biến động của thời gian, không gian, cho nên, con người muốn tìm hiểu vũ trụ không phải đem ý thức con người đặt ra ngoài cơ năng vũ trụ, nhận định vũ trụ theo trí tưởng tượng của mình, mà phải hòa mình trong mọi biến động thiên nhiên, và lấy mọi biến động thiên nhiên đúc thành những suy tư của con người.

Như vậy, với hai yếu tố trên, chúng ta không lấy làm lạ khi nêu sự khác biệt giữa hai luồng tư tưởng về bình dân và bác học trong quan niệm đi tìm cơ cấu vũ trụ. Nếu tư tưởng bác học lấy yếu tố suy tư làm căn bản cho triết học của mình thì tư tưởng bình dân lại lấy thực nghiệm làm căn bản cho triết học của họ.

Để chứng minh điều này, chúng ta hãy tìm trong ca dao Việt-nam để xác định quan niệm của họ.

Tuy nhiên, vừa rồi chúng ta đã xác định giá trị của suy tư. Nếu đặt suy tư con người vào tầm diễn biến của vạn hữu, lệ thuộc vào thời gian, không gian, thì không một suy tư nào có giá trị vĩnh cửu, mà chỉ có giá trị đương thời. Cho nên, tìm lại những quan niệm của người bình dân Việt-nam trong ý thức vũ trụ không phải chúng ta đi tìm những giá trị của ý thức ngày nay, mà chỉ nêu lên tâm tư của dân tộc trong một thời điểm đã qua.

Với thời điểm ấy, với những tâm hồn chất phác, mộc mạc trong ruộng rẫy nương dâu, chúng ta ngày nay không khỏi mỉm một nụ cười cho là ấu trĩ trong tư tưởng triết học. Nhưng, nếu chúng ta quan niệm những tư tưởng ấy đã mất giá trị tuyệt đối thì chúng ta quả sai lầm. Lịch sử tư tưởng loài người đi đôi với mức độ tăng trưởng của thời gian, không gian, chúng ta không có quyền bắt người xưa suy tư như chúng ta ngày nay. Cũng như thế hệ mai sau, khi mà dung lượng thời gian chồng chất mỗi lúc một cao hơn, con người của thế hệ mai sau sẽ mỉm cười khi nhìn thấy những suy tư của chúng ta ngày nay, tuy nhiên, họ cũng không có quyền chối bỏ hoàn toàn giá trị suy tư của chúng ta được.

Nói cách khác, chúng ta đi tìm quan niệm vũ trụ của người bình dân thời xưa có nghĩa là chúng ta đi tìm giá trị suy tư của một thời điểm, mà lịch sử loài người đã đánh dấu trong dĩ vãng.

Người bình dân thời xưa không dùng cái hiểu biết của mình khám phá vũ trụ, mà dùng những hiện tượng vũ trụ làm căn bản cho hiểu biết của mình. Ví dụ, khi nhìn một mặt trăng, họ trông thấy :

Mồng một lá trai.

Mồng hai lá lúa.

Mồng ba câu liêm.

Mồng bốn lưỡi liềm.

Mồng năm liềm giật.

Mồng sáu thật trăng.

Mười rằm trăng náu.

Mười sáu trăng treo.

Mười bảy sảy giường chiếu.

Mười tám trăng lẹm.

Mười chính dụn dịn.

Hai mươi giấc tốt.

Hăm mốt nửa đêm.

Hăm hai bằng tải.

Hăm ba bằng dầu.

Hăm bốn ở đâu.

Hăm lăm ở đấy.

Hăm sáu đã vậy.

Hăm bảy làm sao.

Hăm tám thế nào.

Hăm chín thế ấy.

Ba mươi không trăng.

Sự thay đổi hình dáng của mặt trăng trở thành những thực nghiệm, gieo vào tâm tư người bình dân một ý tưởng : vũ trụ không phải là một trạng thái đứng yên, mà biến động mãi mãi. Cũng như họ trông thấy :

Mười ba trăng lặn gà kêu,

Mười bốn trăng lặn, gà đều gáy tan.

Hoặc : Đêm khuya thức dậy xem trời,

Thấy sao bên Bắc đổi dời bên Nam.

Thì, những thực nghiệm ấy chính là những căn bản dẫn tâm tư họ đến chỗ xem vũ trụ là một trạng thái biến động và thay đổi.

Tuy nhiên, họ không để cho ý thức họ đi quá xa. Nếu có những học thuyết xem sự dời đổi của mặt trăng là trạng thái biến động, xem sự viên mãn của mặt trời là trường tồn, và kết hợp thành hệ thuyết âm dương như hệ thuyết triết học Viễn-đông chẳng hạn, thì người bình dân chỉ chứng minh theo những gì họ nhận được trong thực nghiệm mà thôi.

Trong thực nghiệm, họ thấy sự biến động của vũ trụ rất có ảnh hưởng đến những biến cố thiên nhiên. Ví dụ họ bảo :

Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động.

Mùa Đông : mưa dầm gió bấc.

Mùa Hè : mưa to gió lớn.

Mùa Thu : sương sa nắng quáng.

Trăng quầng thì hạn.

Trăng tán thì mưa.

Tháng chín động rươi.

Tháng mười động rạ.

Tháng ba động rạm.

Tháng giêng rét dài.

Tháng hai rét lộc.

Tháng ba rét nàng Bân.

Nàng Bân may áo cho chồng.

May ba tháng ròng mới được cửa tay.

Biến động của vũ trụ là nguyên nhân tạo thành những hiện tượng, và những hiện tượng lại là nguyên nhân phát sinh những kết quả của biến động. Vì vậy, khi nhìn vào hiện tượng, họ có thể dùng sự hiểu biết trong kinh nghiệm đoán được mọi kết quả sắp diễn biến. Ví dụ :

Ráng mỡ gà, thì gió.

Ráng mỡ chó thì mưa.

Ráng mỡ gà ai có nhà phải chống.

Đầu năm sương muối.

Cuối năm gió nồm.

Mống cao gió táp.

Mống rạp mưa rào.

Mống bên Đông, vồng bên Tây.

Chẳng mưa dây thì bão giật.

Mống dài trời lụt.

Mống cụt trời mưa.

Mây thành vừa hanh vừa giá.

Mưa vảy trút thì mưa.

Mây nhả bừa thì nắng.

Cơ năng biến động của vũ trụ chẳng những phát sinh những hiện tượng thiên nhiên, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến mọi sinh vật nữa. Đây, chúng ta hãy xét qua kinh nghiệm thực tiễn của họ :

Ếch kêu uôm uôm,

Ao chuôm đầy nước.

Cóc nghiến răng chuyển động bốn phương trời.

Quạ tắm thì ráo (nắng).

Sáo tắm thì mưa.

Diều hâu rít lưỡi, lạnh giá tới nơi.

Kiến cánh vỡ tổ bay ra.

Bão táp, mưa sa gần tới.

Cỏ gà màu trắng, điềm nắng đã hết.

Lá tre trổi lộc, mùa rét xộc đến.

Chớp đông nhay nháy.

Gà gáy thì mưa.

Tháng bảy heo may.

Chuồn chuồn bay thì bão.

Những thực nghiệm của người bình dân trong ý thức tìm hiểu cơ cấu vũ trụ từ xưa đến nay chúng ta không thể nào góp nhặt cho hết. Những gì chúng ta biết chỉ là một phần nhỏ đã ghi lại trên sách vở do tiền nhân góp nhặt, mà trong dân gian còn rải rác rất nhiều. Ở đây chúng ta chỉ lấy một ít để chứng dẫn mà thôi.

*

Tóm lại, qua dòng lịch sử tư tưởng của người bình dân thời xưa, từ ý thức thần thoại đến những quan niệm tương đồng và dị biệt đối với các triết thuyết ngoại lai, và chứng dẫn theo tinh thần khảo sát trong mọi hiện tượng vũ trụ chúng ta có thể hệ thống hóa quan niệm về vũ trụ của họ theo mấy qui tắc sau đây :

- Người bình dân Việt-nam không xem cơ cấu vũ trụ và trạng thái biến động thiên nhiên do một quyền năng tối thượng định đoạt. Theo họ, cơ năng vũ trụ biến chuyển theo qui luật tất yếu ngoài tầm hiểu biết của con người, và con người, sự hiểu hiểu biết của con người cũng chỉ là sản phẩm của vũ trụ, chịu ảnh hưởng và chi phối theo qui luật tất yếu ấy. Vì vậy, con người không thể đem sự hiểu biết của mình định đoạt cơ năng vũ trụ, mà phải tìm hiểu cơ năng vũ trụ để nâng cao sự hiểu biết của mình. Chính vì vậy mà con người càng đem ý thức mình vượt ra ngoài khả năng biến động vũ trụ, nghĩa là đặt suy tư ra ngoài thực trạng của thời gian, không gian, con người càng gặp nhiều khó khăn trong lãnh vực triết học :

- Người bình dân xem mọi hiện tượng trong vũ trụ đều vâng theo trạng thái biến động tất yếu của thiên nhiên. Không một năng lực nào vượt ra ngoài cơ cấu thời gian, không gian cả. Nói như thế cũng có nghĩa là sự biến động thời gian, không gian là tất cả cho vũ trụ. Tính chất biến động của vũ trụ lại nhằm trong yếu tố mâu thuẫn thăng bằng. Mọi trạng thái cực đoan đều bị hủy diệt để điều hòa guồng máy huyền vi ấy. Cho nên, loài người càng đem trí khôn của mình tăng bồi theo dục vọng cá nhân, loài người càng tạo cho cơ năng vũ trụ mất sự thăng bằng, và khi bị mất thăng bằng, cơ năng vũ trụ càng biến động nhanh hơn để thăng-bằng-hóa theo qui luật tự nhiên.

- Người bình dân cũng xem trạng thái biến động của thời gian, không gian là trạng thái tăng trưởng. Mặc dù, chúng ta thấy mọi hiện tượng đều nằm trong vòng sinh diệt, nhưng không phải lúc nào cũng giữ một dung lượng thời gian như nhau. Cho nên, mức thăng bằng vạn hữu luôn luôn phải thay đổi theo dung lượng tăng trưởng của thời gian, không gian.

- Người bình dân cũng xem hiện hữu trong vũ trụ không tác động riêng rẽ, mà liên kết và chịu ảnh hưởng với nhau như một khối. Vì vậy, khi một cá thể biến động, toàn thể đều chịu chung ảnh hưởng, ngược lại, qui luật thăng bằng của toàn thể chi phối vào mọi cá thể, và mỗi cá thể phải vâng theo qui luật chung ấy.

Rút ra bốn qui tắc trên, chúng tôi không phải tự mình dựng lên một hệ thuyết, mà chỉ căn cứ vào dòng tư tưởng của người bình dân Việt-nam đã di lưu qua các thế hệ, cọ xát với mọi ý thức bên ngoài, hệ thống hóa một suy tư của dân tộc mà thôi.

Dĩ nhiên, trong công trình suy cứu, chúng ta không thể nào góp nhặt đầy đủ những dữ kiện đã chìm ngập trong dĩ vãng, nhưng những gì chúng ta đã sưu tầm được cũng đủ chứng minh rằng dân tộc chúng ta không phải là một dân tộc không có ý thức triết học.

Trải hơn bốn ngàn năm văn hiến, tại sao dân tộc Việt-nam không có một triết gia ? Và cho đến ngày nay, mọi ý thức triết học ghi trên sách vở, chúng ta vẫn thấy hoàn toàn là của dân tộc nước ngoài ? Phải chăng dân tộc Việt-nam bị làm một dân tộc nô lệ ? Không ! Chúng ta tin rằng một dân tộc đã đem sức mạnh tự tồn, chống lại ách thống trị của ngoại bang, ghi những trang lịch sử oai hùng trong truyền thống của họ, thì không thể nào thiếu ý thức tự lực tự cường, và nuôi trong tâm tư họ một quan niệm và lẽ sống.

