Thứ Hai, 28 tháng 11, 2022

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 2 - Xã hội quan 2

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 2
Xã hội quan 2

Theo nhận xét trên đây thì ông Trương Tửu vẫn thừa nhận chế độ chính trị phong kiến củng cố chế độ phụ quyền và dùng chế độ phụ quyền để bảo vệ chế độ phong kiến. Đem đối chiếu qua lịch sử chính trị thì điều này có vẻ xác đáng. Mọi chế độ phong kiến đều tạo lập trên sự phân chia đẳng cấp để duy trì quyền lực. Đẳng cấp được sắp xếp và tôn trọng từ đơn vị gia đình đến đơn vị quốc gia. Cho nên, khi muốn đánh đổ chế độ phong kiến, người ta phải bắt đầu đánh đổ chế độ đẳng cấp khắc nghiệt của gia đình. Ở Việt-Nam, guồng máy chính trị phong kiến chịu ảnh hưởng người Tàu qua triết lý Nho giáo của Khổng-Tử, dĩ nhiên chế độ phụ quyền của Việt-Nam tính chất không khác mấy chế độ phụ quyền ở Trung-Hoa mặc dù chưa đến độ khắc nghiệt bằng. Cho nên, lúc người Pháp đặt nền móng đô hộ trên đất nước Việt-Nam, phong trào giải phóng phụ nữ (giải phóng gia đình) nổi lên đánh đổ chế độ phụ quyền thì cũng có nghĩa là đánh đổ quyền lực của chế độ phong kiến. Kết quả, nền móng phụ quyền bị phá vỡ thì nền móng phong kiến cũng bắt đầu tàn lụn. Đây là một bằng chứng xác thực nhất để chúng ta xác định chế độ phụ quyền và chế độ phong kiến là hai ý-thức-hệ tương quan, mà đạo lý của Khổng-Tử là đạo lý bảo vệ phong kiến.

Trên đây chúng ta đã ghi nhận nền phong kiến Việt-Nam ảnh hưởng nền phong kiến Trung-Hoa, và chế độ phụ quyền Việt-Nam cũng ảnh hưởng chế độ phụ quyền Trung-Hoa, mà giáo lý Khổng Mạnh là căn bản, vậy chúng ta thử khảo sát lại mức độ ảnh hưởng ấy sâu rộng đến bậc nào trong dân chúng Việt-Nam thời xưa.

Khi đã nghiên cứu về ảnh hưởng, chúng ta không thể không so sánh. Nhưng, chúng ta không so sánh tục gả chồng lấy vợ giữa người Trung-Hoa và người Việt-Nam, và cũng không tìm hiểu chế độ phụ hệ của dân tộc Việt-Nam phát khởi từ lúc nào, vì chúng ta không có đủ tài liệu để minh xác. Chúng ta chỉ so sánh ý thức hôn nhân của người Trung-Hoa và ý thức hôn nhân của người Việt-Nam trong phạm vi ảnh hưởng mà thôi.

Trước nhất, chúng ta thấy dân tộc Việt-Nam ảnh hưởng nặng về đạo « Tam tòng » của Trung-Hoa. Tam tòng là gì ?

Nó là ba trách nhiệm qui định cho người đàn bà phải theo, và coi đó như một bổn phận. Ba trách nhiệm ấy là :

« Tại gia tòng phụ.

Xuất giá tòng phu,

Phu tử tòng tử ».

Khi ở nhà phải theo sự định đoạt của người cha, khi lấy chồng phải theo sự định đoạt của người chồng, khi chồng chết phải theo sự định đoạt của đứa con trai.

Như vậy đạo « tam tòng » là một nghiêm lệnh, tước đoạt hoàn toàn quyền hạn của người đàn bà trong đời sống họ. Đối với gia đình, người đàn bà chỉ là kẻ lệ thuộc, thì đối với xã hội người đàn bà còn được trọng vọng vào đâu ! Do đó, người đàn bà bị xã hội khinh bỉ. Nếu người Trung-Hoa đã khinh người đàn bà với ý niệm « phụ nhân nan hóa » (đàn bà khó dạy dỗ) thì người Việt-Nam thời xưa cũng đã chịu ảnh hưởng quan niệm ấy. Họ bảo :

« Khôn ngoan cũng thể đàn bà,

Dù rằng vụng dại cũng là đàn ông ».

Sự khinh miệt ấy phát sinh do ý thức phụ quyền. Ý thứ phụ quyền đem lại cho người đàn ông mọi trọng vọng mà người đàn bà không thể có được. Người đàn bà bị khinh rẻ đến nỗi đẻ con ra người ta cũng không muốn cho nó giống mẹ. Họ bảo :

« Con gái giống cha giàu ba họ,

Con trai giống mẹ khó ba đời ».

Người mẹ bị coi như cái gì xấu xa bỉ ổi. Người đàn ông chẳng những tước đoạt quyền người đàn bà, mà còn muốn cho tạo hóa tước đoạt mọi hình hài của họ nữa.

Ý thức khinh đàn bà đã để lại trong ca dao Việt-Nam những bài hát rất hài hước, châm biếm, như :

« Cô gái Sơn-Tây yếm thủng bằng giần,

Răng đen hạt nhót, chân đi cù nèo.

Tóc rễ tre, chải lược bừa cào,

Sù sì da cóc, hắc lào tứ tung.

Trên đầu chí rận như sung,

Rún lồi quả quít, má hồng trôn nêu.

Cô tưởng mình ái ố mỹ miều,

Chồng con chẳng lấy để liều thân ru !

Hai nách cô như ổ chuột chù,

Mắt thì gián nhắm lại gù lưng tôm.

Trứng rận bằng trái nhãn lồng,

Miệng cười tủm tỉm như sông ngân hà.

Con rận bằng con ba ba,

Đêm nằm nó ngáy cả nhà thất kinh.

Hàng xóm vác gậy đi rình,

Hóa ra con rận đực nóng mình bò ra.

Bánh đúc cô nếm hết nồi ba,

Mía tre tráng miệng hết và trăm cây.

Giã gạo vú chấm đầu chày,

Xay thóc cả ngày được một đấu ba.

Đêm nằm nghĩ hết gần xa,

Trở mình một cái gãy ba thanh giường ».

Bài hát trên đây tuy nói cô gái Sơn-Tây nào đó, nhưng nó mang tính chất châm biếm, khinh miệt chung cho đàn bà và tỏ ra ý thức hống hách, tự cao, tự phụ của người đàn ông. Bởi vậy, cái gì ở người đàn ông họ cũng cho là tốt, mà ở người đàn bà đều xấu cả. Ví dụ :

« Đàn ông rộng miệng thì sang,

Đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà ».

Hoặc : « Đàn ông rộng miệng có tài,

Đàn bà rộng miệng điếc tai xóm làng ».

Chẳng những họ khinh rẻ, châm biếm đàn bà về hình dung mà còn khinh rẻ, châm biếm về cả tính nết nữa. Ví dụ họ nêu ra bảy tính xấu của người đàn bà như :

« Hay ăn vụng là một,

Hay dựa cột là hai.

Hay giỡn trai là ba,

Hay ăn quà là bốn,

Hay trốn việc là năm,

Hay đi nằm là sáu,

Hay láu táu là bảy ».

Qua vài nét tiêu biểu trên đây, chúng ta đã thấy người đàn bà thời xưa bị chế độ phụ quyền áp đảo, làm cho họ mất tất cả quyền hạn và giá trị. Bây giờ chúng ta thử xét đến đạo « tam tòng » của Nho-giáo đã tác động vào nếp sống của người dân quê ra sao.

1) Ý thức tại gia tòng phụ

Ý thức này đã bắt người con gái trong gia đình khi lớn lên phải phục tùng tuyệt đối cha mẹ, không được tự chuyên. Sự phục tùng ấy một mặt do guồng máy phong kiến áp đặt thành một lề luật, một mặt do quan niệm giáo điều của triết lý Khổng Mạnh tiêm nhiễm dần dần vào dân gian khiến cho gái lớn lên cảm thấy tự mình có nghĩa vụ như thế.

Họ bảo : « Áo mặc sao qua khỏi đầu ». Có nghĩa là họ cho sự định đoạt của cha mẹ là cái gì thiêng liêng, cao cả, mà người con chỉ có bổn phận tuân theo. Đối với người con gái, ý thức tại gia tòng phụ được thể hiện rõ rệt nhất trong ca dao về phương diện hôn nhân. Vì cho mình không có quyền hạn gì trong việc lựa chọn, nên họ đã đem số phận tương lai uỷ thác vào quyết định của cha mẹ.

Họ bảo : « Cha mẹ đặt đâu ngồi đấy ». Từ chỗ đem thân phận mình uỷ thác vào quyết định của mẹ cha, người con gái dần dần đi đến cảm giác xem hôn nhân là một sự may rủi, một định mệnh trong đời mình, họ nuôi những ý thức tiêu cực, buông xuôi như : « Con gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu ». Hoặc họ tự thấy họ như là một thân phận bi đát :

« Đàn bà như hạt mưa sa,

Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng ».

Hay : « Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ».

Bị ảnh hưởng « tại gia tòng phụ », người con gái khi lớn lên, bắt đầu có ý thức về cuộc đời đã cảm thấy thân phận mình như vậy, họ không còn biết nương tựa vào đâu để thực hiện ý hướng của họ, và họ đành coi mình như một món hàng, mà kẻ định đoạt số phận không phải là họ.

Ý thức ấy khi đã trở thành thói quen, đánh đổ mọi tự ti mặc cảm trong con người rồi, thì chính họ cũng không còn thấy khó chịu nữa, mà họ chỉ sống theo trào lưu xã hội, ý nghĩ của xã hội. Bởi vậy chúng ta không lấy làm lạ, khi trong ca dao Việt-Nam, nhiều cô gái đã hoan hỉ từ bỏ quyền định đoạt của đời mình, như :

« Em về hỏi mẹ cùng cha,

Có cho em lấy chồng xa hay đừng ».

Hay : « Em về hỏi mẹ cùng thầy,

Có cho anh cưới tháng này thì cho ».

Dù trai gái có thương yêu nhau đến đâu, họ cũng không dám nghĩ đến vượt quyền quyết định của mẹ cha !

Quyền định đoạt của cha mẹ đối với con cái một cách độc đoán như vậy đã nảy sinh trong gia đình Việt-Nam, nhất là đối với việc hôn nhân, không biết bao nhiêu đổ vỡ, mà kẻ chịu thảm nạn ấy là người con gái, lớp người mà chế độ « tại gia tòng phụ » của Khổng Mạnh đã dành sẵn cho họ. Ví dụ :

« Đôi ta làm bạn thong dong,

Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.

Bởi chưng thầy mẹ nói ngang,

Nên đôi đũa ngọc mâm vàng xa nhau ».

Hễ cha mẹ không bằng lòng thì hôn nhân của đôi lứa phải tan vỡ, dù trai gái đã thương nhau đến bực nào. Ngược lại, khi cha mẹ bằng lòng, dù trai gái không thương nhau cũng phải lấy nhau. Ví dụ :

« Mẹ em ham ăn cá thu,

Gả em xuống biển mù mù biệt tăm ».

Hoặc : « Mẹ em tham thúng xôi dền,

Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh-hưng.

Tôi đã bảo mẹ rằng đừng,

Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào.

Bây giờ kẻ thấp người cao,

Như đôi đũa lệch so sao cho bằng ».

Những khổ tâm của người con gái trong hôn nhân chính là những khổ tâm xuất phát từ ý thức « tại gia tòng phụ ». Ý thức ấy đã đưa nhiều bậc làm cha mẹ trong gia đình đến một bước xa hơn nữa. Đó là phong tục thách cưới.

Dù thương con, cha mẹ cũng không thể có tâm trạng giống đứa con được. Mỗi lớp người có một ý nghĩ khác nhau, một ham muốn khác nhau. Nếu người con gái lớn lên, mơ ước một cuộc sống theo lý tưởng mình, lấy tình yêu làm căn bản, lấy sự chung thuỷ làm quan trọng, thì trái lại, nhiều bậc cha mẹ, trong tuổi già họ lại lấy khả năng kinh tế làm nguồn gốc của sự sống. Quan niệm định vợ gả chồng do đó đã biến người con gái thành một món hàng để trả giá, mà nhiều bậc cha mẹ cứ tưởng lầm đó là một vinh dự của gia đình.

Tóm lại ý thức « tại gia tòng phụ » trong Nho giáo đã ảnh hưởng vào xã hội Việt-Nam, tạo nhiều bất công đối với người đàn bà thuở xưa không sao kể hết.

2) Ý thức xuất giá tòng phu

Đây là một quy luật bắt buộc người đàn bà lúc có chồng phải theo chồng. chữ « tòng » đây không chỉ có nghĩa là đi theo mà còn phải tuân theo mệnh lệnh của người chồng nữa. Ý thức này ăn sâu vào dân gian đến nỗi trong ca dao đã có những câu như :

« Con vua ưng thằng đốt than,

Nó lên trên ngàn cũng phải đi theo ».

Hoặc : « Con quan Đô-đốc Đô-đoài,

Lấy thằng thuyền chài cũng phải luỵ mui ».

Hay : « Con ông Đô-đốc, Quận-công,

Lấy chồng cũng phải gọi chồng bằng anh ».

Giáo lý tam tòng của Khổng Mạnh bao giờ cũng đặt địa vị người đàn bà dưới địa vị người đàn ông. Nếu người con gái lúc ở nhà cha mẹ đã không có một quyền hạn nào định đoạt lấy thân phận mình thì lúc lấy chồng cũng không có quyền sống cho mình, mà phải sống cho người chồng, cho gia đình người chồng. Ý thức này đã gây vào tâm hồn nữ giới một ấn tượng xem mình như kẻ phụ thuộc, sống nhờ vào người khác. Bởi vậy, người đàn bà sống trong chế độ Tam Tòng thường có tư tưởng yếu đuối, cầu an. Họ chỉ còn biết làm sao cho chồng thương để nhờ vào sự che chở của người chồng. Nếu chế độ ấy ở Trung-Quốc đã làm cho người đàn bà rên siết như :

« Phận cát đằng nhờ lượng tòng quân ».

Thì, khi ảnh hưởng vào Việt-Nam, nó cũng gây cho người đàn bà Việt-Nam có những cảm nghĩ, như :

« Lấy chồng cho đáng tấm chồng,

Bõ công tô điểm, má hồng răng đen ».

Người đàn bà không nghĩ rằng mình cần phải làm gì để có đủ tài năng mai sau gánh vác gia đình, gây sự nghiệp, hoặc chiến đấu với xã hội, đem lại cho họ một đời sống theo ý muốn, mà họ chỉ biết làm sao để chiếm đoạt được người chồng có tài trong xã hội để nương nhờ. Ý thức ấy trong ca dao Việt-Nam đã bộc lộ rất mạnh mẽ. Mà đó cũng do ảnh hưởng của chế độ « tòng phu » thuở xưa. Ví dụ :

« Cô ấy mà lấy anh này,

Chẳng phải đi cấy đi cày nữa đâu.

Ngồi trong cửa số têm trầu,

Có hai con bé đứng hầu hai bên ».

Rõ ràng người đàn bà chỉ ỷ lại vào người đàn ông. Nhưng điều đó không đáng trách, bởi vì xã hội phong kiến đã tước đoạt hết quyền làm người của họ, biến họ thành một kẻ nô lệ trong gia đình thì bảo họ còn phải làm gì hơn.

Tuy nhiên nói như thế không phải chế độ « tòng phu » không để lại cho người đàn bà một hy vọng. Cái hi vọng duy nhất của chế độ này dành cho họ là hy vọng phụng sự cho chồng. Bởi vậy, người đàn bà vẫn phải tập tành công việc nội trợ, vá may, bánh trái, để mai sau đảm đương sự nghiệp. Họ bảo :

« Có con phải khổ vì con,

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng ».

Giang sơn nhà chồng đối với họ là gì ? Đó là bổn phận nội trợ, bổn phận chiều chồng, nuôi con, bổn phận phải phục tùng mọi ý muốn của người chồng trong gia đình.

Chế độ « tòng phu » của Khổng Mạnh đã dành cho người đàn ông một đặc quyền như vậy, và ảnh hưởng vào phong tục Việt-Nam, gây rất nhiều bất công và tệ trạng như nạn mẹ chồng hành hạ nàng dâu, nạn chồng đánh vợ, nạn đàn ông lấy vợ lẻ…

Tại sao mẹ chồng lại hành hạ nàng dâu ?

Trước nhất chúng ta thấy chế độ « tam tòng » biến người đàn bà trở thành một kẻ nô lệ mà người mua nô lệ là gia đình nhà chồng. Nếu trong chế độ nô lệ, chúng ta thấy người nô lệ bị đem bán ở giữa chợ và người mua nô lệ được đem về sai khiến, hành hạ, hoặc có quyền giết đi mà pháp luật vẫn không cho là phạm tội, thì chế độ « tam tòng » của Khổng Mạnh đối với người đàn bà chính đã bắt nguồn từ quan niệm ấy, nhưng được văn minh hoá thành đạo lý.

Mặt khác, xét về tâm lý, thì người đàn bà bị sống trong chế độ tam tòng từ nhỏ đến lớn mất cả quyền làm người, những áp bức, đè nén dồn dập trong tâm tư họ không còn có một lối thoát nào. Đến khi người đàn bà được làm mẹ, quyền lực của cha mẹ đối với con cái bắt đầu cho phép người đàn bà dựa thế vào đứa con trai, dùng chế độ « tòng phu » để áp đảo con dâu. Cho nên, hành động mẹ chồng đối với nàng dâu cũng chỉ là trạng thải cởi mở của những kẻ đã từng bị áp bức, dồn ép, khi được dịp thuận tiện bộc lộ những tức tối của mình.

Một thầy cai bị chủ rầy trong bàn giấy không dám nói một tiếng nào, nhưng khi ra ngoài gặp mặt bọn thợ, thầy cai trở nên khó tánh là lẽ thường.

Dù vậy nạn mẹ chồng nàng dâu đã đem đến xã hội Việt-Nam nhiều thảm trạng ghê gớm.

Dưới đây, chúng tôi xin trích một bài hát đối đáp diễn tả cảnh mẹ chồng, nàng dâu trong giới bình dân :

NÀNG DÂU MỞ ĐẦU :

« Kể từ hai tám tuổi đầu,

Cha mẹ sở định làm dâu nhà người.

Nói ra sợ chị em cười,

Năm ba trận thảm, chín mười trận cay.

Công việc làm không kịp trở tay,

Ban đêm rau heo, cháo chó,

Ban ngày nhổ cỏ, gánh phân ».

MẸ CHỒNG :

« Ơ con kia !

Mày đừng chót mỏ nói rân,

Tao đây không lụy, không cần mày đâu.

Ai mà tưng trọng nàng dâu ?

Tao đem mày về tao đã nói bấy lâu đằng sằng.

Mày không nghe lời thiên hạ phỏng văn,

Làm dâu tao khó lắm, không dễ ăn đâu mày mừng.

Hư sao hư đã quá chừng,

Vụng về, khê thúi, vá cái lỗ quần không nên.

Ăn rồi đắp chiếu nằm rên,

Giả đò đau bụng trùm mền nằm co !

Cơm tao ăn sao mày chẳng biết lo,

Chằng thà tao cho chó nó ăn no nó giữ nhà ».

NÀNG DÂU :

« Má ơi ! Má đừng xỉ vả người ta,

Con nào có giỏi cũng không qua con này,

Chịu lì đã mấy năm nay,

Má không đành bụng để rày tôi ra ».

MẸ CHỒNG :

« Con kia !

Mày về biểu mẹ mày qua,

Bông, kiềng, vàng bạc trả mà cho tao.

Nhược bằng si sứt món nào,

Tao đánh nát thịt, tao đào nát xương ».

… … …

Kế đến là tệ nạn chồng đánh vợ. Tệ nạn này cũng như tệ nạn mẹ chồng hành hạ nàng dâu, phát sinh từ ý thức phụ quyền. Giáo lý tam tòng của Khổng Mạnh tạo cho người đàn ông đương nhiên có một đặc quyền đối với người vợ, cho nên lúc nào họ cũng nghĩ rằng người vợ có tội nếu không làm đúng ý muốn của họ, và khi họ đánh vợ tức là họ sử dụng đạo lý.

Người đàn bà Việt-Nam sống dưới chế độ tam tòng chính họ cũng cảm thấy sự bất công ấy, song họ đành phải nhẫn nhục bảo nhau :

« Chồng giận thì vợ làm lành,

Miệng cười tủm tỉm rằng anh giận gì ?

Thưa anh, anh giận em chi ?

Muốn cưới bợ bé em thì cưới cho ».

Hoặc : « Chồng giận thì vợ bớt lời,

Cơm sôi, nhỏ lửa một đời không khê ».

Xem thế, người đàn bà đối với người chồng chỉ có nhẫn nhục và chiều chuộng. Bởi vì khi giáo lý Tam Tòng đã ăn sâu vào xã hội Việt-Nam thì bất kỳ người đàn bà nào cãi vã, tiếng nặng tiếng nhẹ với chồng đều bị dư luận quần chúng kết tội là hung dữ, mất nết.

Sau hết là nạn lấy vợ lẻ. Tệ nạn này cũng do ý thức phụ quyền phát sinh. Khi người đàn bà bị xã hội bắt buộc phải chiều chồng, thì điều mà người chồng ham thích nhiều nhất là việc đa thê. Để bảo vệ lòng ham muốn ấy chẳng những chế độ phụ quyền cho phép người đàn ông lấy nhiều vợ, mà giáo lý tam tòng còn răn dạy người đàn bà không được ghen tương. Họ dùng lý tính tỏa chiết tình cảm, bản năng, cho việc ghen tương là việc xấu xa nhất của người đàn bà. Cho nên, những người đàn bà nào muốn được tiếng khen đều phải ép lòng chịu đựng trong cái đạo lý bất công ấy.

3) Ý thức phu tử tòng tử

Đây là một qui luật biến người đàn bà thành của riêng người đàn ông. Người đàn bà chẳng những thờ chồng trong lúc chồng còn sống, mà cả đến lúc chết nữa. Chế độ phụ quyền không bắt buộc người đàn ông phải thủ tiết với vợ mà lại bắt đàn bà phải thủ tiết với chồng. Do ý thức này mà tiết trinh người đàn bà được nêu lên, coi như điều quan hệ.

Nếu ở Trung-Hoa các triết gia như Trình-tử đã cho « chết đói là việc nhỏ, thất tiết là việc lớn » thì ở Việt-Nam ta, ảnh hưởng ấy đã di lưu vào guồng máy phong kiến, khiến lớp người cai trị dựa theo triết thuyết ấy khuyến khích đàn bà thủ tiết thờ chồng. Nhà vua đặt ra những chỉ dụ ban khen người đàn bà chồng chết ở vậy nuôi con được gọi là sương phụ hoặc tiết phụ. Ý nghĩa ấy không ngoài đạo « tam tòng » của Khổng Mạnh, buộc người đàn bà đem cả thể xác lẫn tâm hồn phụng sự cho cá nhân (người chồng) và người đàn bà suốt đời từ lúc sinh ra đến lúc chết không bao giờ được quyền sống tự lập, tự chủ cả.

Chế độ phụ quyền chẳng những dùng đạo tam tòng bắt ép người đàn bà phải sống trong khuôn khổ lệ thuộc người đàn ông, mà còn dùng một phương pháp giáo dục qui củ để rèn luyện người đàn bà chịu ép mình vào đạo giáo ấy. Đó là « tứ đức » !

Tứ đức trong đạo tam tòng được giải nghĩa bằng « công, dung, ngôn, hạnh » và « công, dung, ngôn, hạnh » là những giáo điều để uốn nắn đời sống vật chất và tinh thần người đàn bà thành một thói quen trong khuôn khổ do đạo « tam tòng » đã qui định.

Tóm lại, chế độ phụ quyền là cơ sở của chế độ phong kiến. Chế độ phong kiến được tổ chức và tồn tại trên một xã hội đẳng cấp, có trận tự, có tôn ti thượng hạ. Trật tự và đẳng cấp ấy bắt đầu được tôn trọng trong đơn vị nhỏ nhất là gia đình. Cho nên trật tự gia đình có vững thì trật tự quốc gia mới bảo tồn được. Lý thuyết « tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ » cũng chính là nền móng để bảo vệ xã hội phong kiến.

4) Tuyển tập ca dao tiêu biểu

- « Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng,

Một là sát chồng, hai là hại con ».

- « Đàn ông nông nổi giếng khơi,

Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu ».

- « Đàn ông miệng rộng thì sang,

Đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà ».

- « Đàn ông tuổi tý thì tài,

Đàn bà tuổi tý thì hai đời chồng ».

b) Ý thức bất mãn trong chế độ phụ hệ

Trước nhất chúng ta phải phân tích chế độ phụ hệ và chế độ phụ quyền. Chế độ phụ hệ là bước đầu đi đến chế độ phụ quyền, tuy nhiên, chế độ phụ hệ mới thành hình trong ý thức nòi giống, còn chế độ phụ quyền áp đặt vào mỗi gia đình một nề nếp, trật tự, quyền hạn có tính chất cai trị. Bởi vậy nếu trong một nước, nhà vua giữ quyền thống trị thiên hạ, thì trong một gia đình, người chồng cũng giữ quyền điều khiển vợ con. Trật tự gia đình được trật tự quốc gia bảo vệ, và trật tự quốc gia được trật tự gia đình cung ứng. Cho nên khi nói đến phụ quyền tức là nói đến quyền của người đàn ông trong gia đình, được pháp luật quốc gia bảo vệ.

Theo phân tích trên, chúng ta căn cứ vào ca dao, tục ngữ Việt-Nam để nhận xét thì người Việt-Nam không chống chế độ phụ hệ, mà chống chế độ phụ quyền.

Từ xưa, đôi vợ chồng thành gia thất, sống chung với nhau, sinh con đẻ cái, chúng ta không tìm thấy họ để lại một dấu vết tâm tư nào chống đối việc đứa con theo họ cha, cũng không một người đàn bà nào nhất quyết lấy chồng mà không chịu theo chồng.

Người đàn bà Việt-Nam thương chồng và theo chồng, trên căn bản, không phải bị áp bức, bắt buộc, mà phát xuất ở tình thương, ở lòng mong mỏi xây dựng gia đình. Bởi vậy, chúng ta thấy trong tâm tư họ có cái gì tha thiết, như :

« Vai mang khăn gói theo chồng,

Đắng cay thiếp chịu, mặn nồng thiếp cam ».

Theo chồng với ý nghĩa của họ không phải như chế độ tòng phu của Khổng Mạnh, mà chính là để xây dựng tình thương, xây dựng cuộc sống theo khái niệm tư hữu và thuỷ chung. Cho nên, trong ý thức theo chồng của họ, chúng ta lại thấy phảng phất có sự cân nhắc về cách biệt gia đình cha mẹ như : Hoặc có lúc họ xem nhẹ về ý thức theo chồng mà nặng về đạo hiếu như :

« Thiếp liều đòn gánh đôi quang,

Bán buôn nuôi mẹ, giàu sang thiếp nhờ ».

Khi trong tâm tư con người đã có sự so sánh giữa tình và hiếu, giữa bổn phận theo chồng và bổn phận nuôi cha mẹ, tất nhiên đạo tòng phu không còn là một qui luật tuyệt đối trong chế độ Khổng Mạnh nữa.

Trạng thái trên cũng chứng tỏ rằng người đàn bà Việt-Nam không chống chế độ phụ hệ. Tuy nhiên, đối với chế độ phụ quyền thì chúng ta lại thấy cả một sự gay gắt.

Trước hết, nền phong kiến Trung-Hoa đã ảnh hưởng vào guồng máy phong kiến Việt-Nam, gieo rắc vào mọi gia đình những qui tắc phụ quyền. Muốn bảo vệ qui tắc ấy, người đàn ông chẳng những dựa vào sự bảo vệ của guồng máy cai trị để áp đảo người đàn bà, mà họ còn tìm cách hạ giá trị người đàn bà nữa. Vì lẽ đó, người đàn bà Việt-Nam đã chống lại. Trong ca dao Việt-Nam chúng ta thấy trước mắt người đàn bà, người đàn ông không phải là những thần tượng để tôn thờ như giáo lý Khổng Mạnh đã lừa phỉnh họ. Vì vậy, tuy mến người đàn ông, nhưng họ vẫn phủ nhận ý thức tôn thờ ấy, họ tìm cách mỉa mai, châm biếm, đem thực tế ra chứng minh để tỏ rằng địa vị người đàn ông không được họ công nhận và đáng tôn thờ.

Cái xấu của người đàn ông đối với họ là một hình tượng không chung thuỷ, phụ bạc, hoang đàng, biếng nhác, tham lam.

Ví dụ khi người đàn ông là một tên lính, thì người đàn bà trông thấy tánh xấu của họ trong tính chất đa thê, đàng điếm :

« Hai tay bưng dĩa dầu lên,

Trước lạy hàng quyền, sau lạy cậu cai,

Chồng tôi tham sắc, tham tài,

Một chĩn hai gáo, tôi ngồi sao yên.

Tôi xin chiếc đũa đồng tiền,

Anh đi lấy vợ, tôi đi lấy chồng.

Anh đi lấy vợ cách sông,

Tôi đi lấy chồng giữa ngõ anh ra ».

Ví dụ khi người đàn ông là một cậu cai thì tính xấu ấy càng phát hiện rõ rệt hơn :

« Cậu cai nón dấu lông gà,

Cổ tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.

Ba năm được một chuyến sai,

Áo ngắn thì mượn, quần dài thì thuê ».

Họ nhìn thấy cái uy phong của người đàn ông chỉ là hình thức bên ngoài, mà thực chất bên trong hoàn toàn chứa đựng những hư hỏng. Cái uy quyền giả tạo ấy làm sao xứng đáng để họ tôn thờ. Đó chỉ là mới điểm qua cái hư hèn về đường lối xây dựng sự nghiệp, còn như đối với tính nết thì lại buồn cười hơn :

« Cậu cai buông áo em ra,

Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa.

Chợ trưa rau nó héo đi,

Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi con ? »

Gắn vào cái nhãn hiệu cậu cai để níu kéo, chọc ghẹo gái có chồng thì giá trị cậu cai trước mắt người đàn bà không thể là thần tượng tôn thờ, mà cậu cai là một trong muôn ngàn việc điển hình của địa vị người đàn ông.

Nhìn cao hơn một chút, đến những quan cống, quan nghè thì thói hư tật xấu cũng chẳng kém. Ví dụ :

« Em là con gái đồng trinh,

Em đi bán rượu qua dinh ông nghè.

Ông nghè sai lính ra ve.

- Trăm lạy ông nghè tôi đã có con.

- Có con thì mặc có con.

Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan ».

Cái hư hèn của người đàn ông là cái hư chung, không phải chỉ có những hạng thấp hèn, thiếu học mới có những thói hư tật xấu. Cho nên, trước mắt người đàn bà, cái tốt đẹp của người đàn ông chỉ là lớp sơn che đậy bên ngoài. Khi họ cạo bỏ được lớp sơn ấy thì họ thấy rõ ngay chân tướng.

Dù là quan quyền, hay gì gì đi nữa, giá trị người đàn ông cũng làm cho người đàn bà nghi ngờ về phẩm cách. Họ châm biếm :

« Ra đường võng giá nghênh ngang,

Về nhà hỏi vợ « cám rang đâu mày ? »

- Cám rang tôi để cối xay,

- Hễ chó ăn hết thì mày với ông ».

Đó chỉ là điểm sơ qua những bậc quyền thế, còn như đàn ông thuộc hàng dân giả thì… Khi họ là một ông tướng cờ bạc, như :

« Trời sinh ông tướng có tài,

Cờ bạc, xóc dĩa, dông dài cả đêm.

Canh trước tướng hãy còn tiền,

Canh sau cởi áo ngồi bên lọ hồ.

Cái ngảnh đi tay thì móc lọ,

Cái ngảnh lại phì phò chén say.

Còn tiền đánh cái cũng hay,

Hết tiền đi ngủ lại hay giật mình.

Tưởng sự tình bạc này hai xấp,

Chẳng ai ngờ nó lại xấp ba.

Bấy giờ quan tướng thua ra,

Áo quần cố hết trở ra về trần.

Về giữa sân vạch quần bắt rận,

Vợ ở nhà giận chẳng nấu cơm.

Bấy giờ tướng chúi ổ rơm,

Chẳng dám hạch nước, hạch cơm, hạch trầu.

Vợ thương chồng ra màu rét mướt,

Đem tiền đi chuộc lấy áo về.

Từ rày tướng sẵn xin thề,

Còn đi đánh bạc chẳng về chi đây ».

