Thứ Ba, 29 tháng 11, 2022

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 3 - Vũ trụ quan 6

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 3
Vũ trụ quan 6

4) Sự thành công và thất bại của hai nền văn minh đạo học và khoa học
Trước khi khảo cứu đề mục này, chúng tôi xin trích dẫn một bài phê bình về ý thức đạo học và khoa học trong nguyệt san Tri hành số ra ngày 1-10-1969 với đề mục: «Tuổi trẻ hôm nay nghĩ gì về văn minh tiến bộ?»
Ở đây chúng ta có cần viện dẫn vài nhà ngôn-ngữ-học để truy cứu nguồn gốc và xác định ý nghĩa của danh từ «văn minh, tiến bộ» trước khi muốn đề cập vấn đề nầy không?
Chúng tôi xét thấy không cần, mà cũng không muốn ràng buộc vào cái định lệ khô khan, cũ kỹ ấy. Tại sao chúng ta cứ muốn vẽ ra một cái vòng để bắt mọi suy tư chúng ta phải nhốt vào trong phạm vi quái gở ấy ?
Những cái gì của nhà ngôn-ngữ-học chưa hẳn là khuôn thước muôn đời. Ngôn ngữ được phát sinh do tâm tư con người, thì ngôn ngữ cũng phải thay đổi theo nhịp độ biến chuyển của tâm tư. Khi bộ óc con người đã khôn ngoan, tâm tư con người đã mở rộng ngoài tầm ngôn ngữ, thì ngôn ngữ trở thành «vật lệ thuộc» của tâm tư. Ngôn ngữ không thể xác định hình bóng của suy tư, mà chính suy tư qui định tính chất của ngôn ngữ. Cho nên, tính chất ngôn ngữ nếu trước kia thể hiện một cái gì cố định cho ý muốn con người thì ngày nay ngôn ngữ lại trở thành trừu tượng trước mọi biến chuyển tinh vi của khối óc.
Nói cách khác, ngôn ngữ loài người không phát triển kịp với đà tiến triển của bộ óc con người, cho nên bộ óc con người đã lợi dụng sự thiếu thốn ấy để bắt ép, gạt gẫm những suy tư của kẻ khác trong phương diện truyền đạt ngôn ngữ. Kết quả, người ta dùng tính chất trừu-tượng-hóa của ngôn ngữ hiện hữu để tranh đấu trên chính trường, trên cuộc sống hàng ngày, mà họ cho đó là điều khôn ngoan trong lẽ sống.
Trước kia, chúng ta nói đến «học» thì ai cũng nghĩ đó là việc cắp sách đến trường, hoặc nghiền ngẫm trong sách vở để thu đạt những lời giáo huấn. Nhưng ngày nay, có kẻ dấn thân vào những cuộc truy hoan, họ vẫn cho đó là một lối học, mà kẻ dấn thân là đang thụ huấn trong trường đời. Vậy ngôn từ chỉ có giá trị chính xác qua một tiêu điểm thời gian, khi suy tư con người chưa vượt ra ngoài sự cung ứng đầy đủ của ngôn ngữ, và nó sẽ mất giá trị chính xác khi bộ óc con người đòi hỏi một biên giới rộng rãi hơn của ngôn từ. Và, ngôn ngữ đi từ chính xác đến trừu tượng, mà các nhà ngôn ngữ học cũng chỉ là những kẻ chạy theo sự đòi hỏi của bộ óc con người để thương xác mà thôi. Nhưng, càng thương xác, ngôn ngữ càng thoát đi xa hơn, để rồi chúng ta dần dần mất hẳn hình dáng xác thực của nó.
Vì thế, chúng tôi muốn nói với các bạn ngôn từ « văn minh, tiến bộ » chỉ là một ngôn từ trừu tượng.
Tiếng « trừu tượng », chúng tôi muốn nói ở đây không phải chối bỏ hoàn toàn giá trị của một ngôn từ. Giá trị của nó không nằm trong khối óc của một cá nhân, một nhà khảo cứu, một định nghĩa, mà nằm trong cảm giác của đa số nhân dân. Cảm giác ấy định giá trị và giới hạn cho một ngôn từ. Nhưng khi chúng ta đã tìm hiểu giá trị một ngôn từ qua cảm giác tất nhiên ngôn từ ấy đã trở thành trừu tượng rồi, dù trong phạm vi hạn hẹp.
Vậy « văn minh, tiến bộ » là gì ? Nói một cách tóm tắt thì nó là sự đưa loài người đến chỗ có ánh sáng, giải thoát đời sống co người trong cảnh lầm than. Chính vì vậy mà khi nói đến văn minh, tiến bộ, dân tộc nào trên thế giới cũng có một cảm nghĩ như một con đường đưa nhân loại đến vinh quang. Không ai có quyền cản trở bước tiến của nhân loại, không ai có quyền bắt con người không được mơ ước một lẽ sống huy hoàng. Kẻ nào cản trở bước tiến của nhân loại là đắc tội với nhân quần xã hội.
Chúng ta cũng là con người không vì lẽ gì lại muốn loài người không đạt đến mục đích tốt đẹp, trong đó có chúng ta. Nhưng, từ xưa đến nay loài người đã văn minh, tiến bộ chưa ? Và loài người có đang đi trên con đường ấy để đạt đến vùng ánh sáng của ước mong chăng ? Hơn nữa, cái mà chúng ta gọi là văn minh, tiến bộ có phải là cứu cánh của loài người, hay cũng chỉ là một ngôn từ « siêu hình » mà chúng ta – loài người – dù có văn minh, tiến bộ đến đâu cũng chẳng tìm thấy hình bóng đích thực của nó được? Đó là những thắc mắc mà chúng tôi muốn cùng bạn bỏ một chút ít ưu tư trong bài nầy.
Trước nhất, theo quan niệm chung, chúng ta đều nhận rằng thế giới loài người hiện nay đã văn minh, tiến bộ đến cực điểm. Vì, nếu không bảo là văn minh tiến bộ thì còn phải giải thích thế nào khi xã hội loài người phát nguồn từ trạng thái ăn lông ở lỗ tiến đến xã hội khoa học, nguyên tử, hỏa tiễn, phi thuyền và đổ bộ lên nguyệt cầu?
Hỡi các khoa-học-gia ! Sự hiện diện của các người rất xứng đáng đối với nhân loại, và nhân loại đã vì các người mà hãnh diện trước một vũ trụ bao la, huyền bí. Sự hãnh diện ấy chính là niềm suy tư, ước vọng của nhân loại tự cho đó là con đường dẫn loài người vào chân trời văn minh, tiến bộ. Như vậy, quan niệm văn minh, tiến bộ khoa học cơ giới mà nhân loại hiện đang theo đuổi.
Nhưng, nếu chúng ta quan niệm văn minh, tiến bộ chỉ phát hiện trên đường khoa học cơ giới thì trước kia, thời thượng cổ, cận đại, lúc mà khoa học cơ giới chưa đi vào đời sống con người, thì loài người chưa có văn minh, tiến bộ sao?
Không! Cái quan niệm văn minh, tiến bộ đang diễn ra trên lịch sử xã hội loài người chỉ là một quan niệm tương đối. Thế giới loài người bao giờ cũng hãnh diện là mình đang sống trong văn minh, tiến bộ bất kỳ thời điểm nào. Lịch sử của văn minh, tiến bộ là lịch sử của thời gian. Dĩ vãng của hôm nay là hiện tại của quá khứ, và tương lai của chúng ta là hiện tại của ngày mai. Thời gian trôi qua chồng chất trong lịch sử loài người một dung lượng mỗi lúc mỗi nhiều hơn. Dung lượng thời gian thay đổi cuộc sống loài người, mà chính chúng ta quan niệm như là một sự văn minh tiến bộ. Cho nên, nếu chúng ta quan niệm văn minh, tiến bộ theo dòng lịch sử thì xã hội loài người lúc nào cũng có văn minh, tiến bộ cả. Hiện tại, chúng ta coi như văn minh tiến bộ so với dĩ vãng, và tương lai sẽ là văn minh, tiến bộ so với hiện tại. Quan niệm văn minh, tiến bộ như vậy tức là quan niệm một chiều, theo lịch sử chuyển biến của thời gian, và loài người lúc nào cũng tự cho mình là văn minh, tiến bộ cả.
Ngược dòng lịch sử, trở về tới cận đại, lúc mà nền văn minh Trung-hoa ngự trị ở các nước Á-đông, con người vẫn tự hào là mình đang sống trong tuyệt đỉnh văn minh, tiến bộ. Bởi vì lễ nghi trong tập đoàn xã hội được minh định, tổ chức xã hội từ trên xuống dưới được sắp xếp có trật tự, các học thuyết đua nhau ra đời dựa trên cơ năng vũ trụ, cố tạo cho loài người một cuộc sống phù hợp với thiên nhiên, với nhân đạo. Yếu tố tinh thần được vận dụng triệt để, lòng vị tha được xem như một năng lực xây đời, và những đòi hỏi của bản năng vật chất được coi như cái gì đê tiện nhất của mọi cá thể. Người ta ca tụng những mẫu người quân tử. Người ta ca tụng những anh hùng Kinh-Kha, Mạnh-thường-Quân, Chuyên-Chư, Khánh-Kỵ, Yếu-Ly, Quan-Công… những kẻ vì nghĩa quên mình. Người ta nói đến Tống Tương-công đi đánh giặc dựng cờ « nhân nghĩa » và đem những tấm gương trung, hiếu, tiết, liệt làm khuôn vàng thước ngọc cho cuộc sống loài người. Vào thời đó không ai phủ nhận ánh sáng văn minh, con đường đạo học, đến nỗi mọi sinh hoạt của con người, mọi suy tư của cuộc sống đều dồn vào lý tính, tỏa chiết bản năng, xem bản năng vật chất như kẻ thù của đạo nghĩa – của văn minh tiến bộ.
Với niềm hãnh diện ấy, chính người Trung-hoa lúc bấy giờ cho những dân tộc khác là lạc hậu, man di, bởi vì những dân tộc ấy không có một Kinh-Kha, một Quan-Công, một Mạnh-thường-Quân… như dân tộc Trung-hoa.
Nhưng nếu đó là ánh sáng văn minh, đáng cho loài người hãnh diện với cuộc sống thì tại sao dân tộc Trung-hoa, nơi phát sinh ánh sáng lại mang một lịch sử chém giết triền miên, vua tôi ám hại lẫn nhau, giặc giã không bao giờ ngớt, những cuộc phế hưng giành địa vị cai trị tạo thành những trang chiến sử đầy máu lệ mà đến ngày nay chúng ta xem lại còn thấy hãi hùng? Như vậy, cái gì là văn minh, tiến bộ? hay ý nghĩa văn minh tiến bộ chỉ có trong tư-tưởng-giới mà không thể có trong thực tế của cuộc sống con người?
Trong lúc đạo học được tôn thờ, xem như vùng ánh sáng của loài người thì đùng một cái, khoa học cơ giới phát minh, súng đồng, tàu trận xuất hiện. Vùng ánh sáng này không giải thích bằng nghĩa lý, mà bằng sức mạnh của chiến trường.
Ánh sáng khoa học đã làm đảo lộn nền văn minh, tiến bộ của đạo học. Loài người bắt đầu nghi ngờ những gì cao quí trong lý tưởng mà từ trước đến nay họ đã tôn thờ. Những cuộc cách mạng manh nha quấy động báo hiệu sự sụp đổ của nền đạo học, và không còn chấp nhận nền văn minh của đạo học nữa.
Ngay ở Trung-hoa, cuộc vận động cách mạng của Tôn-Văn chủ trương thuyết « Tam dân chủ nghĩa » chính là nhát búa đầu tiên đánh vào nền văn minh đạo học của Trung-quốc, mở đầu một chuyển hướng lớn lao từ nền văn minh đạo học sang nền văn minh khoa học.
Ở Việt-nam chúng ta, nền đạo học chịu ảnh hưởng Trung-quốc, nhưng khi thấy các nhà thức giả đương thời của Trung-hoa vùng lên, đả phá nền văn minh đạo học, các cụ như Phan-sào-Nam, Nguyễn-thượng-Hiền, Nguyễn-hải-Thần, Cử Khê-Nhị… cũng dấn thân vào đường cách mạng, khởi xướng phong trào Đông-du, hô hào lớp người trẻ xuất dương thu thập ánh sáng văn minh cơ giới nước ngoài. Bầu nhiệt huyết của các cụ lúc bấy giờ như một kẻ vừa nhìn thấy một chân trời lạ mà ở đấy là thiên đàng của lẽ sống.
Một nhà cách mạng thời ấy đã thuật lại rằng sau trận Nga-Nhật chiến tranh, Nga thất bại ở Đối-mã, những tàu chiến của Nga chạy lạc vào cửa Đà-nẵng. Cứ nhìn vào công trình sáng chế những chiến hạm ấy, các cụ đã khiếp đi rồi. Chiến hạm nào cũng to lớn, vỏ sắt dày, trang bị máy móc như rừng, thế mà bị súng thần công của Nhật bắn lủng từng lỗ to như những cửa hang, bảo sao các cụ không kinh hồn, ngơ ngác trước nền văn minh tiến bộ của cơ giới ?
Trước đây, người Nhật cũng chỉ là một nước nhỏ trong hệ thống văn minh Á-đông, thế mà người Nhật nhờ vua Minh-Trị Thiên-hoàng nhận rõ được ánh sáng của nền văn minh cơ giới Tây-phương, nên chẳng những đã thoát ra ngoài quan niệm của văn minh đạo học mà còn có thể đương đầu giữa luồng ánh sáng lạ, mà loài người cho là tân tiến nữa.
Kết quả, quan niệm văn minh đạo học của Đông-phương không còn tìm thấy một niềm hãnh diện nào, mà còn bị ánh sáng khoa học cho là lạc hậu, thoái hóa. Ý thức văn minh tiến bộ của loài người từ đấy dồn vào ý thức tiến bộ của văn minh cơ giới. Nói như thế cũng có nghĩa quan niệm văn minh tiến bộ của loài người chuyển hướng từ nền văn minh đạo học sang văn minh khoa học. Trong thời gian đó, mọi phong trào vận động, mọi chống đối về ý thức hệ… không ngoài mục đích đả phá nền móng đạo học, từ bỏ đạo học để tiến sang địa hạt khoa học. Phạm-Quỳnh chủ trương điều hòa Âu-Á trên tạp chí Nam-phong ; Phan-Khôi chủ trương hô hào giải phóng phụ nữ trên báo Phụ-nữ Tân-văn ; nhóm Tự-lực Văn-đoàn dùng báo Phong-hóa đả phá những tập tục nho phong… tất cả đều là những phong trào trong thời gian chuyển mình từ lãnh vực văn minh đạo học bước sang lãnh vực văn minh khoa học, và cũng từ đấy, ý thức văn minh khoa học ngự trị trong tư tưởng giới con người.
Nhưng, nền văn minh khoa học có phải là nguồn văn minh lý tưởng của loài người chăng? Chúng tôi, cũng như các bạn, không thể không hoài nghi. Nếu chúng ta quan niệm sự văn minh tiến bộ của loài người chỉ là yếu tố chuyển biến tất yếu của thời gian, hay nói cách khác, nó là sự đổi thay của thời đại thì chúng ta không cần thắc mắc. Nhưng nếu chúng ta quan niệm văn minh tiến bộ bằng ý thức của cảm giác, nghĩa là trong đó phải hàm chứa một sắc thái chân, thiện, mỹ đưa con người đến một cuộc sống lý tưởng, huy hoàng, thỏa mãn nguyện vọng chung của nhân loại thì chúng ta lại thấy thất vọng.
Vì sao? Từ khi ánh sáng khoa học cơ giới xuất hiện, thế giới loài người phải trải qua hai cuộc đại chiến kinh hồn, mà tự ngàn xưa chưa từng có. Ngày xưa, nếu có chiến tranh giữa con người thì cũng chỉ là những cuộc chiến tranh nhỏ bé, phát xuất từng địa phương với những vũ khí thô sơ giết người không mấy nguy hại. Điều này chắc người Nhật không thể quên được thứ vũ khí khoa học ghê gớm ở Trường-kỳ, Quảng-đảo. Đó là vũ khí nguyên tử.
Vậy, văn minh cơ giới đã đe dọa sự sống loài người, bắt loài người phải nơm nớm lo âu trước nền văn minh tiến bộ đó.
Mặt khác, nền văn minh cơ giới đem đến cho loài người những tiện nghi vật chất, giúp cho loài người mỗi lúc thêm đầy đủ phương tiện đối với cuộc sống. Điều này chúng ta không thể không hãnh diện khi nhìn thấy kỹ nghệ khoa học chu cấp cho chúng ta những vật dụng mỗi lúc mỗi thêm tinh vi hơn. Tuy nhiên, niềm hãnh diện ấy lại không cho phép chúng ta – nhân loại – tự hào là chúng ta đang sống trong lý tưởng, hạnh phúc.
Nếu bảo tiện nghi vật chất là thiên đàng của lý tưởng thì nền văn minh khoa học ngày nay đã cung cấp cho loài người quá đầy đủ, người ta có thể dùng phi thuyền đổ bộ mặt trăng, có thể thực hiện bất cứ điều gì mà loài người còn thiếu thốn trong đời sống, tại sao nhân loại vẫn còn nghèo đói, vẫn còn chém giết, cướp giật lẫn nhau, vẫn còn tạo nên những phong trào chống đối, bất mãn… Bảo rằng vì cuộc sống loài người quá đầy đủ khiến con người đòi hỏi những chuyện vô lý ư ? Nếu vậy thì mọi cung ứng vật chất trở thành vô nghĩa rồi.
Nhưng không, con người không thể vì quá đầy đủ mà đòi hỏi vô lý. Chắc các bạn cũng nghĩ như chúng tôi, mọi phản ứng con người bao giờ cũng bắt nguồn từ lương tri chống lại ảnh hưởng của cuộc sống. Hình bóng tuổi trẻ ngày nay chìm dần trong lạc lõng. Họ nhìn thế giới loài người trước mắt họ như một thế giới ma quái, và họ xem thân phận con người như một cái gì bi đát. Họ lao mình vào chủ nghĩa hiện sinh, phá phách thân xác của họ, những tài nguyên vô cùng quí báu của loài người. Và… họ nổi loạn.
Nhưng chúng ta không thể trách họ. Vì đó chỉ là những ý thức bất mãn, không chấp nhận nền văn minh tiến bộ hiện tại. Cũng như lớp người trước kia đã gây nên những phong trào chống đối nền văn minh đạo học đã không đem lại cho loài người một nguồn sống hạnh phúc và lý tưởng mà nhân loại đang mong muốn.
Vậy, thế nào là văn minh, tiến bộ? Con đường văn minh, tiến bộ phải đi tìm ở đâu? Hay danh từ văn minh tiến bộ theo ước mong của loài người chỉ là danh từ «siêu hình» không thể đạt được trong đời sống thực tại, nghĩa là chúng ta chẳng bao giờ tìm thấy nó, mặc dù lúc nào, thời nào xã hội loài người vẫn tự hào và hãnh diện là đang sống trong ánh sáng văn minh tiến bộ ?
Tóm lại, từ trước đến nay chúng ta đã trải qua hai nền văn minh : nền văn minh đạo học và nền văn minh khoa học. Cả hai đều không đáp ứng được ý nghĩa của danh từ văn minh tiến bộ trong thực tại đời sống con người. Phải chăng đó là thắc mắc bâng khuâng đối với chúng ta ngày nay.
Nhưng, dù thắc mắc, chúng ta cũng không thể phủ nhận khả năng của khối óc con người trong lãnh vực khoa học, và công trình suy tư, đúc kết của con người trong lãnh vực đạo học. Cả hai đều nhằm mục đích giải phóng xã hội loài người, mà hiện nay chúng ta – nhân loại – vẫn còn đang có trách nhiệm phải làm sao cho các công trình ấy không trở thành vô ích.
Trích dẫn bài tham khảo trên đây, chúng tôi muốn cùng các bạn ý thức một lịch sử diễn biến qua từng thời đại giữa hai nền văn minh đạo học và khoa học.
Gọi là biến cố không phải quá đáng, bởi vì chính sự thành công và thất bại của hai nền văn minh đã làm xáo trộn lịch sử xã hội loài người từ sinh hoạt tinh thần đến vật chất.
Nhưng tại sao lại xảy những biến cố? Nguyên nhân của biến cố là gì?
Trở về với căn bản suy tư, chúng ta phải thừa nhận rằng trong con người tự nó hàm chứa những mâu thuẫn tất yếu giữa bản năng vật chất và tinh thần. Vật chất vì nhu cầu dục vọng bao giờ cũng đòi hỏi hưởng thụ, ngược lại, tinh thần vì nhân đạo, bao giờ cũng tiết chế. Sự đòi hỏi và tiết chế đương nhiên trở thành hai năng lực đối lập, lúc nào cũng tìm cách tiêu diệt đối phương. Cho nên, khi nói đến biến cố trong lịch sử loài người giữa hai nền văn minh đạo học và khoa học, cũng có nghĩa là chúng ta nói đến khả năng bành trướng và đối chọi giữa hai trạng thái vật chất và tinh thần trong lẽ sống. Căn bản của biến cố do đó phát sinh, và cũng là nguyên nhân chính yếu tạo thành dòng lịch sử giữa hai nền văn minh đạo học và khoa học.
Đã ý thức được nguyên nhân của những biến cố ấy, bây giờ chúng ta thử tìm hiểu nguyên nhân thành công và thất bại. Nền văn minh đạo học và khoa học mỗi bên đều có cái hay, cái dở của nó. Cho nên, đến ngày nay chúng ta không lấy làm lạ khi thấy mỗi nền văn minh đều biểu lộ một khả năng phát triển tột độ, để rồi mang những chứng tích không kém quan trọng đối với cuộc sống loài người.
Nếu nền văn minh đạo học nhờ ở những xáo trộn trong cuộc sống, tạo cho tinh thần con gười trở thành sức mạnh, con người muốn đem lý trí làm chủ cuộc sống của mình, khống chế mọi nhu cầu vật chất, đạt được một thành công đáng kể trong sinh hoạt xã hội, thì nền văn minh khoa học lại nhờ ở sự thiếu thốn trong bản năng nhu cầu sinh hoạt, tạo cho con người một ý thức vươn lên, cố đem lý trí giải quyết những đòi hỏi của dục vọng, và tạo cho mình một thành công trong ý sống của loài người.
Một đứa trẻ ra đời, mọi đòi hỏi dục vọng của đứa bé mỗi ngày một dồn dập. Từ lúc nhỏ không thể thiếu một bầu sữa, một tiếng ru, đến lúc lớn lên, ngoài phạm vi cơm áo, đứa bé còn đòi hỏi hưởng thụ những nhu cầu phát triển theo cơ thể của nó. Có những cha mẹ đã đem ý thức giáo dục khuyên răn, tức là tạo cho con mình một khả năng lý trí để nó tự kềm hãm dục vọng, làm chủ bản năng. Có những cha mẹ đã nuông chiều đứa con bằng cách rán sức làm việc để cung ứng cho nhu cầu của nó khỏi bị thiếu thốn. Dù nuôi con bằng cách nào, cha mẹ nào cũng vẫn với ý thức thương con, muốn cho con khỏi khổ cực. Tuy nhiên, mỗi cha mẹ lại chủ trương một đường lối khác nhau.
«Thương con cho roi cho vọt». Bậc cha mẹ ấy đã làm cho đứa con họ biết lễ nghi, hiếu đạo, chất chứa tình cảm nhân quần xã hội, song đứa con ốm yếu, khiếp nhược trước những uy quyền của vũ lực, không đủ sức đương đầu với khổ cực, gian nguy, và một ngày nào đó, tinh thần cũng không còn đủ khả năng trấn áp những thèm muốn trong cơ thể của nó nữa, vì bị thiếu thốn, nhịn nhục lâu ngày.
«Thương con bằng nuông chìu». Bậc cha mẹ ấy đã làm cho đứa con phát triển dục vọng mỗi ngày một tăng thêm, và sự đòi hỏi của dục vọng không bao giờ ngừng lại. Tuy đã tận hưởng, đứa con vẫn cảm thấy mình bao giờ cũng như bị thiếu thốn. Để đi tìm những cảm giác mới lạ, đứa con lúc nào cũng vòi vĩnh, và hành động như điên cuồng, chẳng còn biết mình là ai? sống để làm gì? hưởng thụ để làm gì nữa?
Sự thành công và thất bại của hai nền văn minh đạo học và khoa học có thể căn cứ vào ví dụ trên, xem nó như tiêu biểu cho hai chiều hướng phát triển ấy.
Bây giờ chúng ta thử đi sâu vào những nét thành công điển hình của hai nền văn minh đạo học và khoa học đã phát hiện trên dòng lịch sử của hai thế giới Đông Tây.
- Sự thành công của đạo học -
Chúng ta hãy thử đọc một đoạn thư của hai cô gái thành thị và thôn quê : « Mình sống ở nhà quê quen với phong tục, tập quán, nên lúc mới đến ở thành phố có nhiều chuyện buồn cười. Ở nhà quê tuy nghèo nhưng chứa đủ thứ tình : tình gia đình, tình quen thuộc, tình hàng xóm, tình… quê hương. Còn ở đây, con người tuy sang trọng bề ngoài, song tìm cảm rất thiếu thốn. Nhà liền vách, sống chen chúc nhau, nhưng là để tranh nhau từng tấc đất, chửi rủa nhau vì một con chó, cãi lộn nhau vì một vài cọng rác xả trước nhà. Tuy nhiên, nếu nhà bên cạnh có người đau đến chết, xung quanh cũng chẳng ai biết đến. Đợi đến lúc họ mua hòm về, sắp đi chôn, những nhà hàng xóm mới ghé mắt nhìn sang, rồi đóng sầm cửa lại, coi như chẳng có việc gì xảy ra ! Ở nhà quê chúng mình làm sao có những cảnh sống như thế ? Dù ông hàng xóm là kẻ bất lương, khi tang quyến lâm nạn, tình cảm cũng chan hòa nhau trong tình tương thân tương ái… » (Đông Tây tạp chí số ra ngày 31-5-1934)
Bức thư trên đây nói lên sự bỡ ngỡ của người dân quê Việt-nam khi hai nền văn minh Đông Tây vừa va chạm. Vào thời đó, trừ những thức giả lỗi lạc, phần đông ít ai tìm hiểu nguyên nhân nào đã chia rẽ tình cảm con người thành thị với thôn quê.
Sự chia rẽ ấy phát sinh bởi ý thức văn minh đạo học và khoa học. Người thành thị sớm nhiễm cảnh sống vật chất Tây-phương truyền sang, cảm giác của họ không còn nguyên vẹn trong tập tục của dân quê nữa.
Tập tục của dân quê! Nó là nền tảng của tinh thần đạo lý Đông-phương, ăn sâu vào đời sống.
Hỡi những người cầm bút! Hỡi các văn nhân! Từ xưa đến nay các người đã ca tụng tình thương, ca tụng nụ cười thầm kín của cô thôn nữ, ca tụng tâm hồn mộc mạc, chất phác của bác nông phu… và tất cả những gì mà các người lưu tâm đều nằm trong tính chất đạo học.
Đặt tình thương ra ngoài, bỏ cuộc sống tình cảm, có lẽ các người phải ném bút, không còn gì để viết nữa. Các người bóc trần xã hội, tố cáo cảnh đồi trụy, nêu lên những hành vi tội ác của con người, phải chăng các người đã củng cố tinh thần đạo học? Cái gì đã thúc đẩy con người cầm bút phải thi hành sứ mạng thiêng liêng ấy? Đạo lý! Sức mạnh tinh thần! Sức mạnh ấy vẫn di lưu trong huyết quản của loài người, dù con người mỗi ngày chạy theo cuộc sống văn minh vật chất. Đó là một thành công lớn lao của đạo học.
Sự thành công của đạo học không thể kể trong một đoạn sách, cũng không sao nêu lên hết những khía cạnh của nó trong lịch sử xã hội loài người. Tuy nhiên, chúng ta lại có thể hiểu nó trong cảm tính. Bởi vì, dù thời đại nào, cuộc sống tân tiến đến đâu, tinh thần đạo học vẫn còn di lưu trong huyết quản của con người Đông-phương như một truyền thống của chủng tộc.
Tuy nhiên, trước sự thành công vĩ đại của nền văn minh đạo học đã chi phối cuộc sống loài người, chúng ta lại không khỏi đau lòng khi nhìn thấy những thất bại trầm trọng, tiếp diễn mãi trong thế giới đạo học Đông-phương.
«Can vua bỏ rượu»
Vua Cảnh-công nước Tề hay uống rượu, có bận say luôn mấy đêm ngày, xao lảng cả việc nước. Huyền-Chương can, nói: «Nhà vua uống rượu say sưa như thế, hạ thần xin can, nhà vua không nghe, hạ thần xin tự vận».
Ngay lúc ấy, Án-tử vào yết kiến vua. Vua bảo: «Huyền-Chương can ta bỏ rượu, không thì y tự vận. Nếu ta nghe, thì ta hóa ra non, nếu ta không nghe, nhỡ Huyền-Chương chết thì cũng đáng tiếc».
Án-tử nói: «May lắm! May Huyền-Chương gặp được nhà vua, chớ như vua Kiệt, vua Trụ, thì chết mất rồi, còn đâu sống được đến bây giờ nữa!»
Cảnh-công nghe nói, tỉnh ngộ, tự hôm đó chừa rượu. (Án-tử Xuân Thu – trích Cổ học tinh hoa)
«Khéo can được vua»
Vua Cảnh-công nước Tề có con ngựa quý, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa một hôm tự nhiên lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án-tử đang ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi vua rằng: «Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước?»
Cảnh-công ngơ ngác nhìn nói: «Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội».
Án-tử nói rằng: «Tên phạm nầy chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội của nó, rồi hãy hạ ngục».
Vua nói: «Phải».
Án-tử bèn kể tội rằng: «Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Ai sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là một tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất quý của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán hận, nước ngoài có bụng dòm dỏ, là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa ? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục…
Cảnh-công nghe nói ngậm ngùi than rằng : « Thôi, tha cho nó ! Thôi, tha cho nó ! kẻo để ta mang tiếng bất nhân ». (Án-tử Xuân Thu – trích Cổ học tinh hoa)
« Ông quan thanh bạch »
Dương-Chấn được bổ đi làm thái thú quận Đông-lai. Lúc đi phó nhậm, qua đất Xương-ấp, quan huyện ở đấy là Vương-Mật, trước được nhờ ông đề bạt cho, vào yết kiến. Rồi đợi đêm khuya liền đem vàng đến lễ.
Dương-Chấn bảo : « Trước tôi biết ông là người khá, mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem vàng đến cho tôi ư ? »
Vương-Mật cố nài, thưa rằng : « Xin ngài cứ nhận cho. Bây giờ đêm khuya không ai biết ».
Dương-Chấn nói : « Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai biết ? » Vương-Mật nghe nói, xấu hổ lùi ra.
Dương-Chấn thật là một ông quan thanh liêm, chỉ chăm việc dân việc nước, không tham nhũng, không làm giàu cho mình. Ông thường nói : « Làm quan mà để được cái tiếng thanh bạch cho con cháu, chẳng quí hơn là tiền của, ruộng nương lại cho chúng ư ? » (Hậu Hán thư –Trích Cổ học tinh hoa)
« Trung, Hiếu lưỡng toàn »
Đời vua Chiêu-vương nước Kinh, có người Thạch-Chử làm quan rất công bình chính trực.
Một hôm đang đi tuần trong hạt, thấy ở ngoài đường có kẻ giết người. Thạch-Chử đuổi bắt, thì ra chính cha mình, bèn quay xe trở lại. Rồi chạy đến trước sân rồng nói rằng : « Kẻ giết người là cha tôi. Bắt cha làm tội thì tình không nỡ ; vì cha mà bỏ phép thì lý không xuôi. Làm quan đã không giữ phép, thì phải chịu tội ». Vừa nói, vừa kề gươm vào cổ, xin vua cho hành hình.
Vua nói : « Nhà ngươi đuổi theo mà không bắt được đã là biết giữ phép, còn tội gì. Cứ an tâm làm chức vụ ».
Thạch-Chử thưa : « Làm con không biết ủy khúc thờ cha, không gọi là người con hiếu, làm tôi không công bằng giữ phép nước, không gọi là bầy tôi trung. Bao dong mà xá tội là ơn của quân thượng ; trái phép mà chịu tội là phận của tôi con ». Nói đoạn cầm gươm tự sát.
Không giữ phép nước thì chết ; cha phạm tội không nỡ bắt, vua tha tội không chịu nhận ; người Thạch-Chử làm quan như thế, thật là người Trung, Hiếu lưỡng toàn vậy. (Lã thị Xuân Thu – trích Cổ học tinh hoa)
« Mua nghĩa »
Mạnh-thường-Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng-Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng-Huyên hỏi : « Tiền nợ thu được có định mua về gì không ? »
Mạnh-thường-Quân nói : « Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì, thì mua ».
Khi đến đất Tiết, Phùng-Huyên cho gọi dân lại, bảo rằng : « Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường-Quân đều cho cả ». Rồi đem văn tự ra đốt sạch.
Lúc về, Phùng-Huyên thưa với Mạnh-thường-Quân rằng : « Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái « nghĩa », tôi trộm phép vì tướng công đã mua về ».
Mạnh-thường-Quân nghe thấy nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa. Sau Mạnh-thường-Quân phải bãi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh-thường-Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng-Huyên rằng : « Trước tiên sinh vì tôi mua « nghĩa », nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy ». (Quốc sách – trích Cổ học tinh hoa)
- Những thất bại của đạo học -
Nếu chúng ta đã tìm thấy nguyên nhân thành công của đạo học là do dục vọng bản năng con người đòi hỏi hưởng thụ, tạo cho cuộc sống loài người trở thành mục tiêu tranh đoạt, gây thảm trạng cho xã hội, nên đạo học đem lý trí khắc phục bản năng, đưa con người trở về nhân đạo, thì nguyên nhân thất bại của đạo học cũng lại do dục vọng bản năng con người phát triển quá mạnh, đến mức lý trí không còn đủ khả năng kềm hãm nữa, và biến đạo học trở thành tấm bình phong nứt rạn, mà bên trong chứa đầy những tội lỗi xấu xa. Trước nhất chúng ta có thể lấy một vài mẫu chuyện điển hình cho trạng thái rạn nứt của nền đạo học Đông-phương :
« Chuyện vợ Võ Đại-lang và
cường hào Tây-môn-Khánh »
Võ Đại-lang là anh Võ-Tòng, sống về nghề bán bánh hấp. Cứ mỗi sáng, Võ Đại-lang quảy gánh đi bán, đến chiều tối mới về.
Vợ Võ Đại-lang là nàng Kim-Liên, vốn là người đàn bà đa tình, nên cứ sau khi người chồng quảy gánh ra đi, nàng buông rèm mở cửa chờ khách, và đến khi người chồng về, dẫu còn sớm, nàng cũng kéo rèm lên, đóng cửa lại, ra tuồng chính chuyên.
Một sáng, người chồng vừa ra đi, người vợ lại buông rèm, mở cửa ; bất ngờ sợi dây bị đứt, tấm rèm rơi xuống trúng phải người khách qua đường.
Khách dừng chân, trợn tròn xoe đôi mắt, toan quát lên, nhưng miệng bỗng cứng lại, đôi mắt không còn hung hãn, toàn thân như mềm nhũn.
Khách gặp phải ác phong chăng ? Thưa không ! Khách đang bị một sắc đẹp khuynh đảo tâm hồn khi ngước nhìn thấy người đàn bà da phấn môi son, mày cong lá liễu, răng trắng như ngà, thân hình nở nang với chiếc ngực phập phồng trong làn áo ngủ bằng lụa màu hồng.
Qua một phút định thần, nhìn người đàn bà quyến rủ, khách tủm tỉm cười khuây khỏa ; nhất là sau khi được nghe giọng oanh vàng thỏ thẻ thốt ra từ làn môi ngọc : « Ôi chao ! Tôi tay yếu làm rơi bức rèm tổn thương đến tôn ông ! »
Khách vội chỉnh lại vành khăn, nghiêng mình chào ra lối hào hoa phong nhã, đáp : « Có hề chi ! Xin nương nương chớ e ngại ! »
Mụ Vương bà mở trà điếm giáp bên tường, trông thấy, thò đầu ra cười hí hửng, nói : « Ấy là cái số trời định vậy ! Đúng lúc người ta tháo rèm thì tôn ông đưa đầu ra đỡ, còn than van nỗi gì ? »
Khách cười đưa duyên, nói : « Vương bà nói chí lý ! Thật là cái số trời định từ kiếp trước, nên mới chọn đúng lúc cánh tay ngà ngọc đang bỏ rèm thì tôi đi qua đây ».
Người đàn bà thấy kẻ kia ăn nói hay, mỉm cười đáp : « Tôn ông rộng lượng thứ cho ! Tôi thực vô ý ».
Khách lấy tay vuốt ngực, cúi đầu khiêm nhượng, rồi giã biệt ; đi một quãng mà còn ngoảnh lại như tiếc cái gì quý báu đã mất.
Kẻ ấy là ai ? Hắn là tay đại bợm giàu có trong vùng. Đã bao năm hắn ở trong nghề buôn gian, bán lận, cho vay nặng lãi. Hắn thường mua chuộc quan lại để gây thế lực. Gần đây, hắn rước thầy về học võ để doạ nạt mọi người. Hắn tên là Tây-môn-Khánh mà bọn đầu trộm đuôi cướp gọi tâng bốc là Tây-Môn đại nhân.
Từ lúc trông thấy mỹ nhân, Tây-môn-Khánh đâm ra ngẩn ngơ. Anh chàng lân la trà điếm của Vương bà để thăm dò lai lịch. Vương bà là tay từng trải, hiểu ngay tình ý, nghĩ thầm : « Hai bên đều đa tình, đắm sắc, dại gì không nhân cơ hội xoay tiền ». Liền đon đả mời Tây-môn-Khánh vào nhà, và hỏi : « Khi mai đại nhân nói chuyện với ai mà trông trịnh trọng thế ? »
Tây-môn-Khánh hỏi lại : « Người đẹp bên nhà bà là ai thế ? Đã có chồng con chưa ? »
Vương bà cười hóm hỉnh, nói : « Đó là em bà Lê-Sơn Thánh-mẫu vì rơi chân ngọc nên bị đọa xuống huyện Dương-cốc này. Đại nhân muốn rõ nguồn gốc xin cứ lên Nam-Tào tra sổ bộ thì rõ ».
Tây-môn-Khánh cười xoà, nói : « Vương bà nói chuyện nghe hay quá nhỉ ? Tôi muốn hỏi thật xin bà đừng trêu tội nghiệp ».
Vương bà nheo mắt nói : « Đại nhân làm gì mà chẳng biết chồng mỹ nhân, cái anh chàng ngày nào cũng gánh bánh hấp đi suốt từ đầu phố đến cuối phố đó ».
Tây-môn-Khánh lim dim đôi mắt ra vẻ suy nghĩ, rồi hỏi : « Có phải anh chàng Từ-Tam bán bánh ngọt nhân trứng đó chăng ».
Vương bà xua tay : « Không ! Không phải ! Nếu được như người ấy đã không đến nỗi cành mai cúc rũ ! »
Tây-môn-Khánh im lặng một lúc rồi búng tay nói : « À ! Có lẽ gã Lý-Nhi ! »
Vương bà cười sằng sặc, nói : « Được như gã ấy đã không đến nỗi đỉa đeo chân hạc ».
Tây-môn-Khánh lắc đầu, nói : « Thế thì tôi xin chịu, không đoán nổi ».