Quan niệm về lẽ sống là nền móng tạo ra ý thức triết học. Sở dĩ chúng ta không tạo thành một hệ thuyết triết học là do quan niệm về lẽ sống của dân tộc Việt-nam khác biệt với quan niệm của nước ngoài. Dân tộc Việt-nam không tách rời suy tư con người ra khỏi guồng máy vũ trụ, không dùng suy tư cá nhân cưỡng dụng để tự tạo một cơ cấu vũ trụ theo ý thức riêng của mình, bắt mọi người phải theo. Quan niệm của dân tộc Việt-nam là hòa hợp với ý thức con người trong quan hệ vũ trụ để tìm hiểu cơ năng vũ trụ theo sự hiểu biết từng thời kỳ của mức tăng trưởng về thời gian, không gian. Nói như thế cũng có nghĩa là dân tộc Việt-nam không công nhận một triết thuyết nào trường cửu. Mọi triết thuyết khi đã do suy tư con người dựng nên thì đó là của suy tư chứ không phải của thực thể vũ trụ. Suy tư con người biến đổi theo tác động thời gian và không gian mà suy tư đã biến đổi thì sản phẩm của suy tư làm sao vĩnh cửu được. Trong vũ trụ không gì trường tồn, tại sao quan niệm của người nghìn xưa lại giữ mãi làm khuôn vàng thước ngọc cho người hôm nay. Ngày xưa, người bình dân nói :

Mây vảy trút thì mưa,

Mây nhả bừa thì nắng.

Nhưng ngày nay, do biến động của thời gian, do sự đổi dời của của vạn hữu, dung lượng thời gian, không gian không còn là dung lượng của thời điểm xa xưa, cho nên hiện tượng vũ trụ cũng đổi hẳn. Ngày nay, mây vảy trút không mưa, mây nhả bừa không phải nắng, mà có thể ngược lại.

Vậy thì, những gì của con người suy tư về vũ trụ chỉ có giá trị trong một thời điểm mà thôi. Đem suy tư của dân tộc, nếu thành một hệ thuyết triết học, chúng tôi xem như một công trình sưu khảo, ghi dấu một đoạn lịch sử tư tưởng. Và các bạn khi giẫm lên những dấu vết này, các bạn nên xem mình như đang bước trên nền một ngồi đền cổ. Ngôi đền ấy chính là nơi tiền nhân đã nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành.

4) Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu

1. Ai ơi, trẻ mãi ru mà,

Càng so sắn lắm, càng già mất duyên.

2. Ai về nhắn họ Hi, Hòa,

Nhuận năm sao chẳng nhuận vài trống canh.

3. Ai mua con quạ bán cho,

Đen long, đen cánh, bộ giò cũng đen.

4. Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò,

Chín tháng lò dò biết đi.

5. Buồn về một nỗi tháng giêng,

Con chim, cái cú nằm nghiêng thở dài.

Buồn về một nỗi tháng hai,

Đêm ngắn ngày dài, thua thiệt người ta.

Buồn về một nỗi tháng ba,

Mưa rầu, nắng lửa, người ta lư đừ.

Buồn về một nỗi tháng tư,

Con mắt lừ đừ, cơm chẳng muốn ăn.

Buồn về một nỗi tháng năm,

Chửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêu.

6. Cá lớn nuốt cá bé.

7. Cắc kè kêu chẵn mưa, thừa nắng.

8. Càng thắm thì lại càng phai,

Thoang thoảng, hoa lài càng được thơm lâu.

9. Cây khô chưa dễ mọc chồi,

Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta.

Non xanh bao tuổi mà già,

Bởi vì sương tuyết, hóa ra bạc đầu.

10. Cây xanh thì lá cũng xanh,

Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

11. Con sông kia nước chảy lờ đờ,

Con thuyền lững dững với trăng mờ nào soi.

Con sông kia bên lở, bên bồi,

Lở kia lở mãi, bên bồi bồi thêm.

Lúc bao giờ gió đứng, sóng êm,

Con thuyền anh xuôi ngược qua đêm lại về.

Với em anh trót nặng lời thề.

12. Còn trời còn nước còn mây,

Còn ao rau muống, còn đầy chum tương.

13. Cô kia má đỏ hồng hồng,

Cô chửa lấy chồng, còn đợi chờ ai.

Buồng không lần lữa hôm mai,

Đầu xanh mấy chốc da mồi tóc sương.

14. Cổ tay em vừa trắng, vừa tròn,

Răng đen rưng rức, chồng con kém người.

Khốn nạn thay nhạn ở với ruồi,

Tiên ở với cú, người cười với ma.

Con công ăn lẫn với gà,

Rồng kia, rắn nọ coi đà sao nên.

Nói nên mà ở chẳng nên,

Quang rơm gánh đá sao bền hơn mây.

15. Cơn mưa đằng đông, vừa trông vừa chạy,

Cơn mưa đằng tây, mưa dây gió giật.

Cơn mưa đằng nam, vừa làm vừa chơi,

Cơn mưa đằng bắc, để thóc ra phơi.

16. Cực lòng nên phải biến dời,

Biến dời lại gặp phải nơi cực lòng.

17. Chê của nào trời trao của ấy.

18. Chuồn chuồn liệng thì nắng,

Chim én liệng thì mưa.

19. Dày sao thì nắng, vắng sao thì mưa.

20. Dù ai buôn bán trăm nghề,

Gặp ngày con nước cũng về tay không.

21. Đang mưa quạ kêu thì nắng,

Đang nắng quạ kêu thì mưa.

22. Đào khoe tươi, liễu khoe mềm,

Cây khô nẩy nhị, cành thêm ấm chồi.

Chữ rằng : « Thiên hữu tứ thời »,

Ngày thời hoa nở, tối thời hoa thơm.

23. Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng,

Đèn ra trước gió, được chăng hỡi đèn ?

Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,

Cớ sao trăng lại phải luồn đám mây.

24. Đêm đêm tưởng dạng Ngân-hà,

Bóng sao tinh đẩu đã ba năm tròn.

Đá mòn, nhưng dạ chẳng mòn,

Tào-khê nước chảy lòng còn trơ trơ.

25. Đêm khuya thức dậy xem trời,

Thấy sao bên bắc đổi dời bên nam.

26. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,

Ngày tháng mười chưa cười đã tối.

27. Đố ai biết đá mấy hòn,

Tua rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm ?

28. Đông có mây, tây có sao.

29. Đông sao thời nắng, vắng sao thời mưa.

30. Gió heo may chẳng mưa dầm thì bão giật.

31. Gió bên đông, động bên tây,

Tuy rằng nói đấy, nhưng đây biết rồi.

32. Gió bấc hiu hiu,

Sếu kêu thì rét.

33. Hoa sen mọc bãi cát lầm,

Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen.

Thài lài mọc cạnh bờ sông,

Tuy rằng xanh tốt vẫn tông thài lài.

34. Hỡi con vịt nước kia ơi,

Soa mày vùng vẫy ở nơi Ngân-Hà.

35. Hỡi cô gánh nước quang mây,

Cho anh một gáo tưới cây ngô đồng.

Cây ngô đồng cành cao, cành thấp,

Ngọn ngô đồng lá dọc lá ngang.

Quả dưa gang, ngoài xanh, trong trắng,

Quả mướp đắng, ngoài trắng, trong vàng.

Từ ngày anh gặp mặt nàng,

Lòng càng ngao ngán, dạ càng ngẩn ngơ.

36. Kể việc làm ruộng mọi đường,

Tôi xin kể được rõ ràng hử ai.

Tháng chạp là tiết trồng khoai,

Tháng giêng tưới đậu, tháng hai cấy cà.

Tháng ba cày bửa ruộng ra,

Tháng tư bắt mạ thuận hòa vui thay.

Tháng năm cắt lúa vừa rồi,

Tháng sáu mưa xuống, nước trôi đầy đồng.

Tháng bảy cầy cấy đã xong,

Tháng tám thấy lúa tốt lòng vui thay.

Tháng chính tôi lại kể nay,

Bắt mạ xem được mới hay trong lòng.

Tháng mười lúa chín đầy đồng,

Cắt về đổ cót để phòng năm sau.

Tháng mười một là tiết cấy sâu,

Một năm kể cả tự đầu đến đuôi.

37. Không có mây, sao có mưa ?

38. Không ai nắm tay thâu ngày đến tối.

39. Không ai duỗi tay thâu ngày đến sáng.

40. Lấy vợ kiêng tuổi đàn bà,

Làm nhà kiêng tuổi đàn ông.

41. Mây thành vừa hanh vừa giá.

42. Mấy đời sấm trước có mưa,

Mấy đời dì ghẻ có ưa con chồng.

43. Mồng bốn cá đi ăn thề,

Mồng tám cá về, cá vượt Vũ-môn.

44. Mống cao gió táp, mống rạp mưa rào,

Mống bên đông, vồng bên tây,

Chẳng mưa dây thì bão giật.

45. Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa.

Vồng chiều mưa sáng, ráng chiều mưa hôm.

Vồng rạp mưa rào, vồng cào gió táp.

46. Mống đông vồng tây.

47. Một năm là mấy tháng xuân,

Một ngày là mấy giờ dần sớm mai.

Một năm có ba tháng xuân,

Một ngày có một giờ dần sớm mai.

48. Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa.

49. Mù trời, lắm mòng két.

50. Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa.

51. Mưa tháng bảy gãy cành trám,

Nắng tháng tám giám trái bưỡi.

52. Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi.

53. Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo.

54. Mười ba trăng lặn gà kêu,

Mười bốn trăng lặn gà đều gáy tan.

55. Nắng ui ui hui chết người.

56. Nắng chóng trưa, mưa chóng tối.

57. Nắng tháng ba chó già lè lưỡi.

58. Núi kia ai đắp nên cao,

Sông kia ai đào nước chảy vùng quanh ?

Vùng quanh thì mặc vùng quanh,

Cô về Lê-xá để anh đưa tiền.

59. Núi kia ai đắp nên cao,

Sông kia bể nọ ai đào mà sâu.

Một lòng sầu, năm bảy lòng sầu,

Đấy vui có biết đây sầu cùng chăng.

Muốn sao tháng đôi tuần trăng,

Muốn sao đấy ở cho bằng lòng đây.

60. Núi Đọi ai đắp nên cao,

Ngã ba sông Lảnh ai đào mà sâu.

61. Nước thủy triều ai tát, ai khơi,

Khi lên thời thế, cơn rồi như không.

62. Ngày đi, trúc chửa mọc măng,

Ngày về, trúc đã cao bằng ngọn tre.

Ngày đi, lúa chửa chia vè,

Ngày về, lúa đã đỏ hoe ngoài đồng.

Ngày đi, em chửa có chồng,

Ngày về, em đã con quấn, con quít, con bồng, con mang.

63. Ngày rằm, trăng tỏ, trăng tròn,

Ba mươi, mồng một trăng lòn đám mây.

64. Ngồi buồn gửi bức thư sang,

Có con rồng bạch chắn ngang giữa trời.

Vậy nên thư chẳng tới nơi,

Trong thư, ai biết những lời làm sao.

65. Ngồi đêm trong bóng trăng tàn,

Muốn đoan với nguyệt mà than một lời.

Nguyệt rằng : vật đổi sao dời,

Thân này vẫn để cho người soi chung.

66. Ngỡ là nước chảy, đá mòn,

Chẳng là nước chảy, đá còn trơ trơ.

Chờ cho nước cạn phơi bờ,

Xem con người ấy nương nhờ về đâu.