Còn gì xấu xa bỉ ổi khi nhìn bóng dáng người đàn ông qua trạng thái hư hèn ấy ! Chưa hết, người đàn ông ham mê cờ bạc làm nát cửa tan nhà, để khổ cho vợ con như :

« Chồng em nó chẳng ra gì,

Tổ tôm, xóc dĩa, nó thì chơi hoang.

Nói ra xấu thiếp, hổ chàng,

Nó giận, nó phá tan hoang cửa nhà.

Nói đây thời có chị em nhà,

Còn năm ba thúng thóc với một vài cân bông.

Em bán đi trả nợ cho chồng,

Còn ăn hết nhịn cho hả lòng chồng con.

Đắng cay ngậm quả bồ hòn,

Cửa nhà gia thế, chồng con kém người.

Nói ra sợ chị em cười… »

Khi họ là một anh chồng vong ân bạc nghĩa, như :

« Nào khi anh bủng anh beo.

Tay bưng chén thuốc, tay đèo muối chanh.

Bây giờ anh mạnh, anh lành,

Anh ham nhan sắc, anh đành phụ tôi ».

Người đàn ông có đủ cái hư hèn như vậy mà bắt đàn bà phải phục tòng, trung thành, trinh tiết, đức hạnh, cần kiệm thì làm sao họ không chống lại ? Cho nên, khi đưa ra những xấu xa của người đàn ông, chính là người đàn bà muốn chống lại ý thức phụ quyền, người đàn bà muốn giành lại mọi bình đẳng mà giáo lý Khổng Mạnh đã ràng buộc họ, bắt họ phải tôn thờ những thần tượng mà họ cho là không xứng đáng.

Cho nên, nếu người đàn ông đem giá trị người đàn bà hạ nhục để khống trị, thì chính người đàn bà cũng đem giá trị người đàn ông hạ nhục để chống lại. Trạng thái ấy phản ứng rất rõ rệt trong ca dao Việt-Nam, mà chúng ta có thể lược dẫn ở đây một số ít để chứng minh. Ví dụ họ bảo :

« Đàn ông năm bảy đàn ông,

Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha ».

Hoặc : « Bông bống cõng chồng đi chơi,

Đi ngang chỗ lội đánh rơi mất chồng !

Chị em ơi ! cho tôi mượn cái gàu sòng,

Để tôi tát nước múc chồng tôi lên ».

Hay : « Gái chính chuyên lấy được chín chồng

Vò viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi.

Không may quang đứt lọ rơi,

Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng ».

Họ xem địa vị người chồng không còn ra thể thống gì cả ! Thật hài hước ! Nhưng chúng ta đừng tưởng nó vô nghĩa. Chính những câu ca dao ấy đã biểu lộ ý thức bất phục tòng của người đàn bà trước mọi ép buộc tôn thờ đàn ông, mà chỉ có người bình dân mới bộc lộ được ý thức mạnh mẽ ấy. Đây, chúng ta nghe họ khuyên đàn ông :

« Làm trai phải biết đủ nghề,

Hòng khi có lỡ thì về mót khoai.

Mót được củ chạc, củ chài,

Củ giắt lưng khố, củ nhai vào mồm ».

Hoặc : « Làm trai rửa bát quét nhà,

Vợ kêu thì dạ : thưa bà tôi đây ! »

Rõ ràng họ xem người đàn ông không phải là những mẫu người lý tưởng, tài ba trong gia đình, mà chỉ là những hình tượng chứa đựng những hư hèn, tật xấu. Nếu ý thức phụ quyền trong chế độ phong kiến đã cho phép người đàn ông được khinh đàn bà như : « Phụ nhân nan hóa ».

Hoặc : « Đàn bà không đái khỏi ngọn cỏ ».

Hay : « Đàn ông nông nổi giếng khơi,

Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu ».

Thì ngược lại, người đàn bà cũng đã châm biếm người đàn ông với ý thức bất phục :

« Làm trai cho đáng nên trai,

Ăn cơm với vợ lại nài cạy niêu.

Con vợ nó cũng biết điều,

Thắt lưng con cón cạy niêu với chồng ».

Sự khinh miệt giữa người đàn ông và đàn bà chứng tỏ ý thức chống đối mãnh liệt. Trong lúc chế độ phụ quyền bắt buộc người đàn bà phải sống theo đạo tam tòng, mà người đàn bà lại đem những thói hư, tật xấu của người đàn ông ra châm biếm, khác nào họ dùng những mũi tên độc bắn thẳng vào nền móng phong kiến, đập vỡ những áp bức, bất công mà gia đình Việt-Nam đã chịu ảnh hưởng xã hội Trung-Quốc.

Đến như đạo « tam tòng » của Khổng Mạnh thì người đàn bà bình dân Việt-Nam cũng chống đối ra mặt.

1) Về ý thức tại gia tòng phụ

Người đàn bà khi còn ở với cha mẹ, việc quan trọng nhất là việc lấy chồng. Đáng lẽ họ phải cúi đầu tòng phục mọi sự định đoạt của mẹ cha, thì chúng ta lại thấy trong ca dao Việt-Nam có nhan nhản những câu, như :

« Vai mang khăn gói theo chồng,

Mẹ kêu mặc mẹ, thương chồng phải theo ».

Tình thương của họ đã đặt lên trên quyền điều khiển của mẹ cha. Thực ra, không phải họ bất hiếu, hay quên ơn cha mẹ, mà chính vì họ cảm thấy chế độ phụ quyền đem đến cho đời sống họ những bất công, những thảm trạng mà chính họ phải gánh chịu hậu quả. Đây, chúng ta thử tìm hiểu tâm trạng của họ qua một vài lời than thở :

« Chồng rồi ! chồng rồi, nghĩ rằng chị em đã có chồng rồi.

Sao em chưa có đứng ngồi vân vi ?

Ới thầy mẹ ơi ! cấm đoán con chi !

Mười lăm, mười tám sao chả cho đi lấy chồng.

Ới, ông Trời ơi ! Sao ông ở không công,

Duyên em đã lỗi, em trách ông Tơ Hồng sao khéo trêu ngươi.

Cứ đêm đêm tôi nằm, tôi vuốt bụng, tôi gọi trời :

Xin ông thí bỏ cho tôi chút chồng.

Tôi về, tôi làm lễ tế ông,

Mổ con bò béo, ông cho tôi lấy đức anh chồng cho nó to.

Bỏ công tôi mượn chú lái đi mổ bò ».

Tâm trạng họ là tâm trạng của một kẻ đau khổ vì không có quyền định đoạt lấy thân phận mình. Cho nên, trong hiếu đạo, tinh thần bất mãn lại lẫn lộn vào đấy. Nếu chúng ta đem phân tích kỹ càng thì hẳn chúng ta phải thừa nhận là họ không từ chối hiếu đạo mà họ chỉ bất mãn phụ quyền.

Để chứng minh điều này, chúng tôi thấy cần nhắc lại ở đây những đau khổ của một thôn nữ khi bị cha mẹ ép duyên :

« Duyên đôi ta như loan với phượng,

Nỡ lòng nào để phượng lìa cây.

Muốn cho có đó có đây,

Ai làm nên nỗi nước này chàng ôi !

Thà rằng chẳng biết thì thôi,

Biết chi gối chiếc lẻ loi thêm phiền ».

Những hằn học, đắng cay trong tâm tư người đàn bà chính là việc tình duyên ngang trái do chế độ phụ quyền gây nên. Sự bất mãn của họ không ngoài mục đích là muốn được quyền tự định đoạt lấy thân phận để tránh những hậu quả ngoài ý muốn của họ, như :

« Đường đi những lách cùng lau,

Cha mẹ ham giàu ép uổng duyên con.

Duyên sao cắt cớ hỡi duyên,

Cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai ».

Tuy nhiên, sự chống đối về ý thức « tại gia tòng phụ » của người đàn bà Việt-Nam không quyết liệt lắm, bởi vì tinh thần hiếu đạo bắt buộc họ phải nhẫn nhục, cam chịu, mà họ chỉ còn biết thở than. Đến như ý thức « xuất giá tòng phu » trong đạo « tam tòng » thì chúng ta không thể nào phủ nhận khả năng phản ứng của họ.

2) Ý thức xuất giá tòng phu

Theo đạo « tam tòng » của Khổng Mạnh, người đàn bà lúc lấy chồng trở thành của riêng người chồng. Mọi quyền hạn phải lệ thuộc người chồng, kể cả tinh thần lẫn vật chất.

Trên đây, chúng ta đã lược dẫn để chứng minh người đàn bà Việt-Nam chống đối chế độ phụ quyền rất mãnh liệt, họ đã đem địa vị người đàn ông ra để chế giễu, bêu xấu. Như vậy, mầm phản ứng đã manh nha, phát khởi từ trong ý thức chung của nữ giới.

Lúc chưa lấy chồng, họ đã xem nhẹ sự tôn thờ đàn ông như là thần tượng, thì lúc lấy chồng làm sao buộc họ phải ép mình trong khuôn khổ bất công đó.

Những đêm trăng ở miền quê, trong những trường hợp có đôi trai gái hát đối đáp nhau bên sân đình, cạnh bờ sông, nơi thềm giếng, nếu chúng ta có dịp khảo sát tâm tư, chúng ta sẽ thấy người phụ nữ bình dân vẫn mang nặng một cái gì tự trọng, tự cao. Tâm trạng ấy chính là nguồn gốc của ý thức chống lại chế độ phụ quyền. Và đây là một ví dụ :

LỜI NGƯỜI CON GÁI :

« Thân em như hoa gạo trên cây,

Chúng anh như đám cỏ may bên đường ».

LỜI NGƯỜI CON TRAI :

« Lạy trời cho cả gió sương,

Cho hoa gạo rụng chui luồng cỏ may ».

LỜI NGƯỜI CON GÁI :

« Thân em như cái sạp vàng,

Chúng anh như mảnh chiếu rách giữa đàng bỏ quên ».

LỜI NGƯỜI CON TRAI :

« Lạy trời cho gió thổi lên,

Cho manh chiếu rách trải trên sạp vàng ».

LỜI NGƯỜI CON GÁI :

« Thân em như cánh hoa sen,

Chúng anh như bèo, như bọt chẳng chen được vào ».

LỜI NGƯỜI CON TRAI :

« Lạy trời cho cả mưa rào,

Cho sấm, cho chớp, cho bão to gió lớn,

Cho sen chìm xuống, cho bèo trèo lên trên… »

Khi chưa là chồng vợ, người con gái đã có ý thức bất phục địa vị cao cả của đàn ông đối với nữ giới, thì khi có chồng, chịu ép mình trong khuôn khổ « tòng phu » dĩ nhiên người đàn bà không thể không có phản ứng. Nhưng nếu ý thức phản ứng đối với chế độ phụ quyền bị giới hạn trong phạm vi hiếu đạo lúc còn ở chung với cha mẹ, thì người con gái lúc đi lấy chồng chính là lúc họ được cởi mở, tinh thần chống đối của họ trút tất cả vào hình thức áp chế của người chồng. Do đó, ở lãnh vực này tiếng nói của người đàn bà trở nên mạnh dạn mà trong ca dao Việt-Nam chúng ta còn tìm thấy rất nhiều chứng tích.

Người đàn bà khi lấy chồng không ai không muốn xây dựng gia đình, tạo cho mình một cuộc sống hạnh phúc, thế mà họ phải buộc lòng làm những chuyện như :

« Chơi cho thủng trống, long bồng,

Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm.

Chơi cho thủng trống, long chiêng,

Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng.

Tại sao họ lại có ý thức như vậy ? »

Thật ra những kẻ ấy không phải vì xấu xa, hư hỏng, mà chính vì chế độ phụ quyền đã ràng buộc, tước bỏ quyền sống của họ. Họ xem việc lấy chồng là đem thân đến chỗ chết – bằng ý nghĩa quyền làm người – cho nên họ muốn được sống trước khi phải chết.

Họ không đòi hỏi cái quyền sống nào cao xa hơn là quyền bình đẳng với người chồng. Tại sao người đàn ông không cần phải chính chuyên với vợ – họ có thể lấy nhiều vợ – trong lúc người đàn bà bị bắt buộc phải chính chuyên một chồng. Sự bất công ấy buộc họ phải chống đối, đòi hỏi sự công bằng. Ví dụ :

« Chồng đánh bạc thì vợ đánh bài,

Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng ».

Hoặc : « Chồng ăn chả thì vợ ăn nem,

Đứa ở có thèm mua thịt mà ăn ».

Rõ ràng phản ứng của họ nằm trong ý thức tôn trọng quyền bình đẳng giữa người đàn ông và người đàn bà, chống lại đạo « tòng phu » của Khổng Mạnh đã tạo mầm móng cho chế độ phụ quyền ở Việt-Nam.

Từ ý thức đòi hỏi ấy, họ đi đến quyết liệt bằng cách từ chối tiết trinh của họ. Nghĩa là họ không muốn đem tiết trinh phụng sự người đàn ông, trong lúc người đàn ông không chung thủy với người đàn bà. Họ bảo :

« Anh đánh tôi thì tôi chịu đòn,

Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa ».

Hoặc : « Đánh tôi thì tôi chịu đau,

Tánh tôi hoa nguyệt không chừa được đâu ».

Hay : « Tính quen chừa chẳng được đâu.

Vạ làng làng bắt mấy trâu mặc làng ».

Sức đè nặng càng nhiều thì sức phản ứng càng mạnh. Sự đi ăn nằm với người khác mà được người đàn bà thú nhận trắng trợn như vậy dĩ nhiên là một trạng thái liều lĩnh. Nhưng nếu không liều lĩnh thì họ biết làm gì hơn khi xã hội phong kiến đã không cho họ được quyền làm người. Họ không cần phải che đậy. Những gì xã hội phong kiến ca ngợi, bắt họ phải làm chỉ là những giáo điều, những khuôn sáo để tước quyền làm người của họ mà thôi. Tại sao người đàn ông không chung thủy lại tốt, còn người đàn bà không chung thủy lại xấu ? Họ không cần tiếng tốt, vì ngay chế độ phụ quyền của guồng máy phong kiến đã làm xấu họ rồi, họ có quyền nói lên sự thật của lòng họ, của những gì thiếu thốn trong đời họ để đòi hỏi sự công bình ấy. Họ bảo :

« Phềnh phềnh ở giữa lớn ra,

Mẹ ơi, con chẳng ở nhà được đâu.

Ở nhà làng bắt mất trâu,

Cho nên con phải đâm đầu ra đi ».

Dù pháp luật có bảo vệ phụ quyền, không cho phép họ làm trái khuôn mẫu, nhưng luật pháp cũng không thể cấm đoán được những đau khổ trong tâm tư họ. Cho nên, nhiều lúc họ bất chấp luật pháp :

« Có chồng càng dễ chơi ngang,

Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai ? »

Hoặc : « Hai tay cầm bốn quả hồng,

Quả chát phần chồng, quả chín phần trai.

Nằm đêm vuốt bụng thở dài,

Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều ».

Có lúc họ đem chữ trinh ra mỉa mai :

« Chữ trinh đáng giá nghìn vàng.

Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.

Còn như yêu vụng nhớ thầm,

Họp chợ trên bụng đến trăm con người ».

Cái trinh là cái quí giá nhất của người đàn bà, nó là nguồn gốc của sự chung thủy, của tình thương, của kiến tạo gia đình. Sở dĩ người đàn bà phải khinh rẻ nó, bất mãn nó vì chữ trinh của họ không được người đàn ông đáp ứng lại với lẽ công bằng. Họ giày vò chữ trinh để trừng phạt người đàn ông – kẻ bất nghĩa theo ý nghĩ của họ.

Sự bất mãn đã đưa dần họ đến chỗ liều lĩnh, phá hoại cái gì mà chính họ cũng xem trọng. Ví dụ họ hủy hoại chữ trinh như :

« Lẳng lơ chết cũng ra ma,

Chính chuyên chết cũng chôn ra đầy đồng ».

Họ không còn quí trọng cái gì cao đẹp trong đời sống nữa. Khi kẻ đã nghĩ đến cái chết tức là đã mất mát rất nhiều đối với lẽ sống. Với tinh thần bi quan ấy chứng tỏ họ mang rất nhiều thất vọng. Cho nên họ bảo :

« Chính chuyên lấy được chín chồng,

Ba chồng thành Lạng, ba chồng thành Cao.

Ba chồng để ở sông Đào,

Chạy về đóng cửa làm cao chưa chồng ».

Chẳng những họ phá phách, bi quan, mà họ còn xem cuộc sống như cái gì giả dối, hài hước. Họ không tin tưởng vào con người, vào xã hội loài người. Đây, chúng ta nghe họ nói :

« Sáng ngày ra đứng cửa Đông,

Xem một quẻ bói lộn chồng được chăng ?

Ông thầy gieo quẻ bói rằng :

« Lộn chồng lộn được, nhưng năng phải đòn ».

- Mồ cha đứa có sợ đòn,

Miễn là lấy được chồng dòn thì thôi ! »

Đạo lý « tòng phu » của Nho-giáo bắt buộc người đàn bà phải trung thành với chồng, và thờ chồng, thế mà họ mang ý nghĩ lộn chồng, dù phải bị chồng đánh đập đến bậc nào cũng không sợ, thì rõ ràng họ đã chống lại giáo lý « tòng phu » rồi.

Họ phá vỡ gia đình, phá vỡ hạnh phúc chỉ vì đạo « tam tòng » không đem đến cho họ hạnh phúc.

Điều mà người đàn bà bất mãn nhất trong chế độ phụ quyền là hành động đa thê của người đàn ông. Sự bất công ấy đã gây trong đời sống người đàn bà không biết bao nhiêu thảm trạng. Đây, chúng ta nghe họ than :

« Thân em làm lẽ chẳng hề,

Có như chánh thất mà lê giữa giường.

Tối tối chị giữ mất buồng,

Cho em manh chiếu nằm suông chuồng bò,

Mong chồng, chồng chẳng xuống cho,

Đến khi chồng xuống gà đã ó o gáy dồn.

Mẹ cha con gà kia sao mày vội-gáy dồn,

Mày làm cho tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con ».

Cảnh chồng một vợ đôi chẳng những làm cho người đàn bà mất hẳn tư cách chủ nhân của gia đình, mà còn biến họ vào địa vị tôi đòi nữa. Ví dụ :

« Tối tối chị giữ mất buồng,

Chị cho manh chiếu nằm suông nhà ngoài.

Sáng sáng chị gọi : « Bớ Hai !

« Mau mau thức dậy thái khoai, đâm bèo ».

Vì chưng bác mẹ tôi nghèo,

Cho nên tôi phải đâm bèo thái khoai ! »

Chế độ đa thê còn gián tiếp ủng hộ cái quyền của người đàn ông, và khi hai người đàn bà cùng chung lấy một chồng tất nhiên họ phải ghen tương. Và từ ý thức ghen tương họ cố tranh nhau mua chuộc tình cảm người chồng để được phần hơn. Sự đua nhau chiều đãi ấy làm hại đến phẩm giá người đàn bà. Ví dụ :

« Năm canh năm vợ ngồi hầu !

Vợ cả pha nước têm trầu chàng xơi !

Vợ hai trải chiếu chia bài,

Vợ ba coi sóc nhà ngoài nhà trong.

Vợ tư trải chiếu quạt mùng,

Vợ năm thức giấc trong lòng xót xa.

Chè thang cháo đậu bưng ra,

Chàng xơi một bát kẻo mà công lênh ».

Từ địa vị một người hợp tác để xây dựng gia đình, vì chế độ đa thê mà người đàn bà phải tự hạ mình xuống địa vị một con hầu, tranh hơn tranh kém một chút ơn thừa của người đàn ông. Vì thế nên người đàn bà tha thiết chống lại chế độ đa thê, khuyên nhau đừng lấy lẽ :

« Đói lòng nằm gốc cây sung.

Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng ».

Hoặc : « Đói no một vợ, một chồng,

Một niêu cơm tấm, dầu lòng ăn chơi ! »

Chống đối chế độ đa thê, chẳng những có giới phụ nữ bình dân mà cả đến những người đàn bà trong giới phong lưu cũng cùng một quan điểm. Chúng ta hãy nghe nữ sĩ Hồ-Xuân-Hương than cảnh làm lẽ :

« Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.

Năm thì mười hoạ may chăng chớ,

Một tháng đôi lần, có cũng không.

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,

Cầm bằng làm mướn, mướn không công.

Ví biết sự tình ra thế ấy,

Thì trước âu đành ở vậy xong ».

Ngoài việc chống đối hành động đa thê trong chế độ phụ quyền, người đàn bà bình dân còn chống đối cả hành động mẹ chồng áp chế nàng dâu trong xã hội phong kiến nữa. Họ bảo :

« Thương chồng phải luỵ mụ gia,

Gẫm tôi với mụ có bà con chi ».

Thực ra, không phải họ bất hiếu với cha mẹ chồng, nhưng vì nạn mẹ chồng nàng dâu đã gieo rắc vào gia đình Việt-Nam những khổ cực khiến sự bất mãn của người đàn bà đưa đến phản ứng trong tình cảm gia đình.

Cái gì không hợp với họ thì họ phản đối, cho nên nhiều lúc họ tách rời tình thương người chồng ra ngoài tình thương cha mẹ chồng. Ví dụ :

« Chồng ghét thì ra, mụ gia ghét thì vào ».

Họ phủ nhận quyền hạn của cha mẹ với tính cách liều lĩnh, bất phục tùng. Thảm trạng này cũng do chế độ phụ quyền gây nên, tạo cho gia đình nhà chồng một ấn tượng không tốt đối với nàng dâu. Do đó, chẳng những mẹ chồng coi nàng dâu ở một địa vị thấp trong gia đình, mà đến cả họ hàng nhà chồng cũng hùa theo để hạch sách nữa. Tục ngữ Việt-Nam có những câu :

« Chị em dâu nấu đầu trâu lủng nồi ».

Hoặc : « Chị em chồng nấu nồi đồng sứt quai ».

Hay : « Chồng ghét không lo,

Lo gì một nỗi mụ o nỏ mồm ».

Những chứng tích của tâm tư trên đây đều phát xuất ở chế độ phụ quyền mà người bình dân là kẻ chống đối mạnh mẽ nhất.

3) Ý thức phu tử tòng tử

Ý thức này buộc người đàn bà lúc chồng chết phải thủ tiết thờ chồng, nuôi con. Đó cũng là một trong những bất công trong đạo « tam tòng » của Khổng giáo. Người đàn bà bình dân đã chống lại hai quan niệm « tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu » như chúng ta vừa khảo sát trên đây thì dĩ nhiên quan niệm « phu tử tòng tử » họ cũng không thể chấp nhận được.

Có người quan niệm rằng người đàn bà khi chồng chết phải có bổn phận nuôi con. Nếu đi lấy chồng sẽ bỏ đàn con bơ vơ không ai nuôi dạy, cho nên người đàn bà thủ tiết nuôi con là điều hợp lý.

Theo chúng tôi, cái hợp lý ấy chỉ ở trong chế độ phụ hệ mà thôi, không thể hợp lý trong lẽ công bằng được. Tại sao người đàn ông tục huyền được phép nuôi con mà người đàn bà tái giá lại bắt buộc phải bỏ con theo chồng ? Điều này lệ thuộc vào hai lẽ. Thứ nhất do ảnh hưởng chế độ tam tòng, mà người đàn bà khi tái giá vẫn phải lệ thuộc vào quyền hạn người chồng mới, phải đem thân thờ phụng người chồng mới, không được quyền săn sóc đứa con riêng mình. Thứ hai, do lòng ích kỷ của người đàn ông không muốn nuôi những đứa con không phải do dòng máu mình sinh ra, nên buộc người đàn bà tái giá phải bỏ con theo chồng. Tất cả hai lẽ trên đều do chế độ phụ quyền tạo cho người đàn bà phải gánh chịu những bất công ấy.

Khi đã có sự bất công, tất nhiên người đàn bà phải phản ứng. Đây, chúng ta nghe họ than :

« Linh đinh chiếc bách giữa dòng,

Thương thân goá bụa phòng không lỡ thì.

Gió đưa cây cúc ngã quì,

Ba năm trực tiết còn gì là xuân ».

Một người chết, bắt kẻ khác phải hy sinh ! Sự hy sinh đối với tình cảm bao giờ cũng cao cả, nhưng nó chỉ có nghĩa trong sự công bằng. Nếu mất công bằng thì sự hy sinh ấy đi ra ngoài tình cảm và chỉ còn là áp bức. Cho nên, chúng ta không lạ lùng khi thấy trong ca dao Việt-Nam phản ảnh những tâm hồn chống đối ý thức « phu tử tòng tử », và đi đến những nghịch điểm cực kỳ thái quá. Chúng ta nghe tiếng nói của một quả phụ :

« Giàu thì thịt cá cơm canh,

Khó thì lưng rau đĩa muối cúng anh, tôi đi lấy chồng.

Hỡi anh chồng cũ tôi ơi !

g ta thấy trong tâm tư họ có cái gì tha thiết, như :

« Vai mang khăn gói theo chồng,

Đắng cay thiếp chịu, mặn nồng thiếp cam ».

Theo chồng với ý nghĩa của họ không phải như chế độ tòng phu của Khổng Mạnh, mà chính là để xây dựng tình thương, xây dựng cuộc sống theo khái niệm tư hữu và thuỷ chung. Cho nên, trong ý thức theo chồng của họ, chúng ta lại thấy phảng phất có sự cân nhắc về cách biệt gia đình cha mẹ như : Hoặc có lúc họ xem nhẹ về ý thức theo chồng mà nặng về đạo hiếu như :

« Thiếp liều đòn gánh đôi quang,

Bán buôn nuôi mẹ, giàu sang thiếp nhờ ».

Khi trong tâm tư con người đã có sự so sánh giữa tình và hiếu, giữa bổn phận theo chồng và bổn phận nuôi cha mẹ, tất nhiên đạo tòng phu không còn là một qui luật tuyệt đối trong chế độ Khổng Mạnh nữa.

Trạng thái trên cũng chứng tỏ rằng người đàn bà Việt-Nam không chống chế độ phụ hệ. Tuy nhiên, đối với chế độ phụ quyền thì chúng ta lại thấy cả một sự gay gắt.

Trước hết, nền phong kiến Trung-Hoa đã ảnh hưởng vào guồng máy phong kiến Việt-Nam, gieo rắc vào mọi gia đình những qui tắc phụ quyền. Muốn bảo vệ qui tắc ấy, người đàn ông chẳng những dựa vào sự bảo vệ của guồng máy cai trị để áp đảo người đàn bà, mà họ còn tìm cách hạ giá trị người đàn bà nữa. Vì lẽ đó, người đàn bà Việt-Nam đã chống lại. Trong ca dao Việt-Nam chúng ta thấy trước mắt người đàn bà, người đàn ông không phải là những thần tượng để tôn thờ như giáo lý Khổng Mạnh đã lừa phỉnh họ. Vì vậy, tuy mến người đàn ông, nhưng họ vẫn phủ nhận ý thức tôn thờ ấy, họ tìm cách mỉa mai, châm biếm, đem thực tế ra chứng minh để tỏ rằng địa vị người đàn ông không được họ công nhận và đáng tôn thờ.

Cái xấu của người đàn ông đối với họ là một hình tượng không chung thuỷ, phụ bạc, hoang đàng, biếng nhác, tham lam.

Ví dụ khi người đàn ông là một tên lính, thì người đàn bà trông thấy tánh xấu của họ trong tính chất đa thê, đàng điếm :

« Hai tay bưng dĩa dầu lên,

Trước lạy hàng quyền, sau lạy cậu cai,

Chồng tôi tham sắc, tham tài,

Một chĩn hai gáo, tôi ngồi sao yên.

Tôi xin chiếc đũa đồng tiền,

Anh đi lấy vợ, tôi đi lấy chồng.

Anh đi lấy vợ cách sông,

Tôi đi lấy chồng giữa ngõ anh ra ».

Ví dụ khi người đàn ông là một cậu cai thì tính xấu ấy càng phát hiện rõ rệt hơn :

« Cậu cai nón dấu lông gà,

Cổ tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.

Ba năm được một chuyến sai,

Áo ngắn thì mượn, quần dài thì thuê ».

Họ nhìn thấy cái uy phong của người đàn ông chỉ là hình thức bên ngoài, mà thực chất bên trong hoàn toàn chứa đựng những hư hỏng. Cái uy quyền giả tạo ấy làm sao xứng đáng để họ tôn thờ. Đó chỉ là mới điểm qua cái hư hèn về đường lối xây dựng sự nghiệp, còn như đối với tính nết thì lại buồn cười hơn :

« Cậu cai buông áo em ra,

Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa.

Chợ trưa rau nó héo đi,

Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi con ? »

Gắn vào cái nhãn hiệu cậu cai để níu kéo, chọc ghẹo gái có chồng thì giá trị cậu cai trước mắt người đàn bà không thể là thần tượng tôn thờ, mà cậu cai là một trong muôn ngàn việc điển hình của địa vị người đàn ông.

Nhìn cao hơn một chút, đến những quan cống, quan nghè thì thói hư tật xấu cũng chẳng kém. Ví dụ :

« Em là con gái đồng trinh,

Em đi bán rượu qua dinh ông nghè.

Ông nghè sai lính ra ve.

- Trăm lạy ông nghè tôi đã có con.

- Có con thì mặc có con.

Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan ».

Cái hư hèn của người đàn ông là cái hư chung, không phải chỉ có những hạng thấp hèn, thiếu học mới có những thói hư tật xấu. Cho nên, trước mắt người đàn bà, cái tốt đẹp của người đàn ông chỉ là lớp sơn che đậy bên ngoài. Khi họ cạo bỏ được lớp sơn ấy thì họ thấy rõ ngay chân tướng.

Dù là quan quyền, hay gì gì đi nữa, giá trị người đàn ông cũng làm cho người đàn bà nghi ngờ về phẩm cách. Họ châm biếm :

« Ra đường võng giá nghênh ngang,

Về nhà hỏi vợ « cám rang đâu mày ? »

- Cám rang tôi để cối xay,

- Hễ chó ăn hết thì mày với ông ».

Đó chỉ là điểm sơ qua những bậc quyền thế, còn như đàn ông thuộc hàng dân giả thì… Khi họ là một ông tướng cờ bạc, như :

« Trời sinh ông tướng có tài,

Cờ bạc, xóc dĩa, dông dài cả đêm.

Canh trước tướng hãy còn tiền,

Canh sau cởi áo ngồi bên lọ hồ.

Cái ngảnh đi tay thì móc lọ,

Cái ngảnh lại phì phò chén say.

Còn tiền đánh cái cũng hay,

Hết tiền đi ngủ lại hay giật mình.

Tưởng sự tình bạc này hai xấp,

Chẳng ai ngờ nó lại xấp ba.

Bấy giờ quan tướng thua ra,

Áo quần cố hết trở ra về trần.

Về giữa sân vạch quần bắt rận,

Vợ ở nhà giận chẳng nấu cơm.

Bấy giờ tướng chúi ổ rơm,

Chẳng dám hạch nước, hạch cơm, hạch trầu.

Vợ thương chồng ra màu rét mướt,

Đem tiền đi chuộc lấy áo về.

Từ rày tướng sẵn xin thề,

Còn đi đánh bạc chẳng về chi đây ».

Còn gì xấu xa bỉ ổi khi nhìn bóng dáng người đàn ông qua trạng thái hư hèn ấy ! Chưa hết, người đàn ông ham mê cờ bạc làm nát cửa tan nhà, để khổ cho vợ con như :

« Chồng em nó chẳng ra gì,

Tổ tôm, xóc dĩa, nó thì chơi hoang.

Nói ra xấu thiếp, hổ chàng,

Nó giận, nó phá tan hoang cửa nhà.

Nói đây thời có chị em nhà,

Còn năm ba thúng thóc với một vài cân bông.

Em bán đi trả nợ cho chồng,

Còn ăn hết nhịn cho hả lòng chồng con.

Đắng cay ngậm quả bồ hòn,

Cửa nhà gia thế, chồng con kém người.

Nói ra sợ chị em cười… »

Khi họ là một anh chồng vong ân bạc nghĩa, như :

« Nào khi anh bủng anh beo.

Tay bưng chén thuốc, tay đèo muối chanh.

Bây giờ anh mạnh, anh lành,

Anh ham nhan sắc, anh đành phụ tôi ».

Người đàn ông có đủ cái hư hèn như vậy mà bắt đàn bà phải phục tòng, trung thành, trinh tiết, đức hạnh, cần kiệm thì làm sao họ không chống lại ? Cho nên, khi đưa ra những xấu xa của người đàn ông, chính là người đàn bà muốn chống lại ý thức phụ quyền, người đàn bà muốn giành lại mọi bình đẳng mà giáo lý Khổng Mạnh đã ràng buộc họ, bắt họ phải tôn thờ những thần tượng mà họ cho là không xứng đáng.