Mụ Vương cười mỉa mai, nói : « Tôi nói, ông phải vịn tay vào bàn kẻo nghe đến đại danh ấy ông lại hoảng sợ còn hơn là bị cánh rèm rơi trúng sọ ».
Tây-môn-Khánh nóng lòng hỏi : « Xin Vương bà cho biết tên kẻ diễm phúc ấy ».
Vương bà nói : « Con người diễm phúc đó tên là Võ-đại-Lang ».
Tây-môn-Khánh đập tay xuống bàn, đánh chát một cái, làm chén nước rơi xuống đất bể hai.
Vương bà bước đến, lượm chén bể lên, vừa tiếc vừa nói : « Đó, tôi bảo ông bình tĩnh trước khi nghe cái đại danh ấy kia mà ».
Tây-môn-Khánh nói : « Không sao ! Tôi sẽ đền chén cho bà. Câu chuyện hay ho thế này dẫu tốn kém bao nhiêu cũng không tiếc ».
Vương bà ranh mãnh, nhìn Tây-môn-Khánh tiếp : « Trời già hay trớ trêu thế đấy. Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán thằng Mường nó leo ».
Tiếp đấy là vài câu chuyện thù tạc giữa hai người. Tây-môn-Khánh bỗng nói giọng ỡm ờ : « Tôi nhờ bà làm mối cho tôi một người chăn gối ».
Vương bà làm bộ giật nẩy người, le lưỡi nói : « Ấy chết ! Đệ nhất « phu nhân » mà biết được việc nầy thì cả cái huyện Dương-cốc đây cũng phải tan vỡ đừng nói chi cái mặt mụ Vương tôi ».
Tây-môn-Khánh vội xua tay nói : « Xin chớ ngại ! Phu nhân nhà tôi nết hiền như Thích-Ca, lượng lớn như Nam-hải, hẹp gì mà chẳng chứa thêm một người nữa. Trong nhà đã có ngót chục nàng, nhưng ngao ngán lắm bà ôi ! Chỉ thời gian đầu rồi đứa nào xem cũng như đồ ma đói, không ra tuồng gì cả ! Chẳng có cơn gió dông nào cuốn chúng nó ra nghĩa địa cho tôi được nhờ. Bà tìm giúp tôi một chỗ, quanh quẩn gần đây càng tốt ».
Vương bà ra dáng ngẫm nghĩ, rồi nói : « Có một chỗ ngọc diệp kim chi, chỉ sợ tôn ông khó tính đấy thôi ».
Vớ được cơ hội, Tây-môn-Khánh tiếp : « Đã là kim chi ngọc diệp, tôi đâu dám khó tánh, xin bà làm phúc cho ».
Vương bà nói : « Mười phần xinh đẹp cả mười, chỉ hiềm một nỗi tuổi hơi cao ! »
Tây-môn-Khánh trố mắt nhìn Vương bà tỏ vẻ không hiểu, nói : « Tuổi tác có cần chi. Dẫu xê xích nhau năm ba tuổi đã có sao ».
Mụ Vương che miệng nói tiếp : « Mỹ nhân tuổi mậu dần, tướng tinh con cọp, tháng sáu sang năm xuân xanh mới có chín mươi ba ! »
Tây-môn-Khánh vỗ vai mụ rồi cười ha hả : « Bà lão này người già mà tánh nết hãy còn xuân. Cứ trêu tôi mãi ». Dứt lời đứng dậy bước ra cửa.
Chưa bao lâu, trời đã tối, mụ Vương đóng cửa thắp đèn, bỗng bên ngoài có tiếng gõ cửa, mụ Vương bước ra mở cửa thì ra Tây-môn-Khánh. Nhưng lần này chàng ăn mặc thật đẹp, mái tóc lại có rảy chút ít hương thơm. Vương bà mỉm cười, biết rõ Tây-môn-Khánh đến đây là vì lòng rạo rực, không sao nằm ở nhà được.
Không muốn anh chàng si tình kia bỡ ngỡ, mụ Vương hỏi : « Xơi trà nhé ! »
Tây-môn-Khánh bước vào ngồi trên ghế, miệng nói mà đôi mắt dính liền với vách tường cạnh nhà mỹ nhân : « Được, xin bà cho chút trà ấm bụng ».
Mụ Vương đặt chén trà lên bàn, khói thơm lên nghi ngút, Tây-môn-Khánh uống ba hớp, rồi hình như không thể ngồi yên một chỗ, rũ tay áo đứng dậy, nói : « Xin ghi sổ, mai sẽ thanh toán ».
Mụ Vương mỉm cười đáp : « Chắc giờ nầy đại nhân đang bận rộn việc gì ! Sáng mai xin mời đại nhân dời gót ngọc đến chơi ! »
Tây-môn-Khánh gật đầu ba cái bước ra khỏi cửa. Mụ Vương để ý nom theo. Đêm ấy trời đã khuya mà chàng si tình còn thẩn thơ qua lại mãi, mắt không rời bức rèm trên gác nhà bên cạnh. Hôm sau trời vừa rựng sáng, tuyết trên đường còn rơi lả tả, Vương bà mở cửa ra đã thấy bóng Tây-môn-Khánh thấp thoáng trước cửa nhà, đôi mắt lấm lét nhìn lên bức rèm trên gác.
Mụ lẩm bẩm : « Khiếp con mèo đói kia ! Bà mới bôi cho tí mỡ vào đầu mũi mà liếm mãi không thôi. Hắn nổi tiếng bóc lột mọi người làm giàu, bạc vàng đầy tủ, bà kiếm kế lận lưng, lấy chút ít cũng chẳng sao. Đã biết đây là cửa hàng săn thì cứ lăn vào mà chết cho mất thân ».
Mụ vừa dứt lời thì Tây-môn-Khánh đã đi đến, rẽ vào cửa nhìn mụ, nói : « Có trà hảo hạng pha ra đây ! »
Vương bà pha trà bưng lên. Tây-môn-Khánh chỉ chiếc ghế, mời Vương bà : « Bà cứ ngồi đây uống với tôi một chén trà ban mai xem có gì thú vị chăng ».
Vương bà kéo ghế ngồi, vừa cười vừa nói : « Sớm mở mắt chưa nghe thấy con hoàng anh hót trên lầu đã thấy cái mặt khô héo già này thì còn thú vị gì nữa ».
Tây-môn-Khánh cười lớn, nói : « Tôi nào được thấy con hoàng anh ở đâu ».
Mụ Vương nói : « Ở chân trời xanh, nhưng nếu có kẻ tri âm đưa tay vẫy, chim trời kia chê gì mà chẳng chui đậu vô tay áo ấm ».
Tây-môn-Khánh cười xòa, đứng dậy bước ra ngoài và nói : « Bà biên vào sổ đi nhé ! »
Mụ Vương tiễn khách ra cửa, nắm tay cào cấu một lúc rồi mới quay vào nói : « Già này phải ghi cho nhớ chứ ! »
Tây-môn-Khánh cười khoái trá bước ra đường, phe phẩy tà áo lụa xanh đi qua đi lại không biết mấy lần. Mỏi mệt, chàng lại ghé trở vào trà điếm của mụ Vương.
Mụ Vương pha nước. Tây-môn-Khánh thò tay vào bọc lấy ba lạng bạc đưa cho mụ, và nói : « Đây, bà tính tiền trà tôi đã uống mấy hôm nay ».
Mụ Vương nắm chặt ba lạng bạc vào lòng bàn tay, đáp : « Đại nhân rộng quá. Tiền trà có bao nhiêu mà trả cho mụ một số bạc nhiều như thế ? »
Tây-môn-Khánh làm ra vẻ hào phóng nói : « Bà cứ cất đi. Nên hư cũng có lời bà ở trong ! Còn nhiều đền đáp nữa kia mà ».
Được tiền, mụ Vương nói thầm : « Cái quân mê gái ! Rồi đây còn chết với bà, chưa phải thế này thôi đâu nhé ! » liền quay vào nhà trong cất tiền cẩn thận, rồi trở ra, nói : « Hôm nay tuy lạnh nhưng xem chừng đại nhân khát nước lắm đấy, vậy xin dâng một chén Tiễn-diệp-trà ».
Tây-môn-Khánh nói : « Đúng vậy ! Bà có tài nhìn bên ngoài mà biết được trong ruột gan kẻ khác. Dẫu có Hoa-Đà, Biển-Thước cũng phải thua ».
Vương bà cười khanh khách, nói : « Nào có khó gì đâu ! Cứ nhìn con mắt là thấy rõ lòng nhau ! Hũ kín nút, chai bọc kín mà già này còn biết bên trong đựng gì, huống hồ những bệnh thông thường đó ».
Tây-môn-Khánh nói nửa đùa, nửa thật : « Bà đoán bệnh tôi xem, nếu đúng, tôi xin tạ bà năm lạng nữa ».
Mụ Vương cười hể hả, nói : « Khó gì. Tôn ông phải cáo bệnh đau đầu vì bị con người ngọc kia đánh rơi chiếc rèm hôm nọ, nay phải được năm ngón tay tiên ấy thoa bóp thì khỏi hẳn ».
Tây-môn-Khánh nghẻo cổ cười : « Thật là thánh vậy ! Tài ấy phải làm quân sư cầm đầu mười vạn quân mới đáng. Không giấu giếm bà làm gì nữa, từ hôm ấy đến nay, tôi không thể nào chợp mắt nổi ».
Mụ Vương phì cười : « Tôn ông đã không giấu tâm bệnh, tôi đây lại giấu nghề làm chi. Già này lâu nay đã làm biết bao nhiêu những việc đưa hoa đón khách ».
Tây-môn-Khánh hỏi : « Thế nào là đưa hoa đón khách ? »
Mụ Vương cười ngặt nghẹo, đáp : « Ấy là đón chim vườn trước, săn bướm vườn sau. Trong nhà này có giường thất bảo, có giường tư mã, giọng phong tình lả lơi, gái này đã thuộc từ thuở đương tơ, vỏ lựu, mào gà đã quen gạt lừa phường đa tình ngu xuẩn ».
Tây-môn-Khánh chúm chím cười : « Thế thì bà đem một chút ít tài cũ giúp tôi, xong việc tôi xin hậu tạ ».
Mụ Vương nghiêm nét mặt nói : « Cái nghề chim gái đâu phải dễ. Dẫu người ta muốn giúp, mình phải đủ điều kiện mới được ».
Tây-môn-Khánh kéo ghế lại gần, hỏi : « Điều kiện gì xin bà cho biết ».
Mụ Vương đáp : « Có nói trước mới được việc sau. Cái nghề chơi phải lắm công phu, nghĩa là phải chịu tốn kém nhiều tiền bạc mới chiếm được gái. Tôi nghe người ta nói, về tiền bạc, tôn ông không rộng rãi lắm. Điều ấy mà sút đi thì hỏng mất tám phần mười công việc ».
Tây-môn-Khánh nói : « Tưởng gì chứ điều ấy đâu có khó. Từ nay mọi sự ở bà, dạy gì tôi cũng nghe theo ».
Vương bà vui thích, mỉm cười, chậm rãi nói : « Được rồi, nếu tôn ông chịu phí chút ít thì lo gì mỹ nhân chẳng vào tay. Hôm nay tối rồi, tôn ông cứ về nghỉ, ngày mai đến đây nghe tôi hiến kế ».
Tây-môn-Khánh, đôi mắt đăm chiêu, nhìn Vương bà tha thiết : « Nếu về mà chưa được nghe diệu kế thì lòng tôi phập phồng cả đêm làm sao ngủ được. Xin bà dạy cho Khánh tôi biết trước ».
Mụ Vương cười khanh khách nói : « Nếu vậy thì đây, tôi hiến kế cho. Song kế hay phải có người theo, mà theo thì phải thành tâm, dù phải thí xa mã mà qua sông để phá lũy, đoạt thành thì cũng cứ gan liền đừng sợ nhé ! »
Tây-môn-Khánh nói : « Xin bà cứ dạy cho. Tôi tự coi như một tín đồ trung thành của bà vậy ».
Vương bà đằng hắng lấy giọng, rồi kề tai Tây-môn-Khánh thì thầm bày vẽ mưu kế. Tây-môn-Khánh lẳng lặng chú tâm nghe, nghe đến đâu mát lòng đến đấy. Khi Vương bà dứt lời, chàng ta vỗ đùi thích chí reo to : « Thật là mưu thần chước quỷ, có thua gì Tôn-Vũ-Tử đâu ».
Thế rồi Vương bà tung ra nhiều mẻ lưới theo kinh nghiệm của một tay già giặn chuyên nghề đưa trước đón sau bằng cách lân la sang nhờ Kim-Liên, tên mỹ nhân, may bộ áo tống chung. Ý kiến ấy được người đàn bà chấp thuận, nàng hàng ngày sang trà điếm của Vương bà giúp đỡ việc cắt may. Nhân dịp này, Tây-môn-Khánh tới lui tán tỉnh, ca ngợi tài khâu vá khéo léo của mỹ nhân. Vương bà và Tây-môn-Khánh toa rập nhau đặt ra tiệc tùng để phục rượu người đàn bà. Đây, ta hãy xem kế mưu của họ diễn biến :
… Câu chuyện kéo dài trong êm ả. Tây-môn-Khánh cùng với mụ Vương cố dùng những câu bóng gió để gợi lòng người đàn bà đang nồng bốc men say.
Qua một lúc, Vương bà lắc bình rượu, nói : « Tiệc đang hào hứng, rượu lại cạn bình ! Để già nầy đi mua thêm, nối tiếp cuộc vui kẻo uổng ».
Tây-môn-Khánh nói : « Trong chiếc khăn gói kia còn nhiều bạc lẻ, xin bà lấy mà dùng. Nếu cần phải đi xa, xin bà chịu khó một chút, tìm cho được thứ rượu thơm ngon để nương tử khỏi đắng miệng ».
Mụ Vương cầm túi tiền, ngảnh nhìn người đàn bà, nói : « Trong bình còn ít rượu, xin nương tử rót mời đại nhân. Tôi phải qua tận bên kia cầu Sư-tử mới tìm được mỹ tửu đem về cho mỹ nhân ».
Dứt lời mụ Vương cười khanh khách. Người đàn bàn cũng chúm chím cười và nói : « Tôi uống đã đủ, quá chén e phải say nằm thì bất nhã ».
Vương bà cười, và nói : « Say thì đã có thuốc giả say. Lại sẵn chăn nệm kia, có lò than hầm để sưởi, lạnh lùng gì mà ngại ».
Sau khi liếc nhìn Tây-môn-Khánh một cái đầy ý nhị, Vương bà bước ra cửa, khóa chặt lại. Mụ không đi mua rượu, mà ngồi ngoài cửa để nghe ngóng. Trong phòng, đôi quả tim hồi hộp. Tây-môn-Khánh mặt đỏ bừng, bụng bảo dạ : « Bây giờ là lúc Lưu-Nguyễn nhập Thiên-thai, ta phải ra tay mở khóa động đào cho thỏa tình mơ ước ».
Nghĩ rồi, giả cách vô ý gạt tay áo làm rơi đũa xuống gầm bàn. Chàng cúi xuống nhặt. Đôi đũa rơi gần đôi chân bé xíu của mỹ nhân, cô mang giày xanh, thêu cánh hồng con bướm. Tây-môn-Khánh không lượm đũa mà ôm đôi chân giai nhân nựng nịu. Giai nhân cười khanh khách, nói : « Khéo giả vờ rơi đũa ! Ai chẳng biết nét mặt si tình ấy ! »
Tây-môn-Khánh quỳ xuống, nắm tay người ngọc, nói hổn hển : « Chao ôi ! Tôi khổ sở đã bao ngày mới được giây phút này đây. Xin nương tử thấu tình cho ».
Tây-môn-Khánh nghe hơi thở của nàng rồn rập, bèn đứng lên dìu nàng… Thế rồi, một cuộc mưa xuân tơi tả, vũ trụ say cuồng. Và, cuộc ái tình vụng trộm đầy tội lỗi này bị người phát giác, đi báo cho Võ-đại-Lang, chồng người đàn bà, biết. Người chồng vội vã quảy gánh bán hết bánh rồi lật đật về nhà gọi cửa.
Người đàn bà cũng mới vừa về cách đó năm phút, khuy áo còn gài xốc xếch, đôi má phấn còn đượm men say, đon đả nói : « Sao hôm nay lang quân về trễ thế, thiếp trông đã mỏi mòn ».
Người đàn bà dọn cơm lên, Võ-đại-Lang thấy cổ khô và nóng như ran, cố nuốt trôi ba miếng cơm rồi nằm vật xuống giường. Đêm về với nguồn quạnh hiu trong tâm hồn người đau khổ… Sự gian dâm mê đắm còn dẫn dần họ đến chỗ liều lĩnh xui người đàn bà gạt chồng cho uống thuốc độc chết đã để lại trong văn học Trung-quốc những chứng tích khả ố…
Câu chuyện trong sách Kim Bình Mai chúng tôi vừa lược dẫn trên đây thuộc vào loại truyện tả chân xã hội, sáng tác vào đời Minh, phản ánh khả năng đe dọa trầm trọng của dục vọng con người trong thế giới đạo học.
Một Kim-Liên, điển hình trạng thái khát khao của bản ngã, mà lý tính không còn kềm hãm nổi. Một Tây-môn-Khánh tiêu biểu tính chất hoan lạc chi phối cuộc sống con người. Một mụ Vương biểu lộ sắc thái điêu ngoa, dùng tấm màn nhân nghĩa để làm tiền đôi gian phu, dâm phụ.
Nếu bên trong thế giới đạo học nẩy sinh những mầm tệ hại như vậy thì cái vỏ đạo đức bên ngoài phỏng còn giá trị gì. Cho nên, đạo học không thể là con đường tuyệt đối có thể soi sáng lẽ sống loài người, trong lúc bản năng dục vọng con người luôn luôn manh nha phá vỡ lớp vỏ ấy để lôi cuốn con người vào sa đọa.
Một đứa con bị kềm hãm trong lễ giáo luôn cảm thấy mình bị khắt khe. Đó là trạng thái mâu thuẫn giữa lý tính và bản năng tính. Sự thất bại của đạo học là sự thất bại của tính chất phủ nhận hoàn toàn bản năng tính, đưa khả năng lý tính đến hình thức chế ngự một cách cực đoan. Bởi vậy, khi mỗi người trong chúng ta gặp những cơ hội thuận tiện, lý tính không còn kềm hãm nữa thì bản năng dục vọng không ngần ngại gì mà không hành động theo chiều hướng phát triển của nó. Một xã hội cũng thế, khi ý thức đạo học đã không được guồng máy chính trị bảo vệ và củng cố thì khả năng dục vọng cá nhân tự nhiên nẩy sinh, phá vỡ khuôn khổ đạo lý để đi vào chiều hướng tự do hành động của nó.
Trạng thái ấy đã phát sinh trong thời tiền chiến, lúc mà guồng máy chính trị phong kiến sắp cáo chung, nhường chỗ cho guồng máy thực dân của người Tây-phương.
Nói như thế cũng có nghĩa là ý thực đạo học muốn được củng cố chẳng những phải căn cứ vào khả năng giáo dục tình cảm con người, mà còn phải dựa vào khả năng bảo vệ của guồng máy chính trị nữa.
Nền văn minh Tây-phương du nhập vào Việt-nam mang theo chính sách đô hộ đã nẩy sinh ý thức canh tân về nếp sống.
Nhưng thế nào là canh tân ? Trước đây chúng ta thấy có hai phong trào canh tân trên đất nước chúng ta :
Một là phong trào Duy-tân. Phong trào nầy không tách rời ý thức đạo học Đông-phương, mà chỉ đem tinh thần đạo học tiếp thu những tiến bộ vật chất để đối phó với mọi đe dọa do nền khoa học phát triển.
Hai là phong trào Tự lực văn đoàn. Phong trào nầy chối bỏ hoàn toàn ý thức đạo học, đả phá tất cả những phong tục tập quán để tiếp nhận nếp sống văn minh khoa học Tây-phương.
Nhưng, dù với phong trào canh tân nào, chúng ta cũng không thể phủ nhận khi đã canh tân tức là mầm thất bại của nền văn minh đạo học đã bắt đầu biểu hiện.
Để chứng minh sự thất bại trên, và cũng để phân định sự khác biệt giữa hai phong trào duy tân, chúng ta thử đi vào tính chất căn bản của mỗi thời kỳ đã biểu lộ qua ý thức và hành động.
Phong trào Duy-tân Việt-nam phát khởi từ đầu thế kỷ XX ; lãnh đạo phong trào, chúng ta phải nói đến ba nhân vật nổi danh nhất là Phan-bội-Châu, Huỳnh-thúc-Kháng, và Phan-châu-Trinh.
Dĩ nhiên đó là một phong trào ái quốc, mưu đồ cách mạng, cũng như trước đấy, Việt-nam đã có phong trào Văn-thân và Cần-vương. Ở đây, chúng ta không bàn về phương diện cách mạng, mà chỉ đề cập sự thất bại của nền đạo học, do đó, chúng ta không đi sâu vào phương lược hoạt động mà chỉ xét riêng về căn bản đạo học của phong trào duy tân mà thôi.
Thế nào là duy tân ? Tại sao phải duy tân ? Trải qua bao nhiêu thế hệ, nền đạo học ngự trị trên xã hội Á-đông, người Việt-nam cũng như người Trung-hoa đều chỉ thấy có sức mạnh tinh thần mà không thấy có sức mạnh vật chất. Mãi đến lúc các cường quốc Tây-Âu dùng súng đồng, phi cơ, chiến hạm vượt trùng dương xâm chiếm Trung-hoa, thế giới Đông-phương mới thức tỉnh, và cảm thấy sức mạnh vật chất cũng đáng kể như sức mạnh tinh thần.
Nếu ở Trung-hoa, Tôn-Văn đã vận động phong trào « quốc dân chủ nghĩa » mục đích đem đạo học gắn liền với những tiến bộ khoa học để bảo tồn tổ quốc, thì ở Việt-nam chính phong trào duy tân cũng do ảnh hưởng ở sự cải cách Trung-hoa mà ra. Cho nên, phong trào duy tân Việt-nam chúng ta phải coi đó như là một sự « cựa mình » của nền đạo học khi phải « thức dậy » để tiếp khách. Nếu đặt tinh thần dân tộc và tinh thần ái quốc sang một bên, và đứng trên khía cạnh thành công và thất bại của hai nền văn minh đạo học và khoa học, chúng ta phải thấy phong trào duy tân Việt-nam không phải riêng rẽ, mà kết hợp với tính chất biến động của nền văn minh đạo học Đông-phương trong thời bấy giờ.
Như vậy, duy tân tức là đổi mới, là xét lại tinh thần đạo học, là không còn tin tưởng vào sức mạnh tuyệt đối của đạo học đã chế ngự xã hội Đông-phương tự ngàn xưa.
Cũng như tinh thần cải cách của thế hệ 1932-1945, nhóm Tự lực văn đoàn đã đứng lên cầm đầu phong trào, đả phá những tập tục cổ truyền, thì đó cũng là phong trào duy tân, tuy nhiên khác với phong trào duy tân cách mạng của thời Phan-bội-Châu, phong trào cải cách của thế hệ 1932-1945 làm lũng đoạn ý thức đạo học cổ truyền của Đông-phương, gây mầm chống đối giữa những lớp người tiêm nhiễm hai nền văn minh Đông-Tây, còn phong trào duy tân cách mạng, tuy vẫn hô hào cải cách, song lôi cuốn được cả một số lớn sĩ phu, cũng như đông đảo lớp người trẻ tham gia mà không có sự chống đối nào cả.
Tại sao lại có sự lạ lùng như vậy ? Nếu văn minh Tây-phương tràn vào Á-đông, đánh thức tinh thần thủ cựu của những thức giả đương thời, gây một luồng gió mới trong ý thức hệ, lẽ ra sự chống đối phải xảy ra ngay lúc đó, nhưng trái lại, mãi đến thế hệ 1932-1945, người ta mới thấy xảy ra phong trào chống đối. Trạng thái ấy không phải không có nguyên nhân.
Sở dĩ phong trào duy tân cách mạng hô hào đổi mới nếp sống của dân tộc, mà không bị chống đối là phong trào này vẫn đứng trên ý thức đạo học Đông-phương để cải tiến sinh hoạt. Đổi mới của phong trào duy tân cách mạng có nghĩa là tiếp nhận nền văn minh khoa học dung hợp trong tinh thần đạo học để cải tiến nếp sinh hoạt cho hợp với trào lưu. Còn phong trào cải cách của thế hệ 1932-1945 do nhóm Tự lực văn đoàn chủ trương sở dĩ bị chống đối là vì phong trào này chối bỏ hoàn toàn ý thức đạo học. Tinh thần đổi mới ấy phục vụ cho cái văn minh vật chất, trái với truyền thống đạo học Đông-phương.
Chúng tôi chưa có dịp để chứng minh sự khác biệt giữa hai phong trào bằng ý thức và hành động cụ thể. Tuy nhiên, với mục đích khảo sát tinh thần đạo học và khoa học trong đề mục nầy, chúng ta có thể đem một vài sự việc đại để làm tiêu biểu.
Ví dụ, phong trào duy tân cách mạng, các lãnh tụ phong trào vẫn hô hào dân chúng hớt tóc ngắn, mặc đồ ngắn để cải tiến nếp sống xã hội cho gọn ghẽ, tiện lợi. Sự hô hào ấy biểu lộ qua những bài vè như sau :
« Vè cúp tóc »
Cúp hề, cúp hề !
Tay mặt cầm kéo,
Tay trái cầm lược,
Cúp hề, cúp hề !
Đủng đỉnh cho khéo,
Bỏ cái ngu mày,
Bỏ cái dại mày,
Học theo người Tây,
(Nếu) Hãy còn ăn mặn,
Hãy còn nói láo,
Phen này ta cúp,
Phen sau ta cạo.
Tuy thế, từ lớp sĩ phu đến lớp người trẻ ai ai cũng nao nức làm theo, sự chống đối không vì việc đổi mới ấy mà tạo thành sóng gió trong ý thức hệ.
Còn đối với phong trào cải cách của thế hệ 1932-1945, cũng hô hào hớt tóc ngắn, mặc áo tân thời, lại bị nhiều người chống đối. Bởi vì phong trào duy tân cách mạng hô hào đổi mới là để đưa dân tộc đến chỗ tự lực tự cường trong nếp sống đạo lý ; còn phong trào cải cách của thế hệ 1932-1945 là phong trào đổi mới theo thẩm mỹ của nền văn minh vật chất. Những kiểu áo mới, những mái tóc đẹp của phong trào 1932-1945 đã nói lên chiều hướng xa rời ý thức đạo học của nó.
Tóm lại, dù với phong trào duy tân, hay cải cách, hiện tượng thất bại của nền đạo học Đông-phương cũng đã bắt đầu nổi dậy. Chúng tôi vạch đôi nét khác biệt của hai phong trào trên đây là để chứng minh những thất bại ấy, và cũng để xác định rằng, thời kỳ duy tân cách mạng, ý thức đạo học chưa bị tổn thương mấy, mãi đến phong trào cải cách của thế hệ 1932-1945, do nhóm Tự lực văn đoàn gây nên, ý thức đạo học mới sụp đổ.
« Say, tỉnh, đục, trong »
Khuất-Nguyên làm quan đại phu cho đời Hoài-vương nước Sở, bị kẻ sàm báng mà phải phóng khí. Mặt mũi tiều tụy, hình dong khô héo, Khuất-Nguyên vừa đi vừa hát trên bờ đầm.
Có ông lão đánh cá trông thấy hỏi rằng : « Ông có phải là Tam-lư đại phu đấy không ? Sao mà đến nỗi khốn khổ như vậy ? »
Khuất-Nguyên nói : « Cả đời đục cả, một mình ta trong ; mọi người say cả, một mình ta tỉnh ; bởi vậy nên ta phải phóng khí ».
Ông lão đánh cá nói : « Thánh nhân có câu nệ việc gì, lại hay tùy thời. Có phải cả đời đục cả, sao ông không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục một thể ; loài người say cả, sao ông không ăn cả men, húp cả bã cho say một thể ? Việc gì mà phải lo xa, nghĩ sâu, để cho đến nỗi phải phóng khí ? »
Khuất-Nguyên nói : « Tôi nghe : mới gội đầu tất phải chải mũ ; mới tắm ra tất phải thay áo ; có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch mà để cho vật dơ bẩn dính vào mình được ? Chẳng thà nhảy xuống sông Tương, vùi xác vào trong bụng cá, chớ sao đang trắng lôm lốp, lại chịu để dấy phải bụi dơ ».
Ông lão đánh cá nghe nói, tủm tỉm cười, quay chèo bơi đi, rồi hát rằng :
Sông Tương nước chảy trong veo,
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta ;
Sông Tương nước đục phù sa,
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.
Hát xong, đi thẳng không nói gì nữa.
(Khuất-Nguyên – trích Cổ học tinh hoa)
« Vợ lẽ phải đòn »
Xưa có người đi làm quan xa. Vợ ở nhà có ngoại tình ; ít lâu có tin người chồng sắp về, đứa gian phu lấy làm lo. Đứa gian phụ bảo rằng : « Không việc gì mà lo. Tôi đã làm sẵn thứ rượu thuốc để đãi nó đây rồi ».
Hai hôm sau chồng về tới nhà, đang khi chuyện trò vui vẻ, người vợ sai người thiếp rót chén rượu dưng chồng, bảo cố mời uống. Người thiếp biết rõ chén rượu ấy có thuốc độc, nghĩ trong bụng rằng : « Ta mà dưng chén rượu này thì ta là người giết chồng ; ta mà nói ra, thì ta lại làm cho vợ cả ghét ta ». Bèn giả cách ngã, làm cho chén rượu đổ xuống đất.
Chồng thấy vậy giận lắm, đánh cho người thiếp mấy chục roi. Than ôi ! người thiếp này đánh đổ chén rượu, phần thì làm cho chồng được còn sống, phần thì làm cho vợ cả được khỏi tội. Trung tín đến mức như thế mà chẳng khỏi đòn mà phải chịu tội. (Chiến quốc sách – trích Cổ học tinh hoa)
« Đọc sách cổ »
Vua Hoàn-công đọc sách ở nhà trên, có người thợ mộc đang đẽo bánh xe ở nhà dưới, nghe tiếng học, bỏ chàng, đục chạy lên thưa với vua rằng : « Cả dám hỏi nhà vua học những câu gì thế ? »
Hoàn-công nói : « Những câu của Thánh-nhân ».
- Thánh nhân hiện nay còn sống không ?
- Đã chết rồi.
- Thế thì những câu nhà vua học chỉ là những tao phách của cổ nhân đấy thôi.
À, anh thợ ! Ta đang đọc sách, sao dám được nghị luận ? Hễ nói có lý thì ta tha, không có lý thì ta bắt tội.
Người thợ mộc nói : « Tôi đây cứ lấy việc tôi làm mà suy xét, khi đẽo cái bánh xe, để rộng thì mộng cho vào dễ, nhưng không chặt ; để hẹp thì mộng cho vào khó, và không ăn. Còn làm không rộng, không hẹp, vừa vặn đúng mực, thì thật tự tâm tôi liệu mà nẩy ra tay tôi làm, như đã có cái phép nhất định, chớ miệng tôi không thể nói ra được. Cái khéo ấy tôi không thể dạy cho con tôi, con tôi cũng không thể học được tôi. Bởi thế tôi năm nay đã bảy mươi tuổi mà vẫn giữ nghề đẽo bánh xe ».
Người đời cổ đã chết thì cái hay của người đời cổ khó truyền lại được, tưởng cũng đã chết cả rồi. Thế thì những câu nhà vua học thật chỉ là những tao phách của cổ nhân mà thôi. Vua cho người thợ mộc nói là phải. (Trang-tử – trích Cổ học tinh hoa)
« Ác ngầm »
Vua Ngụy đem một người con gái đẹp dâng vua Kinh. Vua Kinh lấy làm thích thú và yêu lắm. Phu nhân là Trịnh-Tụ biết thế, chính mình cũng yêu mến người con gái, có khi lại yêu mến hơn vua. Người con gái ấy muốn ăn mặc, chơi bời gì phu nhân cũng đều sắm sửa cho đủ cả.
Vua khen : « Phu nhân biết ta yêu mến tân nhân, mà đem lòng yêu mến tân nhân quá ta, thật có khác nào như người con có hiếu thờ cha mẹ, người bầy tôi trung thờ vua vậy ».
Phu nhân đã chắc bụng vua không ngờ mình là người ghen, nhân dịp mới bảo tân nhân rằng : « Vua yêu mến nhà ngươi lắm, nhưng ghét cái mũi ngươi. Giá từ nay, hễ người trông thấy vua, ngươi cứ che lấy cái mũi đi, thì vua yêu mến được mãi đấy ».
Tân nhân theo lời, từ đó mỗi khi trông thấy vua, là che ngay mũi lại. Vua thấy thế, bảo với phu nhân rằng : « Tân nhân trông thấy ta mà cứ che mũi là ý làm sao ? »
Phu nhân trước thưa : « Tôi không được rõ ».
Đợi vua cưỡng hỏi nữa, mới thưa rằng : « Tôi nghe đâu như tân nhân có nói hơi vua khí nặng, lấy làm khó chịu ».
Vua phát giận bảo : « À, nếu thế thì xẻo mũi nó đi ».
Vua vừa nói đoạn, thì một viên quan hầu cầm dao ra xẻo ngay mũi tân nhân. Vì phu nhân đã dặn một viên quan hầu đứng chực sẵn đấy trước, hễ thấy vua phán gì, là làm ngay lập tức. (Hàn-Phi-Tử – trích Cổ học tinh hoa)
« Lời nói kẻ bắt rắn »
Ở Vĩnh-châu có giống rắn lạ, thân đen, vằn trắng, chạm vào cây cỏ, thì cây cỏ chết, cắn phải người, thì không thuốc gì chữa nổi. Song mà bắt được giống rắn ấy dùng làm thuốc để chữa những bệnh như bệnh trúng phong, bệnh co quắp chân tay, lại sát được cả trùng. Cho nên nhà vua có lệ bắt dân gian mỗi năm phải hiến hai con rắn ấy để dành. Ai bắt được rắn thì được trừ thuế ruộng.
Người châu Vịnh tranh nhau mà làm nghề bắt rắn. Có nhà họ Tương cũng làm nghề ấy đã được ba đời. Hỏi ra thì nhà họ Tương nói : « Ông tôi chết về nghề bắt rắn, cha tôi cũng chết về nghề bắt rắn. Tôi nối nghề ông cha tôi mới có mười hai năm, cũng đã mấy lần suýt chết ». Người ấy nói, vẻ mặt rất buồn rầu.
Ta thương và hỏi rằng : « Nhà ngươi có thật cho nghề bắt rắn là khổ không ? Ta sẽ nói với quan trên cho nhà ngươi bỏ nghề ấy mà cứ nộp thuế ruộng như thường. Nhà ngươi tính thế nào ? »
Người họ Tương vừa khóc, vừa nói : « Ông thương tôi, muốn cho tôi sống thì ông để cho tôi làm nghề bắt rắn còn hơn. Nếu tôi không làm nghề thì tôi khốn khổ đã lâu rồi. Nhà tôi ba đời ở làng kể đã hơn sáu mươi năm, cách sinh nhai trong làng mỗi ngày một quẫn bách. Người làng phải rút hết cả lợi hoa mầu, vét hết cả của cải trong nhà để mà nộp thuế hết, thậm chí bỏ làng, bỏ xóm, đói khát, trôi giạt, chết đường, chết chợ kể bao nhiêu người. Những người vào trạc tuổi ông tôi, mười nhà không còn một. Những người vào trạc tuổi cha tôi, mười nhà còn độ hai, ba. Những người vào trạc tuổi tôi, mười nhà còn độ bốn, năm. Không chết chóc thì lưu lạc cả… Tôi nhờ nghề bắt rắn mà còn đến bây giờ. Những quan lại tàn ác về làm thuế làng tôi, xúc lúa hết đầu làng, cuối xóm, vơ vét đến cả con gà, con chó, dân gian phải hãi hùng kinh sợ. Những lúc ấy, về phần tôi được yên lặng, trông trong giỏ con rắn vẫn còn là tôi được ăn no, ngủ yên. Tôi làm nghề bắt rắn một năm sợ chết chỉ có hai lần, ngoài ra là vui vẻ, không phải lo thuế má, không đến nỗi như người làng xóm tôi hết ngày này, sang tháng khác khốn khổ về quan lại tàn ác. Giá tôi có chết về nghề bắt rắn, ví với người làng xóm, tôi cũng đã là chậm, đâu dám cho là rắn độc mà xin thôi. Ta nghe câu chuyện, lại càng thương lắm. Xưa Đức Khổng-Tử nói : « Chính sách hà khắc độc hơn hổ dữ », ta vẫn ngờ, bây giờ xem chuyện họ Tương mới cho là thật. Than ôi ! cái độc quan lại tàn ác làm thuế ở dân gian dữ hơn rắn độc, cho nên nói ra đây để người xem xét phong tục thấu được tình cảnh đau khổ của dân ». (Liễu-Tôn-Nguyên – trích Cổ học tinh hoa)
- Sự thành công của khoa học -
Không cần phải chứng minh, cho đến ngày nay thế hệ chúng ta đã trông thấy tận mắt những vệ tinh không gian đưa người lên mặt trăng và trở về quả đất. Cả nhân loại không ai còn có thể phủ nhận công trình tiến bộ của khoa học được.
Thời gian, không gian như lệ thuộc vào bộ óc con người. Chúng ta bàn đến những thành công của khoa học ở đây là chuyện thừa.
Tuy nhiên, có một điều chúng ta cần phải xét lại. Do yếu tố nào đã thúc đẩy công trình khoa học tiến triển một cách nhanh chóng như vậy, trong lúc đạo học vẫn trầm lặng trong cuộc sống con người ?
Nếu chúng ta đã thừa nhận nền văn minh khoa học là một nền văn minh vật chất, cấu tạo trên căn bản hưởng thụ, thì chúng ta cũng chẳng lấy gì làm lạ. Khả năng hưởng thụ trong con người bao giờ cũng phát triển mạnh hơn khả năng kềm hãm. Cho nên, khi khả năng hưởng thụ được phát huy, mọi ý thức cạnh tranh và phát triển khoa học dễ bành trướng để đáp ứng những cung cầu vật chất của loài người.
Còn đạo học, khi căn bản cấu tạo trên tính chất kềm hãm, dĩ nhiên ý thức tranh đua cá nhân không nẩy nở mấy, và cuộc sống mỗi ngày một trầm lặng hơn.
Trong một bài bình luận ở báo Nam phong, ông Phạm-Quỳnh đã ý thức rằng : « Khoa học luôn luôn đi tìm những mới lạ, còn đạo học một lời nói, một nửa câu đem ra áp dụng một đời chưa chắc đã làm xong ».
Lời bình luận trên đây chính ông Phạm-Quỳnh cũng đã thấy rõ tính chất căn bản của hai nền văn minh đạo học và khoa học rồi. Bởi vậy sự thành công của khoa học là sự thành công của ý thức tranh đua trong phạm vi cung cầu vật chất.
Sự thành công ấy đã dẫn loài người vào một ngả rẽ, khống chế cả cuộc sống tinh thần.
Ai cũng tưởng khoa học càng tiến bộ, thì cuộc sống con người càng thoải mái, vì có đủ phương tiện phục vụ cho lẽ sống. Mà đó cũng là nguồn hạnh phúc. Tuy nhiên, khi khoa học tiến bộ đến tuyệt đỉnh thì con người lại không thể giải quyết những nhu cầu của mình, và chính cuộc sống vật chất ấy càng văn minh tân tiến càng làm cho con người nghi ngờ lẽ sống của họ.
