Thứ Ba, 29 tháng 11, 2022

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 3 - Vũ trụ quan 7

Thi ca bình dân Việt Nam quyển 3
Vũ trụ quan 7

B) SỰ DUNG HỢP VÀ BIẾN THÁI TRONG THI CA
Nếu dòng văn học bác học do biến cố xã hội tác động vào dòng văn học bình dân, tạo thành những biến thái trong thi ca thì nền văn học bình dân cũng do sự đụng chạm ấy tự nó biến đổi ít nhiều về tính chất. Chúng ta có thể gọi đó là sự dung hợp giữa hai dòng văn học trong nền văn hóa dân tộc.
Chính ở trạng thái dung hợp này, lịch sử văn học Việt-nam đã ghi dấu nhiều cuộc tranh luận rất sôi nổi ở thời tiền chiến. Nó là yếu tố tự nhiên trong quy luật tương quan và phát triển. Cho nên, bất kỳ nền văn chương bình dân hay bác học, khi có sự đụng chạm với ngoại lai, đều nẩy sinh tính chất dung hợp của nó.
Thấy rõ trạng thái này, ông Nhất-Linh trong một bài báo Phong-hóa số 42 (14-7-1933) đã chê trách các nhà văn trong giới bác học. Ông viết:
Người nào rỗng tư tưởng, không dám dùng lối văn giản dị, vì sợ người ta đọc biết ngay là mình rỗng tư tưởng…
Các nhà thâm nho thì dùng thật nhiều chữ nho để tỏ mình học rộng. Các nhà Tây-học thì dùng những câu lạ, những tiếng nói thật ngộ nghĩnh để tỏ rằng mình khác đời…
Thành thử họ không dùng lối văn Tàu cũng dùng lối văn Tây. Còn cái thứ văn giản dị, rõ ràng, nói sao viết vậy, mà viết có đầu có đuôi, hay ở chỗ gọn gàng, lưu loát, nghĩa là lối văn An-nam thì họ không dùng đến. Và họ viết văn cốt để lòe người dốt nát.
Xin nêu dưới đây vài cái thí dụ viết phỏng theo hai lối văn lòe đời ấy.
Văn lối Tàu : Nhân thế bất tràng cửu. Bỉ nhân trầm tư mặc tưởng, nghiên cứu thực lực về cái thâm u, đại nghĩa của nhân thế, sau khi đã biện phục để xác tín, đã chứng cứ vào những lý thuyết của các nhà đại cổ, kim, đông, tây, thì phải thừa nhận rằng nhân thế là một gang tay, là bạch câu quá khích vậy.
Ô hô! Đắc vậy thay! Thống khổ vậy thay! Nhân thế đoản lược vậy thay! Nhân sinh tam vạn lục thiên nhật, cái thời gian ấy hà đẳng mà tràng cửu? Nhiên nhi ai là kẻ đã đạt cập cái tất sinh của thời kỳ ấy. Bậc thánh nhân như đức thánh Khổng tử cũng chỉ đến thất thập chi ngoại nhi di hĩ.
Huống hồ, thập ngũ dĩ nội là thời kỳ ấu trĩ, chích chích chi chi, đã biết gì là lạc thú. Ngũ thập dĩ ngoại, vô xỉ lão niên, còn biết chi là lạc thú.
Vậy thời, nhân thế chỉ loanh quanh cái thời gian hiệp xỉ vào khi thập ngũ niên chi gian mà thôi.
Vì đã am hiểu, đã quán thông, đã bao hàm cái ý nghĩa bản nguyên, chí trọng của nhân thế, nên đời xưa các đấng thánh hiền, quân tử, các bậc uyên bác thi nhân đã dĩ nhân vi quí vậy.
Hỡi các bậc thanh đầu trí thức, chúng ta đang độ thiếu thời, thì nên tận tốc mà hưởng thụ những khoái lạc của cái thời gian hoàng kim ấy, nghĩa là cái tuổi thiếu niên cường tráng vậy.
Thì ta đi chơi, nào ai phòng ngự, nào ai cấm chỉ mà ty úy cụ. Ta chơi sơn lâm chi nguyệt, thủy diện chi phong, hồ thượng chi thuyền, hoa trung chi tửu. Ta chơi cho tái cấp, kẻo một mai bừng con mắt, tỉnh giấc hoàng lương thấy bạc thủ ở lúc lâm chung. Lúc đó mới thâm hiểu cái nghĩa câu « nhân thế bất tràng cửu » thì, ôi thôi, đã quá ư trì vãn rồi vậy ! ô hô !
Lối văn Tây : Con quạ lửa vừa ẩn ở chân trời, thời con thỏ bạc đã ló đầu lên nóc nhà, nhìn một cách âm thầm xuống dưới bếp.
Một làn không khí mát tung ra, gió thổi, lá ào ào như xóa tan bầu trời lặng lẽ.
Bấy giờ ta ngồi trong phòng, trước một luồng không khí quay cuồng bởi cái quạt máy dưới ánh ngọn đèn trăm hai mươi nến, rồi ta ném làn nhỡn tuyến qua cửa sổ, rơi đánh bịch xuống một con cóc đang ngồi tư lự bên hòn gạch.
Cảm tình ta nôn nao như xoáy tận đáy cõi lòng, trí tưởng ta nẩy phăng ra ngoài óc, qua tim ta như hồi hộp, muốn phá tan lồng ngực mà nhảy ra ngoài như con cóc trong hang nhảy ra vậy.
Sực nhớ đến ý trung nhân mà bấy lâu ta vẫn coi như một nửa thân người của ta. Cái hình ảnh nàng chưa xóa nhòa trong trí nhớ, còn in sâu trong bể óc, cái vẻ mặt hơ hớ hai mươi cái xuân xanh đang hiện ra trong cùng.
Tưởng tượng của ta. Bấy lâu nàng vẫn mang trái tim hòa theo nhịp trái tim ta, nàng có biết đâu rằng nay đem một khối tình oan uổng mà thả vào một vũng nước đầy.
Nhưng thôi, ta không muốn khóc, e hai dòng lệ rơi thánh thót vào trái tim đau đớn.
Ta quả quyết ngẩng đầu lên, tung tầm mắt ra ngoài phố, thì này kia, những cây cột trơ trọi, đứng giương con mắt buồn ngủ, nhìn đường tờ mờ trăng. Ta cũng buồn ngủ nốt.
Viết mấy dòng trên đây, ông Nhất-Linh muốn đả kích tinh thần nô lệ văn học ngoại lai, tách rời văn học dân tộc của lớp người trong giới bác học.
Tuy nhiên, đó chỉ là ý muốn của cá nhân, mà trên thực tế, lịch sử đã chứng minh không thể nào tránh khỏi những pha trộn từ ý thức đến sinh hoạt, khi đã bị yếu tố thời gian, không gian tăng trưởng và mở rộng.
Ngay trong thi ca bình dân cũng thế. Chúng ta không thể phủ nhận những biến thái của tâm tư khi dòng văn chương bình dân được lớp người trong lãnh vực bác học cùng chung sinh hoạt với họ.
Người bình dân không biết đọc sách thánh hiền, không biết nghiên cứu những tâm tư của mọi dân tộc khác trên sách vở du nhập vào Việt-nam, tuy nhiên, trong ca dao chúng ta vẫn thấy thỉnh thoảng họ có những ý tưởng thoát ra ngoài thực tại của cuộc sống. Ví dụ họ đã dùng những câu hát điệu hò như :
Đêm nằm thổn thức vào ra,
Chờ cha mẹ ngủ lén qua thăm mình.
Tui than hết sức, tui dứt hết tình,
Thiếu điều cắt ruột trao cho mình, mình ơi !
Dầu mà kết chẳng đặng đôi,
Một lần này nữa xin thôi cang thường.
Nhu thắng cang, nhược thắng cường,
Tui ở mềm như chuối, đạo cang thường còn xa.
Gá duyên cha mẹ rầy la,
Choàng tay qua cổ con ba khóc ròng.
Gió đưa cụm liễu cong vòng,
Muốn nên chồng vợ ôm lòng đợi anh.
(Hò xay lúa)
Lối dùng chữ, dùng điển tích trong thi ca bình dân rõ ràng họ đã ảnh hưởng ở dòng văn chương bác học.
Chúng ta có thể nghi ngờ những câu hát trên đây phát xuất từ một nhà thơ trong giới bác học. Nhưng dù sao, khi người bình dân đã đem ra áp dụng trong sinh hoạt của họ, tất nhiên họ đã có một phần nào ưa thích. Và sự ưa thích ấy đã làm người bình dân quen thuộc dần với những ý tưởng và từ ngữ trong văn chương bác học rồi. Do đó, văn chương bình dân và bác học từ chỗ phân chia đi dần đến chỗ dung hợp và biến thái.
Để chứng minh tính chất biến thái của thi ca bình dân không phải ít, chúng ta thử lược dẫn sau đây một số câu hò câu hát vừa ngây ngô, mộc mạc, vừa pha trộn những từ ngữ nho học. Ví dụ như :
Chẳng viếng thăm mình nói bạc tình,
Còn viếng thăm phụ mẫu đánh mình, đau tui.
Cá sầu ai, cá chẳng quạt đuổi,
Như lan sầu huệ, như tui sầu mình.
Tử sanh, sanh tử tận tình,
Dù ai ngăn đón, tui cứ mình tui thương
Đón ngăn đường tắt tui hỏi gắt chung tình,
Điểu xa mai, mai xa điểu, tui xa mình, tại ai?
Cây oằn vì bởi trái sai,
Tui xa mình vì bởi ông mai ít lời.
(Hò xay lúa)
Gặp mình may thật quá may,
Trông cho trời tối bắt tay đặng về.
Ngãi nhân nay đã giao kề,
Còn lo một nỗi nặng nề công lao.
Chữ rằng bằng hữu chi giao,
Tui đây mình đó biết làm sao, bớ mình !
(Hò đối đáp)
Ai xui ai khiến bất nhơn,
Tui nay gặp bạn thương hơn vợ nhà.
Nhị nhơn đối khẩu giao hòa,
Hò chơi chồng vợ, tối về nhà người dung.
(Câu hát huê tình)
Cây cao gió thổi cành rung,
Đôi ta hòa huyết uống chung lời thề.
Thăm em một chút anh về,
Đường đi viễn vọng sợ bề mẹ cha.
(Câu hát huê tình)
Căn cứ vào diễn biến trên, chúng ta thấy mọi sự dung hợp đều đi đến chỗ biến thái.
Tuy nhiên, biến thái lại không có nghĩa là làm mất hẳn tính chất căn bản của một dòng thi ca, mà chỉ là tiến trình lịch sử của một nền văn hóa dân tộc.
Thử lấy một ví dụ, những thi phẩm của dòng thi ca bác học, dù có trở về với sinh hoạt bình dân, tính chất bác học trong những thi phẩm ấy cũng không thể nào làm tan biến những cảm nghĩ của họ được.

Thơ Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn-đình-Chiểu được các nhà nghiên cứu văn học cho là gần gũi với gian cấp bình dân, và thực tế được giới bình dân ưa thích. Tuy nhiên, cũng không vì thế mà thơ Lục Vân Tiên mất hẳn tính bác học. Chúng ta thử lược dẫn một đoạn khi Vân-Tiên gặp Nguyệt-Nga :
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Đó là phận gái, đây là phận trai.
Tiểu thơ, con gái là ai,
Đi đâu đến nỗi mang tai bắt kỳ?
Chẳng hay tên họ là chi?
Khuê môn phận đó việc gì đến đây ?
Trước sau chưa hãn dạ này,
Hai người ai tớ, ai thầy nói ra.
Thưa rằng : Tôi Kiều-Nguyệt-Nga,
Con này tì tất tên là Kim-Liên…
(Thơ Vân Tiên)
Lối tiếp xúc giữa gái trai, tác giả đã lấy nhân vật trong giới thượng lưu đài các làm tiêu biểu cho tâm hồn. Vì vậy rất khác biệt với người bình dân. Ví dụ lúc Nguyệt-Nga trao tình với Vân-Tiên, thì :
Thưa rằng : « Nay gặp tri âm,
Xin trao một vật để cầm làm tin ».
Vân-Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt-Nga ngó thấy càng thìn nết na.
Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt, chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành.
Rồi nàng hờn dỗi :
Trao trâm chàng hỡi làm ngơ,
Thiếp xin làm một bài thơ tạ từ.
Vân-Tiên nghe nói liền ừ,
Làm thơ cho kíp chừ chừ chớ lâu.
Nguyệt-Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu năm vần.
Tính tình, tư cách của nhân vật, tuy tác giả đã vận dụng nhiều ngôn từ bình dân để diễn tả, song nhân vật thuộc giới phong lưu quí phái làm sao hòa hợp với tính chất bình dân được ? Trong lúc người bình dân, khi trai gái đã ưa thích với nhau thì :
Dầu mà trời đất phân chia,
Đôi ta như khóa với chìa đừng rơi.
Xa mình, thở chẳng ra hơi,
Chồng Nam, vợ Bắc trời ơi là trời !
Đưa tay phân chứng với trời,
Người này gá nghĩa ở đời với tôi.
Nước ròng sông cái chảy xuôi,
Trời đà xây định, mình với tôi vợ chồng.
(Hò cấy lúa)
Tính chất thiết tha yêu đương trong tâm hồn bình dân bộc lộ một cách chất phác, mộc mạc, mà trong thi ca bác học không thể nào diễn tả nổi.
Sự chất phác, mộc mạc phát xuất từ nguồn sinh hoạt của họ, cho nên, chúng ta muốn làm được thơ bình dân trước tiên phải trở thành người bình dân, nghĩa là cùng chung một hoàn cảnh sinh hoạt như họ. Đây, chúng ta thử khảo sát thêm đặc tính của người bình dân qua một câu hò khác nói về tình ái :
Hiu hiu gió thổi bờ đê,
Cửa nhà bỏ phế mản mê lời mình.
Thấy em, dạ nọ say tình,
Chiêm bao ngó thấy mặt mình hồi hôm.
Khoác màn loan, gối phụng tay ôm,
Anh than, anh thở đêm hôm một mình.
Cách bấy lâu mới gặp duyên tình,
Tỷ như vạn thọ tưới bình nước tiên.
Bậu có chồng như ngựa có yên,
Anh đây lẻ bạn như chim quyên lạc bầy.
(Hò xay lúa)
Dù họ có bắc chước dùng từ ngữ như « màn loan, gối phụng, chim quyên lẻ bạn » thì tính chất bình dân của họ cũng không thể mất đi được. Đó chính là đặc tính của nguồn thơ.
Sự dung hợp và biến thái, cũng như đặc tính cố hữu của thi ca bình dân vừa là một ranh giới rõ rệt, vừa là trạng thái chan hòa, khiến cho những thi nhân tiền chiến khi nghiên cứu về thi ca bình dân đã có nhiều phản ảnh dị đồng về cảm nghĩ của họ. 3
Tóm lại, biến thái thi ca bình dân chỉ là một quá trình diễn biến của lịch sử văn học dân tộc đi đôi với lịch sử sinh hoạt xã hội.
Trạng thái biến động trong văn học có ít nhiều thay đổi nhưng những thay đổi ấy vẫn nằm trong bản chất của dân tộc, không thể tách rời dân tộc tính được. Chúng ta phải nói đến biến thái thi ca bởi vì thực trạng diễn biến trong tâm tư của người bình dân cũng như chúng ta phải xác định căn bản tư tưởng của dân tộc bởi vì thực chất của dân tộc tính vẫn còn tồn tại.
C) TÁC ĐỘNG TRONG TRẠNG THÁI DUNG HỢP VỀ THI CA
Trên đây chúng ta đã thấy bản chất của dân tộc thông qua thi ca biến động theo dòng lịch sử, nghĩa là nó thay đổi để dung hợp với đà phát triển của thời gian, không gian.
Hiện tượng ấy chứng tỏ thi ca bình dân cũng như văn chương bác học luôn ăn nhịp với cơ cấu vũ trụ, nghĩa là khi thời gian, không gian tăng trưởng thì tình cảm con người cũng thay đổi theo trạng thái tăng trưởng ấy.
Nếu ở văn chương bác học chúng ta đã thấy có những xáo trộn rõ rệt từ tình cảm con người Đông-phương bước sang tình cảm của người Tây-phương, hay nói rộng ra, sự đụng chạm về cuộc sống đã chi phối rất nhiều tâm tư qua mọi địa hạt, thì thi ca bình dân cũng do sự đụng chạm ấy đã đổi thay, pha trộn và đổi mới mãi mãi.
Tuy nhiên, khác với dòng văn chương bác học, nếu dòng văn chương bác học thoát thai từ ý thức mưu tìm những suy tư, cảm nghĩ ngoài lãnh vực quốc gia làm nền tảng cho tâm tư, thì thi ca bình dân trái lại chỉ dựa trên dân tộc tính kết hợp và phát triển theo tầm thức sinh hoạt của họ.

Vì vậy, sự đổi thay trong dòng văn chương bác học là sự đổi thay vong bản, còn sự đổi thay trong thi ca bình dân mang tính chất biến động tâm tư trong chiều hướng dân tộc.
Chính những văn nhân trong giới « bác học » cũng đã thú nhận điều đó.
Trong báo Tràng an số 34 ngày 9-7-1942, ông Lưu-trọng-Lư đã viết ở mục « Đàn nam giao » như sau : « Hồi xưa chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, và chưa lúc nào chúng ta là người Việt-nam cả ».
Ý thức như vậy, ông Lưu-trọng-Lư muốn nói nền văn học bác học Việt-nam không xây dựng trên căn bản dân tộc.
Cũng trong báo Tràng an, khi khảo sát về tính chất « Âu hóa » của văn chương bác học trong thời tiền chiến, ông Lưu-trọng-Lư đã phàn nàn sự vong bản ấy. Ông viết :
Cái thời kỳ vay mượn của Tàu đến nay đã qua rồi, nhưng điều đó vẫn còn, từ nhà nho Tàu người ta trở nên nhà nho Tây… Họ là những nhà học Tây, có cái khuynh hướng « Âu hóa » những danh từ, những điệu ngữ, cả cái cách xuất diễn. Họ còn dám làm một việc không thể làm được. Họ sửa đổi cả tiết tấu thiên nhiên, những âm luật huyền bí của Việt-nam. Nhiều khi, việc ấy cũng có thể coi như một cải cách cần thiết, một nhu cầu của cuộc đổi mới, nhưng cái gì cũng phải có giới hạn. Cái giới hạn đã vượt qua thì điều hay trở thành điều xấu.
Xưa kia, chúng ta có những chữ sáo, rỗng, vay mượn ở Tàu, thì bây giờ chúng ta có những chữ vô nghĩa dịch ở Tây. Những ngữ điệu bị Pháp hóa đó không phải là tai nạn, mà chính nó chứng tỏ một cái bệnh ở tinh thần, chúng ta đã cảm xúc, đã tư tưởng theo người Tây. Cái hình thức kia là kết quả đương nhiên của sự biến đổi một tâm hồn.
… Ở đây ta thí dụ là có được nữa, nhưng đó không phải là cái lý để Âu-hóa nền văn chương Việt-nam. Nền văn chương ấy nếu có thì phải có mãi, đứng riêng địa vị, ngoài sự chi phối của chính trị, kinh tế. Chúng ta có thể mất hết, trừ văn chương. Và chúng ta chỉ mất văn chương khi chúng ta ngoại hóa nó mà thôi, nghĩa là muốn lột hết tư cách riêng của nó. Văn chương không phải có những sự phiêu lưu nguy hiểm mới to lớn. Điều trái lại có lẽ đúng hơn…
Lời phàn nàn trên đây chỉ là lời thú nhận tính chất vong bản của dòng văn chương bác học mà thôi.
Thật vậy, khi một dòng văn chương không phát xuất sinh hoạt dân tộc, chỉ mượn những suy tư của nước ngoài làm cơ sở cho tình cảm thì sao gắn liền với dân tộc tính được. Tính chất phiêu lưu, mạo hiểm, theo ông Lưu-trọng-Lư vừa nói, chính là bản chất của dòng văn chương bác học, và sự diễn biên của nó như vậy cũng là lẽ tất yếu trong qui luật thiên nhiên.
Một thân cây đâm rễ dưới mặt nước, dù mặt nước có dâng cao, sóng bủa rập rềnh, hay chảy mạnh đến bực nào thì ngọn cây vẫn bị lay động, xáo trộn trong thế đứng của nó mà thôi. Ngược lại một con thuyền bồng bềnh trên mặt nước, gặp khi sóng cả, gió to, con thuyền ấy sẽ trôi miên man đến nơi vô định. Dù cho có người cầm lái, thì con thuyền cũng chỉ tránh né được những chỗ nguy hiểm chứ không thể nào đứng yên được.
Dòng văn chương bác học và bình dân cũng thế. Sự xao động của một cây đâm rễ dưới mặt nước không giống như sự xao động của một con thuyền. Kẻ ngồi trên thuyền bị nước cuốn trôi đi, nhìn thấy muôn vật chung quanh xao động tưởng như muôn vật cùng trôi theo với con thuyền mình.

Chính vì cảm nghĩ như vậy mà ông Xuân-Diệu đã có lần bày tỏ ý kiến bênh vực tính chất « Âu-hóa » của văn chương Việt-nam trong báo Ngày nay (số 147 ngày 28-1-1939). Ông viết : « …Cái học của Âu Tây đã làm cho chúng ta tinh vi, kỹ lưỡng, tại sao chúng ta không nói đến những điều ấy trong văn chương Việt-nam. Ta viết văn An-nam, ta tả cái tình cảm của ta, thì có hại cho văn An-nam chứ ? Chúng ta là người An-nam có chịu ảnh hưởng Âu-Tây là người gì ? Họ cũng là người trừ những điều riêng tây quá, chứ cái « nho », cái « dãy », cái « vốn » của con người đâu đâu cũng giống nhau. Trong lòng người An-nam chúng ta phần nhiều vẫn có những ý, những tình, những cảm giác mà Tây có, xưa kia ta không nói vì không ngờ. Bây giờ cái nào khoa học của Âu-Tây đã cho biết rằng ta có, vẫn có đã lâu những của cải chôn giấu ở trong lòng thì sao ta không nói. Điểm là ta dùng tiếng An-nam và dùng đúng, tức là ta đã viết văn An-nam »
Ý kiến ông Xuân-Diệu trên đây bị ông Lưu-trọng-Lư chống đối. Lưu trọng Lư viết : « Mỗi dân tộc có một tình cảm, sinh hoạt, ý thức riêng. Đó là bản ngã của nó. Cũng là người cả, người Âu cũng như người Á, ai cũng phải ăn, phải ngủ, phải thở khí trời để sống, nhưng ngay trong bản ngã của mỗi cá nhân đã không giống nhau thì giữa hai dân tộc không thể giống nhau về tính chất được… »
Ông Xuân-Diệu trái lại, cho rằng : « Cái không giống nhau chỉ vì mình không chịu khai thác. Nước Việt-nam trước kia không có mỏ dầu, nhưng lúc người Tây khai thác được thì Việt-nam cũng có mỏ dầu như các nước khác. Ở lãnh vực tinh thần cũng thế. Nếu cái gì chưa có, không phải là không có mà do chúng ta chưa khai thác nó ra… »
Ngoài ông Lưu-trọng-Lư và ông Xuân-Diệu, còn có rất nhiều văn nhân thời tiền chiến tranh luận về tính chất vong bản của nền văn chương bác học Việt-nam. Tuy nhiên, tựu trung vẫn quanh quẩn trong yếu tố « tác động và dung hợp của thi ca », ngoài ra, chưa ai khảo sát tính chất căn bản của mỗi dòng văn chương bình dân và bác học.
Dòng văn chương bình dân sở dĩ giữ được tính chất căn bản trước mọi biến động của thời gian, không gian, chỉ vì nó phát nguồn từ tình cảm sinh hoạt địa phương. Người nông dân sống trong ruộng lúa, nương dâu, quanh năm vẫn trồng tỉa, gặt hái, dù cho những biến cố chính trị có đổi thay bộ mặt xã hội, dù cho nền văn hóa ngoại lai có du nhập từ đâu đến, cuộc sống quanh năm của họ vẫn với ruộng lúa, nương dâu, và với công việc trồng tỉa, gặt hái. Họ không vì biến cố chính trị, hoặc tư tưởng ngoại lai làm cho đời sống họ đổi khác, bỏ ruộng nương nhà cửa, nghề nghiệp cố hữu đi được. Tính chất cố định của sinh hoạt nông thôn là nguồn gốc giữ vững tình cảm của giới bình dân.
Dòng văn chương bác học trái lại, vì sống trên tư thế xã hội, lấy địa vị xã hội làm nền tảng cho tâm tư. Cho nên, khi những biến cố chính trị đổi thay thì tâm tư mất hẳn chỗ tựa, phải phiêu lưu theo thế đứng của họ trước mọi diễn biến của lịch sử.
Tìm được tính chất căn bản ấy, chúng ta mới thấy rõ tại sao các nhà văn trong lãnh vực bác học phải tự thú rằng mình thiếu lập trường dân tộc, mà chỉ có văn chương bình dân mới phản ánh được tinh thần dân tộc trong thi ca.
Và, như trên đã nói, dòng văn chương bình dân tuy không tách rời tính chất căn bản, nhưng không phải không biến động.
Bây giờ chúng ta thử tìm sự tác động trong trạng thái dung hợp ấy.

Căn cứ vào sinh hoạt xã hội, dân tộc Việt-nam phần lớn là nông dân, sống gần gũi với thiên nhiên, tình cảm của họ thuở ban đầu (lúc mà chế độ xã hội chưa đi đến chỗ người bóc lột người) rất mộc mạc, chất phác. Do đó, từ quan niệm nhân sinh đến xã hội, vũ trụ, gần như mọi sinh vật khác, nghĩa là chỉ biết tìm thức ăn để sống, và sống ngoài trạng thái đấu tranh xã hội, chỉ có đấu tranh với thiên nhiên mà thôi.
Tính chất mộc mạc, hồn nhiên ấy còn di lưu trong ca dao Việt-nam đến ngày nay không phải ít. Ví dụ những câu như :
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.
Hoặc :Con mèo, con chó có lông,
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai.
Hay :Chiều chiều én liệng, cò bay,
Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.
Những câu ca dao như vậy chúng ta không biết đã có tự thời nào, nhưng một điều chắc chắn là nó phản ánh tâm tư của thời đại, khi mà cảm giác con người còn dính liền với thiên nhiên, chưa bị tranh đấu xã hội chi phối.
Với căn bản tâm tư ấy, chúng ra không thể phủ nhận một nguồn gốc phát xuất ở sinh hoạt bình thường về nông nghiệp, do điều kiện địa lý và yếu tố thiên nhiên tạo nên.Nó là bản chất của dân tộc tính.
Từ sự hồn nhiên, chất phác ấy, xã hội Việt-nam dần dần tiến đến mọi chế độ chính trị, mà phần lớn là nô lệ phong kiến. Những chế độ chính trị đã phân hóa xã hội Việt-nam thành đẳng cấp, đồng thời cũng chia rẽ nền văn học dân tộc làm hai dòng : bác học và bình dân.
Nền văn học bình dân vì đã có sẵn tính chất căn bản của nó, và đã tạo thành những lề thói, tập tục trong nếp sống, nên dù bị xã hội phân hóa, nền văn học ấy vẫn tự tồn, cũng như một nông dân đã khai phá được một mảnh đất, dù xã hội có đổi thay mọi chế độ chính trị, họ vẫn bảo vệ quyền sống của họ trên mảnh đất của họ, nói như thế cũng có nghĩa là nền văn hóa dân tộc đã phát nguồn từ một căn bản cố định, và những đổi thay của mọi chế độ xã hội chỉ ảnh hưởng mà thôi, không thể làm mất tính chất căn bản của nó được.
Để chứng minh điều này chúng ta lần lượt khảo sát theo dòng lịch sử thi ca bình dân qua trạng thái diễn biến của nó, mà chúng tôi đã dùng ngôn từ « biến thái trong thi ca ».
Nói đến biến thái, nếu chúng ta chỉ quan niệm sự đổi thay và dung hợp giữa dòng văn chương bình dân và bác học thì quả là một điều sơ sót, vì tác động dung hợp giữa dòng văn chương bình dân và bác học chỉ là một phần trong lịch sử diễn biến của dòng thi ca bình dân mà thôi.
Bắt nguồn từ cuộc sống hồn nhiên, vô tư của dân tộc, xem mọi hiện tượng thiên nhiên, cũng như mọi sinh vật trong vũ trụ đều có tương quan với tình cảm con người, xã hội đi vào những chế độ cai trị, khiến cho tính chất vô tư, hồn nhiên ấy cũng bắt đầu biến thái. Đó là sự biến thái của tâm tư, của tình cảm.
Chúng ta thử so sánh, giữa hai tính chất của hai câu ca dao như :
Con cò bay lả, bay la,
Bay qua ruộng lúa, bay qua cánh đồng.
Và :Con cò mắc giò mà chết,
Con quạ mua nếp làm chay.
Con cu đánh trống ba ngày,
Chóp mào đội mũ làm thầy đọc văn.
Với những câu trên, ta thấy tâm tư người bình dân hòa đồng với trạng thái hồn nhiên của con vật trong cuộc sống thanh thản, không vương một tí lo âu, một cảm giác thắc mắc gì đối với cuộc sống.
Bầu trời xanh bao la, bát ngát, cánh chim trắng xóa lả lướt bay qua cánh đồng, hình bóng thiên nhiên ấy cũng là hình bóng tượng trưng cho tâm tư con người khi chưa bước vào trường đấu tranh xã hội.
Nhưng khi « con cò mắc giò mà chết », cái chết của con cò biểu tượng cho sức tranh đoạt của loài người qua lẽ sống, thì những sinh vật khác, cũng như tâm tư của con người, không còn hồn nhiên nữa, mà bắt đầu gieo vào cảm giới những thắc mắc sâu xa.
Đó là một biến thái của tâm tư.
Con cò chỉ « bay lả bay la » khi cuộc sống chưa đụng chạm với chế độ xã hội loài người, nghĩa là còn ở trong trạng thái thiên nhiên. Còn khi đã đụng chạm với mọi chế độ xã hội thì :
Cái cò, cái vạc, cái nông,
Sao mày giậm lúa nhà ông hỡi cò ?
- Không, không, tôi đứng trên bờ,
Mẹ con cái vạc đổ thừa cho tôi.
Chẳng tin thì ông đi đôi,
Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.
Quyền lợi tư hữu, tham vọng cá nhân tạo thành những chế độ xã hội đầy tranh chấp. Tâm tư người bình dân không còn giữ được trạng thái thuở ban đầu, và dần dần đi vào lịch sử. Bản chất hồn nhiên của họ không còn gởi vào cánh cò « bay lả bay la » mà gởi vào những đau khổ :
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.
Tình cảm con người do sinh hoạt xã hội ảnh hưởng, thì tình cảm con người cũng vì sinh hoạt xã hội mà biến thái. Ca dao Việt-nam đã chứng minh điều đó, nếu bản chất hồn nhiên của tinh thần người Việt đã gởi gắm vào cảnh vật thì khi trạng thái tâm tư biến động, họ cũng gởi gắm vào cảnh vật những biến cố ấy.
Khảo sát về lãnh vực này, chúng ta thử phân chia từng yếu tố tình cảm qua các tiết mục sau đây :
I. TÁC ĐỘNG VỀ TÌNH ÁI
Trong ca dao Việt-nam chúng ta đã tìm thấy những ý niệm rất giản dị trong yêu đương. Ví dụ :
Cô kia cắt cỏ một mình,
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Hoặc : Đói lòng ăn nửa trái sim,
Uống lưng bát nước đi tìm người yêu.
Ái tình rất đơn giản, không bị cuộc sống xã hội ràng buộc mà chỉ theo tiếng gọi của con tim. Trong yêu đương cũng như bày tỏ dục tính, bản chất người bình dân hàm chứa một quan niệm tự do ; nhưng tự do trong hồn nhiên, mộc mạc, đáp ứng theo qui luật thiên nhiên mà thôi.
Tính chất ấy khi bị nhốt vào khuôn khổ xã hội, nghĩa là khi bị mọi chế độ cai trị chi phối, bỗng nhiên, chúng ta thấy có đổi thay. Người bình dân không còn hồn nhiên với trạng thái giản dị thuở ban sơ nữa. Dù phải chung tình, chung sức với nhau trong sinh hoạt để tìm thú yêu đương thì :
Củ lang Đồng-phó, đỗ phụng Hà-nhung,
Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi.
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi,
Hay này ta bỏ cái gùi ta đi.
Duyên nợ chính là diễn biến của tâm tư ! Tâm tư con người bắt đầu với cảm giác đắn đo trong lẽ sống. Duyên nợ chỉ là quan niệm tiêu cực để tự chế ngự ước muốn của mình trong tình ái, khi bị ái tình đi vào lẽ sống.