Cho nên, nếu người đàn ông đem giá trị người đàn bà hạ nhục để khống trị, thì chính người đàn bà cũng đem giá trị người đàn ông hạ nhục để chống lại. Trạng thái ấy phản ứng rất rõ rệt trong ca dao Việt-Nam, mà chúng ta có thể lược dẫn ở đây một số ít để chứng minh. Ví dụ họ bảo :

« Đàn ông năm bảy đàn ông,

Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha ».

Hoặc : « Bông bống cõng chồng đi chơi,

Đi ngang chỗ lội đánh rơi mất chồng !

Chị em ơi ! cho tôi mượn cái gàu sòng,

Để tôi tát nước múc chồng tôi lên ».

Hay : « Gái chính chuyên lấy được chín chồng

Vò viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi.

Không may quang đứt lọ rơi,

Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng ».

Họ xem địa vị người chồng không còn ra thể thống gì cả ! Thật hài hước ! Nhưng chúng ta đừng tưởng nó vô nghĩa. Chính những câu ca dao ấy đã biểu lộ ý thức bất phục tòng của người đàn bà trước mọi ép buộc tôn thờ đàn ông, mà chỉ có người bình dân mới bộc lộ được ý thức mạnh mẽ ấy. Đây, chúng ta nghe họ khuyên đàn ông :

« Làm trai phải biết đủ nghề,

Hòng khi có lỡ thì về mót khoai.

Mót được củ chạc, củ chài,

Củ giắt lưng khố, củ nhai vào mồm ».

Hoặc : « Làm trai rửa bát quét nhà,

Vợ kêu thì dạ : thưa bà tôi đây ! »

Rõ ràng họ xem người đàn ông không phải là những mẫu người lý tưởng, tài ba trong gia đình, mà chỉ là những hình tượng chứa đựng những hư hèn, tật xấu. Nếu ý thức phụ quyền trong chế độ phong kiến đã cho phép người đàn ông được khinh đàn bà như : « Phụ nhân nan hóa ».

Hoặc : « Đàn bà không đái khỏi ngọn cỏ ».

Hay : « Đàn ông nông nổi giếng khơi,

Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu ».

Thì ngược lại, người đàn bà cũng đã châm biếm người đàn ông với ý thức bất phục :

« Làm trai cho đáng nên trai,

Ăn cơm với vợ lại nài cạy niêu.

Con vợ nó cũng biết điều,

Thắt lưng con cón cạy niêu với chồng ».

Sự khinh miệt giữa người đàn ông và đàn bà chứng tỏ ý thức chống đối mãnh liệt. Trong lúc chế độ phụ quyền bắt buộc người đàn bà phải sống theo đạo tam tòng, mà người đàn bà lại đem những thói hư, tật xấu của người đàn ông ra châm biếm, khác nào họ dùng những mũi tên độc bắn thẳng vào nền móng phong kiến, đập vỡ những áp bức, bất công mà gia đình Việt-Nam đã chịu ảnh hưởng xã hội Trung-Quốc.

Đến như đạo « tam tòng » của Khổng Mạnh thì người đàn bà bình dân Việt-Nam cũng chống đối ra mặt.

1) Về ý thức tại gia tòng phụ

Người đàn bà khi còn ở với cha mẹ, việc quan trọng nhất là việc lấy chồng. Đáng lẽ họ phải cúi đầu tòng phục mọi sự định đoạt của mẹ cha, thì chúng ta lại thấy trong ca dao Việt-Nam có nhan nhản những câu, như :

« Vai mang khăn gói theo chồng,

Mẹ kêu mặc mẹ, thương chồng phải theo ».

Tình thương của họ đã đặt lên trên quyền điều khiển của mẹ cha. Thực ra, không phải họ bất hiếu, hay quên ơn cha mẹ, mà chính vì họ cảm thấy chế độ phụ quyền đem đến cho đời sống họ những bất công, những thảm trạng mà chính họ phải gánh chịu hậu quả. Đây, chúng ta thử tìm hiểu tâm trạng của họ qua một vài lời than thở :

« Chồng rồi ! chồng rồi, nghĩ rằng chị em đã có chồng rồi.

Sao em chưa có đứng ngồi vân vi ?

Ới thầy mẹ ơi ! cấm đoán con chi !

Mười lăm, mười tám sao chả cho đi lấy chồng.

Ới, ông Trời ơi ! Sao ông ở không công,

Duyên em đã lỗi, em trách ông Tơ Hồng sao khéo trêu ngươi.

Cứ đêm đêm tôi nằm, tôi vuốt bụng, tôi gọi trời :

Xin ông thí bỏ cho tôi chút chồng.

Tôi về, tôi làm lễ tế ông,

Mổ con bò béo, ông cho tôi lấy đức anh chồng cho nó to.

Bỏ công tôi mượn chú lái đi mổ bò ».

Tâm trạng họ là tâm trạng của một kẻ đau khổ vì không có quyền định đoạt lấy thân phận mình. Cho nên, trong hiếu đạo, tinh thần bất mãn lại lẫn lộn vào đấy. Nếu chúng ta đem phân tích kỹ càng thì hẳn chúng ta phải thừa nhận là họ không từ chối hiếu đạo mà họ chỉ bất mãn phụ quyền.

Để chứng minh điều này, chúng tôi thấy cần nhắc lại ở đây những đau khổ của một thôn nữ khi bị cha mẹ ép duyên :

« Duyên đôi ta như loan với phượng,

Nỡ lòng nào để phượng lìa cây.

Muốn cho có đó có đây,

Ai làm nên nỗi nước này chàng ôi !

Thà rằng chẳng biết thì thôi,

Biết chi gối chiếc lẻ loi thêm phiền ».

Những hằn học, đắng cay trong tâm tư người đàn bà chính là việc tình duyên ngang trái do chế độ phụ quyền gây nên. Sự bất mãn của họ không ngoài mục đích là muốn được quyền tự định đoạt lấy thân phận để tránh những hậu quả ngoài ý muốn của họ, như :

« Đường đi những lách cùng lau,

Cha mẹ ham giàu ép uổng duyên con.

Duyên sao cắt cớ hỡi duyên,

Cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai ».

Tuy nhiên, sự chống đối về ý thức « tại gia tòng phụ » của người đàn bà Việt-Nam không quyết liệt lắm, bởi vì tinh thần hiếu đạo bắt buộc họ phải nhẫn nhục, cam chịu, mà họ chỉ còn biết thở than. Đến như ý thức « xuất giá tòng phu » trong đạo « tam tòng » thì chúng ta không thể nào phủ nhận khả năng phản ứng của họ.

2) Ý thức xuất giá tòng phu

Theo đạo « tam tòng » của Khổng Mạnh, người đàn bà lúc lấy chồng trở thành của riêng người chồng. Mọi quyền hạn phải lệ thuộc người chồng, kể cả tinh thần lẫn vật chất.

Trên đây, chúng ta đã lược dẫn để chứng minh người đàn bà Việt-Nam chống đối chế độ phụ quyền rất mãnh liệt, họ đã đem địa vị người đàn ông ra để chế giễu, bêu xấu. Như vậy, mầm phản ứng đã manh nha, phát khởi từ trong ý thức chung của nữ giới.

Lúc chưa lấy chồng, họ đã xem nhẹ sự tôn thờ đàn ông như là thần tượng, thì lúc lấy chồng làm sao buộc họ phải ép mình trong khuôn khổ bất công đó.

Những đêm trăng ở miền quê, trong những trường hợp có đôi trai gái hát đối đáp nhau bên sân đình, cạnh bờ sông, nơi thềm giếng, nếu chúng ta có dịp khảo sát tâm tư, chúng ta sẽ thấy người phụ nữ bình dân vẫn mang nặng một cái gì tự trọng, tự cao. Tâm trạng ấy chính là nguồn gốc của ý thức chống lại chế độ phụ quyền. Và đây là một ví dụ :

LỜI NGƯỜI CON GÁI :

« Thân em như hoa gạo trên cây,

Chúng anh như đám cỏ may bên đường ».

LỜI NGƯỜI CON TRAI :

« Lạy trời cho cả gió sương,

Cho hoa gạo rụng chui luồng cỏ may ».

LỜI NGƯỜI CON GÁI :

« Thân em như cái sạp vàng,

Chúng anh như mảnh chiếu rách giữa đàng bỏ quên ».

LỜI NGƯỜI CON TRAI :

« Lạy trời cho gió thổi lên,

Cho manh chiếu rách trải trên sạp vàng ».

LỜI NGƯỜI CON GÁI :

« Thân em như cánh hoa sen,

Chúng anh như bèo, như bọt chẳng chen được vào ».

LỜI NGƯỜI CON TRAI :

« Lạy trời cho cả mưa rào,

Cho sấm, cho chớp, cho bão to gió lớn,

Cho sen chìm xuống, cho bèo trèo lên trên… »

Khi chưa là chồng vợ, người con gái đã có ý thức bất phục địa vị cao cả của đàn ông đối với nữ giới, thì khi có chồng, chịu ép mình trong khuôn khổ « tòng phu » dĩ nhiên người đàn bà không thể không có phản ứng. Nhưng nếu ý thức phản ứng đối với chế độ phụ quyền bị giới hạn trong phạm vi hiếu đạo lúc còn ở chung với cha mẹ, thì người con gái lúc đi lấy chồng chính là lúc họ được cởi mở, tinh thần chống đối của họ trút tất cả vào hình thức áp chế của người chồng. Do đó, ở lãnh vực này tiếng nói của người đàn bà trở nên mạnh dạn mà trong ca dao Việt-Nam chúng ta còn tìm thấy rất nhiều chứng tích.

Người đàn bà khi lấy chồng không ai không muốn xây dựng gia đình, tạo cho mình một cuộc sống hạnh phúc, thế mà họ phải buộc lòng làm những chuyện như :

« Chơi cho thủng trống, long bồng,

Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm.

Chơi cho thủng trống, long chiêng,

Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng.

Tại sao họ lại có ý thức như vậy ? »

Thật ra những kẻ ấy không phải vì xấu xa, hư hỏng, mà chính vì chế độ phụ quyền đã ràng buộc, tước bỏ quyền sống của họ. Họ xem việc lấy chồng là đem thân đến chỗ chết – bằng ý nghĩa quyền làm người – cho nên họ muốn được sống trước khi phải chết.

Họ không đòi hỏi cái quyền sống nào cao xa hơn là quyền bình đẳng với người chồng. Tại sao người đàn ông không cần phải chính chuyên với vợ – họ có thể lấy nhiều vợ – trong lúc người đàn bà bị bắt buộc phải chính chuyên một chồng. Sự bất công ấy buộc họ phải chống đối, đòi hỏi sự công bằng. Ví dụ :

« Chồng đánh bạc thì vợ đánh bài,

Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng ».

Hoặc : « Chồng ăn chả thì vợ ăn nem,

Đứa ở có thèm mua thịt mà ăn ».

Rõ ràng phản ứng của họ nằm trong ý thức tôn trọng quyền bình đẳng giữa người đàn ông và người đàn bà, chống lại đạo « tòng phu » của Khổng Mạnh đã tạo mầm móng cho chế độ phụ quyền ở Việt-Nam.

Từ ý thức đòi hỏi ấy, họ đi đến quyết liệt bằng cách từ chối tiết trinh của họ. Nghĩa là họ không muốn đem tiết trinh phụng sự người đàn ông, trong lúc người đàn ông không chung thủy với người đàn bà. Họ bảo :

« Anh đánh tôi thì tôi chịu đòn,

Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa ».

Hoặc : « Đánh tôi thì tôi chịu đau,

Tánh tôi hoa nguyệt không chừa được đâu ».

Hay : « Tính quen chừa chẳng được đâu.

Vạ làng làng bắt mấy trâu mặc làng ».

Sức đè nặng càng nhiều thì sức phản ứng càng mạnh. Sự đi ăn nằm với người khác mà được người đàn bà thú nhận trắng trợn như vậy dĩ nhiên là một trạng thái liều lĩnh. Nhưng nếu không liều lĩnh thì họ biết làm gì hơn khi xã hội phong kiến đã không cho họ được quyền làm người. Họ không cần phải che đậy. Những gì xã hội phong kiến ca ngợi, bắt họ phải làm chỉ là những giáo điều, những khuôn sáo để tước quyền làm người của họ mà thôi. Tại sao người đàn ông không chung thủy lại tốt, còn người đàn bà không chung thủy lại xấu ? Họ không cần tiếng tốt, vì ngay chế độ phụ quyền của guồng máy phong kiến đã làm xấu họ rồi, họ có quyền nói lên sự thật của lòng họ, của những gì thiếu thốn trong đời họ để đòi hỏi sự công bình ấy. Họ bảo :

« Phềnh phềnh ở giữa lớn ra,

Mẹ ơi, con chẳng ở nhà được đâu.

Ở nhà làng bắt mất trâu,

Cho nên con phải đâm đầu ra đi ».

Dù pháp luật có bảo vệ phụ quyền, không cho phép họ làm trái khuôn mẫu, nhưng luật pháp cũng không thể cấm đoán được những đau khổ trong tâm tư họ. Cho nên, nhiều lúc họ bất chấp luật pháp :

« Có chồng càng dễ chơi ngang,

Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai ? »

Hoặc : « Hai tay cầm bốn quả hồng,

Quả chát phần chồng, quả chín phần trai.

Nằm đêm vuốt bụng thở dài,

Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều ».

Có lúc họ đem chữ trinh ra mỉa mai :

« Chữ trinh đáng giá nghìn vàng.

Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.

Còn như yêu vụng nhớ thầm,

Họp chợ trên bụng đến trăm con người ».

Cái trinh là cái quí giá nhất của người đàn bà, nó là nguồn gốc của sự chung thủy, của tình thương, của kiến tạo gia đình. Sở dĩ người đàn bà phải khinh rẻ nó, bất mãn nó vì chữ trinh của họ không được người đàn ông đáp ứng lại với lẽ công bằng. Họ giày vò chữ trinh để trừng phạt người đàn ông – kẻ bất nghĩa theo ý nghĩ của họ.

Sự bất mãn đã đưa dần họ đến chỗ liều lĩnh, phá hoại cái gì mà chính họ cũng xem trọng. Ví dụ họ hủy hoại chữ trinh như :

« Lẳng lơ chết cũng ra ma,

Chính chuyên chết cũng chôn ra đầy đồng ».

Họ không còn quí trọng cái gì cao đẹp trong đời sống nữa. Khi kẻ đã nghĩ đến cái chết tức là đã mất mát rất nhiều đối với lẽ sống. Với tinh thần bi quan ấy chứng tỏ họ mang rất nhiều thất vọng. Cho nên họ bảo :

« Chính chuyên lấy được chín chồng,

Ba chồng thành Lạng, ba chồng thành Cao.

Ba chồng để ở sông Đào,

Chạy về đóng cửa làm cao chưa chồng ».

Chẳng những họ phá phách, bi quan, mà họ còn xem cuộc sống như cái gì giả dối, hài hước. Họ không tin tưởng vào con người, vào xã hội loài người. Đây, chúng ta nghe họ nói :

« Sáng ngày ra đứng cửa Đông,

Xem một quẻ bói lộn chồng được chăng ?

Ông thầy gieo quẻ bói rằng :

« Lộn chồng lộn được, nhưng năng phải đòn ».

- Mồ cha đứa có sợ đòn,

Miễn là lấy được chồng dòn thì thôi ! »

Đạo lý « tòng phu » của Nho-giáo bắt buộc người đàn bà phải trung thành với chồng, và thờ chồng, thế mà họ mang ý nghĩ lộn chồng, dù phải bị chồng đánh đập đến bậc nào cũng không sợ, thì rõ ràng họ đã chống lại giáo lý « tòng phu » rồi.

Họ phá vỡ gia đình, phá vỡ hạnh phúc chỉ vì đạo « tam tòng » không đem đến cho họ hạnh phúc.

Điều mà người đàn bà bất mãn nhất trong chế độ phụ quyền là hành động đa thê của người đàn ông. Sự bất công ấy đã gây trong đời sống người đàn bà không biết bao nhiêu thảm trạng. Đây, chúng ta nghe họ than :

« Thân em làm lẽ chẳng hề,

Có như chánh thất mà lê giữa giường.

Tối tối chị giữ mất buồng,

Cho em manh chiếu nằm suông chuồng bò,

Mong chồng, chồng chẳng xuống cho,

Đến khi chồng xuống gà đã ó o gáy dồn.

Mẹ cha con gà kia sao mày vội-gáy dồn,

Mày làm cho tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con ».

Cảnh chồng một vợ đôi chẳng những làm cho người đàn bà mất hẳn tư cách chủ nhân của gia đình, mà còn biến họ vào địa vị tôi đòi nữa. Ví dụ :

« Tối tối chị giữ mất buồng,

Chị cho manh chiếu nằm suông nhà ngoài.

Sáng sáng chị gọi : « Bớ Hai !

« Mau mau thức dậy thái khoai, đâm bèo ».

Vì chưng bác mẹ tôi nghèo,

Cho nên tôi phải đâm bèo thái khoai ! »

Chế độ đa thê còn gián tiếp ủng hộ cái quyền của người đàn ông, và khi hai người đàn bà cùng chung lấy một chồng tất nhiên họ phải ghen tương. Và từ ý thức ghen tương họ cố tranh nhau mua chuộc tình cảm người chồng để được phần hơn. Sự đua nhau chiều đãi ấy làm hại đến phẩm giá người đàn bà. Ví dụ :

« Năm canh năm vợ ngồi hầu !

Vợ cả pha nước têm trầu chàng xơi !

Vợ hai trải chiếu chia bài,

Vợ ba coi sóc nhà ngoài nhà trong.

Vợ tư trải chiếu quạt mùng,

Vợ năm thức giấc trong lòng xót xa.

Chè thang cháo đậu bưng ra,

Chàng xơi một bát kẻo mà công lênh ».

Từ địa vị một người hợp tác để xây dựng gia đình, vì chế độ đa thê mà người đàn bà phải tự hạ mình xuống địa vị một con hầu, tranh hơn tranh kém một chút ơn thừa của người đàn ông. Vì thế nên người đàn bà tha thiết chống lại chế độ đa thê, khuyên nhau đừng lấy lẽ :

« Đói lòng nằm gốc cây sung.

Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng ».

Hoặc : « Đói no một vợ, một chồng,

Một niêu cơm tấm, dầu lòng ăn chơi ! »

Chống đối chế độ đa thê, chẳng những có giới phụ nữ bình dân mà cả đến những người đàn bà trong giới phong lưu cũng cùng một quan điểm. Chúng ta hãy nghe nữ sĩ Hồ-Xuân-Hương than cảnh làm lẽ :

« Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.

Năm thì mười hoạ may chăng chớ,

Một tháng đôi lần, có cũng không.

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,

Cầm bằng làm mướn, mướn không công.

Ví biết sự tình ra thế ấy,

Thì trước âu đành ở vậy xong ».

Ngoài việc chống đối hành động đa thê trong chế độ phụ quyền, người đàn bà bình dân còn chống đối cả hành động mẹ chồng áp chế nàng dâu trong xã hội phong kiến nữa. Họ bảo :

« Thương chồng phải luỵ mụ gia,

Gẫm tôi với mụ có bà con chi ».

Thực ra, không phải họ bất hiếu với cha mẹ chồng, nhưng vì nạn mẹ chồng nàng dâu đã gieo rắc vào gia đình Việt-Nam những khổ cực khiến sự bất mãn của người đàn bà đưa đến phản ứng trong tình cảm gia đình.

Cái gì không hợp với họ thì họ phản đối, cho nên nhiều lúc họ tách rời tình thương người chồng ra ngoài tình thương cha mẹ chồng. Ví dụ :

« Chồng ghét thì ra, mụ gia ghét thì vào ».

Họ phủ nhận quyền hạn của cha mẹ với tính cách liều lĩnh, bất phục tùng. Thảm trạng này cũng do chế độ phụ quyền gây nên, tạo cho gia đình nhà chồng một ấn tượng không tốt đối với nàng dâu. Do đó, chẳng những mẹ chồng coi nàng dâu ở một địa vị thấp trong gia đình, mà đến cả họ hàng nhà chồng cũng hùa theo để hạch sách nữa. Tục ngữ Việt-Nam có những câu :

« Chị em dâu nấu đầu trâu lủng nồi ».

Hoặc : « Chị em chồng nấu nồi đồng sứt quai ».

Hay : « Chồng ghét không lo,

Lo gì một nỗi mụ o nỏ mồm ».

Những chứng tích của tâm tư trên đây đều phát xuất ở chế độ phụ quyền mà người bình dân là kẻ chống đối mạnh mẽ nhất.

3) Ý thức phu tử tòng tử

Ý thức này buộc người đàn bà lúc chồng chết phải thủ tiết thờ chồng, nuôi con. Đó cũng là một trong những bất công trong đạo « tam tòng » của Khổng giáo. Người đàn bà bình dân đã chống lại hai quan niệm « tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu » như chúng ta vừa khảo sát trên đây thì dĩ nhiên quan niệm « phu tử tòng tử » họ cũng không thể chấp nhận được.

Có người quan niệm rằng người đàn bà khi chồng chết phải có bổn phận nuôi con. Nếu đi lấy chồng sẽ bỏ đàn con bơ vơ không ai nuôi dạy, cho nên người đàn bà thủ tiết nuôi con là điều hợp lý.

Theo chúng tôi, cái hợp lý ấy chỉ ở trong chế độ phụ hệ mà thôi, không thể hợp lý trong lẽ công bằng được. Tại sao người đàn ông tục huyền được phép nuôi con mà người đàn bà tái giá lại bắt buộc phải bỏ con theo chồng ? Điều này lệ thuộc vào hai lẽ. Thứ nhất do ảnh hưởng chế độ tam tòng, mà người đàn bà khi tái giá vẫn phải lệ thuộc vào quyền hạn người chồng mới, phải đem thân thờ phụng người chồng mới, không được quyền săn sóc đứa con riêng mình. Thứ hai, do lòng ích kỷ của người đàn ông không muốn nuôi những đứa con không phải do dòng máu mình sinh ra, nên buộc người đàn bà tái giá phải bỏ con theo chồng. Tất cả hai lẽ trên đều do chế độ phụ quyền tạo cho người đàn bà phải gánh chịu những bất công ấy.

Khi đã có sự bất công, tất nhiên người đàn bà phải phản ứng. Đây, chúng ta nghe họ than :

« Linh đinh chiếc bách giữa dòng,

Thương thân goá bụa phòng không lỡ thì.

Gió đưa cây cúc ngã quì,

Ba năm trực tiết còn gì là xuân ».

Một người chết, bắt kẻ khác phải hy sinh ! Sự hy sinh đối với tình cảm bao giờ cũng cao cả, nhưng nó chỉ có nghĩa trong sự công bằng. Nếu mất công bằng thì sự hy sinh ấy đi ra ngoài tình cảm và chỉ còn là áp bức. Cho nên, chúng ta không lạ lùng khi thấy trong ca dao Việt-Nam phản ảnh những tâm hồn chống đối ý thức « phu tử tòng tử », và đi đến những nghịch điểm cực kỳ thái quá. Chúng ta nghe tiếng nói của một quả phụ :

« Giàu thì thịt cá cơm canh,

Khó thì lưng rau đĩa muối cúng anh, tôi đi lấy chồng.

Hỡi anh chồng cũ tôi ơi !

Có khôn thiêng xin anh trở dậy ăn xôi nghe kèn.

Thôi ! Anh đã về nghiệp ấy xin anh đừng ghen.

Để cho người khác cầm quyền thê nhi.

Miệng em khóc, tay em bế ẵm ông thần vì,

Tay gạt nước mắt, tay em thì thắp nén hương.

Bởi vì đâu nên xót nỗi muôn vàn ».

Người gái goá ấy còn có đức, còn biết thương chồng. Đến như quả phụ dưới đây thì mới thật là một nghịch điểm đối với đạo « phu tử tòng tử » :

« Hỡi thằng cu lớn ! Hỡi thằng cu bé !

Cu tí, cu ti, cu tỉ, cu tì ơi !

Con dậy con ăn, con ở với bà

Để mẹ đi kiếm một và con thêm.

Bố con chết đi, trong bụng mẹ vẫn còn thèm,

Mẹ xem quẻ bói, vẫn còn đàn em trong bụng này.

Con ra gọi chú vào đây,

Để mẹ giao trả cái cơ nghiệp này, mẹ bước đi ».

Xem thế chúng ta thấy bản năng của con người là một sức mạnh và tình cảm con người là một yếu tố thăng bằng, luôn luôn đòi hỏi một trạng thái cân xứng. Dù đạo lý của Khổng Mạnh có huyền diệu đến đâu, pháp luật của nền phong kiến cai trị có sắc bén đến bậc nào mà làm trái với mọi điều hoà của bản năng và tình cảm con người cũng đều vô hiệu.

Ý thức chống lại chế độ phụ quyền của người bình dân Việt-Nam là một ý thức liên tục, tạo thành một dòng lịch sử đấu tranh xã hội. Ý thức ấy đã chiến thắng chế độ phụ quyền vào lúc người Pháp đặt ách đô hộ trên dải đất Việt-Nam, lúc mà nền móng phong kiến Việt-Nam bị đổ vỡ, không còn chịu ảnh hưởng của chế độ phong kiến Trung-Hoa nữa.

Vào thời đó, chúng ta có thể nói là một thời kỳ chuyển mình của lịch sử đấu tranh chống chế độ phụ quyền. Chẳng những trong giai cấp bình dân, mà cả đến giai cấp thượng lưu nữ giới cũng đứng lên đả phá chế độ phụ quyền, đòi « nam nữ bình đẳng ». Chẳng những chỉ có nữ giới mà cả nam giới cũng hưởng ứng nữa.

Nhưng tại sao nam giới lại hưởng ứng phong trào chống chế độ phụ quyền của nữ giới ?

Lịch sử đấu tranh của xã hội loài người luôn luôn tìm đến chỗ công bằng, bác ái. Dù với giai cấp nào, những áp bức bất công không thể tồn tại trong bản năng con người. Vả lại chống chế độ phụ quyền không phải chỉ để bênh vực lẽ công bằng trong đời sống người đàn bà, mà là đánh thẳng vào đạo lý phong kiến, triệt hạ cơ sở phong kiến để đưa xã hội tiến tới một nền móng dân chủ. Vì lẽ đó, phong trào đấu tranh « nam nữ bình quyền » là chung cho cả từng lớp tiến bộ, không phân biệt gái trai.

Vào thời đó (thế kỷ thứ 19) nền văn học Việt-Nam đã phát triển, chế độ phong kiến đã lung lay, phương thức đấu tranh không còn trong phạm vi chống đối giữa vợ chồng trong gia đình, trong làng mạc, mà phương thức đấu tranh đã chuyển mình trên văn đàn, dùng báo chí làm cơ quan nghị luận, dùng diễn đàn làm nơi tranh đấu cho « phong trào giải phóng phụ nữ ». Các học giả như Phan-Khôi chủ trương tờ « Phụ nữ tân văn »Khái-Hưng, Nhất-Linh và nhóm Tự-lực Văn-đoàn đều đã trở thành những chiến sĩ tiền phong trong phong trào đả phá chế độ phụ quyền của nền phong kiến Việt-Nam. Các tác phẩm của họ như « Đoạn tuyệt »« Nửa chừng xuân »« Cô giáo Minh », v.v… đều nhắm vào mục đích ấy.

Về phái nữ, phong trào giải phóng đã đưa đến cho họ nhiều phấn khởi, hăng hái, nhất là giới trẻ. Họ hưởng ứng bằng cách « tân thời hoá » cuộc sống, và làm bất cứ một cái gì có vẻ mới để đánh vào những quan niệm thủ cựu đã ràng buộc người đàn bà trong đạo « tam tòng » từ trước đến nay.

*

Tóm lại, giáo lý « tam tòng » của Khổng Mạnh đã bị đổ nát. Dòng lịch sử đấu tranh chống phụ quyền của người đàn bà chiến thắng, phá vỡ hoàn toàn cái linh tượng tôn thờ đàn ông. Trong khi chống phụ quyền, họ đã tỏ ra một thái độ cương quyết cực đoan, trắng trợn. Họ đòi bình quyền với đàn ông về mọi phương diện.

Nhưng, cương quyết và cực đoan chưa phải là lợi khí mầu nhiệm trong lịch sử đấu tranh của họ. Điều thành công là họ đã khéo lôi cuốn đàn ông, lớp người tân tiến, cùng đứng chung trong ý thức chống đối của họ để tạo thành một phong trào giải phóng phụ nữ.

Bởi lẽ, đàn ông trước khi làm chồng cũng phải làm con và làm người như đàn bà :

- Làm con, theo luân lý phụ quyền, tức là mất hết quyền cá nhân trong đời sống tình cảm.

- Làm người, theo Nho giáo, tức là mất hết tự do cá nhân trong đời sống bản năng.

Cho nên, đàn ông cũng như đàn bà đều đã bực dọc, đau đớn vì hai mối quan trọng ấy. Họ đã liên minh với nhau chống đối phụ quyền và Nho giáo bằng hai năng lực bị đàn áp kia : tình cảm và bản năng.

Người Việt-Nam có xu hướng sống theo hai năng lực này hơn là theo luân lý và pháp luật của nhà Nho.

Tuy nhiên, bài khảo sát trên đây của chúng tôi không phải hoàn toàn chỉ trích Nho học. Nho học cũng có cái tốt và cái xấu theo quan điểm xã hội bình dân. Những cái tốt thì dân tộc chúng ta đã đồng hóa mà không có phản ứng. Còn những cái xấu, bị dân chúng chống đối, tất nhiên không hợp với quan điểm xã hội của họ. Trong phạm vi mục này, chúng tôi không đặt vấn đề phê bình học thuyết Khổng Mạnh.

4) Tài liệu đọc thêm

Phong trào « đấu tranh giải phóng phụ nữ » chống chế độ phụ quyền phát khởi ồ ạt vào thời 1930-1935. Trong thời ấy, nền văn học Việt-Nam rẽ qua một khúc quanh, mọi đề tài sáng tác đều nhắm vào mục đích triệt hạ nền phong kiến. Riêng về cơ quan ngôn luận đứng ra bênh vực quyền lợi phụ nữ mạnh nhất là báo « Phụ nữ tân văn » do Phan-Khôi chủ trương. Nếu tổng kết phong trào ấy qua một cuộc khảo sát, chúng ta sẽ có một tài liệu lịch sử rất dồi dào. Nhưng trong quyển « Thi ca bình dân Việt-Nam » này, với một phạm vi đã định trước, chúng tôi chỉ trích dẫn vài bài nghị luận của ông Phan-Khôi và cô Nguyễn-thị-Chính để tiêu biểu cho một chuyển hướng về « xã hội quan » mà thôi.

Trong « Phụ nữ tân văn » số 21 ra ngày 19-9-1929, ông Phan-Khôi có luận về chữ Trinh của nữ giới. Ông viết trong bài « Cái tiết và cái nết » :

*

Xưa nay, trong đạo đàn bà, chữ trinh là trọng. Mà chữ trinh ta phải biết nó như chữ đạo, đức, nhân, nghĩa, ta có thể nói là nhờ sau khi hấp thụ văn hóa Tàu. Cũng vì lẽ ấy mà bài này được viết ra.

Chữ Trinh như là một tín điều của một tôn giáo riêng cho đàn bà. Làm sao không buộc đàn ông phải trinh mà chỉ nội đàn bà thôi ?

Xưa nay dường như chưa có câu hỏi kỳ khôi ấy, vì người ta đã đinh ninh trong óc hễ đàn bà là phải trinh, không còn hỏi gì lôi thôi nữa. Mà có hỏi thì người ta sẽ dẫn những thánh kinh, hiền truyện ra để mà trả lời. Rốt cuộc, Trinh chỉ là cái thiên kinh, đại nghĩa mà đàn bà phải theo, ở trong hình như có cái nghĩa huyền bí của tôn giáo.

Tôi thì tôi cắt nghĩa đến tận gốc. Trong chữ Trinh chẳng có thiên kinh đại nghĩa nào, mà cũng chẳng có gì là huyền bí hết. Đàn ông không phải giữ trinh mà đàn bà phải giữ trinh chẳng qua vì có sự khác nhau về sinh lý mà thôi. Nghĩa là đàn ông không có, mà đàn bà có chửa nghén, sinh đẻ.