67. Người đời khác nữa là hoa,

Sớm còn, tối mất, nở ra lại tàn.

68. Người đời như cánh phù du,

Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng.

69. Người đời hữu tử, hữu sanh,

Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.

70. Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần,

Làm thân con nhện mấy lần vương tơ.

Chắc về đâu trong đục mà chờ,

Hoa thơm mất tiết biết nương nhờ vào đâu.

Số em giàu, lấy khó cũng giàu,

Số em nghèo, chín đụn mười trâu cũng nghèo.

Phải duyên, phải kiếp thì theo,

Thân em có quản khó nghèo làm chi.

Chữ nhân duyên thiên tải nhất thì,

Giàu ăn, khó chịu lo gì mà lo.

71. Ông tha mà bà chẳng tha,

Đánh một cái lụt mồng ba tháng mười.

72. Ớt nào là ớt chẳng cay,

Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.

Vôi nào là vôi chẳng nồng,

Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.

73. Ráng mỡ gà có nhà thì giữ.

74. Ráng vàng thời nắng, váng trắng thời mưa.

75. Rắp mong ông trời sa xuống cõi trần,

Hỏi xem duyên kiếp nợ nần làm sao ?

Tím gan thay khách má đào,

Mông mênh bể Sở dễ vào, khó ra.

Hươu kia trót đã mắc chà,

Khi vào thì dễ, khi ra hiểm nghèo.

76. Rồng đen lấy nước thì nắng,

Rồng trắng lấy nước thì mưa.

77. Sao hôm lóng lánh,

Soa mai lóng lánh.

Cuốc đã sang canh,

Gà kia gáy rúc.

Chích chòe lìa tổ,

Trời đã rạng đông.

78. Sao hôm chờ đợi sao mai,

Trách lòng sao Vượt thương ai bằng chừng.

79. Sao mau thì mưa, sao thưa thì nắng.

80. Sấm trước cơm sấm no, Sấm sau cơm sấm đói.

81. Tám mươi ngả gậy ra ngồi,

Hỏi rằng xuân có tái hồi nữa thôi ?

Xuân rằng : Xuân chẳng tái hồi,

Bốn dài, hai ngắn mà lôi xuân vào.

82. Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc.

83. Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa mạ.

84. Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động.

85. Tháng bảy ông thị đỏ da,

Ông mít chơm chởm, ông da rụng rời.

Ông mít đóng cọc mà phơi,

Ông da rụng rời đỏ cả chân tay.

86. Tháng bảy heo may,

Chuồn chuồn bay thì bão.

87. Tháng tám mưa trai, tháng hai mưa thóc.

88. Tháng bảy mưa gẫy cành trám,

Tháng tám nắng rám trái bòng.

89. Tháng chín thì quýt đỏ trôn,

Tháng hai ngái mọc, cái con tìm về.

90. Thâm đông trống bấc, hễ nực trời mưa.

91. Thâm đông thì mưa,

Thâm dưa thì khú, thâm vú thì nghén.

92. Thoảng qua một chút mới hay,

Lọ là sấm chớp cả ngày mới mưa.

93. Trăm hoa đua nở mùa xuân,

Cớ sao cúc lại muộn tuần tiết thu ?

Vì hoa tham lấy sắc vàng,

Cho nên hoa phải muộn màng tiết thu.

94. Trăm thức hoa đua nở về tiết tháng giêng,

Có bông hoa cải nở riêng tháng mười.

Trăm cành hoa cười, trăm nụ bông hoa nở mùa xuân sang.

Đàn con yến trắng, dập dìu đàn ong.

Con chim kia sao khéo não nùng,

Cuốc kêu gióng giả, như nung dạ sầu.

Gió nam hây hẩy lúc ban chiều,

Một đàn bướm trắng dập dìu trên non.

Đêm đông trường nghe vượn ru con,

Vượn hót ru con, cá khe lẩn bóng, chim luồn cỗi cây.

Con ve kêu ỏng ảnh tiếng chày,

Kìa quân tử trúc dạ này bâng khuâng.

Em như hoa thơm mà mọc góc rừng,

Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay.

95. Trăng quầng thì cạn, trăng tán thì mưa.

96. Trăng đến rằm thì tròn,

Sao đến tối thì mọc.

97. Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,

Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.

Trăng bao nhiêu tuổi trăng tròn,

Núi bao nhiêu tuổi núi còn trơ trơ.

98. Trắng như thủy tinh,

Trong như giá lọc.

Nhún mình đồng đen,

Ai ơi chớ nghĩ rằng hèn,

Kìa như nước đục đánh phèn lại trong.

99. Trèo lên cây khế nửa ngày,

Ai làm chua xót, lòng này khế ơi !

Mặt trăng sánh với mặt trời,

Sao hôm sánh với sao mai chằng chằng.

Mình ơi, có nhớ ta chăng ?

Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.

100. Trên trời băm sáu vì sao,

Vì thấp là vợ, vì cao là chồng.

Cô kia gái lớn ngỗng ngồng,

Hỏi thăm cô đã có chồng hay chưa ?

101. Trên trời có một ông sao,

Chốn quang chẳng mọc, mọc vào đám mây.

Nước Hồ Tây biết bao giờ cạn,

Nhị vườn đào biết vạn nào hoa.

Đưa nhau một quãng đường xa,

Hỏi thăm anh tú có nhà Cửa Nam.

102. Trên trời có đám mây xanh,

Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng.

Ước gì anh lấy được nàng,

Thời anh mua gạch Bát-tràng về xây.

Xây dọc rồi lại xây ngang,

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.

103. Trống tháng bảy, chẳng hội thì chay,

Tháng sáu heo may, chẳng mưa thì bão.

104. Trời sinh ra đã làm người,

Hay ăn, hay nói, hay cười, hay chơi.

Khi ăn thì phải lựa mùi,

Khi nói thì phải lựa lời chớ sai.

Cả vui chớ có vội cười,

Nơi không lễ phép chớ chơi làm gì.

105. Trời nắng chóng trưa, trời mưa chóng tối.

106. Trứng rồng lại nở ra rồng,

Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

107. Trứng rồng lại nở ra rồng,

Hạt thông lại nở cây thông rườm rà.

Có cha sinh mới ra ta,

Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng.

108. Vắng sao hôm, có sao mai,

Vắng chàng thiếp đã có trai ở nhà.

109. Vắng trăng thì đã có sao,

Vắng hoa thiên lý có đào nhị tiên.

110. Vật đổi, sao dời.

111. Vừa mưa vừa nắng,

Cái cắng đánh nhau.

Bồ câu ra chữa,

Chốc nữa lại tạnh.

b) TỔ CHỨC SINH HOẠT CON NGƯỜI HỢP VỚI BIẾN CHUYỂN THIÊN NHIÊN

Vừa rồi, chúng ta đã khảo sát qua những hệ thống tư tưởng khác biệt từ ý thức cá nhân đến ý thức chung của từng miền. Sự dị biệt ấy chứng tỏ con người đã đặt suy tư ngoài cơ cấu vũ trụ.

Mặc dù vậy, không một triết gia nào tự ý tách rời tính chất liên hệ giữa cuộc sống con người với thiên nhiên.

Tại sao có sự mâu thuẫn như vậy ?

Nếu nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ thấy đó là trạng thái tham vọng của con người. Khi suy tư con người không đòi hỏi ở thực tại những nhu cầu cần thiết, thì con người đã đưa nó đến một trạng thái biệt lập xa vời ; ngược lại, bản thể con người dù có muốn tách rời khỏi cơ cấu vũ trụ, con người vẫn cảm thấy có cái gì ràng buộc, không thể chối bỏ đi được. Chính mâu thuẫn căn bản ấy đã đưa con người đến quan niệm phân chia giữa tâm hồn và vật chất.

Nói cách khác, khi đem suy tư phân định cơ cấu vũ trụ, con người đã đem ý thức đặt lên trên mọi biến động của guồng máy thiên nhiên, nhưng thực trạng chính con người, cả ý thức con người, lại không thể nào thoát được. Bởi vậy, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy tất cả hệ thuyết từ Đông sang Tây, từ cá nhân đến dân tộc, đều tự cho rằng hệ thuyết mình là đúng với cơ năng biến động của vũ trụ.

Khi đã xác nhận sự biến động của vũ trụ, tất nhiên hệ thuyết nào cũng phải tổ chức cuộc sống con người cho phù hợp với trạng thái thiên nhiên. Tuy vậy, không một hệ thuyết nào giống hệ thuyết nào, trong lúc cơ năng biến động của thiên nhiên chỉ là một. Như thế, rõ ràng mọi suy tư của các triết gia không phải là của vũ trụ, mà chỉ là của con người, của khối óc riêng rẽ tách ra ngoài biến động hiện hữu của thiên nhiên.

Sự dị biệt về quan niệm vũ trụ của mỗi suy tư chẳng những gây thành nhiều ý thức hệ chống đối nhau mà còn phân hóa trong đời sống loài người, kéo dài theo quá trình thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Trong những mục trước chúng ta đã phân tích qua vài hệ thuyết để tìm những khác biệt trong lập trường căn bản, ở mục này chúng tôi tưởng cũng cần nêu lên những hành vi trong cuộc sống của từng lớp người, khi tư tưởng họ ngã về một hệ thuyết nào đó, để chứng minh trạng thái phân hóa của suy tư trong xã hội loài người không phải không quan trọng.

1) Về Lão-học

Lão học quan niệm cơ năng vũ trụ là một trạng thái biến động tất nhiên trong yếu tố thăng bằng. Chỉ có trí khôn con người xen vào làm cho yếu tố thăng bằng của vũ trụ bị chênh lệch. Bởi vậy, Lão-học chủ trương đưa con người trở về trạng thái thiên nhiên, phủ nhận mọi hiểu biết của con người. Vì quan niệm như vậy, Lão-học cho danh vọng, tiền tài là cái gì hèn hạ, xấu xa trong cuộc sống, và xem trường đời là nơi xâu xé, cướp đoạt lẫn nhau.

Chủ trương vô vi và xuất thế của Lão-học đã tác động vào lịch sử sinh hoạt xã hội như thế nào?

Nhiều nhà phê bình trước đây đã cho lý thuyết của Lão-giáo là mảnh đất nuôi dưỡng mầm bất mãn trong các chế độ thống trị. Những kẻ chịu ảnh hưởng mạnh nhất trong tư tưởng Lão-giáo là những kẻ từ giai cấp thống trị bị thất thế, không còn được ưu đãi nữa. Họ từ bỏ địa vị vàng son, và để trả thù những ai chiếm địa vị xã hội của họ, họ tỏ ra khinh thế ngạo vật, đem tâm tư vượt lên trên thế sự, cái mà họ gọi là tầm thường, là hèn hạ trong thế giới loài người.

Lời phê bình trên đây không phải không đúng. Bởi vì, căn cứ vào thực trạng xã hội, lịch sử đấu tranh càng diễn biến khốc liệt bao nhiêu thì lớp người khinh thế ngạo vật càng nẩy nở bấy nhiêu. Dù bị sa cơ trên trường tranh đấu, nhưng con người, nhất là hạng trí thức, không thể không tìm một chỗ đứng cho tâm hồn mình để an ủi cuộc sống thực tại.

Một con ngựa khi đã đẫm mồ hôi, liệt vó trên trường đồ, không còn đủ sức vượt thêm nữa, thì những rặng cây, thảm cỏ, chính là chỗ lý tưởng để cho nó nghỉ ngơi. Con người khi đã thất thế trên bước công danh, thì chỗ nghỉ ngơi không còn gì thích hợp bằng ý thức vô vi, xuất thế của Lão-học.