Những thắc mắc, hằn học, rên than, sầu muộn không phát sinh ở thế giới đạo học bằng thế giới khoa học. Và cũng chỉ trong thế giới đạo học, tâm hồn con người mới cảm thấy mình bị đau đớn, thiếu thốn, ê chề. Phải chăng đó là một thất bại của khoa học ?
« Vô tuyến truyền thanh và
vô tuyến truyền hình »
Người thường dân sẽ cảm thấy sung sướng hơn khi anh ta có thể trông thấy những gì mà anh ta đang nghe thấy. Vì vậy, anh đi tìm tới vô tuyến truyền hình. Trên màn ảnh của máy vô tuyến, anh ta có thể trông thấy những sự việc tin tức như là đang xảy ra. Anh ta có thể thấy những nhạc sĩ danh tiếng, xem những vở kịch hay. Anh ta có thể theo dõi một nhà chuyên môn dạy cách trồng trọt ngũ cốc một cách khéo léo hơn và săn sóc sức khỏe của anh ta như thế nào.
Tất cả những thứ đó và nhiều thứ khác nữa anh ta có thể ngồi trên ghế ở nhà mà xem thấy.
Ngay từ hồi mới xuất hiện, vô tuyến truyền hình đã phổ biến trên khắp thế giới, mỗi lục địa có hàng triệu khán giả. Tuy nhiên, không một nhà phát minh đơn độc nào lại có thể được gọi là người duy nhất sáng chế ra vô tuyến truyền hình ; chẳng phải một ông Samuel Morse, một ông Alexander Graham Bell hay Marconi. Đúng hơn, nó là sản phẩm của nhiều khối óc ở nhiều quốc gia : Đức, Pháp, Nga-sô và Mỹ.
Kỳ diệu đến nỗi có thể nhận được vừa hình ảnh vừa âm thanh cùng một lúc, vô tuyến truyền hình vẫn còn phải bị giới hạn trong không gian. Trong khi có thể gọi điện thoại dễ dàng từ Cựu-kim-sơn đến Đông-kinh, ta thấy rất khó truyền hình trực tiếp giữa hai địa điểm đó. Nhưng người ta đã bắt đầu thực hiện những hệ thống truyền hình quốc tế bằng những vệ tinh viễn thông chạy cao trên quỹ đạo chung quanh trái đất. Khán giả vô tuyến truyền hình từ Cựu-kim-sơn có thể xem được Thế-vận-hội 1964 ở Đông-kinh bằng phương tiện một vệ tinh viễn thông tên là Syncom. (G.s. Trần-hữu-Tắc)
« Giá trị của khoa học »
Các bạn biết cách đây vài tỷ năm, con người sống trên quả đất này ra sao và bây giờ họ ra sao. Cô lập giữa một tạo hóa mà tất cả là huyền bí đối với họ, sợ hãi trước mỗi hiện tượng bất ngờ của những quyền lực lạ lùng khó hiểu, họ không tài nào hiểu được những biến chuyển của tạo hóa một cách khác hơn là do sự bất định, họ quy những hiện tượng ấy vào hành động của vô số thần linh kỳ dị và khó tính.
Ngày nay chúng ta không khẩn cầu tạo hóa nữa ; ta sai khiến được tạo hóa vì lẽ ta đã khám phá một vài bí ẩn của nó, và mỗi ngày lại khám phá nhiều điều bí ẩn mới. Ta sai khiến được tạo hóa vì ta dựa trên những định luật tạo hóa không thể khước từ được, vì chính là những định luật của nó. Chúng ta không ngông cuồng đòi hỏi những định luật ấy phải thay đổi. Ta là những người đầu tiên phải chịu tuân theo. (Henri Poincaré – Nguyễn-thanh-Trừng dịch)
« Tiến triển trong khoa mổ xẻ »
Trong những dạo vừa qua, thỉnh thoảng báo chí cho đăng lên trang đầu những tin mới lạ về ngành giải phẫu. Chẳng hạn một bác sĩ Nga đã ghép được một quả tim vào cơ thể chó. Chẳng hạn máy quay phim và máy chụp hình màu đã được dùng để khảo sát óc não. Ngoài ra còn biết bao điều khám phá mới lạ khác không được ra mắt công chúng. Trong khoảng ba, bốn năm gần đây, tiến triển trong khoa giải phẫu thật là lớn lao…
… Bây giờ mổ tim mổ não là chuyện hằng ngày. Ở Âu-Mỹ, trong một bệnh viện chuyên về tim, người ta mổ mỗi tuần lễ từ 10 đến 16 bệnh nhân. Bên ngành thần kinh thủ thuật cũng vậy, những bệnh nhân có sủng phù hay mắc động kinh, nối tiếp nhau trên bàn mổ. Nếu cuộc mổ không có gì mới lạ, đáng để ý là kỹ thuật mổ, trình độ vững vàng đã đạt được.
…Những chi tiết về các khám phá mới lạ trong thuật mổ xẻ còn nhiều nữa. Với những căn bản vững chắc, tiến triển trong những năm sau này còn tăng lên gấp bội. Trong địa hạt tâm học, người ta mong muốn một ngày nào gần đây thay thế được quả tim yếu ớt hay hư hỏng. (Võ quang Yến – trong Nói chuyện khoa học)
« Sự ích lợi của khoa học »
Mỗi phát kiến của trí óc loài người tương xứng với một tiến bộ về luân lý, một tiến bộ về nhân cách cho mọi người. Thời thượng cổ, cách thức kéo xe là cả một sự giản dị kinh hãi : hàng trăm người bị buộc vào xe, mang một sợi dây cột cổ, cố kéo với toàn sức của các bắp thịt. Không có máy xay bằng sức nước hay sức gió, người ta xay lúa với sức mạnh của cánh tay. Kéo cối xay đồng nghĩa với hình phạt độc ác nhất.
Những cuộc nghiên cứu khoa học, bề ngoài có vẻ chỉ dành riêng cho một thiểu số, nhưng kỳ thật là mẹ đẻ của những phát kiến mà mọi người đều được hưởng lợi ích. Thật là có lợi cho dân chúng khi có những nhà bác học nghiên cứu để mở mang tầm hiểu biết của con người.
Một thế giới không khoa học là thế giới nô lệ, là thế giới của người kéo máy xay, lệ thuộc vào vật giới, đồng hóa với súc vật. Thế giới được khoa học cải tiến sẽ là nơi ngự trị của trí tuệ, là triều đại của con người tự do.
Chúng ta hãy đoàn kết trong kỳ vọng ấy. Niềm tin vào sự tiến bộ là nguồn an ủi lớn của những ai học hỏi và tranh đấu cho ngày mai. (Theo Ernest Renan – G.s. Nguyễn-thanh-Trừng dịch)
« Vài chi tiết đáng ghi về
sự thành công tối hậu
của khoa học hiện đại »
Từ chiếc nguyệt xa Eagle (Phượng Hoàng), phi hành gia Neil Alden Armstrong đặt chân xuống mặt nguyệt cầu hồi 2 giờ 56, giờ quốc tế, ngày 21-7-1969 ; ông tuyên bố : « Đây là bước chân nhỏ bé của con người, nhưng là một bước tiến nhảy vọt vĩ đại của nhân loại ».
Sứ mạng Apollo 11 đã để lại trên nguyệt cầu một quốc kỳ Mỹ, các bức thông điệp của các vị nguyên thủ của 73 quốc gia, và một tấm bảng có ghi hàng chữ : « Nơi đây những con người từ hành tinh Địa-cầu lần đầu tiên đặt chân lên nguyệt cầu, tháng 7-1969 Tây-lịch. Chúng tôi tới với thiện chí hòa bình của nhân loại ». (Walter Iroehlich – trích Nguyệt cầu và xa hơn nữa).
Trong chuyến du hành nguyệt cầu, các phi hành gia Armstrong và Aldrin đều mang theo các máy móc dụng cụ cho ba cuộc trắc nghiệm khoa học. Aldrin đặt máy trắc nghiệm gió mặt trời – một tấm kim khí bằng nhôm cuộn lại để thu hút hơi khí từ mặt trời phát ra. Trước khi rời nguyệt cầu, tấm nhôm được đặt vào trong một cái hộp chân không đem về địa cầu để phân chất. Các khoa học gia hy vọng cuộc trắc nghiệm này sẽ giúp con người thấu đáo về phương thức mặt trời và các hành tinh đã được cấu tạo ra sao. Hai dụng cụ trắc nghiệm khác được để lại trên mặt nguyệt cầu, đã cung cấp nhiều tin tức hữu ích. Một máy nguyệt chấn, phúc trình về những sự rung chuyển gây ra do các vẩn thiết rơi xuống hoặc hỏa diệm sơn đang phun lửa. Máy thứ hai là tấm phản quan tia sáng Laser, dội một tia sáng trực tiếp thẳng xuống địa cầu. Từ tia sáng đó, các khoa học gia trắc lượng khoảng cách chính xác giữa địa cầu và nguyệt cầu. (Trích Nguyệt cầu và xa hơn nữa).
Những thất bại của khoa học -

Chúng tôi xin trích ra đây một vài đoạn văn tiêu biểu những vết tích của tâm hồn hiện đang sống trong thế hệ mà khoa học đã cung ứng cho loài người đầy đủ những tiện nghi ưu tú : « …Cho anh một lần cuối cùng em bước lại con đường tình sử, nghe em. Dù bằng tưởng tượng của riêng anh, dù không có em bằng xương bằng thịt, anh cũng cảm thấy mình chưa một lần bị « đá », con tim chưa một lần bị rỉ máu, anh chưa thể nhìn những người con gái bằng tia mắt hận thù, cuộc tình vẫn còn nhiều đam mê, quyến rủ, ước vọng vẫn còn cao ngút mãi. Anh sẵn sàng là con người của tình si trọn nghĩa. Xin hãy cùng anh bước vào thế giới yêu thương. Ở đó không hận thù, không có những cảnh bất công, không có uy quyền mà chỉ có tình yêu và những kẻ đam mê. Khung trời trước mặt không có ngày, mà cũng chẳng có đêm, không có mặt trời, cũng không có mặt trăng, chỉ có khóe mắt, nếp môi, điệu cười, tiếng nói ngọt mềm hương yêu. Chỉ có hai sinh vật khác giống mới biết buồn khổ, sung sướng, chuyền sức sống cho nhau, từng hơi thở ngụp lặn trong hơi thở, cùng một nhịp tim. Xin cho anh một lần khơi lại đống tro tàn nguội lạnh đã vùi chôn đi bao nhiêu thương nhớ, ngỡ ngàng, buồn khổ. Xin cho anh một đôi môi cười, bóng dáng thương yêu, lời yêu đương, âu yếm, ngọt ngào dĩ vãng không chua xót mặn nồng. Anh chỉ xin em một lần thôi… Một lần đã quá đủ, một lần đã quá đủ phải không em… Thời gian, thời gian là liều thuốc thần hiệu nhất để chữa những vết thương lòng, bây giờ anh mới nhìn nhận là đúng. Ai mà cầm lòng đậu, ai mà không nghe một thoáng buồn len lỏi vào hồn mình, một nỗi nhớ thương dấy lên, một niềm xúc động dâng trào thành những giọt lệ đọng quanh mi. Làm sao không buồn phiền cho được. Như từng khối băng nhỏ giọt thánh thót vào lòng… » (Hải-Thu-Vân – trích trong Nhật báo Công-luận số 717 ngày 18-5-70)
Chúng ta đừng tưởng trên đây là những dòng tâm tư say sưa của kẻ đang hưởng thụ. Không, nó biểu hiện một trạng thái trốn chạy trước cuộc sống sa đọa của thế giới vật chất. Dục vọng không làm họ say sưa, mà chính họ phải nhờ vào say sưa dục vọng để chôn lấp những bất bình, hằn học trong cuộc sống loài người, khi mà ánh sáng văn minh khoa học đang chế ngự xã hội.
Con người luôn luôn đòi hỏi và tìm đến hưởng thụ, nhưng khi hưởng thụ, con người lại cảm thấy cuộc sống vô vị, không có ý nghĩa gì cả.
Cho nên, các nhà đạo học đã dùng ý nghĩa chữ « đức » để chống đối trạng thái hưởng thụ ấy : « Đức là gì ? Các cổ thư giảng rằng :
« Đức, đắc dã » (Đức là cái điều mình được). Nhưng được cái gì. Chu-Mục đời Hậu-Hán cắt nghĩa : « Đắc kỳ thiện tính vi chi đức » (được thiện tính gọi là đức). Cái nghĩa dùng trong chữ « đức » của các nhà đạo học Đông-phương nên hiểu với tính cách tuyệt đối lý tưởng hóa. Đời sống chẳng có cái gì gọi là « được » cả, bởi vì rồi ra cũng dẫn đến cái chết. Tiền tài hay hết thảy mọi thứ làm thỏa mãn cho dục vọng giác quan, khi đã tới gần sự chết thì cũng chỉ là không. Vậy thì ở đời thế nào mới gọi là mình đã được ? Mạnh-tử nói : « Con người đến với thế giới, mở mắt ra nhìn năm màu bảy sắc, mê loạn, cho nên trước cần phải biết ta được cái gì, mà không được cái gì ? Nhiều kẻ cứ tưởng phải lấy bên ngoài mới gọi là được, vì thế kẻ ấy không chịu cho bao giờ. Thiên hướng về dục vọng giác quan nên ham lấy, càng ham lấy thì càng làm hẹp cái vòng sống của mình để rồi tiêu tan vào sự chết. Chỉ có những người biết cho nhiều, mở rộng cái vọng sống của mình vô tận thì mới mong bất diệt được ».
Quan niệm trên đây của đạo học trái ngược với chủ trương hưởng thụ của nền văn minh khoa học, mà cho đến ngày nay, phải chăng những mầm thất bại của cuộc sống trong ánh sáng khoa học lại do đó mà nẩy sinh.
Thế hệ chúng ta hiện đang nghi ngờ, và đang xét lại hai tính chất căn bản trên để đi tìm lẽ sống.
Nhưng dù sao, nếu nền văn minh đạo học từ trước đã phô bày những nứt rạn trong ý thức phục vụ lẽ sống thì nền văn minh khoa học ngày nay cũng lại biểu lộ những trạng thái bế tắc của tâm hồn.
Đây, chúng ta thử tìm hiểu một vài vết tích hiện đang cày nát tâm tư con người trong ánh sáng khoa học. Cõi lòng của họ đang thổn thức vì sự mất mát những hình ảnh tươi đẹp như ngày vàng của dĩ vãng. Một cây đa, một mái đình còn biết có đứng yên chăng qua những cơn sốt vì dục vọng con người :
Cây đa còn đứng đầu đình,
Bàn tay năm ngón anh đây,
Xin mời em nắm cho ngây ngất tình,
Cho nắng ấm, cho hoa xinh,
Cho vơi tủi hận, cho trinh trắng lòng.
Bao giờ suối bạc mây trong,
Bao giờ xóm nhỏ hết đong đưa sầu,
Bao giờ thoáng hiện bồ câu,
Bao giờ gãy cánh diều hâu đâu người ?…
Rằng thương rằng quí mười mươi,
Thì sao tiếng khóc sụt sùi trống canh.
Rằng cho hoa ngát hương lành,
Thì sao cỏ cháy trơ cành thế kia !…
Sao em nước mắt đầm đìa,
Cải vàng sao héo cho thia thia buồn.
Sao chim vỡ tổ xa nguồn,
Và sao tiếng gió nghe tuồng thở than ?…
Đã chung huyết thống da vàng,
Xin đừng thêm chuyện tương tàn hôm nay.
Đã chung bọc trứng trăm đầy,
Xin đừng vẽ chuyện cho đây đó buồn.
Này em mắt thắm môi hường,
Quê mình thế đó đoạn trường không em ?
Đừng vì chăn nệm ấm êm,
Mà quên « máu chảy ruột mềm » đấy nhe !
« Gió đưa bụi chuối sau hè »,
Ai khơi lửa hận cho me héo gầy.
Chiều chiều gió thổi hiên tây,
Chạnh nghe bên nớ, bên này đớn đau.
Đói lòng ăn bát canh rau,
Uống lưng bát nước cho nhau trọn tình.
Cây đa còn đứng đầu đình,
Việt-nam còn mãi chuyện tình đông phương.
Thôi em chớ có lăng loàn,
Mà quên đi chuyện cải vàng năm xưa.
Quê mình ruộng lúa hai mùa,
Quả rau bốn bận kém thua tí nào !
Má em xin chín hồng đào,
Môi em xin ngọt cho cao cánh diều.
Thương nhau kể chuyện nhiễu điều,
Máu hồng một giọt hơn nhiều nước ao.
Đêm nằm ngửa mặt đếm sao,
Càng nhiều ông sáng, càng cao ngất tình.
Cầu xin nhụy thắm, Hương-bình,
Sen lên chóp Ngự, chày kình điểm khuya.
Chiều nay rồi lại chiều kia,
Ôm tròn cay đắng, biết chia ai chừ !…
Quê hương khói lửa mịt mù,
Bởi ai ? ai biết ? nhớ thu lại buồn.
Hai mươi năm lẻ đoạn trường,
Hai mươi năm lẻ tang thương phủ đầy.
Tình quê gởi trọn chút này,
Mời Trung-Nam-Bắc về đây sưởi lòng.
(Thơ Hoàng-Thoại-Châu)
Và đây là tâm tư thầm kín nay được phơi bày khi nhận định được mức tiến của khoa học rồi nhìn về tương lai của kiếp người : « Lửa khói 20 »
- Thẫn thờ trong bệnh xá
Từng bước chân rã rời
Bạn bè xa vạn ngả
Tâm sự với ai đây ?
- Vết thương chân hành hạ
Ray rức suốt ngày đêm
Óc tim ai hành hạ
Hay máu chảy ruột mềm ?
- Cùng một trời Đông-Á
Người giết người gớm ghê !…
Cũng là dân Việt cả
Sao oán hận lê thê…
- Chiến tranh vẫn còn đó
Thân thể tôi còn đây
Mai còn đi chiến đấu
Khi vết thương lành rồi.
- Ôi ! con đường chinh chiến
Mịt mờ bóng vinh quang
Tôi đi tìm lý tưởng
Trên những cảnh điêu tàn.
- Trên những lời ta thán
Trong miệng đời kẽm gai
Những ngôn từ bom đạn
Chỉ tôi tìm tương lai…
- Qua lại hành lang trắng
Bắt đầu những thân người
Đui mù hay què quặt
Hốt nhiên tôi thét cười.
- Nụ cười đầy xương xẩu
Sặc sụa những máu tươi
Niềm đau này ai thấu
Ôi ! Lửa khói 20 !
(Trần-lãng-Lữ – trích Nhật báo Công-Luận
Số 719, 20-5-70)
Lại nữa : « Chuyện quanh một người chết »
Qua cơn sốt, tao như người điên dại,
Khi cười ran, khi nức nở ngậm ngùi.
Chiến tranh dài đau thương còn đeo mãi,
Tuổi ngọc ngà, ngày tháng đã chôn vùi.
Sáng ngủ dậy tao được tin mày chết,
Vết đạn cày trên mái tóc còn xanh.
Gói thuốc mày cho hôm qua chưa hết,
Tao chợt cười, nghe mày ngủ quá nhanh.
Đứa con gái mày quen ngày nghỉ phép,
Đã lấy chồng đi lính tận Cao-nguyên.
Tao về báo tin, nàng cười sắt thép,
Rêu rao chuyện trò cuộc đời thật xinh.
Đứa em trai mày vẫn thường nhắc nhở,
Tàn phế hình hài !… Cuộc chiến điêu linh.
Trên đường đến trường, trái mìn chợt nổ,
Hắn đã khóc cười trong ánh nắng bình minh.
Quê hương này bao giờ qua giông tố,
Hết kẻ đi thương kẻ ở nhà.
Ba mày đó vẫn đi bằng cẳng gỗ,
Mẹ mày được tin mắt vẫn mù lòa.
Cơn nhức nhối ẩn mình trong thể xác,
Bỗng bùng lên hành hạ xác thân gầy.
Cơn trốt xoáy, mày ngủ ngoài trận mạc,
Đằng đẳng ngàn năm chinh chiến còn đây.
(Lê viết Ánh – trích Nhật báo Công-luận
Số 717, ngày 18-5-70)
« Có phải tiến bộ là ảo ảnh »
Xã hội không bao giờ tiến cả. Xã hội lùi lại một mặt cũng mau như là xã hội tiến về mặt khác. Xã hội trải qua những thay đổi liên tục : xã hội man rợ, xã hội văn minh, xã hội được biến cải theo đạo Cơ-đốc, xã hội giàu có, xã hội có tính cách khoa học ; nhưng sự thay đổi này không phải là sự cải tiến. Đối với vật được cho đi thì lại lấy lại vật khác. Xã hội thâu thái được những nghệ thuật mới và mất đi tất cả những bản năng cũ. Một sự tương phản biết mấy giữa một người Mỹ ăn mặc chỉnh tề, biết đọc, biết viết, biết suy tư với một cái đồng hồ, một cái bút chì, và một hối phiếu ở trong túi và một người Tân-tây-lan trần truồng mà tài sản là một cái gậy ngắn, một cái lao, một cái chiếu và nguyên một phần hai mươi cái chuồng bò để ngủ ở dưới ! Nhưng hãy so sánh sức khỏe của hai người đó và các bạn sẽ thấy rằng người da trắng đã mất cái sức mạnh xưa kia. Nếu điều mà du khách nói cho chúng ta nghe đúng, anh hãy đánh người mọi rợ bằng một rìu lớn và trong một hay hai ngày thịt người đó sẽ liền lại và khỏi hẳn dường như anh đã đánh cú đánh vào lớp hắc ín mềm và cũng cú đánh đó sẽ đưa người da trắng tới ngôi mộ của anh ta.
Người văn minh đã chế tạo một cái xe hơi, nhưng đã mất sự sử dụng cặp chân của mình. Anh ta được chống đỡ của cặp nạng, nhưng thiếu quá nhiều sự chống đỡ của bắp thịt. Anh ta có một chiếc đồng hồ đẹp chế tạo tại Geneva, nhưng anh ta thiếu hẳn cái tài nói giờ giấc theo mặt trời. Anh ta có một cuốn lịch hàng hải ấn định ngày giờ theo đài thiên văn Greenwich, và quá chắc chắn về tin tức khi anh ta muốn có, nên người công dân kiểu mẫu không biết tới một ngôi sao trên bầu trời. (Ralph Woldo Emerson, an American writer – G.s. Nguyễn văn Ngải dịch)
« Đại sư Vivekananda (Ấn-độ) nói »
Ta hãy lấy thí dụ một người sống ở trong rừng, y không biết trau giồi tâm tâm trí, không thể đọc một quyển sách, chưa từng nghe nói đến « viết chữ » là gì. Nếu y có bị thương nặng thì y sẽ lành mạnh trở lại qua một thời gian rất ngắn trong khi chúng ta chết vì một vết trầy trụa. Máy móc đang làm cho vật giá rẻ, giúp cho sự tiến bộ và tiến hóa, nhưng hàng triệu người bị nghiền nát hầu cho một người được làm giàu. Khi một người làm giàu thì đồng thời cả ngàn người khác sẽ nghèo thêm và hàng khối người bị làm nô lệ. Và cứ tiếp tục như thế đó.
Con người trình độ thấp kém sống bằng giác quan. Nếu y không có đủ ăn thì y khốn khổ, hoặc nếu việc gì xảy ra đến cho thể xác y thì y đau khổ. Cả hai sự khốn khổ và hạnh phúc của y đều khởi nguyên và cáo chung trong giác quan. Khi con người đó vừa mới tiến bộ, khi hạnh phúc của y vừa mới tăng lên thì chân trời vô phúc của y cũng tăng thêm theo tỷ l ệ. Con người ở rừng không biết thế nào là ganh tị, thế nào là ra trước tòa án, trả thuế vụ và bị xã hội khiển trách… (John Yale soạn tập – Vương-gia-Hán dịch)
« Sự thiếu sót của khoa học »
Rất có thể sự bành trướng nhanh chóng của khoa học đã mở những chân trời mới cho trí tuệ chúng ta. Tuy nhiên, tất cả đều cảm thấy và rất nhiều người thú nhận rằng thực tại chưa đạt đến mức kỳ vọng của ta. Chỉ cần nhìn sơ qua thế giới, ta có thể thấy rằng một nỗi buồn vô tả đang đè nặng tâm hồn và một trống rỗng vô biên xâm chiếm lòng người. Con người đã biết khuất phục được vật chất, nhưng vật chất không cống hiến được cho họ những gì nó không có, và khoa học nhân loại chưa giải đáp được những vấn đề liên quan mật thiết đến quyền lợi thiêng liêng nhất của chúng ta ; lòng khao khát chân lý, hạnh phúc và vô cực đang dày vò chúng ta chưa được thỏa mãn. Những niềm vui, những bảo vật của thế gian, sự gia tăng những tiện lợi của đời sống, đều không thể làm lắng dịu niềm lo âu tinh thần trong tâm khảm. (S.S. Plex – G.s. Nguyễn-thanh-Trừng dịch)
« Khoa học và văn minh »
Nói cho đúng, văn minh không có hẳn nghĩa là hạnh phúc, thật vậy, có khi thay vì hưởng lợi về việc tăng hiểu biết, thường khi con người lại dùng sai những phương tiện mà một sự gắng công khoa học lâu dài đã đem lại cho họ. Nếu các máy bay chỉ dùng để thả bom các thành phố, thì máy bay là một sự khám phá tai hại. Nếu những tiến bộ của hóa học là để sản xuất ra những khí độc có thể tiêu hủy một trung đoàn trong vài phút, thì hóa học thật là một khoa học đáng phỉ nhổ.
Vậy thì, văn minh, theo nghĩa chính đáng của tiếng đó, nghĩa là một số hạnh phúc lớn hơn cho kiếp sống con người của chúng ta, không phải chỉ ở trong sự hiểu biết của sự vật và không phải cả trong việc thực dụng sự vật. Còn phải có gì hơn thế. Ấy là, nếu người ta muốn, và dù là người ta đã lạm dụng danh từ đó, một thứ nguyên tắc về đạo đức, ý niệm liên kết và hòa đồng thân ái trong nhân loại, sự tôn trọng quyền của lẽ phải.
Như vậy lời nói của chúng tôi : « Hạnh phúc của loài người tùy thuộc những tiến bộ trong sự hiểu biết (trong khoa học) » thật là tuyệt đối đúng, với điều kiện là thêm vào đó cầu sửa cần thiết, rằng hạnh phúc của loài người không phải chỉ tùy thuộc trong những tiến bộ trong sự hiểu biết.
Không có sự hiểu biết sự vật thì không có văn minh, không có cuộc sống sung sướng ; mà là cuộc sống dã man với tất cả sự khốc liệt của nó sẽ lan tràn nẩy nở. Nhưng sự hiểu biết chưa đủ, mà sự mở mang trí óc còn phải sử dụng để gây phúc chứ không phải để gây họa. (Charles Richet – G.s. Nguyễn văn Ngải, Trần việt Sơn dịch)
« Thế kỷ XX »
Có những thay đổi lớn lao trong cuộc sống : khung cảnh và điều kiện của con người trong thể kỷ hiện tại. Cách đây chưa đầy một trăm năm, nhiều việc mà ngày nay chúng ta làm trước đây được coi là không thể thực hiện được, ví dụ : đi trên máy bay ; và nhiều việc khác, như là nghe âm nhạc trên máy radio cách xa hàng ngàn dặm, chắc chắn đã được coi như không thể thực hiện được, nếu mà người ta chưa tưởng tượng tới.
Những sự cải thiện về xe hơi, đặc biệt là về đầu máy, đã làm cho xe buýt có thể chuyên chở hành khách nhanh chóng và rẻ tiền, không phải từ nhà của họ tới nơi làm việc mà còn từ miền này ở trong nước tới miền khác. Những đường xe lửa, bắt đầu có thể ở thế kỷ thứ 19, rất hữu ích, nhưng giờ đây chúng quan trọng đối với các thành phố hơn là các làng mạc. Chính xe buýt đã thực sự mang những người dân ở làng mạc và thành phố lại gần nhau.
Khoa học đã tìm ra nhiều điều. Trong số những khám phá quan trọng nhất đối với tất cả mọi người chúng ta là những thứ thuốc mới mà các bác sĩ có thể dùng khi người ta ốm đau. Nhiều bệnh tình trầm trọng, cách đây năm mươi năm người ta không sao khỏi được, giờ đây có thể được chữa khỏi hoàn toàn dễ dàng. Kết quả là có nhiều người đàn ông và đàn bà già cả hơn ở trong thế giới hiện nay. Tuy nhiên, rủi thay, sự thật là có một vài căn bệnh vẫn chưa có thể chữa khỏi được.
Nhưng những đổi thay của thế kỷ này không phải tất cả đều là những thay đổi tốt cả. Hai trân đại chiến đã mang lại đói khổ, bệnh tật, đau buồn, và chết chóc cho hàng triệu người trên khắp thế giới. Trừ phi loài người tìm cách sống với nhau trong cảnh thanh bình, nếu không họ sẽ không bao giờ có thể tận hưởng tất cả hạnh phúc mà cuộc sống cống hiến cho họ. (E.V Gatenby – G.s. Nguyễn văn Ngải dịch)
« Không thể nào quên »
Một phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày trái bom Nguyên-tử đầu tiên phá tan một thành phố ở Nhật-bản : Hiroshima, đem lại tang tóc đau thương cho hàng trăm ngàn gia đình và cũng gây một nỗi kinh hoàng ghê gớm cho toàn thể các dân tộc trên thế giới. Cơn ác mộng của nhân loại bắt đầu.
Từ đó đến nay 25 năm trôi qua, và mỗi năm đến ngày 6 tháng 8, vào lúc 8 giờ sáng, nhân dân đô thị Hiroshima (Quảng-đảo) lại ngừng hết hoạt động, giữ một phút im lặng, tưởng niệm đến những mạng người vô tội thác oan trong một trận chiến tranh khốc liệt nhất lịch sử nhân loại.
Cũng giờ phút đó, một buổi lễ long trọng được cử hành ngay tại chỗ trái bom Nguyên-tử đã nổ năm xưa và ông Thị-trưởng Hiroshima tuyên đọc diễn văn, nhắc lại thảm trạng như một thiên tai giáng xuống thành phố này vào buổi sáng tốt trời của ngày 6-8-45. Hàng chục, hàng trăm ngàn người dự lễ, cúi đầu tưởng niệm ôn lại phút hãi hùng.
Chỉ trong khoảnh khắc, ánh sáng chói lòa như muôn triệu mặt trời rớt xuống, tiếng nổ kinh thiên động địa. Một thành phố rộng lớn bằng nửa thành phố Saigon (Hiroshima năm 1945) đã trở thành hoang địa, ghê gớm thay sức tàn phá của bom Nguyên-tử. Tài giỏi thay – nhưng cũng ác độc thay – sự tiến bộ của văn minh Âu Mỹ.
Người Nhật-bản không quên. Các dân tộc khác trên thế giới cũng không quên. Nhất là dân thành phố Hiroshima không thể nào quên được. (Việt Lang Quân – Nhựt báo Đuốc Nhà Nam số 483 ngày 6-8-70)
Khả năng nguyên tử, vệ tinh nhân tạo đã phô bày mức tiến bộ nhảy vọt của khoa học, có thể vượt không gian, khám phá bí mật của vũ trụ, nhưng tại sao lại không thể đi vào cõi lòng con người để tìm hiểu tâm tư con người ?
Sự thành công và thất bại của đạo học và khoa học chính là sự khác biệt về hai lãnh vực chinh phục giữa vật chất và tinh thần.
Đạo học và khoa học đã đem đến thế giới loài người ngày nay một thành công cũng như một thất bại, tạo thành hai dòng lịch sử giữa hai nếp sống Đông-Tây.
5) Ý thức đạo học và khoa học trong giai cấp bình dân
Ở phần trên chúng ta đã lược dẫn qua tính chất và lịch sử phát triển của hai nền văn minh khoa học và đạo học. Vậy tính chất và lịch sử của hai nền văn minh ấy ảnh hưởng vào ý thức người bình dân như thế nào ?
Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến người bình dân Đông-phương, nói chung, và người bình dân Việt-nam, nói riêng.
Người bình dân Đông-phương, dù lớp người ít học, sống trong lao khổ, bị kềm hãm dưới mọi chế độ chính trịnh, và ý thức họ luôn luôn bị guồng máy sinh hoạt xã hội chi phối, tuy nhiên, họ vẫn là người Đông-phương, mang trong người một vũ trụ quan khác biệt với ý thức triết học Tây-phương, vì vậy căn bản của họ vẫn là căn bản của ý thức đạo học.
Một tiếng chim kêu, một dòng sống uốn khúc, một mầm sống đâm chồi, đối với người nông phu tự thấy mình bị ràng buộc tình cảm với cảnh vật. Sự ràng buộc ấy không phát nguồn ở dục vọng cá nhân, ở lòng tham ích kỷ, ở tâm hồn hưởng thụ với tính chất lãng mạn, mà chính ở sự hòa hợp lẽ sống với thiên nhiên. Tình thương đến với họ không vì quyền lợi cá nhân, mà vì quyền sống của mọi sinh vật trong vũ trụ. Tình thương phát xuất trong lĩnh vực đó chính là đạo lý. Vậy đạo lý là ý thức căn bản phát xuất trong tâm hồn người bình dân Đông-phương như một khả năng cố hữu, chứ không phải vì ảnh hưởng những triết thuyết đạo học Đông-phương mà người bình dân mới có ý thức đạo học.
Quyển Dân tộc tính trong ca dao xuất bản năm 1952, ông Hoa-Bằng đã đưa ra mười bài khảo luận về ý thức của người bình dân Việt-nam qua các đề mục như : bác ái, hy sinh, tự tín, đoàn kết, đấu tranh, v.v…
Tuy hướng suy luận của ông Hoa-Bằng không đứng trên quan điểm đạo học và khoa học, mà chỉ đứng trên lập trường dân tộc tính, nhưng với sự chứng minh của ông qua những câu ca dao tiêu biểu, đã phản ánh rõ ràng tính chất người bình dân Việt-nam vẫn xây dựng trên ý thức đạo học. Chúng tôi xin trích dẫn một vài đoạn sau đây :
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Ở vào thời đại xa xưa, dân trí còn thấp, tư tưởng còn hẹp, thế mà ca dao đã nảy ra những ý tứ đẹp đẽ như thế.
Ôi! Còn cái đẹp nào bằng cái đẹp bác ái! Còn cái cao qúi nào bằng cái tình đồng bào yêu nhau.
Cao hơn thế nữa, vì lòng yêu nhau, thương nhau, người ta còn muốn san bằng cái bờ kỳ thị, xóa bỏ phạm vi chủng tộc, phủ nhận những tiếng « vô nghĩa » mà người ta dùng để phân biệt màu da như : Thổ, Mán, Thái, Mường, Mèo, Kinh… :
Chị ngã, em nâng…
Hay : Tay đứt, ruột xót.
Ý thức ấy hòa hợp, sống chung trong đại gia đình đầy dẫy những khi yêu thương, đùm bọc. Ca dao lớn tiếng kêu gào, cổ động :
Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Đã thương yêu nhau rồi, đoàn kết với nhau rồi, chung sống với nhau trong một đại gia đình rồi vẫn còn chưa đủ. Vì một khi tư dục cám dỗ, quyền lợi xung đột, rất dễ bị cảnh nồi da xáo thịt, nên ca dao lại lớn tiếng khuyên :
Khôn ngoan đá đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Phải, anh tài giỏi ư? Thì anh cứ thi thố với người, thiên hạ. Chị khôn khéo ư? Thì chị hãy đối phó với người ngoài. Còn chúng ta với nhau như gà một mẹ, cục cục, chíp chíp quây quần với nhau dưới đôi cánh mẫu từ, ấp ủ, che chở, nỡ nào lại tương hại tương tàn, để cho cắt vọ, diều hâu đứng ngoài kiếm lợi ?
Mà cái đạo yêu thương nhau chẳng qua chỉ là ý thức từ bỏ lòng ích kỷ, tham lam đê hèn của cá tính mà thôi.
Cho nên, về dân tộc tính, người bình dân Việt-nam lấy tình thương làm căn bản cho lẽ sống, và đã cảm thông với cái khổ chung của đồng loại :
Dốc bồ thương kẻ ăn đong,
Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.
Với bài luận về tinh thần bác ái, ông Hoa-Bằng đã chứng minh qua ca dao người bình dân đã đặt nặng tính chất đạo học trên lẽ sống của họ. Trong bài luận về yêu loài vật, ông Hoa-Bằng viết :
Dân tộc Việt-nam giàu lòng bác ái, nhưng tình thương ấy mông mênh bát ngát, chẳng những đối với loài người, mà cả loài vật nữa.
Một chiều xuân êm dịu, bên gốc mấy cây phượng rủ bóng bên đường, một ông già nhà quê, áo cánh nâu, quần lá mạ, ngồi cạnh đống cỏ non mơn mởn, mới cắt, tay cầm một đầu thừng, tay túm nắm cỏ nhét cho con trâu ăn dần, ngắm nghía con vật yêu quí nhai ngốn nắm cỏ xanh. Cử chỉ ấy làm cho chúng ta nhớ lại những câu ca dao :
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
Hoặc : Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công?
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Người nhà nông đặt trâu lên địa vị bình đẳng. Nếu không chất chứa trong lòng một tình thương bao la, bát ngát thì làm gì có ý thức đối xử với loài vật như vậy.
Một cô gái độ 12, 13 tuổi, chễnh chệ trên lưng con bò mẹ dưới hoàng hôn. Đàng xa, cô thấy con bê con mà cô quen gọi nó bừng tiếng nựng nịu là « Mế » đang mải miết ăn hết đám cỏ nọ lại ngoạm đến chòm cỏ khác. Nó ham ăn, không chú ý theo đàn. Cô bé từ trên lưng mẹ « Mế » cất tiếng thương yêu gọi « Mế » :
Mế ơi! Là con bò « Mế »
Mế hương, Mế hoa
Mế cà, Mế rợ
Mế ở ba mùa
Ai mua chẳng bán
Ai hoạn chẳng cho
Cắt cỏ ăn no
Cày bừa cho đỡ mẹ Mế
Mế ơi là con bò Mế !
Giọng cô bé lanh lảnh, rung động cả khung trời chiều. Người ta ngẫm nghĩ : « Đây là một bài đồng dao, nó không phải riêng từ miệng cô bé hát ra, mà chung cho tất cả những đứa bé như cô ấy. Tất nhiên, tình thương loài vật xem cuộc sống loài vật như cuộc sống loài người đã chất chứa trong ý thức người dân Việt-nam trong nương dâu, đồng ruộng và cũng chỉ có người Việt mới cảm thông được những tình thương bao la ấy ».
Trong những hẻo lánh ở mạn ngược, chiều đến, từ trên sườn đồi đi về phía mấy chiếc nhà tranh lẻ tẻ, dưới rặng lau, những cô bé mộc mạc thường ngất ngưởng trên lưng trâu, véo von hát :
Nghé ơi là nghé !
Nghé khôn theo mẹ.
Nghé dại theo đàn.
Nghé chớ ăn càn.
Người ta đánh nghé!…
Đó là mấy bài đồng dao, đầy ý nghĩa yêu thương loài vật. Đó cũng là những nét biểu hiện lòng bác ái bao la, man mác của tâm hồn người dân Việt-nam. (Hoa-Bằng)
Đem lòng bác ái để chứng minh dân tộc tính, trên đấy ông Hoa-Bằng mới nhận xét ở khía cạnh đồng dao qua tinh thần người nông phu đối với loài trâu, bò.