Nội việc ấy thôi, mà không có cái chế độ xã hội như ngày nay thì cũng không đủ buộc người đàn bà phải giữ trinh. Đàn bà hồi thiên cổ không phải giữ trinh. Coi như nhiều ông thánh sinh ra không có cha, rồi bịa ra mà nói : bà Giản-Địch nuốt trứng chim mà đẻ ra ông Khiết, bà Khương Nguyên đạp dấu chân lớn mà đẻ ra ông Tắc, v.v… Cho rằng thánh nhân không có cha, cảm trời mà sinh ra, nhưng kỳ thực chẳng phải là không có cha đâu. Hồi đó vì thời đại mẫu hệ, đàn bà muốn lấy ai thì lấy, các bà ấy lấy bậy bạ rồi đến lúc đẻ ra con không biết đâu mà nhìn. Nhưng từ khi loài người thuộc về thời đại phụ hệ, cái chế độ gia đình đã vững, thì cái chế độ đàn bà cũng khác xưa, nếu còn giữ thời lang chạ như bà Giản-Địch, bà Khương Nguyên thì làm sao bao nhiêu sự khó khăn cho gia đình, cho huyết thống. Vì vậy mà đàn bà phải giữ trinh, chẳng qua cũng là sự cực chẳng đã.

Ở dưới chế độ phụ hệ, con gái thuộc về cha, có chồng thuộc về chồng. Con gái mất trinh có điều tra ra sẽ bị cha bỏ. Kẻ có chồng mà mất trinh có điều tra ra sẽ bị chồng không nhìn. Bị bỏ, không nhìn thì cái thân người con gái sẽ bơ vơ, khốn nạn, nên phải giữ trinh. Ban đầu chỉ do sự lợi hại của một người, mà sau thành cái phong thượng của cả xã hội vậy. Ai bị phạm đến điều bất trinh thì cũng bị xã hội loại ra nữa.

Cứ theo sự bắt buộc ấy thì người đàn bà nên chuộng cái nết trinh. Tôi nói cái nết, xin độc giả chú ý, vì khác với cái tiết tôi sẽ nói sau.

Chữ trinh nghĩa là chính. Cái nết nghĩa là cái nết đoan chính, có ý giữ mình cho nghiêm nghị, không cho ai được phạm đến. Chính chuyên có ý buộc mình nghiêm nhứt theo với một người chồng mà thôi.

Làm thân con gái phải đoan chính. Đến lúc có chồng rồi, chính chuyên mà lại phải đoan chính nữa. Trinh không phải là một cái nết thuộc về khách quan, mà cái nết thuộc về chủ quan. Mình vì cái ý chí, cái phẩm giá của mình mà giữ trinh chớ không phải vì ai, cũng không phải vì chồng nữa. Nói cho cùng tột, cái nghĩa chữ trinh thì người đàn bà cũng có khi được phép cự tuyệt với sự tiết áp bất chính của chồng mình nữa.

Như vậy, trinh là cái nết. Nhưng về sau người ta uốn nắn thành cái tiết. Cho nên, họ khen người đàn bà chính chuyên là trinh tiết, là tiết phụ.

Tiết khác nghĩa với nết. Tiết là một cái dấu tỏ ra mình đã làm hết bổn phận của mình đối với người mà mình thuộc về. Một người đàn bà chết chồng, không lấy chồng khác mà gọi là tiết phụ cũng chẳng khác gì người bầy tôi chết vì vua mà gọi là tử tiết hay tận thần tiết. Tiết phụ là một người vợ đã làm hết bổn phận đối với chồng cũng như « tử tiết chi thần » là một người tôi đã làm hết bổn phận đối với vua.

Cũng thì trinh, mà chuộng cái tiết thì hóa ra ti bỉ, không cao thượng bằng chọn cái nết, do cái lẽ một đàng thì vì mình, một đàng thì vì người.

Trinh mà chuộng về cái nết thì một người đàn bà chết chồng có thể lấy chồng khác, không coi là thất trinh được, miễn là trong khi có chồng khác vẫn đoan chính và chính chuyên. Nhưng chuộng về tiết thì chết chồng mà lấy chồng khác thì thất tiết. Cái luật nghiêm khắc và ích kỷ ấy của bọn đàn ông bày rất là không công bình.

Trải qua sử sách, thấy người đời xưa chỉ chọn về cái nết trinh mà không áp người đàn bà phải giữ cái tiết trinh. Bên Tàu, cho đến cuối thế kỷ thứ mười, đối với việc đàn bà cải giá, xã hội vẫn coi thường, không hề phê nghị. Những sự cấm đoán đó bắt đầu từ thời Tống-Nho về sau.

Sách « Cận tự lực » có chép một đoạn về việc này rằng : « Theo lẽ, dường như không lấy bà góa làm vợ phải chăng ? »

Thầy Y-Xuyên (tức Trình-Hy) đáp : « Phải, phàm lấy vợ là để sánh đôi với mình. Nếu lấy người thất tiết thì mình cũng thất tiết ».

Lại hỏi : « Đàn bà ở góa mà nghèo nàn không cậy ai được, thì có nên lấy chồng nữa chăng ? »

Đáp : « Chỉ vì người đời sau chịu chết đói mới nói như vậy. Song kẻ chết đói là sự rất nhỏ, còn thất tiết là sự rất lớn ».

Từ đó, cái luật buộc đàn bà thủ tiết càng ngày càng thạnh hành, càng nghiêm nhặt. Chẳng những chồng chết không được đi lấy chồng mà còn phải chết theo chồng nữa. Rất đỗi chưa thành hôn mà chồng chết cũng phải ở góa.

Trải qua các đời Nguyên, Minh, Thanh, khoảng tám chín trăm năm, cái mạng của người đàn bà chẳng đáng đồng xu nhỏ.

Hồi cuối nhà Nguyên, Phan-nguyên-Thiệu sắp đem quân đánh với Minh Thái-tổ, kêu bảy nàng hầu của mình bảo : « Nếu ta có điều chi, chúng bay phải liệu mà tự tử lấy mình, đừng để người ta chê cười ».

Một nàng quì xuống thưa : « Thiếp xin chết trước mặt phu quân kẻo nghi ngại ».

Nói xong, nàng vào phòng tự vận. Sáu nàng kia cũng chết theo.

Thế rồi Nguyên-Thiên ra làm sao ? Ông ta đã chẳng tử tiết mà còn về đầu nhà Minh.

Cuối đời nhà Minh, Mã-sĩ-Anh phò vua Phước-vương ở Nam-kinh. Nam-kinh bị phá, Mã-sĩ-Anh phải cạo đầu, gióc bín đi trốn rồi xây một hầm đá trong núi, toan vào núp ở đó. Trước khi vào núi, ông bảo vợ là Cao-thị phải tự tử. Cao-thị đóng cửa lầu ôm đứa con nhỏ ngồi khóc. Mã-sĩ-Anh sai nô tì thúc hối mấy lần, nhưng Cao-thị cứ ngồi khóc mãi. Sĩ-Anh giận lắm, đứng phắt dậy, bỏ vào núi. Cao-thị hơ hải chạy theo, khóc lóc dọc đường, bị quân Thanh bắt được, hỏi ra chỗ núp của Sĩ-Anh, nên đem quân bao vây bắt được.

Xem những việc trên đây chứng tỏ luật bắt đàn bà thủ tiết chỉ là do lòng ích kỷ của đàn ông. Và cũng do đó, người đàn bà bị khinh rẻ, không xem ra chi. Vả như Phan-nguyên-Thiệu, và Mã-sĩ-Anh đã không liều mình vì nước, sao lại bắt hầu thiếp phải chết vì chồng ? Mình còn muốn sống, đem thân đi trốn, sao không cho vợ đi trốn theo ? Tâm địa bọn đàn ông như vậy thật quái ác. Nhưng đâu phải tự họ có hành động quái ác ấy, nó là do cái thuyết thủ tiết của Tống Nho vậy.

Nước ta lâu nay các nhà vua đều lấy Nho-giáo trị nước. Non mười thế kỷ nay, Tống Nho chiếm thế lực trong Nho-giáo hơn là Khổng Mạnh, bởi vậy cái luật cấm đàn bà thủ tiết cũng gần muốn thi hành ở nước ta.

Xét về lịch sử nước ta, những mẩu chuyện tiết phụ không có mấy so với nước Tàu. Và, xưa nay cũng không thấy xảy ra chuyện quái gở như chuyện Phan-nguyên-Thiệu, Mã-sĩ-Anh đã kể trên. Lại trong xã hội ta cũng coi việc tái giá là thường. Ai ở được cũng tốt, ai không ở được thì đi lấy chồng, sự ấy chẳng thành ra vấn đề. Tuy vậy, dưới bộ máy cai trị, ảnh hưởng theo Tống-nho, phụ nữ ta cũng bị ngược đãi và bị chịu thiệt nhiều bề, không phải ít.

Pháp luật nước nào cũng dựa theo luân lý. Vì theo luân lý Tống-nho nên pháp luật nước ta tuy không cấm hẳn đàn bà cải giá, nhưng cũng cướp mất quyền lợi người đàn bà lúc cải giá. Ví dụ, một người đàn bà chết chồng mà đi lấy chồng khác thì luật bắt phải ra đi tay không, giao cả gia tài cho nhà chồng, mặc dầu gia tài ấy là do vợ chồng đồng công tạo lập. Chồng chết, có con trai, mà đi lấy chồng để kiếm phương thế nuôi con, sau lại về với đứa con trong nhà chồng trước, luật cũng không nhận người đàn bà ấy là vợ của người chồng trước, và lúc chết đi cũng không được thờ chung với chồng vào từ đường.

Đã hạ người đàn bà cải giá xuống tất phải nâng người đàn bà thủ tiết lên, nhà vua ban hành chiếu sắc, cấp bảng vàng sinh biểu cho những người nào ở góa trọn đời hay tự chết theo chồng. Những ân điển ấy thường tình lấy làm vinh hạnh, song nghĩ cho kỹ thì chỉ là biểu hiện ích kỷ của đàn ông, và cũng là cái xiềng để trói đàn bà lại.

Vả chăng, vợ chồng ở với nhau, ái tình sâu nặng, một mai chồng chết chẳng nỡ lấy chồng khác cũng là thường tình. Nhưng đó chẳng qua là cái nết trinh của một người làm theo ý mình, chứ có cần ai thương hại làm chi ? Còn chồng chết, mà người vợ vì trẻ quá, hoặc nghèo quá, phải đi lấy chồng, thì đó cũng hợp với tình đời, can chi lại trừng phạt ? Sự thưởng phạt ấy bày ra chẳng những đã làm cho phong tục không được tốt thêm chút nào, mà lại làm cho xã hội thêm nhiều việc chướng tai, gai mắt. Nhiều người nhờ thế lực kim tiền cũng được thưởng biển vàng. Còn trong thôn xóm nhiều gái góa bị nhà chồng bắt nạt, vu khống, kiện tụng để đoạt gia tài.

Ngày nay, trong xã hội nước ta, cái hay của nết trinh không có được bao nhiêu, mà cái dở của tiết trinh vẫn còn đè nặng trên nữ giới. Đó là kết quả của sự chuộng tiết hơn nết. Đó là cái di nọc của học thuyết Tống-nho. Đó là kết quả của sự thưởng phạt của quân quyền.

Người ta sinh ra ở đời này là người… tự do. Dầu ở dưới chính thể nào cũng vậy. Nên trông theo ánh sáng của thời đại mà không nên thủ cựu, làm mất tư cách.

…Đàn bà con gái cũng là người, ai lại kém ai ? Tự mình phát ra thủ tiết thì được, chứ sợ pháp luật mà thủ tiết thì quả tự mình làm mất nhân cách của mình, làm sỉ nhục cho cả phụ nữ.

Ông Nguyễn-Du nói : « Chữ trinh có ba bẩy đường », nhưng tôi nói chữ trinh có hai đường là nết và tiết. Nết là hay, mà tiết là dở. Chuộng nết thì có ích, mà chuộng tiết thì có hại. Huống chi thời buổi này, cái thói dâm ô tràn ngập cả thiên hạ. Đàn bà nước Nam ta nếu muốn giữ lấy nhân cách mình trên nền tự do độc lập thì hãy phản đối cái tiết trinh, mà thứ nhất là phải trau dồi cái nết trinh.

Bài nghị luận trên đây, ông Phan-Khôi cố phân định cái nết và cái tiết để chống lại sự áp chế của guồng máy cai trị, và khuyến khích những hành động tự nguyện, tự giác.

Tuy đứng vào phe chống đối chế độ phụ quyền, hô hào đả phá nền móng phong kiến, song sự đả kích của ông Phan-Khôi không lấy gì mạnh mẽ, bởi lẽ dù sao ông cũng là người xuất thân nơi cửa Khổng sân Trình, mà đả kích chế độ phụ quyền tức là đánh thẳng vào cái đạo mà lúc ấy ông đang bắt buộc phải phụng thờ.

Do đó, ông cố tránh né, không thừa nhận chế độ phụ quyền là sản phẩm của đạo lý Khổng Mạnh, mà chỉ cho là học thuyết của Tống-nho. Thực ra cứ lấy đạo « tam tòng, tứ đức » mà xét thì học thuyết Khổng Mạnh đối với chế độ phụ quyền không khác gì học thuyết của Tống-nho.

Ngày 21-7-1932, cũng trên báo « Phụ nữ tân văn » số 160, ông Phan-Khôi lại có bài khảo cứu về « Vấn đề phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan »Ông viết :

*

…Theo như các học giả đời nay công nhận thì cuộc vận động giải phóng phụ nữ thế giới khởi đầu từ cuộc vận động của phụ nữ Pháp vào thời cách mạng năm 1789. Nếu tìm đến nguyên nhân thì cuộc phụ nữ vận động nước Pháp cũng như cuộc đại cách mạng nước Pháp, phải kể một phần lớn là nhờ chịu ảnh hưởng học thuyết của J.J. Rousseau.

J.J. Rousseau tuy không phải là người có ác cảm với phụ nữ, nhưng thật không phải là người có đồng tình với phụ nữ. Ông ấy vẫn là nhà tự do tư tưởng, song về sự quan hệ giữa nam nữ thì ông cứ theo cái sáo cũ. Coi như khi luận về sự giáo dục cho phụ nữ, ông nói :

« Về sự giáo dục đàn bà con gái ta nên lấy chỗ hiệp với sự yêu cầu của đàn ông, con trai làm đích. Nghĩa vụ người đàn bà là ở chỗ giúp đỡ người đàn ông, an ủi người đàn ông… làm cho đàn ông khoan khoái mà tiến bước trên con đường sự nghiệp. Bất kỳ ở thời đại nào cũng phải lấy mục tiêu ấy làm nghĩa vụ, và mỗi người đàn bà từ lúc nhỏ phải chịu rèn luyện trên mục đích ấy… »

Cứ như mấy câu trên đây, chúng ta thấy ý kiến của Rousseau về phụ nữ thật chẳng khác nào ý kiến của phái thủ cựu đời nay. Tuy vậy, cái tư trào (courant de pensée) của người Pháp từ hồi đại cách mạng vẫn qui tụ vào ba điều : chính nghĩa, tự do, bình đẳng. Mà ba điều ấy thì ai nấy cũng công nhận là do gốc ở tư tưởng của J.J. Rousseau mà ra.

Học thuyết của Rousseau là cốt làm sao cho người ta « trở về với tự nhiên ». Ông cho rằng khi con người chịu dựng nên, mọi sự đều thiện cả, đến khi vào tay người ta uốn nắn rồi thì liền thấy truỵ lạc. Bao nhiêu những sự thiên kiến, oai quyền, lề lối, cùng hết thảy những sự tổ chức xã hội mà ta vì nó mà chịu khổ đều là cái làm cho ta xa với cái tự nhiên. Chúng ta phải bỏ tất cả những cái ấy mà trở về với cái tự nhiên của mình khi trước. Đứng vững trên lý thuyết đó, nhà đại văn hào nước Pháp bèn lập lên cái triết học của mình và xướng đạo cho đàn hậu tiến.

Chủ trương của Rousseau đã ảnh hưởng vào dân chúng, tạo một khuynh hướng chống lại uy quyền, đòi tự do, bình đẳng và chính nghĩa. Mọi biến động của xã hội nước Pháp đều do ảnh hưởng ấy mà ra. Về chính trị thì gây nên cuộc đại cách mạng, về văn học thì gây nên chủ nghĩa lãng mạn. Đồng thời cái tư trào khao khát tự do ấy cũng lần lần gây nên cái nguyên nhân cho cuộc phụ nữ vận động về sau.

Tuy J.J. Rousseau không chủ trương giải phóng một cách trực tiếp cho phụ nữ, nhưng đã chủ trương cho loài người phải tranh đấu cho chính nghĩa, tự do, bình đẳng và trở về với thiên nhiên. Cái tư trào ấy khi đã thấm nhuần vào lòng người thì nhân sinh quan của họ cũng vì đó mà đổi thay. Chúng ta có thể nói là nhân sinh quan của dân tộc Pháp trước và sau Rousseau không giống nhau. Trước đó ai nấy xem mình sống là sống dưới « quyền thần » và « quí tộc ». Nhưng sau đó họ lại xem sống là sống trong chính nghĩa, tự do, và bình đẳng. Phụ nữ cũng coi mình sống như vậy, nên bắt đầu thức tỉnh và hô hào cuộc vận động năm 1789. Đó là điều mà chính J.J. Rousseau cũng không ngờ.

Năm 1789 là năm nước Pháp xảy ra cuộc đại cách mạng, có một đoàn phụ nữ ra giữa quốc dân nghị hội yêu cầu lập chế độ « nam nữ bình quyền » về chính trị. Đến năm 1790 họ lại vận động việc ấy lần nữa, nhưng cả hai lần đều thất bại. Mặc dầu thất bại, họ vẫn tiếp tục vận động, và cho đến ngày nay, phụ nữ nước Pháp cũng vẫn chưa được bình đẳng về chính trị với đàn ông. Tuy nhiên, ảnh hưởng ấy lại truyền sang các nước Anh, Mỹ, làm cho cuộc vận động của hai nước này được sớm thành công rồi lan tràn ra đến nhiều nước khác nữa.

Như vậy, cuộc vận động giải phóng phụ nữ, đòi « nam nữ bình quyền » của cả thế giới phải nói là đầu tiên do nước Pháp gây nên, và nước Pháp chịu ảnh hưởng học thuyết của J.J. Rousseau, mà học thuyết của J.J. Rousseau là làm cho nhân sinh quan thay đổi để tạo nên phong trào canh tân. Đó là một chứng cớ để chúng ta thấy rõ rằng nhân sinh quan có liên hệ với vấn đề phụ nữ giải phóng. Muốn giải quyết vấn đề ấy trước hết phải đổi mới nhân sinh quan đã.

Bằng chứng trên đây tuy căn cứ vào diễn biến lịch sử, song có hơi thiên về trừu tượng một chút, không bằng chúng ta lấy những chứng cớ chắc chắn hơn do dĩ vãng của cuộc vận động giải phóng phụ nữ bên Tàu và bên Nhật. Hai nước này với nước ta cùng chung một văn hóa, và người đàn bà của hai nước ấy cùng với người đàn bà của nước ta trước kia như chung một cách sinh hoạt.

Nói về nước Tàu trước năm Giáp-ngọ (1894) là năm đánh thua Nhật-Bản, thì mọi sinh hoạt của phụ nữ Tàu hoàn toàn theo lối cũ. Một điều hại cho phụ nữ hơn hết là tục bó chân. Thứ đến là không có « nữ tử phổ thông giáo dục ». Bấy giờ, theo luân lý tập quán, người Tàu lấy bốn chữ « vô tài thị đức » làm tiêu chuẩn, có nghĩa người đàn bà không có tài ấy là đức vậy. Vô tài mà cho là « đức » thì con gái đi học làm gì ? Nói là « đức » nhưng kỳ thật là « ngu » vậy.

Hồi đó, có một số sĩ phu biết lo việc nước, thấy luân lý tập quán như vậy cho là yếu tố làm suy yếu nước nhà. Hơn nữa, nước Tàu bấy giờ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều nếp sống của các nước Âu-châu và Nhật-Bản, nên họ bắt đầu gây ra phong trào giải phóng phụ nữ. Sự vận động hồi đó, nghĩa là sau năm Giáp-ngọ, trước năm Mậu-tuất trong khoảng năm năm, chuyên chú về hai việc : Một là lập hội « bất tiều túc » (không bó chân) ; hai là lập « nữ học đường ». Không bó chân là giúp cho phụ nữ được mạnh mẽ, lập học đường là giúp phụ nữ được khôn lên.

Nhưng hô hào việc « không bó chân » là việc dễ dàng, vì nếu họ bằng lòng thực hiện là được. Còn việc giáo dục phụ nữ là cả một vấn đề phức tạp. Chúng ta thử xem người Tàu bấy giờ lập « nữ học đường » phải đứng trên phương diện giáo dục nào ?

Tất nhiên, trước hết là họ đả phá chủ nghĩa « vô tài thị đức ». Bằng chứng này chúng ta có thể căn cứ vào Lương-khải-Siêu trong bài « Biến pháp thông nghị » viết về việc « Hưng nữ học » thì rõ. Lương-khải-Siêu có viết : « Người ta thường nói : Đàn bà không tài, ấy là đức », đó là nói bậy. Muốn cho đàn bà không biết chữ nào, không đọc được cuốn sách nào, mà cho là hiền đức thì khác nào gây mối họa trong thiên hạ. Họ quan niệm rằng đàn bà làm lụy đàn ông chẳng những trên phương diện sinh sống mà cả đến phương diện vật chất nữa. Nhưng nếu đàn bà vì không học mà ngu, ở trong gia đình không thể nào chịu được, thì đó mới là làm lụy đàn ông, chẳng những về tinh thần mà cả về chí khí nữa. Sự lụy này mới thật là lớn. Dù anh hùng hào kiệt mà ở với người đàn bà ngu si trong ít năm thì tài khí cũng phải bị tiêu ma hết ».

Xem mấy lời trên chúng ta cũng có thể hiểu nghĩa hai chữ « nữ học » lúc ấy ra thể nào rồi. Cũng như chủ trương của J.J. Rousseau, người Tàu lúc đó đặt tầm giáo dục người đàn bà trong cái nhu cầu của đàn ông. Đàn ông muốn cho người đàn bà nào cũng có liên hệ với mình trong gia đình (tức là mẹ, là vợ) đều có học thức để hòa hợp với nhu cầu sinh hoạt của đàn ông. Như vậy, đàn bà không phải vì chính mình mà học. Ý nghĩa của sự giáo dục thời đó các nhà làm sử đã cho rằng « việc giáo dục đàn bà là đào tạo họ trở thành vợ lành, mẹ hiền » (lương thê, hiền mẫu).

Nơi khác, họ Lương lại nói : « Đàn bà có học thì trên có thể giúp chồng, dưới có thể dạy con, gần có thể sửa trị gia đình, xa có thể làm mạnh nòi giống. Hễ đàn bà có giáo dục, và ăn ở phải thế rồi thì nhà nào cũng trở nên lương thiện hết ».

Mấy lời đó càng rõ ràng rằng sự giáo dục của phụ nữ bấy giờ là cốt tạo ra lương thê, hiền mẫu, chứ chẳng có gì khác hơn.

Từ « vô tài thị đức » đến chỗ « lương thê hiền mẫu » cũng đã kể là tiến bộ rồi. Và nhân sinh quan tuy chưa thay đổi hẳn nhưng cũng đã nhúc nhích muốn thay đổi. Bởi vì ngày trước coi đàn bà như nô lệ, không cho học, không cho có tài, thì ngày nay muốn cho đàn bà trở nên vợ lành, mẹ hiền, nên mới cho học. Tuy vậy, trong óc các người thông thái như ông Lương-khải-Siêu lúc đó cũng còn chưa khỏi coi đàn bà là vật phụ thuộc của đàn ông.

Đổi hẳn cái nhân sinh quan ấy từ năm 1916 (Dân quốc ngũ niên). Đàn bà đối với quốc gia tuy chưa được bình đẳng về chính trị với đàn ông, nhưng về phương diện xã hội thì mỗi người đã giành được một nhân cách độc lập trong sinh hoạt của mình. Sự tiến bộ ấy nguồn gốc nhờ ở cuộc vận động tân văn hóa năm 1916 vậy.

Cuộc vận động ấy cốt đổi mới cả tư tưởng lẫn sinh hoạt của nam nữ thanh niên, chớ không riêng một mình phụ nữ mà thôi. Nhưng kể ra thì phụ nữ chịu ảnh hưởng cuộc vận động này nhiều hơn.

Bấy giờ có « Tân thanh niên tạp chí », Trần-độc-Tú làm chủ bút cái cơ quan đầu tiên và độc nhất của cuộc vận động ấy. Chính tay Trần đã viết nhiều bài rất xác đáng và thống thiết, làm rúng động và đổi hẳn cái khuynh hướng cũ.

Về phái nữ, Trần-độc-Tú chủ trương đàn bà cũng phải độc lập, tự chủ như đàn ông, không phụ thuộc vào đàn ông như trước nữa. Bất kỳ những tập quán, lễ giáo, luân lý nào có trở ngại đến chủ trương ấy đều bị Trần thẳng tay đánh đổ. Giáo-lý Khổng Mạnh cũng bị Trần gạt sang một bên.

Đại để như Trần nói :

« Đàn bà vận động tham chính cũng là lẽ công bình trong sinh hoạt của thời văn minh này. Nếu đem ghép vào những lời dạy của Khổng-giáo : « Lời nói ở trong không được ra khỏi buồng » hoặc « Đàn bà con gái không được nói việc ngoài » thì ôi thôi, chúng ta còn biết làm gì nữa. Đàn bà bên Tây ở góa, hoặc vì tưởng mến tình xưa, hoặc vì muốn sống một mình cho thanh khiết, điều ấy chẳng phải thủ tiết cho chồng. Còn theo lễ giáo Trung-Hoa thì cái nghĩa ở góa là để thủ tiết thờ chồng. Đem người đàn bà hai chồng so sánh với người đàn ông làm tôi hai chúa đều là thất tiết cả. Do đó đàn bà phải chịu nhiều nỗi khổ… Sự nam nữ giao tế giữa xã hội văn minh ngày nay người ta cho là thường lắm. Thế mà họ theo đạo Khổng-Tử thì : « Trai gái không được ngồi chung » lại cho đến : « Chị dâu em chồng cũng không được trò chuyện », những lễ phép ấy trái ngược với sinh hoạt văn minh hiện tại, không thế nào tuân hành nữa được… »

Trên đây là lượt cứ vài điều để thấy quan niệm của « Tân thanh niên tạp chí » thời bấy giờ, thực ra chủ trương tạp chí này còn đi xa hơn nữa trên mọi mặt khác. Điều đại khái có thể tóm lược là Trần-độc-Tú muốn phá vỡ tất cả những lễ nghi, tập tục của Trung-Quốc để đưa địa vị người đàn bà lên ngang hàng với đàn ông.

Từ đó đến nay đã 16 năm, đàn bà Trung-Hoa mỗi ngày một cải tiến. Sinh hoạt họ ngày nay gần giống như đàn bà Âu-Mỹ. Hiện trạng ấy nguyên nhân là do sự đổi mới về nhân sinh quan từ năm 1916 mà ra. Nhân sinh quan mới này kêu là « siêu lương thê, hiền mẫu » nghĩa là vượt lên trên « vợ lành, mẹ hiền » một bậc nữa.

Nói về Nhật-Bản thì vấn đề nam nữ bình đẳng phát sinh chỉ mới từ trào Minh-Trị về sau. Còn trước đó phụ nữ Nhật hoàn toàn lệ thuộc về đàn ông. Trạng thái biến đổi trong sinh hoạt của phụ nữ Nhật, trước và sau năm mươi năm cũng đều do sự thay đổi nhân sinh quan mà ra cả.

Điều này đối với xã hội Nhật-Bản rất dễ thấy, vì có hai bộ sách làm tiêu biểu : một bộ kêu là « Nữ đại học » tiêu biểu cho nhân sinh quan của phụ nữ năm mươi năm về trước, và một bộ kêu là « Cận đại nữ đại học » tiêu biểu của nhân sinh quan phụ nữ năm mươi năm gần đây.

Sách « Nữ đại học » không rõ tác giả là ai, nhưng là sách lưu hành ở Nhật-Bản lâu nay và rất có thế lực, trong đó hoàn toàn theo đạo đức của Trung-Quốc, tức là đạo đức của nhà nho, nên cũng đã đem những luật « tam tòng », « thất xuất » mà bắt ép phụ nữ Nhật-Bản coi họ như phẩm vật riêng của đàn ông.

Sách « Cận thế nữ đại học » của một giáo đồ Tin-lành, tên Thổ Cư Quang Hoa làm, xuất bản năm Minh-Trị thứ 9. Ta có thể nói rằng bộ sách này ra đời mục đích là để đánh đổ những quan niệm lỗi thời trong bộ « Nữ đại học ».

Nơi bài tựa của sách « Cận thế nữ đại học » tác giả có viết :

« Theo lời ông Mịch, một vị học giả nước Anh thì « tự do là cái cần yếu cho đời người, không có không được ». Vậy mà ở đây đã không cho phụ nữ được tự do, trói buộc họ, mà còn đem những giáo điều làm hại trí thức của họ, phá hư những tánh tốt của họ nữa. Tôi nhân đọc quyển « Nữ đại học » thấy sự dạy dỗ không đúng đắn, và khảo sát các phong tục Nhật Bản thấy nhiều điều ngậm ngùi cho nữ giới, nên tôi dựa theo phương pháp giáo dục văn minh của phương Tây làm ra quyển « Cận thế nữ đại học » này, mục đích cống hiến cho phụ nữ Nhật-Bản… »

Căn cứ theo lập trường trên đây, tác giả phê bình sách « Nữ đại học » một cách quyết liệt, cũng như ở nước ta vừa rồi, bà Nguyễn-thị-Chính đã phê bình cuốn « Vấn đề phụ-nữ Việt-Nam » vậy.

Trong quyển « Nữ đại học » có tất cả hai mươi điều, tác giả chỉ phê bình có mười một điều, còn lại chín điều tác giả cho là không có giá trị để được phê bình. Như « Nữ đại học » có một điều chủ trương đàn bà phải phục tùng theo đàn ông thì tác giả phản đối là : « Phụ nữ của đế quốc Nhật-Bản thì phải có quyền lợi của nhân dân đế quốc Nhật-Bản một loạt như đàn ông ». Ngoài ra, những điều khác đại khái tác giả chủ trương giải phóng phụ nữ một cách hoàn toàn.

Xét toàn diện, chúng ta có thể kết luận rằng sách « Cận thế nữ đại học » rất tôn trọng quyền « làm người » của phụ nữ, trong lúc sách « Nữ đại học » xem người đàn bà như vật lệ thuộc, hoặc vật nô lệ.

Từ đó về sau, xã hội Nhật-Bản mới có một nhân sinh quan mới về đời sống phụ nữ, những sách xuất bản sau này có khuynh hướng về thuyết « nam nữ bình quyền » mỗi ngày một nhiều thêm. Cho đến năm Minh-Trị thứ 31 (1898), ông Phước-Trạch-Dụ-Kiết đưa ra hai bài xã luận. Một bài là « Nữ đại học bình luận », một bài là « Tân nữ đại học » đứng trên lập trường bình đẳng nam nữ phổ biến một nhân sinh quan mới vào phong trào vận động phụ nữ ở Nhật-Bản, làm cho thuyết « nam nữ bình quyền » được vững vàng thêm.

Cuộc phụ nữ vận động ở Nhật cũng như ở Tàu hiện chưa đạt đến kết quả mỹ mãn, song cái nhân sinh quan về phụ nữ ở hai nước ấy, sự thật đã đổi mới rồi. Hễ cái nhân sinh quan mà thay đổi thì thế nào phụ nữ cũng sẽ được giải phóng trọn vẹn.

Bài khảo luận trên đây của ông Phan-Khôi đem lịch sử diễn biến của các nước về vấn đề tranh đấu giải phóng phụ nữ để chứng minh rằng muốn giải phóng phụ nữ trước nhất phải tạo cho xã hội có một nhân sinh quan mới về sinh hoạt phụ nữ.

Nhân sinh quan, theo ông Phan-Khôi trong bài này, là một ý niệm mới mẻ, một nhận thức về sự tiến bộ. Khi ý thức con người đã đạt được yếu tố cần thiết rồi, thì ý thức con người sẽ sửa đổi mọi lề lối sinh hoạt, tập tục, chối bỏ những ràng buộc cũ kỹ, lỗi thời, nói chung là sẽ sửa đổi xã hội.