Tình ái đã đi vào lẽ sống, duyên nợ không thể chỉ còn trong lãnh vực tín ngưỡng nữa. Duyên nợ trắc trở cũng có khi là sự đổi thay của cảm giác yêu đương. Cho nên :
Chim kêu dưới suối Từ-bi,
Nghĩa nhân còn bỏ, luận chi cái gùi.
Cái gùi chứa đựng lẽ sống, và lẽ sống đã làm cách biệt yêu đương. Bỏ cái gùi mà đi tức là phản đối ý thức đưa lẽ sống vào ái tình.
Trạng thái biến động của tâm tư trong lãnh vực ái tình luôn luôn dấn bước theo dòng lịch sử xã hội, để rồi mang sắc thái tủi hờn, đau khổ. Đó là trạng thái biến động, mà cũng là trạng thái phản động của tâm tư người bình dân khi bị xã hội làm mất tính chất căn bản của họ.
Ở lãnh vực ái tình, chúng ta còn thấy trong ca dao Việt-nam chứa đầy thắc mắc. Như giàu nghèo :
Em ham giàu em lấy thằng bé tí ti,
Làng trên xóm dưới thiếu gì trai tơ.
Đó là những tiếng than, những lời thống hận đối với xã hội đã làm mất trạng thái hồn nhiên của bản tính con người.
Trạng thái của tâm tư đưa đến biến thái trong lời ca, câu hát. Chúng ta có thể viện dẫn một vài ví dụ sau đây :
Trai : Ớ cô hai mày ơi !
Ta thấy cô hai mày bảnh lảnh bẻo lẻo,
Ta cũng muốn tình tang, tang tình.
Đi đâu, đứng đó một mình,
Lại đây ta hỏi tiết trinh lẽ nào ?
Có thương ta, ta mới bước vào,
Phụng loan kết cánh hòa giao ân tình.
Gái : Nghe lời đó nói thất kinh,
Bông sen tàn ai nỡ cắm lục bình bát xưa.
Cóc mà mang guốc ai ưa,
Đỉa đeo chân hạc sao vừa mà mong.
Thôi thôi đừng tưởng, đừng hòng,
Tôi đây có xấu cũng con dòng lương gia.
Vô duyên ở vậy đến già,
Dại chi lấy chú thiên hạ mà cười chê !
Vụng về, dốt nát đủ bề,
Suốt năm, suốt tháng giữ nghề ở trai.
Trai : Ớ cô kia ! cô đừng khoe sắc, khoe tài,
Tốt xinh chi đó, chê ai trai cày.
Sử kinh ta nắm trong tay,
Tỉ như vua Thuấn còn cày Lạch sơn.
Mái-Thần lúc trước khổ nghèo,
Trọng-Yêm, Hàn-Tín ra thân khó hèn.
Gái : Thôi thôi ! Chú đừng nhắc tích vòng vo,
Mấy ông lúc trước ai so cho bằng.
Chú ăn học sao không thấy đi thi,
Ăn thời xó bếp, nằm thì chuồng trâu.
Thôi thôi ! Tôi chẳng ưng đâu,
Chạng không xứng chạng đừng cầu uổng công.
(Câu hát bài chòi)
Rõ ràng tình cảm trên đây rất cách biệt đối với tính chất hồn nhiên của thuở ban đầu. Ý thức yêu đương đã cấu kết với sinh hoạt xã hội, và mỗi lúc mỗi biến động theo dòng thời gian.
Tuy nhiên, có điều chúng ta không thể lầm lẫn là ý thức biến động của người bình dân bao giờ cũng từ tính chất căn bản phát sinh. Cho nên, sự biến động cũng có nghĩa là trạng thái chống đối, muốn bảo tồn bản năng, đưa con người giả tạo của xã hội trở về con người đơn thuần của thiên nhiên.
II. TÁC ĐỘNG VỀ CHÍNH TRỊ
Nếu chúng ta tìm về bản chất thì người bình dân vốn là kẻ ưa thích một cuộc sống tập thể, trong đó có sự công bằng, bác ái, bình đẳng. Bản chất ấy phát xuất trong những tâm tư như :
Chiều chiều con quạ lợp nhà,
Con cu chẻ lạt, con gà quăng tranh.
Hoặc : Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Tâm tư bình đẳng, tự do của người bình dân chất chứa trong tình cảm họ một cách khoáng đạt, chẳng những đối với đồng loại mà cả đến mọi sinh vật khác.