Chúng ta không cần mổ xẻ vũ trụ quan của Lão-học đúng hay sai, nhưng thực tế cho phép chúng ta thừa nhận vũ trụ quan của Lão-học chính là bóng cây râm mát, thảm cỏ xanh rì… để cho những con ngựa chồn chân có nơi dưỡng sức. Chúng ta nói như thế không có nghĩa là chúng ta phủ nhận hệ thuyết cao xa của Lão-học trong đó chứa đựng những tinh hoa của suy tư, mà chúng ta chỉ kiểm điểm phần nào qua thực trạng diễn biến trong lịch sử loài người đối với học thuyết ấy mà thôi.

Để chứng minh tư tưởng Lão-học diễn biến qua cuộc sống loài người, chúng tôi thiết tưởng không gì rõ ràng hơn là đọc lại những tâm tư của lớp người «ẩn sĩ» đã lưu lại trong lịch sử văn học Trung-quốc.

«Chuyện Hứa-Do và Sào-Phủ»

Vào thời vua Nghiêu, có Hứa-Do là một ẩn sĩ, sống trong vùng núi Bái-trạch.

Vua Nghiêu nghe tiếng là người tài đức nên mời ra để truyền ngôi, nhường thiên hạ cho. Hứa-Do từ chối lui về ẩn tại núi Trung-nhạc, phía Nam sông Dĩnh-thủy.

Vua Nghiêu vẫn tìm đến, cố mời cho được Hứa-Do ra làm Tổng-trấn của chín châu. Hứa-Do không muốn nghe nói đến chuyện công hầu khanh tướng, bèn ra bờ sông Dĩnh-thủy rửa tai.

Ngay lúc đó có Sào-Phủ dắt trâu đến bờ sông cho uống nước, thấy Hứa-Do rửa tai, liền hỏi : « Việc gì mà quí nhân phải rửa tai kỹ đến thế ? »

Hứa-Do kể chuyện lại, Sào-Phủ vội dắt trâu đến tận đầu nguồn mới cho uống nước, và nói với Hứa-Do : « Quí nhân vì nghe tiếng nói lợi danh mà phải rửa tai, nếu ta cho trâu uống nước ở đây e bẩn miệng trâu ta chăng ». (Cao sĩ truyện)

Đây chỉ là ý thức phô diễn của lớp người ẩn sĩ có khuynh hướng Lão-học. Sự thực, nhân vật vua Nghiêu là một nhân vật huyền thoại, thì Hứa-Do, Sào-Phủ cũng chỉ là những nhân vật tưởng tượng của lớp thức giả vì chán lợi danh, tìm cách bộc lộ ý thức khinh thế ngạo vật của mình.

« Chuyện một người bệnh »

Nước Tống có một người đứng tuổi tự nhiên mắc phải bệnh « quên ». Buổi sáng lấy gì của ai, buổi chiều đã quên. Ngày nay cho ai cái gì, ngày mai đã quên. Ra đường quên cả đi, ở nhà quên cả ngồi, trước có làm những gì, bây giờ quên hết. Bây giờ làm gì, sau này cũng quên hết.

Cả nhà anh lấy làm lo. Xem bói không tốt, đi cúng không đỡ, đón thầy chữa thuốc cũng không khỏi.

Sau có ông đồ người nước Lỗ đến thăm và hứa chữa khỏi bệnh.

Vợ người bệnh hứa với ông đồ, nếu chữa lành sẽ cung hiến nửa phần gia tài.

Ông đồ nói : « Bệnh này bói không ra được, cúng không khỏi được, thuốc không chữa được. Nay tôi thử hóa cái tâm tính, biến cái trí lự của anh ta, may ra khỏi chăng ? »

Nói đoạn, ông đồ liền sai lột áo để cho rét, thì thấy anh ta xin áo ; sai cấm ăn để cho đói thì thấy anh ta xin ăn ; sai đem vào chỗ tối thì thấy anh ta xin ra chỗ sáng.

Ông đồ hớn hở bảo con anh ta rằng : « Bệnh chữa được, song môn thuốc của tôi bí truyền không thể nói cho ai hết ».

Rồi ông đuổi cả người chung quanh đi, chỉ một mình ông với người bệnh trong bảy ngày. Chẳng ai biết ông đồ chữa chạy ra sao, mà cái bệnh lâu năm như thế nhất đán khỏi hẳn.

Khi anh chàng có bệnh đã tỉnh như thường, anh liền nổi cơn giận, chửi vợ đánh con, cầm giáo đuổi cả ông đồ.

Người ta bắt anh hỏi vì cớ gì anh giận như vậy ; anh đáp : « Lúc trước ta có bệnh « quên » thì trong lòng ta thản nhiên, khoan khoái, trời đất có hay không cũng chẳng cần biết. Nay ta hết bệnh, ta lại nhớ cả những việc vài mươi năm về trước ; việc còn, việc mất, việc được, việc hỏng, việc buồn, việc vui, việc yêu, việc ghét trong lòng lại nổi dậy muôn mối ngổn ngang. Ta e sau này, những việc còn mất, được thua, buồn vui, thương ghét cứ vương vít trong lòng ta mãi mãi thì bấy giờ dù muốn quên đi một phút liệu còn có được nữa chăng ? » (Liệt-tử)

Câu chuyện người bệnh trên đây là sản phẩm của khuynh hướng Lão-học. Tư tưởng Lão-học phủ nhận sự hiểu biết của con người về lẽ sống, quan niệm ấy khi tác động vào xã hội nhân loại, khiến những người có khuynh hướng Lão-học mang nặng tính chất yếm thế. Họ đem việc « lánh đời » làm phương tiện để tạo hạnh phúc cho lẽ sống. Người bệnh nước Tống di lưu trong lịch sử văn học Trung-quốc chẳng qua là một sự kiện để cho lớp người có khuynh hướng Lão-học mượn nó giãi bày ý thức yếm thế của họ mà thôi.

« Chuyện về bệnh mê »

Nước Tần có con nhà họ Bàng, lúc nhỏ thông minh và khôn ngoan sớm. Nhưng đến lúc lớn lên tự nhiên mắc phải bệnh mê : nghe hát cho là khóc, trông trắng cho là đen, ngửi thơm cho là thối, ăn ngọt cho là đắng. Tính hạnh anh dở mà cứ cho là hay, là phải, bao nhiêu ý nghĩ của anh ta như trời, đất, nước, lửa, nực, rét, không có cái gì không đảo ngược sai lầm.

Có người nói với cha anh ta : « Bậc quân tử ở nước Lỗ có lắm thuật nhiều nghề, sao ông không đến cầu cạnh may ra chữa khỏi ».

Người cha nghe lời sang nước Lỗ, nhưng khi vừa đến nước Tần lại gặp ông Lão-Đam, nhân nói chuyện về chứng bệnh của con, ông Lão-Đam nói với người cha : « Nhà ngươi há biết được cái bệnh mê của con nhà ngươi đâu. Nay thiên hạ ai cũng ù ờ phải trái, mờ mịt về lợi hại, kẻ mắc phải bệnh mê như con nhà ngươi rất nhiều, chẳng có ai tỉnh cả ».

Vả lại, một người mê không đủ làm lụy một nhà, một nhà mê không đủ làm lụy một nước, một nước mê không đủ làm lụy thiên hạ. Nhưng nếu thiên hạ ai cũng mê hết thì không còn ai làm lụy ai được nữa.

Giả sử, thiên hạ ai cũng mê như con nhà ngươi, mà nhà ngươi lại muốn chữa bệnh mê, thì chính nhà ngươi lại hóa ra mê mất.

Ở đời có những sự buồn vui, điều phải lẽ trái, tại sao lại bảo phải như thế này, thế kia mới là đúng. Ngay như lời nói của ta đây vị tất đã khỏi mê, huống chi người quân tử nước Lỗ là người quá u ám thì chữa bệnh mê của con nhà ngươi thế nào được. Nhà ngươi đem theo bao nhiêu tiền chữa chạy cho con chẳng bằng cứ nghe theo ta trở về còn hơn. (Liệt-tử)

Câu chuyện trên đây, tuy có mục đích chống đối Khổng-tử, phủ nhận cái hay, cái đẹp do bộ óc con người qui định thành khuôn vàng thước ngọc, nhưng thực tế, cũng là những ý tưởng phô diễn của lớp người khinh thế ngạo vật, có khuynh hướng Lão-học.

Sau đây, chúng tôi xin trích một số câu chuyện của nghìn xưa để lại trong văn học Trung-hoa, mục đích không để phê phán, mà chỉ để chứng minh dòng suy tư của Lão-học di lưu trong sinh hoạt loài người, và chính họ là những môn đồ đem tinh thần Lão-học áp dụng vào đời sống thực tại trong tiến trình lịch sử xã hội loài người.

« Chuyện Trang-tử gõ bồn »

Vợ Trang-tử chết. Huệ-tử đến viếng, thấy Trang-tử đang ngồi xoạc đùi, tay nhịp vào bồn nước mà hát. Huệ-tử bảo : « Mình đã ăn ở đến có con với người ta, bây giờ người ta già, người ta chết, mình không khóc thì cũng đã đủ rồi, lại còn gõ bồn mà hát, chẳng hóa ra vô tình lắm sao ? »

Trang-tử nói : « Không phải thế. Lúc vợ tôi mới chết tôi cũng lấy làm thương tiếc lắm. Nhưng xét cho cùng, thì vốn là không có gì cả. Chẳng những không có gì mà vốn lại không có hình. Chẳng những không có hình mà vống lại không có khí. Cái người ấy chẳng qua là tạp chất biến mà hóa ra có khí, khí biến mà hóa ra có hình, hình biến mà hóa ra có sinh, có sinh lại biến ra có tử, có khác nào như xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa cứ tuần hòa đi lại không ? Vả lại người ta chết là trở về với tạo hóa, cũng như người ra ngoài mà về nhà, thế mà ta cứ theo đuổi nghêu ngao, khóc lóc, thì chúng ta chẳng hóa ra không biết mệnh trời ư ? Cho nên ta không khóc, mà ta lại còn hát nữa ». (Trang-tử)

« Chuyện đọc sách cổ »

Vua Hoàn-công đọc sách ở nhà trên, có người thợ mộc đang đẽo bánh xe ở nhà dưới, nghe tiếng học, bỏ chàng, đục chạy lên thưa với vua rằng : « Cả dám hỏi nhà vua học những câu gì thế ? »

Hoàn-công nói : « Những câu của thánh nhân ».

- Thánh nhân hiện nay còn sống không ? »

- Đã chết rồi ».

- Thế thì những câu nhà vua học chỉ là những tao phách của cổ nhân đấy thôi ».

- À, anh thợ ! Ta đang đọc sách, sao dám được nghị luận ? Hễ nói có lý thì ta tha, không có lý thì ta bắt tội ».

Người thợ mộc nói : « Tôi đây cứ lấy việc tôi làm mà suy xét, khi đẽo cái bánh xe, để rộng thì mộng cho vào dễ, nhưng không chặt. Để hẹp thì mộng cho vào khó và không ăn. Còn làm không rộng, không hẹp, vừa vặn, đúng mực thì thực tự tâm tôi liệu mà nẩy ra tay tôi làm, như đã có cái phép nhất định, chớ miệng tôi không thể nói ra được. Cái khéo ấy tôi không thể dạy được cho con tôi, con tôi cũng không thể học được tôi. Bởi thế, tôi năm nay đã bảy mươi tuổi mà vẫn giữ nghề đẽo bánh xe ».

Người đời xưa đã chết thì cái hay của người đời xưa không thể truyền lại được, tưởng cũng đã chết cả rồi. Thế thì những câu nhà vua học thật chỉ là những tao phách của cổ nhân mà thôi. Vua cho người thợ mộc nói là phải. (Trang-tử)

« Lời nói của con hồ ly »

Tại lầu nhà sách kia có con hồ tinh không hiện hình ra bao giờ, nhưng thường vẫn hay trò chuyện, và câu chuyện phần nhiều rất kỳ thú, ai nghe cũng phải phục.