Tuy nhiên, ý kiến của ông Phan-Khôi trên đây đã bị cô Nguyễn-thị-Chính đả kích. Cô Nguyễn-thị-Chính không đồng ý với ông Phan-Khôi ở chỗ cho nhân sinh quan là nguồn gốc biến đổi xã hội. Trong « Phụ nữ tân văn » số 162 (4-8-1932) cô Nguyễn-thị-Chính viết bài trả lời ông Phan-Khôi về « Vấn đề phụ nữ giải phóng nhân sinh quan ». Cô viết :

*

Kính ông Phan-Khôi,

Vừa rồi ông có viết bài trong « Phụ nữ tân văn » số 158 và 160, luận về « Vấn đề phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan ». Nơi bài thứ nhất, khi gần nhập đề, ông có đem cái thuyết của tôi trong quyển sách nhỏ « Phê bình sách vấn đề phụ nữ Việt-Nam » mà phát luận. Bởi không đồng ý với ông theo luận điệu ấy nên tôi mới viết bài trả lời này…

…Tôi cũng xin thanh minh rằng bài của tôi không có tánh cách tranh biện, mà chỉ có tánh cách nghiên cứu, bởi vì tuy cùng một vấn đề, nhưng ông nghiên cứu cách khác, tôi nghiên cứu cách khác thì đem ra tranh luận làm gì ?

…Theo ông, đành rằng sự tiến hóa của lịch sử và nền móng kinh tế là gốc, song nhân sinh quan lại rộng hơn nữa, lại là gốc vững chắc hơn nữa.

Thưa ông, tôi xin lỗi ông, tôi không thể nhận ý kiến này được. Nếu là ý kiến vô căn cứ thì cái nào gốc, cái nào ngọn cũng không hại, nhưng đây có liên quan với thực tế, với sinh hoạt hàng ngày nên tôi không thể bỏ qua được.

Nhân sinh quan là phần chủ quan, là một bộ phận của thượng tầng kiến thiết, nói rõ hơn, nó là ngọn, do hạ tầng cơ sở tức là nền móng kinh tế và cuộc tiến hóa khách quan của lịch sử tạo thành.

…Nhân sinh quan chỉ là gồm tất cả những thái độ của mọi người đối với phong trào hiện tại. Thái độ đối với chồng, với con, với láng giềng, với xã hội… với công việc làm « phước », làm « lành », với trời đất, mưa gió, nước non, v.v…

Xã hội đổi, nền móng kinh tế đổi thì nhân sinh quan phải đổi. Thế thì nhân sinh quan lệ thuộc do nền móng kinh tế và sự tiến hóa của lịch sử…

Cũng như thái độ « thủ cựu » hay « cấp tiến » của mỗi người đối với vấn đề phụ nữ là do một bộ phận của nhân sinh quan. Ông bảo phải đổi nhân sinh quan thì thái độ của mỗi người về vấn đề phụ nữ phải đổi theo. Như thế khác nào ông bảo họ : « Anh đổi nhân sinh quan anh đi thì nhân sinh quan anh đổi, thái độ anh về vấn đề phụ nữ cũng sẽ đổi ».

Nếu bảo như thế thì thật vô lý ! Khi họ đã có một ý muốn thủ cựu thì làm sao đổi ra ý muốn tiến bộ được.

Nếu bảo như thế này thì nghe có lý hơn : « Điều kiện sinh hoạt (kinh tế) đã thay đổi, anh phải thay đổi nhân sinh quan của anh, trong đó có thái độ về phụ nữ giải phóng ».

Nhân sinh quan do nền móng kinh tế và sự tiến hóa khách quan của lịch sử xã hội mà ra. Cho nên nhân sinh quan không thể thay đổi trong khi sinh hoạt chưa thay đổi.

Vì cho nhân sinh quan là gốc thành thử ông cho lý tưởng là mẹ của thiệt sự, và trước khi lý tưởng là mẹ của thiệt sự thì nó là con của thiệt sự. Lý tưởng nào không do thiệt sự, nghĩa là tiến hóa khách quan lịch sử và nền móng kinh tế không phải là ảo tưởng.

Phụ nữ giải phóng do tiến hóa khách quan của lịch sử và nền móng kinh tế, nên nó là một lý tưởng hết sức vững chắc và việc thực hành lý tưởng phụ nữ giải phóng là một việc gần đây chứ không phải xa năm mươi năm như ông đã nói đâu…

Hôm nay tôi xin tạm biệt độc giả và ông. Xin nhờ ông nói cho độc giả quí báo hiểu rằng quyển sách « Phê bình vấn đề phụ nữ » (Critique de la question féminine) không phải là bàn về vấn đề phụ nữ, mà dựa vào vấn đề phụ nữ để cống hiến cho độc giả, một cách còn đơn sơ, giản dị, một phương pháp để khảo cứu vấn đề phụ nữ, hay là các vấn đề xã hội khác. Thành thử, sách không hiến cho phụ nữ, mà cho các nhà nghiên cứu vấn đề phụ nữ…

Sau bài phản đối về lập trường khảo cứu của cô Nguyễn-thị-Chính, ông Phan-Khôi nhận thấy sự sai lầm của ông trong một vài nhận xét căn bản, nên ông đã viết ngay một lời bạt trong « Phụ nữ tân văn » số 162 (4-8-1932) để thanh minh cùng độc giả. Ông viết :

*

Trước khi chưa tiếp được bài trả lời này, thì tôi đã có thú nhận với một vị đồng sự trong tòa soạn rằng tôi có sự lầm lẫn trong hai bài báo vừa viết, luận về « Phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan » mà nhất là bài đầu.

Chẳng những tôi thấy mình lầm trong lúc thú nhận, mà tôi cũng đã thấy ngay trong lúc bài báo vừa lên khuôn, người ta đưa cho tôi sửa chữa và coi đi coi lại.

Trong khi đó tôi nhìn thấy những chữ « sự tiến hóa của lịch sử » và nhất là tôi toan đem lịch sử ra làm chứng, thì tôi cũng đã biết cái nhân sinh quan thay đổi là do nguồn gốc kinh tế mà ra, nhưng tại sao tôi còn đem cái nhân sinh quan lập riêng ra một cái gốc khác làm chi ?

Biết vậy rồi, song giờ báo phát hành gấp quá, không thể sửa được, và cũng không thể bỏ bài ấy mà không cho ra được. Tôi bàn định cứ ra, rồi sau sẽ viết bài khác cải chính. Làm vậy, tôi tưởng cũng vô hại, là vì trong đó tôi có lầm một chút, nhưng cái sự đổi nhân sinh quan thì là sự thật trên lịch sử, và cũng là sự rất cần yếu cho những người nghiên cứu vấn đề phụ nữ.

Nay có bài trả lời, giải rõ nhân sinh quan không phải là gốc, chính là hợp với cái ý của tôi sau khi tỉnh ngộ. Vậy tôi để mấy lời này ở đây cám ơn tác giả và tôi không phải viết bài cải chánh nữa.

5Tuyển tập ca dao tiêu biểu

- « Anh đừng chê thiếp xấu xa,

Bởi chưng bác mẹ sinh ra thế này ».

- « Anh trông thân thể tôi này,

Có ăn, có mặc nó bày ra đây ».

- « Anh đánh thì tôi chịu đòn,

Tính tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa ».

- « Anh này có tính hoang đàng,

Rượu chè, cờ bạc làm ngang không chừa ».

- « Anh này rõ khéo làm ăn,

Đi cày chẳng biết, chít khăn mượn người ».

- « Anh này số phận ra trò,

Về nhà, cả cạo, cả mò trong niêu ».

- « Anh hùng gì, anh hùng rơm,

Tôi cho nắm lửa hết cơn anh hùng ».

- « Áo anh đứt cúc, đứt khuy,

Quần anh đứt đũng lấy chi hoa hòe ? »

- « Ăn chanh ngồi gốc cây chanh,

Lấy anh thì lấy, về Thanh không về ».

- « Ăn chanh ngồi gốc cây chanh,

Bác mẹ ép gả cho anh học trò ».

- « Ăn sung ngồi gốc cây sung,

Lấy anh thì lấy, nằm chung không nằm ».

- « Ăn thì ăn những miếng ngon,

Làm thì chọn việc cỏn con mà làm ».

- « Ăn no rồi lại nằm quèo,

Thấy giục trống chèo, bế bụng đi xem ».

- « Ăn xin cho đáng ăn xin,

Lấy chồng cho đáng bù nhìn giữ dưa ».

- « Có ai thêm bận về ai,

Không ai, giường rộng, chiếu dài dễ xoay ».

- « Có ai nước cũng đứng bờ,

Không ai nước cũng đứng cơ mực này ».

- « Con sóc mày trèo cây nho,

Anh kia không vợ hay mò đi đêm ».

- « Chê chồng, rồi lại chồng chê,

Tôi ăn cho béo, tôi về nhà tôi ».

- « Chính chuyên, lấy được chín chồng,

Vò viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi ».

- « Không ngờ quang đứt, lọ rơi,

Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng ».

- « Chính chuyên, lấy được chín chồng,

Ba chồng Thành Lạng, ba chồng Thành Cao.

Ba chồng để ngọn sông Đào,

Trở về đóng cửa làm cao chưa chồng ».

- « Chồng lộng, chồng cà,

Bí đao bí đỏ,

Mày ngồi đầu ngõ,

Mày nhặt lông gà,

Mày cày ruộng ấu,

Mày giấu tay nào,

Mày giấu tay này… »

- « Chồng em vừa xấu vừa đen,

Vừa kém nhan sắc, vừa hèn chân đi.

Chồng em rỗ sứt, rỗ sì,

Chân đi chữ bát, mắt thì ngưỡng thiên :

Bao giờ vào đám tháng giêng,

Bắt chồng em đến khiêng chiêng cho làng ».

- « Chồng gì anh, vợ gì tôi ?

Chẳng qua là cái nợ đời chi đây.

Mỗi người một nợ cầm tay,

Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng ».

- « Chồng khôn thì nổi cơ đồ,

Chồng dại, luống tổn công phu nhọc mình ».

- « Chồng ăn chả, vợ ăn nem,

Đứa ở có thèm, mua thịt mà ăn ».

- « Chồng đánh bạc, vợ đánh bài,

Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng ».

- « Chồng con là cái nợ nần,

Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm ».

- « Chữ « trinh » đáng giá nghìn vàng,

Từ anh chồng cũ đến chàng là năm,

Còn như yêu vụng dấu thầm,

Họp chợ trên bụng đến trăm con người ».

- « Đàn ông tính khí loang toàng,

Đàn bà con gái giữ giàng nết na.

Phòng khi nó bỏ tay ra,

Nín đi thì dại, nói ra mang điều ».

- « Đàn ông năm bảy đàn ông,

Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha ».

- « Đàn ông một trăm lá gan,

Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người ».

- « Đàn ông năm bảy đàn ông,

Vợ dặn mua hồng, đi mua cậy con ».

- « Đêm nằm nghĩ lại mà coi,

Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà ».

- « Giận chồng mà chẳng bế con,

Cha mày làm mất cái dòn mẹ đi ».

- « Gió nồm là gió nồm nam,

Trách chàng quân tử ăn tham không chào ».

- « Hai tay cầm hai quả hồng,

Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.

Nằm đêm vuốt bụng thở dài,

Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều ».

- « Hẩm duyên lấy phải chồng đần,

Có trăm mẫu ruộng bán dần mà ăn ».

- « Học trò đi học đã về,

Cơm canh chưa nấu lại trề môi ra ».

- « Học trò thò lò mũi xanh,

Cầm miếng bánh đúc chạy quanh nhà thầy ».

- « Khôn ngoan cũng thể đàn bà,

Dẫu mà vụng dại cũng là đàn ông ! »

- « Làm trai rửa bát, quét nhà,

Vợ gọi thì dạ : Bẩm bà tôi đây ».

- « Làm trai cho đáng nên trai,

Ăn cơm với vợ lại nài vét niêu ».

- « Làm trai cho đáng nên trai,

Một trăm bữa cỗ chẳng sai bữa nào ».

- « Lấy chồng ăn những của chồng,

Ăn hết con mắt khoét lòng con ngươi ».

- « Nước sông còn đỏ như vang,

Nhiều nơi lịch sự hơn chàng, chàng ơi ! »

- « Ngẩn ngơ như chú bán gà,

Tiền rưởi chẳng bán, bán ba mươi đồng ».

- « Ngỡ rằng cây cả bóng cao,

Thiếp lăn mình vào phơi nắng cùng mưa ».

- « Ngỡ rằng ông thử, ông thương,

Ai ngờ ông thử trăm đường ông thôi ».

- « Sông bao nhiêu nước cũng vừa,

Trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng ».

- « Tam-hoàng Ngũ-đế chi thư,

Có anh mất vợ ngồi thừ mặt ra ».

- « Tôi đà biết tính chồng tôi,

Cơm no thì nước, nước thôi thì trầu ».

- « Thôi thôi tôi biết anh rồi,

Anh hút thuốc phiện cái môi thâm sì ».

- « Trồng tre trở gốc lên trời,

Con chị qua đời rồi tới con em ».

- « Trời làm một trận phong ba,

Chồng tôi như đứa bán gà chợ phiên ».

c) Nỗi khổ cực trong sinh hoạt gia đình bình dân

Người bình dân xưa nay được gọi là lao động, tức là lớp người đem sức mình ra làm lụng hàng ngày, dùng mồ hôi đổi lấy bát cơm. Bởi vậy khi nói đến những khổ cực của họ, chúng ta không thể nào nói hết ra được.

Đã là người bình dân thì không riêng gì nước Việt-Nam ta, mà ngay cả các nước tân tiến trên thế giới, họ vẫn phải chịu một cuộc sống kham khổ.

Chúng tôi tưởng cũng nên nhắc lại ở đây một lần nữa hình bóng của người bình dân qua sự diễn tả của văn hào Jules Vallès do ông Thiếu Sơn trích dịch trong « Tiểu thuyết thứ bảy » (số 43 ngày 13-3-1935) :

*

Người kia da thịt như thú, đội nón như kẻ chết treo, bị nước mưa tưới lạnh, bị hơi nóng hun đốt, đứng ở đầu xe lửa cản gió, nuốt tuyết, hoặc làm người coi máy, hoặc làm kẻ đốt than, đó là bình dân.

Con vật kia ở ngoài đồng ruộng, dựng đứng cái xương sống gầy mòn, vươn cái cổ gầy mà những thớ thịt nổi lên như những sợi dây, đem con mắt mờ tối để nhìn toa xe đang chạy, da sạm như cái lá nho, hay trắng toẹt như một cây cải, đó là bình dân.

Kẻ kia râu xồm xoàm, vai rộng lớn, nón màu hắc ín, ở trên sông đang bình thản thả bè gỗ trôi xuôi, chìm ngập giữa khoảng trời nước, anh lái đò ướt tới bụng, lạnh tới tim, chính là bình dân.

Anh thợ kia mang đèn lên trán, chui qua hầm than cháy mà bữa nọ chôn sống mất mười giờ ở dưới một cái mỏ sập. Người ta chỉ thấy anh bằng một cặp mắt trắng trong một cái lỗ tối đen, chính là bình dân.

Người thợ lợp ngói từ trên mái nhà ngã xuống như một con chim chết. Người thợ thổi kính mà sự sống như trộn lẫn vào với thủy tinh trong lò than hồng. Người thợ tiện mà bụi hồng làm ngạt thở. Người thợ vẽ mà thuốc độc trong màu cắn hại. Người làm bánh da xanh như bột mì… hết thảy đều là người bình dân.

Hạng người anh hùng và khốn khổ, chịu đựng được với đủ cả mọi việc, chống lại với nước, với gió, với đất, với lửa, chính những hạng người mà chúng ta cần phải nói tới.

Qua đoạn văn ngắn ngủi này, chúng ta đủ thấy trạng thái sinh hoạt của người bình dân khổ cực đến mức nào. Tuy nhiên, đó chỉ mới đề cập cái khổ cực của người dân trong các nước tân tiến về kỹ nghệ. Nước Việt-Nam chúng ta là nước nông nghiệp, dưới chế độ phong kiến, cái khổ cực trong sinh hoạt gia đình bình dân dĩ nhiên có nhiều điểm khác biệt.

Đứng khách quan, trước đây ông Toan-Ánh trong quyển « Làng xóm Việt-Nam » đã có khái niệm dân chúng làng quê Việt-Nam chia làm bốn giai cấp : sĩ, nông, công, thương. Mỗi giai cấp sống theo một nếp sống khắc khổ riêng biệt. Theo ông :

*

Người dân quê rất hay làm, ham công tiếc việc, sợ phí thì giờ, nhất là khi vì sinh kế họ lại càng chịu khó, chịu vất vả dầm mưa dãi gió, cốt sao kiếm được miếng ăn để nuôi gia đình. Hàng ngày từ sáng sớm, trời vừa rạng đông, tiếng gà gáy còn đang liên tiếp đối đáp với nhau từ sân nhà này sang sân nhà khác, người dân quê đã dậy để lo công việc của mình, tuy sương đêm còn đang xuống, gió đêm còn chưa bớt lạnh. Họ dậy, người nào lo việc ấy. Nhà nông lo việc nhà nông, người đi chợ lo sửa gánh hàng, người làm thợ lo sắp lại đồ nghề, và kẻ sĩ cũng lo tới văn bài của mình.

1) Gia đình nhà nông

Nhà nông, bà vợ hay cô con gái, trên giường bước xuống đất, lau qua mặt mũi, súc miệng bằng hớp nước lạnh, lại vội vàng lo ngay bữa sáng để chồng, anh hoặc cha, và các thợ cày, thợ cấy ăn sớm, còn ra đồng làm việc. Nào là lấy gạo, nào vo gạo, nào nhóm bếp thổi cơm, nấu thức ăn, tuy thức ăn chỉ đơn sơ rau cà, hoặc nắm đậu.

Các nông phu sau buổi cơm sáng, ăn rất vội vàng, cốt cho no bụng để lấy sức làm việc đến trưa, người dắt trâu vác cày, người vác cuốc, người mang bừa, mang cào, mang dao phát bờ, tùy từng công việc mỗi ngày cùng nhau ra đồng. Họ gọi nhau ơi ới ! Sự hoạt động trong làng bắt đầu ngay từ lúc tinh mơ với tiếng gọi nhà này, tiếng ầm ĩ trong nhà khác. Không phải riêng gì đàn ông, cả đàn bà cũng lo sửa soạn ra đồng sau bữa ăn với công việc của mình.

Hôm ấy ngày nhổ mạ ư ? Các bà các cô mang sẵn quang gánh, lạt để sau khi mạ đã nhổ rồi, bó thành từng bó.

Hôm đó là ngày cấy lúa ư ? Các bà các cô gánh mạ ra đồng.

Hôm ấy là ngày nhổ cỏ ư ? Các bà các cô bước ra đi với chiếc bồ cào trên vai.

Hoặc là ngày vãi phân thì các bà các cô gánh những gánh đầy phân tro ra đồng.

Dù với công việc gì, các bà các cô cũng vui vẻ lo việc của mình, mùa nực cũng như mùa rét.

Còn đàn ông công việc đồng áng còn vất vả hơn. Cày vỡ ruộng, phát bờ, đập đất. Lại còn việc tát nước khai mương v.v…

…Trên đây tôi nói đến công việc nhà nông, nhưng chỉ mới nói tới những người làm ruộng, cấy lúa. Công việc nhà nông còn phải kể cả những người trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, kéo kén mà công việc nầy phần lớn là do các bà các cô đảm nhiệm cũng rất vất vả, phần nặng nhọc còn hơn cả những người làm ruộng…

2) Gia đình thợ thuyền

Người làm thợ sáng dậy sửa soạn đồ nghề, lo bữa cơm sáng rồi đi nhận công việc để làm suốt ngày. Có khi họ phải dậy sớm hơn nhà nông, vì công việc họ nhận được không phải ở ngay trong làng, mà là ở làng bên cạnh, cách xa làng mình ít nhất cũng vài ba cây số là thường.

…Họ cũng làm việc suốt ngày, tùy theo nghề, ở trong nhà hoặc ngoài trời.

Thợ thuyền phần nhiều là đàn ông, duy chỉ có thợ may, một số ít là phụ nữ, và thiểu số này thường đi nhận việc khâu vá ngay trong xã.

Việc làm ăn của họ tuy đầu tắt mặt tối, song « nhất nghệ tinh, nhất thân vinh » dù không sung túc, họ cũng không sống nhờ vào kẻ khác.

3) Gia đình buôn bán

Đúng như nhận xét của sử gia Trần Trọng Kim, việc buôn bán nước ta xưa kia còn kém cỏi lắm…

Vì buôn bán nhỏ, không khuếch trương thương nghiệp như các thương gia tại đô thị ngày nay, nên những người buôn bán ở vùng quê thật vất vả và cực nhọc không kém thợ thuyền, hay những nông dân cày sâu cuốc bẫm.

Cũng như những người khác trong làng, những người buôn bán thường là đàn bà phải dậy sớm theo tiếng gà gáy…

Dù đi chợ nào, bất cứ người phụ nữ nào, quê ở xã nào, đã buôn bán, nhất là buôn thúng bán mẹt đều phải đầu tắt mặt tối vất vả mới kiếm được đủ ăn, đủ lo cho gia đình, đủ đóng góp với làng xã cho chồng con…

*

Riêng gia đình kẻ sĩ thì sống nhàn nhã, bởi vì họ là lớp người giàu có, chỉ lo học hành, làm thầy đồ hoặc tham gia guồng máy cai trị của xã thôn. Họ không có tính chất bình dân, tuy vẫn là dân làng.

Qua tài liệu lược dẫn của ông Toan-Ánh, chúng tôi thấy đó chỉ là những hình bóng mô tả một cách đại cương về sinh hoạt thôn quê. Cái khổ cực của người bình dân trong sinh hoạt gia đình nếu đi sâu vào thực chất chúng ta có thể chia ra làm hai phần : phần tinh thần và phần thể chất.

Phần tinh thần đối với người đàn ông là việc áp chế của guồng máy phong kiến. Người bình dân chẳng những sống riêng cho họ mà còn phải sống cho kẻ khác.

Một hồi mõ nổi lên trong đêm khuya, dù sương sa gió lạnh, họ cũng phải rời bỏ bếp lửa ấm êm để vác gậy ra nắm nơi điểm canh đầu làng.

Một con đường hư cần được tu bổ để đón rước, các vị quan lớn đi hành hạt, chính họ là những người phải bỏ sức ra vun đắp.

Nếu trong làng cần một số dân đinh để dùng vào việc công ích, chính họ là người được lựa chọn đầu tiên. Những công việc làm xâu, bắt công nhân tuy ảnh hưởng đến sinh hoạt riêng cho gia đình họ, song chưa khổ tâm bằng những nhục nhã trong các trường hợp họ bị viên chức trong làng luôn luôn bắt nạt mà lúc nào họ cũng phải cúi đầu cam phận.

Còn đối với người đàn bà trong gia đình thì cái khổ về tinh thần là sự lệ thuộc vào chế độ phụ hệ mà chúng ta đã nói đến ở phần trước.

Ngoài cái khổ về tinh thần, chúng ta phải đề cập cảnh nghèo đói thường xuyên đe dọa họ. Họ cũng vẫn là con người, có đủ tâm hồn và ưu tư, họ vẫn ước vọng những an nhàn, ấm no, sung túc như kẻ khác, tại sao họ cam đành gánh chịu những gian nguy khổ sở. Chẳng qua vì hoàn cảnh nghèo đói bắt con người họ phải dấn thân vào cực nhọc.

Đây, nhà thơ Bàng-Bá-Lân đã cảm thông được nỗi cực nhọc vô bờ bến của họ qua bài… :

« Người trâu »

Trời xám thấp. Rặng tre già trút lá.

Đầy ngõ thôn hun hút gió chiều đông.

Sương mù bay phơi phới tỏa đầy đồng,

Hơi lạnh cắn vào làn da cóng buốt.

Trong thửa ruộng chân đê tràn ngập nước,

Đôi bóng người đang chậm bước đi đi…

Người đàn ông cúi rạp bước lầm lì,

Người vợ cố đẩy bừa theo sát gót.

Họ là những nông phu nghèo bậc chót,

Không có trâu nên người phải làm… trâu.

Họ bừa ngầm một thửa ruộng chiêm sâu.

Nước đến bụng, ôi, rét càng thêm rét !

Áo rách tướp, hở ra từng mảng thịt

Tím bầm đen trong gió lạnh căm căm.

Hì hục làm, thỉnh thoảng lại dừng chân,

Véo và ném lên mặt đường từng vốc…

Nhác trông ngỡ là nắm bùn hay nắm đất

Nhìn lại xem ! Ô, đống đỉa đen sì !…

Ta rùng mình, quay mặt bước chân đi,

Lòng tê tái một mối sầu u ám,

Trời càng thấp, tầng mây chì càng xám,

Mưa phùn gieo ảm đạm khắp đồng quê.

Gió chiều nay, sao lạnh buốt lê thê ?

(Đôn thư, 1954)

Nhìn qua một khía cạnh khác, cũng trong hoàn cảnh khổ sở của người bình dân, ông Hoa-Bằng tìm trong tính chất cần lao của họ, một tinh thần cao quý mà ông gọi là « đức hy sinh ».

Nhưng tại sao sự hy sinh trong gian khổ của họ được ông Hoa-Bằng gọi là « Đức ».

Trước nhất, chúng ta nên hiểu chữ « đức » theo quan niệm của ông Hoa-Bằng là một yếu tố tự lực và vị tha. Người xưa khi quan niệm về « Đức » đã nói : « Đức giả đắc dã ». (Tìm cái đức là đi tìm cái đạt được vậy). Thế thì con người được cái gì và mất cái gì ?

Theo ý nghĩa này, người xưa đã giải thích :

« Con người sinh ra phần nhiều lệ thuộc vào bản năng dục vọng, cứ muốn thu thập cho nhiều để hưởng thụ, mà thật ra họ càng thu thập càng bị mất mát, bởi vì họ gieo vào lòng đời những đắng cay, bất mãn. Chỉ có những người biết cho kẻ khác thì sự cho ấy mới tồn tại vĩnh cửu… »

Với quan niệm này, ông Hoa-Bằng đã viết ra một thiên khảo sát những khổ cực của người bình dân trong sinh hoạt gia đình. Chúng tôi xin lược trích ra đây để có thêm một chiều hướng nhận định :

*

Phải làm đổ mồ hôi trán mới có cái ăn. Dân Việt-Nam từ xưa, vẫn thực hành được đúng như câu Kinh Thánh ấy. Bao giờ cũng hăng hái làm việc, tự trông nơi mình, chứ không hy vọng vào ai, ỷ lại vào sức nào, dù phải trải qua hai sương, một nắng, ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh, rồi cũng đi đến thành công, hái được kết quả tốt đẹp : Có công mài sắt có ngày nên kim.

Với tấm thân cứng cáp, rắn rỏi, chịu đựng, lăn lộn, người bình dân bao giờ cũng chăm chỉ, siêng năng, sốt sắng hoạt động, không hề khuất phục dưới sức bức bách đe dọa của sương lạnh buốt, của rét căm căm, mưa phũ phàng, nắng nung nấu…

« Cấy đồng giữa buổi đang trưa,

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày !

… … …

Trời mưa thì mặc trời mưa,

Chồng tôi đi bừa đã có áo tơi ».

Và : « Chớ thấy sóng cả mà lo,

Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng ».

Lại như : « Trời mưa trời gió đùng đùng,

Cha con ông Sùng đi gánh phân trâu.

Đem về trồng bí, trồng bầu,

Trồng hoa, trồng quả, trồng trầu, trồng cau ».

Đức tính cần lao ấy được tiêu biểu rất rõ rệt ở đám bình dân là hạng người « cơ bản » của nước Việt-Nam mấy nghìn năm căn bản này.

Đối với nông dân, chính Tôn-Trung-Sơn tiên-sinh đã phải thừa nhận : Trong xã hội chia làm bốn hạng người : sĩ, nông, công, thương. So sánh trong bốn hạng người ấy thì nông dân là hạng cay đắng hơn hết, được ít quyền lợi hơn hết và phải gánh nghĩa vụ quốc gia nặng nề hơn hết… 15

Nay muốn rõ cái đời cần lao của nông dân, ta phải nhìn thẳng vào những bàn tay lấm đất, cổ chân ngâm bùn khi họ cày mây, cuốc nguyệt. Tiêu ngữ của họ là :

« Có khó mới có miếng ăn,

Ngồi không, ai dễ mang phần đến cho ».

Họ hết sức mỉa mai những kẻ hay ăn, hay ngủ, hay « hành lạc », không chịu làm việc cần lao.

« Giàu đâu những kẻ ngủ trưa,

Có đâu những kẻ say sưa tối ngày ! »

Hoặc : « Ăn như rồng cuốn,

Nói như rồng leo,

Làm như mèo mửa ».

(Tục ngữ)

Hoặc : « Ăn thì ăn những miếng ngon,

Làm thì chọn việc cỏn con mà làm ».

Và : « Ăn no rồi lại nằm quèo,

Thấy giục trống chèo bế bụng đi xem ».

Họ lại cực lực bài xích những người lười biếng, gởi hy vọng vào « gốc cây sung », hòng kiếm miếng ăn trong sự ưa may, hú họa. Ăn xong còn làm những chuyện bừa bãi, lung tung, vô ý thức và bội bạc :

« Ăn sung ngồi gốc cây sung,

Ăn rồi lại ném tứ tung ngũ hoành ! »

Họ bao giờ cũng muốn được việc khi gặp thời cơ, nên thường lo trước, trông xa, sẵn sàng chuẩn bị. Như vậy đối với những việc thình lình xảy đến, họ có điều kiện để ứng phó, không đến nỗi bối rối, lỡ làng. Vì thế họ thường chê trách những kẻ không dự bị làm việc :

« Ngồi rồi sao chẳng xe gai,

Đến khi có cá mượn chài ai cho ? »

Đây, chúng ta thử nhìn sơ qua thủ tục làm việc canh nông trong một năm. Ngoài hai vụ cày cấy là công việc chính, nhà nông còn làm mầu thêm, đến nỗi « hòn đất không kịp trở mình » :

« Tháng chạp là tiết trồng khoai,

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.

Tháng ba cày vỡ ruộng ra… »

Bấy giờ mới làm đến việc cơ bản :

« …Tháng tư đi tậu trâu bò,

Để cho ta lại làm mùa tháng năm.

Sớm ngày đem lúa ra ngâm,

Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.

Gánh đi, ta ném ruộng ra,

Đến khi lên mạ thì ta nhổ về ;

Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,

Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.

Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,

Nước ruộng vơi đầy còn độ một hai.

Ruộng cao đóng một gàu giai,

Ruộng thấp thì phải đóng hai gàu sòng.

Chờ cho lúa có đòng đòng,

Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.

Bao giờ cho đến tháng mười,

Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.

Gặt hái, ta đem về nhà,

Phơi khô, quạt sạch, mới là xong công ».

*

Đó là tóm lược công việc cần lao của nông dân từ lúc tậu trâu bò để làm ruộng cho đến lúc được rơm lên đống, thóc đổ bồ, kể đã tốn bao công trình vất vả. Những cảnh ấy dường như một bức tranh sống động, miêu tả cuộc sinh hoạt của hạng người cần lao ở thôn quê…

Nông dân Việt-Nam tuy vui lòng chịu chân lấm tay bùn, làm nguồn sống cho dân tộc, làm sức sản xuất mãnh liệt trong mấy nghìn năm nay, nhưng lúc nào họ cũng chịu sự đàn áp, bất công, và chẳng bao giờ họ được đền bù xứng đáng. Họ chỉ có bổn phận gánh vác nghĩa vụ mà không có quyền đòi hỏi quyền lợi. Bởi vậy, trong khổ cực, họ luôn luôn bày tỏ nguyện vọng bằng các « tiêu ngữ » như :

« Ăn cho đều, kêu cho sẳng ».

Và, trước hiện tượng kẻ nhàn, người nhọc, kẻ sướng, người khổ, họ đã nảy ý so sánh :

« Anh thì quần áo rong chơi,

Để em đi cấy, bồ hôi ướt đầm ! »

Hoặc : « Người thì mớ bảy mớ ba,

Người thì áo rách như là áo tơi ! »

Nghề nghiệp sinh sống hàng ngày của người bình dân rất quan hệ đến tình trạng sinh hoạt gia đình. Bởi vậy, khi chúng ta muốn nói đến nỗi khổ cực của gia đình bình dân không thể tách rời nghề nghiệp sinh sống của họ. Bài khảo cứu trên đây, ông Hoa-Bằng đã lấy cái khổ cực trong nguồn sống bình dân chứng minh vào tình trạng sinh sống gia đình.