Tuy nhiên, tâm tư ấy không thể giữ mãi trước những biến cố chính trị trong xã hội loài người. Trong ca dao Việt-nam, chúng ta thấy tình cảm con người về phương diện chính trị đã bị tác động liên tục, khiến cho họ cảm thấy ray rức, xót xa, hờn giận.
Thật vậy, chỉ vì tham vọng mà xã hội loài người đi dần đến chỗ điêu ngoa, xảo trá trong các chế độ, phá vỡ tình cảm thiên nhiên giữa con người và con người, giữa con người và muôn vật.
Cho nên, khi những chế độ chính trị đã ngự trị trong đời sống con người thì chúng ta làm sao còn tìm thấy những câu ca dao chất phác như :
Tay cầm con dao
Làm sao cho sắc
Để mà dễ cắt
Để mà dễ chặt
Chặt lấy củi cành
Chặt lấy cành cây
Trèo lên rừng xanh
Chạy quanh sườn núi
Một mình thui thủi
Chặt cây chặt củi
Tìm chốn ta ngồi
Ta ngồi, ngồi mát thảnh thơi
Kìa một đàn chim
Ở đâu bay đến
Ở đâu bay lại
Con đang cắn trái
Con đang tha mồi
Qua lối nọ nó ăn
Cái con hươu kia
Mày đang ăn lộc
Lộc vả, lộc sung
Mày trông thấy tớ
Tớ không đuổi mày
Mày qua lối nọ làm chi.
Mà, chúng ta bắt đầu thấy những trạng thái biến động của tâm tư đi lần đến chỗ pha trộn vào cuộc sống. Ví dụ :
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ! ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có xáo, thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Con cò trước khi chết còn nghĩ đến thanh danh, đó cũng là phản ứng của tâm tư con người trong biến thái đối với chế độ chính trị.
Nói chung, tác động chính trị đã làm cho tâm tư người bình dân biến thái, và tính chất biến thái cũng lại là tính chất phản ứng để bảo vệ nguyên trạng xã hội.
III. TÁC ĐỘNG VỀ KINH TẾ
Nếu chúng ta đã thấy mọi chế độ chính trị đưa tâm tư con người từ tính chất hồn nhiên đến trạng thái biến động, thì kinh tế cũng là yếu tố quan trọng trong cảm giới con người. Chúng ta không cần tìm đâu xa, thử đọc vài câu ca dao quen thuộc như :
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn Tết Đoan-ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc bán bông,
Tháng một, tháng chạp nên công hoàn toàn.
Hoặc : Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi, ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi lên mạ thì ta nhổ về.
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi đầy còn độ một hai.
Ruộng cao đóng một gàu giai,
Ruộng thấp ta lại đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta ;
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Hai bài ca dao điển hình trên đây cho chúng ta thấy lúc làm lụng cũng như lúc ăn chơi, người bình dân Việt-nam sống một cách ung dung, tâm hồn họ thơ thới, tin cậy vào khả năng tự lực của mình, không tham giàu, không sợ nghèo, và giào nghèo dường như họ không nghĩ đến.
Sở dĩ tâm tư họ phát sinh trạng thái như vậy là vì nước Việt-nam thuở ban đầu đã là một nước nông nghiệp, với nền kinh tế tự túc, ai cũng phải làm để nuôi sống, và đã làm nhất định ấm no. Bởi vậy, họ bảo :
Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Nhưng, lần lần với nền kinh tế phong kiến mỗi ngày một phát triển, sự giàu nghèo trở thành chênh lệch, và kẻ ăn không ngồi rồi lại chiếm ưu thế trong địa vị xã hội, do đó tâm tư người dân trở nên biến động. Để chứng minh điều đó, chúng ta thử nghe họ nói :
Tin nhau buôn bán cùng nhau,
Thiệt hơn, hơn thiệt trước sau như lời.
Hay gì lừa đảo kiếm lời,
Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang.
Theo chi những thói gian tham,
Pha phôi, thực giả tìm đàng dối nhau.
Của phi nghĩa có giàu đâu,
Ở cho ngay thực, giàu sau mới bền.
Hoặc : Khó ở giữa chợ không ai hỏi han,
Giàu ở lâm san, ai cũng tìm tới.
Hay : Vai mang bị bạc lè kè,
Nói bậy, nói bạ, họ nghe rầm rầm.
Trạng thái biến động của tâm tư người bình dân cũng là ý thức phản đối, chống lại mọi chế độ kinh tế đưa đến cuộc sống chênh lệch bất công, làm mất ý nghĩa sinh hoạt hồn nhiên của họ.
Tuy nhiên, dù chống đối để bảo tồn nguyên trạng, người bình dân cũng đã một phần nào chịu ảnh hưởng những biến đổi về kinh tế qua tâm hồn họ. Ví dụ họ bảo :
Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát-tràng anh xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Có rửa thì rửa chân tay,
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh.
Mơ ước và cảm nghĩ trong câu ca dao trên đây rõ ràng một phần nào người bình dân đã biến đổi tính chất hồn nhiên, giản dị, chất phác của họ rồi. Cũng như trong ca dao có những câu như :
Năm nay anh lắm bạc nhiều vàng,
Để anh sắm sửa thì nàng lấy anh.
Lấy anh, anh sắm sửa cho,
Sắm ăn, sắm mặc, sắm cho chơi bời.
Khuyên em có bấy nhiêu lời,
Thủy chung như nhất là người phải nghe.
Mùa đông lụa lụa, the the,
Mùa hè bán bạc hoa hòe sắm khăn.
Sắm gối thì phải sắm chăn,
Sắm gương, sắm lược, sắm ngăn đựng trầu.
Sắm cho em đôi lược chải đầu,
Cái ống đựng sáp vuốt đầu cho xinh.
Thì rõ ràng trạng thái giàu nghèo trong xã hội đã ảnh hưởng không ít trong cuộc sống lam lụ, khổ sở của lớp người bình dân qua bao nhiêu thế hệ. Nếu không bị ảnh hưởng làm gì trong ca dao có những câu như :
Mẹ em tham thúng xôi dền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh-hưng.
Em đã bảo mẹ rằng : « Đừng »,
Mẹ hứ, mẹ hé, mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ kẻ thấp người cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.
Hoặc những câu thách cưới như :
Em là con gái nhà giàu,
Cha mẹ thách cưới ra màu xinh sao.
Cưới em trăm tấm lụa đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi,
Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng.
Sắm xe tứ mã đem sang,
Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu.
Ba trăm nón Nghệ đội đầu,
Mỗi người một cái quạt Tàu cầm xinh.
Anh về sắm nhiễu Nghi-đình,
May chăn cho rộng, tôi mình đắp chung.
Cưới em chín chĩnh mật ông,
Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò.
Cưới em tám vạn trâu bò,
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm.
Lá đa, mặt nguyệt hôm rằm,
Răng nanh thằng Cuội, râu cằm Thiên-lôi.
Gan ruồi, mỡ muỗi cho tươi,
Xin chàng chín chục con dơi góa chồng.
Thách thế mới thỏa trong lòng,
Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân.
Nhìn chung, kinh tế của mỗi nước bao giờ cũng chi phối sinh hoạt xã hội, và sinh hoạt xã hội là sản phẩm của tình cảm con người. Bởi vậy, ngược dòng lịch sử văn học bình dân, chúng ta không thể nào phủ nhận tầm ảnh hưởng quan trọng ấy trong ca dao Việt-nam được.
IV. TÁC ĐỘNG VỀ XÃ HỘI
Trong lãnh vực này chúng ta gặp rất nhiều khía cạnh, bởi lẽ khi nói đến ảnh hưởng xã hội là bao gồm mọi quan niệm về lẽ sống. Ở đây chúng ta đã tách rời địa hạt kinh tế và chính trị, nên chỉ khảo sát qua tâm tư người bình dân khi biến động trước những tệ nạn của sự hợp quần mà thôi.
Tệ nạn xã hội, một danh từ chúng ta có thể hình dung như một cái đáy, góp nhặt tất cả những cặn bã của nền móng sinh hoạt đương thời.
Không có xã hội nào không có tệ nạn, nó là phản ảnh của mọi chế độ kinh tế, chính trị, hay nói rộng hơn, nó là con đẻ của tàn tạ mỗi ngày một lớn dần để đánh ngã hiện hữu, đưa lịch sử loài người tiến tới.
Người ta than trách, nguyền rủa những tệ nạn xã hội nhưng chính tệ nạn xã hội lại do con người tạo nên. Nó là sản phẩm của tham vọng vật chất. Xã hội nào tham vọng vật chất càng nhiều thì tệ nạn xã hội ấy càng phát triển.
Cuộc sống người nông dân thuở ban đầu do nền móng kinh tế tự túc, tâm hồn họ gần với thiên nhiên, khoáng đãng, nên tham vọng vật chất rất ít. Họ chỉ hưởng thụ trên sức sản xuất của họ mà không đòi hỏi những tiện nghi ưu tú. Vì vậy ca dao Việt-nam phản ảnh rất nhiều trạng thái đó. Ví dụ họ bảo :
Chẳng lo chi áo rách tay,
Trời kia ngó lại vá may mấy hồi.
Một chiếc nón cời không làm cho họ cảm thấy khổ sở trong cảnh nghèo nàn. Như vậy, cần gì họ phải hành động bất lương. Cho nên :
Áo rách có cách anh thương,
Nón cời có nghĩa anh thương nón cời.
Dù người bình dân không là những triết gia, nhưng ý thức đạo lý Đông-phương vẫn là nền tảng cho quan niệm nhân sinh của họ.
Khi đã lấy quan niệm đạo lý làm căn bản cho lẽ sống, mà đạo lý rất đối nghịch với tham vọng vật chất, trong lúc đó xã hội loài người từ chỗ hồn nhiên tiến dần đến phức tạp, nghĩa là tham vọng cá nhân luôn luôn nẩy nở trong xã hội loài người. Chính vì vậy mà tâm tư hồn nhiên của người bình dân thuở ban đầu phải biến thái.
Sự biến thái của họ trong lãnh vực xã hội rất rõ rệt. Nó là sức chống đối tất cả những gì dối trá, điêu ngoa, bắt buộc họ phải xa rời tính chất căn bản của họ thuở ban sơ. Đây, chúng ta thử lấy một ví dụ :
Con gà, con vịt chít chiu,
Mấy đời gì ghẻ thương yêu con chồng !
Trạng thái ích kỷ xấu xa đó xã hội tạo cho con người, và con người trở thành tệ nạn xã hội.
Tại sao gì ghẻ lại không thể yêu thương con chồng, trong lúc đối với người bình dân, một con chim, một con thú, một luồng gió cũng có thể gieo vào tình cảm họ những trìu mến ?
Thật ra, chúng ta không thể nào nói hết những phức tạp của xã hội con người, chúng ta chỉ nêu lên đây một số tục ngữ, ca dao tiêu biểu để chứng minh những thắc mắc trong tâm tư người bình dân qua trạng thái sinh hoạt xã hội mà thôi. Ví dụ :
- Lỗ miệng thì nói Nam-mô,
Trong lòng thì chứa một bồ dao găm.
- Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo,
L… không cạp, l… méo làm ba.
- Lươn ngắn mà chê trạch dài,
Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm.
- Một trăm ông chú không lo,
Lo vì một nỗi mụ o nỏ mồm.
- Khi vui thì vỗ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
- Khi lành quạt giấy cũng cho,
Khi dữ quạt mo cũng đòi.
Khi lành cho nhau ăn cháy,
Khi dữ mắng nhau cạp nồi.
- Lời nói quan tiền thúng thóc,
Lời nói dùi đục cẳng tay.
- Nhà giàu yêu kẻ thật thà,
Nhà quan ưa kẻ vào ra nịnh thần.
Nhà giàu trồng lau ra mía,
Nhà nghèo trồng củ tía ra củ nâu.
- Nhà giàu tham việc,
Thất nghiệp tham ăn.
- Đã gian lại ngoan,
Đã đi làm đĩ lại toan cáo làng.
- Chưa mua thì nói rằng hèn,
Đến khi mua được vừa khen, vừa mừng.
- Cả vú lấp miệng em,
Cả hèm lấp miệng hũ.
- Cây không trồng không tiếc,
Con không đẻ không thương.
- Mèo nào mèo lại ăn than,
Bởi chưng có mỡ đổ tràn lên trên.
- Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng châu chấu ngã ai dè xe nghiêng.
Nực cười cơm nguội lên hơi,
Cạnh buồm kẽ tố, áo tơi viền tà.
- No cơm ấm cật, dâm dật mọi nơi,
Đói rách tả tơi, mọi nơi không dật.
Trong ca dao Việt-nam những lời thống trách, nguyền rủa xã hội loài người tưởng không sách nào chép hết được. Tại sao người bình dân lại tỏ thái độ bất mãn với xã hội ? Nếu chúng ta khảo sát tường tận thì đó gây ra bởi ý thức chống đối khi họ bị xã hội loài người càng văn minh càng làm mất dần bản chất hồn nhiên của họ. Mặc dù chống đối nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận mọi ảnh hưởng của lịch sử xã hội tác động vào sinh hoạt bình dân, làm cho chính họ, những kẻ bất bình, chống đối, nhiều lúc lại hành động theo ảnh hưởng của xã hội. Do đó, tâm tư họ bị tác động và biến thái trong văn học.
Tóm lại, sự biến thái trong văn học bình dân là trạng thái biến động của tâm tư theo dòng lịch sử sinh hoạt xã hội, đúc kết thành dòng lịch sử văn học bình dân. Vậy, chúng ta có thể kết luận rằng, tính chất lịch sử văn học bình dân là một dòng tâm tư nối kết đi từ trạng thái thiên nhiên đến trạng thái xã hội. Khi đã đi vào xã hội, tính chất bình dân trở thành đối tượng tranh chấp với thực tại, để bảo tồn và di lưu những gì căn bản của nó. Đó là dân tộc tính.
Sau mục biến thái về thi ca bình dân, chúng tôi tưởng cũng nên khảo sát qua một số tác phẩm mà từ trước đến nay chúng ta gọi là thơ bình dân.
Thơ bình dân là gì ? Ở đây chúng tôi bước ra ngoài phạm vi tục ngữ, phong dao, để đi vào một mảnh đất gần gũi với người bình dân. Nó là những tập thơ được người bình dân yêu chuộng, di lưu từng thế hệ trong đồng ruộng lũy tre.
Dĩ nhiên, những thi phẩm có đầu có đuôi như vậy phải do một cá nhân nào sáng tác, khác với loại tục ngữ, phong dao là của chung do nhiều người truyền tụng, góp nhặt, sửa đổi và ứng dụng trong cuộc sống thường ngày.
Những thi phẩm mang danh « thơ bình dân » tuy do một cá nhân sáng tác, hoặc sưu tầm những tích truyện có khuynh hướng bình dân, và hợp với quan niệm nhân sinh của thế giới cần lao, tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận trên thời gian, khi truyền tụng, nhiều người đã sửa đi sửa lại, thêm bớt cho hợp với địa phương mình.
Nhưng dù thế nào đi nữa, những thi phẩm đã mang danh « thơ bình dân » và được giới bình dân ưa thích, thì những thi phẩm ấy phải gần gũi với tâm hồn bình dân, cuộc sống bình dân rồi.
Sau đây chúng ta thử phân tích một số thi phẩm thuộc loại «thơ bình dân» để thấy sự gần gũi của nó đối với giai cấp cần lao.
1) Thơ «Con Tấm con Cám»
Tích truyện Con Tấm con Cám là truyện tích Việt-nam, tác giả đã ấn định thời gian rõ ràng, tuy đó là câu chuyện giả tưởng :
Nhà Đinh vừa rốt đời trào,
Quốc gia biến sự chuyện sao lạ lùng.
Với khung cảnh xã hội phong kiến Việt-nam, thi phẩm « Con Tấm con Cám » mô tả một cảnh ác nghiệt của mẹ ghẻ đối với con chồng, nói lên sự thối nát của chế độ xã hội phụ quyền.
Trước hết, chúng ta thấy cảnh gia đình ông Bá, tha thiết với ý muốn được một đứa con trai để nối dõi tông đường, mặc dù sinh được một đứa con gái tên Tấm :
Lữ-Thị đặng sanh một nàng,
Đặt tên con Tấm dung nhan kém người.
Ông Bá than thở đất trời,
Không trai kế hậu lòng thời chẳng yên.
Quan niện « Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô » của Nho giáo đã đi vào tâm tư người bình dân bằng chế độ phụ quyền của xã hội phong kiến. Nhưng điều đó không quan trọng bằng cuộc sống xã hội tạo cho con người những ích kỷ, độc ác, mà người bình dân luôn luôn chống đối. Thật vậy, con người sở dĩ độc ác là do lòng ích kỷ. Sự thương ghét phát nguồn ở đây :
Lần hồi xuân mãn, hè qua,
Cám lên chín tuổi, Tấm đà mười lăm.
Cám thì đẹp tợ trăng rằm,
Khuynh thành quốc sắc ai bằng, ai qua.
Tấm thì hình dáng xấu xa,
Tay chận cục mịch, nước da đen sì...
Mụ Tấm sửa soạn hàng ngày,
Trau giồi son phấn cho tày người ta.
Lại sanh lòng dạ yêu ma,
Thấy Cám đẹp đẽ lòng tà ghét ganh.
Nếu ở Truyện Kiều, Nguyễn-Du đã đưa ra thuyết « tài mệnh tương đố » để oán trách đất trời :
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua trăm cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
(Kiều)
thì thơ « Con Tấm con Cám » lại quan niệm khác. Thơ Con Tấm con Cám không trách trời trách đất, không viện lẽ « Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen » mà đi thẳng vào lòng người, vào thực trạng xã hội.
Xã hội đã gây nên chế độ gia đình, chế độ phụ quyền, đem lại cho mọi gia đình quyền hạn của cha mẹ và bổn phận của con cái. Quyền hạn và bổn phận ấy, trong chế độ phong kiến, là một bất công, nếu bên trong hàm chứa tính chất vị kỷ của con người.
Nếu một ông vua có quyền chém giết, đối xử tệ mạt với bầy tôi, thì cha mẹ cũng có quyền ruồng rẫy, hành hạ đứa con mình một cách vô điều kiện :
Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung.
Phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu.
Đưa ra một câu chuyện dì ghẻ ác nghiệt với con chồng, thơ Con Tấm con Cám đã đưa ra một bức tranh xã hộ để nguyền rủa chế độ bất công ấy :
Bắt làm công việc trong nhà,
Ngày ngày chửi rủa ông bà, tổ tiên.
Mằng nhiếc, đánh đập liên miên…
Sự ganh ghét ấy chính là lòng ích kỷ của con người, do xã hội loài người tạo nên.
Trong chế độ xã hội vị kỷ, người ta thường tranh đua nhau, nhưng với bậc tài danh thì lấy tài trí để tranh đua, còn với hạng hèn mạt thì tìm cách hại người khác ; làm nhục người để cho mình được nổi lên. Tâm trạng ấy, thơ Con Tấm con Cám đã diễn tả rất rõ ràng. Ví dụ ở đoạn thơ Tấm, Cám cùng đi xúc cá để tranh tài :
Con Cám lặn lội khắp nơi,
Siêng năng lo xúc, không chơi chút nào.
Cá đầy giỏ lớn xinh sao,
Mới rủ con Tấm mau mau lo về.
Con Tấm mặt mày ủ ê,
Giỏ không có cá liệu bề làm sao.
Nghĩ ra một kế thực cao,
Gạt Cám lấy cá bỏ vào giỏ mây.
Cái gì đã tạo cho lòng người những điêu ngoa, gian xảo, nếu không phải là do chế độ xã hội gây nên?
Để chứng minh sự điêu ngoa, gian xảo của lòng người, những nhà thơ trong giới bác học thường tránh né, không dám nhìn thẳng vào guồng máy của mọi chế độ xã hội, mà chỉ đổ lỗi cho tạo hóa an bài.
Những tiếng rên than của họ không vì bất công xã hội mà đi tìm những gì ngoài cuộc sống hiện hữu.
Một cành hoa đẹp bị người ta ngắt đi, nhà thơ bác học không oán trách kẻ ngắt hoa, mà oán trách số phận cành hoa. Vì hoa đẹp nên mới bị người ngắt. Quan niệm như vậy tức là đặt tham vọng cá nhân ra ngoài cảm giới, và hình dung xã hội loài người là trạng thái tất yếu, không thể cải tiến được.
Người bình dân trái lại, đặt cảm giới vào thực tại, gắn liền với cuộc sống, cho nên, đối với họ, chỉ có chế độ xã hội là đáng nói. Mọi bất công, đau khổ đều do chế độ xã hội gây nên cả. Quan niệm như vậy, những thi phẩm có tính chất bình dân đều phát nguồn ở lẽ sống, và tiếng rên than, phản đối của họ là đối tượng của xã hội loài người.
Thơ Con Tấm con Cám được giới bình dân ưa thích chính là vì lẽ đó.
Tuy nhiên, khi nêu những xấu xa của xã hội loài người do lòng ích kỷ tạo nên, người bình dân cũng cảm thấy phần nào bất lực trước công cuộc cải tiến xã hội. Vì vậy, họ chỉ cần mong sự tiến hóa của xã hội loài người bằng một quyền lực siêu hình. Hy vọng ấy, những thi phẩm bình dân đi vào thần thoại để giải quyết nguyện vọng của họ.
Người hiền gặp lành, người ác gặp dữ, đó là sự khát khao của tâm tư bình dân. Nhưng làm thế nào để gặp lành, để chiến thắng dã tâm của xã hội loài người? Con đường giải quyết chỉ còn nhờ ở tưởng tượng. Họ phải nhờ vào quyền phép siêu linh để thỏa mãn ước mơ của họ đối với lẽ sống.
Bởi vậy, khi chế độ gia đình phong kiến cho phép sự khắc nghiệt giữa dì ghẻ con chồng, và thực tại xã hội đã diễn biến như vậy. thơ Con Tấm con Cám rơi vào quan niệm thần linh cũng là chuyện tất nhiên.
Đây, chúng ta thử đọc đọc một đoạn thơ khi con Cám bị con Tấm lấy hết cá :
Con Cám chi xiết khóc than,
Về không dì đánh biết đàng nào thưa 
Thượng đình thấy trẻ thương thay,
Liền sai tiên trưởng truyền rày phép linh.
Báo cho nàng Cám hay tin,
Ban cho Bóng-mú sau mình đặng an.
Đồng-Tân vưng lệnh bệ vàng,
Đằng vân giá võ dương gian tới rày.
Hóa hình lão trượng ăn mày,
Đi gặp con Cám ông rày hỏi qua.
Con Cám nước mắt nhỏ sa,
Thủy chung bày kể thưa qua sự mình.
Lão rằng : « Lòng chị bất bình,
Con tua an dạ làm thinh một bề.
Con mau đem cá Mú về,
Con nuôi cá Mú chớ hề lảng xao.
Khá làm bàu, giếng, hồ, ao,
Ngày đêm săn sóc ra vào cho ăn.
Ngày sau nhờ nó vô ngần,
Nên thân nên phận ai bằng vinh vang.
Bây giờ con lại gia đàng,
Giữ lời ông dặn lòng vàng chớ ly ».
Con Cám cúi lạy tức thì,
Ngó lên lão trượng mất đi đường nào.
Nghĩ suy không rõ âm hao,
Hay là Thần Thánh vị nào giúp ta.
Vội vàng bèn trở về nhà,
Bưng một Bóng-mú, xót xa lụy phiền.
Phù hộ người hiền, cứu giúp kẻ cô đơn, người bình dân phải cầu viện đến thần linh. Sự cầu viện ấy chính là ước vọng của họ trên phương diện cải tiến xã hội. Tuy nhiên, người bình dân cũng nhận thấy thực trạng xã hội không phải đơn thuần. Lòng độc ác của con người từ trạng thái này đến trạng thái khác, nối tiếp như một xâu chuỗi, mà kẻ hiền lành không thể an thân được. Quan niệm như vậy, thơ Con Tấm con Cám đã diễn tả qua câu chuyện « nuôi cá bóng mú » :
Con Cám mặt ủ mày châu,
Gói cơm sắm sửa thả trâu ra đồng.
Bữa ăn chẳng dám no lòng,
Nhịn ăn nuôi mú thong dong tháng ngày.
Chiều về, trời xế hiên tây,
Cám ngồi thềm giếng kêu : « Này mú ơi ! »
Phận người cơm trắng cá tươi,
Phận chị dưa muối khuyên người tạm dùng.
Mú nghe quày quả vẫy vùng,
Quạt đuôi dợn nước, mắt trừng tợ sao
Dần dà ước được ba trăng,
Con Tấm rình thấy khen rằng: «Béo thay!
Đừng cho con Cám nó hay,
Đem cơm ta nhử, dao này chém đi ».
Lòng ác độc con người tìm những nhỏ nhen, hèn mọn để hành động. Sự thành công trong thơ bình dân chính là những nét phản ảnh trung thành mọi trạng thái thực tế trong cuộc sống xã hội :
Con Tấm giấu dao, ngồi rình,
Thấy Mú nổi hết cả mình, mừng thay.
Rút dao chém Mú thác rày,
Máu ra đỏ giếng, đem thây về nhà.
Làm vảy rồi chặt khúc ra,
Khúc kho, khúc nướng ăn đà ngon sao !
Một bên diễn tả sự đau đớn của con Cám, một bên diễn tả sự độc ác, đắc thắng của con Tấm, tập thơ đã đi sâu vào tình cảm của lớp người bị giày vò, cơ cực, và đó cũng là sự trùng hợp của cuộc sống bình dân trong lịch trình xã hội. Cuộc sống con Cám trong gia đình cũng chính là cuộc sống của lớp người bình dân ngoài xã hội.
Tuy nhiên, ước vọng của con người, dù phải sống trong đọa đày, áp bức cũng hy vọng ở sự vươn lên để xóa nhòa nỗi khổ cực ấy, cho nên, dẫu phải bị kềm kẹp ác nghiệt trong chế độ dì ghẻ con chồng, cuối cùng con Cám vẫn đạt lấy sự thỏa đáng trong cuộc sống :
Thượng-hoàng thấy trẻ thương thay,
Xét công ba kiếp đọa đày trần gian.
Liền đòi Đại-thánh vội vàng,
Dương trần xuống đó giúp nàng tiên nga.
Tề-Thiên vâng lệnh chương tòa,
Bái trì Thượng-đế bôn ba dương trần.
Nàng Cám chào hỏi ân cần,
Chẳng hay Đại-thánh đằng vân việc gì ?
Tề rằng : « Vâng lệnh đơn trì,
« Giúp nàng một thuở an trì nợ duyên ».
Rồi, do sự sắp đặt cơ mầu của thiên đình, con Cám tận hưởng hạnh phúc, vầy duyên với vị Hoàng-tử :
Lịnh truyền trực chỉ trào ca,
Hiệu vàng, tán bạc xinh đà thêm xinh.
Lễ bày, lạy tạ từ đàng,
Rồi chàng, rồi thiếp duyên vàng sánh đôi.
Từ đây hiệp mặt giao bôi,
Toại lòng ngư thủy, phỉ rồi phụng loan.
Thái-tử lòng rất hân hoan,
Bấy giờ tương hội, duyên vàng sơ giao.
Còn con Tấm, từ ban đầu là một cô gái độc địa, ác nhân, hại người, cướp tình, do lòng tham lam, vị kỷ, cho nên cuối cùng, con Tấm lại chết vì lòng tham lam, vị kỷ ấy. Đó là quan niệm nhân quả. Đây, chúng ta thử đọc thơ nói về con Tấm :
Nói việc con Tấm phòng đào,
Mấy Đông chẳng được tình giao với chàng.
Việc mình nghĩ lại ngỡ ngàng,
Giết Cám ba kiếp lại hoàn hiệp duyên.
Cám đâu có dạ căm hờn,
Âu ta đến đó thiệt hơn chước bày.
Sửa sang cùng viện tới rày,
Cám thấy nàng Tấm ra nay hỏi chào.
Nàng Tấm than thở thấp cao,
Tình em nghĩa chị đồng bào em ơi !
Chị đà trăm việc lỗi rồi,
Chịu cam chịu quấy, bạc bôi thay là.
Mong em rộng lượng hải hà,
Oán hờn việc trước em mà bỏ qua.
Cám rằng : Chị chớ lo xa,
Em không thù oán chị mà tư lương.
Tấm xem nhan sắc phi thường,
Tốt xinh trên thế ai đương ai bì.
Tỏ rằng : « Em khá tàng tri,
« Em sao xinh đẹp khác thì hơn xưa ».
Nàng Cám nghe hỏi liền thưa :
« Tiên dạy nấu nước tắm trưa mỗi ngày.
« Nước kia nấu một chảo đầy,
« Nhảy vào đó tắm mặt mày xinh thay ».
Nàng Tấm nghe lọt vào tai,
Hèn chi da trắng tóc dài đẹp xinh.
Tấm liền trở lại bổ dinh,
Vội kêu thị nữ, gia đinh bảo rày.
Tì nhi vâng thửa lời nầy,
Lấy chảo múc nước cho đầy nấu sôi.
Nước kia bây nấu xong rồi,
Kêu tao liệu dụng bây giờ lui ra.
Nàng Tấm tham dạ thay là,
Tính thầm rằng phép tiên gia chước bày.
Nếu cho tì nữ biết rày,
Nó tắm như vậy tốt nay như mình.
Phép tiên đâu có lậu tình,
Xinh lịch một mình há dễ lậu ra.
Tì nhi vào mới : « Thưa bà !
« Chảo nước tôi nấu xem qua sôi trào ».
Tấm rằng : « Cứ để mặc tao,
« Bây ra ngoài hết chớ vào làm chi ».
Nàng liền cổi hết xiêm y,
Nhảy vào chảo nước, hồn thì qui thiên.
Một đàng là sự vinh quang của con Cám, một đàng là sự hủy diệt của con Tấm, mục đích tập thơ đã nói lên nguyện vọng của người bình dân.
Nếu con Tấm trước kia vì ích kỷ, tham vọng đã không biết điều phải, tàn nhẫn với con Cám, thì cuối cùng con Tấm cũng lại vì ích kỷ, tham vọng đã không biết được điều trái, đem thân hủy diệt một cách dại khờ.
Tóm lại, thơ Con Tấm con Cám sở dĩ được gọi là thơ bình dân bởi vì nó thích hợp với tâm tư người bình dân :
Mang ý thức chống chế độ phụ quyền trong guồng máy phong kiến, được giai cấp phong kiến nuôi dưỡng tạo thành những bất công xã hội.
Nêu lên luật nhân quả làm cho những kẻ gian ác, tham tàn cuối cùng phải bị hủy diệt, và kẻ bị áp chế, hành hạ, cuối cùng được giải thoát, vui hưởng hạnh phúc, tự do.
Đó là hai nhu cầu của lớp người bình dân trước cuộc sống đương thời trong quá trình lịch sử xã hội, và sự ưa thích thơ Con Tấm con Cám chính là phản ảnh của tâm tư người bình dân trong quá trình lịch sử ấy.
2) Thơ «Lâm Sanh Xuân nương»