Một hôm, tân khách họp đông, có con hát mời rượu, ước với nhau rằng : « Ai sợ gì thì phải nói, mà nói vô lý thì phải phạt rượu ».

Bấy giờ cử tọa lần lượt nói, nào sợ người học rộng, nào sợ người nhà giàu, nào sợ người quan to, sợ người nịnh giỏi, nào sợ người khiêm tốn, lễ phép quá, nào sợ người thận trọng ít nói, sợ người hay nói nửa chừng…

Sau cùng hỏi đến hồ tinh, thì hồ tinh đáp : « Ta chỉ sợ có hồ tinh ».

Ai nấy đều cười, bảo rằng : « Người ta sợ hồ tinh mới phải. Anh là đồng loại, can gì lại sợ ? Anh nói vô lý, chúng tôi phạt anh một chung rượu ».

Hồ tinh cười nói : « Thiên hạ duy có đồng loại mới là đáng sợ. Con cùng cha mới tranh gia sản ; gái cùng chồng mới hay ghen tuông ; kẻ giành quyền nhau tất phải là quan lại đồng triều, kẻ tranh lợi nhau tất phải là lái buôn một chỗ. Bức nhau thì trở ngại nhau, trở ngại nhau thì khuynh loát nhau. Hễ người muốn bắn con trĩ thì dùng con trĩ làm mồi, không dùng con gà, con ngỗng. Người săn hươu thì dùng con hươu làm mồi, không dùng con dê, con lợn. Phàm việc phân gián đều là phải dùng đồng loại cả. Cứ thế mà suy thì tài nào hồ chẳng sợ hồ ».

Cử tọa đều cho câu nói của hồ tinh là xác đáng. (Duyệt-vi)

« Đức uống rượu »

Có một tiên sinh đại nhân lấy trời đất làm một buổi, lấy muôn năm làm một chốc, lấy mặt trời, mặt trăng làm cửa, làm ngõ, lấy cả thiên hạ làm sân, làm đường, đi không thấy vết xe, ở không có nhà cửa, trời tức là màn, đất tức là chiếu, ý muốn thế nào thì thế. Lúc ở thì nâng chén cầm bầu, lúc đi thì vác chai xách hũ, lúc nào cũng chỉ có việc rượu chè, không còn biết gì đến nữa.

Có một công tử và một vị quan sang nghe tiếng tiên sinh như thế, bèn đến tận nơi, xăng tay, vén áo, người thì trừng mắt, nghiến răng, người thì thuyết pháp, những giọng thị phi được nêu ra ầm ĩ, xôn xao như đàn ong vậy.

Lúc đó, tiên sinh vẫn ôm vò rượu, ghé vào nốc mãi, phồng đôi má, hai chân giang ra, đầu gật gù, tỏ vẻ không nghe, không thấy, không biết gì đến những người xung quanh.

Tuy nhiên, mặt tiên sinh vẫn hớn hở, thích thú, ngất ngưởng vì say sưa, thoáng rồi lại tỉnh. Lắng tai cũng không nghe tiếng sấm sét, nhìn kỹ cũng chẳng trông thấy hình núi Thái-sơn. Nực, rét đến thân cũng không biết lợi dục, cảm đến tình cũng không hay, cúi xuống trông vạn vật ở trước mắt khác nào như bèo nổi bồng bềnh trên sông Giang, sông Hán. Hai vị đứng cạnh tiên sinh bấy giờ xem cũng như con tò vò, con sâu rọm mà thôi. (Lưu-linh)

« Vạn sự đều thành tựu

ngoài ý muốn con người »

Bắc-cung-tử hỏi Tây-môn-tử : « Tôi với bác cùng một thời mà người ta quí bác, cùng một họ mà người ta kính bác, cùng làm quan mà bác sang hơn tôi, cùng làm ruộng mà bác giàu hơn tôi, cùng đi buôn mà bác lắm lợi hơn tôi. Tôi mặc phải mặc áo cộc, ăn phải ăn gạo hẩm, ở thì ở túp lều tranh, đi thì đi chân không. Bác thì mặc những gấm vóc, ăn những thịt cá, ở thì gác tía lầu hồng, đi thì xe xe ngựa ngựa… Đã mấy năm rồi, vậy thì bác tự cho là bác tài đức hơn tôi chăng ? »

Tây-môn-tử đáp : « Tôi cũng không rõ tôi hơn bác hay không, nhưng bác làm việc gì cũng vấp váp, tôi làm việc gì cũng thanh thản. Đó có phải là cái trưng nghiệm về tài đức hơn kém nhau chăng ? »

Bắc-cung-tử không biết nói sao hơn, đành ngậm ngùi ra về. Giữa đường gặp Đông-Quách tiên sinh. Ông này hỏi : « Anh từ đâu về coi mặt mày buồn thế ? »

Bắc-cung-tử thuật lại câu chuyện vừa rồi, Đông-Quách tiên sinh nói : « Được, để ta gỡ thẹn cho ».

Rồi tiên sinh cùng đi với Bắc-cung-tử đến nhà Tây-môn-tử, và hỏi : « Sao anh nói nhục Bắc-cung-tử như vậy ? Anh đã nói gì hãy kể lại tôi nghe ».

Tây-môn-tử đáp : « Hắn nói kể về họ hàng thì hắn cũng như tôi, tôi cũng làm quan, đi buôn, làm ruộng như hắn, nhưng tại sao giàu nghèo, sang hèn thì hắn lại khác tôi. Tôi bảo rằng tôi cũng không chắc tài đức hơn hẳn, nhưng cứ so cái việc của hắn làm hay vấp váp, cái việc cảu tôi làm được thanh thản thì đó là cái trưng nghiệm hơn kém nhau ».

Đông-Quách tiên sinh nói : « Anh nói về hơn kém, chẳng qua là cái hơn kém bề ngoài, còn ta mà nói hơn kém thì lại khác. Bắc-cung-tử hơn anh về cái đức, mà kém anh về số phận. Còn anh thì hơn Bắc-cung-tử về số phận, mà lại kém về đức. Anh gặp may mà đạt, không phải tại khôn ngoan đâu, Bắc-cung-tử bị rủi mà cùng, cũng không phải tại dại đâu. Sự may rủi đó đều do bởi trời cả, không phải bởi người. Vậy mà anh dám hợm mình về số phận của anh, còn Bắc-cung-tử thì lại tủi về tài đức của mình, cả hai đều không biết lẽ tự nhiên của tạo hóa cả ».

Tây-môn-tử nghe nói chịu là phải, bảo rằng : « Thôi, xin lỗi tiên sinh, từ nay tôi không dám nói đến nữa ».

Bắc-cung tử cũng tỉnh ngộ, khi ra về mặc cái áo vải cộc mà coi ấm áp như áo lông cừu, ăn cơm gạo hẩm mà coi ngon như gạo tám thơm, ở nhà tranh mà xem rộng thênh thang như nhà lầu ba tầng, đi chân không mà sung sướng như ngồi xe ngựa. Trọn đời lúc nào cũng vui sướng trong lòng, không để ý đến cái vinh, cái nhục là gì nữa. (Liệt-tử)

« Thấy lợi nghĩ đến hại »

Liệt-tử nghèo khổ, có khi đói khát không có gì mà ăn uống.

Có người nói với vua Tử-Dương nước Trịnh rằng : « Liệt-tử là một người cao thượng, nay ở nước nhà vua mà bần cùng, thì chẳng hóa ra nhà vua không biết quí chuộng người giỏi ư ? »

Tử-Dương nghe nói sai sứ giả đưa cho Liệt-tử vài mươi xe thóc. Liệt-tử ra yết kiến sứ giả, vái hai vái, xin từ không nhận.

Sứ giả đi, Liệt-tử vào nhà trong. Vợ ngóng trông bực tức, tự đập vào ngực mà nói rằng : « Thiếp nghe vợ con những bực đạo đức cao thượng đều được an nhàn vui vẻ, nay vợ con tiên sinh túng đói, vua đưa cho tiên sinh thóc gạo, tiên sinh lại từ. Thế chẳng phải là số mệnh xui ra vậy hay sao ! »

Liệt-tử cười, bảo vợ rằng : « Vua mà biết ta không phải là tự chính vua biết ta, tại nghe có người nói mới biết ta. Vua nghe người nói mới biết ta mà cho ta thóc, thì lúc bắt tội ta, tất vua cũng lại nghe người nói mà thôi. Vì thế mà ta không nhận thóc. Vả chăng chịu bổng lộc của người hoặc khi người mắc hoạn nạn, không liều chết giúp người là bất nghĩa. Mà nếu liều chết giúp kẻ vô đạo thì lại còn gọi là nghĩa thế nào được ». Tử-Dương sau quả bị nạn chết. (Liệt-tử)

« Ma nói chuyện »

Có người trốn tránh quân thù nghịch, đi ẩn núp ở chỗ núi thẳm, hang cùng. Một đêm gió mát, trăng trong, người ấy bống thấy một con ma vẩn vơ quanh quẩn ở dưới cây dương liễu, sợ quá cứ nằm phục xuống, không dám trở dậy.

Con ma thấy thế lại tận nơi bảo : « Sao không ra đây mà chơi ? »

Người kia run cầm cập mà trả lời : « Thưa ông, con sợ ông lắm ».

Con ma nói : « Sao mà gàn thế ! Việc chi mà sợ ! Kể mà đáng sợ thì chỉ có giống người là đáng sợ hơn cả mà thôi. Bác thử nghĩ xem. Ai làm cho bác đến nỗi điên bái cơ cực như thế này, người hay ma ? » Ma nói xong cười một hồi rồi biến mất. (Duyệt vi)

« Cách biết lòng người »

Lòng người ta nham hiểm hơn núi sông, khó biết hơn là biết trời. Trời thì hàng năm có xuân, hạ, thu, đông ; hàng ngày có buổi sáng, buổi tối, ta do đấy mà biết được. Đến như người ta thì có kẻ ngoài rõ như cẩn hậu mà trong thật kiêu căng, có kẻ trong rõ là thật tài giỏi mà ngoài coi ra ngu độn, có kẻ ngoài rõ như vững vàng thư thái mà trong rối nóng nẩy. Tâm tình bên trong, diện mạo bên ngoài trái nhau khó lường như thế. Cho nên quân tử dùng người cho ở xa để xem lòng trung, cho ở gần để xem lòng kính, sai làm nhiều việc để xem cái tài, hỏi lúc vội vàng để xem cái trí, hẹn cho ngặt ngày để xem cái tín, ủy cho tiền nhiều để xem cái nhân, giao cho việc nguy biến để xem cái tiết, cho đánh chén say sưa để xem cử chỉ, cho ở chỗ phiền tạp để xem thần sắc. Xem người đại khái như vậy, thì họa mới có thể biết được người. (Trang-tử)

« Tư tưởng Lão-tử »

Cái đẹp mà đến thiên hạ đua nhau cho là đẹp, là cái đẹp rất xấu. Cái hay mà đến thiên hạ mượn tiếng để làm hay, là cái hay rất dở.

Để thân lại sau, mà thân được ở trước ; gác thân ra ngoài mà thân vẫn còn mãi. Thế chẳng phải là bởi mình không có lòng riêng, cho nên mới được thỏa lòng riêng ư ?

Tuy là cương cường nhưng giữ tính mềm dẻo. Tuy là sáng sủa, nhưng giữ cách ngu tối. Tuy là vinh hiển nhưng giữ lối tầm thường.

Học cho rộng trí khôn thì một ngày một hay. Tìm lẽ huyền bí, lâu hóa vẩn vơ, thì một ngày một dở.