Để có một tầm mắt khái quát hơn, chúng ta có thể đi vào cảm giới của người bình dân, nói chung tất cả mọi sinh vật khác, kể cả những sinh vật không đem lại lợi ích cho cơm áo loài người.
Một con cò, một con ếch, một con cào cào… đối với cuộc sống người bình dân cũng không phân định ranh giới :
Con cò mắc giò mà chết,
Con bìm bịp mua nếp làm chay,
Con cu đánh trống ba ngày,
Chóp mào đội mũ làm thầy đọc văn.
Bồ cào giã gạo nhà quê,
Quần áo rách nát phủ phê bồ cào !
Như vậy, tình thương của người bình dân đối với mọi sinh vật không có giới hạn, và không phát xuất từ trạng thái ích kỷ, riêng rẽ. Chúng tôi muốn nói đến ý thức đạo lý của người bình dân, và tìm ở đây một yếu tố căn bản của nó trong sự khác biệt về chủ trương.
Nếu nói chung về nền đạo học Đông phương thì với hệ thuyết nào, người Đông-phương vẫn chủ trương lấy tình thương và lòng vị tha làm căn bản cho ý sống. Tuy nhiên, nếu phân tích riêng rẽ từng hệ thuyết đạo học thì mỗi hệ thuyết lại chủ trương mỗi khác. Cho nên, cùng là căn bản đạo học, ý thức người bình dân Việt-nam có nhiều chỗ không giống hẳn với các hệ thuyết đạo học khác.
Trước hết, chúng ta thấy ý thức đạo lý của người bình dân Việt-nam mở rộng ngoài giới hạn giữa con người và muôn vật. Ý thức này trùng hợp với Lão-học và Phật-học nhưng khác với Khổng-học.
Nếu Khổng-học chủ trương một tình thương trong trật tự xã hội, trong giai cấp loài người, thì người bình dân Việt-nam quả đã vượt ra ngoài phạm vi ấy. Bởi lẽ người bình dân Việt-nam có một vũ trụ quan khác biệt hơn, không xem trạng thái biến động của vũ trụ là trạng thái riêng rẽ của từng lớp trong ý thức phân chia, mà là trạng thái chung cho cả vạn hữu, trong đó có loài người. Vậy muôn vật và loài người cũng chỉ là một, và tình thương con người cũng phải có trong tình thương của muôn vật.
Mặt khác, ý thức đạo lý của người bình dân cũng khác với hệ thuyết của Lão-học và Phật-học ở chỗ người bình dân không vì tình thương bao la mà chối bỏ trạng thái mâu thuẫn tất yếu của vũ trụ. Cho nên, muốn thực hiện đạo lý (thực hiện tình thương) cần phải đấu tranh trong cuộc sống loài người.
Ý thức đấu tranh của người bình dân trong tinh thần đạo lý được ông Hoa-Bằng mô tả trong quyển Dân tộc tính trong ca dao.
Trước hết là đấu tranh để tự lực, tự cường. Ông Hoa-Bằng viết:
Phải làm đổ mồ hôi trán mới có cái ăn. Dân Việt-nam, từ xưa vẫn thực hành được đúng như câu « kinh thánh » ấy. Bao giờ cũng hăng hái làm việc, chỉ trông cậy nơi mình, chứ không hy vọng vào ai, ỷ lại vào sức nào, dù phải trải qua hai sương một nắng, ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh, rồi cũng đi đến thành công, hái được kết quả tốt đẹp : « Có công mài sắt có ngày nên kim ». Với tấm thân cứng cát, rắn rỏi, chịu gian lao khổ ai, dân ta thực đã chăm chỉ, siêng năng, sốt sắng hoạt động, không hề khuất phục dưới bức bách, đe dọa của sương lạnh buốt, rét căm căm, mưa phũ phàng, nắng nung nấu. Họ bảo :
Có khó mới có miếng ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Mặt khác, là tranh đấu để đoàn kết : « Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết ». Những tiêu ngữ ấy ngày nay được nêu lên gần như bài kinh nhật tụng. Từ lâu, trong giai cấp bình dân đã được ca dao kêu gọi :
Muốn cho có đó cùng đây,
Sơn lâm há dễ một cây nên rừng.
Vậy cần phải đoàn kết :
Một hòn chẳng đắp nên non,
Ba hòn dụm lại nền cồn Thái-sơn.
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây dụm lại nên hòn núi cao.
… Xã hội như một con tàu, người trong xã hội như các thủy thủ, ai nấy tùy theo sở năng làm hết phận sự để cho con tàu tiến tới, đi đến bờ hạnh phúc, yên vui. Trong một cái nhà, từ nóc tới rui, mè, sà, cột, phải nương dựa lẫn nhau, gánh vác lẫn nhau, mới thành cái nhà để chống mưa nắng. Cho nên, tinh thần đoàn kết đã biểu lộ trong dân tộc :
Một cái nóc gánh trăm cái rui,
Trăm cái rui đè một cái nóc.
Tuy nhiên, không phải chỉ đem tình thương mà có thể đoàn kết được. Muốn đoàn kết phải tranh đấu để giữ lấy tình thương :
Ở cho phải phải phân phân,
Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
(Hoa-Bằng)
Nhìn chung, ý thức đạo học của người bình dân Việt-nam gồm vào hai tính chất « yêu thương » và « tranh đấu ».
Hai tính chất ấy gồm vào một tuy có vẻ mâu thuẫn, song rất tế nhị, hợp với vũ trụ quan của họ.
Nói về quan niệm vũ trụ thì vạn vật đều tương quan trong tính chất mâu thuẫn. Cho nên, con người muốn cuộc sống hợp với trạng thái thiên nhiên cần phải chấp nhận qui luật ấy. Nếu chỉ có tình thương mà không tranh đấu để điều hòa mâu thuẫn thì đạo lý con người là đạo lý tiêu cực. Còn nếu có tranh đấu mà không có tình thương thì con người trở thành vật hy sinh cho bản năng dục vọng.
Chính sự phối hợp giữa tình thương và sự tranh đấu, mà người bình dân có một ý thức đạo lý khác biệt, tồn tại mãi cho đến ngày nay, trong lúc mọi hệ thuyết khác trong hai nền văn minh Đông-Tây đều lần lượt đi đến cực đoan, và đổ vỡ.
Dung hợp tình thương và tranh đấu cũng có nghĩa là điều hòa nguồn sống vật chất và tinh thần cho cân xứng với nhau.
Cho nên, nếu ở Đông-phương, các hệ thuyết về đạo học chỉ nêu lên tình thương, chỉ nói đến tình thương, thì chính ca dao bình dân lại đồng thời nêu lên tình thương và ý thức cải tiến vật chất trên phương diện nghề nghiệp.
Chúng ta hãy lấy những ví dụ trong công tác đồng áng. Họ thường khuyên bảo nhau :
Cày sâu, cuốc bẫm.
Cấy thưa hơn bừa kỹ.
Nơi sâu em để cấy chiêm,
Nơi nào cao ráo thì em cấy mùa.
Chớ tham những ruộng hai mùa,
Chiêm se gió ngập ăn thua nỗi gì?
Ăn kẽ no lâu,
Cày sâu lúa tốt.
Những ca dao về cải tiến nghề nghiệp đối với người bình dân Việt-nam dẫy đầy trong dân gian, phong phú không kém những câu nói về tâm tình và đạo nghĩa. Như vậy, nếu chúng ta có thể xem ý thức cải tiến nghề nghiệp để bồi dưỡng vật chất là bước đầu của ý thức khoa học, thì chúng ta phải nhìn nhận rằng chính quan niệm về đạo lý của người bình dân mới là quan niệm chính xác, phát nguồn từ giao cảm với vũ trụ, điều hòa được hai yếu tố vật chất và tinh thần. Trong lúc đó, hai nền văn minh Đông-Tây, một đàng chỉ biết có vật chất mà không biết có tinh thần, một đàng ngược lại chỉ biết có tinh thần mà không biết có vật chất. Cả hai đều đi vào trạng thái cực đoan, đổ vỡ.
Nói như thế không phải chúng ta đứng trên lập trường bảo thủ, gắn cho người bình dân một ý thức riêng biệt. Nếu nói về tình cảm con người, thực chất của từng lớp người, thì có nhiều lúc chính con người mình lại không hiểu mình bằng kẻ khác. Cho nên, mặc dù người bình dân tâm tư họ hiện hữu như vậy, họ vẫn không thấy được tính chất căn bản của họ. Những điều chúng ta chứng minh trên đây là một chứng cớ hùng hồn.
Chúng tôi nói ông A có tính lẩm cẩm. Nhưng ông A chẳng bao giờ tự thấy mình lẩm cẩm, bởi lẽ ông không hiểu được con người của ông khi đem so sánh với kẻ khác.
Người bình dân Việt-nam cũng thế, chỉ có đem so sánh nguồn tâm tư họ đối với những lập trường tư tưởng của các hệ thuyết Đông-Tây, chúng ta mới biện minh được những khác biệt của họ giữa hai nền văn minh đạo học và khoa học.
Cũng chính vì sự khác biệt ấy mà thời kỳ đụng chạm giữa hai nền văn minh Đông-Tây trên bán đảo Đông-dương, chúng ta thấy trạng thái phản ứng đối với lớp người bình dân có một sắc thái không giống như sự phản ứng của các từng lớp danh gia quí tộc trong xã hội Việt-nam.
Đây, chúng ta thử đi vào tính chất diễn biến của lịch sử trong giai đoạn đương thời.
6) Ảnh hưởng của hai nền văn minh Đông Tây tác động vào đời sống người bình dân Việt Nam
Chế độ thực dân Tây-phương đem đến cho người Việt-nam vào thế kỷ thứ XIX một luồng gió mới: nền văn minh khoa học Tây-phương. Vấn đề này chúng ta đã bàn đến trong phần : « Mâu thuẫn giữa hai nền văn minh đạo học và khoa học » nên ở đây chúng tôi không nhắc lại. Trong mục này chúng ta chỉ đề cập đến tính chất phản ứng riêng rẽ của người bình dân đối với phong trào đổi mới ấy.
Nói về các phong trào phản ứng ghi trong lịch sử văn học, chúng ta có thể chia làm hai loại, mang hai tính chất khác nhau.
Một loại phản ứng vì tinh thần quốc gia dân tộc, kích động lòng yêu nước, chống lại chế độ thực dân. Điển hình cho loại này là phong trào cần vương, văn thân, duy tân…
Một loại phản ứng vì ý thức mâu thuẫn giữa hai nền văn minh khoa học và đạo học, như phong trào cải cách của thế hệ 1932-1945.
Với hai loại phản ứng trên, chúng ta thấy ở lớp sĩ phu, trí thức đều bị tác động rất mạnh mẽ. Nếu phong trào duy tân cách mạng có những chí sĩ như Phan-bội-Châu, Phan-châu-Trinh, Huỳnh-thúc-Kháng đứng ra cổ động phong trào thì cũng có những nhóm người cam tâm làm tôi tớ cho chế độ thực dân, mưu đồ lợi riêng cho bản thân mình. Nếu phong trào cải cách thế hệ 1932-1945 có những người chạy theo luồng ánh sáng văn minh khoa học, tìm cách đập phá ý thức cổ truyền, thì cũng có những lớp người thủ cựu, cố gắng chống lại chủ trương cải cách ấy. Tuy nhiên, các phong trào chỉ tác động mạnh mẽ trong giới sĩ phu, trí thức, và lịch sử Việt-nam cũng chỉ ghi lại những dấu vết tâm tư của các giai tầng ấy mà thôi.
Vậy thì đối với người bình dân Việt-nam trước những phong trào canh tân – biến chuyển trên địa hạt văn hóa – đời sống họ có bị tác động thế nào không ?
Thực ra, người bình dân vẫn chịu ảnh hưởng chung trong mọi chế độ sinh hoạt, không thể nào tách rời khỏi những biến cố về ý thức hệ. Sở dĩ lịch sử văn học không nói đến họ qua các phong trào canh tân và sự biến động của tâm tư họ chỉ vì họ là giai tầng thấp kém trong xã hội, bị các giới trí thức lảng quên, trong lúc họ vẫn sống, vẫn sinh hoạt, vẫn hứng chịu tất cả những gì mà dân tộc phải mang lấy.
Trên đây chúng ta đã chia ra hai loại phản ứng qua các phong trào duy tân, đối với hạng sĩ phu, trí thức. Còn đối với người bình dân, ý thức biểu lộ rõ rệt nhất là sự phản ứng về chính trị.
Trong lãnh vực này, chúng ta có thể chứng minh qua những bài ca dao tiêu biểu như :
Muốn gần tàu lặn, tàu bay,
Nên anh bỏ việc cấy cày mà đi.
Biết mà cu-lít, cu-li,
Thà rằng ở vậy nhà quê với nàng.
Nhà quê có họ có hàng,
Có làng có xóm, nhỡ nhàng có nhau.
Hay : Đồn vui thăm thú thị thành,
Kiếm ăn cũng khó, công danh ra gì.
Ra mà lãnh chức cu-li,
Thà về quê cũ giữ nghề canh nông.
Hoặc : Mảng vui cơm tấm ổ rơm,
Tuy rằng cũ kỹ mà thơm sạch lòng.
Hơn ai gạo tấm lầu hồng,
Đem thân luồn cúi vào vòng lợi danh.
Những câu cao dao trên đây phát hiện trong thời kỳ người Pháp đặt ách đô hộ trên dân tộc Việt-nam, và cũng là thời kỳ nền văn minh khoa học Tây-phương tràn sang cõi Á-đông. Nếu thời kỳ đó, các sĩ phu có tinh thần ái quốc, hô hào canh tân, sửa đổi ý thức đạo học để tiến kịp trào lưu cơ giới hóa guồng máy sinh hoạt xã hội, biến dân tộc trở thành khả năng tự lực tự cường, thì chính người bình dân trong thời đó cũng đã có ý thức chống đối nền móng đô hộ của thực dân Pháp.
Khuyên nhau trở về đồng ruộng, không chịu đi làm cu-li chỉ là tinh thần bất mãn với ách đô hộ ngoại bang, chứ không phải ý thức chống đối tính chất phát triển của nền văn minh khoa học. Cũng như phong trào duy tân cách mạng hô hào đổi mới sinh hoạt không phải là đả phá đạo học, mà đó chỉ là phong trào yêu nước.
Tuy nhiên, nói như thế cũng không có nghĩa là người bình dân Việt-nam chấp nhận hoàn toàn ánh sáng văn minh khoa học. Ở các mục khảo sát trước đây, chúng ta đã thấy quan niệm nhân sinh của người bình dân Việt-nam căn bản vẫn phát xuất từ nền đạo học Đông-phương, cho nên, dù hoàn cảnh sinh hoạt bắt buộc họ phải lưu ý và phát triển khả năng vật chất, họ cũng không thể từ bỏ nguồn sống tinh thần mà thế giới đạo học gọi là đạo lý.
Phát triển khả năng vật chất trong ý thức phụng sự tinh thần, người bình dân không tự đưa mình đến trạng thái cực đoan như các hệ thuyết khác. Bởi vậy, khi phong trào cải cách xã hội ở thế hệ 1932-1945 giữa hai lớp người mệnh danh là cũ, mới chống đối nhau, thì người bình dân vẫn sống thản nhiên trong tinh thần hòa hợp của họ.
Sở dĩ họ thản nhiên là vì họ không bị cực đoan như các tầng lớp trí thức đương thời.
Một cô gái phòng khuê, cái đức hạnh được nền đạo học quí trọng nhất là trinh tiết. Và trinh tiết của nền đạo học lúc đi đến cực đoan thì :
Nam nữ thụ thụ bất thân.
Khuê môn bất xuất.
Thế mà bỗng nhiên nền văn minh khoa học lại cho phép cô gái phòng khuê ấy thoát ra khỏi bức màn, đường hoàng đối diện với bạn trai, nói những câu tâm tình tri kỷ, thì làm sao những kẻ có tinh thần cực đoan về đạo học không phản ứng?
Còn đối với người bình dân, tuy họ vẫn quý trọng tiết hạnh người đàn bà, song với quan niệm tiết hạnh của họ không quá cực đoan. Trên mặt đê, bên dòng suối, dưới đêm trăng, trong mọi hoàn cảnh sinh hoạt, trai gái vẫn được gần nhau, trao đổi nhau bằng câu hát tâm tình. Như vậy, dù ánh sáng văn minh khoa học có đưa đến một phong trào lãng mạn, trai gái đua nhau khai thác tình cảm để hưởng thụ dục vọng tình yêu đương thì chính ý thức phản ứng của người bình dân cũng không mạnh mẽ bằng giai tầng danh gia quí tộc, bị ý thức cực đoan của đạo học đổ vỡ một cách đột ngột.
Đến như lối ăn mặc, người con gái sống trong phong lưu đài các không bao giờ được phép hở hang, đến nỗi ra đường phải dùng tấm màn the che mặt, sợ người khác trông thấy. Thế mà nền văn minh khoa học lại tán thưởng những tấm thân bóc trần để cho mọi người chiêm ngưỡng làn da thớ thịt, những đường nét nở nang, hấp dẫn mọi cảm giác vật chất của dục vọng ngông cuồng. Như vậy, làm sao những lớp người sống trong ý thức cực đoan về đạo học có thể tiếp nhận hay dung thứ được.
Người bình dân trái lại, mặc dù với căn bản đạo học, hoàn cảnh khổ cực của họ đã buộc họ không được phép cực đoan, nghĩa là tuy họ không cố ý phô diễn làn da, sớ thịt để lôi cuốn những tâm hồn trụy lạc, song thường ngày những tấm áo rách không đủ che thân, những thì giờ rảnh rỗi không đủ để cho họ dùng trong việc chỉnh đốn dung y, đã làm cho họ trở thành thói quên, không xem việc hở hang, trống trải là hành động thiếu đức hạnh của người đàn bà. Do đó, dù nền văn minh khoa học Tây-phương có đem đến những phong trào mặc áo hở tay, trống ngực, bó đùi, cũng không làm cho họ phải phản ứng mạnh mẽ như lớp người trong giai tầng phong lưu đài các, ăn không ngồi rồi, ép mình theo khuôn khổ cực đoan của nền văn minh đạo học.
Trên đây chúng ta chỉ đem một vài ví dụ để chứng minh ảnh hưởng của hai nền văn minh Đông-Tây tác động vào đời sống người bình dân mà thôi.
Căn cứ vào tính chất như vậy, chúng ta có thể xác định rằng bất kỳ nền văn minh đạo học hay khoa học, người bình dân vẫn với ý thức chống đối. Sự chống đối của họ là sự chống đối vì tính chất cực đoan của nó, mà chủ trương của người bình dân xem lẽ sống con người về tinh thần cũng như vật chất không thể cực đoan mà tồn tại được.
Để chứng minh trạng thái dung hợp trong tâm hồn họ trên căn bản của hai nền văn minh, chúng ta có thể đem sự đụng chạm của hai nền học thuật Đông-Tây làm tiêu biểu.
Nền học thuật Đông-phương, khi chủ trương về đạo học, đã đưa đạo học lên cao vút, mọi tiềm năng phát triển về văn hóa chỉ nhằm phụng sự tinh thần, bởi vậy các sách vở của đạo học hoàn toàn không nói đến yếu tố kiến tạo xã hội vật chất. Họ chỉ nói làm thế nào để trở thành một người quân tử, mà không bao giờ nới đến làm thế nào để cho đất đai được nhiều chất mầu, làm thế nào để cho cây cối được mùa, nhân dân được sung túc.
Nền học thuật Tây-phương ngược lại, khi chủ trương về khoa học cũng chỉ biết có làm thế nào để phát triển guồng máy sản xuất cung cấp cho nhu cầu vật chất con người, mà không hề nói đến lẽ sống trong tình thương.
Cả hai đều là cực đoan. Trong lúc đó, người bình dân vẫn chủ trương sống trong nhân đạo, đồng thời lại nói đến phương pháp cải tiến nghề nghiệp, cốt đem hiệu năng vật chất bồi dưỡng cho cuộc sống tinh thần. So với hai nền học thuật Đông-Tây thì người bình dân tuy phải dùng ca dao làm nền học thuật phổ biến trong dân gian, không có trường học, không có chính sách giáo dục… song những gì di lưu qua ca dao chúng ta cũng có thể xác định lập trường dung hợp của họ về hai phương diện trên.
Khi đã ý thức như vậy, chúng ta sẽ không lấy làm lạ, tại sao người bình dân vừa tôn sùng đạo học vừa chống đối đạo học. Ví dụ đối với người đàn bà họ vẫn đề cao danh tiết, như :
Cái nết đánh chết cái đẹp.
Hoặc : Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
Rõ ràng họ xây dựng nguồn hạnh phúc trên đạo nghĩa. Nhưng rồi có lúc họ phản đối :
Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son thếp vàng.
Với tâm trạng trên, chúng ta thấy rõ không phải họ đả phá đạo học, mà họ phản đối tính chất cực đoan của nền đạo học đã tách rời cuộc sống tinh thần ra ngoài sinh hoạt vật chất, khiến cuộc sống xã hội loài người bị chênh lệch.
Cũng như người bình dân không phản đối khoa học, họ chỉ đả phá tính chất cực đoan của nền văn minh ấy đã đưa con người đến trạng thái chỉ biết có vật chất mà không biết có tinh thần, chỉ biết có tranh đoạt hưởng thụ mà không biết có tình thương, đạo nghĩa :
Đời bây giờ con gái mười ba,
Tối nằm với mẹ khóc la đòi chồng.
Mẹ giận mẹ đánh ngang hông,
Đồ con chết chủ, đòi chồng thâu đêm.
Họ không chủ trương bắt người con gái phải ở góa, không được đòi chồng, nhưng họ châm biếm tính chất dục vọng cá nhân đã đưa người con gái vượt khỏi nguồn gốc của đạo lý.
Những phong trào làm đĩ, lấy Tây trong thời Pháp thuộc, dưới mắt người bình dân đều được xem như hư đốn.
Bởi vậy, khi nhận xét về ý thức người bình dân trên lãnh vực văn minh đạo học và khoa học, chúng ta hẳn thấy người bình dân có một thái độ khác biệt. Thái độ ấy là tinh thần dung hợp hai luồng văn minh, và chống lại mọi cực đoan trong mỗi ý thức hệ.
Nói như thế không phải chúng ta đem một lập trường tư tưởng áp đặt lên lớp người bình dân mà chính họ cũng chẳng bao giờ quan niệm như vậy. Không, chúng ta không bắt buộc người bình dân phải hiểu và phân tách ý nghĩa những gì họ đang làm và đang sống. Ngay trong giới trí thức chưa hẳn họ đã hiểu và cắt nghĩa nổi những ý thức họ đang theo đuổi trong nếp sống hàng ngày của họ, thì đối với người bình dân chúng ta bảo họ phải nói lên ý nghĩa những gì họ đang làm và suy tư thì e có phần quá đáng.
Không, chúng ta phải tìm hiểu họ mà không đòi hỏi họ phải cắt nghĩa cho chúng ta qua dòng lịch sử sinh hoạt của họ.
Người bình dân không có một hệ thống triết học, nhưng họ vẫn có một lập trường suy tư. Lập trường suy tư của họ phát xuất từ trạng thái sinh hoạt xã hội.
Họ tôn sùng đạo học chỉ vì hoàn cảnh khổ cực, áp bức, đau xót trong sinh hoạt thường ngày của họ.
Họ không bất mãn với ý thức khoa học, chỉ vì khoa học gần gũi với khả năng kiến tạo vật chất, mà họ là kẻ đang cần thiết.
Nhưng khi hai nền văn minh đạo học và khoa học mâu thuẫn nhau thì họ là kẻ dung hòa, chống lại mọi cực đoan của mỗi nền văn minh đã đưa ý thức loài người đến chỗ đổ vỡ.
Ở đây, nhân đề cập hai nền văn minh Đạo-học và Khoa-học, chúng tôi tưởng cũng nên phân tích tại sao văn minh đạo học lại xem nhẹ người đàn bà, bắt người đàn bà ghép vào một khuôn khổ khắc nghiệt, gây thành bất công trong xã hội loài người. Ngược lại, nền văn minh khoa học lại xem trọng người đàn bà, an vị người đàn bà như một thần tượng trong lẽ sống ?
Sự trái ngược ấy hẳn có một nguồn gốc sâu xa. Nếu chúng ta đã thừa nhận tính chất căn bản của đạo học là dùng lý tính toả chiết dục vọng bản năng, mà người đàn bà là tượng trưng cho hình bóng của dục vọng, thì sự khinh rẻ người đàn bà, đối với đạo học, cũng có nghĩa là khinh rẻ những hình bóng ấy. Đặt người đàn bà vào địa vị không quan trọng trong lẽ sống, đối với đạo học, có nghĩa là thế giới đạo học không để cho hình bóng nhục dục làm chủ tâm hồn con người.
Tuy nhiên, khi phải chiến đấu với bản năng, áp đảo những hình bóng tượng trưng cho dục vọng, thế giới đạo học đã phạm phải một lỗi lầm lớn lao về nhân cách, tạo thành những chế độ bất công giữa con người và con người.
Còn thế giới văn minh khoa học, tính chất căn bản là khai thác vật chất để hưởng thụ, cho nên hình bóng đàn bà trở thành mục tiêu của lẽ sống. Người đàn bà được đề cao, trở thành thần tượng của dục tính, và được ngụy trang dưới hình thức nghệ thuật. Nhưng thực ra vì khai thác nghệ thuật dục tính, cái mà họ cho là quý giá của người đàn bà lại biến thành sự vật dùng kích động bản năng.
Một nhà phê bình về đạo học và khoa học đã có lần nói với chúng tôi : « Văn minh Đạo-học phát triển bao nhiêu thì hình bóng đàn bà càng lu mờ bấy nhiêu. Ngược lại, văn minh Khoa-học càng phát triển bao nhiêu thì hình bóng đàn bà càng rõ rệt bấy nhiêu ».
Thật vậy, hiện tượng ấy ngày nay chúng ta đã trông thấy phần nào. Nền văn minh khoa học đi đến đâu thì trên sách báo hình bóng đàn bà chiếm gần như trọn vẹn.
Tóm lại, với ý thức toả chiết bản năng của đạo học, khinh rẻ người đàn bà, gây nên chế độ bất công về nhân cách, đó là ý thức cực đoan. Mặt khác, với chủ trương khai thác dục tính, làm cho hình bóng người đàn bà trở thành công cụ của dục tính, ý thức của nền văn minh khoa học vẫn là ý thức cực đoan. Một đàng cực đoan về tinh thần, một đàng cực đoan về vật chất. Dĩ nhiên đối với người bình dân Việt-nam, mọi cực đoan đều không được chấp nhận.
7) Kết luận
Trong mục này, sở dĩ chúng tôi nêu vấn đề « ý thức đạo học và khoa học của người bình dân » vì xét thấy lịch sử văn minh xã hội loài người là lịch sử tranh đấu về ý thức hệ giữa hai luồng ánh sáng của văn minh tinh thần và văn minh vật chất. Lịch sử tranh đấu ấy ảnh hưởng sâu xa vào mọi tầng lớp người trên thế giới, và chi phối tất cả cuộc sống loài người.
Chiến tranh hay hòa bình cũng chỉ là trạng thái diễn biến của lịch sử tranh đấu về đạo học và khoa học. Những hệ thống về ý thức hệ mỗi ngày một đổ vỡ, hay đổi mới, cũng chỉ vì trạng thái diễn biến của lịch sử đạo học và khoa học…
Và tất cả! Chúng tôi muốn nói hầu hết những vết tích tâm tư chúng ta hiện nay đều là sản phẩm của dòng lịch sử ấy.
IV. TINH THẦN TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI BÌNH DÂN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TÔN GIÁO
Tinh thần tín ngưỡng do quan niệm vũ trụ mà có. Cho nên, không một dân tộc nào, dù lạc hậu hay văn minh, mà không có tinh thần tín ngưỡng.
Tinh thần tính ngưỡng ấy phát xuất ở suy tư. Con người sống giữa thiên nhiên, khi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của cơ năng vũ trụ, thì lấy căn bản suy tư làm chủ đích, lấy sự tin tưởng của khối óc làm đường hướng cho ý thức sinh tồn.
Mối lo lắng quan trọng nhất của con người là sự sống và sự chết. Nếu đạo học và khoa học mới chỉ lo cho cái sống, thì tinh thần tín ngưỡng chính là mối lo cho cái chết. Sống chết, mất còn là hiện hữu trong đời người, dù muốn dù không, con người vẫn phải ưu tư.
Tinh thần tín ngưỡng xuất phát ở những ưu tư về mất mát. Bởi vì ai cũng muốn mình tồn tại. Dù phải tuân theo định luật thiên nhiên, lấy thời gian trăm năm làm chuẩn đích cho một kiếp người, và cũng không ai muốn rằng sau cái thời gian trăm năm ấy, cá nhân mình bị hoàn toàn hủy diệt ở một con cõi hư vô nào. Đó cũng là do bản năng tự tồn của mỗi cá thể. Con người, một sinh vật biết suy tư, khi đặt mình trước những lo âu như vậy, tất nhiên không thể không có phản ứng. Phản ứng đầu tiên của con người là đi tìm cái còn trong cái mất, tức là cố gắng duy trì sự hiện hữu của mình trong qui luật tan biến của thiên nhiên.
Một Tần Thủy-hoàng kinh hãi trước sự hủy diệt của cá thể mà ra lệnh tìm cho được thuốc trường sinh bất tử. Một Quỉ-cốc tiên sư vào núi tu hành để luyện linh đơn cải lão hoàn đồng. Những câu chuyện tu tiên, luyện phép không phải là tâm tư phản ứng của con người trước qui luật đào thải của hạn hữu ư?
Sống, con người lo cái sống đã đành, mà còn lo cho cái chết nữa. Lo cho cái sống, con người có thể đạt được kết quả hiện hữu, nhưng khi lo cho cái chết, con người cảm thấy mơ hồ. Bởi vì không ai có thể chứng minh bằng thực tế giữa cái sống và cái chết, giữa cái còn và cái mất, giữa cái không và cái có… Muốn chứng minh người ta chỉ còn cách dùng suy tư, cấu tạo trên căn bản « niềm tin ». Do đó, khi bàn đến cõi chết, người ta dành riêng cho mỗi người một « niềm tin » tức là phạm vi tín ngưỡng.
Như vậy, tính ngưỡng cũng quan trọng không kém hai hệ thống đạo học và khoa học. Nếu vì lo cho lẽ sống, nền đạo học và khoa học của thế giới loài người đã chi phối cả guồng máy sinh hoạt xã hội, tạo thành những phong tục, tập quán, cấu kết một nền văn minh trong thế giới sử, thì với ý thức lo lắng cho cái chết, tinh thần tín ngưỡng của con người cũng chi phối vào cuộc sống thực tiễn tạo thành những phong tục, tập quán và ảnh hưởng vào hai hệ thống văn minh trên thế giới loài người không phải nhỏ.
Con người bắt đầu ý thức được cái sống thì cũng bắt đầu ý thức được cái chết. Cho nên lịch sử tín ngưỡng của nhân loại song hành với lịch sử cải tiến nhân sinh.
Những chuyện thần thoại, hoang đường, những ý thức siêu hình mà nền văn học thế giới lưu truyền lại cho đến ngày nay đều phát xuất từ căn bản tín ngưỡng cả.
Vậy lịch sử tín ngưỡng là lịch sử của ý thức con người đi tìm cái sống trong cái chết, cái còn trong cái mất. Nó là trạng thái phản ứng của diệt vong.
Tính chất căn bản của tính ngưỡng như vậy, nên ý thức tín ngưỡng không cố định, mà thay đổi theo suy tư, từ niềm tin của khối óc qua từng thế hệ. Niềm tin con người sẽ mất đi, hoặc biến đổi dần theo một chiều hướng khác là do suy tư con người mỗi lúc một đổi mới, khối óc con người không cho phép một niềm tin nào tồn tại khi lẽ sống con người đã tìm thấy niềm tin ấy không còn hợp với cơ năng vũ trụ nữa.
Một ông bình vôi bỏ dưới gốc đa, một chiếc đầu ông táo bể được đặt trên chiếc gò mối, đối với người dân Việt-nam thuở xưa đâu phải là chuyện không có ý nghĩa. Nó phát xuất từ niềm tin, từ ý thức tín ngưỡng của dân tộc. Tuy nhiên, thời gian làm đổi thay hệ thống suy tư của khối óc thì tinh thần tín ngưỡng cũng không giữ một trạng thái cố định được. Những phát minh khoa học hàng ngày, lấy thực nghiệm chứng minh cơ năng vũ trụ, làm cho từng niềm tin con người mỗi lúc một lạc lõng và phai dần cho đến lúc niềm tin ấy thay đổi hoàn toàn theo một chiều hướng khác. Khi một niềm tin thay đổi, khi một chiều hướng tín ngưỡng của đa số bị loại bỏ, nếu còn kẻ nào theo đuổi thì xã hội sẽ cho là mê tín, dị đoan. Ý nghĩa mê tín, dị đoan là những niềm tin sai lạc, những chiều hướng tín ngưỡng không còn hợp với những suy tư mới trong trào lưu tiến hóa của nhân loại mà phần đông đã công nhận là sai lạc với trạng thái thiên nhiên.
Tuy vậy, tín ngưỡng không chỉ có loại bỏ mà không có phát triển. Niềm tin con người luôn luôn đi tìm những trạng thái mới trong lúc những trạng thái cũ bị lỗi thời. Do đó, tín ngưỡng chẳng bao giờ bị tiêu diệt, khi con người còn đòi hỏi, còn băn khoăn đi tìm sự sống trong sự chết để cố giữ lấy một bản năng vĩnh cửu trong mọi hủy diệt của thiên nhiên. Đi tìm hiện hữu trong cái không hiện hữu để tự tồn chính là một hấp lực lôi cuốn con người đi mãi trên con đường tín ngưỡng chẳng bao giờ dừng bước, cũng như trên con đường đạo học và khoa học từ xưa đến nay chúng ta vẫn đi mãi không dừng lại ở một thời điểm nào chỉ vì chúng ta chưa tìm thấy chân lý, chưa đạt được thỏa mãn trong cái sống.
Tín ngưỡng đối với đạo học và khoa học khác nhau (một đàng lo cho cái sống, một đàng lo cho cái chết), tuy nhiên, vì lo cho cái chết trong lúc đang sống, nên sự lo lắng ấy lại ảnh hưởng vào lẽ sống con người tạo thành dòng lịch sử nhân loại.

Trên đây, chúng ta đã xác định tín ngưỡng là nguồn gốc của suy tư, đem niềm tin đi tìm sự tồn tại trong qui luật huỷ diệt của thiên nhiên, mà niềm tin con người có rất nhiều mặt, ảnh hưởng vào thời gian, không gian cho nên niềm tin con người không thể duy nhất được. Tính chất không duy nhất của mọi niềm tin đã đưa nhân loại đến những hệ thuyết về tôn giáo, và tôn giáo chính là lịch sử phát triển tinh thần tín ngưỡng của loài người.
Ở đây chúng tôi không bàn đến một triết thuyết của tôn giáo, cũng không có ý phê bình, chỉ trích một tôn giáo nào. Trong phạm vi một quiển sách khảo cứu về văn học dân tộc, chúng tôi chỉ nêu hai tiêu đề :
Tinh thần tín ngưỡng của người bình dân trong quá trình phát triển tôn giáo.
Đạo thờ ông bà.
Chúng ta đã xác định tôn giáo là hiện thân của tín ngưỡng, mà tín ngưỡng là niềm lo âu cho cái chết, đi tìm sự tồn tại trong qui luật hủy thể của vạn hữu. Vậy tôn giáo mang tính chất căn bản là lo cho sự chết chứ không phải lo cho sự sống của loài người như tính chất đạo học và khoa học. Bởi vậy, không một tôn giáo nào không mang tính chất siêu hình. Chỉ có địa hạt siêu hình, con người mới có thể gởi vào đó một niềm tin, và tìm ở đó một nguồn an ủi trước trạng thái phũ phàng trong luật huỷ thể của vũ trụ. Nói như thế cũng có nghĩa là chúng ta đã phân định vị trí của tôn giáo trong đời sống loài người. Tôn giáo khác với đạo học và khoa học, tôn giáo là một ý thức hệ song hành với đạo học và khoa học, chiếm một địa vị quan trọng trong đời sống để giải quiết toàn vẹn mọi thắc mắc và suy tư của con người từ cõi sống đến cõi chết, làm thỏa mãn ý thức tự tồn của con người trước thiên nhiên.
Mang sứ mệnh như vậy, tôn giáo tuy phát xuất ở niềm tin, nhưng lại là nhu cầu cần thiết cho loài người. Không một dân tộc nào không cảm nhận tinh thần mình thiếu thốn khi chưa tìm thấy một con đường giải thoát dành cho cuộc sống của mình. Niềm tin ấy đi từ những hình thức tín ngưỡng thô sơ, lần lần kết thành những hệ thuyết về tôn giáo.
Một làng người da đỏ kia đem thây người chết ném xuống vực sâu. Một nhóm người Thượng kia chất lửa thiêu xác người quá cố… Đó chỉ là tín ngưỡng, niềm tin của họ phát xuất từ ý thức đi tìm sự tồn tại trong hủy diệt. Cho đến một nhà sư, một đạo sĩ, một tín đồ xả thân hành đạo, hy sinh mọi hưởng thụ vật chất trong đời sống, thì đó cũng chỉ là đi tìm sự tồn tại trong hủy diệt mà thôi. Khi đã là niềm tin thì không căn cứ vào lẽ phải. Bởi vì lẽ phải chỉ có trong niềm tin, mà không có gì để chứng minh ngoài ý tưởng. Cho nên, trong lĩnh vực tín ngưỡng không ai đem niềm tin mình chê trách niềm tin của kẻ khác cũng không ai bắt buộc niềm tin kẻ khác phải là niềm tin của mình. Chính vì vậy, tín ngưỡng phát sinh tôn giáo. Mỗi tôn giáo là hiện thân của mỗi hệ phái về tín ngưỡng. Nhưng khi nói đến tôn giáo tức là nói đến một hệ thống về ý thức tín ngưỡng đã trưởng thành trong lĩnh vực suy tư, không còn ở trong trạng thái thô sơ của thuở ban đầu nữa. Khi đã thành tôn giáo tất phải có tổ chức để củng cố và phát triển niềm tin. Mỗi tôn giáo phải có vị giáo chủ, phải có phương pháp để thực hiện niềm tin ấy trong cuộc sống hiện hữu. Để củng cố và phát triển niềm tin, mỗi tôn giáo đều xây dựng theo quan niệm mình một hệ thuyết làm nền tảng. Do đó, lịch sử tôn giáo có một quá trình phát triển đối diện với dòng lịch sử sinh hoạt xã hội trong thế giới văn minh ngày nay.
Mặc dù tôn giáo, mục đích chỉ lo cho sự chết, tìm cái trường tồn trong hủy diệt, song tôn giáo nào muốn bước vào lãnh vực siêu hình đều cũng bắt đầu bằng lãnh vực hữu hình, nghĩa là muốn đạt được sự trường tồn trong cái chết phải chuẩn bị ngay từ cái sống, vì thế tôn giáo ảnh hưởng vào đời sống con người khắp mọi mặt.
Chúng ta thử lược dẫn qua từng địa hạt.
1) Tôn giáo ảnh hưởng vào sinh hoạt xã hội
Nói đến sinh hoạt xã hội là nói đến ý thức tranh đấu tự tồn. Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh điều đó. Những cuộc chém giết triền miên, cướp đoạt, xâu xé nhau vì mưu sinh gieo vào cuộc sống loài người những thảm cảnh mà chính hai nền văn minh khoa học và đạo học cũng không sao giải quyết nổi. Khi cuộc sống đã chất chứa đau khổ, phũ phàng, thì tín ngưỡng – vùng đất hồi sinh của mọi niềm tin – lại trở thành nguồn an ủi trong cuộc sống.