Nếu thơ Con Tấm con Cám chống chế độ phụ quyền trong khía cạnh mẹ ghẻ con chồng thì thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương cũng lại chống chế độ phụ quyền trong khía cạnh mẹ chồng nàng dâu. Tuy hai khía cạnh nhưng cùng chung một mục đích. Mà cũng vì vậy nên thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương vẫn được lớp người bình dân ưa thích như thơ Con Tấm con CámĐây, chúng ta thử xét qua một đoạn mở đây :
Xưa kia tại quận Châu-thai,
Có ông Lâm-Phụng tuổi rày tri thiên.
Làm quan Tổng-trấn điện tiền,
Thanh liêm rất mực, nhân hiền ai đương.
Vợ người ác độc khôn lường,
Tên là Lý-thị, lòng thường gian manh.
Sanh trai tên gọi Lâm-Sanh,
Nghề văn nghiệp võ tập tành rất tinh.
Cho hay số mệnh tại trời,
Trấn quan nhuốm bịnh hồn dời âm quang.
Mẹ con chi xiết thở than,
Lo bề tống táng, cư tang trọn nghì.
Ba năm tang phục mãn kỳ,
Phu nhơn khi ấy kịp thì tính toan.
Nghe rằng ở chốn Lãnh-trang,
Có con Tiều-lão dung nhan mặn mà.
Tiếng lành đồn khắp gần xa,
Tuổi vừa hai tám, tên là Xuân-Nương.
Muốn con xong việc cang thường,
Cậy người may mối, kết đường sui gia.
Nêu lên một câu chuyện ác độc giữa mẹ chồng nàng dâu, thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương đã ghép mối tình duyên giữa hai con người không cùng một giai cấp : Lâm-Sanh, giai cấp quí tộc; Xuân-Nương, giai cấp bình dân. Phải chăng đó là một dụng ý của tập thơ để điển hình qua thực trạng xã hội? Bởi vì phần đông cảnh mẹ chồng nàng dâu xảy ra nhiều nhất trong giai cấp quí tộc.
Tuy nhiên, dù tập thơ có dụng ý như vậy thì điều cần thiết vẫn nằm trong mục đích chống chế độ phụ quyền, nêu lên những tệ nạn của xã hội phong kiến. Đây, chúng ta hãy nghe họ diễn tả những tệ nạn ấy :
Cám thương Xuân-thị ôm lòng,
Làm dâu tính lại đã ròng ba năm.
Tối thời trải chiếu, giăng mùng,
Ngày thời trà, cháo, một mình lo toan.
Đương khi mẹ ngủ trong mùng,
Nàng thì cầm quạt, quạt mà lấy hơi.
Ba năm nhan sắc chẳng tươi,
Cơm ăn chẳng đặng, mình gầy như xương.
Cưới vợ cho con, rồi hành hạ nàng dâu không lý do, đó là tệ nạn phát sinh trong chế độ phụ quyền của xã hội phong kiến. Dĩ nhiên, thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương mang mục đích đả phá tệ nạn ấy. Cái gì đã làm cho mẹ chồng ghét nàng dâu, khi đôi vợ chồng vẫn yêu mến nhau :
Lâm-Sanh mới trở về nhà,
Thấy nàng Xuân-thị lụy mà thâm bâu.
Chàng bèn gạn hỏi trước sau,
Thung đường đâu vắng, em rầu việc chi ?
Xuân-Nương nói lại cùng chàng,
Mẹ còn đang ngủ trong màn chưa ra.
Lâm-Sanh trong dạ xót xa,
Bảo nàng ngồi lại phân qua sự tình.
Lòng anh thảm thiết vô ngần,
Nhưng không dám nói, dám phân nửa lời.
Từ mẹ cưới em về nhà,
Hơn ba năm chầy mới gặp nhau đây.
Trời ơi đất hỡi có hay,
Vợ chồng phân cách đêm ngày thảm thương.
Gian nan em chịu nhiều đường.
Cảnh nàng dâu mẹ chồng cũng như cảnh dì ghẻ con chồng chỉ là sản phẩm của chế độ gia đình phong kiến.
Chế độ phong kiến nuôi dưỡng ý niệm phụ quyền để phụng sự chế độ quân quyền, cho nên, con cái trong gia đình, dù bị cha mẹ không có tình ruột thịt, đối xử tàn nhẫn, xã hội vẫn thừa nhận cái uy quyền bất công ấy.
Thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương sở dĩ được người bình dân thích thú là vì nó diễn tả thực trạng xã hội, nói lên những tệ nạn trong chế độ gia đình phong kiến, hợp với ý tưởng của họ.
Cùng với mục đích chống chế độ phụ quyền, thơ Con Tấm con Cám chỉ nêu lên tệ nạn gia đình (cảnh dì ghẻ con chồng) thì thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương đã đi xa hơn, từ chỗ chống chế độ phụ quyền đi dần đến chỗ chống chế độ vua quan.
Đây, chúng ta thử đọc qua một đoạn thơ của Lý-thị (mẹ chồng) đánh chết Xuân-Nương (nàng dâu) rồi nhờ thế lực vua quan để chạy tội :
Quân nhơn vào trước bày lời,
Phu nhơn nghe nói rụng rời tay chân.
Bèn vào dặn nhỏ Lâm-Sanh,
Gia trung con khá giữ gìn hôm nay.
Gia đinh mười đứa chân tay,
Gánh vàng bay kíp theo rày cùng tao.
Ra đi, tôi tớ lao xao,
Phu nhơn lên võng vào trào tính toan.
Đến dinh vào chốn hậu đàng,
Đem vàng mười nén phân tàn trước sau.
Cậy cùng quan cả lo âu,
Tôi đà đánh phải nàng dâu bỏ mình.
Còn gì bất công cho bằng một chế độ mà mạng sống con người lệ thuộc vào thế lực vua quan và vàng bạc.
Tiền bạc, thế lực xóa nhòa lẽ phải, và những kẻ tham tiền, có thế lực đã hành động ngoài lương tri của họ. Thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương đã diễn tả :
Thừa-Tướng cầm trạng xem qua,
Nực cười cho chị phu nhơn mắc nàn.
Lịnh truyền hai gã tiểu nhi,
Đem võng bay rước phu nhơn chị rày.
Hai gã vâng lệnh ra đi,
Bỗng đâu gặp được phu nhơn giữa đàng.
Rồi, cái việc mẹ chồng đánh chết nàng dâu được quan-Thừa-tướng ém nhẹm, kẻ giết người vẫn nghêng ngang, vô tội.
Nêu ra câu chuyện trên đây, rõ ràng tập thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương đã vạch trần bộ mặt thối tha của chế độ vua chúa để chống đối.
Tóm lại, sự thích thú của người bình dân trong lãnh vực thi ca phần lớn do nội dung của thi ca phản ảnh những bất công xã hội, mà đó là điều chất chứa trong tâm tư họ giữa cuộc sống thường ngày.
3) Thơ «Phạm Công Cúc Hoa»
Khác với hai tập thơ trên (Lâm-Sanh Xuân-Nương và Con Tấm con Cám), thơ Phạm-Công Cúc-Hoa đề cao nhân nghĩa và hiếu đạo. Phạm-Công là con một nhà hàn vi, vì hết lòng phụng thờ mẹ già mà Cúc-Hoa, con gái một viên Tri-phủ đem lòng cảm mến, rồi tương tư. Đây, chúng ta thử đọc qua một vài đoạn trong tập thơ ấy :
Đoạn này tới thứ Cúc-Hoa,
Con quan Tri-phủ Trần gia chốn này.
Mặt huê, mày liễu tốt thay,
Tuổi vừa hai sáu, học hay ai bì.
Làu thông kinh sử phú thi,
Học trò đều nể nàng vì tài ba.
Phạm-Công đút cơm mẹ già,
Cúc-Hoa đi tới đứng ra xem tường.
Bỗng nàng cảm động lòng vàng,
Trọng bề hiếu đạo, thương chàng Phạm-Công.
Thương chàng kể đã ba đông,
Phạm-Công nào rõ, nào thông sự tình.
Cúc-Hoa trở lại gia đình,
Lòng sầu vò võ, một mình tương tư.
Thấy chàng chí hiếu, lòng thương,
Giả đi đến chốn học đường viếng thăm.
Rồi, vì cảm lòng hiếu đạo của Phạm-Công, Cúc-Hoa phá vỡ bức tường ngăn cách giữa giàu nghèo, địa vị, trở thành người vợ hiền, nuôi Phạm-Công ăn học đến đậu Trạng-nguyên :
Thấy chàng kinh sử đã già,
Vui mừng từ ấy hiệp hòa phụng loan.
Cho hay là cuộc đá vàng,
Ái ân mặn lại, phút nàng thọ thai.
Từ khi Phạm-Công đậu Trạng-nguyên, thì lại bị công chúa ép duyên, khiến Phạm-Công phải lâm vào cảnh hoạn nạn, làm cho tình nghĩa vợ chồng bị điêu đứng :
Vua đòi Công-chúa vào chầu,
Sánh cùng quốc trạng coi âu dường nào.
Công-chúa vâng lệnh vào trào,
Hương xông, xạ ướp, ngạt ngào mùi hoa.
Hình dung đẹp thể tiên nga,
Vua truyền rót rượu đãi mà Trạng-nguyên.
Công-chúa rót rượu mời khuyên,
Mấy khi ra chốn điện tiền yến diên.
Trạng-nguyên bước tới bưng liền,
Tưởng là vâng lệnh bệ tiền mà thôi.
Nào ngờ để xuống rồi ngồi,
Công-chúa xem thấy bồi hồi thẹn thay.
Nàng bèn đặt gối tâu bày,
Thật là quan Trạng người nầy nghêng ngang.
Của trào người lại chẳng màng,
Giữa đây đủ mặt bá quan đông đầy.
Khi một nàng Công-chúa đã ghen hờn, tất nhiên tai nạn sẽ đổ trên đầu kẻ kém quyền thế. Phạm-Công, Cúc-Hoa phải làm vật hy sinh cho trạng thái bất công của chế độ.
Tóm lại, mặc dù thơ Phạm-Công Cúc-Hoa đề cao hiếu đạo, và tình vợ chồng, nhưng tính chất vẫn không thoát ra ngoài ý thức chống đối quyền hành của chế độ phong kiến, mà địa vị, tiền bạc là thảm trạng của cuộc sống đương thời.
Thơ bình dân rất nhiều và di lưu mãi tự ngàn xưa. Trên đây chúng ta chỉ lược dẫn một số ít để tìm hiểu tính chất của nó mà thôi.
Để kết luật phần này, chúng tôi xin nêu ra mấy điểm khác biệt giữa tính chất thơ bình dân và bác học.
1) Tính chất chống chế độ phong kiến
Chúng ta phải thừa nhận thơ bình dân mang tính chất chống chế độ phong kiến rất mạnh mẽ. Nói như vậy, chúng ta không sợ lầm lẫn vì thực tế cuộc sống người bình dân là nơi chứa đựng nhiều nhất những bất công xã hội và chế độ phong kiến gây nên.
Bởi vậy, khi khảo cứu thơ bình dân (chúng tôi xin nhắc lại, thơ bình dân ở đây chúng tôi muốn nói riêng loại thơ được người bình dân ưa thích), chúng ta thấy hầu hết là những tích chuyện khai thác những bất công xã hội, đánh thẳng vào chế độ vua quan.
Dĩ nhiên, cũng có những loại thơ mang tính chất thần thoại, quái đãn, nhưng dù hình thức nào, thơ bình dân cũng không thoát ra ngoài mục đích của nó.
Trước hết, chúng ta hãy thử phân tích về ý thức chống phong kiến.
Ý thức chống phong kiến của người bình dân thể hiện rõ ràng nhất qua những bất công của chế độ gia đình, qua những hành động của quan lại, vua chúa.
Xã hội đem đến cho con người, cho cuộc sống tập thể những đau buồn, khổ não. Đó là việc chung trong địa hạt nhân sinh. Thơ bác học cũng như thơ bình dân đều phản ảnh sinh hoạt xã hội. Nhưng về ý thức thì mỗi dòng thơ quan niệm mỗi khác.
Hãy lấy một ví dụ, truyện Kiều của Nguyễn-Du vẫn nói đến hành động tham nhũng của quan lại. Một thằng bán tơ gieo họa, một viên quan đòi ăn hối lộ để tha tội. Đó là nguyên nhân khiến nàng Kiều phải bán mình chuộc cha, đáp đền chữ hiếu.
Tuy thế, nhưng ở truyện Kiều, tác giả không dám nhìn thẳng vào cái nguyên nhân ấy để hờn trách xã hội, vạch trần bộ mặt xấu xa của lớp người trị dân, mà tránh né bằng cách đổ lỗi cho trời già, cho định mệnh.
Cuộc du ngoạn trong tiết Thanh-minh, Kiều gặp Đạm-Tiên ứng mộng, chính tác giả đã gián tiếp bênh vực những tệ nạn xã hội phong kiến, làm xóa nhòa những bất công trong guồng máy cai trị, phủ nhận sự cô thế, sút kém của Vương ông trong giai cấp phong lưu, quí tộc. Sự thật, nếu Vương ông là người có thế lực trong guồng máy phong kiến, có đủ tiền bạc để làm cho các quan lại kính nể thì khó gì mà thằng bán tơ gieo họa mà không thể minh oan được, để cho nàng Kiều phải bán mình chuộc tội.
Nguyên nhân rõ ràng như vậy, nhưng tác giả truyện Kiều không cho đó là nguyên nhân chính gieo tai họa cho gia đình Vương ông mà lại đưa ra thuyết định mệnh bằng cách viện dẫn nàng Đạm-Tiên với sổ đoạn-trường để cho người đọc không ý thức được cái nguyên nhân gây ra do tệ nạn xã hội phong kiến.
Thơ bình dân trái lại, họ không tránh né những thực tế trong cuộc sống. Ví dụ thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương, chúng ta thấy một phần đề cao tình nghĩa vợ chồng, một phần đả phá tệ nạn xã hội gia đình, vạch mặt những kẻ cậy thế cậy thần trong guồng máy cai trị.
Xét như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng tính chất thơ bình dân chống chế độ phong kiến mạnh mẽ hơn, họ nhìn thẳng vào xã hội, và thấy rõ chế độ phong kiến là nguyên nhân tạo ra những bất công, khổ lụy cho cuộc sống con người.
Đây chúng ta thử đọc qua một đoạn trong thơ Phạm-Công Cúc-Hoa lúc Phạm-Công đỗ Trạng-nguyên, bị Công-chúa đương triều ép duyên, bị Phạm-Công từ chối nên công chúa nổi giận dùng quyền thế hành hạ, làm cho Phạm-Công đến thân tàn ma dại :
Chàng bèn ứng thí đậu liền,
Rồi vào yết kiến bệ tiền Hoàng-gia.
Nô-vương trên điện phán ra,
Trẫm chào quan Trạng sang qua nước nầy.
Trẫm sanh Công-chúa tốt thay,
Muốn cùng quan Trạng sum vầy phụng loan.
Trạng-nguyên nghe nói ngỡ ngàng,
Chàng liền quì trước bệ vàng tâu qua.
Vốn tôi đã có vợ nhà,
Cùng nhau gặp lúc thuở mà hàn vi.
Công-chúa chẳng rõ thị phi,
Nghe chê nổi giận nàng thì hỏi han.
Vốn rằng niên thiếu rõ ràng,
Lẽ nào lại có gia đàng sơ giao.
Chàng tua nghĩ lại trước sau,
Nhược bằng cãi lịnh, gươm đao hành hình.
- Lạy bà rộng lượng thứ tình,
Nguyền xưa ghi dạ lòng đinh ninh lòng.
Nô-vương phán trước đơn đình,
Dạy đem quan Trạng hành hình cho ta.
Cũi đồng, trăn trối chẳng tha,
Đặng chàng trực tiết vợ nhà cho an.
Trạng-nguyên đau đớn lòng vàng,
Công trình đèn sách rõ ràng chảy trôi.
Đày hơn sáu tháng, thương ôi !
Vợ nhà thai nghén vô hồi thảm thay !
Nghĩ thôi lụy ngọc đượm đầy,
Thà ta liều thác chốn nầy cho an.
Nô-vương tức giận căm gan,
Khi quân tội nặng muôn vàng khó tha.
Khoét hai con mắt cho ta,
Hàm răng đục hết coi mà còn chi.
Phạm-Công ngã xuống một khi,
Giây lâu mới tỉnh, chàng thì thở than.
Cúc-Hoa em hỡi có tàng,
Anh nguyền một thác suối vàng cho xong.
Chỉ vì không ép duyên được mà hủy hoại một nhân tài, bất chấp nhân đạo, rõ ràng uy quyền và bất công xã hội trong chế độ phong kiến đã gây tai họa cho cuộc sống người dân. Khi nêu ra câu chuyện như vậy, thơ bình dân đã tìm nguyên nhân đích thực của cuộc sống, và cũng là ý thức chống đối mạnh mẽ của họ trong quá trình lịch sử tranh đấu.
Nhân đề cập ý thức đấu tranh xã hội, chống phong kiến, chúng ta cũng nên phân tích tại sao thơ bác học lại thiếu tính chất chống đối ấy ?
Nếu chúng ta hình dung xã hội phong kiến là một xã hội đẳng cấp, thì vấn đề nầy chúng ta không có gì thắc mắc, bởi lẽ thơ bác học là sản phẩm tâm tư của lớp người phong lưu, quí phái, tuy bị mâu thuẫn xã hội tác động, họ phải rên than quằn quại trước mọi tranh đoạt cá nhân, nhưng vì họ là người trong giai cấp phong kiến thống trị, họ phải tránh né những hiện hữu mà chính họ gây nên.
Ví dụ thơ Chinh phụ ngâm, một tác phẩm chứa đựng nỗi lòng ai oán của một chinh phụ, vắng chồng vì phải cầm quân ra trận. Lẽ ra nàng chinh phụ phải hờn tủi vì xã hội, vì chiến họa gây nên, bắt buộc đôi uyên ương phải xa lìa gối mộng, để hy sinh cho quyền lợi nhà vua, thì ở đây, tính chất tập thơ đã đem oán hờn đổ vào mung lung, để mà than thân trách phận, tránh né những nguyên nhân gây ra thảm họa ấy :
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
(Chinh phụ ngâm)
Tại sao không nhìn thẳng vào đối tượng đã gây ra thảm họa mà lại đổ lỗi cho trời xanh?
Nếu cho rằng nhiệm vụ tùng chinh là bổn phận làm trai thì tại sao người đàn bà lại than thở, tủi hờn ? Rõ ràng sự tủi hờn đã nói lên một mất mát, trong đó chứa đựng những bất công xã hội.
Hoặc giả, nếu bảo rằng chí trai tang bồng hồ thỉ, sự khổ cực của chinh phu sẽ đem lại vinh quang, đổi lấy những ngày sầu khổ của kẻ khuê phòng, thì ý nghĩa của « chinh phụ ngâm » không còn giá trị nữa. Tiếng than của khuê phụ chính là một đau khổ mà kẻ ấy không dám nhìn thẳng vào tác động của xã hội đương thời.
Đem thơ Chinh phụ ngâm so sánh với thơ bình dân, chúng ta vẫn thấy thơ bình dân mang đặc tính xã hội nhiều hơn.
Đến như tập Tần cung oán, diễn rả mối sầu đau của một cung phi bị một ông vua bỏ rơi. Sự đày đọa của dục vọng đã kết thành những lời rên than thống khiết. Với nội dung ấy, chúng ta thấy như tập thơ chứa đựng ý thức chống phong kiến, chống chế độ nhà vua. Tuy nhiên, đi sâu vào tâm tư của tác giả, chúng ta lại thấy khác hẳn. Nàng phi tần không rên than vì chế độ nhà vua, mà chỉ rên than lòng phụ bạc của một ông vua đối với nhan sắc một mỹ nhân.
Tâm tư ấy đã bộc lộ qua tính chất tự cao, tự phụ của nàng phi tần, lúc mới vào cung, nhan sắc chưa phai mờ, được nhà vua nuông chiều say đắm. Đây, chúng ta thử nghe nàng nói :
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa.
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây-Thi mất vía, Hằng-Nga giật mình.
Hoặc : Bóng gương lấp ló bên mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.
Rồi đến lúc nhan sắc tàn phai, nàng lại đau buồn, thống trách :
Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Dang tay muốn cắt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.
Thái độ hách dịch của nàng phi tần lúc được sủng ái, với lời oán than của một cô phụ trong thâm cung chỉ nói lên lòng tham vọng, ích kỷ của một người, hoặc nêu lên lòng phụ bạc của một tấm lòng, chứ không có nghĩa là chống chế độ đa thê của lớp người phong kiến.
Như vậy, nếu đem ba tập thơ vừa nêu trên làm tiêu biểu cho « dòng thơ bác học », thì chúng ta phải thấy rằng hầu hết những bài thơ được mệnh danh là thơ bình dân đều chứa đựng tính chất chống phong kiến mạnh mẽ hơn.
2) Những khác biệt của thơ bình dân đối với thơ bác học qua ý thức tranh đấu xã hội
Ở mục trên, chúng ta vừa xác định tính chất thơ bình dân khác với thơ bác học về ý thức chống phong kiến. Ở đây, chúng ta lại thấy một điểm khác biệt nữa. Đó là ý thức tranh đấu xã hội.
Tính chất này biểu lộ trong thơ bình dân qua khả năng tự tín, tự tồn của họ.
Thật vậy, đã là thơ bình dân, không tập thơ nào không phân định ranh giới giữa lành và dữ, giữa trung và nịnh, giữa thật thà và gian tham. Lành bao giờ cũng thắng dữ, trung bao giờ cũng thắng nịnh, gian tham bao giờ cũng bị diệt vong, và thật thà ngay thẳng cuối cùng cũng đạt được hạnh phúc trong lẽ sống.
Hiện tượng ấy là gì ? Chúng tôi muốn nói đó là ý thức đấu tranh xã hội (ý thức chứ chưa phải hành động).
Để chứng minh điều này, chúng ta đi vào một số tích truyện, và nhìn thẳng vào phần kết cuộc của nó.
Ví dụ : Thơ Phạm-Công Cúc-Hoa, sau khi trải qua một thời điêu linh vì những âm mưu đen tối của lớp vua chúa thống trị, làm cho gia đình suýt tan rã, nhưng cuối cùng, Phạm-Công vẫn đắc thắng trên đường công danh sự nghiệp, vui hưởng đạo nghĩa vợ chồng với mối tình chung thủy giữ chàng và nàng Cúc-Hoa :
Phạm-Công binh mã hồi qui,
Ban sư vào điện, chàng quì tâu qua :
Sầm-Hưng thủ cấp dâng ra,
Bá quan văn võ đều mà kinh mang.
Trịnh Vương xem thấy kinh hoàng,
Khen Trạng đáng mặt ngai vàng chăn dân.
Bá quan mừng rỡ ân cần,
Sầm-Hưng trừ đặng mười phần bình an.
Trạng nguyên tấu trước ngai vàng,
Sầm-Hưng tự cắt đầu chàng giao tôi.
Trước sau tâu lại một hồi,
Vua tôi kính phục khen thôi vàng vầy.
Bây giờ giặc đã an rày,
Lo tống táng vợ cốt hài cho yên.
Thủy quân lớn nhỏ nghe truyền,
Thuyền ba mươi chiếc kíp liền dọn ra.
Giáo gươm võng giá chói lóa,
Chư quân tang chế đưa ra bên đường.
Bá quan đưa đón nghiêm trang,
Lại truyền thiên hạ để tang đủ bề.
Trạng nguyên chi xiết ủ ê,
Cảm thương con trẻ nhiều bề long đong.
Mộ phần xây đắp đã xong,
Tạ từ liệt vị thảy đồng hồi gia.
Nầy đoạn thập diện vua cha,
Truyền quân ra rước Cúc-Hoa về tòa.
Một trăm con mái hầu bà,
Cung phi mỹ nữ đờn ca tối ngày.
Cúc-Hoa nhớ trẻ châu mày,
Thương con thơ dại lòng này chẳng an.
Thương chàng vắng vẻ gia đàng,
Tưởng thôi như cắt gan vàng xót xa.
Tuy là hồn xuống Diêm-la,
Mà còn tưởng sự oan gia trên đời.
Trạng-nguyên nhớ vợ luỵ rơi,
Truyền quân sửa soạn vậy thời làm chay.
Làm chay ba tháng an bài,
Cúc-Hoa bèn hiện đến ngay loan phòng.
Tư bề vắng vẻ đèn chong,
Đôi con cùng trạng nằm trông rõ ràng.
Trước hết, chúng ta thấy ý thức tranh đấu phát lộ trên khía cạnh đề cao đạo nghĩa. Một Phạm-Công chỉ cần mang hài cốt của vợ ra trận, tướng giặc phải cảm phục mà dâng đầu.
Mặt khác, cả một triều đình bất lương có những hành động vô đạo thuở ban đầu, cuối cùng vì sức mạnh của đạo nghĩa, phải hoàn lương. Một câu chuyện cấu kết như vậy ai dám phủ nhận ý thức đấu tranh xã hội của họ. Đến như tình vợ chồng giữa Phạm-Công, Cúc-Hoa, vì ánh sáng của đạo nghĩa mà kẻ chết, người sống còn tái họp đoàn viên. Tuy kết luận có vẻ hoang đường, song người bình dân đã dùng tính chất hoang đường để tạo thành ý thức tranh đấu. Cho nên, sự kết thúc của câu chuyện bao giờ cũng là nguyện vọng của họ (người bình dân).
Một ví dụ khác : Thơ Con Tấm con Cám mô tả sự tàn khốc trong chế độ gia đình phong kiến. Tuy vậy, kết thúc câu chuyện, kẻ tạo ra ác phải gặp dữ, kẻ ở hiền thì gặp lành :
Nàng Cám đã thác suối vàng,
Bây giờ sống lại rõ ràng thành tiên.
Kết cùng Thái-tử hương duyên,
Sang rước cha mẹ hồi thiền hiển vinh.
Nhơn dân ai nấy mắt nhìn,
Thật là nàng Cám tốt xinh rõ ràng.
Nói việc Thượng-đế, Ngọc-hoàng,
Xem xuống trung giới thấy đàng gian manh.
Lữ-thị lòng ác chẳng lành,
Hại người trung nghĩa, dạ sanh lòng tà.
Chẳng nên hưởng lộc quốc gia,
Phạt người long độc gian tà bất minh.
Thiên lôi vâng lệnh thiên đình,
Xuống đánh Lữ-thị bỏ mình, cọp tha.
Hồn nó giao cho Diêm-la,
Cứ theo phép nước cầm mà ngục trung.
Thiên-lôi vâng lệnh cửu trùng,
Đằng vân giá võ thẳng xông hạ trần.
Phút đâu phong vũ rần rần,
Mưa sa, sấm chớp không phân sự gì.
Thiên-lôi hiện xuống tức thì,
Liền đánh mụ Tấm bỏ thi giữa đàng.
Hổ lang chạy đến vội vàng,
Tha thây mụ Tấm, xé tan giữa đường.
Đông-cung chồng vợ mới tường,
Dữ làm dữ trả là thường xưa nay.
Mẹ con con Tấm, kẻ gieo gió, điển hình sự tàn ác của chế độ gia đình phong kiến đã bị tập thơ kết thúc bằng sự trừng phạt nặng nề, rõ ràng ý hướng người bình dân muốn đả phá tệ nạn xã hội, cái chết của con Tấm cũng là sự mong ước của người bình dân trước thực trạng xã hội đương thời.
Gần với loại thơ bình dân, tập thơ Lục Vân Tiên cũng được người bình dân ưa thích chỉ vì tập thơ này mang tính chất đấu tranh ấy ; cho nên tập thơ Lục Vân Tiên không phải « bình dân » ở chỗ dùng chữ nôm na, mà chính là ở chỗ trình bày cốt truyện. Dù bị bạn bè phản phúc, lừa gạt, Vân-Tiên, nhân vật trong truyện, lúc nào cũng đề cao đạo nghĩa, và sự vinh qui của Vân-Tiên ở đoạn kết cũng chính là mục tiêu tranh đấu của con người. Mặt khác, trong thơ Lục-Vân-Tiên, những kẻ ác độc không tránh khỏi tai họa. Ví dụ kẻ nịnh thần như quan Thái-sư thì :
Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái-sư nay có khác nào thời xưa.
Thấy người trung chánh chẳng ưa,
Rắp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
Sở-vương phán trước trào ca,
Thái-sư cách chức về nhà làm dân.
Còn Trịnh-Hâm, một kẻ gian tà, phản bạn mà Vân-Tiên cố lấy nhân đạo đối xử :
Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi.
Nhưng cuối cùng trời cũng trả báo :
Trịnh-Hâm về tới Hàn-giang,
Sóng thần nổi dậy, thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh-Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng việc nầy rất ưng.
Đến nàng Thể-Loan, một kẻ phụ tình, lúc Vân-Tiên chưa gặp hoạn nạn thì niềm nở hứa hẹn trao thân, đến lúc Vân-Tiên lâm nạn thì phụ bạc. Cho nên :
Mẹ con đứng thẹn thùng thay,
Vội vàng cúi lạy, chân quày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Tha ngay, đem bỏ vào hang Thương-tòng.
Trong lúc đó, những người ngay thật, biết trọng đạo nghĩa như Tử-Trực, Hớn-Minh, Nguyệt-Nga, Tiểu-đồng đều được hưởng cảnh an lạc.
ọc là sự đổi thay vong bản, còn sự đổi thay trong thi ca bình dân mang tính chất biến động tâm tư trong chiều hướng dân tộc.
Chính những văn nhân trong giới « bác học » cũng đã thú nhận điều đó.
Trong báo Tràng an số 34 ngày 9-7-1942, ông Lưu-trọng-Lư đã viết ở mục « Đàn nam giao » như sau : « Hồi xưa chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, và chưa lúc nào chúng ta là người Việt-nam cả ».
Ý thức như vậy, ông Lưu-trọng-Lư muốn nói nền văn học bác học Việt-nam không xây dựng trên căn bản dân tộc.
Cũng trong báo Tràng an, khi khảo sát về tính chất « Âu hóa » của văn chương bác học trong thời tiền chiến, ông Lưu-trọng-Lư đã phàn nàn sự vong bản ấy. Ông viết :
Cái thời kỳ vay mượn của Tàu đến nay đã qua rồi, nhưng điều đó vẫn còn, từ nhà nho Tàu người ta trở nên nhà nho Tây… Họ là những nhà học Tây, có cái khuynh hướng « Âu hóa » những danh từ, những điệu ngữ, cả cái cách xuất diễn. Họ còn dám làm một việc không thể làm được. Họ sửa đổi cả tiết tấu thiên nhiên, những âm luật huyền bí của Việt-nam. Nhiều khi, việc ấy cũng có thể coi như một cải cách cần thiết, một nhu cầu của cuộc đổi mới, nhưng cái gì cũng phải có giới hạn. Cái giới hạn đã vượt qua thì điều hay trở thành điều xấu.
Xưa kia, chúng ta có những chữ sáo, rỗng, vay mượn ở Tàu, thì bây giờ chúng ta có những chữ vô nghĩa dịch ở Tây. Những ngữ điệu bị Pháp hóa đó không phải là tai nạn, mà chính nó chứng tỏ một cái bệnh ở tinh thần, chúng ta đã cảm xúc, đã tư tưởng theo người Tây. Cái hình thức kia là kết quả đương nhiên của sự biến đổi một tâm hồn.
… Ở đây ta thí dụ là có được nữa, nhưng đó không phải là cái lý để Âu-hóa nền văn chương Việt-nam. Nền văn chương ấy nếu có thì phải có mãi, đứng riêng địa vị, ngoài sự chi phối của chính trị, kinh tế. Chúng ta có thể mất hết, trừ văn chương. Và chúng ta chỉ mất văn chương khi chúng ta ngoại hóa nó mà thôi, nghĩa là muốn lột hết tư cách riêng của nó. Văn chương không phải có những sự phiêu lưu nguy hiểm mới to lớn. Điều trái lại có lẽ đúng hơn…
Lời phàn nàn trên đây chỉ là lời thú nhận tính chất vong bản của dòng văn chương bác học mà thôi.
Thật vậy, khi một dòng văn chương không phát xuất sinh hoạt dân tộc, chỉ mượn những suy tư của nước ngoài làm cơ sở cho tình cảm thì sao gắn liền với dân tộc tính được. Tính chất phiêu lưu, mạo hiểm, theo ông Lưu-trọng-Lư vừa nói, chính là bản chất của dòng văn chương bác học, và sự diễn biên của nó như vậy cũng là lẽ tất yếu trong qui luật thiên nhiên.