Thực vậy, nếu chúng ta quan niệm gia đình là cơ sở xã hội thì những ảnh hưởng xã-hội chi phối vào mọi gia đình bằng trạng thái tương quan không thể chia cắt.

Cùng với quan niệm cho sinh hoạt gia đình bình dân chứa đựng nhiều khổ cực nhất, cô Bửu-Anh trong tập « Bạn gái trong ca dao » cũng đã mô tả bằng một khía cạnh khác – khía cạnh của người phụ nữ trong sinh hoạt gia đình.

Theo phong tục Á-đông, người đàn bà có một trách nhiệm lớn lao đối với gia đình. Chính người đàn bà mới là hình bóng đích thực phản ảnh những nỗi buồn vui, cay đắng có liên hệ từ sinh hoạt xã hội đến sinh hoạt gia đình. Cho nên khi nói đến sinh hoạt gia đình chúng ta không thể không lưu tâm đến người đàn bà mà cô Bửu-Anh đã dành riêng cho họ một thiên khảo cứu.

Chúng tôi xin lược dẫn ra đây để chứng minh điều quan trọng ấy. Theo cô Bửu-Anh :

*

Phụ nữ luôn luôn chỉ biết nhiệm vụ là làm người con thảo, người vợ hiền, người mẹ giỏi và người dân lành. Mặc cho bao sự thiệt thòi, mặc cho tình đời đen bạc, họ vẫn không quên phận sự mình, một phận sự vô cùng quan trọng. Lúc còn bé nhỏ, họ đã giúp ích cho cha mẹ bằng cách làm những công việc nhẹ nhàng. Trong lúc cha mẹ bận việc, họ có thể giữ em, ru em ngủ bằng những câu hát ngây thơ, duyên dáng ! Lớn lên một chút, họ có thể hái rau, cắt cỏ quay tơ, nuôi heo, nuôi tằm, v.v… Chính những khổ cực ấy người con gái lớn lên đã thấy tự mình có thể giúp ích gia đình :

« Má ơi ! đừng đánh con đau,

Để con bắt ốc, hái rau má nhờ ! »

Hoặc : « Mẹ ơi đừng đánh con đau,

Để con quay tơ đánh ống làm giàu mẹ coi ! »

Người con gái lớn lên chẳng những giúp việc cho gia đình, mà còn để tâm đến công việc đồng áng nữa :

« Bao giờ cho đến tháng hai,

Con gái làm cỏ, con trai be bờ ».

Đến lúc có gia đình, người con gái lại tận tâm, tận lực giúp đỡ chồng trong việc làm ăn. Sau buổi cày bừa khó nhọc, người nông dân thả trâu lên ngồi nghỉ mệt trên bờ ruộng, núp nắng dưới cây đa và ngắm vợ mình đang lom khom cấy thửa ruộng vừa mới bừa xong :

« Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa ».

Hai bàn tay đen giòn cứ thoăn thoắt cắm xuống rút lên, không mấy chốc thửa ruộng đục ngầu đã trở thành tấm khảm xanh non mơn mởn, gợn từ hồi theo cơn gió nhẹ đưa. Tuy nhiên, công việc này, lắm khi cũng nhọc nhằn, vất vả :

« Cấy đồng giữa buổi đang trưa,

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

Nhác trông sao đẩu về đông,

Chị em ra sức cho xong ruộng này.

Lấm lem tay cắm chân giày,

Hãy trồng cây ngọc, có ngày hữu thu ».

Phải tốn bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu công khó, phải chân lấm tay bùn, để rồi họ van vái :

« Trời mưa cho lúa chín vàng,

Cho anh đi gặt, cho nàng đem cơm ».

Và những khóm mạ xanh mơn mởn cứ cao dần, cao dần, màu xanh lơ biến thành màu xanh thẫm. Rồi những gié lúa nặng trĩu bắt đầu trổ vàng, một màu vàng óng ả. Đây mùa gặt tới ! Trên con đường đất gồ ghề, bóng người vợ hiền đi nhanh nhẩu : họ mang cơm nước đến cho chồng, hai má đỏ hồng hồng vì trời nắng gắt ! Gặt hái xong xuôi, cánh đồng mênh mông trở nên đìu hiu, cô quạnh ! Người đàn bà lại trở về với gia đình, dưới túp lều tranh cũ kỹ, tiếp tục lo việc bếp núc, vá may :

« Ai kêu ai hú bên sông,

Tôi đang nấu nướng cho chồng tôi ăn.

Đốt than nướng cá cho vàng,

Dành tiền mua rượu cho chàng uống chơi.

Áo anh rách lỗ bằng sàng,

Mẹ anh già yếu cậy nàng vá may ».

Họ còn lo việc tằm tang, quay tơ dệt cửi để giúp nền kinh tế gia đình nữa :

« Trời mưa lác đác ruộng dâu,

Cái nón đội đầu, cái thúng cầm tay.

Bước chân xuống hái dâu này,

Nuôi cho tằm lớn, mong ngày ươm tơ.

Sáng trăng trải chiếu ngang hai hàng,

Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ ».

Hoặc : « Uốn tay cho mềm, dệt cửi cho ngoan,

Lấy tiền ta đóng việc quan cho chồng ! »

Họ tự luyện tập, đảm đang trong việc bếp núc, giỏi giắn trong việc nông tang để phòng khi túng cùng, thiếu hụt, họ có sẵn nghề nghiệp sinh nhai :

« Nào nghề bánh trái những là,

Đến khi kỵ chạp trong nhà càng hay.

Bán buôn, canh cửi kia thay,

Sanh nhai phải giữ trong tay một nghề.

Bây giờ chẳng liệu thì quê,

Mai sau cùng túng không nghề làm ăn ».

Đây là hoàn cảnh những người đủ ăn, còn những người hoặc quá nghèo nàn, hoặc vì sống ở nơi đồng chua nước mặn, họ phải chịu khó chịu cực mò từng con cua, bắt từng cái ốc, hay hái từng cọng rau :

« Vì chàng thiếp phải bắt cua,

Những như thân thiếp, thiếp mua ba đồng

Rủ nhau xuống biển mò cua,

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng ».

Hơn nữa, những nơi rừng núi chập chùng, việc sinh sống càng thêm vất vả :

« Một ngày ba bận trèo non,

Lấy gì mà đẹp mà giòn hỡi anh.

Một ngày ba bận trèo đèo,

Vì ai vú xếch lưng eo hỡi chàng ! »

Thật thế, sắc đẹp của người bình dân chóng phải tàn chỉ vì họ làm những công việc quá lao lực :

« Người ta chân giép, chân giày,

Em đây làm lụng cả ngày lấm chân ».

Tuy nhiên, không vì vậy mà họ xao lãng phận sự. Tánh siêng năng cần mẫn, người con gái lúc nào cũng đặt cho mình một trách nhiệm lo lắng cho gia đình :

« Cảm thương con gái dường bao,

Đêm khuya thức dậy lao xao đâm bèo ».

Tâm hồn họ gắn liền với những vật dùng thường ngày :

« Giả ơn cái cối cái chày,

Nửa đêm gà gáy có mày có tao.

Giả ơn cái cọc bờ ao,

Nửa đêm gà gáy có tao có mày ».

Dậy sớm làm việc vất vả suốt ngày, thế mà lúc màn đêm buông xuống, họ cũng tiếp tục làm. Những đêm trời trong trăng tỏ, bên lũy tre xanh tắm ánh trăng vàng, dưới hàng cau cao vun vút, tiếng chày giã gạo cứ nện đều đều, hòa với tiếng gió đưa xào xạc trong hàng dừa, bụi chuối :

« Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,

Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già ».

Và, văng vẳng từ xa vọng lại, một câu hò rất nên thơ :

« Hỡi cô tát nước bên đàng,

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.

Hay một câu hát mỉa mai, cay đắng :

Sao ba đã đứng ngang đầu

Em còn ở mãi làm giàu cho cha.

Giàu thì chia bảy chia ba,

Phận em là gái được là bao nhiêu ».

Hưởng thì ít oi như thế, nhưng làm thì lại quá nhiều. Trong gia đình mà không có bóng người đàn bà thì mọi việc đều hư hỏng. Đây ta hãy nghe lời than thở rất chân thành của một nông dân chưa vợ :

« Sớm mai chạy mất cái cuốc,

Trưa lại mất cái nồi,

Chiều lại mất ông bình vôi !

Giậm chân ba tiếng kêu trời,

Vợ con không có, coi ngoài, mất trong ».

Dư biết bổn phận của họ thật là quan trọng, nên mặc cho bao sự bất công, phụ nữ thôn quê vẫn can đảm sống cuộc đời cần lao thanh khiết, ngạt ngào hương vị của cỏ nội mây ngàn.

Biết bao người vợ hiền sống lam lũ trong xó bếp âm u, biết bao tâm hồn hy sinh trong phận sự khiêm tốn, nào đã ai hay, đã được chế độ nào nâng đỡ, bên vực ? Họa chăng một vài tấm chồng từ ái đôi lúc cảm thương :

« Chim quyên xuống đất tha mồi,

Thấy em lao khổ đứng ngồi không yên ! »

*

Cùng với quan điểm cho người đàn bà là nòng cốt trong gia đình bình dân Việt-Nam, và mọi cực nhọc của họ hàng ngày phản ảnh cả tình trạng vật chất lẫn tinh thần, ông Phan-Khôi cũng đã viết một chương khảo luận về « Công khó của người đàn bà đối với gia đình » trong « Phụ nữ tân văn » số 18 ra ngày 16-12-1932. Theo Phan-Khôi :

Người con gái thuở xưa hễ lấy chồng là đã thấy khổ rồi. Công khó của họ trong gia đình thật đáng quí, thế mà từ xưa xã hội lại xem thường, xem khinh. Đây, chúng ta hãy nghe tâm trạng của họ đối với sự nghiệp nhà chồng :

« Có con phải khổ vì con,

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

Có con phải khổ vì con,

Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay.

Có chồng chẳng được đi đâu,

Có con chẳng được đứng lâu nửa giờ.

Cũng vì một chút con thơ,

Cho nên phải chịu nhớp nhơ trăm điều ».

Cái khổ ấy chỉ vì thương chồng, thương con mà ra :

« Mẹ cho bú mớm nâng niu,

Tội trời thì chịu, không yêu bằng chồng.

Con ông Đô-đốc, Quận-công,

Lấy chồng cũng phải kêu chồng bằng anh ».

Người đàn bà có chồng thì mong có con. Không có con thì lấy làm buồn rầu, than van :

« Có chồng mà chẳng có con,

Khác gì hoa nở trên non một mình.

Có võng mà không có đòn,

Có chồng mà chẳng có con mà bồng ».

Do lòng mong mỏi ấy, thành ra đến lúc có con thì vui lòng chịu khổ, chẳng còn quản đến thân mình vất vả nữa. Thật vậy, người đàn bà chịu trăm nghìn lao khổ, đầu tắt mặt tối, chỉ vì thương chồng thương con mà thôi. Song chứng minh theo phong dao thì phần vì chồng nặng hơn vì con :

« Vì chàng nên phải mua mâm,

Nếu như mình thiếp bóc ngầm cũng xong.

Vì chàng thiếp phải long đong,

Nếu như mình thiếp cũng xong một bề ».

Lúc có chồng rồi mới thấy cái khổ là đáo để. Bấy giờ nghĩ lại khi còn ở với mẹ cha, tuy là khổ, nhưng còn sướng hơn :

« Từ ngày còn ở với cha,

Cái nón tiền rưỡi, quai ba mươi đồng.

Đến khi bước về nhà chồng,

Cái nón sáu đồng mà buộc quai mo ».

Trên đây chỉ mới nói qua về cảnh ngộ của người đàn bà đối với chồng con. Ngoài ra những lớp người gặp cảnh ngộ riêng mà họ phải đảm đang gia đình bằng chính bàn tay họ, không nhờ đỡ. Nổi tiếng hơn hết là người đàn bà nuôi chồng ăn học, hoặc đảm đương việc nhà cho chồng đi lính.

Bây giờ cái thú vợ nuôi chồng ăn học hình như không còn nữa, nhưng thưở xưa thường có, mà nhiều nhất là ở xứ Bắc, vậy nên xã hội Việt-Nam ta phải truyền tụng những câu ca dao này :

« Em thời canh cửi trong nhà,

Nuôi anh ăn học, đăng khoa bảng vàng.

Trước là vinh hiển tông đường,

Bõ công đèn sách lưu phương đợi chờ.

Trái cau nho nhỏ, cái vỏ có vân,

Nay anh học gần, mai anh học xa.

Tiền gạo thì có mẹ cha,

Cái nghiên cái bút thật là của em.

Đôi bên bác mẹ cùng già,

Lấy anh hay chữ để mà cậy trông.

Mùa hè cho chí mùa đông,

Mùa nào thức ấy cho chồng đi thi.

Hết gạo thiếp lại gánh đi,

Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao.

Hỏi thăm đến chỗ thì vào,

Tay đặt gánh xuống, miệng chào : Thưa anh ! »

Những người lo nghề canh cửi kiếm tiền, mua gạo, quảy đến cho chồng, cái công tuy đáng khen, mà cái cảnh chưa thảm mấy. Đến như hạng bán rau giúp chồng lo đèn sách thì thật đáng kính phục, và đáng xót thương là chừng nào :

« Em là con gái Phụng-Thiên,

Bán rau mua bút, mua nghiên cho chồng.

Nữa mai chồng chiếm bảng đồng.

Bõ công tưới nước vun vồng cho rau ».

Xưa kia, đi lính là đi đánh giặc, là đem thân đến chỗ chết, nên người nào gặp phải chồng đi lính thì coi như gặp cái cảnh sinh ly, mà tử biệt cũng chưa biết chừng. Bởi vậy, họ rất đau khổ trước mối sợ hãi đáng thương ấy :

« Con chuột mắc bẫy bởi gốc tre già,

Chồng đi lính, vợ ở nhà khóc hi… hi…

Trời ơi sinh giặc làm chi,

Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường ».

Sự than thở đó là cả nỗi khổ cực của cuộc sống gia đình. Tuy nhiên, nếu cần phải đem thân bảo vệ quốc gia trong sự hy sinh nào đó, người đàn bà vẫn can đảm khuyên chồng ra gánh trách nhiệm và người đàn bà tự nguyện gánh lấy bổn phận đối với gia đình. Đọc những cây này, chúng ta hồi tưởng đến tinh thần thượng võ của người dân Việt-Nam thuở xưa đã ngấm ngầm vào đầu óc người đàn bà :

« Tổ tiên để lại em thờ,

Anh ra ngoài ải cầm cờ theo vua.

Chàng ơi, trẩy sớm hay trưa,

Để em gánh gạo tiễn đưa hành trình.

Thân này đã đến tháng sinh,

Em ở một mình nương tựa vào ai ?

Rồi ra sinh gái, sinh trai,

Sớm khuya mưa nắng lấy ai bạn cùng ?

Sinh gái thì em gả chồng,

Sinh trai lấy vợ mặc lòng thiếp lo,

Anh ơi phải lính thời đi,

Cửa nhà đơn chiếc đã thì có em.

Lính vua, lính chúa, lính làng,

Nhà vua bắt lính cho chàng phải ra.

Giá vua bắt lính đàn bà,

Để em đi đỡ anh vài bốn năm ».

Ngoài hai hạng vợ học trò, vợ lính, lại còn có những người đàn bà vắng chồng, ở nhà một mình lo làm ăn thay thế mọi việc cho chồng :

« Anh đi em ở lại nhà,

Hai vai gánh nặng mẹ già, con thơ.

Lầm than bao quản nắng mưa,

Anh ơi, anh liệu tranh đua với đời ».

*

Để kết luận phần này, chúng tôi tưởng qua các bài lược khảo của những học giả tiền bối đã cho chúng ta thấy rõ cái khổ cực trong tính chất sinh hoạt gia đình Việt-Nam của lớp người bình dân.

Chúng tôi chỉ nêu ở đây một vài ý chính.

Sinh hoạt gia đình bình dân bị chi phối vào nền móng kinh tế và chính trị của mỗi thời, mà người bình dân luôn luôn phải vươn lên, bằng cách đem sức lao động và tinh thần tự lực tự cường chống lại mọi gian lao trong đời sống họ.

Quan niệm gia đình đối với họ cũng chỉ là quan niệm tương thân tương ái và gạt bỏ mọi tính chất cực đoan, để ước vọng một đời sống bình thản trong sự điều hòa giữa thiên nhiên và cơ cấu tổ chức xã hội.

*

(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu

1. « Ai đem em đến chốn này,

Thức khuya dậy sớm mắt cay như gừng ».

2. « Ai đem ta đến chốn này,

Bên kia thì núi, bên này thì sông ».

3. « Ai ơi chồng dữ thì lo,

Mẹ chồng mà dữ mổ bò mà ăn ».

4. « Anh về hái đậu chảy cà,

Để em đi chợ, kẻo mà lỡ phiên.

Chợ lỡ phiên, tốn công thiệt của,

Miệng tiếng người cười rõ sao nên.

Lấy chồng phải gánh giang sơn,

Chợ phiên còn lỡ, giang sơn còn gì ».

5. « Anh đi, em ở lại nhà,

Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.

Lầm than bao quản muối dưa,

Anh đi, anh liệu chen đua với đời ».

6. « Anh ơi phải lính thì đi,

Cửa nhà đơn chiếc đã thì có em.

Tháng chạp là tiết trồng khoai,

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.

Tháng ba cày vỡ ruộng ra,

Tháng tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi.

Tháng năm gặt hái vừa rồi,

Trời đổ mưa xuống, nước trôi đầy đồng.

Anh ơi ! giữ lấy việc công,

Để em cày cấy mặc lòng em đây ».

7. « Bao giờ cho được thảnh thơi,

Tay tiêm thuốc cống, miệng cười lang quân ».

8. « Biết thưở nào con cá nhào khỏi vực,

Biết thưở nào hết cực thân em ».

9. « Bố chồng như lông con phượng,

Mẹ chồng như tượng mới tô.

Nàng dâu là bồ nghe chửi ».

10. « Bồng bồng bế bế con sang,

Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo ».

11. « Cái bống là cái bống bình,

Thổi cơm, nấu nước một mình mồ hôi.

Rạng ngày có khách đến chơi,

Cơm ăn, rượu uống cho vui lòng chồng.

Rạng ngày ăn uống vừa xong,

Tay nhắc mâm đồng, tay trải chiếu hoa.

Nhịn miệng đãi khách đàng xa,

Ấy là của gởi chồng ta ăn đàng ».

12. « Có chồng như ngựa có cương,

Chua cay cũng chịu, vui thương cũng nhờ ».

13. « Con nhạn xanh chắp cánh bay chuyền,

Chồng em lẩy bẩy như Cao-Biền dậy non.

Sớm có chồng sao em muộn có con,

Hẩm duyên, xấu số, em còn đứng không.

Khốn nạn thay em ăn ở với chồng ! »

14. « Con cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non ».

15. « Con anh tay ẵm, tay bồng,

Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông ».

16. « Con vua lấy thằng đốt than,

Nó đưa lên ngàn cũng phải đi theo ».

17. « Con gái có hai bến sông,

Bến đục thì chịu, bến trong thì nhờ ».

18. « Con gái mới về nhà chồng,

Thổi cơm nồi đồng, nửa sống, nửa khê ».

19. « Cô kia đội áo đi đâu ?

- Tôi là phận gái làm dâu mới về.

Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê,

Tôi chẳng ở được, tôi về nhà tôi ».

20. « Của rẻ thật là của hôi,

Lấy phải dâu dại khốn tôi trăm đường ».

21. « Cũng vì một chút con thơ,

Cho nên giải chiếu dập dơ trăm đường ».

22. « Cha già, con muộn, con ơi !

Lọng rách da trời, con chịu mồ côi ».

23. « Cha già con muộn vơi vơi,

Gần đất xa trời con chịu mồ côi.

Mồ côi cực lắm bớ trời,

Mẹ ruột cha ghẻ nhiều lời đắng cay ».

24. « Chàng đừng chê thiếp vụng về.

Có tiền thiếp cũng biết thuê mượn người ».

25. « Chàng trẩy đi kể đã mấy đông,

Cho loan đón gió, cho rồng chờ mưa.

Tấm gan vàng, dạ sắt thiếp tôi ngẩn ngơ,

Lấy ai gìn giữ con thơ cho chàng ?

Nghĩa vợ chồng đồng tịch, đồng sàng,

Đồng sinh, Đồng-Tử, cưu mang đồng lần.

Chàng trẩy đi, tuân lệnh quân thân,

Thiếp xin đôi chữ Tấn Tần hợp duyên.

Nữa một mai bóng quế giãi thềm,

Bóng trăng thấp thoáng, ngọn đèn mờ xanh.

Chàng trẩy đi, nước mắt thiếp tôi chạy quanh,

Chân đi thất thểu, lời anh dặn dò ».

26. « Chăn tằm rồi lại ươm tơ,

Làm dâu rồi mới được như mẹ chồng ».

27. « Chê mẹ chồng trước đánh đau,

Gặp mẹ chồng sau mau đánh ».

28. « Chim xanh ăn trái xoài xanh,

Ăn no tắm mát lên cành nghỉ ngơi.

Nghỉ rồi, hồi xế hôm qua,

Chờ trăng, trăng lặn, chờ hoa, hoa tàn.

Hoa tàn, thắp ngọn đèn lan,

Cho cha mẹ ngủ, thở than đôi lời ».

29. « Chim xanh ăn trái xoài xanh,

Ăn no tắm mát lên ngành nghỉ ngơi.

Cực lòng lan lắm huệ ơi !

Kiếm nơi mô im mát, huệ ngồi cho lan phân ».

30. « Chồng em nó chẳng ra gì,

Tổ tôm xóc dĩa nó thì chơi hoang.

Nói ra xấu thiếp, hổ chàng,

Nó giận, nó phá tan hoang cửa nhà.

Nói đây thời có chị em nhà,

Còn năm ba thúng thóc với một vài cân bông.

Em bán đi để trả nợ cho chồng,

Còn ăn hết nhịn cho hả lòng chồng con.

Đắng cay ngậm quả bồ hòn,

Cửa nhà gia thế, chồng con kém người.

Nói ra sợ chị em cười,

Con nhà nho giáo lấy phải người đần ngu.

Rồng vàng tắm nước ao tù,

Người khôn ở với người ngu bực mình ».

31. « Chồng dữ thì em mới sầu,

Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng ».

32. « Chồng dữ thì em mới lo,

Mẹ chồng mà dữ, mổ bò ăn khao ».

33. « Đắng cay cũng phải nuốt đi,

Ăn thì ăn vậy, ngon gì mà ngon ».

34. « Đêm nằm nghĩ lại mà coi,

Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà ».

35. « Đói thì ăn khế, ăn sung,

Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi ».

36. « Đói cơm rách áo mà gầy,

No cơm ấm áo cũng tầy vợ anh.

Kém ăn, kém mặc mà xanh,

No cơm, ấm mặc vợ anh nào tầy ».

37. « Đương khi bếp tắt cơm sôi,

Con ngồi khóc đói, chồng đòi tòm tem.

Bây giờ bếp đã cháy lên,

Cơm đà sắp chín, tòm tem thì tòm ».

38. « Em chồng ở với chị dâu,

Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày ».

39. « Em về làm dâu ba với má, giả như giá nọ làm dưa,

Ba bốn năm trời, ba với má còn bó buộc đi thưa về trình ».

40. « Giang san gánh vác một mình,

Xa xôi ai có thấu tình chăng ai ? »

41. « Khổ chi phận em cha chả là cam phận khổ,

Lên non đốn củi, đụng chỗ đốn rồi.

Xuống sông gánh nước,

Đụng chỗ cát bồi khe khô ».

42. « Làm dâu vụng nấu, vụng kho,

Chồng không bắt bẻ, mụ o nhún trề ».

43. « Làm rể chớ nấu thịt trâu,

Làm dâu chớ đồ xôi lại ».

44. « Lòng sao lắm nỗi đắng cay,

Bấy lâu thảm chất sầu xây nên thành ».

45. « Mẹ anh như mẹ người ta,

Thì anh có cửa, có nhà đã lâu ».

46. « Mẹ chồng dữ, mẹ chồng chết,

Nàng dâu có nết, nàng dâu chừa ».

47. « Mẹ già dữ lắm em ơi !

Khoan ăn, bớt ngủ mà nuôi mẹ già ».

48. « Mẹ chồng không ai nói tốt nàng dâu,

Nàng dâu không ai nói tốt mẹ chồng ».

49. « Mẹ mong gả thiếp về giồng,

Thiếp than phận thiếp gánh gồng chẳng kham ».

50. « Một nhà có ba bốn dâu,

Dâu cả buôn bán ra màu sân si.

Dâu hai có ý mỹ miều,

Tiền tiền, thóc thóc bao nhiêu chẳng về.

Dâu ba chúm chúm dâu chê,

Nhờ ơn bác mẹ đi về tỉnh Nam.

Dâu tư có tính tham lam,

Chăn trâu, cắt cỏ nhôm nhoam ngoài đồng ».

51. « Một trăm ông chú không lo,

Lo về một nỗi mụ o nỏ mồm ».

52. « Một bồn hai kiểng còn xanh,

Một chàng hai thiếp phải sanh nhiều bề ».

53. « Năm canh thì ngủ có ba,

Hai canh săn sóc việc nhà làm ăn ».

54. « Nửa đêm ân ái cùng chồng,

Nửa đêm về sáng gánh gồng ra đi ».

55. « Nước trên nguồn chảy xuống ruộng xanh,

Khổ thời chịu khổ, lìa anh không lìa ».

56. « Ngó lên trời không cao không thấp,

Ngó xuống biển không cạn không sâu.

Tôi dạo chơi mười tám nước chư hầu,

Không nghe ai than thở thảm sầu hơn anh ».

57. « Ngỡ rằng cây cả bóng cao,

Thiếp lăn mình vào phơi nắng cùng mưa ».

58. « Ra đi bà nọ bà kia,

Về nhà không khỏi cái nia, cái sàng.

- Ra đường võng giá nghênh ngang,

Về nhà hỏi vợ : « cám rang đâu mày ».

- Cám rang tôi để cối xay.

- Hễ chó ăn hết thì « mày với ông ».

59. « Ra về ngó trước ngó sau,

Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng.

60. « Sợ mẹ sợ cha,

Chẳng bằng sợ tháng ba ngày dài ».

61. « Sớm mai gánh nước bờ ao,

Dặn anh buôn bán làm sao cũng về.

Đừng bày trò chuyện say mê,

Bỏ cha già mẹ yếu ba bốn bề cực em ».

62. « Từ khi em về làm dâu,

Anh thì dặn trước bảo sau mọi lời.

Mẹ già dữ lắm em ơi !

Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha.

Nhịn cho nên cửa nên nhà,

Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông

Nhịn cho nên vợ, nên chồng,

Thời em coi sóc lấy trong cửa nhà.

Đi chợ thời chớ ăn quà,

Đi chợ thời chớ rề rà ở trưa ;

Dù ai bảo đợi, bảo chờ,

Thời em nói dối con thơ em về ».

63. « Thân em như lá từ bi,

Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương ».

64. « Thân em như trái bần trôi,

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu ? »

65. « Thân này giá đáng ngàn vàng,

Bắt đem dãi nắng, dầm sương bấy chầy ».

66. « Thật thà cũng thể lái trâu,

Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng ».

67. « Theo không chẳng tốn một đồng,

Làm dâu chí nguyện, mẹ chồng còn chê ».

68. « Thiệt hại hay, thằng bé lên ba,

Nó lăn, nó khóc giữa nhà năm gian.

Khóc than giữa chốn linh sàng,

Ba vuông nhiễu tím, đôi hàng chữ vôi.

Chớ thiệt hại thay, người khác thì đã yên rồi,

Để cho người sống ở đời trơ vơ,

Ba bốn năm nhang khói thiếp tôi phụng thờ,

Đầu đội chữ Hiếu, tay xơ chữ Tình.

Chữ Hiếu Trung thiếp tôi gánh vác một mình,

Chẳng hay chàng có thấu tình thiếp chăng ?

Đường đi khuất nẻo khói chùng ».

69. « Thương chồng phải khóc mẹ mụ gia,

Gẫm tôi với mụ có bà con chi ».

70. « Thương chồng nên phải gắng công,

Nào ai xương sắt dạ đồng chi đây ».

71. « Trách cha, trách mẹ nhà chàng,

Cầm cân chẳng biết rằng vàng hay thau,

Thực vàng chẳng phải thau đâu,

Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng ».

72. « Trời mưa ướt lá đài bi,

Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu ».

73. « Vợ ba con anh còn để bỏ,

Huống chi nàng ngọn cỏ phất phơ ».

d) Ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình

Gia đình là cơ sở của quốc gia. Tuy nhiên, người bình dân không quan niệm bảo vệ gia đình tức là bảo vệ quốc gia, mặc dù từ xưa tới nay họ vẫn làm cái việc ấy. Người bình dân sống trong làng mạc, không có cao vọng, không muốn cho mình có một tầm quan trọng đối với xã hội trong lúc những nhà an bang tế thế đều nhìn thấy tầm quan trọng của họ. Gia đình nằm trong phạm vi hạn hẹp, mọi sinh hoạt có liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của họ. Nó là cơ sở của tâm hồn, của lẽ sống nên đối với người bình dân rất quí trọng.

Một mái tranh nghèo, một chiếc giường tre, tuy không phải là một tài sản quí giá gì, nhưng đó là nơi họ được nghỉ ngơi qua những giờ làm lụng mệt nhọc, nơi họ được trốn nắng, đụt mưa, nơi tâm hồn họ được an ủi, lưu luyến với vợ con, tất cả hình ảnh ấy gắn liền vào đời sống họ làm sao họ không bảo vệ để mà sống, mà hưởng những ấm êm tối thiểu của con người. Cho nên nếu người bình dân không thể thiếu tình gia đình thì cũng không thể thờ ơ với quan niệm bảo vệ gia đình.

Mặt khác, dân tộc Á-đông, dù sống trong tầng lớp nào, trách nhiệm gia đình vẫn là trách nhiệm đương nhiên, khi đã có vợ chồng con cái thì gánh nặng gia đình trở thành bổn phận thiêng liêng, không ai có quyền từ chối. Vì lẽ ấy, ý thức gia đình đối với người bình dân Việt-Nam được thể hiện một cách mạnh mẽ trong ca dao.

Trước hết, khi đề cập tinh thần bảo vệ gia đình, chúng ta phải nói đến tinh thần xây dựng giữa vợ chồng. Với kinh nghiệm thực tiễn trong đời sống hàng ngày, họ quan niệm rằng vợ chồng có sống hoà thuận thì mới tạo nên sự nghiệp. Họ bảo :

« Thuận vợ, thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn ».

Hoà thuận là nguồn gốc của hạnh phúc gia đình. Nó là một sức mạnh để chiến đấu, để kiện toàn sự nghiệp. Trong một quốc gia cũng thế, một dân tộc không đoàn kết là mầm mống của suy vi, là nguyên nhân để cho ngoại bang xâm lấn, uy hiếp, thống trị.

Căn cứ theo học thuyết Đông-phương, mọi cá thể trong vũ trụ đều nằm trong hệ thống mâu thuẫn nội tại và ngoại tại. Con người muốn có sức mạnh, trước nhất cơ thể phải lành mạnh, không đau ốm, bệnh hoạn. Sự đau ốm, bệnh hoạn trong con người chẳng những đã không chống cự được với khí hậu thiên nhiên, không hăng hái làm việc mà còn dẫn đến chỗ chết nữa. Nói rộng hơn thì gia đình cũng là một cá thể của xã hội, nó cũng như cơ thể của một con người, nếu vợ chồng hòa thuận tức là gia đình ấy lành mạnh, không ốm yếu, bệnh hoạn, đủ sức phấn đấu trong xã hội, tạo cho gia đình một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Xem thế, người bình dân tuy không là những triết gia, song kinh nghiệm về lẽ sống đã tạo cho họ có một xã hội quan không khác gì những triết gia uyên thâm của loài người. Về ý thức gia đình họ không cho yếu tố tài năng là căn bản, mà cho yếu tố hoà thuận là quan trọng thì đó chính là một triết lý sâu xa mà chúng ta không thể xem thường.

Thật vậy, con người dù tài ba đến đâu mà cơ thể bệnh hoạn thì thử hỏi sẽ làm được việc gì, hay chỉ chờ ngày đưa cái tài ba ấy đến chỗ mai một ? Một gia đình dù vợ chồng có tài năng đến đâu mà không hoà thuận thì sự nghiệp sẽ đi dần đến chỗ tiêu tan. Cho nên, hoà thuận là căn bản xây dựng gia đình.