Cho nên, tôn giáo đi vào cuộc đời, chúng ta có thể ví như những chiếc xe cứu thương tháp tùng một đoàn đua xe đạp để cứu vớt các tay đua bất hạnh bị rơi rụng trong hành động tranh đoạt, mưu loại đối phương ra ngoài vòng chiến.
Cuộc đời đến với con người cũng khởi hành từ lằn mức ấy. Ai cũng muốn vươn lên, cố gắng vượt hẳn đối thủ. Tuy nhiên, trên trường tranh đấu sao cho khỏi có kẻ thắng người bại. Kẻ thắng thì tiếp đón vinh quang. Người bại thì ảo não, chán chường ; chính lúc này những kẻ bất hạnh mới thấy chiếc xe cứu thương là cần thiết.
Tôn giáo đến với xã hội loài người cũng thế ! Còn gì hơn khi kẻ thất bại ở đấu trường tìm được nguồn an ủi cho tâm hồn đang tuyệt vọng. Nguồn an ủi ấy là « niềm tin ».
Một viên tướng thất trận, bị địch quân truy kích, nhưng nếu viên tướng ấy tin rằng đàng sau mình có viện binh, và khi họp được hai đạo quân thì sẽ phản công kẻ nghịch, hy vọng sẽ chiến thắng cuối cùng thì viên tướng ấy không cảm thấy đau khổ về sự bại trận hiện tại.
Con người sống trong xã hội cũng thế. Tương lai là nguồn an ủi cho hiện tại. Nếu tương lai loe lói một ánh sáng huy hoàng, thì kẻ đau khổ thường hay nhìn về trước mặt và đặt ở đấy một niềm tin.
Một anh nông phu suốt đời cặm cụi việc đồng áng, dầm mưa dãi nắng, nhưng cực khổ ấy không làm cho anh nản chí, bởi vì anh tin tưởng sự tham khổ ngày nay sẽ xây dựng một sự nghiệp cho đàn con anh ở ngày mai.
Một cậu học sinh miệt mài trên ghế nhà trường suốt bao năm tháng, nếu không hy vọng ở tương lai thì công trình ấy sẽ làm cho cậu cảm thấy cực nhọc và vô bổ biết chừng nào !
Tôn giáo đem đến cho loài người một hy vọng ở tương lai. Hy vọng tương lai của tôn giáo không phải ở cõi hiện sinh mà ở cõi siêu sinh, tức là cõi sống thảnh thơi, an nhàn trong thế giới siêu hình. Chúng ta không cần bàn đến thế giới đó, ngay ở hiện tại niềm tin ấy cũng đã làm êm dịu những gì đau khổ trong xã hội loài người rồi.
Một người chịu cực khổ trong hiện tại có quyền lấy sự cực khổ ấy làm hãnh diện, cho đó là nguyên nhân sẽ đạt được hạnh phúc sau cõi sống của họ. Sự hạnh diện ấy không phải là nguồn an ủi sao ?
Mặt khác, nếu tôn giáo là một nguồn an ủi cho đời sống loài người như một chiếc xe cứu thương kèm theo cuộc đua đầy gian lao, nguy hiểm thì chiếc xe cứu thương ấy cũng lại là một hình thức cảnh giới những tay đua quá hăng say xây dựng chiến thắng mà không lưu tâm đến những gì rủi ro, bất trắc.
Thật vậy, con người dù ham mê, thích thú cuộc sống đến đâu cũng có lúc tưởng tượng đến hình hài bị hủy diệt theo định luật chung của vạn hữu. Nếu những kẻ nghèo khổ, thất thế trong cõi hiện sinh, mong cho rũ kiếp trần ai để tìm sự huy hoàng trong kiếp khác, thì chính những kẻ đang tràn đầy hạnh phúc cũng lại lo sợ ở tương lai, nơi cõi siêu sinh kia. Sự hiện diện của tôn giáo trong cõi sống là một hình thức cảnh giới về phương diện tinh thần.
Dù tay đua nào trong cuộc có hăng say, liều lĩnh đến đâu, khi thấy thấp thoáng hình bóng chiếc xe cứu thương cũng làm cho anh ta chùng chí, để tâm dè dặt, không dám liều lĩnh quá đáng.
Xem thế, chúng ta thấy rõ tầm ảnh hưởng của tôn giáo vào sinh hoạt xã hội loài người không phải nhỏ. Đối với đạo học, vì thấy đời sống con người đau khổ nên đem tình thương cải tiến xã hội. Đối với khoa học, vì thấy đời sống con người thiếu thốn nên đem cả tâm trí nghiên cứu việc sáng chế phát minh. Còn đối với tôn giáo, tuy không lo cho hiện sinh, nhưng lại ảnh hưởng vào cuộc sống loài người một cách trực tiếp, đến nỗi loài người nếu thiếu sự hiện diện của tôn giáo, bộ mặt xã hội sẽ thay chiều, đổi hướng, và không ai có thể đoán trước được sự khác biệt ấy sẽ như thế nào.
Một kẻ trộm, tuy hành động bất chính, nhưng không phải không có tầm mức. Một kẻ giết người, tuy hành động tàn ác, nhưng chúng ta đừng tưởng sau giờ phút bạo hành, tâm hồn họ không được lên chút gì kinh tởm.
Tinh thần tín ngưỡng luôn luôn chứa đựng trong con người, dù với hạng người nào. Đó là ý thức tự tôn khi nhìn thấy sự diệt vong của vạn vật. Mặc dù loài người tìm sự đắc thắng bằng hành động tiêu diệt đối phương, nhưng không một ai muốn mình bị hủy diệt cả. Tính chất mâu thuẫn ấy buộc con người phải tìm về tín ngưỡng, và tín ngưỡng trở lại không chế con người từ ý thức đến hành động.
Chúng ta thử tưởng tượng, nếu con người không có một niềm tin ở tương lai (hậu quả), không chứa đựng một phần ý thức tín ngưỡng, thì con người sẽ hành động ra sao trong thế giới loài người ? Chúng tôi nghĩ rằng, với kỹ thuật vũ khí tân tiến ngày nay, có lẽ con người sẽ còn cuồng bạo hơn mọi ác thú !
Như vậy, cái gì đã chế ngự hành động hung bạo ấy ? Ý thức nhân đạo chỉ ảnh hưởng phần nào thôi. Nhân đạo không thể tác động trọn vẹn trong tâm giới con người, bởi vì nhân đạo không làm cho lòng người băn khoăn, sợ hãi nếu không nhờ ở tinh thần tín ngưỡng. Cho nên, khi nói đến tâm giới, chúng ta phải thấy vai trò tôn giáo có một địa vị quan trọng trong cõi sống.
Con người đi tìm sự sống trong hành động hủy diệt kẻ khác, nhưng chính kẻ mưu hủy diệt kẻ khác lại nơm nớp lo âu từ cõi sống đến cõi chết, sợ mình bị hủy diệt. Vai trò tôn giáo đã nhờ vào ý thức tự tồn của mỗi cá thể mà khống chế được tâm giới của loài người.
Trên đây, chúng ta chỉ mới nhận xét tính chất tôn giáo ảnh hưởng vào cuộc sống con người song hành với đạo học và khoa học. Tuy nhiên, hễ có ảnh hưởng thì cũng có những phản ứng ngược chiều. Nếu đạo học đem tình thương chế ngự bản năng dục vọng, đem nhân đạo đến cho loài người, thì ngược lại, loài người lại lợi dụng lòng nhân đạo đó để lừa gạt, phỉnh phờ, mưu lợi riêng mình. Nếu khoa học chủ trương dùng lý trí con người cung ứng những phát minh vật chất, đem lại đời sống sung túc cho nhân loại, thì ngược lại, con người cũng lợi dụng sự phát minh vật chất ấy mưu lợi riêng tư. Ở lãnh vực tôn giáo cũng thế, nếu tôn giáo tự tạo cho mình một sức mạnh, khống chế tinh thần nhân loại, thì chính tôn giáo cũng lại bị con người lợi dụng tinh thần tín ngưỡng, dùng vào công việc dối gạt để mưu sinh.
Nói chung, sinh hoạt xã hội loài người là một trạng thái hỗn độn, phức tạp, chịu ảnh hưởng mọi mặt, và cũng chịu sự phản ứng mọi mặt. Nhìn vào đó, chúng ta có một cảm giác như một cuộn tơ rối bời, không còn rõ đâu là đầu mối nữa. Tuy nhiên, dù rắc rối đến bực nào nó chỉ là trạng thái phản ảnh sự diễn biến của ba hệ thống ý thức : đạo học, khoa học và tín ngưỡng mà thôi.
2) Tôn giáo ảnh hưởng vào đạo học
Tôn giáo khác với đạo học. Đạo học chủ trương giải quyết những rắc rồi của loài người trong thế giới hiện sinh. Tôn giáo chủ trương giải quyết những niềm tin con người trong thế giới siêu sinh. Tuy hai chủ trương khác nhau, song tôn giáo và đạo học có liên hệ về căn bản.
Chúng ta không kể những ý thức tín ngưỡng còn trong vùng thô sơ, chỉ gây thành tập tục, chưa đúc kết thành tôn giáo, thì đa số các tôn giáo đều có ảnh hưởng ít nhiều vào nền móng đạo học Đông-phương.
Thật vậy, vì chủ trương giải quyết con người ở cõi siêu sinh, tôn giáo không coi thế giới hiện sinh là trọng. Đối với tôn giáo, những gì của thế giới hiện sinh chỉ là hư ảnh, tạm thời, không tồn tại. Đã phủ nhận cuộc sống hiện hữu tất nhiên không một tôn giáo nào chấp nhận ý thức tranh đấu xã hội.
Từ chỗ không chấp nhận ý thức tranh đấu xã hội, tôn giáo đi đến chỗ phản đối những hành vi tàn bạo, bất công, ích kỷ của loài người gây thành thảm trạng trong cõi sống.
Ở lãnh vực này, chúng ta thấy đạo học và tôn giáo trở nên tương đồng như hai kẻ lữ hành gặp nhau nơi quán trọ. Một đàng vì nhân đạo đem lý trí chế ngự bản năng, cải tiến xã hội, một đàng vì muốn tạo nên một thế giới siêu sinh tốt đẹp, đả phá những xấu xa, hỗn độn trong thế giới hiện sinh.
Khi tôn giáo và đạo học đã gặp nhau ở điểm tương đồng ấy, tất nhiên phải có ảnh hưởng qua lại như hai dòng sông cùng chảy một chiều, trong mùa lụt lớn, nước có thể từ dòng sông này tràn sang dòng sông kia.
Ví dụ, Nho-giáo là một hệ phái của đạo học vẫn phải mượn ý thức tín ngưỡng của tôn giáo để củng cố nền móng đạo học của mình. Ngược lại, tôn giáo cũng phải dùng đến tinh thần nhân nghĩa, lòng vị tha của đạo học để làm nguyên nhân dẫn đến nguồn hạnh phúc của thế giới cực lạc siêu hình.
Tất nhiên, tôn giáo cũng có nhiều tín ngưỡng khác nhau, còn đạo học cũng có nhiều hệ phái khác nhau, chúng ta chỉ xét về những nét đại lược. Sự thật cũng có những nguồn tín ngưỡng không thích hợp với tính chất căn bản đạo học, hoặc cũng có những hệ phái đạo học không thích hợp với chủ trương của tôn giáo. Bởi vậy, qua lịch sử diễn biến của tôn giáo trên thế giới, không phải tôn giáo nào cũng có thể phát triển bất cứ trên địa hạt nào. Mỗi tôn giáo chỉ có thể phát triển mạnh mẽ ở những nơi mà dân tộc ấy thấy phù hợp với quan niệm nhân sinh của họ.
Các dân tộc Đông-phương sống trong truyền thống đạo học, lấy nhân nghĩa làm nền tảng, lấy lòng vị tha làm cứu cánh cho cuộc sống loài người, đó là một mảnh đất tốt, thích hợp cho Phật-giáo, một tôn giáo chủ trương từ bi, bác ái. Cho nên, dù hệ thuyết của Phật-học có bị chèn ép đến đâu đi nữa, tôn giáo ấy vẫn ảnh hưởng vào nền móng văn minh Đông-phương như một nhu cầu cần thiết cho lẽ sống.
3) Tôn giáo ảnh hưởng vào khoa học
Cũng như đạo học, khoa học chủ trương cải tiến xã hội loài người. Tuy nhiên, trái với đạo học, khoa học chỉ thỏa mãn nhu cầu vật chất, giải quyết mọi thiếu thốn trong lãnh vực mưu sinh, cho nên tinh thần khoa học bao giờ cũng đi ngược chiều với tinh thần tín ngưỡng. Một đàng lấy thực nghiệm chứng minh, một đàng lấy niềm tin tôn thờ nguồn sống. Khoa học và tín ngưỡng như hai kẻ đuổi bắt nhau trong một không gian huyền ảo. Tín ngưỡng chỉ thành công ở những nơi mà những huyền vi của vũ trụ còn bao trùm cả trí óc con người, và nó sẽ không còn tồn tại, một khi lãnh vực ấy bị ánh sáng khoa học chiếu vào, làm cho niềm tin của khối óc con người chạm phải thực tế.
Tính chất tín ngưỡng và khoa học trái ngược nhau như thế, nên khoa học càng tiến bộ càng dồn đuổi tín ngưỡng đến một địa hạt xa hơn, địa hạt mà ánh sáng khoa học chưa đủ khả năng rọi tới. Cho nên, trong lịch sử sinh hoạt xã hội, tinh thần tín ngưỡng không bao giờ đứng yên. Đó là do tác dụng diễn biến của khoa học ảnh hưởng vào tôn giáo.
Tuy nhiên, luật vũ trụ không bao giờ tác động một chiều. Nếu khoa học đã ảnh hưởng vào tôn giáo, đưa ý thức tôn giáo mỗi ngày một đổi mới, thì ngược lại tôn giáo cũng ảnh hưởng vào khoa học không phải ít.
Trước nhất, chúng ta hãy xác định giá trị con người. Dù bộ óc con người có thông minh đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của vũ trụ, không thể vượt ra ngoài sự chi phối của thiên nhiên để trở thành tạo vật chủ được. Khoa học ngày nay tiến bộ thật! Loài người đã hãnh diện với công trình của họ khi tạo ra những chiếc phi thuyền đưa người lên cung trăng, tuy nhiên, dù tiến bộ đến đâu, con người cũng chỉ làm được những cái gì vũ trụ đã có, mà không thể tạo ra những cái vũ trụ chưa có. Con người khi khám phá thiên nhiên cũng chỉ nhờ vào qui luật thiên nhiên mà tác thành những ý muốn của mình. Nói như thế cũng có nghĩa là con người chỉ có thể làm được những gì trong giới hạn của một sinh vật có trí khôn trong vòng chi phối của thiên nhiên mà thôi. Vượt ra ngoài định giới ấy, con người sẽ bất lực. Do đó, khoa học không bao giờ theo kịp tín ngưỡng, bởi một đàng phải cần đến kết quả thực nghiệm, một đàng chỉ cần kết quả của một niềm tin. Con người càng văn minh về khoa học thì niềm tin càng đi xa hơn để giải quyết những ưu tư, thắc mắc, mong muốn còn đọng lại trong tâm giới họ. Vì khoa học không thể đưa con người trở thành tạo vật chủ, nên khoa học cũng chẳng bao giờ giải quyết được ý thức tín ngưỡng. Ngược lại, tín ngưỡng ảnh hưởng rất mạnh vào nền văn minh khoa học, khi con người nhận thấy những phát minh khoa học chứng minh bộ óc con người bị giới hạn trong ảnh hưởng thiên nhiên.
Năm 1970, khi chiếc phi thuyền Apollo thứ 13 của người Mỹ phóng lên cung trăng bị trục trặc máy móc, chới với giữa không gian, cả thế giới đều một loạt đứng lên tổ chức những lễ cầu nguyện cho các phi hành gia trở về trái đất được bình an. Hiện tượng ấy không đủ chứng minh các bộ óc khoa học của con người khi hoảng hốt, không còn đủ bản năng tự tín mà phải trở về với tín ngưỡng để tự an ủi mình sao ? Cho nên, chiếc xe cứu thương bao giờ cũng cần thiết trong mọi lãnh vực chiến đấu. Tôn giáo không thể không cần đến trong trường đấu tranh xã hội, giữa con người và con người, hay trong địa hạt chinh phục vũ trụ, giữa con người và thiên nhiên.
Mặt khác, thế giới khoa học là một thế giới đấu tranh về vật chất, phát triển dục vọng cá nhân để hưởng thụ. Vì lẽ đó, nền văn minh khoa học càng tiến bộ bao nhiêu, ý thức tranh đấu và hành động tước đoạt giữa con người và con người càng nẩy nở bấy nhiêu. Sự vật lộn giữa con người và con người trong giới khoa học không thể không gây những đau khổ, thê lương. Đã có đau khổ trong xã hội loài người thì dù với nền văn minh khoa học, con người vẫn tìm đến tín ngưỡng, lấy tín ngưỡng làm nguồn an ủi, cũng như họ cần có chiếc xe cứu thương khi họ lâm nạn vậy.
4) Tôn giáo ảnh hưởng vào đời sống bình dân Việt Nam
Nhiều người ngoại quốc khi khảo cứu về tín ngưỡng Việt-nam đã phê bình : « Người Việt-nam có một tín ngưỡng hỗn độn, không phân biệt tôn giáo với mê tín. Họ pha trộn nhiều tôn giáo đến nỗi có nhiều gia đình cha theo đạo Phật, con theo đạo Thiên-chúa, hoặc Cao-đài, Tin-lành chẳng hạn. Họ chỉ nhận xét bề mặt, không chịu tìm hiểu sâu xa giáo lý của mỗi tín ngưỡng ».
Lời phê bình trên đây đối với người ngoại quốc chúng ta không cần bàn đến. Nhưng đối với người Việt-nam, dĩ nhiên chúng ta không thể nhận xét một cách phiến diện như vậy được.
Chúng ta không phủ nhận tính chất hỗn tạp trong lãnh vực tín ngưỡng Việt-nam, tuy nhiên, hỗn tạp không có nghĩa là nặng về mê tín, không tìm hiểu chân lý của mỗi tôn giáo để định rõ xu hướng.
Ông Toan-Ánh, trong quyển Tín ngưỡng Việt-nam có viết : « Tất cả mọi tôn giáo du nhập vào Việt-nam đều được đón nhận, và có thể phổ biến dễ dàng trong dân chúng, trừ những tôn giáo không phù hợp với nền luân lý của ta. Có những tôn giáo vào nước ta sau các tôn giáo khác, nhưng đã phổ cập rất mau chóng đến mọi từng lớp xã hội và được đồng thời cùng sùng tín với các tôn giáo khác, nhưng cũng có những tôn giáo chỉ mới lan truyền vào nước ta đã gặp khó khăn, một phần vì sự ngăn cản của chính quyền, một phần vì sự dè dặt của quần chúng. Lại có những tôn giáo khi tới Việt-nam đã bị từ khước hẳn, vì giáo điều đi ngược lại nếp sống thuần túy của dân ta ».
Chúng tôi đồng ý với ông Toan-Ánh về đoạn khảo luận này. Lịch sử phát triển tôn giáo thế giới đã ghi trên mảnh đất Việt-nam những thành công và thất bại của nó bằng những chứng tích, không ai có thể bôi xóa đi được. Nhưng chứng tích ấy lại chứng minh tinh thần xu hướng về tôn giáo của dân tộc Việt-nam không đến nỗi nông cạn, hỗn tạp đền bừa bãi.
Mặt khác, các nhà khảo cứu về tôn giáo Việt-nam cũng nhận xét : « Tất cả các giáo đạo hiện hành ở Việt-nam không có đạo nào là thuần túy của ta, kể các đạo Cao-đài mới sáng lập vào tiền bán thế kỷ 20, bởi một giáo chủ Việt-nam, nhưng thần thánh vẫn là lấy ở các đạo khác tập trung lại. Những tôn giáo ta tin theo nếu không do người Trung-hoa mang lại trong thời kỳ đô hộ thì cũng do người Tây-phương truyền đến trong những năm gần đây ».
Như vậy, các nhà khảo cứu về tôn giáo đã chứng minh dân tộc Việt-nam không sáng lập tôn giáo mà chỉ xu hướng vào các tôn giáo ngoại nhập.
Tại sao có việc lạ lùng như vậy ? Trước hết, chúng ta phải thừa nhận con đường từ tín ngưỡng tạo ra những tập tục, rồi dần dần đem những ý thức tín ngưỡng kết thành hệ thống giáo lý để dựng lên một tôn giáo không phải là ngắn ngủi. Dân tộc Việt-nam sớm bị Trung-quốc đô hộ, nền văn minh Trung-quốc, trong đó có tín ngưỡng, đã chi phối vào tinh thần người Việt, làm cho dân tộc Việt-Nam luôn luôn phải đối phó – chấp nhận và không chấp nhận những ngoại lai – không còn có một hoàn cảnh nào để tạo cho mình một ý thức hệ riêng tư được. Vả lại, khi tìm hiểu dân tộc tính, chúng ta đã thấy quan niệm về vũ trụ của dân tộc Việt-nam có một sắc thái khác biệt. Với sự khác biệt ấy tất nhiên người dân Việt-nam phải có cái gì không giống với những dân tộc khác, ít ra ở phần tính chất căn bản.
Mặt khác, tinh thần tín ngưỡng của loài người cũng phát triển theo trào lưu tiến hóa của nhân loại, nghĩa là nó cũng mở rộng theo nhịp sống của con người đối với thời gian, không gian. Cho nên, tín ngưỡng từ tính chất địa phương kết hợp với thời gian, không gian, lan dần đến lãnh vực tôn giáo có tính cách đại đồng thế giới.
Ở đây, chúng tôi tưởng cũng nên phân tích tại sao tôn giáo dễ mang tính chất đại đồng thế giới hơn những học thuyết về triết lý xã hội, hoặc những hệ thuyết về đạo học ?
Sở dĩ tôn giáo mang tính chất cộng đồng vì nó không chủ trương cải tạo thế giới hiện sinh, mà chỉ lo cho thế giới siêu sinh. Ở thế giới ấy loài người chỉ có tín ngưỡng mà không có mâu thuẫn quyền lợi thực tiễn, cho nên, mọi người không đặt ý thức ganh ghét, vị kỷ. Đã không xem tôn giáo là mảnh đất để cạnh tranh quyền lợi thì dù với tôn giáo nào, nếu không đặt ở đó một niềm tin, cũng chẳng ai muốn kích bác.
Với tính chất tìm về cõi siêu hình, tôn giáo đứng ngoài phạm vi chánh trị – trừ những tôn giáo lợi dụng hình thức tu hành để mưu lợi riêng. Không dính líu với chính trị, được loài người coi là « thoát tục », « lánh đời ». Đã lánh đời, thoát tục, con người của thế giới hiện sinh không còn xem tôn giáo như một đối tượng của xã hội loài người nữa. Do đó, tôn giáo được tự do khai triển, mở rộng không gian, ăn nhịp với thời gian, lan truyền một cách mau chóng trong cõi sống loài người. Trong lúc đó những nền móng đạo học, khoa học thường đi đôi với chính trị, lấy chính trị làm phương tiện phổ biến, lấy yếu tố mưu sinh làm căn bản cho sự phát triển, vì vậy mà đạo học cũng như khoa học bị cuộc sống con người chèn ép, không có tính chất đại đồng như tôn giáo được.
Trở lại vấn đề tôn giáo đối với dân tộc Việt-nam. Sở dĩ có rất nhiều tôn giáo du nhập vào Việt-nam và được tự do bành trướng là do ý thức người Việt-nam xem mọi tôn giáo đều đứng ngoài vòng tranh chấp của thế giới hiện sinh, và trên tinh thần tín ngưỡng, mỗi tôn giáo đều có một giá trị ngang nhau.
Khi nói đến tín ngưỡng, dân tộc Việt-nam không dùng lý trí xác định mà chỉ lấy niềm tin và căn bản cho lẽ phải mà thôi. Quan niệm như vậy không là hỗn độn, mà chỉ tránh trạng thái độc tôn, tự kỷ trong cảm giới con người. Sự chấp nhận nhiều tôn giáo trong sinh hoạt xã hội Việt-nam bắt nguồn từ ý thức ấy.
Tuy nhiên, khi tôn giáo đã xâm nhập vào sinh hoạt xã hội Việt-nam, dân tộc Việt-nam không thể tránh khỏi những ảnh hưởng của nó.
Trước nhất, nói đến ảnh hưởng của tôn giáo trong sinh hoạt xã hội, chúng tôi phải nói đến đạo Phật, bởi vì đạo Phật là một tôn giáo phát sinh từ Đông-phương, kết tinh của mọi tín ngưỡng Đông-phương, và không trái với nền văn minh đạo học. Nhiều nhà khảo cứu về tôn giáo đã nhận xét dân tộc Việt-nam chín mươi phần trăm đều xu hướng Phật-học. Lời nhận xét ấy không phải vô căn cứ.
Khi nói đến chín mươi phần trăm dân tộc, tất nhiên đa số là người bình dân. Như vậy, chúng ta thử tìm xem đạo Phật đã ảnh hưởng vào sinh hoạt xã hội bình dân như thế nào ?
Về ý thức -
Đạo Phật chủ trương luân hồi và nhân quả. Chủ trương ấy đem lại niềm tin trong dân gian là khi người ta chết, phần hữu hình là thể xác bị hủy diệt, còn phần vô hình là linh hồn sẽ về cõi Cực-lạc hay phải xuống địa ngục, hoặc đi đầu thai một kiếp khác – kiếp người hay kiếp thú – tùy theo sự ăn ở hiền lành hay độc ác mà lúc sinh thời đã gây nên quả báo ấy. Trong ca dao bình dân, chúng ta thấy có những câu như :
Lênh đênh qua cửa thần phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.
Chìm, nổi là thể hiện của nhân quả ở thế giới siêu sinh. Khi ý thức như vậy, chính người bình dân đã chịu ảnh hưởng Phật học.
Trong những tác phẩm về văn chương bình dân như thơ Phạm-Công Cúc-Hoa, Lâm-Sanh Xuân-Nương hoặc những truyện Con Tấm Con Cám đều tiêu biểu cho tính chất luân hồi và nhân quả của Phật học, mà người bình dân Việt-nam rất say mê, thích thú.
Chẳng những thế, trong một số chuyện dân gian chúng ta còn thấy người bình dân hình dung cả một thế giới của cõi chết. Đó là địa ngục và niết bàn (hay cõi Phật).
Theo niềm tin của họ :
Linh hồn con người trước khi lên niết bàn hoặc đi đầu thai kiếp khác đều phải qua Phong đô đại đế và Thập điện Diêm-vương.
Phong-đô là một thế giới cõi âm, được gọi là « âm ty » hay âm phủ.
Bởi vậy trong ca dao có những câu như : « Sống chơi trần thế, thác về âm ty ».
Ở cõi âm ty có mười vị Diêm-vương, với những quyền hành và nhiệm vụ riêng. Mỗi vị Diêm-vương lại có một vị phán quan và nhiều ngục quan cùng quỉ sứ để giúp việc thưởng phạt người trần.
Mỗi người chết, trong lúc gia quyến đang lo việc ma chay, chôn cất, thì hồn người chết đã bị quỉ vô-thường, loại quỉ có trách nhiệm đón linh hồn người quá cố dấn đến thập điện Diêm-vương. Nơi đó có sổ sách ghi rõ số mạng và tội ác từng người. Nếu kẻ nào chưa đến số, bị quỉ bắt lầm thì được trả hồn về, người chết sẽ sống lại, còn người nào đã đến số, Diêm-vương sẽ theo tội ác lúc sống trên trần gian mà thưởng phạt. Người nào làm lành nhiều dữ ít thì được đầu thai trở lại làm người để hưởng vinh hoa, phú quí. Nếu người nào dữ nhiều lành ít thì hoặc đầu thai làm súc vật, hoặc bị xử trị bằng những hình phạt nặng nề như róc xương, xẻ thịt, rút gân, nấu dầu chẳng hạn.
Vì có những niềm tin như vậy nên trong ca dao bình dân có những câu như :
Con gái bỏ chồng theo trai,
Chết xuống âm phủ cưa hai nấu dầu.
Ảnh hưởng vào Phật-học, chẳng những người bình dân Việt-nam xem xã hội hiện sinh như là cõi sống tạm :
Đời người như bóng phù du,
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng.
Mà họ còn đặt hy vọng ở những đổi thay về căn kiếp. Ví dụ đôi trai gái yêu nhau mà không được lấy nhau, họ than thở :
Kiếp này duyên lỡ làng duyên,
Kiếp sau xin hẹn cửu tuyền gặp nhau.
Hoặc họ chán ngán vì cảnh sống thực tại như :
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Tất cả những ý thức phổ cập trong ca dao với quan niệm căn kiếp, đều do ảnh hưởng của đạo Phật cả. Từ ý thức, đạo Phật ảnh hưởng vào sinh hoạt.
Về sinh hoạt -
Nói đến sinh hoạt, trước nhất chúng ta thử lược dẫn vài nét lịch sử của đạo Phật trong quá trình phát triển đối với xã-hội Việt-nam.
Đạo Phật lúc đầu chỉ thịnh hành ở Ấn-độ, về sau mới lan truyền sang Trung-hoa, rồi đến Việt-nam.
Tại Trung-hoa, đời vua Hán Võ-Đế, sau khi Ban-Siêu đi sứ Tây-vức trở về, ngưởi Trung-hoa mới biết đến đạo Phật.
Ở Việt-nam, theo sử chép thì vua Đinh Tiên-Hoàng là người đầu tiên mến đạo Phật, nên phong Hòa-thượng Khuông-Việt làm thái sư.
Sau vua Đinh Tiên-Hoàng, vua Lê Đại-Hành vẫn dùng Hòa-thượng Khuông-Việt và sai sứ sang Tàu để cầu kinh Tam-tạng.
Đến đời nhà Lý, đạo Phật rất thịnh hành. Các bậc danh Nho bắt đầu nghiên cứu những ý nghĩa thâm thúy của giáo lý đạo Phật. Các chùa chiền được dựng lên khắp nơi, dân chúng tham gia vào việc đúc chuông, tô tượng và có xu hướng mạnh về việc tu hành.
Tuy nhiên, từ đời Hậu Lê trở về sau, triều đình trọng về đạo học mà nhẹ về tín ngưỡng, nên đạo Phật chỉ còn lại trong lòng một số ít dân chúng mà thôi.
Thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, miền Bắc chúa Trịnh vẫn tiếp tục chủ trương nâng đỡ đạo học, làm cho đạo Phật càng sút kém hơn, nhưng ở miền Trung, thuộc quyền chúa Nguyễn, đạo Phật lại bắt đầu hưng thịnh. Chính quyền Nguyễn-Hoàng đã xây chùa Thiên-mụ vào năm 1601 tại Thuận-hóa.
Nhưng đến thời Tây-sơn, đạo Phật miền Trung nước Việt lại lâm vào một cơn khủng hoảng. Vua Tây-sơn bắt các thầy tu phải nhập ngũ, chùa chiền bỏ vắng, các tượng phật bị phá hủy hoặc điêu tàn.
Đến thời vua Gia-Long lập lên nhà Nguyễn, thống nhất sơn hà, đạo Phật vẫn còn chịu cảnh đen tối, bởi vì nhà Nguyễn đã dùng tín ngưỡng làm lợi khí chính trị. Đạo Phật chỉ còn như cái xác không hồn.
Bắt đầu từ khi người Pháp sang đô hộ nước ta, Phật-giáo lại đi vào chỗ suy kém hơn. Người Pháp đã tận tình nâng đỡ Thiên chúa giáo, chèn ép đạo Phật trong mọi phương tiện hoạt động và phát triển.
Tuy vậy, đạo Phật vẫn không vì thế mà bị hủy diệt trong chính sách thực dân đô hộ. Đi đôi với phông trào chấn hưng đạo Phật ở Trung-hoa vào năm 1920, các tín đồ Phật-giáo Việt-nam âm thầm vận động thành lập những hội nghiên cứu Phật-học. Năm 1931, tại Sài-gòn, một hội Nam-kỳ nghiên cứu Phật-học được thành hình. Tiếp theo ở Trung-Việt năm 1932 và ở Bắc-Việt năm 1934, các hội Phật-học này đều do những tăng già và tu sĩ đứng ra chủ trương với mục đích chỉnh đốn chùa chiền, vãn hồi qui giới, phổ biến tinh thần Phật-học trong đại chúng bình dân.
Đến năm 1951, một hội nghị toàn quốc gồm các đại diện vừa tu sĩ vừa cư sĩ được tổ chức tại Huế, mục đích thống nhất các hội cư sĩ và cải cách nội bộ Phật-giáo thành một hệ thống.
Năm 1955, đạo Phật lại thành lập Hội Phật-giáo Việt-nam thống nhất.
Căn cứ vào diễ biến trên dòng thời gian gần hai mươi thế kỷ, chúng ta phải ghi nhận ảnh hưởng của Phật-giáo đối với lớp người bình dân không phải ít. Với tính chất thăng trầm của một hệ thống ý thức về tín ngưởng, nếu đạo Phật không được quần chúng Việt-nam bảo vệ và duy trì thì thật khó tồn tại trước mọi biến cố chính trị. Sở dĩ đạo Phật trường tồn trong lòng dân chúng vì những lý do sau đây :
Đạo Phật không trái với nền triết lý Đông-phương.
Qua mọi biến chuyển chính trị, dân tộc Việt-nam càng bị thống khổ bao nhiêu thì đạo Phật càng đem lại niềm an ủi bấy nhiêu trong lãnh vực tín ngưỡng.
Đạo Phật thực tế thoát ra ngoài mọi tranh chấp xã hội, gây được niềm tin qua giáo lý và sự hiện hữu của họ.
Chính vì các lý do trên, trong sinh hoạt xã hội Việt-nam, ý thức tín ngưỡng được hòa hợp một cách nhẹ nhàng khiến chúng ta không còn tìm thấy những gay cấn giữa hai nguồn sống đạo và đời nữa.
Bên cạnh đình làng, một ngôi chùa ẩn mình trong rặng cây, tĩnh mịch, từng tiếng chuông ngân trong hoàng hôn, giữa lúc mọi mái nhà lơ lửng vài vệt khói lam, cảnh tượng quen thuộc ấy có ai phân biệt được cùng một không gian, chứa đựng hai cảnh sống đạo và đời ? Trái lại, nếu ở vùng nào lúc rạng đông cũng như bảng lảng chiều, mà không có tiếng chuông ngân, lòng người sẽ cảm thấy như thiếu một cái gì trong nếp sống cũng như bầu vũ trụ có ánh trăng trong mà thiếu cơn gió mát vậy.
Sự hòa hợp ấy biểu hiện lòng khao khát tín ngưỡng của dân tộc, và chính đạo Phật đã cung cấp niềm vui trong nguồn thiếu thốn ấy.
Nói đến ảnh hưởng của đạo Phật trong sinh hoạt xã hội Việt-nam, chúng ta phải nói đến chùa chiền.
Chùa chiền ngày xưa không xây cất ở thành thị, chỗ đông người, mà chỉ dựng lên ở các vùng quê hẻo lánh. Tuy đó là chủ trương của kẻ tu hành, xa lánh những hoạt động của thế sự, nhưng lại tạo thành một yếu tố khiến cho lớp người bình dân Việt-nam, phần lớn là nông phu, gần gũi với sinh hoạt tín ngưỡng nhiều hơn.
Bởi vậy trong ca dao Việt-nam, chúng ta thấy nói đến chùa chiền khá nhiều. Ví dụ những câu như :
Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ đi tu không đành.
Nghiêng vai ngửa vái Phật Trời,
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân.
Ngó qua chùa lớn làm chay,
Thỉnh ông Tiêu-viện, thỉnh bà Quan-âm.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
Vô chùa thắp một nắm nhang,
Miệng khấn, tay vái bốn phang chùa này.
Chùa này có một ông thầy,
Có hòn đá tảng, có cây ngô đồng.
Hoặc những câu hài hước như :
Lên chùa thấy tiểu mười ba,
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm.
Ước gì một tháng đôi rằm,
Trước là lễ Phật, sau thăm vãi già.
Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Ai làm cho dạ sư sầu,
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây.
Sư dương tụng niệm Nam-mô,
Thấy cô xách giỏ mò cua bên chùa.
Lòng sư luống những mơ hồ,
Bỏ cả kinh kệ, tìm cô hỏi chào.
Ai ngờ cô đi đàng nào,
Tay cầm tràng hạt, sư vào băn khoăn.
Tiểu tôi, tiểu kính, tiểu hiền,
Bao nhiêu chùa chiền, tiểu đốt tiểu đi.
Thịt chó tiểu đánh tì tì,
Bao nhiêu chỗ lội tiểu thì cắm chông.
Nam-vô xứ Bắc, xứ Đông,
Con gái chưa chồng thì lấy tiểu tôi.
Ở đây chúng ta đặt ra ngoài ý nghĩa trung thành và chống đối. Phương diện này, chúng ta đã nhận xét một mục khác.
Cứ như tầm ảnh hưởng của đạo Phật trong sinh hoạt dân gian, ăn sâu vào ca dao, đủ chứng minh rằng sinh hoạt của đạo Phật đã đi vào nguồn sống người bình dân rồi. Những câu hát dí dỏm vắt vẻo nơi lưng đồi hòa hợp với tiếng chuông, tiếng mõ. Những âm thanh ấy có lúc hòa điệu, có lúc tách rời ra để chứng minh sự hiện hữu của hai đối tượng : siêu sinh và hiện sinh. Chúng ta làm sao phủ nhận được những chứng tích ấy trên dòng lịch sử sinh hoạt xã hội.
Trên đây, chúng ta mới chỉ nói riêng về ảnh hưởng của đạo Phật trong dân gian. Nhưng ở Việt-nam không chỉ có đạo Phật mà còn nhiều tôn giáo khác nữa.
Như ở đoạn trên, chúng ta đã xác định, dân tộc Việt-nam chỉ có tín ngưỡng mà không có tôn giáo. Cho nên tín ngưỡng đã dựa trên một số giáo lý của các tôn giáo ngoại lai, gây thành một trạng thái hỗn độn trong mọi niềm tin.
Các sử gia Việt-nam, khi đề cập đến tôn giáo, đều nhận xét : « Cũng như bất cứ dân tộc nào trên thế giới, từ Đông sang Tây, từ Bắc đến Nam, qua các châu Âu, Á, Mỹ, Úc, Phi lúc sơ khởi người Việt-nam tôn thờ và tín ngưỡng tất cả những sức mạnh vô hình như : Trời, Đất, Sấm, Sét, Gió, Mưa, Nước, Lửa, Núi, Sông, Trăng, Sao, v.v… Dần dần ý thức trưởng thành qua suy tư, lại thêm ảnh hưởng của nền văn minh Trung-hoa, cho đến khi tiếp xúc với nền văn minh Tây-phương thì ý thức tín ngưỡng của dân ta chỉ còn lại trong việc tôn thờ Trời, Phật, Thần, Thánh và tổ tiên. Đối với tôn giáo, sau cuộc tiếp xúc với nền văn minh Tây-phương, từ thế kỷ thứ XVI cho đến nay, người Việt-nam chỉ còn lại có mấy khuynh hướng : đạo Phật, đạo Thiên-chúa, đạo Tin-lành, đạo Cao-đài, đạo Bah’ai, v.v… »
Dĩ nhiên, mỗi tôn giáo đều có một lịch sử phát triển qua thời gian, không gian, và có ảnh hưởng hoặc ít, hoặc nhiều. Tuy nhiên so với đạo Phật, các tôn giáo khác một phần vì không hợp với nền văn minh Đông-phương, một phần vì thời gian du nhập không sâu xa bằng đạo Phật, nên tầm ảnh hưởng không rộng rãi bằng.