Một thân cây đâm rễ dưới mặt nước, dù mặt nước có dâng cao, sóng bủa rập rềnh, hay chảy mạnh đến bực nào thì ngọn cây vẫn bị lay động, xáo trộn trong thế đứng của nó mà thôi. Ngược lại một con thuyền bồng bềnh trên mặt nước, gặp khi sóng cả, gió to, con thuyền ấy sẽ trôi miên man đến nơi vô định. Dù cho có người cầm lái, thì con thuyền cũng chỉ tránh né được những chỗ nguy hiểm chứ không thể nào đứng yên được.

Dòng văn chương bác học và bình dân cũng thế. Sự xao động của một cây đâm rễ dưới mặt nước không giống như sự xao động của một con thuyền. Kẻ ngồi trên thuyền bị nước cuốn trôi đi, nhìn thấy muôn vật chung quanh xao động tưởng như muôn vật cùng trôi theo với con thuyền mình.
Chính vì cảm nghĩ như vậy mà ông Xuân-Diệu đã có lần bày tỏ ý kiến bênh vực tính chất « Âu-hóa » của văn chương Việt-nam trong báo Ngày nay (số 147 ngày 28-1-1939). Ông viết : « …Cái học của Âu Tây đã làm cho chúng ta tinh vi, kỹ lưỡng, tại sao chúng ta không nói đến những điều ấy trong văn chương Việt-nam. Ta viết văn An-nam, ta tả cái tình cảm của ta, thì có hại cho văn An-nam chứ ? Chúng ta là người An-nam có chịu ảnh hưởng Âu-Tây là người gì ? Họ cũng là người trừ những điều riêng tây quá, chứ cái « nho », cái « dãy », cái « vốn » của con người đâu đâu cũng giống nhau. Trong lòng người An-nam chúng ta phần nhiều vẫn có những ý, những tình, những cảm giác mà Tây có, xưa kia ta không nói vì không ngờ. Bây giờ cái nào khoa học của Âu-Tây đã cho biết rằng ta có, vẫn có đã lâu những của cải chôn giấu ở trong lòng thì sao ta không nói. Điểm là ta dùng tiếng An-nam và dùng đúng, tức là ta đã viết văn An-nam »
Ý kiến ông Xuân-Diệu trên đây bị ông Lưu-trọng-Lư chống đối. Lưu trọng Lư viết : « Mỗi dân tộc có một tình cảm, sinh hoạt, ý thức riêng. Đó là bản ngã của nó. Cũng là người cả, người Âu cũng như người Á, ai cũng phải ăn, phải ngủ, phải thở khí trời để sống, nhưng ngay trong bản ngã của mỗi cá nhân đã không giống nhau thì giữa hai dân tộc không thể giống nhau về tính chất được… »
Ông Xuân-Diệu trái lại, cho rằng : « Cái không giống nhau chỉ vì mình không chịu khai thác. Nước Việt-nam trước kia không có mỏ dầu, nhưng lúc người Tây khai thác được thì Việt-nam cũng có mỏ dầu như các nước khác. Ở lãnh vực tinh thần cũng thế. Nếu cái gì chưa có, không phải là không có mà do chúng ta chưa khai thác nó ra… »
Ngoài ông Lưu-trọng-Lư và ông Xuân-Diệu, còn có rất nhiều văn nhân thời tiền chiến tranh luận về tính chất vong bản của nền văn chương bác học Việt-nam. Tuy nhiên, tựu trung vẫn quanh quẩn trong yếu tố « tác động và dung hợp của thi ca », ngoài ra, chưa ai khảo sát tính chất căn bản của mỗi dòng văn chương bình dân và bác học.
Dòng văn chương bình dân sở dĩ giữ được tính chất căn bản trước mọi biến động của thời gian, không gian, chỉ vì nó phát nguồn từ tình cảm sinh hoạt địa phương. Người nông dân sống trong ruộng lúa, nương dâu, quanh năm vẫn trồng tỉa, gặt hái, dù cho những biến cố chính trị có đổi thay bộ mặt xã hội, dù cho nền văn hóa ngoại lai có du nhập từ đâu đến, cuộc sống quanh năm của họ vẫn với ruộng lúa, nương dâu, và với công việc trồng tỉa, gặt hái. Họ không vì biến cố chính trị, hoặc tư tưởng ngoại lai làm cho đời sống họ đổi khác, bỏ ruộng nương nhà cửa, nghề nghiệp cố hữu đi được. Tính chất cố định của sinh hoạt nông thôn là nguồn gốc giữ vững tình cảm của giới bình dân.
Dòng văn chương bác học trái lại, vì sống trên tư thế xã hội, lấy địa vị xã hội làm nền tảng cho tâm tư. Cho nên, khi những biến cố chính trị đổi thay thì tâm tư mất hẳn chỗ tựa, phải phiêu lưu theo thế đứng của họ trước mọi diễn biến của lịch sử.
Tìm được tính chất căn bản ấy, chúng ta mới thấy rõ tại sao các nhà văn trong lãnh vực bác học phải tự thú rằng mình thiếu lập trường dân tộc, mà chỉ có văn chương bình dân mới phản ánh được tinh thần dân tộc trong thi ca.
Và, như trên đã nói, dòng văn chương bình dân tuy không tách rời tính chất căn bản, nhưng không phải không biến động.
Bây giờ chúng ta thử tìm sự tác động trong trạng thái dung hợp ấy.
Căn cứ vào sinh hoạt xã hội, dân tộc Việt-nam phần lớn là nông dân, sống gần gũi với thiên nhiên, tình cảm của họ thuở ban đầu (lúc mà chế độ xã hội chưa đi đến chỗ người bóc lột người) rất mộc mạc, chất phác. Do đó, từ quan niệm nhân sinh đến xã hội, vũ trụ, gần như mọi sinh vật khác, nghĩa là chỉ biết tìm thức ăn để sống, và sống ngoài trạng thái đấu tranh xã hội, chỉ có đấu tranh với thiên nhiên mà thôi.
Tính chất mộc mạc, hồn nhiên ấy còn di lưu trong ca dao Việt-nam đến ngày nay không phải ít. Ví dụ những câu như :
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.
Hoặc :Con mèo, con chó có lông,
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai.
Hay :Chiều chiều én liệng, cò bay,
Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.
Những câu ca dao như vậy chúng ta không biết đã có tự thời nào, nhưng một điều chắc chắn là nó phản ánh tâm tư của thời đại, khi mà cảm giác con người còn dính liền với thiên nhiên, chưa bị tranh đấu xã hội chi phối.
Với căn bản tâm tư ấy, chúng ra không thể phủ nhận một nguồn gốc phát xuất ở sinh hoạt bình thường về nông nghiệp, do điều kiện địa lý và yếu tố thiên nhiên tạo nên.Nó là bản chất của dân tộc tính.
Từ sự hồn nhiên, chất phác ấy, xã hội Việt-nam dần dần tiến đến mọi chế độ chính trị, mà phần lớn là nô lệ phong kiến. Những chế độ chính trị đã phân hóa xã hội Việt-nam thành đẳng cấp, đồng thời cũng chia rẽ nền văn học dân tộc làm hai dòng : bác học và bình dân.
Nền văn học bình dân vì đã có sẵn tính chất căn bản của nó, và đã tạo thành những lề thói, tập tục trong nếp sống, nên dù bị xã hội phân hóa, nền văn học ấy vẫn tự tồn, cũng như một nông dân đã khai phá được một mảnh đất, dù xã hội có đổi thay mọi chế độ chính trị, họ vẫn bảo vệ quyền sống của họ trên mảnh đất của họ, nói như thế cũng có nghĩa là nền văn hóa dân tộc đã phát nguồn từ một căn bản cố định, và những đổi thay của mọi chế độ xã hội chỉ ảnh hưởng mà thôi, không thể làm mất tính chất căn bản của nó được.
Để chứng minh điều này chúng ta lần lượt khảo sát theo dòng lịch sử thi ca bình dân qua trạng thái diễn biến của nó, mà chúng tôi đã dùng ngôn từ « biến thái trong thi ca ».
Nói đến biến thái, nếu chúng ta chỉ quan niệm sự đổi thay và dung hợp giữa dòng văn chương bình dân và bác học thì quả là một điều sơ sót, vì tác động dung hợp giữa dòng văn chương bình dân và bác học chỉ là một phần trong lịch sử diễn biến của dòng thi ca bình dân mà thôi.
Bắt nguồn từ cuộc sống hồn nhiên, vô tư của dân tộc, xem mọi hiện tượng thiên nhiên, cũng như mọi sinh vật trong vũ trụ đều có tương quan với tình cảm con người, xã hội đi vào những chế độ cai trị, khiến cho tính chất vô tư, hồn nhiên ấy cũng bắt đầu biến thái. Đó là sự biến thái của tâm tư, của tình cảm.
Chúng ta thử so sánh, giữa hai tính chất của hai câu ca dao như :
Con cò bay lả, bay la,
Bay qua ruộng lúa, bay qua cánh đồng.
Và :Con cò mắc giò mà chết,
Con quạ mua nếp làm chay.
Con cu đánh trống ba ngày,
Chóp mào đội mũ làm thầy đọc văn.
Với những câu trên, ta thấy tâm tư người bình dân hòa đồng với trạng thái hồn nhiên của con vật trong cuộc sống thanh thản, không vương một tí lo âu, một cảm giác thắc mắc gì đối với cuộc sống.
Bầu trời xanh bao la, bát ngát, cánh chim trắng xóa lả lướt bay qua cánh đồng, hình bóng thiên nhiên ấy cũng là hình bóng tượng trưng cho tâm tư con người khi chưa bước vào trường đấu tranh xã hội.
Nhưng khi « con cò mắc giò mà chết », cái chết của con cò biểu tượng cho sức tranh đoạt của loài người qua lẽ sống, thì những sinh vật khác, cũng như tâm tư của con người, không còn hồn nhiên nữa, mà bắt đầu gieo vào cảm giới những thắc mắc sâu xa.
Đó là một biến thái của tâm tư.
Con cò chỉ « bay lả bay la » khi cuộc sống chưa đụng chạm với chế độ xã hội loài người, nghĩa là còn ở trong trạng thái thiên nhiên. Còn khi đã đụng chạm với mọi chế độ xã hội thì :
Cái cò, cái vạc, cái nông,
Sao mày giậm lúa nhà ông hỡi cò ?
- Không, không, tôi đứng trên bờ,
Mẹ con cái vạc đổ thừa cho tôi.
Chẳng tin thì ông đi đôi,
Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.
Quyền lợi tư hữu, tham vọng cá nhân tạo thành những chế độ xã hội đầy tranh chấp. Tâm tư người bình dân không còn giữ được trạng thái thuở ban đầu, và dần dần đi vào lịch sử. Bản chất hồn nhiên của họ không còn gởi vào cánh cò « bay lả bay la » mà gởi vào những đau khổ :
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.
Tình cảm con người do sinh hoạt xã hội ảnh hưởng, thì tình cảm con người cũng vì sinh hoạt xã hội mà biến thái. Ca dao Việt-nam đã chứng minh điều đó, nếu bản chất hồn nhiên của tinh thần người Việt đã gởi gắm vào cảnh vật thì khi trạng thái tâm tư biến động, họ cũng gởi gắm vào cảnh vật những biến cố ấy.
Khảo sát về lãnh vực này, chúng ta thử phân chia từng yếu tố tình cảm qua các tiết mục sau đây :
I. TÁC ĐỘNG VỀ TÌNH ÁI
Trong ca dao Việt-nam chúng ta đã tìm thấy những ý niệm rất giản dị trong yêu đương. Ví dụ :
Cô kia cắt cỏ một mình,
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Hoặc : Đói lòng ăn nửa trái sim,
Uống lưng bát nước đi tìm người yêu.
Ái tình rất đơn giản, không bị cuộc sống xã hội ràng buộc mà chỉ theo tiếng gọi của con tim. Trong yêu đương cũng như bày tỏ dục tính, bản chất người bình dân hàm chứa một quan niệm tự do ; nhưng tự do trong hồn nhiên, mộc mạc, đáp ứng theo qui luật thiên nhiên mà thôi.
Tính chất ấy khi bị nhốt vào khuôn khổ xã hội, nghĩa là khi bị mọi chế độ cai trị chi phối, bỗng nhiên, chúng ta thấy có đổi thay. Người bình dân không còn hồn nhiên với trạng thái giản dị thuở ban sơ nữa. Dù phải chung tình, chung sức với nhau trong sinh hoạt để tìm thú yêu đương thì :
Củ lang Đồng-phó, đỗ phụng Hà-nhung,
Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi.
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi,
Hay này ta bỏ cái gùi ta đi.
Duyên nợ chính là diễn biến của tâm tư ! Tâm tư con người bắt đầu với cảm giác đắn đo trong lẽ sống. Duyên nợ chỉ là quan niệm tiêu cực để tự chế ngự ước muốn của mình trong tình ái, khi bị ái tình đi vào lẽ sống.
Tình ái đã đi vào lẽ sống, duyên nợ không thể chỉ còn trong lãnh vực tín ngưỡng nữa. Duyên nợ trắc trở cũng có khi là sự đổi thay của cảm giác yêu đương. Cho nên :
Chim kêu dưới suối Từ-bi,
Nghĩa nhân còn bỏ, luận chi cái gùi.
Cái gùi chứa đựng lẽ sống, và lẽ sống đã làm cách biệt yêu đương. Bỏ cái gùi mà đi tức là phản đối ý thức đưa lẽ sống vào ái tình.
Trạng thái biến động của tâm tư trong lãnh vực ái tình luôn luôn dấn bước theo dòng lịch sử xã hội, để rồi mang sắc thái tủi hờn, đau khổ. Đó là trạng thái biến động, mà cũng là trạng thái phản động của tâm tư người bình dân khi bị xã hội làm mất tính chất căn bản của họ.
Ở lãnh vực ái tình, chúng ta còn thấy trong ca dao Việt-nam chứa đầy thắc mắc. Như giàu nghèo :
Em ham giàu em lấy thằng bé tí ti,
Làng trên xóm dưới thiếu gì trai tơ.
Đó là những tiếng than, những lời thống hận đối với xã hội đã làm mất trạng thái hồn nhiên của bản tính con người.
Trạng thái của tâm tư đưa đến biến thái trong lời ca, câu hát. Chúng ta có thể viện dẫn một vài ví dụ sau đây :
Trai : Ớ cô hai mày ơi !
Ta thấy cô hai mày bảnh lảnh bẻo lẻo,
Ta cũng muốn tình tang, tang tình.
Đi đâu, đứng đó một mình,
Lại đây ta hỏi tiết trinh lẽ nào ?
Có thương ta, ta mới bước vào,
Phụng loan kết cánh hòa giao ân tình.
Gái : Nghe lời đó nói thất kinh,
Bông sen tàn ai nỡ cắm lục bình bát xưa.
Cóc mà mang guốc ai ưa,
Đỉa đeo chân hạc sao vừa mà mong.
Thôi thôi đừng tưởng, đừng hòng,
Tôi đây có xấu cũng con dòng lương gia.
Vô duyên ở vậy đến già,
Dại chi lấy chú thiên hạ mà cười chê !
Vụng về, dốt nát đủ bề,
Suốt năm, suốt tháng giữ nghề ở trai.
Trai : Ớ cô kia ! cô đừng khoe sắc, khoe tài,
Tốt xinh chi đó, chê ai trai cày.
Sử kinh ta nắm trong tay,
Tỉ như vua Thuấn còn cày Lạch sơn.
Mái-Thần lúc trước khổ nghèo,
Trọng-Yêm, Hàn-Tín ra thân khó hèn.
Gái : Thôi thôi ! Chú đừng nhắc tích vòng vo,
Mấy ông lúc trước ai so cho bằng.
Chú ăn học sao không thấy đi thi,
Ăn thời xó bếp, nằm thì chuồng trâu.
Thôi thôi ! Tôi chẳng ưng đâu,
Chạng không xứng chạng đừng cầu uổng công.
(Câu hát bài chòi)
Rõ ràng tình cảm trên đây rất cách biệt đối với tính chất hồn nhiên của thuở ban đầu. Ý thức yêu đương đã cấu kết với sinh hoạt xã hội, và mỗi lúc mỗi biến động theo dòng thời gian.
Tuy nhiên, có điều chúng ta không thể lầm lẫn là ý thức biến động của người bình dân bao giờ cũng từ tính chất căn bản phát sinh. Cho nên, sự biến động cũng có nghĩa là trạng thái chống đối, muốn bảo tồn bản năng, đưa con người giả tạo của xã hội trở về con người đơn thuần của thiên nhiên.
II. TÁC ĐỘNG VỀ CHÍNH TRỊ
Nếu chúng ta tìm về bản chất thì người bình dân vốn là kẻ ưa thích một cuộc sống tập thể, trong đó có sự công bằng, bác ái, bình đẳng. Bản chất ấy phát xuất trong những tâm tư như:
Chiều chiều con quạ lợp nhà,
Con cu chẻ lạt, con gà quăng tranh.
Hoặc: Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Tâm tư bình đẳng, tự do của người bình dân chất chứa trong tình cảm họ một cách khoáng đạt, chẳng những đối với đồng loại mà cả đến mọi sinh vật khác.
Tuy nhiên, tâm tư ấy không thể giữ mãi trước những biến cố chính trị trong xã hội loài người. Trong ca dao Việt-nam, chúng ta thấy tình cảm con người về phương diện chính trị đã bị tác động liên tục, khiến cho họ cảm thấy ray rức, xót xa, hờn giận.
Thật vậy, chỉ vì tham vọng mà xã hội loài người đi dần đến chỗ điêu ngoa, xảo trá trong các chế độ, phá vỡ tình cảm thiên nhiên giữa con người và con người, giữa con người và muôn vật.
Cho nên, khi những chế độ chính trị đã ngự trị trong đời sống con người thì chúng ta làm sao còn tìm thấy những câu ca dao chất phác như:
Tay cầm con dao
Làm sao cho sắc
Để mà dễ cắt
Để mà dễ chặt
Chặt lấy củi cành
Chặt lấy cành cây
Trèo lên rừng xanh
Chạy quanh sườn núi
Một mình thui thủi
Chặt cây chặt củi
Tìm chốn ta ngồi
Ta ngồi, ngồi mát thảnh thơi
Kìa một đàn chim
Ở đâu bay đến
Ở đâu bay lại
Con đang cắn trái
Con đang tha mồi
Qua lối nọ nó ăn
Cái con hươu kia
Mày đang ăn lộc
Lộc vả, lộc sung
Mày trông thấy tớ
Tớ không đuổi mày
Mày qua lối nọ làm chi.
Mà, chúng ta bắt đầu thấy những trạng thái biến động của tâm tư đi lần đến chỗ pha trộn vào cuộc sống. Ví dụ:
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ! ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có xáo, thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Con cò trước khi chết còn nghĩ đến thanh danh, đó cũng là phản ứng của tâm tư con người trong biến thái đối với chế độ chính trị.
Nói chung, tác động chính trị đã làm cho tâm tư người bình dân biến thái, và tính chất biến thái cũng lại là tính chất phản ứng để bảo vệ nguyên trạng xã hội.
III. TÁC ĐỘNG VỀ KINH TẾ
Nếu chúng ta đã thấy mọi chế độ chính trị đưa tâm tư con người từ tính chất hồn nhiên đến trạng thái biến động, thì kinh tế cũng là yếu tố quan trọng trong cảm giới con người. Chúng ta không cần tìm đâu xa, thử đọc vài câu ca dao quen thuộc như :
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn Tết Đoan-ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc bán bông,
Tháng một, tháng chạp nên công hoàn toàn.
Hoặc : Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi, ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi lên mạ thì ta nhổ về.
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi đầy còn độ một hai.
Ruộng cao đóng một gàu giai,
Ruộng thấp ta lại đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta ;
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Hai bài ca dao điển hình trên đây cho chúng ta thấy lúc làm lụng cũng như lúc ăn chơi, người bình dân Việt-nam sống một cách ung dung, tâm hồn họ thơ thới, tin cậy vào khả năng tự lực của mình, không tham giàu, không sợ nghèo, và giào nghèo dường như họ không nghĩ đến.
Sở dĩ tâm tư họ phát sinh trạng thái như vậy là vì nước Việt-nam thuở ban đầu đã là một nước nông nghiệp, với nền kinh tế tự túc, ai cũng phải làm để nuôi sống, và đã làm nhất định ấm no. Bởi vậy, họ bảo :
Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Nhưng, lần lần với nền kinh tế phong kiến mỗi ngày một phát triển, sự giàu nghèo trở thành chênh lệch, và kẻ ăn không ngồi rồi lại chiếm ưu thế trong địa vị xã hội, do đó tâm tư người dân trở nên biến động. Để chứng minh điều đó, chúng ta thử nghe họ nói :
Tin nhau buôn bán cùng nhau,
Thiệt hơn, hơn thiệt trước sau như lời.
Hay gì lừa đảo kiếm lời,
Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang.
Theo chi những thói gian tham,
Pha phôi, thực giả tìm đàng dối nhau.
Của phi nghĩa có giàu đâu,
Ở cho ngay thực, giàu sau mới bền.
Hoặc : Khó ở giữa chợ không ai hỏi han,
Giàu ở lâm san, ai cũng tìm tới.
Hay : Vai mang bị bạc lè kè,
Nói bậy, nói bạ, họ nghe rầm rầm.
Trạng thái biến động của tâm tư người bình dân cũng là ý thức phản đối, chống lại mọi chế độ kinh tế đưa đến cuộc sống chênh lệch bất công, làm mất ý nghĩa sinh hoạt hồn nhiên của họ.
Tuy nhiên, dù chống đối để bảo tồn nguyên trạng, người bình dân cũng đã một phần nào chịu ảnh hưởng những biến đổi về kinh tế qua tâm hồn họ. Ví dụ họ bảo :
Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát-tràng anh xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Có rửa thì rửa chân tay,
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh.
Mơ ước và cảm nghĩ trong câu ca dao trên đây rõ ràng một phần nào người bình dân đã biến đổi tính chất hồn nhiên, giản dị, chất phác của họ rồi. Cũng như trong ca dao có những câu như :
Năm nay anh lắm bạc nhiều vàng,
Để anh sắm sửa thì nàng lấy anh.
Lấy anh, anh sắm sửa cho,
Sắm ăn, sắm mặc, sắm cho chơi bời.
Khuyên em có bấy nhiêu lời,
Thủy chung như nhất là người phải nghe.
Mùa đông lụa lụa, the the,
Mùa hè bán bạc hoa hòe sắm khăn.
Sắm gối thì phải sắm chăn,
Sắm gương, sắm lược, sắm ngăn đựng trầu.
Sắm cho em đôi lược chải đầu,
Cái ống đựng sáp vuốt đầu cho xinh.
Thì rõ ràng trạng thái giàu nghèo trong xã hội đã ảnh hưởng không ít trong cuộc sống lam lụ, khổ sở của lớp người bình dân qua bao nhiêu thế hệ. Nếu không bị ảnh hưởng làm gì trong ca dao có những câu như :
Mẹ em tham thúng xôi dền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh-hưng.
Em đã bảo mẹ rằng : « Đừng »,
Mẹ hứ, mẹ hé, mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ kẻ thấp người cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.
Hoặc những câu thách cưới như :
Em là con gái nhà giàu,
Cha mẹ thách cưới ra màu xinh sao.
Cưới em trăm tấm lụa đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi,
Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng.
Sắm xe tứ mã đem sang,
Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu.
Ba trăm nón Nghệ đội đầu,
Mỗi người một cái quạt Tàu cầm xinh.
Anh về sắm nhiễu Nghi-đình,
May chăn cho rộng, tôi mình đắp chung.
Cưới em chín chĩnh mật ông,
Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò.
Cưới em tám vạn trâu bò,
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm.
Lá đa, mặt nguyệt hôm rằm,
Răng nanh thằng Cuội, râu cằm Thiên-lôi.
Gan ruồi, mỡ muỗi cho tươi,
Xin chàng chín chục con dơi góa chồng.
Thách thế mới thỏa trong lòng,
Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân.
Nhìn chung, kinh tế của mỗi nước bao giờ cũng chi phối sinh hoạt xã hội, và sinh hoạt xã hội là sản phẩm của tình cảm con người. Bởi vậy, ngược dòng lịch sử văn học bình dân, chúng ta không thể nào phủ nhận tầm ảnh hưởng quan trọng ấy trong ca dao Việt-nam được.
IV. TÁC ĐỘNG VỀ XÃ HỘI
Trong lãnh vực này chúng ta gặp rất nhiều khía cạnh, bởi lẽ khi nói đến ảnh hưởng xã hội là bao gồm mọi quan niệm về lẽ sống. Ở đây chúng ta đã tách rời địa hạt kinh tế và chính trị, nên chỉ khảo sát qua tâm tư người bình dân khi biến động trước những tệ nạn của sự hợp quần mà thôi.
Tệ nạn xã hội, một danh từ chúng ta có thể hình dung như một cái đáy, góp nhặt tất cả những cặn bã của nền móng sinh hoạt đương thời.
Không có xã hội nào không có tệ nạn, nó là phản ảnh của mọi chế độ kinh tế, chính trị, hay nói rộng hơn, nó là con đẻ của tàn tạ mỗi ngày một lớn dần để đánh ngã hiện hữu, đưa lịch sử loài người tiến tới.
Người ta than trách, nguyền rủa những tệ nạn xã hội nhưng chính tệ nạn xã hội lại do con người tạo nên. Nó là sản phẩm của tham vọng vật chất. Xã hội nào tham vọng vật chất càng nhiều thì tệ nạn xã hội ấy càng phát triển.
Cuộc sống người nông dân thuở ban đầu do nền móng kinh tế tự túc, tâm hồn họ gần với thiên nhiên, khoáng đãng, nên tham vọng vật chất rất ít. Họ chỉ hưởng thụ trên sức sản xuất của họ mà không đòi hỏi những tiện nghi ưu tú. Vì vậy ca dao Việt-nam phản ảnh rất nhiều trạng thái đó. Ví dụ họ bảo :
Chẳng lo chi áo rách tay,
Trời kia ngó lại vá may mấy hồi.
Một chiếc nón cời không làm cho họ cảm thấy khổ sở trong cảnh nghèo nàn. Như vậy, cần gì họ phải hành động bất lương. Cho nên :
Áo rách có cách anh thương,
Nón cời có nghĩa anh thương nón cời.
Dù người bình dân không là những triết gia, nhưng ý thức đạo lý Đông-phương vẫn là nền tảng cho quan niệm nhân sinh của họ.
Khi đã lấy quan niệm đạo lý làm căn bản cho lẽ sống, mà đạo lý rất đối nghịch với tham vọng vật chất, trong lúc đó xã hội loài người từ chỗ hồn nhiên tiến dần đến phức tạp, nghĩa là tham vọng cá nhân luôn luôn nẩy nở trong xã hội loài người. Chính vì vậy mà tâm tư hồn nhiên của người bình dân thuở ban đầu phải biến thái.
Sự biến thái của họ trong lãnh vực xã hội rất rõ rệt. Nó là sức chống đối tất cả những gì dối trá, điêu ngoa, bắt buộc họ phải xa rời tính chất căn bản của họ thuở ban sơ. Đây, chúng ta thử lấy một ví dụ :
Con gà, con vịt chít chiu,
Mấy đời gì ghẻ thương yêu con chồng !
Trạng thái ích kỷ xấu xa đó xã hội tạo cho con người, và con người trở thành tệ nạn xã hội.
Tại sao gì ghẻ lại không thể yêu thương con chồng, trong lúc đối với người bình dân, một con chim, một con thú, một luồng gió cũng có thể gieo vào tình cảm họ những trìu mến ?
Thật ra, chúng ta không thể nào nói hết những phức tạp của xã hội con người, chúng ta chỉ nêu lên đây một số tục ngữ, ca dao tiêu biểu để chứng minh những thắc mắc trong tâm tư người bình dân qua trạng thái sinh hoạt xã hội mà thôi. Ví dụ :
- Lỗ miệng thì nói Nam-mô,
Trong lòng thì chứa một bồ dao găm.
- Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo,
L… không cạp, l… méo làm ba.
- Lươn ngắn mà chê trạch dài,
Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm.
- Một trăm ông chú không lo,
Lo vì một nỗi mụ o nỏ mồm.
- Khi vui thì vỗ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
- Khi lành quạt giấy cũng cho,
Khi dữ quạt mo cũng đòi.
Khi lành cho nhau ăn cháy,
Khi dữ mắng nhau cạp nồi.
- Lời nói quan tiền thúng thóc,
Lời nói dùi đục cẳng tay.
- Nhà giàu yêu kẻ thật thà,
Nhà quan ưa kẻ vào ra nịnh thần.
Nhà giàu trồng lau ra mía,
Nhà nghèo trồng củ tía ra củ nâu.
- Nhà giàu tham việc,
Thất nghiệp tham ăn.
- Đã gian lại ngoan,
Đã đi làm đĩ lại toan cáo làng.
- Chưa mua thì nói rằng hèn,
Đến khi mua được vừa khen, vừa mừng.
- Cả vú lấp miệng em,
Cả hèm lấp miệng hũ.
- Cây không trồng không tiếc,
Con không đẻ không thương.
- Mèo nào mèo lại ăn than,
Bởi chưng có mỡ đổ tràn lên trên.
- Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng châu chấu ngã ai dè xe nghiêng.
Nực cười cơm nguội lên hơi,
Cạnh buồm kẽ tố, áo tơi viền tà.
- No cơm ấm cật, dâm dật mọi nơi,
Đói rách tả tơi, mọi nơi không dật.
Trong ca dao Việt-nam những lời thống trách, nguyền rủa xã hội loài người tưởng không sách nào chép hết được. Tại sao người bình dân lại tỏ thái độ bất mãn với xã hội ? Nếu chúng ta khảo sát tường tận thì đó gây ra bởi ý thức chống đối khi họ bị xã hội loài người càng văn minh càng làm mất dần bản chất hồn nhiên của họ. Mặc dù chống đối nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận mọi ảnh hưởng của lịch sử xã hội tác động vào sinh hoạt bình dân, làm cho chính họ, những kẻ bất bình, chống đối, nhiều lúc lại hành động theo ảnh hưởng của xã hội. Do đó, tâm tư họ bị tác động và biến thái trong văn học.
Tóm lại, sự biến thái trong văn học bình dân là trạng thái biến động của tâm tư theo dòng lịch sử sinh hoạt xã hội, đúc kết thành dòng lịch sử văn học bình dân. Vậy, chúng ta có thể kết luận rằng, tính chất lịch sử văn học bình dân là một dòng tâm tư nối kết đi từ trạng thái thiên nhiên đến trạng thái xã hội. Khi đã đi vào xã hội, tính chất bình dân trở thành đối tượng tranh chấp với thực tại, để bảo tồn và di lưu những gì căn bản của nó. Đó là dân tộc tính.
Sau mục biến thái về thi ca bình dân, chúng tôi tưởng cũng nên khảo sát qua một số tác phẩm mà từ trước đến nay chúng ta gọi là thơ bình dân.
Thơ bình dân là gì ? Ở đây chúng tôi bước ra ngoài phạm vi tục ngữ, phong dao, để đi vào một mảnh đất gần gũi với người bình dân. Nó là những tập thơ được người bình dân yêu chuộng, di lưu từng thế hệ trong đồng ruộng lũy tre.
Dĩ nhiên, những thi phẩm có đầu có đuôi như vậy phải do một cá nhân nào sáng tác, khác với loại tục ngữ, phong dao là của chung do nhiều người truyền tụng, góp nhặt, sửa đổi và ứng dụng trong cuộc sống thường ngày.
Những thi phẩm mang danh « thơ bình dân » tuy do một cá nhân sáng tác, hoặc sưu tầm những tích truyện có khuynh hướng bình dân, và hợp với quan niệm nhân sinh của thế giới cần lao, tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận trên thời gian, khi truyền tụng, nhiều người đã sửa đi sửa lại, thêm bớt cho hợp với địa phương mình.
Nhưng dù thế nào đi nữa, những thi phẩm đã mang danh « thơ bình dân » và được giới bình dân ưa thích, thì những thi phẩm ấy phải gần gũi với tâm hồn bình dân, cuộc sống bình dân rồi.
Sau đây chúng ta thử phân tích một số thi phẩm thuộc loại «thơ bình dân» để thấy sự gần gũi của nó đối với giai cấp cần lao.
1) Thơ «Con Tấm con Cám»
Tích truyện Con Tấm con Cám là truyện tích Việt-nam, tác giả đã ấn định thời gian rõ ràng, tuy đó là câu chuyện giả tưởng :
Nhà Đinh vừa rốt đời trào,
Quốc gia biến sự chuyện sao lạ lùng.
Với khung cảnh xã hội phong kiến Việt-nam, thi phẩm «Con Tấm con Cám» mô tả một cảnh ác nghiệt của mẹ ghẻ đối với con chồng, nói lên sự thối nát của chế độ xã hội phụ quyền.
Trước hết, chúng ta thấy cảnh gia đình ông Bá, tha thiết với ý muốn được một đứa con trai để nối dõi tông đường, mặc dù sinh được một đứa con gái tên Tấm :
Lữ-Thị đặng sanh một nàng,
Đặt tên con Tấm dung nhan kém người.
Ông Bá than thở đất trời,
Không trai kế hậu lòng thời chẳng yên.
Quan niện « Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô » của Nho giáo đã đi vào tâm tư người bình dân bằng chế độ phụ quyền của xã hội phong kiến. Nhưng điều đó không quan trọng bằng cuộc sống xã hội tạo cho con người những ích kỷ, độc ác, mà người bình dân luôn luôn chống đối. Thật vậy, con người sở dĩ độc ác là do lòng ích kỷ. Sự thương ghét phát nguồn ở đây :
Lần hồi xuân mãn, hè qua,
Cám lên chín tuổi, Tấm đà mười lăm.
Cám thì đẹp tợ trăng rằm,
Khuynh thành quốc sắc ai bằng, ai qua.
Tấm thì hình dáng xấu xa,
Tay chận cục mịch, nước da đen sì
Mụ Tấm sửa soạn hàng ngày,
Trau giồi son phấn cho tày người ta.
Lại sanh lòng dạ yêu ma,
Thấy Cám đẹp đẽ lòng tà ghét ganh.
Nếu ở Truyện Kiều, Nguyễn-Du đã đưa ra thuyết « tài mệnh tương đố » để oán trách đất trời :
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua trăm cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
(Kiều)
thì thơ « Con Tấm con Cám » lại quan niệm khác. Thơ Con Tấm con Cám không trách trời trách đất, không viện lẽ « Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen » mà đi thẳng vào lòng người, vào thực trạng xã hội.
Xã hội đã gây nên chế độ gia đình, chế độ phụ quyền, đem lại cho mọi gia đình quyền hạn của cha mẹ và bổn phận của con cái. Quyền hạn và bổn phận ấy, trong chế độ phong kiến, là một bất công, nếu bên trong hàm chứa tính chất vị kỷ của con người.
Nếu một ông vua có quyền chém giết, đối xử tệ mạt với bầy tôi, thì cha mẹ cũng có quyền ruồng rẫy, hành hạ đứa con mình một cách vô điều kiện :
Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung.
Phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu.
Đưa ra một câu chuyện dì ghẻ ác nghiệt với con chồng, thơ Con Tấm con Cám đã đưa ra một bức tranh xã hộ để nguyền rủa chế độ bất công ấy :
Bắt làm công việc trong nhà,
Ngày ngày chửi rủa ông bà, tổ tiên.
Mằng nhiếc, đánh đập liên miên…
Sự ganh ghét ấy chính là lòng ích kỷ của con người, do xã hội loài người tạo nên.
Trong chế độ xã hội vị kỷ, người ta thường tranh đua nhau, nhưng với bậc tài danh thì lấy tài trí để tranh đua, còn với hạng hèn mạt thì tìm cách hại người khác ; làm nhục người để cho mình được nổi lên. Tâm trạng ấy, thơ Con Tấm con Cám đã diễn tả rất rõ ràng. Ví dụ ở đoạn thơ Tấm, Cám cùng đi xúc cá để tranh tài :
Con Cám lặn lội khắp nơi,
Siêng năng lo xúc, không chơi chút nào.
Cá đầy giỏ lớn xinh sao,
Mới rủ con Tấm mau mau lo về.
Con Tấm mặt mày ủ ê,
Giỏ không có cá liệu bề làm sao.
Nghĩ ra một kế thực cao,
Gạt Cám lấy cá bỏ vào giỏ mây.
Cái gì đã tạo cho lòng người những điêu ngoa, gian xảo, nếu không phải là do chế độ xã hội gây nên?
Để chứng minh sự điêu ngoa, gian xảo của lòng người, những nhà thơ trong giới bác học thường tránh né, không dám nhìn thẳng vào guồng máy của mọi chế độ xã hội, mà chỉ đổ lỗi cho tạo hóa an bài. Những tiếng rên than của họ không vì bất công xã hội mà đi tìm những gì ngoài cuộc sống hiện hữu.
Một cành hoa đẹp bị người ta ngắt đi, nhà thơ bác học không oán trách kẻ ngắt hoa, mà oán trách số phận cành hoa. Vì hoa đẹp nên mới bị người ngắt. Quan niệm như vậy tức là đặt tham vọng cá nhân ra ngoài cảm giới, và hình dung xã hội loài người là trạng thái tất yếu, không thể cải tiến được.
Người bình dân trái lại, đặt cảm giới vào thực tại, gắn liền với cuộc sống, cho nên, đối với họ, chỉ có chế độ xã hội là đáng nói. Mọi bất công, đau khổ đều do chế độ xã hội gây nên cả. Quan niệm như vậy, những thi phẩm có tính chất bình dân đều phát nguồn ở lẽ sống, và tiếng rên than, phản đối của họ là đối tượng của xã hội loài người.
Thơ Con Tấm con Cám được giới bình dân ưa thích chính là vì lẽ đó.
Tuy nhiên, khi nêu những xấu xa của xã hội loài người do lòng ích kỷ tạo nên, người bình dân cũng cảm thấy phần nào bất lực trước công cuộc cải tiến xã hội. Vì vậy, họ chỉ cần mong sự tiến hóa của xã hội loài người bằng một quyền lực siêu hình. Hy vọng ấy, những thi phẩm bình dân đi vào thần thoại để giải quyết nguyện vọng của họ.
Người hiền gặp lành, người ác gặp dữ, đó là sự khát khao của tâm tư bình dân. Nhưng làm thế nào để gặp lành, để chiến thắng dã tâm của xã hội loài người ? Con đường giải quyết chỉ còn nhờ ở tưởng tượng. Họ phải nhờ vào quyền phép siêu linh để thỏa mãn ước mơ của họ đối với lẽ sống.
Bởi vậy, khi chế độ gia đình phong kiến cho phép sự khắc nghiệt giữa dì ghẻ con chồng, và thực tại xã hội đã diễn biến như vậy. thơ Con Tấm con Cám rơi vào quan niệm thần linh cũng là chuyện tất nhiên.
Đây, chúng ta thử đọc đọc một đoạn thơ khi con Cám bị con Tấm lấy hết cá :
Con Cám chi xiết khóc than,
Về không dì đánh biết đàng nào thưa
Thượng đình thấy trẻ thương thay,
Liền sai tiên trưởng truyền rày phép linh.
Báo cho nàng Cám hay tin,
Ban cho Bóng-mú sau mình đặng an.
Đồng-Tân vưng lệnh bệ vàng,
Đằng vân giá võ dương gian tới rày.
Hóa hình lão trượng ăn mày,
Đi gặp con Cám ông rày hỏi qua.
Con Cám nước mắt nhỏ sa,
Thủy chung bày kể thưa qua sự mình.
Lão rằng : « Lòng chị bất bình,
Con tua an dạ làm thinh một bề.
Con mau đem cá Mú về,
Con nuôi cá Mú chớ hề lảng xao.
Khá làm bàu, giếng, hồ, ao,
Ngày đêm săn sóc ra vào cho ăn.
Ngày sau nhờ nó vô ngần,
Nên thân nên phận ai bằng vinh vang.
Bây giờ con lại gia đàng,
Giữ lời ông dặn lòng vàng chớ ly ».
Con Cám cúi lạy tức thì,
Ngó lên lão trượng mất đi đường nào.
Nghĩ suy không rõ âm hao,
Hay là Thần Thánh vị nào giúp ta.
Vội vàng bèn trở về nhà,
Bưng một Bóng-mú, xót xa lụy phiền.
Phù hộ người hiền, cứu giúp kẻ cô đơn, người bình dân phải cầu viện đến thần linh. Sự cầu viện ấy chính là ước vọng của họ trên phương diện cải tiến xã hội. Tuy nhiên, người bình dân cũng nhận thấy thực trạng xã hội không phải đơn thuần. Lòng độc ác của con người từ trạng thái này đến trạng thái khác, nối tiếp như một xâu chuỗi, mà kẻ hiền lành không thể an thân được. Quan niệm như vậy, thơ Con Tấm con Cám đã diễn tả qua câu chuyện « nuôi cá bóng mú » :
Con Cám mặt ủ mày châu,
Gói cơm sắm sửa thả trâu ra đồng.
Bữa ăn chẳng dám no lòng,
Nhịn ăn nuôi mú thong dong tháng ngày.
Chiều về, trời xế hiên tây,
Cám ngồi thềm giếng kêu : « Này mú ơi ! »
Phận người cơm trắng cá tươi,
Phận chị dưa muối khuyên người tạm dùng.
Mú nghe quày quả vẫy vùng,
Quạt đuôi dợn nước, mắt trừng tợ sao.
Dần dà ước được ba trăng,
Con Tấm rình thấy khen rằng : « Béo thay !
Đừng cho con Cám nó hay,
Đem cơm ta nhử, dao này chém đi ».
Lòng ác độc con người tìm những nhỏ nhen, hèn mọn để hành động. Sự thành công trong thơ bình dân chính là những nét phản ảnh trung thành mọi trạng thái thực tế trong cuộc sống xã hội :
Con Tấm giấu dao, ngồi rình,
Thấy Mú nổi hết cả mình, mừng thay.
Rút dao chém Mú thác rày,
Máu ra đỏ giếng, đem thây về nhà.
Làm vảy rồi chặt khúc ra,
Khúc kho, khúc nướng ăn đà ngon sao !
Một bên diễn tả sự đau đớn của con Cám, một bên diễn tả sự độc ác, đắc thắng của con Tấm, tập thơ đã đi sâu vào tình cảm của lớp người bị giày vò, cơ cực, và đó cũng là sự trùng hợp của cuộc sống bình dân trong lịch trình xã hội. Cuộc sống con Cám trong gia đình cũng chính là cuộc sống của lớp người bình dân ngoài xã hội.
Tuy nhiên, ước vọng của con người, dù phải sống trong đọa đày, áp bức cũng hy vọng ở sự vươn lên để xóa nhòa nỗi khổ cực ấy, cho nên, dẫu phải bị kềm kẹp ác nghiệt trong chế độ dì ghẻ con chồng, cuối cùng con Cám vẫn đạt lấy sự thỏa đáng trong cuộc sống :