Nhưng, làm thế nào để gia đình hoà thuận ?

Đó là một điều khó khăn. Nếu trong một nước, các nhà lãnh đạo quốc gia phải bù đầu, nặn óc để tìm hiểu những mầm móng chia rẽ dân tộc, cố làm sao cho toàn dân đoàn kết mới có thể kiến quốc được thì trong phạm vi gia đình, những mầm móng bất hoà giữa vợ chồng cũng luôn luôn phát sinh, mà muốn tìm hiểu nguyên nhân, không phải dễ. Con người không thể sống như con vật nuôi trong nhà, hứng chịu mọi quyền lực của kẻ khác, hoặc chỉ biết vâng theo mệnh lệnh của người trên. Con người sống bằng bản năng, bằng tình cảm, bằng lý trí, mà bản năng, tình cảm và lý trí mỗi người không thể giống nhau được. Đã không giống nhau mà bắt buộc phải hoà hợp thì đó là điều khó.

Muốn tạo hoà khí gia đình, vợ chồng thường lấy sự nhịn nhục làm đầu. Họ bảo :

« Một câu nhịn là chín câu lành ».

Dĩ nhiên, nhịn nhục phải tương ứng. Chẳng những vợ phải nhịn chồng mà chồng cũng phải nhịn vợ nữa. Đó là sự hoà thuận trong mâu thuẫn. Ở trường hợp này, lý trí vượt hẳn bản năng. Tuy nhiên, thời xưa, dưới chế độ phụ quyền của nền móng phong kiến, người đàn bà bị lắm điều áp chế, thành thử ý thức nhịn nhục chỉ có trong người vợ. Đây, chúng ta thử lấy một vài ví dụ :

« Chồng giận thì vợ bớt lời,

Cơm sôi bớt lửa không đời nào khê ».

Hoặc : « Chồng giận thì vợ làm lành,

Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì ? »

Hay : « Quốc kêu khoắc khoải mùa hè,

Làm thân con gái phải nghe lời chồng ».

Và : « Ghe bầu trở lái về Đồng,

Làm thân con gái thờ chồng nuôi con ».

Tại sao người vợ phải nhịn chồng ? Đành rằng phần lớn tiêm nhiễm ý thức phụ quyền của nền phong kiến, người đàn bà trong gia đình yếu thế hơn đàn ông, tuy nhiên, một phần cũng do ý thức xây dựng gia đình mà người đàn bà cam chịu thiệt thòi để cho gia đình được hoà thuận. Trong những gia đình tan vỡ, phần lớn người đàn bà không đủ sức ép mình chịu đựng những bất công do người đàn ông gây ra, nên liều lĩnh đập phá, nổi loạn.

Nói như thế không phải tuyệt đối, cũng có những gia đình mất hoà khí là do người đàn bà hư thân, mất nết làm cho người đàn ông chán nản, không muốn xây dựng gia đình. Thực trạng này cũng phảng phất qua những câu ca dao như :

« Bậu có chồng sao bậu không tu bỉ,

Mỗi buổi chiều bậu du thuỷ, du sơn ».

Hoặc : « Chưa chồng đi dọc đi ngang,

Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi ».

Nếu người đàn bà có chồng mà có ý thức xây dựng gia đình thì làm sao xã hội còn nguyền rủa, giáo huấn họ ? Dĩ nhiên, trong một số đông, có số ít đàn bà tự đặt mình ra ngoài khuôn khổ bảo vệ gia đình, chạy theo bản năng dục vọng. Đó là điều không tránh khỏi trong cuộc sống xã hội.

Bảo vệ hoà khí gia đình bằng phương thức nhường nhịn tuy có tác dụng khả quan, nhưng chưa đủ, nó chỉ là tác dụng cấp thời, ví như giữa hai quốc gia đang xung đột mà tạo được hưu chiến. Tính chất hoà bình tạm bợ ấy không thể giữ được lâu dài. Mọi sự bất bình trong cuộc sống phát xuất do tâm tư, do sự không đồng nhất ý chí hoặc mọi khác biệt giữa những cảm nghĩ về lẽ sống. Nhường nhịn tạm thời chỉ là để tránh những đổ vỡ lớn lao. Ví dụ :

« Chồng tới thì vợ phải lui,

Chồng tới, vợ tới thì dùi vào lưng ».

Thì đó chẳng qua để tránh một cuộc xung đột. Người bình dân một mặt chú trọng về nhường nhịn để tránh đổ vỡ, đồng thời cũng dùng tình cảm để hàn gắn, sửa chữa những cá tính không thích hợp với nhau nữa. Đây là phương châm ưu tú mà chỉ có ý thức xây dựng gia đình mới thực hiện nổi.

Ví dụ một người chồng nóng tính, hay đánh vợ, người vợ đã vận dụng tình cảm để ngăn cản tính xấu của người chồng. Chẳng hạn như :

« Giơ roi đánh thiếp sao đành,

Anh không nhớ thuở rách lành có nhau ! »

Còn gì thâm thuý và cảm hoá người chồng hơn là nhắc cho họ nhớ những lúc đồng cam cộng khổ mà hàng ngày vợ chồng phải chung lưng chiến đấu. Cá tính chỉ là trạng thái bất thường, mà tình cảm là yếu tố trường cửu trong yêu thương. Tình cảm có thể tiêu diệt cá tính hoặc sửa đổi cá tính.

Nhưng tình cảm giữa vợ chồng do đâu mà có ?

Nếu bảo rằng do tình yêu trai gái mà phát xuất tình cảm vợ chồng thì đó chỉ mới đúng một phần nào thôi. Thật ra tình vợ chồng khi đã chung nhau tạo lập gia đình thì tình cảm còn nằm trong yếu tố sinh hoạt.

Vậy yếu tố sinh hoạt là gì ?

Chúng ta có thể hình dung yếu tố sinh hoạt bằng những âu lo, những thấp thỏm, những khổ cực chất chứa trong đời sống hàng ngày của ho. Hai vợ chồng cùng làm lụng dưới một cánh đồng trưa, ánh nắng hè gay gắt khai thông niềm giao cảm giữa hai tâm hồn trong khổ cực. Hoặc đôi vợ chồng cùng chịu đói rã ruột để bừa cho xong một thửa ruộng trong gió rét căm căm. Tuy khổ cực, nhưng tình vợ chồng nhờ đó mà cảm mến nhau. Buổi sáng người vợ thức dậy sớm hơn, lo việc bếp núc để cho chồng nghỉ thêm chút nữa… Tất cả trạng thái ấy do hoàn cảnh sinh hoạt diễn biến tạo giữa đôi vợ chồng một sợi dây tình cảm gắn bó nhau, mà người ta thường gọi là tình gia đình. Vậy tình gia đình nếu nói riêng giữa hai vợ chồng thì phải gồm cả tình yêu trai gái và tình cảm sinh hoạt. Chính tình cảm sinh hoạt mới là yếu tố quyết định cho tình gia đình. Bởi vậy, có những trường hợp người vợ lầm lỗi, người chồng đáng lẽ phải thẳng tay trừng trị, nhưng vì tình cảm sinh hoạt đã buộc, họ phải hòa hoãn trước tội lỗi của người vợ. Ví dụ :

« Không đánh bậu để bậu luông tuồng,

Dang tay đánh bậu, thêm buồn dạ anh ! »

Cái gì đã làm họ buồn khi phải dùng võ lực để trừng trị một tội lỗi, nếu không phải tình gia đình ? Giữa tội lỗi của người đàn bà và tình cảm của người đàn ông, nếu bỏ yếu tố tình cảm sinh hoạt ra ngoài thì không còn gì nữa cả, bởi vì tình yêu trai gái chỉ được phép tồn tại khi tình yêu ấy chưa đổ vỡ, chưa bị mầm chán ghét len lỏi vào. Xét như thế thì tình gia đình xây dựng trên tình cảm sinh hoạt nhiều hơn là tình yêu giữa gái trai.

Đạt được tính chất căn bản ấy, ý thức của người bình dân luôn luôn xây dựng tình cảm gia đình trên căn bản tình cảm sinh hoạt. Nếu những người đàn bà thuộc các từng lớp thượng lưu quí phái sống với gia đình hay điểm trang sắc đẹp, lòe loẹt áo quần, thoa son điểm phấn, cốt đem sắc đẹp quyến rũ tình yêu của chồng để làm nền tảng cho tình cảm gia đình thì người đàn bà bình dân, trái lại, không chú trọng về dung nhan của họ. Chúng ta thường thấy những cô gái quê lúc chưa lấy chồng thì tóc tai ngay ngắn, ăn mặc duyên dáng, tuy không lòe loẹt phấn son nhưng phát tiết được tính chất gợi tình. Nhưng, khi họ đã có chồng rồi thì không ai còn chú trọng đến nhan sắc nữa, họ lo làm lụng nuôi con, thân hình họ ra sao cũng mặc. Có kẻ cho rằng người đàn bà nhà quê lúc đã thành gia thất, công việc bề bộn, phải dầm mưa dãi nắng suốt ngày, vất vả như thế còn thì giờ đâu trau chuốt dung nhan ? Nói như thế cũng chỉ đúng phần nào, Ở nhà quê không phải chỉ người đàn bà có chồng mới bận rộn, khổ cực, mà ngay cả những cô gái quê, lúc chưa lấy chồng cũng phải dầm sương dãi nắng, khổ cực không kém gì gái có chồng, thế mà họ vẫn giữ được màu duyên dáng để gợi cảm những trai tơ, thế thì tại sao gái có chồng lại không thể bảo vệ được dung nhan để cho chồng say sưa, quí mến ? Thật ra quan niệm người bình dân không giống với quan niệm của các bậc thượng lưu trưởng giả đâu. Các bậc thượng lưu trưởng giả vì ăn không ngồi rồi, không có việc gì để đồng cam cộng khổ với chồng, không tạo được tình cảm sinh hoạt, nên phải xây dựng tình gia đình trên căn bản yêu đương gái trai, còn đối với người bình dân, do hoàn cảnh sinh sống hàng ngày, tình cảm sinh hoạt đã gắn liền với tình gia đình thì cần gì phải đem tình cảm gái trai làm tình cảm gia đình là việc thứ yếu.

Trong quyển tiểu thuyết xã hội tình cảm « Anh phải sống » của ông Khái-Hưng và Nhất-Linh đã có một đoạn diễn tả tình cảm sinh hoạt của đôi vợ chồng trong giới bình dân như sau :

« Trên đê Yên-Phụ, một buổi chiều mùa hạ. Nước sông Nhị-hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưởng muốn lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi. Theo dòng nước đỏ lờ đờ, những thân cây, những cành khô trôi từ rừng về, nổi lênh bênh như một dãy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thật nhanh tới một nơi không bờ, không bến. Đứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ra ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài nói : « Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau quá. Mưa đến nơi mất, mình ạ ! » Người chồng cũng thở dài đi lững thững. Rồi bỗng đứng lại hỏi vợ : « Mình đã thổi cơm chưa ? » Vợ buồn rầu đáp : « Đã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay ». Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau… Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ. Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ : Liều ! »

Chính nghèo đói, khổ cực, gian nguy là cái lò đúc những tình cảm sâu xa về sinh hoạt gia đình. Tinh thần bảo vệ gia đình phát xuất từ tình cảm sinh hoạt thì ngược lại tình cảm sinh hoạt ảnh hưởng rất mạnh vào tinh thần bảo vệ gia đình. Nếu chúng ta đem phân tích giữa hai tính chất bảo vệ gia đình của lớp người quí tộc và lớp người bình dân thì chúng ta phải thừa nhận rằng tính chất bảo vệ gia đình của lớp người bình dân chặt chẽ và sâu sắc hơn tính chất bảo vệ gia đình của lớp người quí tộc. Bởi lẽ, lớp người quí tộc căn cứ trên tình cảm yêu đương, chịu gò ép trong khuôn khổ chiều chồng nuôi con để xây dựng tình gia đình. Tính chất ấy không bền vững. Nhan sắc người đàn bà dù trau chuốt khéo léo đến đâu cũng không sao chống lại được sự mài giũa của thời gian. Khi nhan sắc đã phai mờ, tình cảm người chồng trong lãnh vực yêu đương không thể giữ mãi được. Do đó, người đàn ông trong gia đình thượng lưu, quí phái thường ngoại tình hơn người đàn ông trong gia đình bình dân. Mặt khác, ý thức chiều chồng trong lớp người đàn bà thượng lưu tuy mạnh mẽ hơn, song vì người đàn bà thượng lưu dùng sắc đẹp chinh phục tình cảm người chồng, nên người đàn bà lúc còn nhan sắc tự nuôi trong người một ý thức tự phụ, và khi nhan sắc đã tàn phai, người đàn bà trở nên thiếu kiên nhẫn để chịu đựng sự chiều chuộng ấy. Trái lại, lớp người bình dân lấy tình cảm sinh hoạt làm cơ sở cho tình cảm gia đình, thì thời gian càng dồn dập, lâu dài bao nhiêu càng được vun đắp, bồi dưỡng bấy nhiêu.

Nói như thế không phải trong ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình, người bình dân chỉ thực hiện hai yếu tố nhẫn nhục và bồi đắp tình cảm sinh hoạt mà thôi. Chính họ còn đem tình cảm gia đình để đấu tranh về ý thức hệ, tức là đi tìm cho nhau một lẽ sống hợp với quan niệm của hai vợ chồng. Ý thức ấy được thể hiện qua các câu ca dao như :

« Nước còn quyến cát làm doi,

Huống chi ta chẳng tài bồi lẫn nhau ».

trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ra ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài nói : « Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau quá. Mưa đến nơi mất, mình ạ ! » Người chồng cũng thở dài đi lững thững. Rồi bỗng đứng lại hỏi vợ : « Mình đã thổi cơm chưa ? » Vợ buồn rầu đáp : « Đã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay ». Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau… Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ. Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ : Liều ! »

Chính nghèo đói, khổ cực, gian nguy là cái lò đúc những tình cảm sâu xa về sinh hoạt gia đình. Tinh thần bảo vệ gia đình phát xuất từ tình cảm sinh hoạt thì ngược lại tình cảm sinh hoạt ảnh hưởng rất mạnh vào tinh thần bảo vệ gia đình. Nếu chúng ta đem phân tích giữa hai tính chất bảo vệ gia đình của lớp người quí tộc và lớp người bình dân thì chúng ta phải thừa nhận rằng tính chất bảo vệ gia đình của lớp người bình dân chặt chẽ và sâu sắc hơn tính chất bảo vệ gia đình của lớp người quí tộc. Bởi lẽ, lớp người quí tộc căn cứ trên tình cảm yêu đương, chịu gò ép trong khuôn khổ chiều chồng nuôi con để xây dựng tình gia đình. Tính chất ấy không bền vững. Nhan sắc người đàn bà dù trau chuốt khéo léo đến đâu cũng không sao chống lại được sự mài giũa của thời gian. Khi nhan sắc đã phai mờ, tình cảm người chồng trong lãnh vực yêu đương không thể giữ mãi được. Do đó, người đàn ông trong gia đình thượng lưu, quí phái thường ngoại tình hơn người đàn ông trong gia đình bình dân. Mặt khác, ý thức chiều chồng trong lớp người đàn bà thượng lưu tuy mạnh mẽ hơn, song vì người đàn bà thượng lưu dùng sắc đẹp chinh phục tình cảm người chồng, nên người đàn bà lúc còn nhan sắc tự nuôi trong người một ý thức tự phụ, và khi nhan sắc đã tàn phai, người đàn bà trở nên thiếu kiên nhẫn để chịu đựng sự chiều chuộng ấy. Trái lại, lớp người bình dân lấy tình cảm sinh hoạt làm cơ sở cho tình cảm gia đình, thì thời gian càng dồn dập, lâu dài bao nhiêu càng được vun đắp, bồi dưỡng bấy nhiêu.

Nói như thế không phải trong ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình, người bình dân chỉ thực hiện hai yếu tố nhẫn nhục và bồi đắp tình cảm sinh hoạt mà thôi. Chính họ còn đem tình cảm gia đình để đấu tranh về ý thức hệ, tức là đi tìm cho nhau một lẽ sống hợp với quan niệm của hai vợ chồng. Ý thức ấy được thể hiện qua các câu ca dao như :

« Nước còn quyến cát làm doi,

Huống chi ta chẳng tài bồi lẫn nhau ».

trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ra ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài nói : « Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau quá. Mưa đến nơi mất, mình ạ ! » Người chồng cũng thở dài đi lững thững. Rồi bỗng đứng lại hỏi vợ : « Mình đã thổi cơm chưa ? » Vợ buồn rầu đáp : « Đã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay ». Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau… Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ. Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ : Liều ! »

Chính nghèo đói, khổ cực, gian nguy là cái lò đúc những tình cảm sâu xa về sinh hoạt gia đình. Tinh thần bảo vệ gia đình phát xuất từ tình cảm sinh hoạt thì ngược lại tình cảm sinh hoạt ảnh hưởng rất mạnh vào tinh thần bảo vệ gia đình. Nếu chúng ta đem phân tích giữa hai tính chất bảo vệ gia đình của lớp người quí tộc và lớp người bình dân thì chúng ta phải thừa nhận rằng tính chất bảo vệ gia đình của lớp người bình dân chặt chẽ và sâu sắc hơn tính chất bảo vệ gia đình của lớp người quí tộc. Bởi lẽ, lớp người quí tộc căn cứ trên tình cảm yêu đương, chịu gò ép trong khuôn khổ chiều chồng nuôi con để xây dựng tình gia đình. Tính chất ấy không bền vững. Nhan sắc người đàn bà dù trau chuốt khéo léo đến đâu cũng không sao chống lại được sự mài giũa của thời gian. Khi nhan sắc đã phai mờ, tình cảm người chồng trong lãnh vực yêu đương không thể giữ mãi được. Do đó, người đàn ông trong gia đình thượng lưu, quí phái thường ngoại tình hơn người đàn ông trong gia đình bình dân. Mặt khác, ý thức chiều chồng trong lớp người đàn bà thượng lưu tuy mạnh mẽ hơn, song vì người đàn bà thượng lưu dùng sắc đẹp chinh phục tình cảm người chồng, nên người đàn bà lúc còn nhan sắc tự nuôi trong người một ý thức tự phụ, và khi nhan sắc đã tàn phai, người đàn bà trở nên thiếu kiên nhẫn để chịu đựng sự chiều chuộng ấy. Trái lại, lớp người bình dân lấy tình cảm sinh hoạt làm cơ sở cho tình cảm gia đình, thì thời gian càng dồn dập, lâu dài bao nhiêu càng được vun đắp, bồi dưỡng bấy nhiêu.

Nói như thế không phải trong ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình, người bình dân chỉ thực hiện hai yếu tố nhẫn nhục và bồi đắp tình cảm sinh hoạt mà thôi. Chính họ còn đem tình cảm gia đình để đấu tranh về ý thức hệ, tức là đi tìm cho nhau một lẽ sống hợp với quan niệm của hai vợ chồng. Ý thức ấy được thể hiện qua các câu ca dao như :

« Nước còn quyến cát làm doi,

Huống chi ta chẳng tài bồi lẫn nhau ».

trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ra ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài nói : « Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau quá. Mưa đến nơi mất, mình ạ ! » Người chồng cũng thở dài đi lững thững. Rồi bỗng đứng lại hỏi vợ : « Mình đã thổi cơm chưa ? » Vợ buồn rầu đáp : « Đã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay ». Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau… Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ. Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ : Liều ! »

Chính nghèo đói, khổ cực, gian nguy là cái lò đúc những tình cảm sâu xa về sinh hoạt gia đình. Tinh thần bảo vệ gia đình phát xuất từ tình cảm sinh hoạt thì ngược lại tình cảm sinh hoạt ảnh hưởng rất mạnh vào tinh thần bảo vệ gia đình. Nếu chúng ta đem phân tích giữa hai tính chất bảo vệ gia đình của lớp người quí tộc và lớp người bình dân thì chúng ta phải thừa nhận rằng tính chất bảo vệ gia đình của lớp người bình dân chặt chẽ và sâu sắc hơn tính chất bảo vệ gia đình của lớp người quí tộc. Bởi lẽ, lớp người quí tộc căn cứ trên tình cảm yêu đương, chịu gò ép trong khuôn khổ chiều chồng nuôi con để xây dựng tình gia đình. Tính chất ấy không bền vững. Nhan sắc người đàn bà dù trau chuốt khéo léo đến đâu cũng không sao chống lại được sự mài giũa của thời gian. Khi nhan sắc đã phai mờ, tình cảm người chồng trong lãnh vực yêu đương không thể giữ mãi được. Do đó, người đàn ông trong gia đình thượng lưu, quí phái thường ngoại tình hơn người đàn ông trong gia đình bình dân. Mặt khác, ý thức chiều chồng trong lớp người đàn bà thượng lưu tuy mạnh mẽ hơn, song vì người đàn bà thượng lưu dùng sắc đẹp chinh phục tình cảm người chồng, nên người đàn bà lúc còn nhan sắc tự nuôi trong người một ý thức tự phụ, và khi nhan sắc đã tàn phai, người đàn bà trở nên thiếu kiên nhẫn để chịu đựng sự chiều chuộng ấy. Trái lại, lớp người bình dân lấy tình cảm sinh hoạt làm cơ sở cho tình cảm gia đình, thì thời gian càng dồn dập, lâu dài bao nhiêu càng được vun đắp, bồi dưỡng bấy nhiêu.

Nói như thế không phải trong ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình, người bình dân chỉ thực hiện hai yếu tố nhẫn nhục và bồi đắp tình cảm sinh hoạt mà thôi. Chính họ còn đem tình cảm gia đình để đấu tranh về ý thức hệ, tức là đi tìm cho nhau một lẽ sống hợp với quan niệm của hai vợ chồng. Ý thức ấy được thể hiện qua các câu ca dao như :

« Nước còn quyến cát làm doi,

Huống chi ta chẳng tài bồi lẫn nhau ».

Trong cuộc sống chung giữa đôi vợ chồng, họ đặt ngay vấn đề xây dựng bằng cách khuyên can, sửa chữa cho nhau trên căn bản tình cảm gia đình. Như vậy, chúng ta không thể xem cuộc sống người bình dân như những sinh vật thiếu cảm tính, và không có ý thức chung sống. Đây, chúng ta nghe họ nói lên những khó khăn trong ý thức tạo lập gia đình :

« Đạo vợ chồng khó lắm bạn ơi !

Chẳng dễ như ong bướm đậu rồi lại bay.

Đạo vợ chồng chẳng dễ đổi thay.

Dẫu làm nên võng giá hay rủi ăn mày cũng cứ theo nhau ».

Hoặc : « Đạo cương thường không phải như cá tôm,

Đương mua mớ nọ lại chồm mớ kia ».

Rõ ràng họ ý thức được ý nghĩa của tính chất gia đình trong chung thủy. Khi đã là vợ chồng, tạo lập gia đình rồi thì xây dựng, bồi đắp cho nhau để tạo hạnh phúc đó là điều cốt yếu đối với họ. Cho nên, trước khi thành gia thất, họ khuyên nhau :

« Anh đừng đem dạ đổi dời,

Chớ nghe lời thế sự, rã rời gia cang ».

Hoặc : « Chợ Bến-Thành dời đổi,

Người sao khỏi hợp tan.

Xa gần giữ nghĩa tào khang,

Chớ ham nơi quyền quí mà đá vàng xa nhau ».

Hay : « Non non, nước nước khơi chừng,

Ái ân đôi chữ xin đừng có quên.

Tinh sâu mong trả nghĩa đền,

Đừng vui chốn khác mà quên chốn này.

Nước vơi rồi nước lại đầy,

Tình kia chưa trả, nghĩa này chớ quên ! »

Người đàn ông cũng như người đàn bà, lúc đã có ý muốn thành gia thất, lòng họ cũng xây đắp mộng ước, họ mong tạo lập một gia đình êm ấm, không xảy ra những rạn nứt, vì vậy họ bảo người đàn bà :

« Lời giao ngôn đá nát vàng phai,

Dặn em đừng nhẹ dạ thương ai bao giờ ».

Hoặc : « Rủ nhau xuống bể mò cua,

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng.

Em ơi ! chua ngọt đã từng,

Non xanh, nước bạc ta đừng quên nhau ! »

Chính họ đã đem tình cảm sinh hoạt để bảo đảm tình cảm gia đình, và họ còn đặt tin tưởng ở căn bản tình cảm ấy có thể hun đúc, cảm hóa nhau, trở thành tương đồng trong lẽ sống. Đây, chúng ta nghe người đàn ông bày tỏ hy vọng của họ :

« Lửng lơ vừng quế soi thềm,

Hương đưa bát ngát còn thêm bận lòng.

Gió hiu thổi ngọn phù dung,

Dạ nàng là sắt, anh nung cũng mềm ».

Lấy cái gì để rèn đúc người đàn bà ? Lấy cái gì để nung tấm lòng người đàn bà cho mềm ? Đây chính là tình cảm gia đình, tình cảm của sinh hoạt hàng ngày. Nó là ngọn lửa mầu nhiệm nhất để uốn nắn những cá tính của bản năng. Người đàn ông dùng võ lực chỉ có thể làm thỏa mãn những chán ghét của mình đối với những thói hư tật xấu của người đàn bà mà không thể nào làm mềm lòng họ được. Chỉ có tình cảm mới đủ sức chinh phục cá tính của bản năng.

Bởi vậy, người đàn bà khi gặp phải người chồng nặng về cá tính của dục vọng, họ vẫn phải chinh phục người đàn ông ấy bằng tình cảm. Ví dụ, gặp người chồng say mê cờ bạc, người vợ đã đem tình gia đình cảm hóa, như :

« Anh ơi, anh ở lại nhà,

Thôi đừng cờ bạc nữa mà hư thân.

Ham chi những của phù vân.

Lỡ ra công nợ nhiều phần xấu xa ».

Hoặc : « Anh đừng cờ bạc đua chơi,

thức bảo vệ và xây dựng gia đình

Gia đình là cơ sở của quốc gia. Tuy nhiên, người bình dân không quan niệm bảo vệ gia đình tức là bảo vệ quốc gia, mặc dù từ xưa tới nay họ vẫn làm cái việc ấy. Người bình dân sống trong làng mạc, không có cao vọng, không muốn cho mình có một tầm quan trọng đối với xã hội trong lúc những nhà an bang tế thế đều nhìn thấy tầm quan trọng của họ. Gia đình nằm trong phạm vi hạn hẹp, mọi sinh hoạt có liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của họ. Nó là cơ sở của tâm hồn, của lẽ sống nên đối với người bình dân rất quí trọng.

Một mái tranh nghèo, một chiếc giường tre, tuy không phải là một tài sản quí giá gì, nhưng đó là nơi họ được nghỉ ngơi qua những giờ làm lụng mệt nhọc, nơi họ được trốn nắng, đụt mưa, nơi tâm hồn họ được an ủi, lưu luyến với vợ con, tất cả hình ảnh ấy gắn liền vào đời sống họ làm sao họ không bảo vệ để mà sống, mà hưởng những ấm êm tối thiểu của con người. Cho nên nếu người bình dân không thể thiếu tình gia đình thì cũng không thể thờ ơ với quan niệm bảo vệ gia đình.

Mặt khác, dân tộc Á-đông, dù sống trong tầng lớp nào, trách nhiệm gia đình vẫn là trách nhiệm đương nhiên, khi đã có vợ chồng con cái thì gánh nặng gia đình trở thành bổn phận thiêng liêng, không ai có quyền từ chối. Vì lẽ ấy, ý thức gia đình đối với người bình dân Việt-Nam được thể hiện một cách mạnh mẽ trong ca dao.

Trước hết, khi đề cập tinh thần bảo vệ gia đình, chúng ta phải nói đến tinh thần xây dựng giữa vợ chồng. Với kinh nghiệm thực tiễn trong đời sống hàng ngày, họ quan niệm rằng vợ chồng có sống hoà thuận thì mới tạo nên sự nghiệp. Họ bảo :

« Thuận vợ, thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn ».

Hoà thuận là nguồn gốc của hạnh phúc gia đình. Nó là một sức mạnh để chiến đấu, để kiện toàn sự nghiệp. Trong một quốc gia cũng thế, một dân tộc không đoàn kết là mầm mống của suy vi, là nguyên nhân để cho ngoại bang xâm lấn, uy hiếp, thống trị.

Căn cứ theo học thuyết Đông-phương, mọi cá thể trong vũ trụ đều nằm trong hệ thống mâu thuẫn nội tại và ngoại tại. Con người muốn có sức mạnh, trước nhất cơ thể phải lành mạnh, không đau ốm, bệnh hoạn. Sự đau ốm, bệnh hoạn trong con người chẳng những đã không chống cự được với khí hậu thiên nhiên, không hăng hái làm việc mà còn dẫn đến chỗ chết nữa. Nói rộng hơn thì gia đình cũng là một cá thể của xã hội, nó cũng như cơ thể của một con người, nếu vợ chồng hòa thuận tức là gia đình ấy lành mạnh, không ốm yếu, bệnh hoạn, đủ sức phấn đấu trong xã hội, tạo cho gia đình một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Xem thế, người bình dân tuy không là những triết gia, song kinh nghiệm về lẽ sống đã tạo cho họ có một xã hội quan không khác gì những triết gia uyên thâm của loài người. Về ý thức gia đình họ không cho yếu tố tài năng là căn bản, mà cho yếu tố hoà thuận là quan trọng thì đó chính là một triết lý sâu xa mà chúng ta không thể xem thường.

Thật vậy, con người dù tài ba đến đâu mà cơ thể bệnh hoạn thì thử hỏi sẽ làm được việc gì, hay chỉ chờ ngày đưa cái tài ba ấy đến chỗ mai một ? Một gia đình dù vợ chồng có tài năng đến đâu mà không hoà thuận thì sự nghiệp sẽ đi dần đến chỗ tiêu tan. Cho nên, hoà thuận là căn bản xây dựng gia đình.

Nhưng, làm thế nào để gia đình hoà thuận ?

Đó là một điều khó khăn. Nếu trong một nước, các nhà lãnh đạo quốc gia phải bù đầu, nặn óc để tìm hiểu những mầm móng chia rẽ dân tộc, cố làm sao cho toàn dân đoàn kết mới có thể kiến quốc được thì trong phạm vi gia đình, những mầm móng bất hoà giữa vợ chồng cũng luôn luôn phát sinh, mà muốn tìm hiểu nguyên nhân, không phải dễ. Con người không thể sống như con vật nuôi trong nhà, hứng chịu mọi quyền lực của kẻ khác, hoặc chỉ biết vâng theo mệnh lệnh của người trên. Con người sống bằng bản năng, bằng tình cảm, bằng lý trí, mà bản năng, tình cảm và lý trí mỗi người không thể giống nhau được. Đã không giống nhau mà bắt buộc phải hoà hợp thì đó là điều khó.

Muốn tạo hoà khí gia đình, vợ chồng thường lấy sự nhịn nhục làm đầu. Họ bảo :

« Một câu nhịn là chín câu lành ».

Dĩ nhiên, nhịn nhục phải tương ứng. Chẳng những vợ phải nhịn chồng mà chồng cũng phải nhịn vợ nữa. Đó là sự hoà thuận trong mâu thuẫn. Ở trường hợp này, lý trí vượt hẳn bản năng. Tuy nhiên, thời xưa, dưới chế độ phụ quyền của nền móng phong kiến, người đàn bà bị lắm điều áp chế, thành thử ý thức nhịn nhục chỉ có trong người vợ. Đây, chúng ta thử lấy một vài ví dụ :

« Chồng giận thì vợ bớt lời,

Cơm sôi bớt lửa không đời nào khê ».

Hoặc : « Chồng giận thì vợ làm lành,

Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì ? »

Hay : « Quốc kêu khoắc khoải mùa hè,

Làm thân con gái phải nghe lời chồng ».

Và : « Ghe bầu trở lái về Đồng,

Làm thân con gái thờ chồng nuôi con ».

Tại sao người vợ phải nhịn chồng ? Đành rằng phần lớn tiêm nhiễm ý thức phụ quyền của nền phong kiến, người đàn bà trong gia đình yếu thế hơn đàn ông, tuy nhiên, một phần cũng do ý thức xây dựng gia đình mà người đàn bà cam chịu thiệt thòi để cho gia đình được hoà thuận. Trong những gia đình tan vỡ, phần lớn người đàn bà không đủ sức ép mình chịu đựng những bất công do người đàn ông gây ra, nên liều lĩnh đập phá, nổi loạn.