Để chứng minh điều đó, chúng ta có thể lấy ca dao làm tiêu biểu. Trong ca dao Việt-nam có rất nhiều câu nói về đạo Phật, mà các đạo khác không thấy nói đến hoặc chỉ một phần nhỏ nào không phổ cập. Cho đến những tích truyện dân gian cũng thế, những câu chuyện có liên quan đến đạo Phật được tác thành gần như những thần thoại có tính chất giáo điều được lớp người bình dân truyền tụng từ thế hệ này, qua thế hệ khác, trong lúc các tôn giáo khác không hề được ca dao và truyện dân gian nhắc nhở đến.
Tuy nhiên, dù với tôn giáo nào, đã không là của dân tộc thì đó cũng chỉ là một nguồn an ủi, đến với người bình dân trong quá trình sinh hoạt xã hội, mà một dân tộc phải gánh chịu triền miên dưới ách đô hộ của mọi chế độ chính trị. Sự khổ đau ấy cần một nguồn tín ngưỡng để an ủi và giải thoát tâm hồn, nhưng cũng vì sự đau khổ ấy mà tâm hồn người dân Việt tiếp nhận mọi niềm tin một cách hỗn độn, không cần phân tích miễn sao niềm tin làm vơi bớt những đau khổ hiện tại bằng một hy vọng ở một thế giới khác hơn là thế giới hiện sinh.
Trên đây chúng ta đã xác định vị trí của tôn giáo trong xã hội loài người. Tôn giáo bắt nguồn từ tín ngưỡng, nghĩa là khi tín ngưỡng đã trở thành một hệ thống có tổ chức, có giáo lý thì tín ngưỡng mới trở thành tôn giáo. Tuy nhiên, khi đã trở thành tôn giáo, thì tôn giáo lại ảnh hưởng ngược về lãnh vực tín ngưỡng, khiến cho những niềm tin sơ khởi của mỗi dân tộc chịu ảnh hưởng và tác động bởi các hệ thống tôn giáo đã thành hình.
Ở Việt-nam, trong xã hội bình dân có rất nhiều tín ngưỡng. Nó là sản phẩm của dân tộc tính, chi phối hầu hết những phong tục, tập quán người dân. Tuy nhiên, tín ngưỡng Việt-nam cũng không làm thế nào giữ được bản chất nguyên vẹn trong lúc xã hội Việt-nam bị những hệ thống tôn giáo bên ngoài tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ trong sinh hoạt hàng ngày. Do đó, tín ngưỡng Việt-nam từ nguồn gốc dân tộc lần lần được giai thích theo tinh thần cấu tạo qua mọi triết thuyết tôn giáo.
Sau đây, chúng ta thử lược dẫn một số tín ngưỡng đã tác động vào cuộc sống bình dân và tồn tại mãi với thời gian, không gian.
1) Việc thờ cúng thần linh
Ở đây chúng ta phải phân biệt ý thức thần thoại và sự diễn biến của tín ngưỡng.
Trong bài khảo sát về thần thoại Việt-nam, chúng ta đã xác định Việt-nam không có thần thoại, bởi vì dân tộc Việt-nam có một vũ trụ quan khác biệt. Mọi sức mạnh hữu hình cũng như vô hình đều được dân tộc Việt-nam tôn thờ, và tin tưởng, xem như một khả năng của thiên nhiên.
Dần dần ý thức tín ngưỡng chịu ảnh hưởng các hệ thuyết của tôn giáo, sự thờ cúng thần linh xuất hiện trong dân gian, song hành với mọi tín ngưỡng khác tạo thành những tập tục.
Tại sao có việc thờ cúng thần linh ? Dĩ nhiên đó chỉ là hiện tượng của tín ngưỡng. Tôn giáo đã đem đến cho loài người một thế giới siêu hình. Khi đã có thiên đàng, địa ngục, tất nhiên ngoài thế giới hữu hình còn có thế giới vô hình, và thế giới vô hình cũng tác động vào thế giới hữu hình.
Sự tôn thờ thần linh ở Việt-nam, theo các nhà khảo cứu về phong tục, được chia ra làm hai loại : loại thờ nơi công cộng và loại thờ ở tư gia.
Các vị thần thờ nơi công cộng như đình, miếu, am, v.v…
Các vị thần thờ nơi tư gia như Ông Tóa, Ông Địa, Thần Tài, v.v…
Nói chung, ý thức thờ thần dù công cộng hay tư gia đều do nguồn gốc tín ngưỡng chi phối cả. Tín ngưỡng đã đưa đến tôn giáo một hệ thống siêu nhiên, và thế giới siêu nhiên ngự trị trong niềm tin của loài người, tác động là sinh hoạt hiện hữu, cho nên trong cõi sống người ta hình dung đến cõi chết, trong cõi hữu hình người ta liên tưởng đến cõi vô hình.
Sự liên hệ giữa cõi hữu hình và cõi vô hình tuy thuộc về phạm vi tín ngưỡng, nhưng cũng không thoát ra ngoài trạng thái sinh hoạt xã hội. Nếu trong khổ đau, sợ hãi, tuyệt vọng, người ta cần tìm một sự che chở làm cứu cánh, thì ý thức tôn thờ thần linh chính là sự cầu cứu của con người trong những hoàn cảnh ấy.
Chúng ta tôn thờ thần tài chỉ vì chúng ta sống trong nghèo khổ, thiếu thốn nên ước mong được có một khả năng che chở.
Chúng ta tôn thờ Ông Táo chỉ vì hy vọng mọi sự no ấm, được bát cơm đầy ngày hai bữa với bếp lửa hồng.
Chúng ta tôn thờ Thổ Thần vì mong ước nơi cư trú không xảy ra những điều bất an.
Từ chỗ ước mong, hoặc sợ hãi, việc thờ cúng thần linh lần lần lan dần trong mọi địa hạt. Ví dụ, tai một khúc sông kia có một hòn đá lớn, dân chúng trong vùng sống về nghề chài lưới, mỗi khi qua đường thắp hương, đốt vàng bạc để cầu xin sự bình yên. Có khi ở một cửa biển thường xảy ra sóng gió, mỗi khi thuyền bè qua lại, các thuyền chủ thường đốt vàng, hương ném xuống nước để cầu khấn. Trên những chân đèo, nơi xe cộ qua lại, chúng ta cũng thường thấy dân chúng lập lên những chiếc bàn thờ nhỏ, khách qua đường đến đó ghé lại thắp hương để cầu xin cho xe cộ được bình yên. Hoặc ở một khu rừng hẻo lánh chúng ta cũng thường bắt gặp một bàn thờ nhỏ, dưới một tàn đại thọ, thờ cúng một vị chúa rừng…
Tóm lại, chúng ta khó kể hết các vị thần linh được dân gian thờ cúng, bởi vì nó là sản phẩm của tín ngưỡng. Một sức mạnh có thể là một vị thần, mỗi nghề nghiệp cũng có một vị thần riêng. Cho đến các linh thú như : long, lân, qui, phụng, người ta cũng tôn thờ. Kể cả một con vật có nghĩa, người ta cũng tôn thờ sự có nghĩa của nó.
2) Việc thờ cúng cô hồn
Khi tín ngưỡng đã chịu ảnh hưởng tôn giáo, hình dung một thế giới vô hình, trong đó có thần linh tất nhiên thế giới vô hình ấy lại cũng dung nạp hồn người chết. Đó là cõi siêu sinh.
Theo tín ngưỡng Việt-nam thì cô hồn là những vong hồn bị chết oan, nghĩa là chưa đến số nên chưa thể đi đầu thai hóa kiếp, phải chờ đợi một thời gian. Trong thời gian đó, cô hồn không có nơi nào nương tựa, phải ẩn náu ở những cây cao bóng mát, góc chợ đầu đình, sườn non ghềnh đá, v.v… Khác với thần linh, cô hồn cũng như dân gian trong cõi sống, không có quyền hạn trong thế giới siêu hình, mà chỉ phá phách, đòi ăn đòi uống, bắt bớ người trần gian để cúng kính. Vì vậy, cô hồn cũng được người trần gian gọi là ma quái.
Vì sợ cô hồn phá phách nên những kẻ tín ngưỡng về cô hồn thường hay cúng kính, van vái để được che chở, dung tha.
Việc thờ cúng thần linh và cô hồn dần dần trở thành tập tục trong tín ngưỡng, và ca dao Việt-nam đã phản ảnh rất nhiều về phạm vi tín ngưỡng này. Ví dụ họ bảo :
Ở cho phải phải phân phân,
Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
Đất có thổ công,
Sông có Hà-Bá.
Ma bắt coi mặt người ta,
Mấy người nhớn nhát thì ma bắt hoài.
Chẳng những chỉ có trong ca dao mà trong những câu truyện về quỉ thần rải rác trong dân gian không biết bao nhiêu mà kể. Cho nên, chúng ta có thể nói tôn giáo ảnh hưởng vào tín ngưỡng Việt-nam rất sâu rộng.
3) Tín ngưỡng về phù thủy
Từ chỗ tin vào thế giới vô hình do thần linh và cô hồn ngự trị, người ta lại dần dần tin đến những pháp thuật cầu thần, trừ ma, yếm quái.
Nhiều nhà khảo cứu về tín ngưỡng đã gán cho những yêu thuật là ảnh hưởng của đạo Lão. Tuy nhiên, theo sự khảo cứu của chúng tôi thì pháp thuật, bùa chú xuất phát ở tín ngưỡng mà ra, còn đạo Lão là một hệ thuyết về đạo học. Đạo học với tín ngưỡng không thể cùng chung một gốc được. Đó chỉ là một sự lầm lẫn.
Ma quái ở thế giới vô hình, theo tín ngưỡng, tác oai, tác quái vào đời sống dân gian. Một luồng gió trót, một bóng lửa xanh có thể là hiện tượng của ma quái. Trong bóng tối dày đặc của đêm trường nơi hẻo lánh, ai có thể ngăn cản nổi sự sợ hãi của con người đối với bề sâu của cảnh vật. Cảnh vật, nếu đã cung cấp cho loài người những mỹ cảm thiên nhiên thì mang đến cho loài người những hiện tượng kinh rợn của thiên nhiên. Ví như ở biển xanh, chúng ta thấy đẹp, nhưng chúng ta lại cũng thấy ở đó những hiện tượng giết người thảm khốc.
Tất cả những gì làm cho loài người kinh sợ ở thế giới vô hình đều được gọi là ma quái. Ma quái đến với đời sống con người bằng sự phá phách, đòi hỏi, tàn nhẫn. Bởi vậy, trong ca dao Việt-nam đã có câu :
Nhất quỉ, nhì ma,
Thứ ba học trò.
Học trò ưa phá phách nhất, nhưng cũng không bằng ma quỉ.
Một đứa bé sơ sinh vang mình sốt mẩy, người ta nghi cho ma quỉ phá phách. Một cô gái đi chợ về trưa bị xây xầm mặt mày, người ta cũng nghi cô đã vướng phải chỗ cây cao bóng mát.
Ngày nay chúng ta bảo là mê tín, dị đoan bởi vì niềm tin ấy không còn tồn tại trong thế giới thần linh của chúng ta nữa. Tuy nhiên, đối với kẻ tín ngưỡng không thể bảo là mê tín được. Tín ngưỡng không thể dùng lý trí để giải thích, mà lý trí đôi khi cũng cần đến tín ngưỡng để cứu lấy những đau khổ của mình trong cuộc sống giữa xã hội loài người.
Như vậy, tín ngưỡng đem đến cho loài người một nguồn an ủi, đồng thời cũng mang lại một sự sợ hãi. Từ chỗ tin ở thế giới vô hình có thể cứu rỗi kiếp sống con người thoát ra khỏi bánh xe luân hồi, con người lại đi đến chỗ sợ tà ma, quỉ quái.
Khi đã tin rằng có tà ma, quỉ quái ở cõi vô hình phá phách tất nhiên con người phải cần đến một quyền phép nào để trừ khử. Nhưng thầy phù thủy sở dĩ xuất hiện trong sinh hoạt con người chính là để đáp ứng như cầu tín ngưỡng ấy.
Đối với tôn giáo, vai trò phù thủy bị xem như tà đạo. Tuy nhiên, không phải vì thế mà vai trò phù thủy không tồn tại trong cuộc sống loài người khi nào con người còn tin ở cõi vô hình có tà ma, quỉ quái luôn luôn đe dọa, phá phách họ.
Nói về phép tắc của các thầy phù thủy tại Việt-nam cũng như Ấn-độ, Phi-châu, v.v… đều tin rằng thầy phù thủy có phép luyện âm binh, âm tướng, thường đêm khuya đến những nơi tha ma vắng vẻ đốt hương luyện bùa khiến các âm hồn phải phục tùng mệnh lệnh của mình.
Có kẻ cho rằng thày phù thủy cao tay có thể bắt ấn, niệm chú cho người sống xuống được âm phủ tìm giáp mặt người chết để trò chuyện.
Lại có kẻ cho rằng thầy phù thủy có thể khiến âm binh làm những công việc trên trần như tát nước, ném gạch vào nhà người khác, v.v…
Ông Nguyễn-đình-Chiểu trong tập thơ Lục Vân Tiên đã dựa vào tín ngưỡng Việt-nam, mô tả tài phép một thầy phù thủy như sau :
Đồng rằng : « Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma, ếm quỉ, phép thầy rất hay ».
Pháp rằng : « Ấn đă cao tay,
Lại thêm phù, chú xưa nay ai bì.
Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.
Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim, khiến vượn, đuổi lừa, vật trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu,
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.
Phép hay sái đậu thành tinh,
Hiện hình làm tướng phá thành Diêm-vương ».
Vì tin ở tài năng, pháp thuật như vậy, nên những gia đình nào có người chết nhằm giờ xấu, sợ bị hung thần tra khảo, phải nhờ thầy phù thủy vẽ bùa trấn ếm quanh nhà và quan tài để áp đảo tà ma.
Khi người đau ốm cho là do tà ma quấy phá, người ta cũng rước thầy phù thủy đến chuyên chữa.
Trong lúc chữa bệnh, thầy phù thủy thường bắt gia chủ lập đàn tràng, mổ gà vịt, nấu xôi, làm bánh để khao thưởng âm binh âm tướng.
Tuy nhiên, đối với người Việt-nam, mặc dù chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng, phần đông không mấy tin tưởng vào pháp thuật. Chính họ đã nói : « Đau chân há miệng ».
Nó chỉ là tiếng rên than khi con người tuyệt vọng không còn biết nương cậy vào đâu để cứu vãng nữa. Một người mẹ vừa lìa trần, đứa con quá đau xót đến nỗi làm những cử chỉ vô nghĩa. Đó là chuyện thường có trong cuộc sống loài người.
Để chứng minh dân tộc Việt-nam không phải vì tín ngưỡng để cho các thầy phù thủy bày trò lừa gạt, chúng ta thử nhìn họ qua vài câu tục ngữ, ca dao tiêu biểu sau đây :
Họ bảo :
Thầy phù thủy không ai bắt thường đầu gà.
Hay họ châm biếm :
Huých phà ! Ba cái đầu gà thầy xơi hết !
Hoặc họ hài hước :
Châu sa đố lộn phàn sa,
Có thầy phù thủy vẽ ra ông bùa !
Trong một vài câu chuyện truyền miệng giữa dân gian, họ còn làm cả một bài vè trào phúng như :
Chốc chốc, cheng cheng,
Nấu chè đậu đen,
Nấu xôi nếp quạ.
Tôi tưởng thầy lạ,
Ai ngờ thầy quen,
Đóng cửa cài then,
Tắt đèn đi ngủ.
4) Tín ngưỡng về đồng bóng
Niềm tin về đồng bóng cũng do ý thức sợ sệt ma quái mà có. Nếu ở lãnh vực phù thủy người ta tin rằng con người có thể luyện nên pháp thuật để trừng trị và điều khiển ma quái, thì ở lãnh vực đồng bóng người ta lại tin cậy vào sự che chở của các vị từ tâm trong cõi vô hình.
Đồng bóng không cậy vào pháp thuật. Họ chỉ dùng một xác phàm cho một vong hồn nào đó mượn để nhập vào mách bảo những điều cần phải làm để tránh những tai nạn do ma quái quấy rối.
Những người được các vong hồn nhập vào mượn xác, người ta gọi là đồng cốt. Đồng cốt có thể đàn ông hoặc đàn bà, và thường thường họ thờ các vị sau đây : Liễu-Hạnh công chúa, Cửu thiên huyền nữ, Thượng Ngàn công chúa, hoặc các vị hoàng tử, các cậu các cô.
Bởi vậy đồng cốt chia ra làm nhiều loại : đồng Đức Mẹ, đồng Đức Ông, đồng Cậu, đồng Cô… tùy theo người tôn thờ đối với vị nào.
Thờ các bà Công-chúa gọi là đồng Đức Mẹ.
Thờ các vị Hoàng-tử gọi là đồng Đức Ông.
Thờ các cậu gọi là đồng Cậu.
Thờ các cô gọi là đồng Cô.
Tuy nhiên, theo tín ngưỡng của dân gian, không phải ai muốn làm nghề đồng cốt cũng được. Người muốn làm nghề đồng cốt phải có căn đồng, nghĩa là người nào được các vị linh thiêng bằng lòng mượn xác mới được.
Thế nào là người có căn đồng? Trong tập Tín ngưỡng Việt-nam, ông Toan-Ánh có nói về đồng cốt và cách thờ cúng như sau :
Không phải tự nhiên ai cũng lập điện thờ, hoặc cũng tới điện để lên đồng lên bóng. Thường đồng cốt phần lớn là đàn bà. Những bà, những cô hay đau yếu, hoặc đôi khi mặt đỏ rần rần, nằm mơ thấy bay lên không, thấy lội dước nước, đi xem bói, đi lễ bái được thầy bói hoặc các ông đồng bà cốt bảo là có số thờ, thánh bắt đồng. Người có số thờ này đem vàng hương tới một cửa điện xin làm con công đệ tử và phải đội bát phù hương, nghĩa là những bình hương nhỏ để ở bàn thờ chư vị tại điện.
Những ngày tuần tiết, người có số thờ đến lễ đội những bình hương đó lên đầu. Bình hương đặt trên một chiếc mâm nhỏ và có thắp hương. Có người phải đội một bát phù hương, có người căn đồng nặng phải đội hai bát hoặc nhiều hơn. Có người chỉ phải đội bát phù hương, có người được chi vị bắt phải ngồi đồng hầu bóng thánh. Nếu vì lý do còn trẻ tuổi có thể làm lễ xin khất đồng được. Khi đã bắt đồng thì hoặc lập điện tại gia thờ, hoặc thờ theo tại điện của ông đồng bà cốt khác, hay tại một cửa miếu thờ chư vị. Ông đồng đây, có khi không phải là một người đàn ông, mà chỉ là một người đàn bà có đồng Đức Ông. Cũng như có nhiều bà đồng không phải là đàn bà mà chính là đàn ông có đồng Đức Mẹ.
Cách bài trí điện chư vị : Điện chư vị thường lập tại một căn nhà riêng và bàn thờ bài trí tương tự như ngôi điện thanh đông. Tại bàn thờ có đủ ngựa, võng, hài hộp, vàng xanh, vàng đỏ, nón dứa, nón nghê, treo lủng lẳng từ trên xuống hoặc bày ở hương án, có khi ở cả gầm hương án nữa, vì nơi đây thờ một cô hoặc một cậu nào. Trong những ngày tuần tiết, cúng bàn thờ chư vị thường có hoa quả bánh kẹo.
Cách ngồi đồng hầu bóng : Các ông đồng bà cốt đều có khăn trầu, áo ngự, tức là loại khăn áo ngũ sắc để khi ngồi đồng hầu bóng. Tại điện đã sẵn có cung văn, tức là người đàn ca lúc hầu bóng, đàn ca như vậy gọi là chầu văn. Người chủ điện hoặc một người có căn đồng khác vào ngồi đồng, mặc áo xanh, áo đỏ, đội khăn các màu, múa may nhảy nhót ở trước cửa điện. Lúc đó là lúc thánh đã ốp vào đồng. Bọn cung văn đàn ngọt hát hay được đồng ban tiền lộc cho. Có những người hầu dâng tức là người phụ tá để đưa quần áo cho đồng, và con công, đệ tử ngồi chung quanh kêu xin để chữa bệnh cho người đau. Thánh, xin hiểu đây là người ngồi đồng, ban truyền bằng một giọng nũng nịu ỏn ẻn có khi giọng hờn rỗi để được nịnh nịt tâng bốc. Thánh phán sao, gia chủ của người bệnh phải tuân theo. Có khi thánh cho uống tàn hương nước thải, có khi cho nước quyết trầu để mang về xoa cho người bệnh. Có khi cho bùa đeo. Người bệnh khi khỏi phải tới lễ tạ.
Trong lúc lên đồng như vậy, bà đồng đã được thánh ốp vào thường ban lộc cho những người hầu dâng hoặc những người đứng chung quanh lễ bái. Lộc có thể là tiền, là kẹo bánh đã được mua trước cúng tại điện, là trầu cau hoặc thuốc lá. Những bà đồng thường dùng giấy bạc một đồng hoặc năm đồng kết thành những con bướm để dùng ban lộc…
Thật ra đồng cốt cũng như phù thủy thuộc vào phạm vi tín ngưỡng, chỉ có giá trị ở niềm tin. Tín ngưỡng cũng sẽ dần dần thay đổi theo mức độ thời gian, khi mà niềm tin ấy không còn tồn tại trong tâm giới con người nữa.
Cũng như ở lãnh vực phù thủy, sự tin tưởng vào đồng cốt người dân Việt-nam cũng không mấy chú trọng, chỉ có số người vì gặp những hoàn cảnh đau ốm mà phương tiện chạy chữa theo thuốc men không đem lại cho họ một hy vọng nào, tình máu mủ ruột rà đã đưa họ vào luồng tín ngưỡng ấy với tính chất cầu may. Thực tế, người bình dân cũng đã dùng những câu ca dao châm biếm, sỉ vả những kẻ lợi dụng tinh thần tín ngưỡng của dân gian để lừa gạt, phỉnh phơ. Ví dụ họ bảo :
Mỗi người đều có một nghề,
Làm cốt thì ngáp, làm nghê thì chầu.
Xem đồng cốt như một cái nghề để sinh sống, người bình dân Việt-nam không phải không khắt khe đối với quan niệm tín ngưỡng.
Tuy nhiên, khi con người đang lâm vào hoạn nạn, mất hết hy vọng mới thấy tín ngưỡng là một an ủi của tâm hồn mình. Giữa thế kỷ hai mươi, nền văn minh khoa học lên đến tuyệt đỉnh, con người có thể dùng phi thuyền đổ bộ mặt trăng, thế mà khi chiếc Apollo XIII của nước Mỹ bị trục trặc, thế giới đều xúm nhau cầu nguyện cho ba phi hành gia được may mắn trở về an toàn. Như vậy, chúng ta không thể nào chế nhạo một đứa con, khi người cha thập tử nhất sinh trên giường bệnh, đến cầu cạnh, lạy lục một ông đồng, bà cốt. Sự lạy lục cầu sinh ấy chỉ là biểu tượng của tình thương, của hiếu đạo, của tuyệt vọng, mà sức người không thể nào chống đỡ nổi, phải lấy tín ngưỡng làm nguồn an ủi cho tâm hồn.
5) Tín ngưỡng về gieo quẻ, xin xăm

Trên đây chúng ta đã thấy tín ngưỡng Việt-nam do tôn giáo ảnh hưởng tạo thành một hệ thống siêu hình. Từ niềm tin ngoài cõi sống còn có cõi chết, ngoài thế giới hữu hình còn có thế giới vô hình, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau, tín ngưỡng Việt-nam đi lần đến chỗ sợ ma quái, cần đến thầy phù thủy để luyện bùa phép trừ ma, cần đến những người đồng cốt để các vị thần thánh trong thế giới vô hình mượn xác nhập vào cứu độ chúng sinh. Ở lãnh vực gieo quẻ, xin xăm cũng thế. Nhưng lãnh vực này không cậy đến phù phép, hay quyền lực đến trấn áp tà ma, mà chỉ cầu xin thần linh chỉ dẫn cho biết những tai họa vấp phải để đề phòng, hoặc tránh đỡ. Bởi vậy, gieo quẻ, xin xăm bao giờ cũng cần đến sự chứng nghiệm của thần linh.
Sự chứng nghiệm của thần linh nhờ vào một cây que (thẻ) hoặc một chữ số, hoặc tất cả những dụng cụ nào có thể dùng để chỉ dẫn sự suy đoán của mọi người.
Ở Việt-nam, việc gieo quẻ xin xăm thường tổ chức ở các đền đài, những nơi có thờ một vị thần linh nào đó. Những người muốn xin quẻ xin xăm phải mang vàng hương lễ lộc đến đó chiêm bái.
Tuy nhiên, cũng có nhiều chỗ tổ chức bằng những hình thức đổi khác, nhưng căn bản vẫn dựa vào sự ứng nghiệm của linh thần.
Ở đây chúng tôi tưởng cũng nên ghi lại vài nét đại cương về hình thức xin quẻ, xin xăm, một tín ngưỡng hiện nay vẫn còn được nhiều nơi tổ chức :
Muốn xin quẻ, xin xăm, trước hết phải lễ bái trước bàn thờ thần linh. Lễ xong, người xin quẻ, xin xăm cầm ống thẻ xóc cho đến khi một cây thẻ rơi ra ngoài. Trong thẻ có ghi số, người xin thẻ căn cứ vào số ấy đi tìm một bài thơ mà người trong đền thờ đã in sẵn. Bài thơ này, theo tín ngưỡng, là những bài thơ giáng bút của thần linh được chép lại. Với bài thơ ấy, người ta có thể đoán được bất cứ điều gì người xin ước muốn. Ví dụ :
- Bản mệnh : nói về bản thân có yên lành không, có gặp may rủi hay bị tà ma hãm hại không ?
- Mưu vọng : nói về việc công danh chức tước, lo việc này việc khác, nên hay không nên, có gặp trở ngại gì, có quí nhân giúp đỡ không ?
- Cầu tài : nói về việc làm ăn, mua bán, có gặp may mắn, trở ngại ra sao.
- Hành nhân : nói về việc ra đi may rủi thế nào.
- Thất vật : nói về những vật đã bị mất có tìm lại được không. Muốn tìm thấy phải đi về hướng nào.
- Lục giáp : nói về việc sinh đẻ con cái. Người có thai sẽ sinh trai hay gái. Hoặc muốn cầu tự phải làm sao.
- Quan tụng : nói về việc thưa kiện sẽ thắng hay thua.
- Bệnh tật : nói về bệnh trạng nặng hay nhẹ, ngày nào khỏi, phải kêu cầu ở đâu ? Có ma quái ám ảnh hay bị thần linh quở trách.
- Gia sự : nói về việc trong nhà từ con cái đến kẻ ăn người ở.
Nói chung, chỉ một thơ bốn câu đã ghi sẵn, người xem quẻ hoặc bàn xăm có thể căn cứ vào đấy giải thích đủ mọi chiều hướng.
Cũng như phù thủy và đồng cốt, xin quẻ, xin xăm chỉ là một niềm tín ngưỡng ảnh hưởng nhiều mặt trong sinh hoạt xã hội. Xã hội càng có nhiều khổ đau, tín ngưỡng càng lan rộng và tồn tại mãi để con người tìm ở đó một an ủi, hoặc hy vọng.
Ngày nay với đà tiến bộ của văn minh khoa học, thế giới loài người đã loại bỏ dần những niềm tin thiếu căn bản suy luận, gọi những trò phù thủy, đồng cốt, xin quẻ xin xăm là mê tín dị đoan.
Thật vậy, niềm tin con người có lúc bị mù quáng chỉ biết có lương năng mà không biết có lương tri. Tuy nhiên, ở đây chúng ta không bàn đến lập trường suy tư của một tín ngưỡng, mà chỉ bàn đến tác động của tín ngưỡng trong sinh hoạt xã hội.
Dù chúng ta gọi những hiện tượng đồng cốt, phù thủy, xin quẻ xin xăm là mê tín, thì chính những hiện tượng ấy lại phản ảnh được ý sống của con người… Con người sống phải có hy vọng, lo âu, sợ hãi… Những yếu tố ấy thúc đẩy con người đi tìm những nương tựa, và chỗ nương tựa cuối cùng của sự bất lực là tín ngưỡng. Tín ngưỡng không cho phép chúng ta dùng lương tri giải thích, bởi vì giá trị của nó chỉ đạt được ở niềm tin mà thôi.
Chúng ta gần gũi một kẻ hiểm ác, nhưng nếu chúng ta có đủ niềm tin cho rằng kẻ ấy không hiểm ác thì tâm hồn chúng ta sẽ cảm thấy khoan khoái, dễ chịu hơn, mặc dù niềm tin chúng ta không đúng với thực tế.
Một con thuyền sắp chìm ở vùng biển khơi, hành khách trên thuyền sắp phải chết đuối. Đàng xa lờ mờ một hòn đảo nhô lên mặt nước. Có người cho rằng đó là con tàu đến cấp cứu, nên đặt trong người một niềm tin ; có người cho đó là một hòn đảo, và tỏ ra tuyệt vọng. Rồi tất cả đều chết. Vậy thì trước khi chết tâm hồn của những kẻ tin rằng mình sẽ được cứu thoát cảm thấy dễ chịu hơn, ít đau khổ hơn.
Một tội nhân sắp đưa lên đoạn đầu đài, nhưng trước ngày lãnh án, quan tòa an ủi một câu : « tội anh tuy nặng, nhưng còn có hy vọng giảm khinh ». Mặc dù lời nói đó chỉ là sự dối gạt, nhưng ít ra cũng làm cho tội nhân ăn ngon ngủ yên, và cảm thấy ít đau khổ hơn trong những ngày chưa thọ hình.
Tín ngưỡng không cần đến thực tế, chỉ cần sự an ủi của tâm hồn.
Một kẻ hấp hối trên giường bệnh, ai cũng biết người ấy sắp chết, nhưng không ai đủ can đảm kề miệng vào tai bệnh nhân nói cho kẻ ấy biết rằng họ sắp lìa trần.
Một viên y sĩ biết trước một căn bệnh nan y, và không thể chữa trị nổi, nhưng nếu viên y sĩ ấy nói cho bệnh nhân biết số phận của họ thì quả là người tàn nhẫn.
Cho nên tín ngưỡng không là mê tín, dù với một niềm tin nào. Điều đáng nói là trong cuộc sống loài người có những kẻ khai thác đau khổ của kẻ khác trong phạm vi tín ngưỡng để sống bám vào cái nghề phỉnh phờ dối gạt ấy mà thôi.
Xã hội Việt-nam chứa đựng nhiều đau khổ nhất, người bình dân Việt-nam sở dĩ thường đi gieo quẻ, xin xăm là muốn tìm ở lãnh vực tín ngưỡng một an ủi về tâm hồn. Hành động ấy không phải mê tín, dị đoan, mà biểu tượng cho cuộc sống xã hội nhiều bất công, đe dọa, thiếu thốn, bất lực, mà chính họ là kẻ phải gánh chịu nhiều nhất. Chúng ta cũng đừng tưởng rằng niềm tin của họ bao giờ cũng đi đến chỗ cuồng tín, lạc hậu. Không, từ ngàn xưa, ý thức họ cũng đã phân biệt những kẻ lợi dụng tín ngưỡng. Đây, chúng ta nghe họ nói :
Sáng ngày đi ra chợ Đông,
Bói xem một quẻ, lộn chồng được chăng ?
Ông thầy xem quẻ đoán rằng :
« Lộn thì lộn được nhưng năng phải đòn ».
Đem việc lộn chồng ra làm đề tài trêu cợt thần linh, và thái độ hài hước đối với những ông thầy xem quẻ, bàn xăm, không đủ nói lên ý thức tín ngưỡng của họ không phải là cuồng tín sao ?
Ngày nay, nền văn minh khoa học Tây-phương tràn sang Việt-nam, những máy móc tinh vi phổ cập khắp trong dân chúng, những cảnh sống xa hoa vật chất không còn biết phải nói thế nào để diễn tả nổi. Nhưng, chúng ta đừng tưởng bên cạnh ý thức tân tiến ấy, tín ngưỡng Việt-nam sẽ đổi chiều và phủ nhận mọi niềm tin của dĩ vãng. Trái lại, văn minh vật chất càng phát triển, tín ngưỡng Việt-nam càng mở rộng thêm. Chưa bao giờ nơi một lăng Ông, nơi một đền Thánh, số người đến xin quẻ, xin xăm đông đảo như lúc này. Với sự lưu tâm, chúng ta sẽ thấy rằng họ đâu hẳn là những người cục mịch quê mùa, tầm kiến thức còn thấp thỏi, mà lại chính là những người đang sống trong ánh sáng văn minh vật chất của khoa học Tây-phương.
Mê tín chăng ? Lạc hậu chăng ? Không ! đó chỉ là trạng thái khổ đau, của hy vọng, của bất lực mà tâm hồn người dân Việt dù pha trộn đến đâu cũng còn giữ được bản chất Đông-phương.
6) Về việc xem bói, xem tướng
Xem bói, xem tướng trước kia có nhiều người cho là tín ngưỡng, nhưng lần lần lãnh vực này tách rời ra khỏi tín ngưỡng, do lối chứng minh bằng triết học thực tiễn.
Đối với Đông-phương, các nhà ứng dụng về khoa tướng số đã dùng căn bản dịch lý để phát triển ngành triết học này.
Nguồn gốc của khoa tướng số phát nguyên do các âm-dương-gia và quan niệm vũ trụ của họ. Các âm-dương-gia ngày xưa ở Trung-quốc được gọi là những nhà thuật số.
Theo sách Tiền Hán thư ở phần Nghệ-văn-chí (quyển 30) thì những ngành thuật số được gồm vào sáu loại :
Thiên văn : phần này, theo Hán thư văn nghệ chí là để sắp thứ tự hai mươi tám vì sao, để ghi chép sự vận chuyển của ngũ tinh, nhật nguyệt, để ghi những hiện tượng lành dữ của mọi biến động thiên nhiên.
Lịch phổ : ngành này nghiên cứu về việc sắp xếp bốn mùa, chia đúng các tiết, hiểu giờ của mặt trời, mặt trăng và năm sao, khảo sát lạnh nóng, sống chết… Nhờ thuật này những tai ách và những điều vui vẻ, tốt lành được biết trước rõ ràng.
Ngũ hành : theo Nghệ-văn-chí thì ngành này bắt đầu nghiên cứu từ sự biến động của năm nguyên tố : kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, và suy cho cùng tận thì không có gì là không thấu hiểu được.
Bói toán : theo Nghệ-văn-chí thì ngành bói toán xưa đã dùng cỏ thi, mai rùa, xương bò. Với cách này người thầy bói đục lỗ ở trong vỏ rùa hay trong miếng xương phẳng rồi đem hơ vào lửa trên chiếc đũa bằng kim loại để làm thành những đường nứt phát ra chung quanh lỗ. Thầy bói giải thích các đường nứt ấy theo hình trạng chúng để trả lời câu hỏi nêu ra. Cũng có khi thầy bói dùng cỏ thi làm thành những tổ hợp về số để giải thích theo Dịch Kinh.
Tạp chiêm : ngành này nhận xét những hiện tượng sự vật để cắt nghĩa tính chất của sự vật. Ngành này về sau trở thành ngành xem tay, xem tướng.
Hình pháp : ngành này cũng nhận xét những hiện tượng sự vật nhưng với sự nghiên cứu rộng rãi hơn, nên về sau phát triển về khoa địa lý (phong thủy).
Thuật số cũng có ước vọng như khoa học muốn nghiên cứu và giải thích thiên nhiên một cách tích cực, đồng thời cũng muốn chinh phục thiên nhiên để phụng sự con người. Tuy nhiên, thuật số lại có rất nhiều lúc mơ hồ. Trạng thái này không thể trở thành khoa học, nếu không từ bỏ sự tin tưởng vào năng lực siêu nhiên, để cố giải thích vũ trụ bằng năng lực tự nhiên.
Vì không cho việc xem bói, xem tướng là tín ngưỡng, nên chúng ta không bàn đến ở đây. Tuy nhiên, chúng tôi thấy cũng cần khảo qua ý thức người bình dân Việt-nam thời xưa.
Cũng như chúng ta ngày nay, người bình dân thời xưa không coi việc xem bói, xem tướng có liên quan đến thế giới vô hình, nghĩa là không nằm trong phạm vi tín ngưỡng. Họ không biết dịch lý là gì, nhưng họ cảm thấy qui luật vũ trụ là một hệ thống biến động, có ảnh hưởng đến cuộc sống con người, do đó họ tìm căn nguyên và kết quả của qui luật biến động ấy để áp dụng vào sinh hoạt của họ. Họ chỉ lấy kinh nghiệm trong thiên nhiên làm căn bản cho suy lý. Từ việc đào giếng, cất nhà, chôn cất, ra đi, đến những việc kiêng cữ thường ngày, phần lớn không hoàn toàn nằm trong phạm vi tín ngưỡng, mà nằm trong phạm vi rút tỉa những thực nghiệm trong qui luật biến động của vũ trụ.
Muốn tìm một con ngựa hay, một con trâu kéo cày giỏi, một con chó có nghĩa, một con heo nuôi mau lớn, họ chỉ cần xem tướng con vật để quyết định giá trị. Như vậy ý thức về bói, tướng, đối với người bình dân từ ngàn xưa đã không thuộc phạm vi tín ngưỡng.
7) Về việc sấm truyền
Sấm truyền là lời tiên tri của những bậc siêu nhân. Siêu nhân đây không phải là thần thánh ẩn hiện trong thế giới vô hình, mà chỉ là người có tầm hiểu biết đoán trước được những việc quá khứ, vị lai, căn cứ theo dịch lý của nền triết học Đông-phương. Lời sấm truyền là những bài thơ, những câu thơ do một danh nhân đề xướng, và được dân chúng truyền tụng sau một thời gian khi danh nhân ấy đã quá cố. Ở Việt-nam dân chúng thường nói đến và tin tưởng ở lời sấm Trạng-trình Nguyễn-bỉnh-Khiêm. Sự tin tưởng ấy không gọi là tín ngưỡng được. Đó chỉ là tính chất tôn sùng sự hiểu biết của một danh nhân căn cứ trên sự xét đoán đối với qui luật vũ trụ, cho nên, nếu chúng ta thừa nhận địa hạt bói, tướng không phải tín ngưỡng, thì sấm truyền cũng không thể là tín ngưỡng. Vậy, ở đây chúng ta không bàn đến.
Để kết luận phần khảo sát này, chúng ta thấy phần lớn tín ngưỡng Việt-nam do giáo lý của các tôn giáo ảnh hưởng rất mạnh. Ảnh hưởng chi phối tâm tư người dân qua muôn đường vạn nẻo, khiến niềm tin của họ hầu như hỗn độn.
Tuy nhiên, có một điều chúng ta không thể phủ nhận được là dân tộc Việt-nam luôn luôn lấy tín ngưỡng làm an ủi chứ không lấy tín ngưỡng làm cứu cánh. Sự pha trộn nhiều tôn giáo, sự tin tưởng phức tạp trong mọi hình thức chính là chứng cớ rõ ràng để chúng ta có thể đi vào kết luận vừa nói trên.