a) SỰ GẦN GŨI CỦA THƠ BÌNH DÂN VỚI GIAI CẤP CẦN LAO
b) TÍNH CHẤT THƠ BÌNH DÂN VÀ BÁC HỌC

Thượng-hoàng thấy trẻ thương thay,
Xét công ba kiếp đọa đày trần gian.
Liền đòi Đại-thánh vội vàng,
Dương trần xuống đó giúp nàng tiên nga.
Tề-Thiên vâng lệnh chương tòa,
Bái trì Thượng-đế bôn ba dương trần.
Nàng Cám chào hỏi ân cần,
Chẳng hay Đại-thánh đằng vân việc gì ?
Tề rằng : « Vâng lệnh đơn trì,
« Giúp nàng một thuở an trì nợ duyên ».
Rồi, do sự sắp đặt cơ mầu của thiên đình, con Cám tận hưởng hạnh phúc, vầy duyên với vị Hoàng-tử :
Lịnh truyền trực chỉ trào ca,
Hiệu vàng, tán bạc xinh đà thêm xinh.
Lễ bày, lạy tạ từ đàng,
Rồi chàng, rồi thiếp duyên vàng sánh đôi.
Từ đây hiệp mặt giao bôi,
Toại lòng ngư thủy, phỉ rồi phụng loan.
Thái-tử lòng rất hân hoan,
Bấy giờ tương hội, duyên vàng sơ giao.
Còn con Tấm, từ ban đầu là một cô gái độc địa, ác nhân, hại người, cướp tình, do lòng tham lam, vị kỷ, cho nên cuối cùng, con Tấm lại chết vì lòng tham lam, vị kỷ ấy. Đó là quan niệm nhân quả. Đây, chúng ta thử đọc thơ nói về con Tấm :
Nói việc con Tấm phòng đào,
Mấy Đông chẳng được tình giao với chàng.
Việc mình nghĩ lại ngỡ ngàng,
Giết Cám ba kiếp lại hoàn hiệp duyên.
Cám đâu có dạ căm hờn,
Âu ta đến đó thiệt hơn chước bày.
Sửa sang cùng viện tới rày,
Cám thấy nàng Tấm ra nay hỏi chào.
Nàng Tấm than thở thấp cao,
Tình em nghĩa chị đồng bào em ơi !
Chị đà trăm việc lỗi rồi,
Chịu cam chịu quấy, bạc bôi thay là.
Mong em rộng lượng hải hà,
Oán hờn việc trước em mà bỏ qua.
Cám rằng : Chị chớ lo xa,
Em không thù oán chị mà tư lương.
Tấm xem nhan sắc phi thường,
Tốt xinh trên thế ai đương ai bì.
Tỏ rằng : « Em khá tàng tri,
« Em sao xinh đẹp khác thì hơn xưa ».
Nàng Cám nghe hỏi liền thưa :
« Tiên dạy nấu nước tắm trưa mỗi ngày.
« Nước kia nấu một chảo đầy,
« Nhảy vào đó tắm mặt mày xinh thay ».
Nàng Tấm nghe lọt vào tai,
Hèn chi da trắng tóc dài đẹp xinh.
Tấm liền trở lại bổ dinh,
Vội kêu thị nữ, gia đinh bảo rày.
Tì nhi vâng thửa lời nầy,
Lấy chảo múc nước cho đầy nấu sôi.
Nước kia bây nấu xong rồi,
Kêu tao liệu dụng bây giờ lui ra.
Nàng Tấm tham dạ thay là,
Tính thầm rằng phép tiên gia chước bày.
Nếu cho tì nữ biết rày,
Nó tắm như vậy tốt nay như mình.
Phép tiên đâu có lậu tình,
Xinh lịch một mình há dễ lậu ra.
Tì nhi vào mới : « Thưa bà !
« Chảo nước tôi nấu xem qua sôi trào ».
Tấm rằng : « Cứ để mặc tao,
« Bây ra ngoài hết chớ vào làm chi ».
Nàng liền cổi hết xiêm y,
Nhảy vào chảo nước, hồn thì qui thiên.
Một đàng là sự vinh quang của con Cám, một đàng là sự hủy diệt của con Tấm, mục đích tập thơ đã nói lên nguyện vọng của người bình dân.
Nếu con Tấm trước kia vì ích kỷ, tham vọng đã không biết điều phải, tàn nhẫn với con Cám, thì cuối cùng con Tấm cũng lại vì ích kỷ, tham vọng đã không biết được điều trái, đem thân hủy diệt một cách dại khờ.
Tóm lại, thơ Con Tấm con Cám sở dĩ được gọi là thơ bình dân bởi vì nó thích hợp với tâm tư người bình dân :
Mang ý thức chống chế độ phụ quyền trong guồng máy phong kiến, được giai cấp phong kiến nuôi dưỡng tạo thành những bất công xã hội.
Nêu lên luật nhân quả làm cho những kẻ gian ác, tham tàn cuối cùng phải bị hủy diệt, và kẻ bị áp chế, hành hạ, cuối cùng được giải thoát, vui hưởng hạnh phúc, tự do.
Đó là hai nhu cầu của lớp người bình dân trước cuộc sống đương thời trong quá trình lịch sử xã hội, và sự ưa thích thơ Con Tấm con Cám chính là phản ảnh của tâm tư người bình dân trong quá trình lịch sử ấy.
2) Thơ «Lâm Sanh Xuân nương»
Nếu thơ Con Tấm con Cám chống chế độ phụ quyền trong khía cạnh mẹ ghẻ con chồng thì thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương cũng lại chống chế độ phụ quyền trong khía cạnh mẹ chồng nàng dâu. Tuy hai khía cạnh nhưng cùng chung một mục đích. Mà cũng vì vậy nên thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương vẫn được lớp người bình dân ưa thích như thơ Con Tấm con CámĐây, chúng ta thử xét qua một đoạn mở đây :
Xưa kia tại quận Châu-thai,
Có ông Lâm-Phụng tuổi rày tri thiên.
Làm quan Tổng-trấn điện tiền,
Thanh liêm rất mực, nhân hiền ai đương.
Vợ người ác độc khôn lường,
Tên là Lý-thị, lòng thường gian manh.
Sanh trai tên gọi Lâm-Sanh,
Nghề văn nghiệp võ tập tành rất tinh
Cho hay số mệnh tại trời,
Trấn quan nhuốm bịnh hồn dời âm quang.
Mẹ con chi xiết thở than,
Lo bề tống táng, cư tang trọn nghì.
Ba năm tang phục mãn kỳ,
Phu nhơn khi ấy kịp thì tính toan.
Nghe rằng ở chốn Lãnh-trang,
Có con Tiều-lão dung nhan mặn mà.
Tiếng lành đồn khắp gần xa,
Tuổi vừa hai tám, tên là Xuân-Nương.
Muốn con xong việc cang thường,
Cậy người may mối, kết đường sui gia.
Nêu lên một câu chuyện ác độc giữa mẹ chồng nàng dâu, thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương đã ghép mối tình duyên giữa hai con người không cùng một giai cấp : Lâm-Sanh, giai cấp quí tộc ; Xuân-Nương, giai cấp bình dân. Phải chăng đó là một dụng ý của tập thơ để điển hình qua thực trạng xã hội ? Bởi vì phần đông cảnh mẹ chồng nàng dâu xảy ra nhiều nhất trong giai cấp quí tộc.
Tuy nhiên, dù tập thơ có dụng ý như vậy thì điều cần thiết vẫn nằm trong mục đích chống chế độ phụ quyền, nêu lên những tệ nạn của xã hội phong kiến. Đây, chúng ta hãy nghe họ diễn tả những tệ nạn ấy :
Cám thương Xuân-thị ôm lòng,
Làm dâu tính lại đã ròng ba năm.
Tối thời trải chiếu, giăng mùng,
Ngày thời trà, cháo, một mình lo toan.
Đương khi mẹ ngủ trong mùng,
Nàng thì cầm quạt, quạt mà lấy hơi.
Ba năm nhan sắc chẳng tươi,
Cơm ăn chẳng đặng, mình gầy như xương.
Cưới vợ cho con, rồi hành hạ nàng dâu không lý do, đó là tệ nạn phát sinh trong chế độ phụ quyền của xã hội phong kiến. Dĩ nhiên, thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương mang mục đích đả phá tệ nạn ấy. Cái gì đã làm cho mẹ chồng ghét nàng dâu, khi đôi vợ chồng vẫn yêu mến nhau :
Lâm-Sanh mới trở về nhà,
Thấy nàng Xuân-thị lụy mà thâm bâu.
Chàng bèn gạn hỏi trước sau,
Thung đường đâu vắng, em rầu việc chi ?
Xuân-Nương nói lại cùng chàng,
Mẹ còn đang ngủ trong màn chưa ra.
Lâm-Sanh trong dạ xót xa,
Bảo nàng ngồi lại phân qua sự tình.
Lòng anh thảm thiết vô ngần,
Nhưng không dám nói, dám phân nửa lời.
Từ mẹ cưới em về nhà,
Hơn ba năm chầy mới gặp nhau đây.
Trời ơi đất hỡi có hay,
Vợ chồng phân cách đêm ngày thảm thương.
Gian nan em chịu nhiều đường.
Cảnh nàng dâu mẹ chồng cũng như cảnh dì ghẻ con chồng chỉ là sản phẩm của chế độ gia đình phong kiến.
Chế độ phong kiến nuôi dưỡng ý niệm phụ quyền để phụng sự chế độ quân quyền, cho nên, con cái trong gia đình, dù bị cha mẹ không có tình ruột thịt, đối xử tàn nhẫn, xã hội vẫn thừa nhận cái uy quyền bất công ấy.
Thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương sở dĩ được người bình dân thích thú là vì nó diễn tả thực trạng xã hội, nói lên những tệ nạn trong chế độ gia đình phong kiến, hợp với ý tưởng của họ.
Cùng với mục đích chống chế độ phụ quyền, thơ Con Tấm con Cám chỉ nêu lên tệ nạn gia đình (cảnh dì ghẻ con chồng) thì thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương đã đi xa hơn, từ chỗ chống chế độ phụ quyền đi dần đến chỗ chống chế độ vua quan.
Đây, chúng ta thử đọc qua một đoạn thơ của Lý-thị (mẹ chồng) đánh chết Xuân-Nương (nàng dâu) rồi nhờ thế lực vua quan để chạy tội :
Quân nhơn vào trước bày lời,
Phu nhơn nghe nói rụng rời tay chân.
Bèn vào dặn nhỏ Lâm-Sanh,
Gia trung con khá giữ gìn hôm nay.
Gia đinh mười đứa chân tay,
Gánh vàng bay kíp theo rày cùng tao.
Ra đi, tôi tớ lao xao,
Phu nhơn lên võng vào trào tính toan.
Đến dinh vào chốn hậu đàng,
Đem vàng mười nén phân tàn trước sau.
Cậy cùng quan cả lo âu,
Tôi đà đánh phải nàng dâu bỏ mình.
Còn gì bất công cho bằng một chế độ mà mạng sống con người lệ thuộc vào thế lực vua quan và vàng bạc.
Tiền bạc, thế lực xóa nhòa lẽ phải, và những kẻ tham tiền, có thế lực đã hành động ngoài lương tri của họ. Thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương đã diễn tả :
Thừa-Tướng cầm trạng xem qua,
Nực cười cho chị phu nhơn mắc nàn.
Lịnh truyền hai gã tiểu nhi,
Đem võng bay rước phu nhơn chị rày.
Hai gã vâng lệnh ra đi,
Bỗng đâu gặp được phu nhơn giữa đàng.
Rồi, cái việc mẹ chồng đánh chết nàng dâu được quan-Thừa-tướng ém nhẹm, kẻ giết người vẫn nghêng ngang, vô tội.
Nêu ra câu chuyện trên đây, rõ ràng tập thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương đã vạch trần bộ mặt thối tha của chế độ vua chúa để chống đối.
Tóm lại, sự thích thú của người bình dân trong lãnh vực thi ca phần lớn do nội dung của thi ca phản ảnh những bất công xã hội, mà đó là điều chất chứa trong tâm tư họ giữa cuộc sống thường ngày.
3) Thơ «Phạm Công Cúc Hoa»
Khác với hai tập thơ trên (Lâm-Sanh Xuân-Nương và Con Tấm con Cám), thơ Phạm-Công Cúc-Hoa đề cao nhân nghĩa và hiếu đạo. Phạm-Công là con một nhà hàn vi, vì hết lòng phụng thờ mẹ già mà Cúc-Hoa, con gái một viên Tri-phủ đem lòng cảm mến, rồi tương tư. Đây, chúng ta thử đọc qua một vài đoạn trong tập thơ ấy :
Đoạn này tới thứ Cúc-Hoa,
Con quan Tri-phủ Trần gia chốn này.
Mặt huê, mày liễu tốt thay,
Tuổi vừa hai sáu, học hay ai bì.
Làu thông kinh sử phú thi,
Học trò đều nể nàng vì tài ba.
Phạm-Công đút cơm mẹ già,
Cúc-Hoa đi tới đứng ra xem tường.
Bỗng nàng cảm động lòng vàng,
Trọng bề hiếu đạo, thương chàng Phạm-Công.
Thương chàng kể đã ba đông,
Phạm-Công nào rõ, nào thông sự tình.
Cúc-Hoa trở lại gia đình,
Lòng sầu vò võ, một mình tương tư.
Thấy chàng chí hiếu, lòng thương,
Giả đi đến chốn học đường viếng thăm.
Rồi, vì cảm lòng hiếu đạo của Phạm-Công, Cúc-Hoa phá vỡ bức tường ngăn cách giữa giàu nghèo, địa vị, trở thành người vợ hiền, nuôi Phạm-Công ăn học đến đậu Trạng-nguyên :
Thấy chàng kinh sử đã già,
Vui mừng từ ấy hiệp hòa phụng loan.
Cho hay là cuộc đá vàng,
Ái ân mặn lại, phút nàng thọ thai.
Từ khi Phạm-Công đậu Trạng-nguyên, thì lại bị công chúa ép duyên, khiến Phạm-Công phải lâm vào cảnh hoạn nạn, làm cho tình nghĩa vợ chồng bị điêu đứng :
Vua đòi Công-chúa vào chầu,
Sánh cùng quốc trạng coi âu dường nào.
Công-chúa vâng lệnh vào trào,
Hương xông, xạ ướp, ngạt ngào mùi hoa.
Hình dung đẹp thể tiên nga,
Vua truyền rót rượu đãi mà Trạng-nguyên.
Công-chúa rót rượu mời khuyên,
Mấy khi ra chốn điện tiền yến diên.
Trạng-nguyên bước tới bưng liền,
Tưởng là vâng lệnh bệ tiền mà thôi.
Nào ngờ để xuống rồi ngồi,
Công-chúa xem thấy bồi hồi thẹn thay.
Nàng bèn đặt gối tâu bày,
Thật là quan Trạng người nầy nghênh ngang.
Của trào người lại chẳng màng,
Giữa đây đủ mặt bá quan đông đầy.
Khi một nàng Công-chúa đã ghen hờn, tất nhiên tai nạn sẽ đổ trên đầu kẻ kém quyền thế. Phạm-Công, Cúc-Hoa phải làm vật hy sinh cho trạng thái bất công của chế độ.
Tóm lại, mặc dù thơ Phạm-Công Cúc-Hoa đề cao hiếu đạo, và tình vợ chồng, nhưng tính chất vẫn không thoát ra ngoài ý thức chống đối quyền hành của chế độ phong kiến, mà địa vị, tiền bạc là thảm trạng của cuộc sống đương thời.
Thơ bình dân rất nhiều và di lưu mãi tự ngàn xưa. Trên đây chúng ta chỉ lược dẫn một số ít để tìm hiểu tính chất của nó mà thôi.
Để kết luật phần này, chúng tôi xin nêu ra mấy điểm khác biệt giữa tính chất thơ bình dân và bác học.
1) Tính chất chống chế độ phong kiến
Chúng ta phải thừa nhận thơ bình dân mang tính chất chống chế độ phong kiến rất mạnh mẽ. Nói như vậy, chúng ta không sợ lầm lẫn vì thực tế cuộc sống người bình dân là nơi chứa đựng nhiều nhất những bất công xã hội và chế độ phong kiến gây nên.
Bởi vậy, khi khảo cứu thơ bình dân (chúng tôi xin nhắc lại, thơ bình dân ở đây chúng tôi muốn nói riêng loại thơ được người bình dân ưa thích), chúng ta thấy hầu hết là những tích chuyện khai thác những bất công xã hội, đánh thẳng vào chế độ vua quan.
Dĩ nhiên, cũng có những loại thơ mang tính chất thần thoại, quái đãn, nhưng dù hình thức nào, thơ bình dân cũng không thoát ra ngoài mục đích của nó.
Trước hết, chúng ta hãy thử phân tích về ý thức chống phong kiến.
Ý thức chống phong kiến của người bình dân thể hiện rõ ràng nhất qua những bất công của chế độ gia đình, qua những hành động của quan lại, vua chúa.
Xã hội đem đến cho con người, cho cuộc sống tập thể những đau buồn, khổ não. Đó là việc chung trong địa hạt nhân sinh. Thơ bác học cũng như thơ bình dân đều phản ảnh sinh hoạt xã hội. Nhưng về ý thức thì mỗi dòng thơ quan niệm mỗi khác.
Hãy lấy một ví dụ, truyện Kiều của Nguyễn-Du vẫn nói đến hành động tham nhũng của quan lại. Một thằng bán tơ gieo họa, một viên quan đòi ăn hối lộ để tha tội. Đó là nguyên nhân khiến nàng Kiều phải bán mình chuộc cha, đáp đền chữ hiếu.
Tuy thế, nhưng ở truyện Kiều, tác giả không dám nhìn thẳng vào cái nguyên nhân ấy để hờn trách xã hội, vạch trần bộ mặt xấu xa của lớp người trị dân, mà tránh né bằng cách đổ lỗi cho trời già, cho định mệnh.
Cuộc du ngoạn trong tiết Thanh-minh, Kiều gặp Đạm-Tiên ứng mộng, chính tác giả đã gián tiếp bênh vực những tệ nạn xã hội phong kiến, làm xóa nhòa những bất công trong guồng máy cai trị, phủ nhận sự cô thế, sút kém của Vương ông trong giai cấp phong lưu, quí tộc. Sự thật, nếu Vương ông là người có thế lực trong guồng máy phong kiến, có đủ tiền bạc để làm cho các quan lại kính nể thì khó gì mà thằng bán tơ gieo họa mà không thể minh oan được, để cho nàng Kiều phải bán mình chuộc tội.
Nguyên nhân rõ ràng như vậy, nhưng tác giả truyện Kiều không cho đó là nguyên nhân chính gieo tai họa cho gia đình Vương ông mà lại đưa ra thuyết định mệnh bằng cách viện dẫn nàng Đạm-Tiên với sổ đoạn-trường để cho người đọc không ý thức được cái nguyên nhân gây ra do tệ nạn xã hội phong kiến.
Thơ bình dân trái lại, họ không tránh né những thực tế trong cuộc sống. Ví dụ thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương, chúng ta thấy một phần đề cao tình nghĩa vợ chồng, một phần đả phá tệ nạn xã hội gia đình, vạch mặt những kẻ cậy thế cậy thần trong guồng máy cai trị.
Xét như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng tính chất thơ bình dân chống chế độ phong kiến mạnh mẽ hơn, họ nhìn thẳng vào xã hội, và thấy rõ chế độ phong kiến là nguyên nhân tạo ra những bất công, khổ lụy cho cuộc sống con người.
Đây chúng ta thử đọc qua một đoạn trong thơ Phạm-Công Cúc-Hoa lúc Phạm-Công đỗ Trạng-nguyên, bị Công-chúa đương triều ép duyên, bị Phạm-Công từ chối nên công chúa nổi giận dùng quyền thế hành hạ, làm cho Phạm-Công đến thân tàn ma dại :
Chàng bèn ứng thí đậu liền,
Rồi vào yết kiến bệ tiền Hoàng-gia.
Nô-vương trên điện phán ra,
Trẫm chào quan Trạng sang qua nước nầy.
Trẫm sanh Công-chúa tốt thay,
Muốn cùng quan Trạng sum vầy phụng loan.
Trạng-nguyên nghe nói ngỡ ngàng,
Chàng liền quì trước bệ vàng tâu qua.
Vốn tôi đã có vợ nhà,
Cùng nhau gặp lúc thuở mà hàn vi.
Công-chúa chẳng rõ thị phi,
Nghe chê nổi giận nàng thì hỏi han.
Vốn rằng niên thiếu rõ ràng,
Lẽ nào lại có gia đàng sơ giao.
Chàng tua nghĩ lại trước sau,
Nhược bằng cãi lịnh, gươm đao hành hình.
- Lạy bà rộng lượng thứ tình,
Nguyền xưa ghi dạ lòng đinh ninh lòng.
Nô-vương phán trước đơn đình,
Dạy đem quan Trạng hành hình cho ta.
Cũi đồng, trăn trối chẳng tha,
Đặng chàng trực tiết vợ nhà cho an.
Trạng-nguyên đau đớn lòng vàng,
Công trình đèn sách rõ ràng chảy trôi.
Đày hơn sáu tháng, thương ôi !
Vợ nhà thai nghén vô hồi thảm thay !
Nghĩ thôi lụy ngọc đượm đầy,
Thà ta liều thác chốn nầy cho an.
Nô-vương tức giận căm gan,
Khi quân tội nặng muôn vàng khó tha.
Khoét hai con mắt cho ta,
Hàm răng đục hết coi mà còn chi.
Phạm-Công ngã xuống một khi,
Giây lâu mới tỉnh, chàng thì thở than.
Cúc-Hoa em hỡi có tàng,
Anh nguyền một thác suối vàng cho xong.
Chỉ vì không ép duyên được mà hủy hoại một nhân tài, bất chấp nhân đạo, rõ ràng uy quyền và bất công xã hội trong chế độ phong kiến đã gây tai họa cho cuộc sống người dân. Khi nêu ra câu chuyện như vậy, thơ bình dân đã tìm nguyên nhân đích thực của cuộc sống, và cũng là ý thức chống đối mạnh mẽ của họ trong quá trình lịch sử tranh đấu.
Nhân đề cập ý thức đấu tranh xã hội, chống phong kiến, chúng ta cũng nên phân tích tại sao thơ bác học lại thiếu tính chất chống đối ấy ?
Nếu chúng ta hình dung xã hội phong kiến là một xã hội đẳng cấp, thì vấn đề nầy chúng ta không có gì thắc mắc, bởi lẽ thơ bác học là sản phẩm tâm tư của lớp người phong lưu, quí phái, tuy bị mâu thuẫn xã hội tác động, họ phải rên than quằn quại trước mọi tranh đoạt cá nhân, nhưng vì họ là người trong giai cấp phong kiến thống trị, họ phải tránh né những hiện hữu mà chính họ gây nên.
Ví dụ thơ Chinh phụ ngâm, một tác phẩm chứa đựng nỗi lòng ai oán của một chinh phụ, vắng chồng vì phải cầm quân ra trận. Lẽ ra nàng chinh phụ phải hờn tủi vì xã hội, vì chiến họa gây nên, bắt buộc đôi uyên ương phải xa lìa gối mộng, để hy sinh cho quyền lợi nhà vua, thì ở đây, tính chất tập thơ đã đem oán hờn đổ vào mung lung, để mà than thân trách phận, tránh né những nguyên nhân gây ra thảm họa ấy :
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?
(Chinh phụ ngâm)
Tại sao không nhìn thẳng vào đối tượng đã gây ra thảm họa mà lại đổ lỗi cho trời xanh ?
Nếu cho rằng nhiệm vụ tùng chinh là bổn phận làm trai thì tại sao người đàn bà lại than thở, tủi hờn ? Rõ ràng sự tủi hờn đã nói lên một mất mát, trong đó chứa đựng những bất công xã hội.
Hoặc giả, nếu bảo rằng chí trai tang bồng hồ thỉ, sự khổ cực của chinh phu sẽ đem lại vinh quang, đổi lấy những ngày sầu khổ của kẻ khuê phòng, thì ý nghĩa của « chinh phụ ngâm » không còn giá trị nữa. Tiếng than của khuê phụ chính là một đau khổ mà kẻ ấy không dám nhìn thẳng vào tác động của xã hội đương thời.
Đem thơ Chinh phụ ngâm so sánh với thơ bình dân, chúng ta vẫn thấy thơ bình dân mang đặc tính xã hội nhiều hơn.
Đến như tập Tần cung oán, diễn rả mối sầu đau của một cung phi bị một ông vua bỏ rơi. Sự đày đọa của dục vọng đã kết thành những lời rên than thống khiết. Với nội dung ấy, chúng ta thấy như tập thơ chứa đựng ý thức chống phong kiến, chống chế độ nhà vua. Tuy nhiên, đi sâu vào tâm tư của tác giả, chúng ta lại thấy khác hẳn. Nàng phi tần không rên than vì chế độ nhà vua, mà chỉ rên than lòng phụ bạc của một ông vua đối với nhan sắc một mỹ nhân.
Tâm tư ấy đã bộc lộ qua tính chất tự cao, tự phụ của nàng phi tần, lúc mới vào cung, nhan sắc chưa phai mờ, được nhà vua nuông chiều say đắm. Đây, chúng ta thử nghe nàng nói :
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa.
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây-Thi mất vía, Hằng-Nga giật mình.
Hoặc : Bóng gương lấp ló bên mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.
Rồi đến lúc nhan sắc tàn phai, nàng lại đau buồn, thống trách :
Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Dang tay muốn cắt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.
Thái độ hách dịch của nàng phi tần lúc được sủng ái, với lời oán than của một cô phụ trong thâm cung chỉ nói lên lòng tham vọng, ích kỷ của một người, hoặc nêu lên lòng phụ bạc của một tấm lòng, chứ không có nghĩa là chống chế độ đa thê của lớp người phong kiến.
Như vậy, nếu đem ba tập thơ vừa nêu trên làm tiêu biểu cho « dòng thơ bác học », thì chúng ta phải thấy rằng hầu hết những bài thơ được mệnh danh là thơ bình dân đều chứa đựng tính chất chống phong kiến mạnh mẽ hơn.
2) Những khác biệt của thơ bình dân đối với thơ bác học qua ý thức tranh đấu xã hội
Ở mục trên, chúng ta vừa xác định tính chất thơ bình dân khác với thơ bác học về ý thức chống phong kiến. Ở đây, chúng ta lại thấy một điểm khác biệt nữa. Đó là ý thức tranh đấu xã hội.
Tính chất này biểu lộ trong thơ bình dân qua khả năng tự tín, tự tồn của họ.
Thật vậy, đã là thơ bình dân, không tập thơ nào không phân định ranh giới giữa lành và dữ, giữa trung và nịnh, giữa thật thà và gian tham. Lành bao giờ cũng thắng dữ, trung bao giờ cũng thắng nịnh, gian tham bao giờ cũng bị diệt vong, và thật thà ngay thẳng cuối cùng cũng đạt được hạnh phúc trong lẽ sống.
Hiện tượng ấy là gì ? Chúng tôi muốn nói đó là ý thức đấu tranh xã hội (ý thức chứ chưa phải hành động).
Để chứng minh điều này, chúng ta đi vào một số tích truyện, và nhìn thẳng vào phần kết cuộc của nó.
Ví dụ : Thơ Phạm-Công Cúc-Hoa, sau khi trải qua một thời điêu linh vì những âm mưu đen tối của lớp vua chúa thống trị, làm cho gia đình suýt tan rã, nhưng cuối cùng, Phạm-Công vẫn đắc thắng trên đường công danh sự nghiệp, vui hưởng đạo nghĩa vợ chồng với mối tình chung thủy giữ chàng và nàng Cúc-Hoa :
Phạm-Công binh mã hồi qui,
Ban sư vào điện, chàng quì tâu qua :
Sầm-Hưng thủ cấp dâng ra,
Bá quan văn võ đều mà kinh mang.
Trịnh Vương xem thấy kinh hoàng,
Khen Trạng đáng mặt ngai vàng chăn dân.
Bá quan mừng rỡ ân cần,
Sầm-Hưng trừ đặng mười phần bình an.
Trạng nguyên tấu trước ngai vàng,
Sầm-Hưng tự cắt đầu chàng giao tôi.
Trước sau tâu lại một hồi,
Vua tôi kính phục khen thôi vàng vầy.
Bây giờ giặc đã an rày,
Lo tống táng vợ cốt hài cho yên.
Thủy quân lớn nhỏ nghe truyền,
Thuyền ba mươi chiếc kíp liền dọn ra.
Giáo gươm võng giá chói lóa,
Chư quân tang chế đưa ra bên đường.
Bá quan đưa đón nghiêm trang,
Lại truyền thiên hạ để tang đủ bề.
Trạng nguyên chi xiết ủ ê,
Cảm thương con trẻ nhiều bề long đong.
Mộ phần xây đắp đã xong,
Tạ từ liệt vị thảy đồng hồi gia.
Nầy đoạn thập diện vua cha,
Truyền quân ra rước Cúc-Hoa về tòa.
Một trăm con mái hầu bà,
Cung phi mỹ nữ đờn ca tối ngày.
Cúc-Hoa nhớ trẻ châu mày,
Thương con thơ dại lòng này chẳng an.
Thương chàng vắng vẻ gia đàng,
Tưởng thôi như cắt gan vàng xót xa.
Tuy là hồn xuống Diêm-la,
Mà còn tưởng sự oan gia trên đời.
Trạng-nguyên nhớ vợ luỵ rơi,
Truyền quân sửa soạn vậy thời làm chay.
Làm chay ba tháng an bài,
Cúc-Hoa bèn hiện đến ngay loan phòng.
Tư bề vắng vẻ đèn chong,
Đôi con cùng trạng nằm trông rõ ràng.
Trước hết, chúng ta thấy ý thức tranh đấu phát lộ trên khía cạnh đề cao đạo nghĩa. Một Phạm-Công chỉ cần mang hài cốt của vợ ra trận, tướng giặc phải cảm phục mà dâng đầu.
Mặt khác, cả một triều đình bất lương có những hành động vô đạo thuở ban đầu, cuối cùng vì sức mạnh của đạo nghĩa, phải hoàn lương. Một câu chuyện cấu kết như vậy ai dám phủ nhận ý thức đấu tranh xã hội của họ. Đến như tình vợ chồng giữa Phạm-Công, Cúc-Hoa, vì ánh sáng của đạo nghĩa mà kẻ chết, người sống còn tái họp đoàn viên. Tuy kết luận có vẻ hoang đường, song người bình dân đã dùng tính chất hoang đường để tạo thành ý thức tranh đấu. Cho nên, sự kết thúc của câu chuyện bao giờ cũng là nguyện vọng của họ (người bình dân).
Một ví dụ khác : Thơ Con Tấm con Cám mô tả sự tàn khốc trong chế độ gia đình phong kiến. Tuy vậy, kết thúc câu chuyện, kẻ tạo ra ác phải gặp dữ, kẻ ở hiền thì gặp lành :
Nàng Cám đã thác suối vàng,
Bây giờ sống lại rõ ràng thành tiên.
Kết cùng Thái-tử hương duyên,
Sang rước cha mẹ hồi thiền hiển vinh.
Nhơn dân ai nấy mắt nhìn,
Thật là nàng Cám tốt xinh rõ ràng.
Nói việc Thượng-đế, Ngọc-hoàng,
Xem xuống trung giới thấy đàng gian manh.
Lữ-thị lòng ác chẳng lành,
Hại người trung nghĩa, dạ sanh lòng tà.
Chẳng nên hưởng lộc quốc gia,
Phạt người long độc gian tà bất minh.
Thiên lôi vâng lệnh thiên đình,
Xuống đánh Lữ-thị bỏ mình, cọp tha.
Hồn nó giao cho Diêm-la,
Cứ theo phép nước cầm mà ngục trung.
Thiên-lôi vâng lệnh cửu trùng,
Đằng vân giá võ thẳng xông hạ trần.
Phút đâu phong vũ rần rần,
Mưa sa, sấm chớp không phân sự gì.
Thiên-lôi hiện xuống tức thì,
Liền đánh mụ Tấm bỏ thi giữa đàng.
Hổ lang chạy đến vội vàng,
Tha thây mụ Tấm, xé tan giữa đường.
Đông-cung chồng vợ mới tường,
Dữ làm dữ trả là thường xưa nay.
Mẹ con con Tấm, kẻ gieo gió, điển hình sự tàn ác của chế độ gia đình phong kiến đã bị tập thơ kết thúc bằng sự trừng phạt nặng nề, rõ ràng ý hướng người bình dân muốn đả phá tệ nạn xã hội, cái chết của con Tấm cũng là sự mong ước của người bình dân trước thực trạng xã hội đương thời.
Gần với loại thơ bình dân, tập thơ Lục Vân Tiên cũng được người bình dân ưa thích chỉ vì tập thơ này mang tính chất đấu tranh ấy ; cho nên tập thơ Lục Vân Tiên không phải « bình dân » ở chỗ dùng chữ nôm na, mà chính là ở chỗ trình bày cốt truyện. Dù bị bạn bè phản phúc, lừa gạt, Vân-Tiên, nhân vật trong truyện, lúc nào cũng đề cao đạo nghĩa, và sự vinh qui của Vân-Tiên ở đoạn kết cũng chính là mục tiêu tranh đấu của con người. Mặt khác, trong thơ Lục-Vân-Tiên, những kẻ ác độc không tránh khỏi tai họa. Ví dụ kẻ nịnh thần như quan Thái-sư thì :
Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái-sư nay có khác nào thời xưa.
Thấy người trung chánh chẳng ưa,
Rắp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
Sở-vương phán trước trào ca,
Thái-sư cách chức về nhà làm dân.
Còn Trịnh-Hâm, một kẻ gian tà, phản bạn mà Vân-Tiên cố lấy nhân đạo đối xử :
Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi.
Nhưng cuối cùng trời cũng trả báo :
Trịnh-Hâm về tới Hàn-giang,
Sóng thần nổi dậy, thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh-Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng việc nầy rất ưng.
Đến nàng Thể-Loan, một kẻ phụ tình, lúc Vân-Tiên chưa gặp hoạn nạn thì niềm nở hứa hẹn trao thân, đến lúc Vân-Tiên lâm nạn thì phụ bạc. Cho nên :
Mẹ con đứng thẹn thùng thay,
Vội vàng cúi lạy, chân quày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Tha ngay, đem bỏ vào hang Thương-tòng.
Trong lúc đó, những người ngay thật, biết trọng đạo nghĩa như Tử-Trực, Hớn-Minh, Nguyệt-Nga, Tiểu-đồng đều được hưởng cảnh an lạc.
Tất cả những tập thơ kết cấu trên ân oán đều thuộc về tính chất xã hội, mà cũng là tính chất của thơ bình dân.
Ngược lại, thơ bác học, dù có nêu lên những tệ trạng xã hội, có diễn tả ác độc trong lẽ sống, tính chất xây dựng xã hội không mấy rõ ràng, và quyết liệt trong đoạn cuối của câu chuyện.
Ví dụ, ở truyện Kiều, chúng ta thấy tác giả đã diễn tả cuộc sống bi đát của gia đình nàng Kiều qua một thời gian, không gian dài đằng đẳng, đồng thời phản ảnh những khía cạnh gian mạnh, xảo quyệt của xã hội loài người. Dĩ nhiên, những nhân vật trong truyện là những nhân vật điển hình, và những gút thắt diễn biến trong câu chuyện cũng là những trạng thái tiêu biểu cho sinh hoạt xã hội. Tác giả đã trình bày thiện có, ác có, ngay có, gian có, tuy nhiên vì tránh né ý thức tranh đấu xã hội, nên cuối cùng tác giả đã bắt những nhân vật điển hình phải qui hàng trước định mệnh. Định mệnh ở đây, chúng tôi muốn nói là chế độ xã hội.