Trộn lẫn cái hay của mình với đời để làm thân thiết cùng chịu cái dở của đời với mình mà vẫn trong sạch.

Có ba điều quí báu : một là từ, hai là kiệm, ba là chẳng dám phạm vào việc bất tường của thiên hạ.

Ta mà lo phiền, sợ hãi là vì ta có thân ta, đến khi ta đã không có thân ta, thì ta còn có lo phiền, sợ hãi gì nữa. (Lão-tử)

« Đám ma to »

Trang-tử sắp chết. Học trò bàn nhau định muốn làm ma to. Trang-tử thấy vậy bảo : « Ta lấy trời đất làm quan quách ; mặt trời mặt trăng làm hai viên ngọc bích, các ngôi sao làm các hạt châu báu, muôn vật làm đồ tống táng, đám ma ta như vậy há chẳng đủ rồi, cần gì mà phải làm cho to nữa ».

Học trò nói : « Nhà thầy làm như vậy, chúng con sợ diều hâu, quạ nó rỉa thịt nhà thầy mất ».

Trang-tử bảo : « Xác người chết mà để trên đất thì diều, quạ ăn, để dưới đất thì sâu bọ ăn. Bây giờ cướp của loài kia cho loài này, tâm sao mà thiên như thế ? Tâm người đã thiên thì bất bình, đem cái bất bình mà cho là bình thì cái bình không phải là bình nữa. Tâm người không sạch thì chẳng thật, đem cái chẳng thật mà cho là thật thì cái thật không còn là thật nữa ».

Ôi ! người ta cứ khăng khăng giữ một ý kiến, chẳng cũng đáng thương lắm ru ! (Trang-tử)

Những tâm tư diễn biến qua dòng tư tưởng Lão-học kéo dài trong lịch sử xã hội loài người không bút mực nào chép hết.

Tóm lại, dòng tư tưởng Lão-học tuy đặt trí khôn (sự hiểu biết) con người ra ngoài lẽ sống, cố đưa con người tách rời tổ chức xã hội, để trở về bản tính thiên nhiên, song thực trạng xã hội, mặc dù họ chủ trương như vậy, nhưng tâm tư họ lúc nào cũng bị kềm hãm, bắt họ phải đấu tranh với những dòng tư tưởng khác, thành ra bề ngoài tuy có vẻ thoát tục mà bên trong không hề thanh thản như ý muốn của họ được.

2) Về Khổng-học

Cũng như Lão-học, dòng tư tưởng Khổng-học tác động vào cuộc sống loài người qua bao nhiêu thế hệ, đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của nó không phải nhỏ.

Nếu Lão-học đã ảnh hưởng vào tâm tư một lớp người tự cho lẽ sống mình là hợp với biến chuyển thiên nhiên, thì chính Khổng-học cũng ảnh hưởng vào một lớp người, và lớp người ấy cũng hãnh diện tự cho lẽ sống mình là hợp với cơ cấu vũ trụ.

Để chứng minh điều này, chúng tôi cũng xin trích dẫn những mẩu chuyện có khuynh hướng Khổng-học để làm tiêu biểu cho khả năng phát triển của dòng tư tưởng ấy.

« Chuyện Mẫn-tử-Khiên »

Mẫn-tử-Khiên mồ côi mẹ từ thuở nhỏ. Mẹ kế sinh được hai con trai, chỉ yêu con đẻ mà ghét Tử-Khiên.

Mùa Đông tháng giá, mẹ kế không cho Tử-Khiên mặc áo mền bông, chỉ cho mặc áo mền hoa lau. Một hôm Tử-Khiên đánh xe hầu cha, cha thấy co ro run rẩy liền quở mắng. Tử-Khiên nín không dám nói. Cha giận lắm, ngờ đâu áo rách, bật hoa lau ra.

Cha thấy thế căm giận người vợ kế bạc đãi con mình, liền muốn đuổi đi.

Tử-Khiên khóc mà van rằng : « Dì con mà còn ở lại, thì chỉ một mình con rét ; dì con mà phải đuổi đi, thì ai may vá cho chúng con, có lẽ ba anh em con đều không có áo, phải chịu rét cả ».

Cha nghe nói cảm động, bèn thôi không đuổi vợ kế nữa. Và từ đó người vợ kế cũng có lòng thương yêu Tử-Khiên như thương yêu con đẻ vậy. (Thuyết-Uyển)

Chủ-trương của Khổng-học là cảm hóa lòng người, lấy nhân nghĩa, hiếu thảo làm nền tảng. Cho nên, tất cả những người có khuynh hướng Khổng-học đều nêu lên những mẫu người điển hình. Mẫn-tử-Khiên tượng trưng cho khuôn khổ của hiếu đạo, mà cũng tượng trưng cho tinh thần tùng phục phụ quyền. Thường thường những

trở về bản tính thiên nhiên, song thực trạng xã hội, mặc dù họ chủ trương như vậy, nhưng tâm tư họ lúc nào cũng bị kềm hãm, bắt họ phải đấu tranh với những dòng tư tưởng khác, thành ra bề ngoài tuy có vẻ thoát tục mà bên trong không hề thanh thản như ý muốn của họ được.

2) Về Khổng-học

Cũng như Lão-học, dòng tư tưởng Khổng-học tác động vào cuộc sống loài người qua bao nhiêu thế hệ, đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của nó không phải nhỏ.

Nếu Lão-học đã ảnh hưởng vào tâm tư một lớp người tự cho lẽ sống mình là hợp với biến chuyển thiên nhiên, thì chính Khổng-học cũng ảnh hưởng vào một lớp người, và lớp người ấy cũng hãnh diện tự cho lẽ sống mình là hợp với cơ cấu vũ trụ.

Để chứng minh điều này, chúng tôi cũng xin trích dẫn những mẩu chuyện có khuynh hướng Khổng-học để làm tiêu biểu cho khả năng phát triển của dòng tư tưởng ấy.

« Chuyện Mẫn-tử-Khiên »

Mẫn-tử-Khiên mồ côi mẹ từ thuở nhỏ. Mẹ kế sinh được hai con trai, chỉ yêu con đẻ mà ghét Tử-Khiên.

Mùa Đông tháng giá, mẹ kế không cho Tử-Khiên mặc áo mền bông, chỉ cho mặc áo mền hoa lau. Một hôm Tử-Khiên đánh xe hầu cha, cha thấy co ro run rẩy liền quở mắng. Tử-Khiên nín không dám nói. Cha giận lắm, ngờ đâu áo rách, bật hoa lau ra.

Cha thấy thế căm giận người vợ kế bạc đãi con mình, liền muốn đuổi đi.

Tử-Khiên khóc mà van rằng : « Dì con mà còn ở lại, thì chỉ một mình con rét ; dì con mà phải đuổi đi, thì ai may vá cho chúng con, có lẽ ba anh em con đều không có áo, phải chịu rét cả ».

Cha nghe nói cảm động, bèn thôi không đuổi vợ kế nữa. Và từ đó người vợ kế cũng có lòng thương yêu Tử-Khiên như thương yêu con đẻ vậy. (Thuyết-Uyển)

Chủ-trương của Khổng-học là cảm hóa lòng người, lấy nhân nghĩa, hiếu thảo làm nền tảng. Cho nên, tất cả những người có khuynh hướng Khổng-học đều nêu lên những mẫu người điển hình. Mẫn-tử-Khiên tượng trưng cho khuôn khổ của hiếu đạo, mà cũng tượng trưng cho tinh thần tùng phục phụ quyền. Thường thường những

trở về bản tính thiên nhiên, song thực trạng xã hội, mặc dù họ chủ trương như vậy, nhưng tâm tư họ lúc nào cũng bị kềm hãm, bắt họ phải đấu tranh với những dòng tư tưởng khác, thành ra bề ngoài tuy có vẻ thoát tục mà bên trong không hề thanh thản như ý muốn của họ được.

2) Về Khổng-học

Cũng như Lão-học, dòng tư tưởng Khổng-học tác động vào cuộc sống loài người qua bao nhiêu thế hệ, đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của nó không phải nhỏ.

Nếu Lão-học đã ảnh hưởng vào tâm tư một lớp người tự cho lẽ sống mình là hợp với biến chuyển thiên nhiên, thì chính Khổng-học cũng ảnh hưởng vào một lớp người, và lớp người ấy cũng hãnh diện tự cho lẽ sống mình là hợp với cơ cấu vũ trụ.

Để chứng minh điều này, chúng tôi cũng xin trích dẫn những mẩu chuyện có khuynh hướng Khổng-học để làm tiêu biểu cho khả năng phát triển của dòng tư tưởng ấy.

« Chuyện Mẫn-tử-Khiên »

Mẫn-tử-Khiên mồ côi mẹ từ thuở nhỏ. Mẹ kế sinh được hai con trai, chỉ yêu con đẻ mà ghét Tử-Khiên.

Mùa Đông tháng giá, mẹ kế không cho Tử-Khiên mặc áo mền bông, chỉ cho mặc áo mền hoa lau. Một hôm Tử-Khiên đánh xe hầu cha, cha thấy co ro run rẩy liền quở mắng. Tử-Khiên nín không dám nói. Cha giận lắm, ngờ đâu áo rách, bật hoa lau ra.

Cha thấy thế căm giận người vợ kế bạc đãi con mình, liền muốn đuổi đi.

Tử-Khiên khóc mà van rằng : « Dì con mà còn ở lại, thì chỉ một mình con rét ; dì con mà phải đuổi đi, thì ai may vá cho chúng con, có lẽ ba anh em con đều không có áo, phải chịu rét cả ».

Cha nghe nói cảm động, bèn thôi không đuổi vợ kế nữa. Và từ đó người vợ kế cũng có lòng thương yêu Tử-Khiên như thương yêu con đẻ vậy. (Thuyết-Uyển)

Chủ-trương của Khổng-học là cảm hóa lòng người, lấy nhân nghĩa, hiếu thảo làm nền tảng. Cho nên, tất cả những người có khuynh hướng Khổng-học đều nêu lên những mẫu người điển hình. Mẫn-tử-Khiên tượng trưng cho khuôn khổ của hiếu đạo, mà cũng tượng trưng cho tinh thần tùng phục phụ quyền. Thường thường những

trở về bản tính thiên nhiên, song thực trạng xã hội, mặc dù họ chủ trương như vậy, nhưng tâm tư họ lúc nào cũng bị kềm hãm, bắt họ phải đấu tranh với những dòng tư tưởng khác, thành ra bề ngoài tuy có vẻ thoát tục mà bên trong không hề thanh thản như ý muốn của họ được.

2) Về Khổng-học

Cũng như Lão-học, dòng tư tưởng Khổng-học tác động vào cuộc sống loài người qua bao nhiêu thế hệ, đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của nó không phải nhỏ.

Nếu Lão-học đã ảnh hưởng vào tâm tư một lớp người tự cho lẽ sống mình là hợp với biến chuyển thiên nhiên, thì chính Khổng-học cũng ảnh hưởng vào một lớp người, và lớp người ấy cũng hãnh diện tự cho lẽ sống mình là hợp với cơ cấu vũ trụ.

Để chứng minh điều này, chúng tôi cũng xin trích dẫn những mẩu chuyện có khuynh hướng Khổng-học để làm tiêu biểu cho khả năng phát triển của dòng tư tưởng ấy.