Theo phong tục Á-đông, chúng ta có thể gọi việc thờ cúng tổ tiên của người Việt-nam là một cái « đạo ». Đạo ở đây không quan niệm là tôn giáo, mà chỉ là sản phẩm của đạo học, nền tảng của văn minh Đông-phương.
Nền văn minh Đông-phương cấu tạo trên nhân nghĩa, lấy gia đình, tổ quốc làm cơ sở. Dân tộc Việt-nam trưởng thành trên ý thức ấy, nên đã lấy tình cảm làm nguồn sống, lấy tinh thần làm cứu cánh cho nhân sinh :
Con người có tổ có tông,
Cái cây có cội, con sông có nguồn.
Tiếng nói của họ là cả một sức mạnh của tình thương từ gia đình đến dân tộc.
Xưa nay, trên lịch sử thế giới không một dân tộc nào không bảo vệ nguồn gốc của mình và không lấy quốc gia làm vinh dự. Tuy nhiên ý thức của mỗi dân tộc bộc lộ bằng nhiều hình thức khác nhau. Có những dân tộc phô diễn uy lực quốc gia bằng ý thức tự cường, và tình dân tộc cũng cấu tạo trên sự hãnh diện ấy. Lại có những dân tộc không lấy yếu tố sức mạnh làm hãnh diện, mà tình quốc gia, dân tộc được cấu tạo trên tình cảm của huyết thống, trên sự khổ đau của lịch sử dân tộc, trên sự chia xẻ sinh hoạt qua dòng thời gian và không gian.
Đạo thờ ông bà của dân tộc Việt-nam phát xuất ở ý thức thứ hai, mang tính chất sâu xa về tình cảm. Từ chỗ thương mến, nhớ ơn đi đến chỗ tôn thờ rất thành kính.
Ông Phan-Kế-Bính trong Việt-nam phong tục có viết : « Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính. Ấy cũng là một lòng bất vong bản. Ấy cũng là nghĩa cử của con người… Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, thì con người có tổ, có tiên mới có thể có mình được… »
Nhận xét như vậy, ông Phan-Kế-Bính cũng không đặt ngoài ý niệm đạo lý. Tuy nhiên, trong tính chất « đạo thờ ông bà » của dân tộc Việt-nam, chúng ta lại còn tìm thấy một nguồn gốc sâu xa hơn. Đó là tình cảm. Vậy chúng ta thử đi tìm nguồn gốc.
Nói đến đạo thờ ông bà thường thường người ta nghĩ ngay đến hình thức cúng giỗ, tế tự, nhưng thực ra, hình thức ấy chỉ là hậu quả của hiếu đạo, phản ảnh của tình thương trong gia đình.
Tình gia đình đối với người Việt-nam là cơ sở phát triển và nuôi dưỡng mọi tình thương. Không có gì tồn tại trong lòng người bằng những khổ cực, vui buồn cùng chia sớt với nhau hàng ngày trong cuộc sống. Gia đình chính là nơi chất chứa những kỷ niệm ấy. Tại sao con phải thương cha mẹ ? Tại sao cha mẹ lại thương con ? Ngoài yếu tố huyết thống, chính là tình cảm gia đình đã để lại trong lòng mỗi người những kỷ niệm mến yêu.
Một ông già luống tuổi, trầm tư trước hoàng hôn, bức tranh dĩ vãng quây dần dần trong ký ức của ông, những hình bóng từ lúc thiếu thời cho đến khi già nua, trong bức tranh ấy không thể thiếu những bộ mặt gần gũi, thân yêu là ông bà, cha mẹ, con cái của ông.
Thiếu những hình bóng gần gũi, thân yêu ấy lịch sử đời người không còn giá trị tình cảm nữa.
Một đứa trẻ thơ khóc mếu máo trông mẹ về chợ, không phải đói lòng, mà nó cảm thấy thiếu một cái gì trong những giờ phút xa vắng mẹ nó.
Sự quyến luyến người thân trong gia đình không phải đợi đến lúc chết, mà ngay trong lúc sống. Bởi vậy, trong lúc sống, họ đã cảm thấy những hiện tượng đau buồn khi thiếu thốn :
Có cha có mẹ thì hơn,
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.
Hoặc : Còn cha gót đỏ như son,
Một mai cha chết, gót con như chì.
Sự thiếu thốn tình cảm đối với kẻ thân yêu trong gia đình, nhất là đối với ông bà cha mẹ, đã nhiều lúc làm cho lòng người cảm thấy bùi ngùi :
Mẹ già ở chốn lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
Hoặc : Công cha như núi Thái-sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Công cha, nghĩa mẹ là gì ? Phải chăng đó là công phu nuôi dưỡng, bảo vệ đứa con ? Phải chăng đó là những hình ảnh cam khổ trong cuộc sống mà mỗi gia đình đều phải trải qua đối với con cái ?
Hình ảnh ấy không bao giờ mất trong thế giới đạo học. Nó tồn tại trong tình cảm con cái, đúc kết thành tình thương yêu đối với gia đình.
Tuy nhiên, nếu tình cảm con người tăng trưởng theo thời gian, chất chứa mỗi lúc một đầy thêm thì thể chất con người lại bị thời gian làm mòn mỏi, cằn cỗi và tiêu diệt.
Sự mất mát của thể chất đã không làm phai mờ mà còn tăng thêm tình cảm con người trong nhớ nhung, mến tiếc.
Cho nên, những hình thức cúng giỗ, tế tự của con cái đối với ông bà, cha mẹ, chính là hậu quả của nhớ thương, của mất mát trong cuộc sống gia đình.
1) Ý thức đối với người chết
Chúng ta chưa vội nói đến tín ngưỡng, vì tín ngưỡng chưa phải là nguồn gốc phát sinh đạo thờ ông bà, mà chỉ ảnh hưởng do lịch sử xã hội đem đến.
Đạo thờ ông bà phát xuất do tình cảm của con người sống trong thế giới đạo học. Mặc dù qui luật vũ trụ bắt vạn hữu phải sinh để rồi diệt, phải có để rồi không, nhưng tình cảm con người không muốn như vậy. Tình cảm con người muốn người thân luôn luôn gần gũi với mình, do đó, mặc dù không phải phá vỡ được qui luật thiên nhiên, họ vẫn xem người chết như lúc còn sống, nghĩa là họ đem tình cảm nối liền giữa cõi chết và cõi sống.
Như vậy, căn bản thờ phụng tổ tiên của người Việt-nam ban đầu không phải do ý thức tín ngưỡng, mà phát xuất ở tình cảm, để giải quyết những gì nhớ nhung cảm mến trong lòng họ.
Kính trọng người chết, kẻ còn lại phải làm sao ? Nếu chỉ để những nhớ thương, cảm mến trong lòng, không bộc lộ ra ngoài, con người không thể chịu nổi.
Mùa thu đến với thi nhân, gợi lên muôn ngàn vẻ đẹp, thi nhân không thể chỉ đem cảm giác mình để thưởng thức mà không bộc lộ tình cảm ấy bằng lời thơ.
Một đứa con mang tình thương đối với cha mẹ, nếu tình thương ấy không biểu lộ qua những hình thức phụng dưỡng, nuôi nấng, đứa con sẽ cảm thấy như mình chưa toại nguyện.
Một chàng trai ôm ấp yêu đương, dù tình nhân không thể hội diện, chàng trai ấy cũng phải có những cử chỉ thế nào để vơi đi những tình cảm hiện hữu đang ứ đọng trong lòng.
Tình thương giữa người sống và người chết cũng thế. Xã hội loài người chưa bao giờ ngăn cấm những hành động nhớ nhung giữa người sống và người chết, do đó, con người có đủ tự do cởi mở những cảm giác lắng đọng trong tâm hồn mình đối với lãnh vực này.
Người Việt-nam đã chọn hình thức cởi mở tình cảm đối với người chết bằng cách cúng giỗ.
2) Việc cúng giỗ
Cúng giỗ tượng trưng cho tình thương con cái đối với tổ tiên. Tình thương ấy đã đưa quan niệm người Việt-nam đến chỗ « sống sao thác vậy ».
« Sống sao thác vậy » có nghĩa là tuy người còn kẻ mất, nhưng lòng kính mến vẫn xem như lúc còn sống.
Để ghi nhớ người thân yêu trong gia đình đã mất, còn gì hơn là hàng năm con cháu tụ họp dưới mái gia đình để tưởng nhớ. Đã có sự tụ họp tất nhiên phải ăn uống, mà con cháu ăn uống chẳng lẽ không tưởng đến người chết. Vì vậy, cúng giỗ là để cho con cháu tưởng nhớ, và việc sắm mâm cao cổ đầy trước tiên để tưởng nhớ, sau đó là để con cháu sum vầy.
Cho nên, tính chất căn bản của cúng giỗ là do phong tục chứ không phải tín ngưỡng. Nó phát lộ ở lòng thành kính. Trong ca dao người bình dân đã có ý niệm rằng :
Trâu heo khi chết tế ruồi,
Chẳng bằng khi sống ngọt bùi còn hơn.
Như vậy, chính họ đã xác định tình cảm con người là yếu tố chính trong việc cúng giỗ.
Trong quyển Tín ngưỡng Việt-nam, ông Toan-Ánh có ghi một đoạn : « Giỗ có làm to hoặc làm nhỏ tùy theo gia cảnh, tùy theo con cháu đông hay vắng, và nhiều khi lại tùy theo sự liên lạc ( ?) giữa người sống và người chết. Giỗ cha mẹ, giỗ ông bà thường làm to, giỗ anh em, chú bác cùng các vị cao, tằng, khảo, tỷ thường chỉ cơm canh, cúng đơn sơ để khỏi bỏ giỗ. Trong những giỗ này người ta gọi là giỗ mọn, không có mời bạn bè thân thuộc, chỉ trong nhà cúng rồi ăn với nhau ».
Phản ánh tính chất trên, rõ ràng yếu tố tình cảm chiếm địa vị quan trọng trong việc thờ phụng ông bà. Sở dĩ những bậc ông bà cao, con cháu cúng giỗ sơ sài hơn là vì tình cảm của con cháu đối với những bậc ông bà cao không nồng đượm bằng những người gần gũi với thời gian, với sinh hoạt.
Đã thừa nhận tình cảm là nguồn gốc của đạo thờ ông bà, chúng ta không thể thừa nhận quan niệm sau đây của một nhà khảo cứu về phong tục Việt-nam đã viết : « Trong ngày giỗ người ta làm cỗ bàn mời thân bằng quyến thuộc. Ở thôn quê, ngày giỗ là một dịp để gia chủ được mời lại những người đã từng mời mình đi ăn uống. Người ta gọi là « trả nợ miệng ».
Nhận xét như vậy quả đã làm sai lạc tính chất tình cảm thiêng liêng trong đạo thờ ông bà của người Việt-nam. Đối với con cháu, ngày giỗ phải về đông đủ là để tưởng nhớ người quá cố. Còn đối với thân bằng cố hữu, được mời đến không phải là vì miếng ăn, mà chính để gia chủ có dịp tỏ lòng hiếu thảo của mình cho mọi người thấy. Cho nên, mời khách đến ăn giỗ cũng chỉ là một hình thức hiếu đạo mà thôi. Dĩ nhiên, việc mời mọc trong các ngày giỗ phải có qua có lại, nghĩa là người này mời người kia thì người kia phải mời lại. Tuy nhiên, mời lại không phải là để « trả nợ miệng » mà để tỏ cho kẻ khác biết lòng hiếu đạo của mình cũng không kém gì kẻ khác.
Ở thôn quê Việt-nam, khách đến dự ngày giỗ của một nhà nào tức là đem đến gia chủ một vinh dự. Nói cách khác, khách đến dự ngày giỗ tức là chia sớt với gia chủ tình nhớ thương mến tiếc đối với ông bà cha mẹ họ. Bởi vậy, gia chủ phải trọng khách, và trọng khách trong những ngày giỗ tức là tăng niềm hiếu đạo của con cái trong gia đình.
Với quan niệm không coi « miếng ăn » trong ngày giỗ là quan trọng bằng tình cảm, nên người bình dân Việt-nam đã nói qua ca dao : « Ăn buổi giỗ, lỗ buổi cày ».
Nếu không vì tình cảm đối với gia chủ, có lẽ họ chú trọng việc đồng áng hơn là đi dự một đám giỗ.
Tuy nhiên, đối với người cúng giỗ thì càng nhiều khách khứa bao nhiêu, càng tổ chức mâm cao cỗ đầy bao nhiêu, thì tình cảm của họ đối với ông bà, tổ tiên nồng đượm bấy nhiêu.
Họ bảo : « Một ngày giỗ cha, ba ngày hút nước ».
Con cái rất nặng tình với cha mẹ, nên thường thường ngày giỗ cha mẹ là ngày giỗ lớn nhất trong gia đình, và khách khứa được mời đông nhất. Cứ những thức ăn còn lại, con cái phải ăn đến đôi ngày sau mới hết.
Mặc dù, trong thế giới đạo học, tình cảm đã được mọi dân tộc ghi sâu đậm, thậm chí đã trở thành một tập tục như đạo thờ ông bà ở Việt-nam, nhưng tình cảm cũng là trạng thái biến động, không phải bất di bất dịch trong lòng người, nó sẽ phai nhạt với thời gian, không gian. Vì vậy, đạo thờ ông bà phát sinh hình thức thừa tự.
Thừa tự tức là đặt nhiệm vụ cúng giỗ vào người con trưởng của dòng đích tôn. Muốn cho dòng đích tôn có đủ khả năng thờ cúng, con cháu trong họ lập nhà từ đường và trích những bất động sản làm hương hỏa gọi là đặt tự. Dòng đích tôn hưởng hoa lợi của tài sản hương hỏa để lo việc cúng giỗ.
Tính chất lập hương hỏa để cúng giỗ ông bà, chính là dân tộc Việt-nam đã dự liệu mọi biến động của tình cảm con người. Tình cảm chỉ đến với con người như hình ảnh sinh hoạt chứa đựng trong sự liên hệ của thời gian. Ngoài yếu tố liên hệ về sinh hoạt, tình cảm con người sẽ phai nhạt dần và đi sâu đến chỗ tiêu diệt.
Người Việt-nam không muốn tình thương đối với ông bà cha mẹ mình ngày nay lại bị tiêu diệt ở ngày mai. Họ muốn tình thương ấy tồn tại mãi trong lòng con cháu như đang nồng đượm trong lòng họ, dù phải vượt qua bao nhiêu thời gian, trải qua bao nhiêu thế hệ.
Hình thức thừa tự hương hỏa chính là biểu tượng của hiếu đạo, muốn giữ tình cảm con người trong trạng thái bất biến.
3) Việc chạp mả
Cúng giỗ đi đôi với việc chạp mả. Cứ hàng năm vào khoảng tháng chạp, mọi gia đình đi tảo mộ, vun những nấm mồ, chặt những cây cối quanh mả, nói chung là bảo vệ phần mộ của ông bà tổ tiên.
Người chết để lại những gì ? Chúng ta có thể nói rằng họ chỉ để lại ở người sống một tình cảm và một nấm mồ. Với tình cảm, người sống đã biểu lộ bằng cúng giỗ, với nấm mồ người sống đã biểu lộ niềm thương yêu bằng cách thăm viếng, sửa sang, xem như đó là nơi an nghỉ cuối cùng của kẻ vĩnh biệt.
Không nhìn thấy người quá cố, con cháu hàng năm nhìn lại nấm mồ để tưởng nhớ người chết, trút vào đó những kỷ niệm của dĩ vãng không phải là trạng thái biểu lộ lòng nhớ nhung, thương mến sao ?
Khi con cháu sống dưới mái tranh êm đềm tất nhiên không thể không liên tưởng đến cảnh quạnh quẽ, cô liêu, nơi mà họ đã gởi thân xác của ông bà cha mẹ họ. Vì vậy, sửa sang phần mộ cũng nằm trong tính chất hiếu đạo của con cái.
Với quan niệm ấy, tục ngữ Việt-nam đã có câu : « Cao nấm ấm mồ ».
Dĩ nhiên, dù họ là người bình dân chất phác, họ vẫn biết rằng thể xác con người khi chết đi phải tan rã trong lòng đất. Như vậy tại sao họ lại chủ trương « cao nấm ấm mồ » ?
Xét như vậy, « ấm mồ » theo quan niệm người dân Việt-nam không phải là ấm thể xác của người chết, mà ngược lại ấm ở cõi lòng người sống. Người sống khi thấy nấm mồ được vun cao tự hiểu rằng người chết hiện được con cháu phụng thờ. Cảm giác ấy làm cho họ thấy ngôi mộ được ấm áp.
Bằng chứng là người Việt-nam luôn luôn tỏ vẻ thương hại đối với những nấm mồ hoang.
Thực vậy, có gì thê lương ảm đạm bằng buổi trời chiều, một ngôi mồ hoang nằm giữa cảnh hoang vu. Trong thế giới đạo học, thi nhân thường mượn những cảnh ấy để nói lên nỗi lòng ngao ngán trong cõi sống loài người.
Ông Nguyễn-Du cũng đã tả cảnh đau buồn của nàng Kiều khi trông thấy nấm mồ hoang của Đạm-Tiên trong tiết Thanh-minh :
Sè sè nấm đất bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh.
Rằng : « Sao trong tiết Thanh-minh,
Mà đây hương khói vắng tanh thế này ? »
(Kiều)
Một vùng cỏ úa, một nấm đất bị gió mưa tàn phá không được sửa sang, sự lạnh lẽo, u buồn ấy đã do tình cảm con người mà có. Chết là hiện tượng của mất mát, nhưng lòng người lại muốn biến sự mất mát ấy bằng sự tồn tại, dù sự tồn tại ấy chỉ là một nấm đất.
Ở miền quê Việt-nam, nếu ai đã có dịp đi đến những đồi hoang, gò cát, chân núi, bờ khe, và nhìn từng nấm mồ rải rác đó đây, sẽ thấy quang cảnh mồ mả chẳng khác quang cảnh nhà cửa của người dân. Nếu nhà cửa dân gian thỉnh thoảng có những mái ngói xen lẫn những túp lều tranh, thì mồ mả thỉnh thoảng cũng xen vào những ngôi mộ có bia đá, có thành quách, tô vôi, xây gạch. Đó là chưa kể những khác biệt nhau về ngôi lớn, ngôi nhỏ, ngôi cao, ngôi thấp. Hiện tượng ấy chứng tỏ cuộc sống người dân quê Việt-nam nối liền với cõi chết của tổ tiên. Nhà giàu, mồ mả tổ tiên được đắp điếm sang trọng, nhà nghèo, mồ mả tổ tiên chỉ được săn sóc theo điều kiện sinh sống của họ. Đến như những bậc vua chúa, mồ mả tổ tiên họ là những lăng tẩm uy nghi tráng lệ. Từ sự liên hệ tình cảm giữa người sống và người chết, các lăng tẩm đế vương đi dần đến những kỳ quan quốc gia.
Tóm lại, việc sửa sang mồ mả từ ngàn xưa cho đến ngày nay vẫn mang yếu tố căn bản là tình cảm gia đình nằm trong « đạo thờ ông bà » của người dân Việt, và đã trở thành phong tục.
4) Sự tôn kính và kỵ úy
Người Việt-nam đối với tổ tiên chẳng những thương mến mà còn tôn kính nữa. Lòng tôn kính bộc lộ rõ ràng nhất trong tập tục kỵ úy. Tập tục này không cho phép con cháu nói đến tên ông bà, cha mẹ, hoặc tổ tiên.
Trong quyển Tín ngưỡng Việt-nam, ông Toan-Ánh có viết : « Con cháu kiêng không nói đến tên ông, bà, cha, mẹ. Nếu trong đời sống hàng ngày có những tiếng trùng với tên của các bậc này, con cháu sẽ gọi tránh đi, hoặc tìm một tiếng đồng nghĩa để thay vào. Ví dụ, Hà-đông gọi là Hà-đương, thịt đông gọi là thịt đặc, hoa gọi là bông, quả bưởi gọi là quả bồng, trái banh gọi là trái bóng, v.v… Đối với tổ tiên là các vị đã khuất, sự kiêng tên càng được giữ gìn hơn. Khi con cháu làm điều không phải bị người khác gọi tên ông bà cha mẹ đã khuất ra mà réo, mà chửi là một điều tủi hổ lớn lao, có thể gây nên thù oán sâu đậm được. Chính để tránh cho người khác khỏi xúc phạm đến tổ tiên mình, mọi người đều giữ gìn trong điều ăn, nếp ở, cố làm sao không gây bất cứ sự đụng chạm nào. Trong lúc giỗ, phải khấn đến tên tổ tiên, người gia trưởng cũng lâm râm khấn rất khẽ, e khấn to có người nghe tiếng là phạm tội bất kính. Các con cháu còn nhỏ không được biết đến tên tổ tiên, e chúng nhắc bậy bạ phạm đến các người, gây điều bất hiếu cho cha mẹ. Trước khi đặt tên cho con cháu, cha mẹ phải kiêng cữ, không được đặt trùng những tên của tổ tiên ».
Như vậy, tập tục kỵ úy trong gia đình cũng vẫn phát nguồn từ ý thức tôn kính ông bà cha mẹ mà ra, và nằm trong đạo thờ ông bà của người dân Việt.
Tuy nhiên, nếu ý thức ấy ăn sâu vào phong tục người dân, thì ý thức ấy lại đưa đến người dân một phản ứng. Đó là việc nguyền rủa, nhục mạ.
Người dân Việt-nam vì quan niệm gọi đến tên ông bà cha mẹ là làm nhục con cháu, cho nên, mỗi khi muốn làm nhục ai, họ gọi tên ông bà cha mẹ người ấy ra để chửi mắng bằng những tiếng thô bỉ. Việc chửi mắng như vậy thường xảy ra trong những trường hợp xích mích, giận dữ. Tuy về vật chất, người bị chửi mắng không thiệt hại gì, nhưng về tinh thần thì đó là một sỉ nhục đáng kể.
Đối với những kẻ có quyền thế trong giai cấp thượng lưu quí tộc, việc chửi rủa ít xảy ra, bởi vì khi họ muốn trả thù, hoặc nhục mạ ai, họ đã có đủ phương tiện làm cho kẻ khác phải thiệt hại. Ví dụ nàng Hoạn-Thư khi ghen tức nàng Kiều thì :
Tính rằng cách mặt khuất lời,
Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho.
Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu.
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên.
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người tham ván bán thuyền biết tay.
Chước đâu, có chước lạ đời,
Người đâu mà lại có người tinh ma.
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm cho con ở, chủ nhà, đôi nơi.
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao…
(Kiều)
Còn người bình dân thì không thế. Họ không có một quyền uy, một khả năng nào để làm hại kẻ khác, nên họ đã dùng phong tục tập quán để phản ứng. Chúng ta không lấy làm lạ, khi thấy người bình dân thường hay dùng lời thô bỉ để mắng chửi nhau. Họ bảo :
Chửi cho tan mồ nát mả.
Chửi cho bay tóc trán.
Thực ra đó chỉ là một hình thức trừng phạt về tinh thần, mà người bình dân Việt-nam đã phản ứng do ý thức thờ phụng, tôn kính ông bà, tổ tiên mà ra.
Trên đây chúng ta vừa khảo sát qua tính chất căn bản về đạo thờ ông bà của người Việt-nam, và xác định đạo thờ ông bà không phải một tín ngưỡng hoặc một tôn giáo.
Tuy nhiên, sinh hoạt xã hội loài người bao giờ cũng ảnh hưởng vào thời gian, không gian để tạo thành lịch sử. Bởi vậy, ý thức con người cũng biến chuyển theo. Nếu đạo thờ ông bà của dân tộc Việt-nam nguồn gốc là do tình cảm phát sinh, thì lịch sử sinh hoạt xã hội lại đưa nguồn gốc ấy dần dần từ tình cảm sang tín ngưỡng.
Ý thức đối với người chết ban đầu vì thương yêu, kính mến mà tôn thờ, nhưng về sau những ý thức hệ tôn giáo du nhập vào nước, tín ngưỡng Việt-nam chịu ảnh hưởng, chi phối, và dần dần sự tôn thờ người chết được quan niệm theo tín ngưỡng về thần linh.
1) Tình cảm đi vào thế giới thần linh
Như ở các mục vừa rồi, chúng ta đã xét thấy tôn giáo đem đến cho thế giới loài người một cõi siêu hình để giải quyết trọn vẹn về sự còn mất trong vạn hữu.
Người chết đi về đâu ? Tín ngưỡng đã đi đến tôn giáo và hình dung một cõi siêu sinh, trong đó là thế giới của người chết. Tín ngưỡng Việt-nam đã tin có ma quái, có thần linh, thì đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên không thể chịu ảnh hưởng về hệ thống siêu hình ấy.
Cho nên, khi tình cảm đã đi vào tín ngưỡng, sự thờ cúng tổ tiên mang một sắc thái khác biệt với thuở ban đầu.
Từ hình thức tống táng đến việc phụng thờ, ý thức người sống đối với người chết là làm sao vong hồn người chết được tiêu diêu nơi cực lạc, ý thức ấy đã tạo thành một số nguyên tắc về lễ nghi, thoát ra ngoài biểu tượng của tình cảm, và nặng về tín ngưỡng nhiều hơn.
Đây, chúng ta thử lược dẫn một vài tập tục để chứng minh ý thức tín ngưỡng trong đạo thờ ông bà.
Ông Toan-Ánh có viết trong Tín ngưỡng Việt-nam :
Quan niệm vong hồn gia tiên luôn luôn ở gần mình, người sống luôn luôn như tiếp xúc với giới vô hình qua việc cầu cúng, lễ bái.
Theo Phan-Kế-Bính : « Mỗi tuần tiết hoặc ngày kỵ đều có làm lễ cáo gia tiên, hoặc mùa có của mới, gạo mới hoặc khi có việc hiếu hỉ ».
Đấy chỉ là kể sơ lược, chính ra nhất nhất mỗi biến cố xảy ra trong gia đình, gia chủ đều khấn vái gia tiên, trước là để trình bày sự kiện, sau là để xin sự phù hộ giúp đỡ.
Nhà nuôi được một lứa lợn lớn, đem bán xong, gia chủ cũng có một lễ mọn gồm trầu cau, vàng rượu, hoa quả để cáo gia tiên. Đây cũng là một cách lễ tạ ơn vì gia tiên đã phù hộ cho lứa lợn nuôi trót lọt.
Nửa đêm con trẻ trong nhà bất thần trở mình đau sốt, gia chủ lập tức khấn vái gia tiên để xin phù hộ cho đứa trẻ được tốt lành, tai qua nạn khỏi. Lúc này, đêm hôm nếu có trầu cau càng tốt, bằng không chỉ cần chén nước lạnh với lòng thành thắp hương khấn vái trên bàn thờ là đủ.
Người đi buôn gặp dịp buôn may bán đắt, không bao giờ quên lễ gia tiên, cũng như lúc bắt đầu bỏ vốn ra buôn bán, đã có lời van vái cúng lễ trước.
Mỗi khi nhà có mùa hoa quả mới, trước khi ăn, con cháu bao giờ cũng nghĩ đến việc hương đèn cúng kính…
Đấy chỉ là những việc nhỏ. Còn những biến cố quan trọng gia đình tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên :
- vợ sinh con
- con đầy cữ, đầy tháng, đầy năm
- con cái bắt đầu đi học
- con cái sửa soạn đi thi
- con cái thi đỗ
- gả chồng cho con gái, dựng vợ cho con trai
- lập được công danh, nghĩa là được bầu vào các chức việc trong làng
- mua được phẩm hàm
- khao vọng
- xây dựng nhà mới, nhiều khi chỉ lát gạch một chiếc sân, hoặc xây một bức tường
- đi dự một giải thi gì ở một hội hè nào.
Những biến cố trên là những biến cố vui mừng, con cháu trình báo tổ tiên để tổ tiên chia xẻ cái mừng với con cháu, và cũng nhiều khi là dịp con cháu tạ ơn tổ tiên đã phù hộ độ trì cho mình cầu được, mong nên. Tùy từng trường hợp, việc cáo gia tiên gia chủ chỉ cần sửa một lễ nhỏ như đĩa xôi, nải chuối, ly rượu, hương đèn, hoặc cũng có khi làm cỗ bàn cúng mặn. Lễ vật không đáng kể, điều cần thiết là lòng thành của con cháu.
Những biến cố buồn xảy ra trong gia đình con cháu cũng trình khấn lên tổ tiên, như :
- có người mệnh một
- lúc bắt đầu đưa ma người mệnh một
- trong nhà có người ốm đau
- gặp những chuyện không hay như buôn bán thua lỗ, bị kiện cáo
- có người phải đi xa, v.v…
Cáo với gia tiên những biến cố buồn, con cháu trình để tổ tiên rõ mọi việc xảy ra, và cầu xin tổ tiên phù hộ cho được qua mọi sự không may.
Ngoài những biến cố xảy ra trong gia đình, còn có nhiều trường hợp con cháu cũng làm lễ gia tiên, kêu cầu khấn vái như :
- trong làng bỗng có vụ cướp xảy ra, gia chủ vội khấn tổ tiên dun rủi cho kẻ cướp đi khỏi làng, không đến quấy rối nhà mình.
- nước đang thanh bình bỗng có loạn, con cháu cũng cầu xin tổ tiên phù hộ cho toàn gia tránh khỏi mọi tai họa trong lúc loạn lạc
- một bệnh dịch phát sinh, con cháu xin với tổ tiên phù hộ tránh khỏi tai ách nguy nàn
- trong làng mở hội, con cháu vui mừng cũng có lễ cúng tổ tiên.
Tóm lại, con cháu tin tưởng ở sự phù hộ của tổ tiên, và ở sự hiện diện của tổ tiên quanh mình, nên bất cứ mọi việc to nhỏ gì xảy ra liên quan đến gia đình, con cháu đều cáo gia tiên.
Chúng ta không lấy làm lạ khi thấy ý thức thờ phụng tổ tiên của dân tộc Việt-nam nhuộm đầy màu sắc tín ngưỡng.
Một dân tộc nhỏ bé, luôn luôn sống dưới sự đe dọa của mọi chế độ chính trị, bao nhiêu đau khổ, tủi hờn dồn dập, lắng đọng trong lòng họ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tinh thần người dân dù có cứng rắn đến đâu cũng phải có lúc chán nản, yếu mềm. Trong đau khổ, họ đã lấy tín ngưỡng làm cứu cánh cho tâm hồn, thì ông bà tổ tiên là những người thân của họ, tâm hồn sao khỏi nghĩ đến nhờ vã ông bà, tổ tiên.
Một đứa trẻ bị người hàng xóm hiếp đáp, không đủ sức chống chế, chạy về nhà mếu máo mách với cha mẹ để cầu cứu.
Một con vật mới sanh bị con vật khác đe dọa vội chạy núp vào lòng mẹ nó.
Ông bà cha mẹ lúc sống đã xả thân bảo vệ gia đình con cái, cho đến lúc chết đi, con cái vẫn còn đòi hỏi sự giúp đỡ ấy mãi mái. Cái gì đã phát sinh hiện tượng như vậy ? Thật ra, nó chỉ là tình thương. Tuy với ý thức tín ngưỡng, tình thương vẫn là căn bản cho tập tục ấy.
Và đây là một tập tục khác, cũng từ trạng thái tình cảm đi đến trạng thái tín ngưỡng trong đạo thờ ông bà.
Ông Huỳnh-thúc-Kháng có viết một bài biên khảo trong báo « Tiếng Dân » về tục « hóa vàng » của người dân Việt :
Ông viết : « Người Việt-nam có tập tục mỗi khi cúng giỗ, con cháu đốt vàng bạc, giấy tiền để ông bà đem xuống cõi âm ăn tiêu. Mặt khác, những gia đình giàu sang trong ngày tuần tự còn làm những đồ mã (đồ bằng giấy như nhà cửa, chén bát, võng lọng, gia nhân, v.v…) Nói chung tất cả những đồ dùng hàng ngày trong lúc ông bà còn tại thế, và đem đốt đi để ông bà ở suối vàng lãnh lấy mà dùng. Tập tục này tuy là mê tín, dị đoan, song đó cũng là lòng hiếu đạo của con cháu đối với ông bà cha mẹ… »

Trong quyển Tín ngưỡng Việt-nam, ông Toan-Ánh cũng có viết : « Hóa vàng còn gọi là nấu vàng, tức là đem đốt những vàng mã, vàng nghìn, hoặc vàng giấy của con cháu gởi giỗ, hoặc khách khứa mang tới. Phải kể cả những tấm hàng, những cuộn giấy đủ màu, tượng trưng cho những tấm vải, con cháu đã mua cúng trong ngày giỗ cũng được hóa cùng với vàng ma… Lúc hóa vàng, con cháu đổ vào đống lửa một chén rượu cúng. Chén rượu này cốt để biến những vàng mã trên dương gian thành vàng thật, đồ dùng dưới âm phủ. Người ta lại còn hơ một chiếc đòn gánh hoặc một chiếc gậy trên ngọn lửa, có ý rằng các cụ sẽ dùng chiếc đòn gánh hoặc một chiếc gậy này để gánh vàng mã về cõi âm… »

Theo lời biên khảo của ông Huỳnh-thúc-Kháng cũng như ông Toan-Ánh, chúng ta thấy ý thức hóa-vàng trong việc thờ cúng tổ tiên đều pha trộn giữa tình cảm và tín ngưỡng.

Nếu đặt ý thức tín ngưỡng ra ngoài, một lá vàng bạc bằng giấy, đốt đi là cả một tấm lòng thành kính và thương yêu của con cái đối với ông bà tổ tiên. Khi nghĩ đến ông bà, tổ tiên, người dân Việt-nam cảm thấy ông bà tổ tiên sẽ khổ sở, nếu bị thiếu thốn tiền bạc. Ý thức ấy phát xuất từ cõi sống của nhân gian. Làm sao biết được ở cõi siêu hình, hồn người chết sống bằng cách nào ? và sinh hoạt ra sao ? Tiền bạc ở dương thế có giá trị đối với cõi âm phủ chăng ? Điều đó thuộc phạm vi tín ngưỡng, căn cứ ở niềm tin không ai giải thích nổi. Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến trong ý thức tín ngưỡng lại chất chứa một tình cảm sâu xa. Không cần biết vàng bạc bằng giấy có giá trị ở cõi âm hay không, nhưng trên thực tế, đối với người sống, một mảnh giấy vàng bạc đốt đi là đốt cả một nguồn tình cảm trộn vào vong linh người chết.
Ở các nước văn minh khoa học, nhiều người cho việc cúng vái, đốt vàng bạc giấy trong lúc lễ bái tổ tiên là một việc làm vô ý thức, mê tín dị đoan. Gần đây, các nhà lãnh đạo quốc gia, ý thức theo nền văn minh tân tiến, cũng hô hào dân chúng bỏ tục lệ ấy.
Tuy nhiên, mặc dù là hấp thụ thế giới văn minh khoa học, mặc dù đã bị ý thức khoa học đả kích, đến ngày nay dân tộc Việt-nam vẫn giữ tục lệ ấy trong đạo thờ ông bà.
Tại sao có việc lạ lùng như vậy? Nếu chúng ta ý thức rằng đạo thờ ông bà của dân tộc Việt-nam xuất phát ở tình cảm, thì mọi lễ nghi, tập tục trong việc cung kính cũng không tách ra ngoài yếu tố tình cảm.
Đốt vàng bạc giấy cho người chết dù không giải thích được niềm tin của mình một cách vững chắc, nhưng về phương diện tình cảm đã đáp ứng một cách mạnh mẽ nhu cầu đối với người sống.
Người sống phải làm gì để thương yêu, tưởng nhớ người chết, nếu không nhờ vào địa hạt tín ngưỡng. Một tờ vàng giấy đốt đi, chưa cần tìm hiểu nó có ích lợi gì cho người chết hay không, thì hiện tại, chúng ta đã thấy ở cõi lòng người sống chan chứa một tình thương và tưởng nhớ. Cho nên, dù là mê tín, dị đoan, nhưng người Việt-nam không thể bỏ tập tục ấy được chỉ vì họ phải nhờ vào tập tục ấy để làm ấm dịu trong hồn họ bằng sự bày tỏ một niềm thương, một sự kính mến, mà ngoài những hành động ấy không có cách nào phát lộ được.
2) Những câu chuyện trong dân gian đối với người chết đi dần vào tín ngưỡng
Ở mục trên, chúng ta đã thấy tín ngưỡng là nguồn an ủi con người trong đau khổ, băn khoăn, lo lắng, là con đường để thỏa mãn những thắc mắc trong cuộc sống loài người.
Tuy nhiên, khi tín ngưỡng đã đi vào cuộc sống con người thì tín ngưỡng lại ảnh hưởng và chi phối mọi mặt. Đạo thờ ông bà của dân tộc Viêt-nam cũng thế. Từ tình cảm bước sang địa hạt tín ngưỡng, ý thức đối với người chết tự nhiên thay đổi hẳn.
Một đứa con sống gần gũi với người mẹ, thường ngày đi vào phòng ngủ của người mẹ với cảm giác thân mật, ấm cúng. Nhưng cũng với căn phòng ấy, khi người mẹ chết đi, đứa con bước vào phòng cảm thấy lạnh lùng, sợ hãi. Do đâu có sự thay đổi về cảm giác như vậy ? Rõ ràng ý thức tín ngưỡng đã chi phối tình cảm con người.
Ở khắp miền quê Việt-nam, trong những đêm gió lạnh, mưa phùn, trẻ con quây quần nhau quanh bếp lửa thường kể chuyện ma, những câu chuyện mà chúng đã được nghe người lớn kể lại.
Những câu chuyện ma thường có ít nhiều dính líu đến vong hồn những người vừa chết trong xóm, trong làng.
Sau đây chúng tôi xin lược dẫn một ít câu chuyện về tín ngưỡng được lưu truyền trong dân gian, có ảnh hưởng đến việc thờ cúng ông bà.
Hồn thư : Ở miền quê người ta thường kể chuyện hồn thư mỗi khi có người vừa chết. Hồn thư là đốm lửa màu xanh, lớn nhỏ tùy số mạng và chức phận người chết. Hồn thư nhỏ và mờ mịt nhất là hồn thư «ăn mày». Bởi vậy mấy cụ già thường ví với ngọn đèn lờ: «Đèn lửa gì như hồn thư ăn mày». Theo tín ngưỡng, mỗi người chết không quá ba bữa, từ ngôi mộ có một đốm lửa vụt bay lên trong đêm tối. Đóm lửa ấy cuốn quanh mấy vòng rồi tìm đường bay thẳng về nhà, soi khắp mọi nơi như kiểm soát lại những vật dụng thường ngày. Cũng có người bảo hồn thư hiện lên từ dưới gầm giường người chết, chứ không phải ở ngôi mộ. Khi hồn thư nổi dậy thì con cháu trong nhà đều ngủ hết, không ai trông thấy được, và mỗi người chết chỉ có một lần hồn thư dậy lên mà thôi. Còn nhiều câu chuyện về hồn thư, nhưng mỗi nơi kể mỗi khác. Tuy là câu chuyện thuộc phạm vi tín ngưỡng, song người dân quê không ai không biết.
Quỉ nhập tràng : Quỉ nhập tràng là câu chuyện người chết đột nhiên sống dậy hiện quỉ hiện yêu, làm hại người trong gia đình mình. Có nơi bảo rằng người chết gặp ngày giờ xấu, bị ma quái nhập vào xác chết, phá phách. Có người bảo rằng người vừa chết, chưa khâm liệm, nếu bị con mèo mun (mèo lông đen) nhảy ngang qua thi thể, thì xác chết vùng dậy, tác yêu tác quái.