Ví dụ nàng Kiều, một người con chí hiếu, đành phụ tình với Kim-Trọng để bảo vệ sự an thân của người cha. Con người hiếu đạo như vậy nhưng đã bị xã hội chà đạp, giày vò, tai nạn xảy đến liên miên trên bước đường lưu lạc, đã vậy, cuối cùng, tác giả lại đưa nàng xuống sông Tiền-đường để kết thúc kiếp hồng nhan. Tuy nhiên, vì có một cái gì trắc ẩn trong quan niệm đạo lý Á-đông, tác giả không để nàng Kiều chết, mà cho gặp lại tình xưa, nhưng lại đổi tình yêu ra tình bạn, và gởi thân vào thiền môn…
Ở đây, chúng ta không phải phàn nàn một kết thúc của một tập thơ bác học, mà chỉ là một sự so sánh để nêu lên những khác biệt đối với loại thơ bình dân. Khác biệt ấy cũng là khác biệt về ý thức tranh đấu xã hội.
Thơ bình dân, bất kỳ tập truyện nào, không thể mang kết thúc theo lối đầu hàng định mệnh như truyện Kiều được. Kẻ hiền phải gặp lành, kẻ ác phải gặp dữ. Cuộc sống của con người ngay thẳng, hiếu hạnh phải bừng sáng ở tương lai. Dù thực trạng xã hội có phũ phàng thế nào đi nữa, người bình dân vẫn nuôi trong tâm tư một hy vọng. Hy vọng của họ là nền tảng, cho ý thức tranh đấu xã hội để tự tồn.
Cũng như các nhân vật thiện, ác trong truyện Kiều, tác giả đã nặng về mô tả trạng thái xã hội, mà nhẹ về ý thức san bằng những bất công xã hội. Những Mã-giám-Sinh, Tú Bà, Bạc-Hà, Bạc-Hạnh… hoàn toàn là những chướng ngại trong nếp sống đạo lý Đông-phương, tuy nhiên, tác giả đã không hướng dẫn ý thức cải tạo xã hội, hợp với nếp sống ấy. Kẻ hiền không gặp lành, kẻ ác không gặp dữ. Tú-Bà, Mã-giám-Sinh, Sở-Khanh… chỉ tác động vào xã hội, gây khổ não cho mọi người (điển hình là nàng Kiều), và cuối cùng hành động của họ vẫn bị lảng quên, hoặc sống một cách ung dung tự tại, không đáp ứng theo sự đòi hỏi của đạo lý Đông-phương.
Đành rằng thực trạng xã hội chưa hẳn đã phù hợp với quan niệm Đông-phương, và quan niệm Đông-phương chưa hẳn đã là thực trạng xã hội, nhưng tác phẩm văn học bao giờ cũng là sản phẩm của tinh thần, phản ảnh ý thức cải tạo xã hội của con người. Nó phục vụ cho tình cảm, cho văn minh, cho tâm tư, cho ý thức hệ. Vượt ra ngoài phạm vi ấy, tác phẩm văn học không còn mang giá trị tranh đấu nữa.
Cũng như nàng Kiều (nhân vật chính của cốt truyện), cái điều được lẽ sống kính trọng là tinh thần hy sinh báo đền hiếu đạo. Đáng lẽ muốn hướng dẫn ý thức tranh đấu xã hội, bảo vệ đạo lý, tác giả phải diễn tả những đau đớn của nàng Kiều đối với nỗi hàm oan của người cha qua tình cảnh của người con, nhưng ở đây tác giả chỉ nói phớt qua sự việc, để rồi những đoạn diễn tả tỉ mỉ là những cảnh « mua lòng bán thịt », những màn lừa gạt ái tình, mà nỗi đau đớn của nàng Kiều được phơi bày là những phản ứng đối với những kẻ gian manh mà thôi.
Nhưng tác phẩm bình dân ngược lại. Ví dụ thơ Phạm-Công Cúc-Hoa đề cao tình vợ chồng, lòng chung thủy của đôi trai gái, tập thơ đã nêu lên nỗi đau đớn, nhớ nhung, đọa đày của đôi vợ chồng qua ý thức phấn đấu đến cùng, và cương quyết bảo vệ mối tình thủy chung ấy.
Thơ Lâm-Sanh Xuân-Nương phản đối chế độ phụ quyền, nêu lên cảnh mẹ ghẻ con chồng đã diễn tả tỉ mỉ những độc ác trong gia đình phong kiến.
Tóm lại, khi chúng tôi lấy những tập thơ bác học làm điển hình để so sánh với thơ bình dân, chúng tôi không có ý phê bình toàn diện, chỉ nêu một quan điểm nào đó có tính chất khác biệt mà thôi. Tính chất khác biệt rõ ràng nhất là :
- Tính chất chống chế độ phong kiến.
- Ý thức tranh đấu xã hội.
3) Những loại thần linh, quái đản trong thơ bình dân
Bất kỳ ở không gian, thời gian nào, trong lĩnh vực văn học vẫn có những tác phẩm chưa đựng những thần linh, quái đãn.
Dĩ nhiên, thần linh, quái đản vẫn là sản phẩm của tâm tư, giải quyết nhu cầu trong lẽ sống.
Xưa nay, nói đến thần linh, quái đản, các nhà khảo cứu chỉ chú trọng hoặc nặng về tính chất tính ngưỡng hơn là xã hội. Ở đây chúng tôi không bàn đến tính chất tín ngưỡng (đã nói ở các mục trên) mà chỉ nêu lên tính chất xã hội.
Nếu ở lãnh vực tín ngưỡng, thần linh, quái đản mang nhiệm vụ thỏa mãn nhu cầu, đòi hỏi ở bộ óc con người qua những hiện tượng thiên nhiên, thì ở lãnh vực xã hội, thần linh, quái đản lại mang nhiệm vụ giải quyết những nguyện vọng con người trong cuộc sống hữu hiệu.
Tạo hóa không chiều lòng người, xã hội cũng không thỏa mãn nhu cầu của tâm tư, nhưng tâm tư không thể tách rời nguyện vọng ; do đó, muốn đạt được nguyện vọng, con người lại nhờ ở một quyền lực riêng của tâm tưởng, tức là thần thoại hóa cuộc sống.
Một Vân-Tiên lâm nạn đến mù cả đôi mắt (trong thơ Lục Vân Tiên) nếu không nhờ đến quyền lực của Tiên, Phật, làm sao đôi mắt bất thần sáng ra để đạt lấy vinh quang theo ước muốn của thế nhân ? Bởi vậy, để giải quyết nguyện vọng :
Đêm nằm ngó thấy ông Tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Một nàng Kiều, nhảy xuống sông Tiền-đường để kết liễu một kiếp hồng nhan, mà nguyện vọng của con người không muốn kiếp hồng nhan chịu phũ phàng, nên phải nhờ đến tay Giác-Duyên, quyền lực của nhà Phật (trong truyện Kiều) :
Giác-Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú bên sông Tiền-đường.
Đánh tranh, chụm nóc thảo đường,
Một gian nước biếc, mây vàng chia đôi.
Thuê năm, ngư phủ hai người,
Đóng thuyền chực bến, kết chài giăng sông.
Một lòng chẳng quản mấy công,
Khéo trong gặp gỡ cũng trong chuyển vần.
Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
Ngư ông kéo lưới vớt người,
Ngẫm lời Tam-Hợp rõ mười chẳng ngoa.
Trên môi lướt mướt áo là,
Tuy dầm hơi nước, chưa lòa bóng gương.
Giác-Duyên nhận thật mặt nàng,
Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Một con Tấm bị mẹ ghẻ ghét con chồng phải thiệt thân, thảm trạng ấy nếu không nhờ quyền lực của Ngọc-hoàng Thượng-đế thì làm sao có thể đưa lại vinh quang cho kẻ hiền từ :
Nàng Cám nhất dạ thành tâm,
Nàng bèn van vái trông ân Thượng-hoàng.
Con từ bị đọa trần gian,
Kiếp tiên phải chịu tai nàn đà qua
Ngửa trông lượng cả giúp trông,
Xin cho chư vị giúp trong việc này.
Thượng-hoàng thấy trẻ thương thay,
Xét công ba kiếp dọa đày trần gian.
Liền đòi Đại-thánh vội vàng,
Dương trần xuống đó giúp nàng tiên nga
Xem đó thì tính chất thần linh, quái đản không những chỉ tác dụng trong lãnh vực tín ngưỡng mà còn có tác dụng trong cuộc sống xã hội nữa.
Nói cách khác, nhờ tính chất thần linh, quái đản mà những sản phẩm tinh thần được các văn gia dùng làm phương tiện để giải quyết tâm tư qua tình cảm đạo lý. Tuy không là thực tế, nhưng phản ảnh được ước vọng của lẽ sống con người.
Riêng đối với thơ bình dân, tính chất thần linh, quái đản lại chứa đựng nhiều hơn, bởi lẽ họ là lớp người bị nhiều đè nén, đau khổ hơn ai hết. Muốn nói lên nguyện vọng, họ chỉ có cách nhờ vào tính chất thần linh, quái đản làm phương tiện duy nhất để được toại nguyện qua tình cảm con người.
KẾT LUẬN
A) BA QUAN ĐIỂM Ý THỨC HỆ ĐÃ CHỨNG MINH TRONG THI CA BÌNH DÂN

Đây là đoạn chót của Thi ca bình dân III mà cũng là đoạn kết của ba tập khảo luận chúng tôi vừa trình bày.
Trước khi vào đề, chúng tôi xin minh định hai điều :
1) Bộ Thi ca bình dân chỉ vừa chấm dứt ba phần chính yếu trong mục tiêu biên khảo của chúng tôi. Các bạn sẽ cùng chúng tôi bước sang phần thứ tư. Đó là phần Sinh hoạt thi ca.
Vậy, phần Sinh hoạt thi ca là gì ? Nếu ba quyển đầu chúng tôi chỉ mới khai phá ở lãnh vực tâm tư để xác định một chiều hướng tư tưởng dân tộc, thì phần sinh hoạt thi ca chính là phần văn học, nghệ thuật của dân tộc đã đem chiều hướng tâm tư ấy áp dụng vào cuộc sống. Bởi vậy, nếu bộ Thi ca bình dân Việt-nam chỉ chú trọng về hệ thống tâm tư mà không lưu tâm đến phần sinh hoạt dân gian thì quả là việc làm thiếu sót, đáng trách.
Khi phải thêm một công trình để hoàn tất hai phần tâm tư và sinh hoạt của bộ Thi ca bình dân Việt-nam, chúng tôi thấy cần ở đây một cái gì dứt khoát, mặc dù chỉ mới dứt khoát được một phần : ý thức hệ.
Do đó, chúng tôi quyết định tổng kết ba quan niệm tư tưởng mà chúng tôi và các bạn đã cùng khảo sát qua.
2) Khi đặt vấn đề tổng kết ba quan niệm tư tưởng của dân tộc trong thi ca, chúng tôi không khỏi bị một số người cho là chúng tôi cưỡng đạt. Tuy nhiên, điều đó chúng tôi tưởng không thể tránh khỏi khi phải làm công việc khảo cứu. Có nhà khảo cứu nào không đem sự xét đoán của mình để mổ xẻ, và chứng minh. Giá trị khảo cứu sẽ đổ vỡ phần nào nếu sự mổ xẻ và chứng minh không thấu triệt. Nhưng một khi chúng ta đã mổ xẻ và chứng minh thấu triệt thì tính chất cưỡng đạt không còn nữa, mà giá trị khảo cứu được xem như một « phát minh » trong địa hạt sưu tầm.
Chúng ta đi vào một khu rừng, tìm dấu vết người tiều phu để chứng minh người tiều phu ấy đã nghĩ gì và làm gì. Dĩ nhiên mỗi người trong chúng ta có một nhận xét riêng và một kết luận riêng khi làm công việc khảo sát ấy. Vậy giá trị của nhận xét và kết luận nếu có, đều là kết quả của công trình khám phá cả.
Ở lãnh vực khám phá, mỗi người có quyền trình bày những điều tai nghe mắt thấy của mình và cuối cùng có quyền nhận định theo chiều hướng riêng mà không sợ kẻ khác cho là cưỡng đạt, bởi vì đối với kẻ khác làm sao có sự trùng hợp khi những hiện tượng « mắt thấy tai nghe » không là những hiện tượng duy nhất ? Vả lại khi mỗi người đã tìm thấy hiện tượng duy nhất, thì công việc khảo cứu sẽ không còn nằm trong lãnh vực khám phá nữa.
Dựa vào lập trường khảo cứu ấy, chúng tôi phủ nhận tính chất cưỡng đạt, và trước khi trình bày tổng kết ba quan niệm ý thức dân tộc, chúng tôi lại phải xác định một thực trạng về dân tộc tính mà từ trước đã có lần chúng tôi đề cập.
Thực trạng ấy là sự diễn biến của thời gian, không gian và tính chất cá biệt. Nói chung, là thực trạng diễn biến của dân tộc tính.
Dựa trên lịch sử diễn biến của nhân loại, ngày nay nhiều người quan niệm rằng thời gian tăng trưởng, không gian mỗi lúc một mở rộng thêm, tính chất cá biệt của mỗi dân tộc lần lần đồng hóa, và ranh giới dân tộc chỉ còn là hình thức bên ngoài, mà bên trong ý thức đã pha trộn đến nỗi không tìm thấy đâu là cá biệt nữa.
Nhận xét như thế, theo chúng tôi, chỉ là một nhận xét mơ hồ. Nghĩa là chỉ nhìn thấy khía cạnh tiến triển của thời gian, không gian mà không nhìn thấy năng lực duy trì của bản năng vạn hữu.
Chúng ta làm sao tách rời được dĩ vãng, hiện tại và tương lai, khi ba yếu tố ấy chỉ là một sợi dây dài đúc kết thành lịch sử xã hội loài người. Khi chúng ta đã không dứt bỏ được dĩ vãng, thì dĩ vãng vẫn là một đoạn thời gian có dính líu đến hiện tại và tương lại.
Nói cách khác, thời gian, không gian dù tăng trưởng và mở rộng đến đâu cũng chỉ là sự chồng chất mà không bôi xóa được dĩ vãng. Cho nên, chúng ta dám quả quyết rằng dĩ vãng bao giờ cũng chi phối hiện tại và tương lại, mà cũng vì vậy, bản năng của vạn hữu bao giờ cũng tiến triển theo tính chất cá biệt của nó.
Một dân tộc dù phải tăng trưởng theo thời gian, không gian, tiếp thu mọi nền văn minh thế giới, dân tộc ấy cũng chẳng thể nào xóa bỏ tính chất dị biệt của dân tộc ấy.
Xác định quan niệm trên, chúng tôi có ý nhắc lại lập trường khảo sát của chúng tôi qua bộ Thi ca bình dân Việt-nam này, trước khi trình bày một kết luận. Bởi vì, phần kết luận ở đây cũng chỉ là phần diễn đạt tính chất cá biệt của một dân tộc xuyên qua lịch sử diễn biến của thời gian, không gian mà thôi.
I. TỔNG KẾT PHẦN VŨ TRỤ QUAN
1) Kích hoạt của bộ Thi ca bình dân Việt-nam, chúng tôi thấy cần ở đây một cái gì dứt khoát, mặc dù chỉ mới dứt khoát được một phần : ý thức hệ.
Do đó, chúng tôi quyết định tổng kết ba quan niệm tư tưởng mà chúng tôi và các bạn đã cùng khảo sát qua.
2) Khi đặt vấn đề tổng kết ba quan niệm tư tưởng của dân tộc trong thi ca, chúng tôi không khỏi bị một số người cho là chúng tôi cưỡng đạt. Tuy nhiên, điều đó chúng tôi tưởng không thể tránh khỏi khi phải làm công việc khảo cứu. Có nhà khảo cứu nào không đem sự xét đoán của mình để mổ xẻ, và chứng minh. Giá trị khảo cứu sẽ đổ vỡ phần nào nếu sự mổ xẻ và chứng minh không thấu triệt. Nhưng một khi chúng ta đã mổ xẻ và chứng minh thấu triệt thì tính chất cưỡng đạt không còn nữa, mà giá trị khảo cứu được xem như một « phát minh » trong địa hạt sưu tầm.
Chúng ta đi vào một khu rừng, tìm dấu vết người tiều phu để chứng minh người tiều phu ấy đã nghĩ gì và làm gì. Dĩ nhiên mỗi người trong chúng ta có một nhận xét riêng và một kết luận riêng khi làm công việc khảo sát ấy. Vậy giá trị của nhận xét và kết luận nếu có, đều là kết quả của công trình khám phá cả.
Ở lãnh vực khám phá, mỗi người có quyền trình bày những điều tai nghe mắt thấy của mình và cuối cùng có quyền nhận định theo chiều hướng riêng mà không sợ kẻ khác cho là cưỡng đạt, bởi vì đối với kẻ khác làm sao có sự trùng hợp khi những hiện tượng « mắt thấy tai nghe » không là những hiện tượng duy nhất ? Vả lại khi mỗi người đã tìm thấy hiện tượng duy nhất, thì công việc khảo cứu sẽ không còn nằm trong lãnh vực khám phá nữa.
Dựa vào lập trường khảo cứu ấy, chúng tôi phủ nhận tính chất cưỡng đạt, và trước khi trình bày tổng kết ba quan niệm ý thức dân tộc, chúng tôi lại phải xác định một thực trạng về dân tộc tính mà từ trước đã có lần chúng tôi đề cập.
Thực trạng ấy là sự diễn biến của thời gian, không gian và tính chất cá biệt. Nói chung, là thực trạng diễn biến của dân tộc tính.
Dựa trên lịch sử diễn biến của nhân loại, ngày nay nhiều người quan niệm rằng thời gian tăng trưởng, không gian mỗi lúc một mở rộng thêm, tính chất cá biệt của mỗi dân tộc lần lần đồng hóa, và ranh giới dân tộc chỉ còn là hình thức bên ngoài, mà bên trong ý thức đã pha trộn đến nỗi không tìm thấy đâu là cá biệt nữa.
Nhận xét như thế, theo chúng tôi, chỉ là một nhận xét mơ hồ. Nghĩa là chỉ nhìn thấy khía cạnh tiến triển của thời gian, không gian mà không nhìn thấy năng lực duy trì của bản năng vạn hữu.
Chúng ta làm sao tách rời được dĩ vãng, hiện tại và tương lai, khi ba yếu tố ấy chỉ là một sợi dây dài đúc kết thành lịch sử xã hội loài người. Khi chúng ta đã không dứt bỏ được dĩ vãng, thì dĩ vãng vẫn là một đoạn thời gian có dính líu đến hiện tại và tương lại.
Nói cách khác, thời gian, không gian dù tăng trưởng và mở rộng đến đâu cũng chỉ là sự chồng chất mà không bôi xóa được dĩ vãng. Cho nên, chúng ta dám quả quyết rằng dĩ vãng bao giờ cũng chi phối hiện tại và tương lại, mà cũng vì vậy, bản năng của vạn hữu bao giờ cũng tiến triển theo tính chất cá biệt của nó.
Một dân tộc dù phải tăng trưởng theo thời gian, không gian, tiếp thu mọi nền văn minh thế giới, dân tộc ấy cũng chẳng thể nào xóa bỏ tính chất dị biệt của dân tộc ấy.
Xác định quan niệm trên, chúng tôi có ý nhắc lại lập trường khảo sát của chúng tôi qua bộ Thi ca bình dân Việt-nam này, trước khi trình bày một kết luận. Bởi vì, phần kết luận ở đây cũng chỉ là phần diễn đạt tính chất cá biệt của một dân tộc xuyên qua lịch sử diễn biến của thời gian, không gian mà thôi.
I. TỔNG KẾT PHẦN VŨ TRỤ QUAN
Tại sao chúng tôi đặt phần Vũ trụ quan lên mục đầu ở đoạn kết?
Trước kia chúng tôi đã trình bày, mặc dù bộ Thi ca bình dân Việt-nam đi tìm nguyên lý triết học dân tộc trước nhất bằng nhân sinh quan, xã hội quan, rồi đến vũ trụ quan, nghĩa là dùng thi ca chứng minh từ cái ngọn đến cái gốc, hoặc nói cách khác, chúng ta đã đi tìm những hiện tượng phổ biến trong sinh hoạt dân gian để lần dò xác định nguyên lý của một hệ thống tư tưởng. Bởi vậy, khi chúng ta đã tìm ra và hệ-thống-hóa một nền tư tưởng dân tộc rồi thì phần vũ trụ quan trở thành nguồn gốc phát sinh mọi yếu tố khác. Bất kỳ nền văn minh của một dân tộc nào đều bị chi phối bởi quan niệm vũ trụ của họ. Cho nên, nếu về mặt khảo luận chúng ta phải đi tìm từ hiện tượng đến nguyên lý để tránh những chủ quan, những cưỡng ép về suy tư, thì về mặt tổng kết chúng ta lại phải đi ngược chiều để làm sáng tỏ một khuynh hướng dân tộc.
Cũng như nhìn một bức tranh, khi chưa phân định được khuynh hướng của tác giả, chúng ta cần phải quan sát và mổ xẻ từng nét bút biểu lộ trên tác phẩm mới xác định được chiều hướng suy tư của họa sĩ, nhưng khi chúng ta đã tìm ra chiều hướng suy tư của họa sĩ rồi thì chúng ta có thể dùng chiều hướng suy tư ấy để cắt nghĩa những gì đã biểu lộ trên bức tranh.
Sinh hoạt dân gian tựa như một bức tranh, mà trường đời là phòng triển lãm, những tâm tư diễn biến trong sinh hoạt xã hội là những nét bút phô diễn tâm trạng của nghệ sĩ, mà người nghệ sĩ ấy chính là dân tộc, tác giả của bức tranh xã hội lưu diễn trong quá trình thời gian vậy.
Trở về với vũ trụ quan dân tộc, chúng ta đã chứng minh từ quan niệm thần thoại, đến ý thức tổ chức sinh hoạt dân gian, đi sâu vào trạng thái tương đồng và bất tương đồng đối với các triết thuyết du nhập từ bên ngoài, chúng ta có thể kết luận rằng nguồn gốc vũ trụ quan của dân tộc Việt-nam cấu tạo trên những điểm căn bản sau đây :
1) Dân tộc Việt-nam xem những hiện tượng vũ trụ là những tác động khách quan, tách rời ngoài ý muốn con người, chỉ tuân theo qui luật tất yếu và tự nhiên.
Với quan niệm trên, nguồn gốc vũ trụ quan của người Việt-nam phản lại ý thức « tạo vật chủ » nên không có thần thoại (theo tính chất đích thực).
Cùng với quan niệm này, mặc dù dân tộc Việt-nam vẫn tôn trọng mọi biến chuyển của vụ trụ, nhưng không tư-tưởng-hóa những biến chuyển ấy vào cuộc sống con người, mà chỉ theo dõi mọi tác động thiên nhiên, để tổ chức sinh hoạt con người hợp với lẽ trời đất.
Vì xem những tác động thiên nhiên là khách quan, nên người Việt-nam ý thức rằng mọi hiện tượng siêu nhiên đều mang một sứ mệnh tương quan và bình đẳng ngoài dục vọng con người.
2) Dân tộc Việt-nam lại quan niệm rằng mọi biến động của vũ trụ, ngoài tính chất khách quan và tất yếu lại hàm chứa một sự tương quan và mâu thuẫn từ tập thể này đến tập thể khác, từ cá thể này đến cá thể khác để tạo thành luật sinh tồn và hủy diệt.
Với quan niệm này, dân tộc Việt-nam chấp nhận mọi trạng thái biến động của vũ trụ như là việc tất nhiên. Con người sống trong vũ trụ chỉ là một cá thể phải vâng theo qui trình chung của vũ trụ, không thể tách rời.
Vì quan niệm như vậy, nên trong quá trình sinh hoạt, người bình dân bao giờ cũng tìm về với bản tính thiên nhiên. Họ bằng lòng chịu đựng và vui vẻ hưởng thụ những gì do vũ trụ tác thành. Họ không có cao vọng đưa con người lên một địa vị quan trọng, có thể dùng tài năng, trí óc để cải biến thiên nhiên, làm chủ bộ máy huyền vi ấy.
3) Khi đã ý thức rằng bản năng tranh đấu tự tồn của mỗi cá thể gây thành mẫu thuận và biến động đi đến sinh diệt, dân tộc Việt-nam tìm thấy chỉ có mâu thuẫn thăng bằng mới điều hòa được guồng máy vũ trụ và bảo tồn được lẽ sống thiên nhiên. Bởi vì lẽ sống thiên nhiên bao giờ cũng đưa mâu thuận đi đến thăng bằng. Vũ trụ càng mất thăng bằng càng biến động, xáo trộn, tác hại vào tính chất an toàn tương đối của vạn hữu.
Với quan niệm này, người bình dân Việt-nam chấp nhận tranh đấu. Ý thức tranh đấu của họ là đả phá tham vọng của con người, tìm ý nghĩa tự tồn trong sự thăng bằng guồng máy vũ trụ, tức là điều hòa mâu thuẫn giữa cá thể, đưa lẽ sống hướng về trạng thái thiên nhiên.
Bốn qui luật trên đây chính là nền móng tư tưởng của dân tộc Việt-nam về quan niệm vũ trụ. Nó là của chung của dân tộc, không phải của một cá nhân nào. Nó là sản phẩm tinh thần đúc kết trong kho tàng văn hóa bình dân trải quan hàng mấy trăm thế kỷ mà chúng tôi đã sưu tầm, khảo sát, chứng minh qua từng câu ca dao, tục ngữ để đúc kết, và rút tỉa thành một hệ thống thư tưởng.
Cũng chính vì hệ thống tư tưởng này (ý thức về vũ trụ), người bình dân Việt-nam đã chịu sự chi phối về sinh hoạt. Nói cách khác, mọi quan niệm xã hội, nhân sinh của người bình dân Việt-nam đều bắt nguồn từ ý thức vũ trụ trên đây mà ra cả.
II. TỔNG KẾT PHẦN XÃ HỘI QUAN
Sống hợp quần có lẽ là bản tính thiên nhiên của mọi sinh vật. Cho nên, dù là người bình dân cũng không thể không quan tâm đến nhân quần xã hội.
Trong quyển II của bộ Thi ca bình dân, khi đi tìm quan điểm xã hội, chúng tôi đã nêu lên tính chất tất yếu ấy.
Ở đây, với mục đích tổng kết, chúng ta có thể ghi nhân những điểm chính yếu sau đây :
1) Người bình dân Việt-nam xem tiến trình xã hội loài người là một hiện tượng tương quan và mâu thuẫn giữa cá thể này với cá thể khác, giữa tập thể này với tập thể khác. Sự mâu thuẫn ấy nằm trong luật mâu thuẫn chung của vạn hữu. Vì vậy, xã hội loài người không thể dứt bỏ mâu thuẫn mà tồn tại được.
Sở dĩ người bình dân Việt-nam quan niệm xã hội như vậy là vì họ ý thức rằng sinh hoạt loài người cũng chỉ là một hiện tượng nằm trong những hiện tượng chung của thiên nhiên. Mọi biến động trong xã hội loài người cũng là sự biến động của thiên nhiên. Con người không thể sống ngoài thời gian, không gian, tất nhiên bị thời gian, không gian chi phối. Vậy xã hội loài người không hẳn là của con người mà là của chung cho vạn hữu.
Vì quan niệm như vậy, người bình dân Việt-nam chấp nhận gian khổ, bằng lòng sống an phận thủ thường, cố đem thân mình chịu đựng với định mệnh. Định mệnh đối với họ có nghĩa là mọi biến động của vũ trụ trong qui luật mâu thuẫn tự tồn.
2) Tuy chấp nhận mâu thuẫn xã hội là điều tất yếu trong qui luật vũ trụ, người bình dân Việt-nam lại ý thức rằng với tham vọng cá nhân trước lẽ sống, con người đã hành động trái với bản chất thiên nhiên. Đáng lẽ con người phải đi tìm sự mâu thuẫn thăng bằng để tạo hòa khí trong tương quan sinh diệt thì con người lại đem trí óc biến sự mâu thuẫn thăng bằng thành mâu thuẫn cực đoan, tác động vào sinh hoạt xã hội, tức là tác động vào mọi biến chuyển của vũ trụ.
Với quan niệm trên, người bình dân chấp thuận đấu tranh xã hội. Bởi vậy, lịch sử xã hội bình dân là lịch sử đấu tranh trường kỳ mà chúng ta đã khảo sát qua ở phần xã hội quan.
Đấu tranh trường kỳ, người bình dân muốn loại bỏ phần tham vọng con người để thăng bằng mâu thuẫn trong tương quan sinh hoạt xã hội.
hêm một công trình để hoàn tất hai phần tâm tư và sinh hoạt của bộ Thi ca bình dân Việt-nam, chúng tôi thấy cần ở đây một cái gì dứt khoát, mặc dù chỉ mới dứt khoát được một phần : ý thức hệ.
Do đó, chúng tôi quyết định tổng kết ba quan niệm tư tưởng mà chúng tôi và các bạn đã cùng khảo sát qua.
2) Khi đặt vấn đề tổng kết ba quan niệm tư tưởng của dân tộc trong thi ca, chúng tôi không khỏi bị một số người cho là chúng tôi cưỡng đạt. Tuy nhiên, điều đó chúng tôi tưởng không thể tránh khỏi khi phải làm công việc khảo cứu. Có nhà khảo cứu nào không đem sự xét đoán của mình để mổ xẻ, và chứng minh. Giá trị khảo cứu sẽ đổ vỡ phần nào nếu sự mổ xẻ và chứng minh không thấu triệt. Nhưng một khi chúng ta đã mổ xẻ và chứng minh thấu triệt thì tính chất cưỡng đạt không còn nữa, mà giá trị khảo cứu được xem như một « phát minh » trong địa hạt sưu tầm.
Chúng ta đi vào một khu rừng, tìm dấu vết người tiều phu để chứng minh người tiều phu ấy đã nghĩ gì và làm gì. Dĩ nhiên mỗi người trong chúng ta có một nhận xét riêng và một kết luận riêng khi làm công việc khảo sát ấy. Vậy giá trị của nhận xét và kết luận nếu có, đều là kết quả của công trình khám phá cả.
Ở lãnh vực khám phá, mỗi người có quyền trình bày những điều tai nghe mắt thấy của mình và cuối cùng có quyền nhận định theo chiều hướng riêng mà không sợ kẻ khác cho là cưỡng đạt, bởi vì đối với kẻ khác làm sao có sự trùng hợp khi những hiện tượng « mắt thấy tai nghe » không là những hiện tượng duy nhất ? Vả lại khi mỗi người đã tìm thấy hiện tượng duy nhất, thì công việc khảo cứu sẽ không còn nằm trong lãnh vực khám phá nữa.
Dựa vào lập trường khảo cứu ấy, chúng tôi phủ nhận tính chất cưỡng đạt, và trước khi trình bày tổng kết ba quan niệm ý thức dân tộc, chúng tôi lại phải xác định một thực trạng về dân tộc tính mà từ trước đã có lần chúng tôi đề cập.
Thực trạng ấy là sự diễn biến của thời gian, không gian và tính chất cá biệt. Nói chung, là thực trạng diễn biến của dân tộc tính.
Dựa trên lịch sử diễn biến của nhân loại, ngày nay nhiều người quan niệm rằng thời gian tăng trưởng, không gian mỗi lúc một mở rộng thêm, tính chất cá biệt của mỗi dân tộc lần lần đồng hóa, và ranh giới dân tộc chỉ còn là hình thức bên ngoài, mà bên trong ý thức đã pha trộn đến nỗi không tìm thấy đâu là cá biệt nữa.
Nhận xét như thế, theo chúng tôi, chỉ là một nhận xét mơ hồ. Nghĩa là chỉ nhìn thấy khía cạnh tiến triển của thời gian, không gian mà không nhìn thấy năng lực duy trì của bản năng vạn hữu.
Chúng ta làm sao tách rời được dĩ vãng, hiện tại và tương lai, khi ba yếu tố ấy chỉ là một sợi dây dài đúc kết thành lịch sử xã hội loài người. Khi chúng ta đã không dứt bỏ được dĩ vãng, thì dĩ vãng vẫn là một đoạn thời gian có dính líu đến hiện tại và tương lại.
Nói cách khác, thời gian, không gian dù tăng trưởng và mở rộng đến đâu cũng chỉ là sự chồng chất mà không bôi xóa được dĩ vãng. Cho nên, chúng ta dám quả quyết rằng dĩ vãng bao giờ cũng chi phối hiện tại và tương lại, mà cũng vì vậy, bản năng của vạn hữu bao giờ cũng tiến triển theo tính chất cá biệt của nó.
Một dân tộc dù phải tăng trưởng theo thời gian, không gian, tiếp thu mọi nền văn minh thế giới, dân tộc ấy cũng chẳng thể nào xóa bỏ tính chất dị biệt của dân tộc ấy.
Xác định quan niệm trên, chúng tôi có ý nhắc lại lập trường khảo sát của chúng tôi qua bộ Thi ca bình dân Việt-nam này, trước khi trình bày một kết luận. Bởi vì, phần kết luận ở đây cũng chỉ là phần diễn đạt tính chất cá biệt của một dân tộc xuyên qua lịch sử diễn biến của thời gian, không gian mà thôi.
I. TỔNG KẾT PHẦN VŨ TRỤ QUAN
Tại sao chúng tôi đặt phần Vũ trụ quan lên mục đầu ở đoạn kết?
Trước kia chúng tôi đã trình bày, mặc dù bộ Thi ca bình dân Việt-nam đi tìm nguyên lý triết học dân tộc trước nhất bằng nhân sinh quan, xã hội quan, rồi đến vũ trụ quan, nghĩa là dùng thi ca chứng minh từ cái ngọn đến cái gốc, hoặc nói cách khác, chúng ta đã đi tìm những hiện tượng phổ biến trong sinh hoạt dân gian để lần dò xác định nguyên lý của một hệ thống tư tưởng. Bởi vậy, khi chúng ta đã tìm ra và hệ-thống-hóa một nền tư tưởng dân tộc rồi thì phần vũ trụ quan trở thành nguồn gốc phát sinh mọi yếu tố khác. Bất kỳ nền văn minh của một dân tộc nào đều bị chi phối bởi quan niệm vũ trụ của họ. Cho nên, nếu về mặt khảo luận chúng ta phải đi tìm từ hiện tượng đến nguyên lý để tránh những chủ quan, những cưỡng ép về suy tư, thì về mặt tổng kết chúng ta lại phải đi ngược chiều để làm sáng tỏ một khuynh hướng dân tộc.
Cũng như nhìn một bức tranh, khi chưa phân định được khuynh hướng của tác giả, chúng ta cần phải quan sát và mổ xẻ từng nét bút biểu lộ trên tác phẩm mới xác định được chiều hướng suy tư của họa sĩ, nhưng khi chúng ta đã tìm ra chiều hướng suy tư của họa sĩ rồi thì chúng ta có thể dùng chiều hướng suy tư ấy để cắt nghĩa những gì đã biểu lộ trên bức tranh.
Sinh hoạt dân gian tựa như một bức tranh, mà trường đời là phòng triển lãm, những tâm tư diễn biến trong sinh hoạt xã hội là những nét bút phô diễn tâm trạng của nghệ sĩ, mà người nghệ sĩ ấy chính là dân tộc, tác giả của bức tranh xã hội lưu diễn trong quá trình thời gian vậy.
Trở về với vũ trụ quan dân tộc, chúng ta đã chứng minh từ quan niệm thần thoại, đến ý thức tổ chức sinh hoạt dân gian, đi sâu vào trạng thái tương đồng và bất tương đồng đối với các triết thuyết du nhập từ bên ngoài, chúng ta có thể kết luận rằng nguồn gốc vũ trụ quan của dân tộc Việt-nam cấu tạo trên những điểm căn bản sau đây :
1) Dân tộc Việt-nam xem những hiện tượng vũ trụ là những tác động khách quan, tách rời ngoài ý muốn con người, chỉ tuân theo qui luật tất yếu và tự nhiên.
Với quan niệm trên, nguồn gốc vũ trụ quan của người Việt-nam phản lại ý thức « tạo vật chủ » nên không có thần thoại (theo tính chất đích thực).
Cùng với quan niệm này, mặc dù dân tộc Việt-nam vẫn tôn trọng mọi biến chuyển của vụ trụ, nhưng không tư-tưởng-hóa những biến chuyển ấy vào cuộc sống con người, mà chỉ theo dõi mọi tác động thiên nhiên, để tổ chức sinh hoạt con người hợp với lẽ trời đất.
Vì xem những tác động thiên nhiên là khách quan, nên người Việt-nam ý thức rằng mọi hiện tượng siêu nhiên đều mang một sứ mệnh tương quan và bình đẳng ngoài dục vọng con người.
2) Dân tộc Việt-nam lại quan niệm rằng mọi biến động của vũ trụ, ngoài tính chất khách quan và tất yếu lại hàm chứa một sự tương quan và mâu thuẫn từ tập thể này đến tập thể khác, từ cá thể này đến cá thể khác để tạo thành luật sinh tồn và hủy diệt.
Với quan niệm này, dân tộc Việt-nam chấp nhận mọi trạng thái biến động của vũ trụ như là việc tất nhiên. Con người sống trong vũ trụ chỉ là một cá thể phải vâng theo qui trình chung của vũ trụ, không thể tách rời.
Vì quan niệm như vậy, nên trong quá trình sinh hoạt, người bình dân bao giờ cũng tìm về với bản tính thiên nhiên. Họ bằng lòng chịu đựng và vui vẻ hưởng thụ những gì do vũ trụ tác thành. Họ không có cao vọng đưa con người lên một địa vị quan trọng, có thể dùng tài năng, trí óc để cải biến thiên nhiên, làm chủ bộ máy huyền vi ấy.
3) Khi đã ý thức rằng bản năng tranh đấu tự tồn của mỗi cá thể gây thành mẫu thuận và biến động đi đến sinh diệt, dân tộc Việt-nam tìm thấy chỉ có mâu thuẫn thăng bằng mới điều hòa được guồng máy vũ trụ và bảo tồn được lẽ sống thiên nhiên. Bởi vì lẽ sống thiên nhiên bao giờ cũng đưa mâu thuận đi đến thăng bằng. Vũ trụ càng mất thăng bằng càng biến động, xáo trộn, tác hại vào tính chất an toàn tương đối của vạn hữu.
Với quan niệm này, người bình dân Việt-nam chấp nhận tranh đấu. Ý thức tranh đấu của họ là đả phá tham vọng của con người, tìm ý nghĩa tự tồn trong sự thăng bằng guồng máy vũ trụ, tức là điều hòa mâu thuẫn giữa cá thể, đưa lẽ sống hướng về trạng thái thiên nhiên.
Bốn qui luật trên đây chính là nền móng tư tưởng của dân tộc Việt-nam về quan niệm vũ trụ. Nó là của chung của dân tộc, không phải của một cá nhân nào. Nó là sản phẩm tinh thần đúc kết trong kho tàng văn hóa bình dân trải quan hàng mấy trăm thế kỷ mà chúng tôi đã sưu tầm, khảo sát, chứng minh qua từng câu ca dao, tục ngữ để đúc kết, và rút tỉa thành một hệ thống thư tưởng.
Cũng chính vì hệ thống tư tưởng này (ý thức về vũ trụ), người bình dân Việt-nam đã chịu sự chi phối về sinh hoạt. Nói cách khác, mọi quan niệm xã hội, nhân sinh của người bình dân Việt-nam đều bắt nguồn từ ý thức vũ trụ trên đây mà ra cả.
II. TỔNG KẾT PHẦN XÃ HỘI QUAN
Sống hợp quần có lẽ là bản tính thiên nhiên của mọi sinh vật. Cho nên, dù là người bình dân cũng không thể không quan tâm đến nhân quần xã hội.
Trong quyển II của bộ Thi ca bình dân, khi đi tìm quan điểm xã hội, chúng tôi đã nêu lên tính chất tất yếu ấy.
Ở đây, với mục đích tổng kết, chúng ta có thể ghi nhân những điểm chính yếu sau đây :
1) Người bình dân Việt-nam xem tiến trình xã hội loài người là một hiện tượng tương quan và mâu thuẫn giữa cá thể này với cá thể khác, giữa tập thể này với tập thể khác. Sự mâu thuẫn ấy nằm trong luật mâu thuẫn chung của vạn hữu. Vì vậy, xã hội loài người không thể dứt bỏ mâu thuẫn mà tồn tại được.
Sở dĩ người bình dân Việt-nam quan niệm xã hội như vậy là vì họ ý thức rằng sinh hoạt loài người cũng chỉ là một hiện tượng nằm trong những hiện tượng chung của thiên nhiên. Mọi biến động trong xã hội loài người cũng là sự biến động của thiên nhiên. Con người không thể sống ngoài thời gian, không gian, tất nhiên bị thời gian, không gian chi phối. Vậy xã hội loài người không hẳn là của con người mà là của chung cho vạn hữu.
Vì quan niệm như vậy, người bình dân Việt-nam chấp nhận gian khổ, bằng lòng sống an phận thủ thường, cố đem thân mình chịu đựng với định mệnh. Định mệnh đối với họ có nghĩa là mọi biến động của vũ trụ trong qui luật mâu thuẫn tự tồn.
2) Tuy chấp nhận mâu thuẫn xã hội là điều tất yếu trong qui luật vũ trụ, người bình dân Việt-nam lại ý thức rằng với tham vọng cá nhân trước lẽ sống, con người đã hành động trái với bản chất thiên nhiên. Đáng lẽ con người phải đi tìm sự mâu thuẫn thăng bằng để tạo hòa khí trong tương quan sinh diệt thì con người lại đem trí óc biến sự mâu thuẫn thăng bằng thành mâu thuẫn cực đoan, tác động vào sinh hoạt xã hội, tức là tác động vào mọi biến chuyển của vũ trụ.
Với quan niệm trên, người bình dân chấp thuận đấu tranh xã hội. Bởi vậy, lịch sử xã hội bình dân là lịch sử đấu tranh trường kỳ mà chúng ta đã khảo sát qua ở phần xã hội quan.
Đấu tranh trường kỳ, người bình dân muốn loại bỏ phần tham vọng con người để thăng bằng mâu thuẫn trong tương quan sinh hoạt xã hội.
Thăng bằng mâu thuẫn, theo họ là tạo cho xã hội một lẽ sống công bằng.
Chúng ta có thể ghi nhận chiều hướng đấu tranh của họ :
Về chính trị : Loại bỏ sự thống trị trong giai cấp, mọi người trong xã hội đều bình đẳng, lấy tinh thần quốc gia làm năng lực tự cường chống lại mọi mưu đồ xâm lược của ngoại bang.
Về kinh tế : Quan niệm mọi sinh vật phải tự tạo lẽ sống cho mình, nên mọi người trong xã hội phải tự làm lấy mà ăn. Họ chống lại sự chiếm đoạt tư hữu, gây thành nền móng chênh lệch giữa các lớp người.
Về văn hóa : Bảo vệ dân tộc tính, lấy nguồn sống dân tộc làm cơ sở tinh thần. Nền văn minh dân tộc phải là nền văn minh của bản tính sinh hoạt. Nó phải ăn khớp với lịch sử đấu tranh dân tộc, chứa đựng những khả năng suy tư di lưu qua thời gian, không gian.
Về xã hội : Nền tảng của tập thể là tương thân tương ái. Chúng ta không thể tìm thấy tình tương thân tương ái trong một xã hội chứa đầy mâu thuẫn cực đoan và chênh lệch sâu xa giữa giai cấp. Khi mâu thuẫn xã hội thăng bằng, bất công xã hội bị loại bỏ, lòng vị kỷ con người giảm đến mức độ bình thường trong tương quan sinh hoạt thì tinh thần ái quốc, ái quần mới có cơ hội nẩy nở. Cho nên quan điểm xã hội của người bình dân rất thực tế. Họ chủ trương cải thiện tinh thần đùm bọc, tương thân tương ái của dân tộc.
III. TỔNG KẾT PHẦN NHÂN SINH QUAN