« Chuyện Mẫn-tử-Khiên »
Mẫn-tử-Khiên mồ côi mẹ từ thuở nhỏ. Mẹ kế sinh được hai con trai, chỉ yêu con đẻ mà ghét Tử-Khiên.
Mùa Đông tháng giá, mẹ kế không cho Tử-Khiên mặc áo mền bông, chỉ cho mặc áo mền hoa lau. Một hôm Tử-Khiên đánh xe hầu cha, cha thấy co ro run rẩy liền quở mắng. Tử-Khiên nín không dám nói. Cha giận lắm, ngờ đâu áo rách, bật hoa lau ra.
Cha thấy thế căm giận người vợ kế bạc đãi con mình, liền muốn đuổi đi.
Tử-Khiên khóc mà van rằng : « Dì con mà còn ở lại, thì chỉ một mình con rét ; dì con mà phải đuổi đi, thì ai may vá cho chúng con, có lẽ ba anh em con đều không có áo, phải chịu rét cả ».
Cha nghe nói cảm động, bèn thôi không đuổi vợ kế nữa. Và từ đó người vợ kế cũng có lòng thương yêu Tử-Khiên như thương yêu con đẻ vậy. (Thuyết-Uyển)
Chủ-trương của Khổng-học là cảm hóa lòng người, lấy nhân nghĩa, hiếu thảo làm nền tảng. Cho nên, tất cả những người có khuynh hướng Khổng-học đều nêu lên những mẫu người điển hình. Mẫn-tử-Khiên tượng trưng cho khuôn khổ của hiếu đạo, mà cũng tượng trưng cho tinh thần tùng phục phụ quyền. Thường thường những mẫu người do quan niệm Khổng-học đưa ra đều là những mẫu người lý tưởng cả. Và từ lý tưởng tác động vào thực trạng tâm tư, do đó, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy các cụ đồ nho chỉ biết ép mình trong lý tưởng đã có sẵn, mà không cần đem cảm giác cá nhân mình phán đoán những gì hiện thực.
« Thương mẹ già yếu »
Hàn-bá-Du ăn ở với mẹ rất có hiếu. Những khi có lỗi mẹ thường đánh đòn. Một hôm Bá-Du phải đòn khóc mãi, người mẹ thấy vậy hỏi : « Mọi khi mẹ đánh con, con biết lỗi, không khóc. Lần này có gì uất ức mà con nức nở mãi như thế ? »
Bá-Du thưa : « Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn mạnh khỏe. Lần này mẹ đánh con không đau mấy, con biết sức mẹ đã yếu, nên con nghĩ thương mẹ mà khóc đấy thôi ». (Thuyết-Uyển)
Chuyện Hàn-bá-Du trên đây cũng như chuyện Mẫn-tử-Khiên đều là những mẫu chuyện lý tưởng của Khổng-học, xả thân phụng thờ hiếu đạo. Hiếu đạo, tình thương của con cái đối với cha mẹ, không chỉ riêng ở quan niệm Khổng-giáo mới có. Chỗ khác biệt về hiếu đạo của Khổng-giáo đối với các học thuyết khác là các học thuyết khác xem hiếu đạo như một sợi dây ràng buộc giữa tình cảm con người. Con thương cha mẹ, cũng như cha mẹ thương con đều do tính chất cá biệt của huyết thống mà ra, còn hiếu đạo của Khổng-giáo là một khuôn phép gia đình. Từ khuôn phép gia đình đi đến khuôn phép xã hội. Cho nên Khổng-học đem bổn phận của con cái đối với cha mẹ sánh với bổn phận của bầy tôi đối với vua, hoặc bổn phận vợ đối với chồng, mà lập ra ý thức tam cang.
« Ngụy biện »
Nước Tề có kẻ thờ vua, thân là được vinh hiển, nhà được sung sướng. Khi vua có hoạn nạn, anh ta không chịu liều chết để cứu giúp vua.
Một hôm, anh gặp cố nhân dọc đường. Người cố nhân lấy làm ngạc nhiên hỏi : « Tôi cứ tưởng anh đã chết rồi, tại sao anh lại còn sống sờ sờ như vậy ? »
Anh ta đáp : « Phải, tôi vẫn còn sống chứ. Phàm đi làm tôi tớ người ta cốt có lợi, mà chết theo người ta thì có lợi gì ? Cho nên tôi chẳng chết theo ».
- Anh ăn ở như thế thì còn mặt mũi nào mà trông thấy người ta dưới chín suối nữa.
- À ! Theo như anh nói thì khi tôi chết, mắt đã nhắm rồi mà con trông thấy người ta được ư ?
Ôi ! Những người đời chịu ơn vua mà chẳng tuẫn nạn vua đều là kẻ đại bất nghĩa. Thế mà khi có ai nói đến, lại còn biện bác cãi lẽ, tự cho mình là phải. Thói thường, ở một nước loạn, ý nghĩa với câu nói thường hay trái nhau. (Lã Thị Xuân-Thu)
Nếu Khổng-học quan niệm vũ trụ là trạng thái biến động trong trật tự và bất di bất dịch, thì quan niệm xã hội cũng diễn biến theo chiều hướng ấy. Tuy nhiên, trái với những chủ trương khác, Khổng-học không đem cảm giác con người tìm hiểu vũ trụ trước khi tìm hiểu sinh hoạt xã hội, mà lại ấn định trật tự xã hội loài người trước, rồi mới đem những suy tư ấy giải thích qua cơ cấu vũ trụ. Bởi vậy, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy khuynh hướng Khổng-học chia vũ trụ làm tam giới : thượng giới, trung giới, hạ giới. Ở thượng giới, cũng có vua và quần thần như trung giới và hạ giới. Rồi Ngọc-hoàng, Diêm vương cũng khống chế xã hội, và cũng áp dụng những liên hệ vua tôi, cha con, chồng vợ. Tất cả mẩu chuyện trung, hiếu, tiết, nghĩa từ thế giới siêu hình đến thế giới hữu hình, đều diễn biến theo một khuôn thước của Khổng-học đề ra. Cho nên, khi đã nắm được căn bản giáo lý Khổng-học, chúng ta sẽ thấy mọi diễn biến của dòng tư tưởng này không ngoài ý thức đề cao con người mẫu, con người điển hình cho lý tưởng, mà lý tưởng ấy gồm vào đạo : tam cang, ngũ thường.
Sau đây, chúng tôi xin trích dẫn một số câu chuyện để lại trong lịch sử văn học Trung-hoa, tiêu biểu cho dòng tư tưởng Khổng-học.
« Cách trị dân »
Tử-Sản làm tướng nước Trịnh đã lâu năm, có lòng thương dân, lấy đạo khoan mà trị nước.
Khi Tử-Sản bệnh nặng, gọi Tử-thái-Thúc đến bảo rằng : « Ta chết, tất nhà người làm tướng nước Trịnh. Ngươi phải biết người có đức mới lấy đạo « khoan » mà phục được dân, còn người thường phải lấy « nghiêm » mà trị dân mới được. Nay ví như lửa nóng, dân trông thấy mà sợ, cho nên chết vì lửa ít. Nước mát, dân khinh mà lờn, cho nên chết vì nước nhiều. Thế mới biết dùng khoan là khó ».
Mấy tháng sau, Tử-Sản mất, Tử-thái-Thúc thay làm tướng, không nỡ làm nghiêm, e có mãnh liệt, cứ lấy khoan trị dân. Không được bao lâu, trong nước sinh ra nhiều trộm cướp thường ẩn náu ở các đồng lầy cướp của giết người, nhiễu hại lương dân.
Tử-thái-Thúc hối hận, nghĩ rằng : « Giá ta biết sớm theo lời Tử-Sản thì đâu đến thế này ». Rồi liền cho quân đi đánh bắt bọn cướp ở đồng lầy mà giết hết. Từ đây nước Trịnh mới bớt trộm cướp.
Đức Khổng-tử nói rằng : « Được lắm ! Chính sách khoan thì dân lờn, dân lờn thì phải dùng chính sách nghiêm. Nghiêm tức là mãnh, mãnh thì dân tàn, tàn lại phải dùng khoan : khoan giúp cho mãnh, mãnh giúp cho khoan, có thể chính sách mới hòa được ». (Tả Khưu Minh)
« Hiếu tử, trung thần »
Vương-Tôn được bổ làm thứ sử châu Ích. Quan thứ sử trước ở đây là Vương-Dương, lúc đi kinh lược trong hàng châu, qua một con đường núi cheo leo, than rằng: «Thân ta là thân của cha mẹ ta, ta nỡ nào xông pha vào những nơi nguy hiểm này». Bèn quay lại, không đi, rồi cáo bệnh về nhà.
Lúc Vương-Tôn đến thay Vương-Dương đi tuần phòng, cũng phải qua con đường ấy, hỏi nha lại rằng: « Có phải con đường này là con đường quan thứ sử trước sợ không dám đi chăng ? »
Nha lại thưa : « Phải ».
Vương-Tôn liền thúc xe tiến tới và nói : « Vương-Dương trước kia là người hiếu tử, Vương-Tôn ngày nay là kẻ trung thần ». (Hán thư Vương-Tôn truyện)
« Mua xương ngựa »
Nước Tề đánh nước Yên, giết được vua Yên. Người Yên lập Thái-tử tên là Bình lên làm vua tức là vua Chiêu-vương. Chiêu-vương lên ngôi, thương dân, lo việc nước, cầu người hiền tài.
Một hôm vua bảo Quách-Ngỗi : « Nước Tề nhân dịp nước ta loạn, sang đánh lấy nước ta. Ta biết rõ ràng nước ta nhỏ, dân ta yếu, thực khó lòng mà báo thù. Song nếu được những người giỏi cùng lo toan việc nước, may ra rửa sạch sự sỉ nhục của tiên vương chăng ? Chí nguyện quả nhân như vậy, tiên sinh xem ai là người giỏi để ta cùng lo việc nước thì hay ».
Ngỗi nói : « Xưa có ông vua đưa nghìn vàng cho người nội thị đi mua một con ngựa chạy ngàn dặm. Người nội thị khi mang tiền đến nơi, con ngựa quí ấy đã chết, anh ta liền bỏ ra năm trăm nén vàng mua bộ xương con ngựa ấy đem về. Vua thấy thế nổi giận quở mắng ».
Người nội thị nói : « Ngựa chết còn quí mà mua như vậy, huống chi ngựa sống. Tôi chắc thế nào nay mai thiên hạ cũng đem ngựa hay đến bán cho bệ hạ ».
Quả nhiên không đầy một năm mà người ta đem ngựa hay đến bán đã ba bận. Nay nhà vua muốn được người tài đến giúp thì trước hết nên dùng tôi. Người giỏi hơn tôi thấy thế há có ngại xa mà không đến ư ?
Vua Chiêu-vương lập tức dùng Quách-Ngỗi, kính trọng Quách-Ngỗi như thầy. Quả nhiên, không bao lâu, anh tài các nơi đua nhau sang giúp nước Yên. Vua Chiêu-vương ủy thác việc nước cho những người ấy, sau nước Yên thành một nước cường thịnh. (Chu-sử)
« Chính danh »
Vua Cảnh-công nước Tề hỏi đức Khổng-tử về việc chính sự. Đức Khổng-tử thưa : « Cội rễ của chính sự là phải làm sáng tỏ luân thường đạo lý. Ở chốn triều đình, vua hết đạo làm vua, tôi hết đạo làm tôi. Ở trong gia đình, cha hết đạo làm cha, con hết đạo làm con. Vua tôi, cha con, ai nấy đều hết đạo của mình thì chính sự mới có thể giữ được ».