Và, còn rất nhiều lối kể, không thể nào nói ra đây hết được. Những câu chuyện hoang đường như vậy di lưu trong dân chúng không sách vở nào chép cho hết. Ở đây chúng ta chỉ lược dẫn vài nét đại cương tiêu biểu cho tình cảm giữa người sống và người chết khi bị tín ngưỡng ảnh hưởng mà thôi.
Song, chúng ta đừng tưởng những câu chuyện hoang đường ấy không có tác dụng đối với đạo thờ ông bà của người dân Việt.
Người dân Việt từ chỗ tình cảm mà phụng thờ ông bà tổ tiên, thì cũng từ chỗ ảnh hưởng vì tín ngưỡng mà mỗi mỗi đều van vái ông bà tổ tiên phù hộ cho mình trước những tai họa do cuộc sống gây nên.
Một đứa con sổ mũi, nhức đầu, cũng cầu cứu đến ông bà, tổ tiên. Một dịp rủi may trong trường thi cử, cũng cầu cứu sự phò trì của ông bà tổ tiên. Ông bà tổ tiên trong lãnh vực tín ngưỡng trở thành một năng lực siêu nhiên, tác động vào cõi sống loài người như họ đã tin tưởng vào tác động của thần linh vậy.
Tóm lại, căn bản đạo thờ ông bà của dân tộc Việt-nam không phải là một tín ngưỡng hay một tôn giáo. Nó phát xuất ở tình cảm. Tuy nhiên, tình cảm con người lại chịu ảnh hưởng lịch sử sinh hoạt xã hội, và sinh hoạt xã hội đã đưa dần tình cảm con người vào tín ngưỡng, nên đạo thờ ông bà của người dân Việt-nam cũng dần dần pha trộn màu sắc tín ngưỡng.
CHƯƠNG II: BIẾN THÁI CỦA TỤC NGỮ PHONG DAO
Bắt đầu soạn thảo bộ Thi ca bình dân Việt-nam, chúng tôi đã phân chia hai dòng văn chương bình dân và văn chương bác học, đồng thời xác định tính chất khác biệt của nó.
Tuy nhiên, đến đây chúng tôi lại đề cập vấn đề biến thái trong thi ca.
Vậy thế nào là biến thái trong thi ca ? Và tại sao có sự biến thái ấy ?
Dù ở xã hội nào, thời đại nào cũng thế, thi ca phát xuất ở tình cảm, và tình cảm chịu ảnh hưởng của sinh hoạt xã hội. Khi nói đến thi ca bình dân là nói đến tình cảm của lớp người dân quê, mộc mạc, nghèo khốn trong đồng ruộng, lũy tre, là nói đến sự khác biệt về ý thức giai cấp trong hoàn cảnh sinh sống. Mặc dù vậy, thế giới bình dân không phải là một thế giới riêng rẽ, sống ngoài mọi biến cố chung của dân tộc, tách rời thời gian, không gian ra ngoài ảnh hưởng thiên nhiên. Cho nên, khi phân định ranh giới giữa hai dòng văn chương bác học và bình dân, chúng ta chỉ nêu quan niệm bằng tính chất, mà không thể quan niệm một cách cố định được. Ca dao Việt-nam có câu :
Có hèn cũng ngựa nhà quan,
Kiều khấu rách nát hồng nhan vẫn còn.
Con ngựa nhà quan bị phế thải, dù có trở thành ngựa thồ, nhưng thói quen tiềm ẩn trong con vật vẫn còn di lưu qua tính chất của nó.
Cũng như một cô gái nhà giàu, lúc sa cơ thất thế, có thể trở thành nghèo hèn, nhưng tư cách, tính tình không thể nào trút sạch nguyên chất để hoàn toàn giống như những cô gái sống hàn vi từ thuở bé.
Ngược lại, một người sống trong hàn vi, khổ cực, gặp thời trở nên giàu có, tuy hoàn cảnh đổi khác, những cũng không thể giống như kẻ đã từng hưởng cảnh phong lưu từ thuở thiếu thời.
Chính bản chất con người là yếu tố căn bản qui định ranh giới tình cảm. Điều đó chúng ta đã xác định. Ở đây, chúng ta muốn nói về biến thái của tình cảm. Cho nên, mặc dù hoàn cảnh xã hội lại luôn luôn thay đổi, khiến tình cảm con người cũng phải luôn luôn đổi thay. Sự khác biệt của bản chất, và sự đổi thay của tình cảm do sinh
hoạt xã hội tác thành là nguyên nhân tạo ra sự biến thái giữa hai nguồn văn chương bác học và bình dân.
Giai cấp bình dân và giai cấp thượng lưu quí phái luôn luôn là hai đối tượng cố định, nhưng người bình dân và người thượng lưu quí tộc lại có thể thay bậc đổi ngôi. Nói cách khác, giàu và nghèo là hai địa hạt cố định, nhưng người giàu có thể trở nên nghèo, và người nghèo có thể trở nên giàu. Sự thay đổi về trạng thái sinh hoạt cũng là sự đổi thay về tình cảm con người, và sự đổi thay về tình cảm con người tác động vào văn học tạo thành biến thái của tâm tư.
Dòng văn chương bác học và bình dân cũng như hai dòng sông, phát nguồn từ hai địa điểm, cùng chảy theo một chiều thời gian. Hai dòng sông không thể là một, nhưng nước sông có thể vì biến cố thiên nhiên chảy tràn từ dòng này sang dòng khác. Chúng ta nói đến biến thái của thi ca bình dân tức là muốn nói đến những dòng nước chảy tràn và dung hợp ấy.
A) ẢNH HƯỞNG GIỮA VĂN CHƯƠNG BÌNH DÂN VÀ VĂN CHƯƠNG BÁC HỌC
Sinh hoạt xã hội loài người cũng như mọi trạng thái thiên nhiên, tuy mỗi cá thể mang một tính chất riêng rẽ mà kỳ thực không một cá thể nào vượt ra ngoài vòng tương quan.
Một chiếc lá lìa cành nơi sườn núi có thể bị mưa đẩy xuống dòng sông, và dòng sông đưa chiếc lá ấy mãi đến một nơi vô định.
Một cành hoa trổ sắc không phải lúc nào cũng có thể làm đẹp cho khóm hoa, mà nhiều khi bị một bàn tay yêu hoa hái đi đem về cắm ở phòng khác.
Tâm tư loài người cũng thế. Nó phiêu lưu trên dòng đời không khác chiếc lá lìa cành, đóa hoa trổ sắc, do mọi biến đổi của thời gian, không gian.
Cho nên, chúng ta không thể nào phủ nhận trạng thái tương quan, ảnh hưởng của muôn loài vạn vật cũng như trạng thái biến đổi của tâm tư.
Nhiều nhà khảo cứu về văn chương bình dân Việt-nam khi đứng trước trạng thái ảnh hưởng giữa hai nền thi ca bác học và bình dân đã phân vân về tính chất tương đồng của nó trên bình diện tâm tư.
Ví dụ, ông Lan-Đình đã đưa ra nhận định sau trong bản nguyệt san Phổ Thông số 240 :
Thật khó phân biệt ranh giới giữa thi bình dân với thi ca bác học. Đúng hơn, thật khó đoán chắc rằng thi ca bác học vì ngoại lai (?), hướng ngoại (?) Ranh giới? Có hai ranh giới hình thức và ý tưởng. Hình thức thì :
Cầu này, cầu ái cầu ân,
Một trăm con gái rửa chân cầu này.
Cũng « lục bát » lắm đấy chứ ? Vả chăng « ái » và « ân » là « nói chữ », rồi có « nói nôm » đâu ! Còn ý tưởng :
Có rửa thì rửa chân tay,
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh !
Tuy không « lục bát » nữa, nhưng « đôi mắt sắc đến giết cá » cũng « bác học » lắm đấy chứ ? Tôi nghĩ còn « bác học » hơn cả đầu tường lửa lựu « bởi vì, từ màu đỏ đến ngọn lửa, sức tưởng tượng chẳng có gì cao cả. Ngay truyện Kiều cũng khó phân biệt giữa « bình dân » và « bác học ». Nếu « bác học » ở chỗ chỉ sự… « bất tri tam bách dư niên hậu », cũng « sẽ bình dân » ở chỗ « mua vui cũng được một vài trống canh. Tôi thiết tưởng người ta phải có một định nghĩa nào khác…
Nhận xét của ông Lan-Đình trên đây không phải không đúng. Sự tương đồng về tâm tư giữa hai nền thi ca dĩ nhiên không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, khi đưa ra nhận xét trên, ông Lan-Đình đã đi vào biến thái của nó, nghĩa là ông muốn phân định ranh giới giữa hai dòng sông, khi mặt nước đã ngập tràn vào nhau.
Thật vậy, chúng ta làm sao nhìn thấy được lằn mức dưới lòng sông khi con nước đã phủ tràn xóa bỏ đường ranh giới ? Tuy nhiên, không nhìn thấy không có nghĩa là không có giới tuyến giữa hai dòng sông. Sự trộn trạo của hai dòng nước chỉ là trạng thái biến động bất thường, mà vị trí cấu tạo của hai dòng sông lại có tính chất cố định. Ca dao Việt-nam có câu :
Chim quyên xuống đất ăn trùn,
Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.
Nếu gạt bỏ nguyên nhân ra ngoài, chúng ta làm sao biết người anh hùng lỡ vận ? Dù là kẻ anh hùng khi lên nguồn đốt than thì hình thức vẫn là một gã tiều phu như trăm nghìn tiều phu khác, những gì đặc biệt chỉ ở bản chất mà thôi. Một Trần-Khánh-Dư, danh tướng đời Trần, khi bị tội phải về Chí-linh (Hải-dương) đốt than bán, nhưng cái khí phách kiêu hùng vẫn không làm sao mất bản chất được khi ta đọc qua bài thơ khẩu khí dưới đây :
« Bán than »
Một gánh kiền khôn quảy tếch ngàn,
Hỏi rằng : « Chi đó ». Gửi rằng : « Than ».
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn.
Ở với lửa hương cho vẹn kiếp,
Thử xem sắt đá có bền gan.
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác,
Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn.
(Trần-khánh-Dư)
Một gã tiều phu suốt đời cặm cụi với củi than đen đúa đem so sánh với người anh hùng lỡ vận phải bán than dù bản chất có khác, nhưng tâm tự họ dễ giao cảm qua nghề nghiệp cùng làm.
Dưới đây là những câu ca dao làm môi trường cho sự biến thái pha trộn của hai dòng sông văn học :
Văn chương phú lục chẳng hay,
Trở về làng cũ học cày cho xong.
Sớm ngày vác cuốc thăm đồng,
Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.
Hết mạ ta phải quảy thêm,
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
Nửa mai lúa tốt đầy đồng,
Gặt về dập sảy bõ công cấy cày.
Từ một kẻ sĩ trở về với nhà nông, chúng ta không thể nào phủ nhận trạng thái biến đổi của tâm tư họ. Khi tâm tư đã biến đổi tất nhiên phải có sự pha trộn và dung hợp. Nói cách khác, một kẻ sĩ khi đã trở thành một nông phu cũng có nghĩa là họ đem tâm tư của dòng văn chương bác học trộn vào tâm tư của dòng văn chương bình dân.
Khi tâm tư đã pha trộn, chúng ta làm sao phủ nhận được sự biến thái của nó.
Đến đây, chúng tôi tưởng cần phân tích một lần nữa về tính chất của văn chương bình dân và bác học.
Ở đoạn đầu quyển Thi ca bình dân Việt-nam chúng tôi đã xác định : « Văn chương bình dân phải ảnh tình cảm và sinh hoạt của lớp người nghèo khổ. Những gì họ nói ra, di lưu trong lịch sử văn học đều phát xuất ở địa phương tính và ý thức sinh hoạt hàng ngày của họ. Trong lúc đó văn chương bác học thoát thai từ tình cảm của lớp người phong lưu quí phái. Lớp người này ít gần gũi với sinh hoạt quần chúng, nên tình cảm họ thường mượn ở các sách vở du nhập từ bên ngoài, lấy sự học hành, tham khảo rộng rãi làm căn bản cho hiểu biết. Do đó, văn chương bình dân thường phản ảnh tinh thần dân tộc nhiều hơn ».
Nếu chúng ta đồng ý nhận định trên đây thì chúng ta cũng phải thừa nhận rằng khi có sự pha trộn, văn chương bác học sẽ phản ảnh một phần nào tình cảm sinh hoạt của lớp quần chúng nghèo nàn, ngược lại, văn chương bình dân cũng chịu ảnh hưởng một phần tư tưởng do các sách vở phổ biến trong từng thế hệ. Để chứng minh điều đó, chúng ta thử đi vào một số ca dao tiêu biểu sau đây :
Một đời được mấy anh hùng,
Một nước được mấy đức ông trị vì.
Anh đừng cợt ghẹo làm chi,
Em đang chắp chỉ chọn ngày cải hoa.
Tin lên Thiên-thượng Hằng-nga,
Cậy ông Nguyệt-lão với bà Tơ vuơng.
Chăn loan gối phượng sẵn sàng,
Màn đào rũ dọc, lầu hồng dãi ngang.
Còn đang chọn đá thử vàng,
Ngọc lành ai quẩy ra đàng bán rao.
Quan quan bốn tiếng thư cưu,
Mong người quân tử hảo cầu kết duyên.
Phấn son cho phỉ tấm nguyền,
Anh hung sánh với thuyền quyên mới tình.
Phạt-kha thơ ấy rành rành,
Phỉ môi bất đắc xin anh liệu lường.
Trên đây là những câu ca dao đã được phổ biến trong lớp người bình dân. Tuy nhiên, nếu chúng ta khảo sát về hình thức cũng như nội dung, chúng ta sẽ thấy khác biệt với phần lớn ca dao mà chúng ta đã sưu tập.
Về hình thức, thường thường người bình dân không sáng tác những câu ca dao dài. Họ chỉ cần diễn đạt một vài tâm tư của họ thôi. Hơn nữa, văn chương bình dân là văn chương truyền miệng, không ghi chép trên sách vở, nếu sáng tác dài sẽ không ai thích vì không thể nhớ được. Mặt khác, họ chỉ diễn đạt bằng ngôn từ thông dụng, không cầu kỳ, vận dụng những điển tích xa xôi. Những tiếng như : chăn loan, gối phượng, lầu hồng, màn đào, ngọc lành bán rao, v.v… đều là những ngôn từ không phải của người bình dân.
Về nội dung, người bình dân chỉ dụng ý nói lên tiếng nói chân thành qua tâm tư của họ, do đó, nội dung của câu ca dao thường thô sơ, mộc mạc, phản ánh ý sống thực tiến của họ trong sinh hoạt đương thời. Những ý trong bài ca dao trên như: «chắp chỉ, cải hoa», «ngọc lành bún rao», «quan quan thư cưu», «hảo cầu kết duyên», v.v… đều là những ý mượn ở điển tích, tách rời ý thức bình dân.
Cho nên, chúng ta có thể nói đó là những câu ca dao biến thái, do dòng văn chương bác học tràn vào lãnh vực bình dân. Những câu ca dao với tính chất như vậy không phải ít. Đây, chúng ta thử trích dẫn vài đoạn điển hình :
Mừng thay mưa nắng thuận trời,
Trị đời Ngu, Hạ, dân đời Thương, Chu.
Nơi nơi khích nhưỡng ca cù,
Khắp trong vũ điện Thang, Chu thuận hòa.
Đâu đâu già trẻ gần xa,
Người người kính chúc thiên gia vững vàng.
Ai ai trung hiếu lưỡng tuyền,
Năm năm mừng được phong niên thái bình.
Nay mừng những kẻ nông phu,
Cầu cho hòa cốc phong thu bình thời.
Vốn xưa nông ở bực hai,
Thuận hòa mưa gió ấy thời lên trên.
Quý hồ nhiều lúa là tiên,
Rõ ràng phú tức bình an cả nhà.
Bốn mùa xuân lại, thu qua.
Muốn cho tiền lúa đầy nhà hán sương.
Bước sang hạ giá, thu tàn,
Thu thu tiễn hoạch giàu ngang Thạch-Sùng.
Quý nhân cùng kẻ anh hùng,
Rắp toan muốn hỏi nhà nông ê đề.
Thực thà chăm chỉ thú quê,
Chuyên cần học nghiệp làm nghề đoan trang.
Gặp thời là được thợ khang.
Tam đa ngũ phúc rõ ràng trời cho.
Tuy cũng được xếp loại vào ca dao, song những loại trên đây tính chất còn khác biệt với ý thức bình dân rất nhiều. Sự khác biệt ấy là do tỷ lệ biến thái chưa được bao nhiêu. Hoặc nói cách khác, tuy tác giả muốn hòa mình vào cuộc sống bình dân, nhưng tâm hồn còn mang nặng tính chất bác học, thiếu những cái gì mộc mạc, đơn giản mà người bình dân rất cần đến nó.
Ngoài một số ca dao thiếu tính chất hòa hợp, chúng ta còn thấy những câu ca dao, tuy thoát thai từ tính chất bác học, nhưng lại gần gữi với tính chất bình dân hơn. Ví dụ:
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có biết tình chăng ai?
Khi về hỏi liễu Chương-đài,
Cành xuân đã bẻ cho ai một cành,
Có yêu anh thì bẻ quách cho anh.
Tuy những ngôn từ « nguyện ước ba sinh », « bẻ liễu cành xuân » không được bình dân, song cũng không phải là những ý tưởng xa vời khó hiểu. Còn những ý kiến như «có yêu anh thì bẻ quách cho anh» thật mộc mạc, không bóng gió, mà văn chương bác học không thể có được.
Cũng như những câu ca dao sau đây đều biến thái từ địa hạt bác học qua bình dân :
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Phu thê trọng nghĩa tương phùng,
Chăn loan, gối quế rắp lòng chờ ai.
Tấm đá hoa ghi tạc để đời.
Hoặc : Nhờ trời mưa gió thuận hòa,
Nào cày, nào cấy, trẻ già khuyên nhau.
Chim, gà, cá, lợn, cành cau,
Mùa nào thức ấy giữ màu nhà quê.
Sớm đi thì tối lại về,
Quần hồng áo tía phủ phê trăm chiều.
Ai ơi ! Của thế còn nhiều.
Hay : Lỡ bước xuống đò,
Sông sâu, sào ngắn, khôn dò tới nơi.
Thuyền buồn gió đánh tả tơi,
Một con chèo quế xa bơi song hồ.
Trông lên hòn đá lô xô,
Mặt sông lai láng, bể hồ trong xanh.
Và: Ngồi đêm trông bóng trăng tàn,
Muốn đoan với nguyệt mà than một lời.
Nguyệt rằng: «Vật đổi sao dời,
Thân này vẫn để cho người soi chung».
Trên đây chúng ta vừa khảo sát qua một số ca dao bình dân mà chúng ta gọi là biến thái giữa dòng văn chương bình dân và bác học. Nhưng tính chất biến thái ấy, chúng ta chỉ mới khảo sát qua một chiều. Đó là ảnh hưởng của dòng thi ca bác học với dòng thi ca bình dân.
Vậy yếu tố nào đã tác thành ảnh hưởng ấy ? Ngược dòng thời gian, dân tộc Việt-nam trải qua mấy ngàn năm bị ngoại bang đô hộ, những biến cố trong guồng máy chính trị là nguyên nhân phát sinh những xáo trộn về giai cấp, những phân hóa về ý thức tạo thành những biến thái trong thi ca.
Một thi nhân trong lãnh giới bác học, thay vì xuôi theo dòng thời gian, sáng tác những tác phẩm có liên hệ đến phong trào văn minh thế giới, ăn nhịp với tâm tư thời đại, họ đã quay về tìm cái đẹp trong ruộng rẫy nương dâu, tìm cái giá trị chân thành mộc mạc trong con người nông phu chất phác mà thế giới văn minh cho là lạc hậu.
Một nhà chí sĩ thay vì đem chí hướng đấu tranh với mọi bất công của chế độ, họ cảm thấy bất lực đành co tay đem cuộc sống trở về vườn ruộng, hòa hợp với tâm tình của lớp người bình dân để bảo vệ niềm ưu tư của mình trong cuộc đời tàn tạ.
Sự phân hóa về tâm tư cũng có nghĩa là trạng thái biến động của giai cấp và trạng thái ấy đòi hỏi mọi dung hợp trong lãnh vực tình cảm con người. Biến thái về thi ca chính đã phát nguồn ở trạng thái ấy. Chúng ta thử đọc mấy dòng ca dao dưới đây:
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Đêm đêm đốt đỉnh hương trầm,
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê.
Một kẻ sống mãi ở quê nhà không cảm thấy quê nhà là một thiết tha đối với tình cảm, nhưng nhũng người xa quê khi được sống với quê nhà, cảm giác họ sẽ sống động hơn.
Cảm giác ấy khi đã hòa hợp vào cuộc sống quê nhà, chúng ta không thể phủ nhận đó là một năng lực biến động, khơi nguồn cho dòng thi ca bình dân trở thành một hấp lực mới, tạo ra một trào lưu mới trong sinh hoạt tình cảm xã hội.
Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu
1. Ai ơi ! Đừng lấy làm lo,
Đương xuân rồi cũng soi cho âm hàn.
b) VIỆC THỜ CÚNG
c) NGUỒN GỐC CỦA ĐẠO THỜ ÔNG BÀ
d) ĐẠO THỜ ÔNG BÀ KHI ẢNH HƯỞNG VÀO TÍN NGƯỠNG
2. Ăn chanh ngồi gốc cây chanh,
Ăn rồi lại ném ngũ hoành tứ tung.
3. Anh đây mục hạ vô nhân,
Nghe em xuân sắc mười phân não nùng.
Xưa nay những gái má hồng,
Anh thề anh có thèm trông đâu nào.
Lấy em đi trước cho hào,
Dù ngắm, dù nguýt, dù sao mặc lòng.
4. Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn,
Uống ăn kham khổ phàn nàn cùng ai ?
Miệng ăn măng trúc, măng mai,
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng.
Nước giếng trong con cá vẫy vùng.
5. Bạn bè là nghĩa tương tri,
Sao cho sau trước một bề mói nên.
6. Bạn vàng lại gặp bạn vàng,
Long, lân, qui, phượng, một đoàn tứ linh.
7. Bao giờ đồng ruộng thảnh thơi,
Nằm trâu thổi sáo, vui đời Thuấn, Nghiêu.
Nay mừng có chủ Thuấn, Nghiêu,
Mưa Nhân, gió Huệ thảy đều muôn dân.
Sông Lô một dải trong ngần,
Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên.
8. Bao giờ Thạch-mã quá giang,
Tứ-kỳ, Vĩnh-lại nghênh ngang công hầu.
9. Bồ cu bồ các,
Tha rác lên cây.
Gió đánh lung lay,
Là vua Cao-tổ.
Những người mặt rỗ,
Là ông Tiêu-Hà.
Nước chảy qua đường,
Là dượng Tào-Tháo.
Đánh bạc cố áo,
Là anh Trần-Bình.
10. Cái vòng danh lợi cong cong,
Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào.
Sự đời nghĩ cũng nực cười,
Một con cá lôi, mấy người buông câu.
11. Cành đào lá liễu phất phơ,
Lấy ai thì lấy, đợi chờ làm chi.
12. Cát bay vàng lại ra vàng,
Những người quân tử dạ càng đinh ninh.
Đinh ninh ta để dạ này,
Có công mài sắt, có ngày nên kim.
13. Cau già, dao sắc, lại non,
Người già trang điểm phấn son vẫn già.
14. Cây cao thì gió càng lay,
Càng cao danh vọng, càng dày gian truân.
15. Có tiền thì hậu mới hay,
Có trồng cây đức mới dầy nên nhân.
16. Có phúc thì phải có lông,
Người nào vô phúc sạch không lầu lầu.
17. Cóc chết lại có minh tinh,
Thất nghiệp nằm đình có trống cầm canh.
18. Con quốc kêu khoắc khoải mùa hè,
Là than con gái phải nghe lời chồng.
Sách có chữ rằng : « phu xướng, phụ tòng »,
Làm thân con gái lấy chồng xuất gia.
Lấy em về thờ mẹ kính cha,
Thờ cha, kính mẹ, ấy là người ngoan.
19. Con ơi muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thì giữ việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.
Trai thì đọc sách, ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
20. Con ông mà lấy con bà,
Trời cho thuận hòa, bà lại lấy ông.
21. Cùng nhau một bọn đi thi,
Người thì đỗ trạng, kẻ thì về không.
Cùng nhau một bạn má hồng,
Kẻ đã có chồng, người vẫn nằm không.
22. Chàng về, thiếp cũng xin về,
Chàng về Hồ-bắc, thiếp về Hồ-tây.
Chàng bao nhiêu tuổi năm nay ?
Chàng rày mười tám, thiếp rày bốn ba.
Mồ cha đứa chê thiếp già,
Thiếp còn gánh nổi một vài trăm kim.
Trăm kim đổi lấy lạng vàng,
Mua gương Tư-mã để thiếp với chàng soi chung.
Chàng về sắm sửa loan phòng,
Thiếp xin điểm phấn, tô hồng thiếp theo.
23. Chi bằng cành trúc, áo tơi,
Danh cương, lợi tỏa, mặc đời đua tranh.
24. Chim khôn đậu nóc nhà quan,
Trai khôn tìm vợ gái khôn tìm chồng.
Xưa nay những bạn má hồng,
Thà hầu quân tử hơn chồng đần ngu.
25. Chim quyên xuống đất ăn giun (trùng),
Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.
26. Chính chuyên chết cũng ra ma,
Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng.
27. Chồng em vừa xấu, vừa đen,
Vừa kém nhan sắc vừa hèn chân đi.
Chồng em rỗ sứt, rỗ sì,
Chân đi chữ bát, mặt thì ngưỡng thiên.
Bao giờ vào đám tháng giêng,
Bắt chồng em đến khênh chiêng cho làng.
28. Chớ nghe quân tử nói òn,
Mà rồi có lúc ãm con một mình.
29. Chữ « trinh » giá đáng ngàn vàng,
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.
Còn như yêu vụng, dấu thầm,
Họp chợ trên bụng đến trăm con người.
30. Chữ « nhẫn » là chữ tương vàng,
Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu.
31. Dạy con từ thuở tiểu sinh,
Gần thầy, gần bạn tập tành lễ nghi.
Học cho cách vật trí tri,
Văn chương chữ nghĩa nghề gì cũng thông.
32. Dẫu xây chín bực phù đồ,
Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người.
33. Dẫu mà nợ bắt, nợ đòi,
Phong lưu ta cũng cứ nòi phong lưu.
34. Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệp lắm, càng oan trái nhiều.
35. Dưỡng nam bất giáo như dưỡng lư,
Dưỡng nữ bất giáo như dưỡng trư.
36. Đã sinh ra kiếp ở đời,
Trai thời Trung, Hiếu đôi vai cho tròn.
Gái thời Trinh, Tĩnh lòng son,
Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai.
Trai lành, gái tốt, ra người,
Khuyên con, trong bấy nhiêu lời cho chuyên.
37. Đã thành gia thất thì thôi,
Đèo bòng chi lắm, tội trời ai mang.
38. Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng,
Một là sát chồng, hai là hại con.
39. Đào khoe tươi, liễu khoe mềm,
Cây khô nẩy nhị, càng hêm ấm chồi.
Chữ rằng : « Thiên hữu tứ thời »,
Ngày thời hoa nở, tối thời hoa thơm.
40. Đất tốt trông cây rườm rà,
Những người thanh lịch nói ra quí quyền.
41. Đất xấu trồng cây ngẳng nghiu,
Những người thô tục nói điều phàm phu.
42. Đấy vàng, đây cũng đồng đen,
Đấy hoa thiên lý, đây sen nhị hồ.
Đấy em như tương mới tô,
Đây anh như người ngọc họa đồ trong tranh.
43. Đêm qua nguyệt lặn về Tây,
Sự tình kẻ đấy người đây còn dài.
Trúc với mai, mai về nhớ trúc,
Trúc trở về, mai nhớ trúc không ?
Bây giờ kẻ bắc người đông,
Kể sao cho xiết tấm lòng tâm tư.
44. Đêm qua chớp bể mưa nguồn,
Hỏi người quân tử có buồn hay không ?
45. Đố ai đốt cháy ao bèo,
Để ta gánh đá Đông-triều về ngâm.
Bao giờ cho đá mọc mầm,
Thì ta kết nghĩa tri âm với nàng.
46. Đố ai nằm võng không đưa,
Ru con không hát, anh chừa nguyệt hoa.
47. Đôi ta là nghĩa tào khang,
Xuống khe bắt ốc, lên đàng hái rau.
48. Đôi ta là nợ là tình,
Là duyên, là kiếp đôi mình kết giao.
Em như hoa mận, hoa đào,
Cái gì là ngãi tương giao hỡi nàng ?
49. Đôi ta như ngãi Phan-Trần,
Khi xa ngàn dặm, khi gần nên đôi.
50. Đội ơn chín chữ cù lao,
Sinh thành kể mấy non cao cho bằng.
Trời ơi có thấu tình chăng !
Bước sang mười sáu ông trăng gần già.
51. Đưa anh ra tới làng Hồ,
Em mua trái mít, em vồ trái thơm.
Anh về, em nọ dám đưa,
Hai hàng châu lệ như mưa tháng mười.
Biết bao chừ cho đặng thảnh thơi,
Tay tiêm thuốc cống, miệng mời lang quân.
52. Em rằng em muốn đi buôn,
Anh về kiếm chốn nha môn ngồi tuần.
Dù em buôn xa bán gần,
Làm sao tránh khỏi cửa tuần anh đây.
53. Gái mà chi! Trai mà chi!
Sinh ra có ngải có nghì là hơn.
54. Gần chùa phong cảnh mọi đường,

Ở gần thợ nhuộm vẻ vang mọi màu.
55. Ghe bầu trở lái về đông,
Làm thân con gái chờ chồng, nuôi con.
56. Già thì mọi sự mọi hèn,
Giang sơn phó mặc đàn em sau này.
57. Giang sơn một gánh cất ngồi,
Đầu con, đầu vợ, đầu nồi, đầu niêu.
58. Giang sơn phó mặc hàng mâm,
Sấm chớp ì ầm phó mặc Thiên-lôi.
59. Giàu sơn lâm lắm kẻ tìm đến,
Khó giữa chợ chẳng ma nào nhìn.
60. Giàu nhân ngãi hãy giữ cho giàu,
Khó tiền bạc mựa lo rằng khó.
61. Gió nồm là gió nồm nam,
Trách chàng quân tử ăn tham không chào.
62. Gió nồm là gió nồm nôm,
Trách chàng quân tử có mồm không ăn.
63. Giở xem một truyện phong tình,
Cho loan nhớ phượng, cho mình nhớ ta.
Nhớ nhau, nên thất, nên gia,
Nên cửa, nên nhà, nên vợ, nên con.
Chim họa mi réo rắt trên non,
Ước gì ta được vợ con như người.
64. Hai bên tranh lấy quả cầu,
Dân yên, nước thịnh dài lâu vững bền.
65. Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận tử,
Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi.
66. Họa hổ, họa bì, nan họa cốt,
Tri nhân, tri diện, bất tri tâm.
67. Hòn đất mà biết nói năng,
Thì thầy địa lý hàm răng không còn.
68. Hồng nhan ai kém ai đâu,
Kẻ xe chỉ thắm, người xe hạt vàng.
69. Hữu bằng tự viễn phương lai,
Lạc hồ quân tử lấy ai bạn cùng.
Chữ Hiếu, Trung là thầy với mẹ,
Chữ Nhân, Nghĩa là ái với ân,
Yêu nhau bao quản xa gần.
70. Khen ai khéo tạc bình phong,
Ngoài long, lân, phượng trong lòng sạch vôi.
71. Khó thì hết thảo hết ngay,
Công cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng quên.
72. Khôn thế gian làm quan Địa-ngục,
Dại thế gian làm quan Thiên-đường.
73. La hời, la hỡi, la hơi,
Ai lên nhắn khách nguồn đào,
Nghĩa xưa còn nhớ chút nào hay chăng ?
La hời, la hỡi, la hơi,
Bây giờ đến cảnh đào nguyên,
Bao nhiêu là một con thuyền tiễn đưa.
La hời, la hỡi, la hơi.
74. Làm trai có chí lập thân
Rồi ra gặp hội phong vân có ngày.
75. Làm trai có chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên trời giúp công cho,
Làm trai năm liệu, bảy lo mới hào.
Trời sinh trời chẳng phụ nào,
Công danh gặp hội anh hào ra tay.
Trí khôn rắp để dạ này,
Có công mài sắt, có ngày nên kim.
76. Lẳng lơ cũng chẳng có mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để dành.
77. Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bõ công trang điểm má hồng răng đen.
78. Lộc còn ẩn bóng cây tùng,
Thuyền quyên đợi khách anh hùng vãng lai.
79. Lửng lơ vừng quế soi thềm,
Hương đưa bát ngát càng thêm bận lòng.
Dao vàng bỏ đẫy kim nhung,
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng ?
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng,
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này.
80. Lưỡi vò độc quá đuôi ong,
Xui người tan hợp rứt lòng nghĩa nhân.
81. May ra thì hóa tứ linh,
Chẳng mai thất nghiệp nằm đình Cổ-lương.
82. Mặc ai chác lợi mua danh,
Miễn ta học đặng đạo lành thì thôi.
83. Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ,
Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau.
84. Một đêm quân tử nằm kề,
Còn hơn thằng nhắng vỗ về quanh năm.
85. Muốn cho có đó, có đây,
Sơn lâm chưa dễ một cây nên rừng.
86. Muốn cho gần bến, gần thuyền,
Gần bác, gần mẹ, nhân duyên cũng gần.
87. Muốn rằng tế tửu lang trung,
Còn như chủ sự lấy thùng mà đong.
88. Mười năm lưu lạc giang hồ,
Một ngày tu tác cơ đồ lại nên.
89. Mượn màu kinh sử ăn chơi,
Đi đâu là chẳng có nơi hữu tình.
90. Nước sông còn đỏ như vang,
Nhiều nơi lịch sự hơn chàng, chàng ơi !
91. Người đời như cánh phù du,
Sớm còn, tối mất, công phu nhỡ nhàng.
92. Người đời hữu tử, hữu sanh,
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.
93. Người trên ở chẳng kỷ cương,
Khiến cho kẻ dưới lập trường mây mưa.
94. Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta trồng cây đức để đời về sau.
95. Người có lúc vinh, cũng có lúc nhục,
Nước có lúc đục, cũng có lúc trong.
96. Người dưng có ngãi thì đãi người dưng,
Anh em vô ngãi thì đừng anh em.
97. Nhà giàu yêu kẻ thật thà,
Nhà quan ưa kẻ vào ra nịnh thần.
98. Nhất cao là núi Tản-viên,
Thanh nhàn vô sự là tiên trên đời.
99. Ở đây gần cảnh nhà chùa,
Lẽ đâu có lẽ chuyện trò trăng hoa.
Trúc mai sum họp một nhà,
Song tình đạo nghĩa đã già đồng cân.
Cũng liều phó thác cái thân,
Khi vui cũng một Tấn Tần mà thôi.
100. Quân tử ngồi buồn rung chống gối,
Tiểu nhân đắc chí gẩy đàn môi.
101. Quân tử cố cùng quân tử cố,
Tiểu nhân đắc ý tiểu nhân hay.
102. Quân tử thời oán tam niên,
Tiểu nhân thời oán nhãn tiền mà thôi.
103. Quân tử ứ hự đã đau,
Tiểu nhân dùi ngục đập đầu như không.
104. Quân tử nhất ngôn là quân tử dại,
Quân tử nói đi nói lại là quân tử khôn.
105. Sá bao cá chậu chim lồng,
Hễ người quân tử cố cùng mới nên.
106. Sinh không, tử lại hoàn không,
Khó ta, ta chịu, đừng mong giàu người.
107. Sinh ra ở chốn non tùng,
Trở về dương thế bạn cùng người ngoan.
108. Sông dài mà sắm đò ngang,
Em nhiều nhân ngãi, em mang oán thù.
109. Sông sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
110. Sơn lâm mấy cội tương vàng,
Cành bao nhiêu lá thương chàng bấy nhiêu.
111. Tay cầm bán nguyệt xênh xang.
Đem người quân tử mở mang sơn hà.
112. Tam Hoàng, Ngũ Đế chi thư,
Có người mất vợ ngồi thừ mặt ra.
113. Tám mươi ngả gậy ra ngồi,
Hỏi rằng xuân có tái hồi nữa thôi?
Xuân rằng: «xuân chẳng tái hồi,
Bốn dài, hai ngắn mà lôi xuân vào».
114. Tình thân bất luận khó giàu,
Vải to khó nhuộm cau màu cùng xinh.
116. Tới nơi hỏi khách tương phùng,
Chim ri một cánh bay cùng nước non.
116. Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha, kính mẹ, ấy là chân tu.
117. Tu cho trọn kiếp bụi hồng,
Kẻo già lại tiếc rằng lòng từ bi.
118. Tử vi xem số cho người,
Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.
119. Tương tư chẳng ốm cũng sầu,
Con ruồi đậu mép chẳng đau cũng buồn.
120. Thà rằng biệt tịch chi đồ,
Càng trông thấy cảnh, thấy chùa càng thương.
121. Tham giàu mà lấy chủ kho,
Ba năm hiệu lượng vua cho đeo vòng.
122. Thẩn thơ đứng gốc mai già,
Hỏi thăm ông Nguyệt có nhà hay không ?
123. Thế gian chuộng của, chuộng công,
Nào ai có chuộng người không bao giờ.
124. Thế tình chuộng lạ, tham thanh,
Bên khinh, bên trọng ra tình xấu chơi.
125. Thiên cao đã có thánh tri,
Người nhân nghĩa chẳng hàn vi bao giờ.
126. Thú vị tình thâm,
Lấy phải con vợ đái dầm, thú vị tình khai.
127. Thuyền ai thấp thoáng bên bờ,
Hay thuyền ông Lã đợi chờ vua Văn.
128. Thứ nhất sợ kẻ anh hùng,

Thứ nhì sợ kẻ bần cùng khổ dây.
129. Thừa quan rồi mới đến dân,
Thừa nha môn tuần đến sãi đò đưa.
130. Thương thay những kẻ quạt mồ,
Hại thay những kẻ lấy vồ đập săng.
131. Trách người quân tử vô danh,
Chơi hoa xong, lại bẻ cành bán rao.
132. Trách chàng Từ-Thức vụng suy,
Cõi tiên chẳng ở, về chi cõi trần.
133. Trai tứ chiếng, gái giang hồ,
Gặp nhau ta nổi cơ đồ từ đây.
134. Trăng thanh nguyệt rạng mái đình,
Chén son chưa cạn sao tình đã quên.
135. Trọc đầu mang tiếng bất lương,
Kìa như có tóc cũng phường gió trăng.
136. Trong nhà đã có hoàn cầm,
Song le còn muốn nhân sâm nước người.
137. Trong ba mươi sáu đường tu,
Đường nào phú quí, phong lưu thì làm.
138. Trọng người, người lại trọng thân,
Khinh đi, khinh lại như lần trôn quan.
139. Trời ơi! sinh giặc làm chi,
Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường.
140. Văn chương chữ nghĩa bề bề,
Thần l… ám ảnh cũng mê mẩn người.
141. Văn thì cửu phẩm đã sang,
Võ thì tứ phẩm còn mang gươm hầu.
142. Vật ngon đâu đến thứ ta,
Những trâu hạ địa, cùng gà chết toi.
143. Vì đây thiên lý ngang trời,
Để cho tài tử gặp người giai nhân.
Sài Gòn, 1/11/1970
Nguyễn Tấn Long - Phan Canh
Nguồn: tusachtiengviet.com
Theo https://www.dtv-ebook.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...