Nói đến nhân sinh quan là nói đến ý thức con người đối với lẽ sống. Dù dân tộc nào, thời đại nào, con người vẫn đi tìm khả năng tự tồn và hưởng thụ. Người bình dân Việt-nam, hay dân tộc Việt-nam – nói chung – vẫn không thoát ra ngoài qui luật ấy.

Tuy nhiên, khi đi tìm khả năng tự tồn và hưởng thụ, mỗi lớp người, mỗi dân tộc, có một quan niệm khác nhau.

Người bình dân Việt-nam vì chịu ảnh hưởng quan niệm vũ trụ gần với quan niệm Đông-phương, nên nhân sinh quan của họ đặt con người gắn liền với vạn hữu, sinh hoạt con người nằm trong mọi biến động của vạn hữu. Do đó, chúng ta có thể rút tỉa những ý niệm chính yếu sau đây :
1) Con người chỉ là một cá thể của vũ trụ. Qui luật sinh tồn và hưởng thụ của vạn hữu cũng là qui luật sinh tồn và hưởng thụ của con người.
Với quan niệm trên, người bình dân Việt-nam không chủ trương tách rời lẽ sống con người ra ngoài vũ trụ, mà cố đem lẽ sống con người gắn liền với qui luật thiên nhiên.
Đưa con người trở về thiên nhiên tức là tiết chế dục vọng cá nhân trong yếu tố sinh tồn và hủy diệt. Như vậy, người bình dân Việt-nam thích sống một cuộc đời mộc mạc, chất phác bên ruộng lúa nương dâu, giữa khung trời bao la bát ngát, không bận rộn với lợi danh, không trái với ý niệm của họ.
2) Người bình dân Việt-nam lại quan niệm rằng lẽ sống con người chẳng bao giờ có tự do tuyệt đối phát xuất ở cá thể. Bởi vì, ngay ở mỗi cá thể đã bị ràng buộc với mọi biến động chung của vạn hữu. Cho nên, nếu lấy tự do cá nhân làm nền tảng phát huy lẽ sống tức là con người đã đi ngược lại tác động thiên nhiên. Chỉ có đem con người đặt vào khuôn khổ thiên nhiên, tác động theo qui luật chung của vũ trụ thì con người mới có tự do, và tự do ấy mới mong tồn tại được.
Chính quan niệm này, gần với quan niệm Á-đông. Lẽ sống con người không đi tìm bản năng dục vọng để khai thác và thụ hưởng mà phải đi tìm mọi biến động chung của vạn hữu để tuân theo.
Vì quan niệm như vậy, người bình dân đi tìm sự sung sướng trong khổ cực, đi tìm cái tự do trong trạng thái mất tự do. Những đức tính cần cù, nhẫn nại của họ phát xuất ở quan niệm ấy.
3) Khi đặt con người vào vòng tương quan với vạn hữu trong vũ trụ, người bình dân không xem cuộc đời là bi quan hay lạc quan. Bởi vì xem cuộc đời là bi quan hay lạc quan đều có ý thức tách rời con người ra ngoài vũ trụ cả. Đối với họ, mọi sinh diệt đều tất yếu, vũ trụ rất công bình, không thiên lệch, chỉ có tham vọng con người làm thiên lệch và mất công bình, gây đau khổ cho con người mà thôi.
Yếu tố trên đây chính người bình dân đã xem như nền tảng đạo đức của họ. Không bi quan hay lạc quan trước cuộc sống tức tự nó đã loại bỏ lòng tham vọng của con người ra ngoài cuộc sống rồi. Xem cuộc đời con người như cuộc đời của vạn hữu, người bình dân tự tạo cho mình một ý thức bình đẳng trước muôn loài vạn vật. Khi đã bình đẳng trước muôn loài vạn vật thì lòng bác ái của con người sẽ bao la, tình thương sẽ chan hòa khắp mọi sinh vật, mọi hoa lá cỏ cây.
Trên đây chúng tôi vừa rút tỉa những yếu tố căn bản để tổng kết một hệ thống tư tưởng của dân tộc Việt-nam được khảo sát và chứng minh qua tục ngữ, phong dao trong ba tập Thi ca bình dân mà chúng tôi đã trình bày. Tuy nhiên, một hệ thống suy tư nào cũng có những thành công và thất bại của nó qua lịch sử thời gian, không gian.
Vậy chúng ta thử đi tìm những thành công và thất bại.
B) NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI QUA HỆ THỐNG SUY TƯ CỦA NGƯỜI BÌNH DÂN VIỆT-NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỜI GIAN
I. VỀ VŨ TRỤ QUAN
Vũ trụ quan của người bình dân Việt-nam cấu tạo trên nguyên lý « vạn hữu nhất thể ». Mọi năng lực thiên nhiên đều bình đẳng và tương quan, tác động theo nguyên tắc mâu thuẫn thăng bằng, ngoài tư tưởng giới.
Với quan niệm vũ trụ như vậy, đáng lẽ tiến trình xã hội Việt-nam có một nền văn minh khác biệt với nền văn minh hiện hữu. Tuy nhiên, vì dân tộc Việt-nam sớm bị người Tàu đô hộ, mọi chế độ cai trị áp đảo cả hệ thống suy tư của dân tộc, làm cho nguồn gốc suy tư bị ảnh hưởng và xáo trộn hầu hết trên mọi lãnh vực.
Trước nhất, ở lãnh vực thần thoại, chúng ta thấy người Việt-nam bị ảnh hưởng ngoại lai, bắt nguồn từ chế độ thống trị phong kiến đã giai-cấp-hóa và chính-trị-hóa những năng lực siêu nhiên, từ Ngọc-hoàng Thượng-đế đến các vị thần trấn giữ mọi địa hạt không gian. Ý thức giai-cấp-hóa và chính-trị-hóa những năng lực siêu nhiên bằng hình thức thần thoại rõ ràng là sản phẩm của hệ thống phong kiến đã dùng một vũ trụ quan với tính chất đẳng cấp và thống trị trong tư tưởng giới để khống chế những hệ thống suy tư khác của xã hội loài người.
Vũ trụ quan của người bình dân Việt-nam tuy trái ngược, song suốt một thời gian lịch sử dài đằng đẳng, dưới áp lực của guồng máy thống trị phong kiến, không thể nào bảo tồn nguyên vẹn và phát triển hệ thống suy tư của dân tộc được. Sự pha trộn làm phải nhạt ý thức dân tộc là một thảm bại trước hoàn cảnh lịch sử nước nhà.
Mặt khác, trên lãnh vực tôn giáo, chúng ta thấy người bình dân Việt-nam vì chịu quá nhiều khắc khổ trong lịch sử đấu tranh xã hội, nên phần lớn đã dựa theo những ý thức về vũ trụ của các tôn giáo làm cứu cánh cho tâm hồn. Chính sự pha trộn này đã một phần làm lu mờ tính chất riêng biệt về ý thức hệ của dân tộc.
Sau cùng, sự ảnh hưởng bởi những lập thuyết triết học do ngoại bang du nhập, trong đó có những tương đồng và bất tương đồng, nhưng vì cuộc sống xã hội thúc ép, làm cho một số người Việt-nam đã từ bỏ hệ thống suy tư cố hữu của mình để chạy theo những trào lưu mới.
Tất cả mọi hiện tượng trên là nguyên nhân đưa đến sự yếu kém ở mặt phát triển và bảo tồn nền móng suy tư của dân tộc. Tuy vậy, hệ thống suy tư của dân tộc Việt-nam không vì thế mà sụp đổ hoàn toàn. Thời gian, không gian không thể xóa nhòa được dĩ vãng thì cũng không thể chối bỏ được những gì đã cấu tạo thành địa phương tính hoặc dân tộc tính. Do đó, dân tộc tính vẫn tự nó được duy trì trong mọi trạng thái biến động của xã hội.
Vũ trụ quan của nền chính trị phong kiến cấu tạo trên ý thức giai-cấp-hóa và chính-trị-hóa những năng lực siêu nhiên cho đến ngày gần đây bị đánh ngã đồng thời với sự suy sụp của chế độ phong kiến, nhường chỗ cho ý thức hệ Tây-phương. Căn bản ý thức hệ Tây-phương là đặt con người ngoài tầm chi phối của vũ trụ, và dùng trí khôn con người khống chế vũ trụ.
Nhưng tất cả đều đưa đến thảm bại. Bằng chứng là ngay ở thế kỷ hai mươi này, từ Đông sang Tây, mọi quan niệm về vũ trụ đều bị xét lại. Những gì loài người theo đuổi, tôn thờ từ trước đến nay đều bị nghi ngờ.
Bởi vậy, nếu loài người chưa tìm ra một vũ trụ quan khả dĩ thích hợp với sự hiểu biết ngày nay, nếu mọi dân tộc trên thế giới chưa tìm ra một lẽ sống có thể giải thoát được sự bi đát hiện hữu, thì việc đi tìm căn bản suy tư của mọi dân tộc để đúc kết thành tinh hoa của loài người không phải là chuyện vô ích.
Sự thành công qua hệ thống suy tư của dân tộc Việt-nam đang nằm trong hy vọng ấy.
II. VỀ XÃ HỘI QUAN
Cùng với quan niệm vũ trụ, quan niệm xã hội của người bình dân Việt-nam bị ách thống trị phong kiến chế ngự quá ác liệt, tạo thành dòng lịch sử đấu tranh đầy máu lệ.
Hiện tượng này chứng tỏ một thất bại trong hệ thống suy tư của người dân Việt-nam.
Như chúng ta đã thấy, căn bản ý thức xã hội của người bình dân Việt-nam là chấp nhận yếu tố mâu thuẫn tất yếu của qui luật vũ trụ để tạo cho xã hội loài người một trạng thái biến động trong thăng bằng, điều hòa lẽ sống. Như vậy có nghĩa là xã hội loài người phải được tự do, bình đẳng, công bình, bác ái. Tuy nhiên, suốt thời gian lịch sử, dưới chế độ phong kiến, một chế độ thống trị bằng giai cấp làm gì có được công bằng, tự do, bình đẳng?
Áp lực chính trị, kinh tế đã khiến quan niệm xã hội của người bình dân Việt-nam không thể phát huy được khả năng của mình, mà một phần còn bị ảnh hưởng ở sinh hoạt xã hội. Một số người đã chạy theo ý thức xã hội ngoại lai được chế độ phong kiến đương thời bảo vệ, làm phai mờ ý thức xã hội dân tộc.
Dù vậy, xã-hội-quan của dân tộc Việt-nam không vì thế mà mai một, bởi lẽ nó là căn bản của dân-tộc-tính. Chỉ khi nào dân tộc không còn nữa thì dân-tộc-tính mới bị tiêu diệt.
Chiến đấu cho xã hội tự do, bình đẳng, công bình, bác ái, dòng lịch sử dân tộc Việt-nam đã ghi một thành công lớn lao. Quan niệm xã hội của dân tộc Việt-nam cũng vì thế mà được nẩy nở. Chúng ta thấy từ chế độ phong kiến thống trị đến chế độ thực dân đô hộ lần lượt đổ vỡ, nhường chỗ cho chế độ dân chủ tự do, độc lập dân tộc ngày nay.
Tuy nhiên, thắng lợi ấy chỉ mới là hình thức. Theo quan niệm xã hội của dân tộc Việt-nam, sự công bằng và bình đẳng phải đi đôi với thực trạng sinh hoạt xã hội. Chỉ khi nào thực trạng sinh hoạt xã hội mang đủ tính chất ấy mới hợp với ý thức căn bản của người bình dân Việt-nam.
Và cũng quan niệm về vũ trụ, quan niệm xã hội của dân tộc Việt-nam hy vọng đóng góp vào tiền đồ nhân loại, khi nhân loại đang khủng hoảng về lẽ sống, và đang đi tìm một xã hội quan thích hợp hơn.
III. VỀ NHÂN SINH QUAN
Với căn bản ý thức đặt con người vào tầm chi phối của vũ trụ, quan niệm nhân sinh của người bình dân Việt-nam chối bỏ tôn thờ dục vọng cá nhân, đưa cuộc sống trở về với tính chất thiên nhiên.
Tuy vậy, trải qua một dòng lịch sử, xã hội Việt-nam đã ảnh hưởng nhiều qua những ý thức ngoại lai.
Quan niệm nhân sinh của lớp người trong chế độ phong kiến thì thay vì để cho con người được tự do trong lẽ sống thiên nhiên, họ lại biến thiên nhiên thành công cụ phục vụ cho phong kiến, và bắt người bình dân chịu đựng trong quan niệm lạc hướng ấy.
Quan niệm nhân sinh của lớp người trong thế giới khoa học thì lại tách rời con người ra khỏi thiên nhiên, khai thác dục vọng cá nhân để tận hưởng. Họ tưởng con người sống càng được hưởng thụ bao nhiêu thì càng hạnh phúc bấy nhiêu. Nhưng thực tế trái lại, tận hưởng dục vọng không phải là cứu cánh của lẽ sống con người, mà càng được hưởng thụ bao nhiêu càng bị đau khổ bấy nhiêu.
Tóm lại, con người càng tách rời thiên nhiên càng tạo cho cuộc sống những đổ vỡ. Hiện nay, thế giới tâm tư của loài người đang đứng trước một cơn gió lốc. Những gì tôn thờ trước đây đều lần lượt mất giá trị.
Để góp phần đi tìm lẽ sống của nhân loại, một nhân sinh quan bị hoàn cảnh xã hội chôn vùi trong lịch sử đấu tranh, phôi phai với thời gian, không gian, biết đâu cũng giúp ích phần nào cho các nhà khảo cứu dân tộc học.
Sài Gòn, 1/11/1970
Nguyễn Tấn Long - Phan Canh
Nguồn: tusachtiengviet.com
Theo https://www.dtv-ebook.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...