Vua Cảnh-công nói : « Phải lắm ! Câu nói ấy thiệt là thiết yếu. Mà quả như thế, nếu vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con thì kỷ cương rối loạn mà nước phải diệt vong. Thóc gạo tuy có nhiều, liệu có ở yên mà ăn được không ? » (Luận-ngữ)
« Chết đói đầu núi »
Khi vua Vũ-vương đem quân đi đánh vua Trụ, Bá-Di, Thúc-Tề nghe thấy ra nắm dây cương ngựa cản lại và nói : « Cha chết chưa chôn mà đã chăm việc chinh chiến, thế có gọi là hiếu được không ? Bề tôi giết vua để cướp nước, thế có gọi là nhân được không ? »
Những người thân cận của Vũ-vương tức giận toan giết Bá-Di và Thúc-tề. Thái-công cản lại, nói : « Không nên, hai ông này là người nghĩa ». Rồi bảo quân lôi Bá-Di, Thúc-Tề ra.
Đến khi Vũ-vương đã lấy được thiên hạ, ai cũng tôn nhà Chu, nhưng Bá-Di, Thúc-Tề lấy việc nước mất làm xấu hổ, đến nỗi coi thóc gạo cũng là tài sản nhà Chu, nên buồn bực không ăn nữa. Hai ông vào ẩn nơi núi Thái-dương làm bài ca « Thái-vi » rằng :
Ta lên núi Thái-sơn,
Ta hái khóm rau vi.
Kẻ bạo thay kẻ bạo,
Còn biết phải trái gì !
Đời cổ thoáng qua rồi,
Biết đâu mà qui y.
Than ôi ! Đành chết vậy,
Thật vận mệnh ta suy.
Rồi hai ông nhịn ăn, đành chết đói trên núi. (Chu-sử)
« Tiết phụ »
Vương-Ngưng đi làm quan ở châu Quắc, chưa được bao lâu thì mất, nhà thanh bạch, con thơ ấu.
Sau vợ là Lý-thị lo liệu đem con và mang di hài chồng về quê. Khi qua huyện Khai-phong, đến một nhà trọ, thấy đàn bà con trẻ, có ý ngờ, người chủ trọ không cho nương tựa. Lý-thị thấy trời đã tối, không dám ra đi, cứ kêu nài mãi, xin tạm trú một đêm. Người chủ nhà dắt tay đuổi ra, Lý-thị ngửa mặt lên trời, nức nở than : « Ta phận đàn bà chẳng thủ tiết, để đến nỗi người ngoài cầm được cái tay này. Ta không nỡ vì một cái tay mà để bẩn thân ta ». Nói đoạn, lập tức lấy búa chặt ngay cánh tay.
Người xung quanh đổ xô đến xem, ai trông thấy cũng kinh hãi và cảm động. Quan huyện Khai-phong đem việc ấy tâu lên với triều đình, rồi đưa thuốc chữa, cấp tiền tuất cho Lý-thị, và phạt người chủ nhà trọ. (Ngũ đại sử)
« Khoét mắt »
Lư phu nhân, vợ ông Phùng-huyền-Linh là người tuyệt đẹp, lại có đức hạnh. Ông lúc tuổi trẻ hàn vi lắm. Một khi bệnh nặng tưởng đã sắp chết, ông gọi Lư-thị đến bảo rằng : « Tôi bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ, không nên ở vậy, liệu mà ăn ở tử tế với người chồng sau ».
Lư-thị nghe nói nức nở khóc. Đoạn vào phòng riêng lấy dao khoét bỏ một con mắt, tỏ ý cho chồng biết dầu chồng có bất hạnh qua đời, nàng cũng nhất quyết chẳng lấy ai. Không bao lâu sau, ông Huyền-Linh khỏi bệnh.
Sau ông thi đỗ làm quan đến chức Tể-tướng. Ông một niềm yêu mến, kính trọng Lư-thị vô cùng, không hề lấy người tỳ thiếp nào nữa. Người ngoài cho thế là vì ông sợ Lư-thị có tính ghen.
Vua Đường Thái-tôn muốn thử lòng Lư phu-nhân, một hôm cho Hoàng-hậu gọi vào cung, và nói với Lư phu nhân : « Theo phép thường, các quan to vẫn có tỳ thiếp. Nay quan Tể-tướng tuổi đã cao, ta muốn ban cho Tể-tướng một mỹ-nhân ».
Lư-thị nhất quyết không nghe. Vua giả cách, nổi giận, mắng : « Nhà ngươi không ghen thì sống, mà ghen thì chết ».
Rồi sai đưa cho một chén rượu, giả làm chén thuốc độc, và phán : « Đã vậy thì uống chén thuốc độc này ». Lư-thị không ngần ngại chút nào, tiếp lấy chén rượu nốc một hơi.
Vua thấy thế, nói : « Ta cũng phải sợ nữa là Huyền-Linh ». (Lư phu nhân truyện)
« Dự-Nhượng báo thù »
Dự-Nhượng trước thờ Phạm-Trung-Hàng. Trung-Hàng đãi không tử tế. Dự-Nhượng bỏ đi theo Trí-Bá, được Trí-Bá tin dùng. Nhưng sau Trí-Bá bị bọn Tam-Tấn đánh thua, giết chết và chiếm mất đất. Trong bọn Tam-Tấn có Triệu-Tương-Tử oán Trí-Bá nhiều nhất ; bắt lấy đầu Trí-Bá sơn để làm đồ đi tiểu.
Dự-Nhượng lúc đó đã trốn vào trong rừng nghe chuyện làm vậy, than rằng : « Tài trai nên vị người tri kỷ mà bỏ thân, con gái nên vị người yêu thương mà làm dáng. Ta đây quyết phải báo thù cho Trí-Bá mới nghe ». Bèn đổi tên họ, ăn mặc giả làm bọn tù, vào cung trát chuồng tiêu, muốn thừa cơ để đâm chết Triệu-Tương-Tử.
Tương-Tử một hôm ra nhà tiêu, bỗng dưng động tâm, bắt người trát nhà tiêu ra hỏi, thì biết ngay là Dự-Nhượng. Dự-Nhượng rút dao găm trong người ra nói rằng : « Ừ, ta là Dự-Nhượng, ta muốn báo thù cho Trí-Bá đây ».
Đầy tớ Triệu-Tương-Tử hăm hăm chực giết Dự-Nhượng. Tương-Tử ngăn lại nói rằng : « Hắn là nghĩa sĩ đó. Thôi ta tránh đi thôi, Trí-Bá chết không còn con cháu, hắn là bầy tôi báo thù cho chủ thực là hiền nhân của thiên hạ. Thôi ta tha cho hắn ».
Dự Nhượng được tha, lại cạo râu và lông mày cho đổi nét mặt, sơn mình giả làm thằng hủi đi ăn xin. Vợ trông thấy cũng không nhận ra, nói rằng : « Người này tiếng nói thì giống chồng ta, nhưng mặt mày thật không phải chồng ta ». Dự-Nhượng lại nuốt than hồng cho đổi cả tiếng nói đi.
Được ít lâu, Triệu-Tương-Tử đi chơi, Dự-Nhượng núp chực đợi dưới cầu. Nhưng lúc Tương-Tử đi gần đến đầu cầu, con ngựa thốt nhiên kinh hãi lồng lên. Tương-Tử nói rằng : « Chắc lại có Dự-Nhượng ở đây ». Rồi sai người tìm dưới gầm cầu, quả bắt Dự-Nhượng thật.
Tương-Tử gọi Dự-Nhương đến trước mặt trách rằng : « Ngươi trước thờ Phạm-Trung-Hàng. Phạm-Trung-Hàng bị Trí-Bá giết, sao ngươi không báo thù lại thờ Trí-Bá ? Nay Trí-Bá bị ta giết, sao mà người chăm báo thù thế ? »
Dự-Nhượng nói : « Trước tôi có thờ Phạm-Trung-Hàng thật, nhưng Phạm-Trung-Hàng đãi tôi như bọn tầm thường, nên tôi lấy cách tầm thường mà ở lại. Sau tôi thờ Trí-Bá. Trí-Bá đãi tôi vào bực quốc sĩ, nên tôi lấy cách quốc sĩ mà ở lại ».
Triệu-Tương-Tử chép miệng than rằng : « Ngươi thờ Trí-Bá cũng đã nên danh tiếng rồi đó, mà ta tha mi bận trước cũng đã đủ rồi. Nhưng bận này ngươi liệu cái thân ngươi, không tha nữa đâu ».
Dự-Nhượng nói : « Tôi nghe : Minh chúa không che lấp sự có nghĩa của người ta, trung thần không tiếc cái chết để cho danh tiếng. Trước ông đã khoan tha cho tôi một lần, thiên hạ ai cũng biết ông là người đại lượng rồi. Còn như việc hôm nay tôi đành xin chịu chết. Nhưng tôi xin mạn phép ông, ông cho tôi được đâm cái áo ông mặc, thì tôi dù chết cũng không oán hận gì nữa ».
Triệu-Tương-Tử cho là người có nghĩa, cởi áo sai đầy tớ cầm đem cho Dự-Nhượng. Dự-Nhượng rút gươm và nhảy lên ba lần hò hét và đâm vào áo và nói rằng : « Thế này là ta báo được ơn Trí-Bá rồi đây ». Nói đoạn đâm cổ chết. (Chiến quốc sách)
« Thế nào là đại trượng phu ? »
Cảnh-Xuân hỏi thầy Mạnh-tử : « Công-Tôn-Diễn và Chương-Nghi nổi một cơn giận, đi du thuyết, thì các nước chư hầu sợ, ngồi yên một chỗ, thì thiên hạ không có chiến tranh. Hai người như thế chẳng là bực đại trượng phu ư ? »
Thầy Mạnh-tử nói : « Hai người ấy gọi là đại trượng phu thế nào được ! A dua, xiểm nịnh, lựa ý chiều lòng các vua chư hầu để được quyền, được thế, cách cục hai người ấy như đàn bà lẽ mọn, thừa thuận phục tòng. Bực đại trượng phu đâu có thế ? »
Bực đại trượng phu tâm địa chí công như ở cái nhà rộng trong thiên hạ, cử động mực thước, thận trọng đúng như cái ngôi chính trong thiên hạ, công việc làm quang minh chính đại như đi trên con đường cái trong thiên hạ. Đắc chí thì đem cái khôn ngoan học thức, thi thố cho thiên hạ được nhờ ; bất đắc chí thì một mình vui vẻ giữ vững cái hay của mình. Sự giàu có quan sang chẳng làm siêu đảng được cái tâm, sự nghèo khó vi tiện chẳng làm biến đổi được cái tiết, sự uy hiếp vũ lực chẳng làm tỏa nhục được cái chí… thế mới là đại trượng phu. (Mạnh-tử)
« Thiên hạ sĩ »
Lỗ-Trọng-Liên có khí tiết lạ lùng, có lòng trung nghĩa phẫn kích, không phải hạng sách sĩ sánh kịp được. Kìa như con diều, con két bay cao trên từng mây ; con hổ, con báo gầm thét trong rừng núi, mạnh mẽ dữ tợn, có ai dám lại gần. Song một mai bị người ta trói buộc, nuôi trong chuồng thì có khác gì giống gà, giống chó. Mà diều, két, hổ, báo sở dĩ để cho người ta đánh bẫy được, có phải chỉ do cái lòng thèm muốn mà thôi không ? Như Lỗ-Trọng-Liên thì thực không có ham muốn gì, cho nên bay cao, gầm dữ mà vẫn ngang tàng một đời. Người ta khen Lỗ-Trọng-Liên là thiên hạ sĩ rất là phải. (Tiềm thất tử)
Những mẩu chuyện có khuynh hướng Khổng-học di lưu trên dòng lịch sử văn học Trung-hoa không phải là ít. Tóm lại, một chủ thuyết nào cũng đem cuộc sống con người tổ chức cho hợp với cơ cấu vũ trụ, hợp với biến chuyển thiên nhiên, song nhìn chung, hầu hết có những trái ngược nhau chỉ vì quan niệm của mỗi chủ thuyết khác biệt về ý thức vũ trụ.

Sài Gòn, 1/11/1970
Nguyễn Tấn Long - Phan Canh
Nguồn: tusachtiengviet.com
Theo https://www.dtv-ebook.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...