Nói như thế không phải tuyệt đối, cũng có những gia đình mất hoà khí là do người đàn bà hư thân, mất nết làm cho người đàn ông chán nản, không muốn xây dựng gia đình. Thực trạng này cũng phảng phất qua những câu ca dao như :

« Bậu có chồng sao bậu không tu bỉ,

Mỗi buổi chiều bậu du thuỷ, du sơn ».

Hoặc : « Chưa chồng đi dọc đi ngang,

Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi ».

Nếu người đàn bà có chồng mà có ý thức xây dựng gia đình thì làm sao xã hội còn nguyền rủa, giáo huấn họ ? Dĩ nhiên, trong một số đông, có số ít đàn bà tự đặt mình ra ngoài khuôn khổ bảo vệ gia đình, chạy theo bản năng dục vọng. Đó là điều không tránh khỏi trong cuộc sống xã hội.

Bảo vệ hoà khí gia đình bằng phương thức nhường nhịn tuy có tác dụng khả quan, nhưng chưa đủ, nó chỉ là tác dụng cấp thời, ví như giữa hai quốc gia đang xung đột mà tạo được hưu chiến. Tính chất hoà bình tạm bợ ấy không thể giữ được lâu dài. Mọi sự bất bình trong cuộc sống phát xuất do tâm tư, do sự không đồng nhất ý chí hoặc mọi khác biệt giữa những cảm nghĩ về lẽ sống. Nhường nhịn tạm thời chỉ là để tránh những đổ vỡ lớn lao. Ví dụ :

« Chồng tới thì vợ phải lui,

Chồng tới, vợ tới thì dùi vào lưng ».

Thì đó chẳng qua để tránh một cuộc xung đột. Người bình dân một mặt chú trọng về nhường nhịn để tránh đổ vỡ, đồng thời cũng dùng tình cảm để hàn gắn, sửa chữa những cá tính không thích hợp với nhau nữa. Đây là phương châm ưu tú mà chỉ có ý thức xây dựng gia đình mới thực hiện nổi.

Ví dụ một người chồng nóng tính, hay đánh vợ, người vợ đã vận dụng tình cảm để ngăn cản tính xấu của người chồng. Chẳng hạn như :

« Giơ roi đánh thiếp sao đành,

Anh không nhớ thuở rách lành có nhau ! »

Còn gì thâm thuý và cảm hoá người chồng hơn là nhắc cho họ nhớ những lúc đồng cam cộng khổ mà hàng ngày vợ chồng phải chung lưng chiến đấu. Cá tính chỉ là trạng thái bất thường, mà tình cảm là yếu tố trường cửu trong yêu thương. Tình cảm có thể tiêu diệt cá tính hoặc sửa đổi cá tính.

Nhưng tình cảm giữa vợ chồng do đâu mà có ?

Nếu bảo rằng do tình yêu trai gái mà phát xuất tình cảm vợ chồng thì đó chỉ mới đúng một phần nào thôi. Thật ra tình vợ chồng khi đã chung nhau tạo lập gia đình thì tình cảm còn nằm trong yếu tố sinh hoạt.

Vậy yếu tố sinh hoạt là gì ?

Chúng ta có thể hình dung yếu tố sinh hoạt bằng những âu lo, những thấp thỏm, những khổ cực chất chứa trong đời sống hàng ngày của ho. Hai vợ chồng cùng làm lụng dưới một cánh đồng trưa, ánh nắng hè gay gắt khai thông niềm giao cảm giữa hai tâm hồn trong khổ cực. Hoặc đôi vợ chồng cùng chịu đói rã ruột để bừa cho xong một thửa ruộng trong gió rét căm căm. Tuy khổ cực, nhưng tình vợ chồng nhờ đó mà cảm mến nhau. Buổi sáng người vợ thức dậy sớm hơn, lo việc bếp núc để cho chồng nghỉ thêm chút nữa… Tất cả trạng thái ấy do hoàn cảnh sinh hoạt diễn biến tạo giữa đôi vợ chồng một sợi dây tình cảm gắn bó nhau, mà người ta thường gọi là tình gia đình. Vậy tình gia đình nếu nói riêng giữa hai vợ chồng thì phải gồm cả tình yêu trai gái và tình cảm sinh hoạt. Chính tình cảm sinh hoạt mới là yếu tố quyết định cho tình gia đình. Bởi vậy, có những trường hợp người vợ lầm lỗi, người chồng đáng lẽ phải thẳng tay trừng trị, nhưng vì tình cảm sinh hoạt đã buộc, họ phải hòa hoãn trước tội lỗi của người vợ. Ví dụ :

« Không đánh bậu để bậu luông tuồng,

Dang tay đánh bậu, thêm buồn dạ anh ! »

Cái gì đã làm họ buồn khi phải dùng võ lực để trừng trị một tội lỗi, nếu không phải tình gia đình ? Giữa tội lỗi của người đàn bà và tình cảm của người đàn ông, nếu bỏ yếu tố tình cảm sinh hoạt ra ngoài thì không còn gì nữa cả, bởi vì tình yêu trai gái chỉ được phép tồn tại khi tình yêu ấy chưa đổ vỡ, chưa bị mầm chán ghét len lỏi vào. Xét như thế thì tình gia đình xây dựng trên tình cảm sinh hoạt nhiều hơn là tình yêu giữa gái trai.

Đạt được tính chất căn bản ấy, ý thức của người bình dân luôn luôn xây dựng tình cảm gia đình trên căn bản tình cảm sinh hoạt. Nếu những người đàn bà thuộc các từng lớp thượng lưu quí phái sống với gia đình hay điểm trang sắc đẹp, lòe loẹt áo quần, thoa son điểm phấn, cốt đem sắc đẹp quyến rũ tình yêu của chồng để làm nền tảng cho tình cảm gia đình thì người đàn bà bình dân, trái lại, không chú trọng về dung nhan của họ. Chúng ta thường thấy những cô gái quê lúc chưa lấy chồng thì tóc tai ngay ngắn, ăn mặc duyên dáng, tuy không lòe loẹt phấn son nhưng phát tiết được tính chất gợi tình. Nhưng, khi họ đã có chồng rồi thì không ai còn chú trọng đến nhan sắc nữa, họ lo làm lụng nuôi con, thân hình họ ra sao cũng mặc. Có kẻ cho rằng người đàn bà nhà quê lúc đã thành gia thất, công việc bề bộn, phải dầm mưa dãi nắng suốt ngày, vất vả như thế còn thì giờ đâu trau chuốt dung nhan ? Nói như thế cũng chỉ đúng phần nào, Ở nhà quê không phải chỉ người đàn bà có chồng mới bận rộn, khổ cực, mà ngay cả những cô gái quê, lúc chưa lấy chồng cũng phải dầm sương dãi nắng, khổ cực không kém gì gái có chồng, thế mà họ vẫn giữ được màu duyên dáng để gợi cảm những trai tơ, thế thì tại sao gái có chồng lại không thể bảo vệ được dung nhan để cho chồng say sưa, quí mến ? Thật ra quan niệm người bình dân không giống với quan niệm của các bậc thượng lưu trưởng giả đâu. Các bậc thượng lưu trưởng giả vì ăn không ngồi rồi, không có việc gì để đồng cam cộng khổ với chồng, không tạo được tình cảm sinh hoạt, nên phải xây dựng tình gia đình trên căn bản yêu đương gái trai, còn đối với người bình dân, do hoàn cảnh sinh sống hàng ngày, tình cảm sinh hoạt đã gắn liền với tình gia đình thì cần gì phải đem tình cảm gái trai làm tình cảm gia đình là việc thứ yếu.

Trong quyển tiểu thuyết xã hội tình cảm « Anh phải sống » của ông Khái-Hưng và Nhất-Linh đã có một đoạn diễn tả tình cảm sinh hoạt của đôi vợ chồng trong giới bình dân như sau :

« Trên đê Yên-Phụ, một buổi chiều mùa hạ. Nước sông Nhị-hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưởng muốn lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi. Theo dòng nước đỏ lờ đờ, những thân cây, những cành khô trôi từ rừng về, nổi lênh bênh như một dãy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thật nhanh tới một nơi không bờ, không bến. Đứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ra ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài nói : « Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau quá. Mưa đến nơi mất, mình ạ ! » Người chồng cũng thở dài đi lững thững. Rồi bỗng đứng lại hỏi vợ : « Mình đã thổi cơm chưa ? » Vợ buồn rầu đáp : « Đã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay ». Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau… Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ. Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ : Liều ! »

Chính nghèo đói, khổ cực, gian nguy là cái lò đúc những tình cảm sâu xa về sinh hoạt gia đình. Tinh thần bảo vệ gia đình phát xuất từ tình cảm sinh hoạt thì ngược lại tình cảm sinh hoạt ảnh hưởng rất mạnh vào tinh thần bảo vệ gia đình. Nếu chúng ta đem phân tích giữa hai tính chất bảo vệ gia đình của lớp người quí tộc và lớp người bình dân thì chúng ta phải thừa nhận rằng tính chất bảo vệ gia đình của lớp người bình dân chặt chẽ và sâu sắc hơn tính chất bảo vệ gia đình của lớp người quí tộc. Bởi lẽ, lớp người quí tộc căn cứ trên tình cảm yêu đương, chịu gò ép trong khuôn khổ chiều chồng nuôi con để xây dựng tình gia đình. Tính chất ấy không bền vững. Nhan sắc người đàn bà dù trau chuốt khéo léo đến đâu cũng không sao chống lại được sự mài giũa của thời gian. Khi nhan sắc đã phai mờ, tình cảm người chồng trong lãnh vực yêu đương không thể giữ mãi được. Do đó, người đàn ông trong gia đình thượng lưu, quí phái thường ngoại tình hơn người đàn ông trong gia đình bình dân. Mặt khác, ý thức chiều chồng trong lớp người đàn bà thượng lưu tuy mạnh mẽ hơn, song vì người đàn bà thượng lưu dùng sắc đẹp chinh phục tình cảm người chồng, nên người đàn bà lúc còn nhan sắc tự nuôi trong người một ý thức tự phụ, và khi nhan sắc đã tàn phai, người đàn bà trở nên thiếu kiên nhẫn để chịu đựng sự chiều chuộng ấy. Trái lại, lớp người bình dân lấy tình cảm sinh hoạt làm cơ sở cho tình cảm gia đình, thì thời gian càng dồn dập, lâu dài bao nhiêu càng được vun đắp, bồi dưỡng bấy nhiêu.

Nói như thế không phải trong ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình, người bình dân chỉ thực hiện hai yếu tố nhẫn nhục và bồi đắp tình cảm sinh hoạt mà thôi. Chính họ còn đem tình cảm gia đình để đấu tranh về ý thức hệ, tức là đi tìm cho nhau một lẽ sống hợp với quan niệm của hai vợ chồng. Ý thức ấy được thể hiện qua các câu ca dao như :

« Nước còn quyến cát làm doi,

Huống chi ta chẳng tài bồi lẫn nhau ».

Trong cuộc sống chung giữa đôi vợ chồng, họ đặt ngay vấn đề xây dựng bằng cách khuyên can, sửa chữa cho nhau trên căn bản tình cảm gia đình. Như vậy, chúng ta không thể xem cuộc sống người bình dân như những sinh vật thiếu cảm tính, và không có ý thức chung sống. Đây, chúng ta nghe họ nói lên những khó khăn trong ý thức tạo lập gia đình :

« Đạo vợ chồng khó lắm bạn ơi !

Chẳng dễ như ong bướm đậu rồi lại bay.

Đạo vợ chồng chẳng dễ đổi thay.

Dẫu làm nên võng giá hay rủi ăn mày cũng cứ theo nhau ».

Hoặc : « Đạo cương thường không phải như cá tôm,

Đương mua mớ nọ lại chồm mớ kia ».

Rõ ràng họ ý thức được ý nghĩa của tính chất gia đình trong chung thủy. Khi đã là vợ chồng, tạo lập gia đình rồi thì xây dựng, bồi đắp cho nhau để tạo hạnh phúc đó là điều cốt yếu đối với họ. Cho nên, trước khi thành gia thất, họ khuyên nhau :

« Anh đừng đem dạ đổi dời,

Chớ nghe lời thế sự, rã rời gia cang ».

Hoặc : « Chợ Bến-Thành dời đổi,

Người sao khỏi hợp tan.

Xa gần giữ nghĩa tào khang,

Chớ ham nơi quyền quí mà đá vàng xa nhau ».

Hay : « Non non, nước nước khơi chừng,

Ái ân đôi chữ xin đừng có quên.

Tinh sâu mong trả nghĩa đền,

Đừng vui chốn khác mà quên chốn này.

Nước vơi rồi nước lại đầy,

Tình kia chưa trả, nghĩa này chớ quên ! »

Người đàn ông cũng như người đàn bà, lúc đã có ý muốn thành gia thất, lòng họ cũng xây đắp mộng ước, họ mong tạo lập một gia đình êm ấm, không xảy ra những rạn nứt, vì vậy họ bảo người đàn bà :

« Lời giao ngôn đá nát vàng phai,

Dặn em đừng nhẹ dạ thương ai bao giờ ».

Hoặc : « Rủ nhau xuống bể mò cua,

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng.

Em ơi ! chua ngọt đã từng,

Non xanh, nước bạc ta đừng quên nhau ! »

Chính họ đã đem tình cảm sinh hoạt để bảo đảm tình cảm gia đình, và họ còn đặt tin tưởng ở căn bản tình cảm ấy có thể hun đúc, cảm hóa nhau, trở thành tương đồng trong lẽ sống. Đây, chúng ta nghe người đàn ông bày tỏ hy vọng của họ :

« Lửng lơ vừng quế soi thềm,

Hương đưa bát ngát còn thêm bận lòng.

Gió hiu thổi ngọn phù dung,

Dạ nàng là sắt, anh nung cũng mềm ».

Lấy cái gì để rèn đúc người đàn bà ? Lấy cái gì để nung tấm lòng người đàn bà cho mềm ? Đây chính là tình cảm gia đình, tình cảm của sinh hoạt hàng ngày. Nó là ngọn lửa mầu nhiệm nhất để uốn nắn những cá tính của bản năng. Người đàn ông dùng võ lực chỉ có thể làm thỏa mãn những chán ghét của mình đối với những thói hư tật xấu của người đàn bà mà không thể nào làm mềm lòng họ được. Chỉ có tình cảm mới đủ sức chinh phục cá tính của bản năng.

Bởi vậy, người đàn bà khi gặp phải người chồng nặng về cá tính của dục vọng, họ vẫn phải chinh phục người đàn ông ấy bằng tình cảm. Ví dụ, gặp người chồng say mê cờ bạc, người vợ đã đem tình gia đình cảm hóa, như :

« Anh ơi, anh ở lại nhà,

Thôi đừng cờ bạc nữa mà hư thân.

Ham chi những của phù vân.

Lỡ ra công nợ nhiều phần xấu xa ».

Hoặc : « Anh đừng cờ bạc đua chơi,

Sao cho sự nghiệp ra người trượng phu,

Làm sao nên tiếng danh nho,

Thần trung, tử hiếu để cho người nhìn ».

Hoặc gặp phải người chồng ăn chơi, đàng điếm, người vợ cũng vẫn phải dùng tình cảm gia đình để cảm hóa như :

« Anh ơi ! anh ở lại nhà,

Anh đừng vui thú nguyệt hoa chơi bời.

Còn tiền kẻ rước người mời,

Hết tiền chẳng thấy một người nào ra ».

Họ gặp phải người chồng biếng nhác, không lo xây dựng sự nghiệp gia đình, người vợ khuyên :

« Triều đình còn chuộng thi thư,

Khuyên anh đèn sách sớm trưa học hành.

May nhờ phận có công danh,

Mà anh phú quí, ấy mình vẻ vang.

Anh đừng trai gái, hoang đàng.

Cũng đừng chè rượu nữa mang tiếng cười ».

Những lời cảm hóa trên đây nếu đặt ngoài ý thức xây dựng và bảo vệ gia đình chắc chắn không đem lại một kết quả nào, bởi vì bản năng dục vọng con người khi đã đòi hỏi, say mê thì không có sức mạnh nào ngăn chận nổi. Trên thực tế, chúng ta không lạ gì khi thấy những chàng trai bê tha, trụy lạc, nhưng đến lúc lập gia đình, tức khắc họ trở về với nhiệm vụ. Cho nên, nếu không nhờ tình cảm gia đình cảm hóa thì cũng chẳng bao giờ có những lời tha thiết của người đàn ông diễn đạt qua các câu ca dao như :

« Anh mải mê cờ bạc phải lạc nhân tình nhân tình,

Dầu anh thua cách mấy cũng không bỏ mình tả tơi ».

Hoặc : « Đêm thanh, nguyệt xế, sao tà,

Anh nguyện thề tu bỉ, ở nhà với em ».

Việc cảm hóa giữa vợ chồng tuy thuộc phạm vi tình cảm, nhưng lại cũng phải vận dụng ít nhiều kỹ thuật. Có những khi người chồng cùng một lúc nhiễm nhiều thói hư tật xấu, người vợ phải lựa những thói hư nào ít tai hại hơn để cảm hóa trước. Đây là trường hợp mà người đàn bà phải làm công việc ấy rất tế nhị. Chúng ta hãy nghe người đàn bà khuyên chồng :

« Khuyên anh cờ bạc thời chừa,

Rượu chè, trai gái, say sưa mặc lòng ».

Cờ bạc, trai gái, rượu chè đều là những nết hư tật xấu cả, nhưng người đàn ông rượu chè, trai gái chỉ mang tiếng mà thôi, không khuynh gia bại sản bằng cờ bạc, bởi vậy người đàn bà phải biết điều nào trọng, điều nào khinh để cảm hóa người đàn ông. Theo ý thức trên đây người đàn bà đã nặng về ý thức bảo vệ gia đình hơn tình cảm cá nhân. Người đàn ông rượu chè, trai gái, người đàn bà nào không bực mình và ghen tương, thế mà khi ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình được xem trọng, thì việc ghen tương trở thành thứ yếu.

Qua đến việc chiều chồng nuôi con chính cũng là một phương thức bảo vệ gia đình mà người đàn bà bình dân vẫn cho đó là quan trọng, mặc dù họ không tán thành cái lối chiều chồng theo quan niệm phụ quyền, nghĩa là chiều chồng bằng cách cúi đầu tuân phục. Ví dụ :

« Đốt than nướng cá cho vàng,

Dành tiền mua rượu cho chàng uống chơi ».

Cái lối chiều chồng như vậy phát xuất do tình cảm gia đình, do tình thương chồng mà người bình dân lấy đó làm nguồn âu yếm trong hạnh phúc yêu đương. Hoặc có lúc họ bảo :

« Uốn tay dệt vải cho ngoan,

Lấy tiền đóng góp việc quan cho chồng ».

Thì đó cũng chỉ vì ý thức bảo vệ gia đình, người đàn bà không muốn để cho quan trên bắt nạt chồng mình mà phải cố gắng cáng đáng việc nhà.

Khác với lối chiều chồng trong ý thức phụ quyền, người đàn bà bình dân nhiều lúc vì nghĩa vụ gia đình, vì trách nhiệm bảo vệ hạnh phúc mà phải nhẫn nhịn, hoặc gánh chịu những những bất công do ảnh hưởng của chế độ phong kiến gây nên, chẳng hạn như tệ nạn mẹ chồng nàng dâu.

Người đàn ông khi đã ý thức yếu tố hòa thuận là nền tảng của hạnh phúc gia đình thì chính họ cũng không muốn xảy ra những tệ nạn ấy. Bởi vậy họ đã khuyên nhủ người đàn bà :

« Làm dâu khổ lắm em ơi,

Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than ».

Đó chính là họ đã cảm thông những tập tục của phong kiến áp chế người đàn bà, mà người đàn ông – lớp người bình dân – khi nặng về ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình cũng không thích cho vợ mình phải khổ cực như vậy.

Tuy nhiên, cuộc sống trong xã hội rất phức tạp, ý thức xây dựng và bảo vệ gia đình mới chỉ là ý thức nội tại, chủ quan, ý thứ ấy còn phải chịu ảnh hưởng mọi sinh hoạt chung của xã hội bên ngoài mà chúng ta gọi là ý thức ngoại tại, khách quan nữa. Nếu mỗi con người là một cá thể tranh đấu để tự tồn thì chính gia đình cũng là một cá thể muốn tự tồn, tự lập cũng cần phải tranh đấu cả hai mặt : nội tại và ngoại tại. Cho nên, ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình nhiều lúc bị ảnh hưởng vào xã hội bên ngoài, làm cho ý thức xây dựng gia đình biến thái, sinh ra những bất mãn cá nhân, gây đổ vỡ.

Nhưng dù có dùng yếu tố nào để xây dựng gia đình thì cuộc sống con người cũng cần phải dựa trên hai nền tảng không thể thiếu : đó là nền tảng tinh thần và vật chất.

Trước đây, vào thời phong trào lãng mạn tràn ngập, nền tảng gia đình được đặt nặng trên yếu tố tinh thần, người ta đã lấy ý hướng về tâm tư như : « Một túp lều tranh, hai quả tim vàng ».

Người ta quan niệm gia đình chỉ cần xây dựng bằng tinh thần, nghĩa là bằng yếu tố chủ quan nội tại là đủ. Người ta cứ tưởng tình yêu trai gái là sức mạnh vạn năng, bất chấp những khổ cực về vật chất, bất chấp cả những gì thiếu thốn hàng ngày. Họ chỉ cần yêu nhau cho nồng nàn, da diết là có thể sống được, có thể gây dựng gia đình được. Nhưng thực ra đó chỉ là ước vọng của tình cảm lãng mạn. Tinh thần không thể thiếu vật chất mà tồn tại, cũng như vật chất không thể thiếu tinh thần để bồi dưỡng, xây đắp.

Ngày nay, thế giới khoa học tiến triển đem đến cho loài người những phương tiện vật chất dồi dào, ánh sáng văn minh của khoa học cơ giới đã làm cho nền văn minh của đạo học lu mờ, ý niệm gia đình cũng vì đó mà đổi mới. Người ta những tưởng cuộc sống loài người chỉ cần có nhiều tiền bạc, ăn sung mặc sướng là đủ, và muốn xây dựng gia đình cũng chỉ cần có nhiều tiền để mua lấy đầy đủ phương tiện vật chất là tìm được hạnh phúc rồi.

Tuy nhiên, thực tế lại khác hẳn. Khi thiếu phương tiện vật chất thì yếu tố gia đình vì sự thiếu thốn ấy mà đổ vỡ, ngược lại khi phương tiện vật chất dồi dào thì người ta lại cảm thấy cuộc sống như trống rỗng, tẻ nhạt, người ta lại đòi hỏi yếu tố tinh thần. Cho nên yếu tố tinh thần là một yếu tố quan trọng cho việc tạo dựng hạnh phúc gia đình. Nó luôn luôn đóng vai một cán cân để giữ mức thăng bằng giữa tinh thần và vật chất.

Đó là nhận xét chung về tiến trình của xã hội loài người, riêng đối với giai cấp bình dân qua các thời đại đổi thay giữa hai khuynh hướng đạo học và khoa học, căn bản xây dựng gia đình của người bình dân tuy có ảnh hưởng ít nhiều, song họ vẫn giữ được thăng bằng trong ý thức đạo học và khoa học. Họ vẫn phải làm lụng cực nhọc để tranh thủ phương tiện vật chất cho gia đình, đồng thời cũng dùng tình cảm sinh hoạt của họ để ổn định mọi chênh lệch về tinh thần, về cuộc sống lứa đôi.

*

Tóm lại, từ xưa đến nay, về ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình của người bình dẫn vẫn dựa trên bốn yếu tố căn bản :

- Dùng mọi nhẫn nhục để tạo hòa khí trong gia đình dù cá nhân họ phải chịu một vài bất công, áp bức.

- Không dùng tình yêu trai gái làm yếu tố chính cho tình gia đình, mà lấy tình cảm sinh hoạt làm căn bản.

- Đem tình cảm sinh hoạt chinh phục mọi cá tính để cảm hóa với nhau trong cuộc sống chung.

- Mặc dù quan niệm xã hội thay đổi từ ý thức đạo học sang ý thức khoa học, người bình dân vẫn duy trì được cơ sở gia đình trên căn bản thăng bằng đạo học và khoa học, tức là yếu tố vật chất và tinh thần.

(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu

1. « Ai về, đợi với em cùng,

Thân em nay bắc, mai đông một mình.

Chi bằng ruộng tốt rừng xanh

Vui cha, vui mẹ, vui anh em nhà ».
2. « Ai ơi đừng phụ bát đàn,
Nâng niu bát sứ vỡ tan có ngày ».
3. « Cây thìu điu trong tươi ngoài héo,
Cây thù đủ trong héo ngoài tươi.
Ngẫm trong gia đạo ít có người như anh ».
4. « Con sông kia nước chảy lờ đờ
Con thuyền lửng đửng với trăng mờ nào soi.
Con sông kia, bên lở, bên bồi,
Lở kia lở mãi, bên bồi bồi thêm.
Lúc bao giờ gió đứng, sóng êm,
Con thuyền anh xuôi ngược qua đêm lại về.
Với em, anh trót nặng lời thề ».
5. « Con gái lớn ơi ! mẹ bảo đây này,
Học buôn học bán cho tày người ta.
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười,
Dù no dù đói cho tươi,
Khoan ăn bớt ngủ là người lo toan.
Phòng khi đóng góp việc làng,
Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng.
Trước là đẹp mặt cho chồng
Sau là họ mạc cũng không chê cười.
Con hãy nhớ bấy nhiêu lời ».
6. « Cờ bạc nó đã khinh anh,
Áo quần bán hết một manh chẳng còn.
Gió đông nam chui vào đống rạ,
Hở mông ra cho quạ nó lôi.
Anh còn cờ bạc nữa thôi ! »
7. « Cờ bạc anh đánh có chừng,
Hết khăn, đến áo, dây lưng cùng quần ».
8. « Dạy con từ thuở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở ban sơ mới về ».
9. « Đã lòng đùm bọc vì yêu,
Thời anh đắp điếm trăm điều dại khôn ».
10. « Gió đẩy đưa hạt mưa uốn éo,
Đem em về dạy khéo dạy khôn ».
11. « Mới yêu thì cũ cũng yêu,
Mới có mỹ miều, cũ có công lênh ».
12. « Ở cho chung thủy vẹn toàn,
Lên non lên dõi, xuống thuyền xuống theo ».
13. « Quốc kêu khắc khoải mùa hè,
Làm thân con gái phải nghe lời chồng.
Chữ rằng phu xướng phụ tùy,
Làm thân con gái lấy chồng xuất gia ».
14. « Rắp toan cỡi ngựa ra về,
Chàng đề câu đối, thiếp đề câu thơ.
Mải vui ngồi chốn đám cờ,
Tưởng nhân duyên ấy bao giờ cho quên.
Chàng về giữ việc bút nghiên,
Đừng tham nhan sắc mà quên học hành.
Một mai chiếm được khoa danh,
Trước là rạng nghiệp, sau mình vinh thân ».
15. « Thương ai cho bằng thương chồng,
Bởi chồng cờ bạc, nên lòng chẳng thương ».
16. « Trăm năm lòng gắn dạ ghi,
Nào ai thay nút, đổi khuy cũng đừng ».
17. « Trồng trầu thì phải khai mương,
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng ».
18. « Trời sinh ra ông tướng giặc,
Cờ bạc, xóc đĩa dông dài cả đêm.
Canh trước tướng hãy còn tiền,
Canh sau, cổ áo ngồi bên lọ hồ.
Cái ngảnh đi, thò tay móc lọ,
Cái ngảnh lại, phì phò chén say.
Còn tiền đánh cái cũng hay,
Hết tiền đi ngủ lại hay giật mình.
Tưởng sự tình, bạc này hai xấp,
Chẳng ai ngờ nó lại xấp ba.
Bấy giờ quan tướng thua ra,
Áo quần cố hết, trở ra về trần.
Về giữa sân vạch quần bắt rận,
Vợ trong nhà, vợ giận chẳng nấu cơm.
Bấy giờ tướng chúi ổ rơm,
Chẳng dám hạnh nước, hạch cơm, hạch trầu.
Vợ thương chồng ra màu rét mướt,
Đem tiền đi chuộc lấy áo về,
Từ rày tướng hẳn xin thề,
Đã đi cờ bạc, xóc đĩa còn về chi đây ? »
19. « Xin đừng ra dạ bắc nam.
Đừng chê lươn ngắn, chớ tham trạch dài ».
đ) Ý thức về giáo dục gia đình
Giáo dục là một ý thức đã có từ ngàn xưa, khi loài người bắt đầu sống chung và tạo lập xã hội, cho nên giáo dục trở thành nền tảng của dân tộc.
Vậy, chúng ta thử tìm hiểu xã hội loài người do đâu mà phát sinh ý thức giáo dục ?
Nói với nghĩa hạn hẹp thì giáo dục là phương thức nuôi nấng và dạy dỗ, việc này chỉ áp dụng cho trẻ con, còn đối với người lớn thì không cần có phương thức giáo dục, mà chính họ phải tự tạo cho mình một hiểu biết khôn ngoan do cuộc sống thường ngày đưa đến cho họ
Nói với nghĩa văn học thì giáo dục nằm trong hệ thống văn hóa chung của dân tộc. Mỗi dân tộc khi đã trưởng thành trong cơ sở xã hội tất nhiên phải để lại trên lịch sử họ những dấu vết tâm tư, những khả năng chiến đấu về tinh thần trong mọi sinh hoạt, những khả năng ấy đúc kết và tạo cho mỗi dân tộc một nền giáo dục truyền thống.
Nói với nghĩa chính trị thì giáo dục là một hệ thống nằm trong guồng máy cai trị. Người ta hình dung bộ máy cai trị gồm ba hệ thống : trường học, quân đội và nhà tù. Như vậy, đối với chính trị, giáo dục là một hệ thống uốn nắn tâm tư con người đi vào chế độ hiện hữu.
Nói với nghĩa kinh tế thì giáo dục là một hệ thống rèn luyện và trao đổi những kinh nghiệm, những khả năng hiểu biết trong lãnh vực mưu sinh.
Nói với nghĩa xã hội thì giáo dục là khả năng truyền đạt những kinh nghiệm trong cuộc sống con người để đưa con người đến một trạng thái hòa nhã, trang trọng trong mọi giao tiếp thường ngày.
Tất cả những yếu tố trên đã đúc kết và phát sinh ý thức giáo dục, coi tổ chức giáo dục như nền tảng phát huy mọi khả năng tiến bộ của mỗi dân tộc.
Tuy nhiên, nếu chúng ta đứng trên quan điểm chung mà nhận xét thì từ xưa đến nay, ý thức giáo dục vẫn được chia làm hai lãnh vực.
Lãnh vực này phát xuất do nguồn cảm nghĩ của con người đối với lẽ sống. Trong ý thức sinh hoạt hàng ngày, con người cố tìm một trạng thái hòa hợp với bản chất mình để giải quyết những mâu thuẫn trong sinh hoạt tập thể. Nó là nguồn gốc của đạo học.
Lãnh vực này phát xuất do nhu cầu cơm áo, con người cố đem hết khả năng hiểu biết của mình đã đạt được trong việc mưu sinh đúc kết thành những kinh nghiệm phổ biến, để nâng cao mức sống vật chất con người mỗi lúc một dồi dào thêm. Đó là nguồn gốc của kỹ thuật học hoặc khoa học.
Hai hệ thống giáo dục ấy bành trướng dần và phân chia thành nhiều ngành trong các học đường cho đến ngày nay.
Căn cứ theo ý thức giáo dục giữa Đông-phương và Tây-phương thì lịch sử văn học giữa hai miền từ trước có chỗ khác biệt ! Đông-phương chú trọng về đạo học, Tây-phương nghiêng hẳn về khoa học, nhưng ngày nay thì ý thức giáo dục của hai miền đã bắt đầu dung hợp. Trong lúc Đông-phương đi tìm sự tiến bộ của khoa học thì Tây-phương lại quay về đào xới những cái hay trong đạo học của Đông-phương.
Như vậy, ý thức giáo dục của con người dù có phân chia trăm đường nghìn lối, nguồn gốc cũng chỉ nằm trong hai lãnh vực đạo học và khoa học mà thôi. Đó là nói đến hệ thống giáo dục chung của mỗi quốc gia. Hệ thống giáo dục quốc gia rất có ảnh hưởng đến ý thức giáo dục gia đình, và ngược lại, ý thức giáo dục gia đình, trở thành nền tảng cho hệ thống giáo dục quốc gia.
Sài Gòn, 1/4/1970
Nguyễn Tấn Long - Phan Canh
Nguồn: tusachtiengviet.com
Theo https://www.dtv-ebook.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...